ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM –––––––––––––––––––––

BÙI THỊ THANH HUYỀN

TRUYỆN NGẮN BÙI THỊ NHƯ LAN

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Thị Việt Trung

THÁI NGUYÊN - 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn “Truyện ngắn Bùi Thị Như Lan” là kết quả

nghiên cứu của riêng tôi, hoàn toàn không sao chép của bất cứ ai. Các kết quả

của đề tài là trung thực và chưa được công bố ở các công trình khác

Nội dung của luận văn có sử dụng tài liệu, thông tin được đăng tải trên các tác

phẩm, tạp chí, các trang web theo danh mục tài liệu tham khảo của luận văn.

Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2017

Tác giả luận văn

Bùi Thị Thanh Huyền

i

LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Trần Thị Việt Trung –

công tác tại Đại học Thái Nguyên về sự hướng dẫn tận tình, đầy đủ, chu đáo và

đầy tinh thần trách nhiệm của cô trong toàn bộ quá trình em thực hiện và hoàn

thành luận văn.

Em xin trân trọng cảm ơn sự tạo điều kiện giúp đỡ của Ban Chủ nhiệm

khoa Ngữ Văn và các thầy cô giáo Phòng Đào tạo - Trường Đại học Sư phạm

Thái Nguyên đã giúp đỡ em thực hiện Đề tài luận văn này.

Em cũng xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động

viên và nhiệt tình giúp đỡ em trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận

văn này.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2017

Tác giả luận văn

Bùi Thị Thanh Huyền

ii

MỤC LỤC

Lời cam đoan ........................................................................................................ i

Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii

Mục lục ............................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1

2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 7

4. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................... 7

5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 8

6. Cấu trúc của đề tài ........................................................................................... 8

NỘI DUNG ......................................................................................................... 9

Chương 1: VÀI NÉT VỀ VĂN XUÔI DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ NHÀ

VĂN NỮ DÂN TỘC TÀY - BÙI THỊ NHƯ LAN .......................................... 9

1.1. Vài nét khái quát về văn xuôi dân tộc thiểu số thời kì hiện đại ................... 9

1.2. Nhà văn nữ quân đội dân tộc Tày - Bùi Thị Như Lan ................................ 22

1.2.1. Vài nét về nhà văn Bùi Thị Như Lan ...................................................... 22

1.2.2. Bùi Thị Như Lan - nữ nhà văn quân đội miền núi .................................. 25

TIỂU KẾT ......................................................................................................... 29

Chương 2: THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN BÙI

THỊ NHƯ LAN ................................................................................................ 31

2.1. Hình tượng người phụ nữ dân tộc thiểu số trong truyện ngắn Bùi

Thị Như Lan ...................................................................................................... 31

2.1.1. Người phụ nữ miền núi với vẻ đẹp khỏe mạnh, tự nhiên, rực rỡ, đậm

chất dân tộc và miền núi. ................................................................................... 32

2.1.2. Người phụ nữ DTTS trước khó khăn, thách thức của cuộc sống thời

kỳ hiện đại và hội nhập ...................................................................................... 41

iii

2.2. Hình tượng người lính miền núi - nét riêng trong sáng tác của Bùi

Thị Như Lan ...................................................................................................... 47

2.2.1.Những người lính miền núi trong quân ngũ ............................................. 48

2.2.2. Người lính miền núi trong cuộc sống đời thường ................................... 52

TIỂU KẾT ......................................................................................................... 56

Chương 3: MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ NGHỆ THUẬT ................................ 58

3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .................................................................... 58

3.1.1.Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật qua yếu tố ngoại hình ............... 58

3.1.2. Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật qua hành động ......................... 63

3.1.3. Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật thông qua ngôn ngữ nhân vật .. 67

3.2. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện ................................................................. 75

3.2.1. Cốt truyện theo thời gian tuyến tính ........................................................ 76

3.2.2. Cốt truyện theo thời gian gấp khúc, đảo lộn ........................................... 80

3.2.3. Cốt truyện vừa mang tính hiện thực vừa mang tính huyền ảo ................ 88

3.3. Một số đặc điểm về ngôn ngữ nghệ thuật ................................................... 91

3.3.1. Ngôn ngữ dung dị, đời thường mang đậm chất dân tộc, miền núi .......... 92

3.3.2. Ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu chất so sánh, liên tưởng mang màu sắc

miền núi .............................................................................................................. 97

TIỂU KẾT ......................................................................................................... 99

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 101

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 105

iv

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Văn học các dân tộc thiểu số (DTTS) là một bộ phận cấu thành quan

trọng của nền văn học Việt Nam. Văn học các DTTS cũng có một vị trí đặc biệt

trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại - bởi nó là tiếng nói văn học của 53

dân tộc anh em bên cạnh tiếng nói văn học của dân tộc Kinh. Hơn nửa thế kỉ

qua, mảng văn học này cũng đã có những đóng góp đáng kể đối với nền văn

học nước nhà với những thành tựu nổi bật, thể hiện ở sự đông đảo của đội ngũ

sáng tác, sự phong phú của các tác phẩm văn học và sự đặc sắc về nội dung

phản ánh và nghệ thuật thể hiện.

Tuy nhiên, việc nghiên cứu bộ phận văn học này cho đến nay vẫn chưa

có sự tương xứng với vị trí và tầm vóc của nó. Rất nhiều nhà văn, nhà thơ cùng

các tác phẩm văn chương của họ vẫn chưa được nhiều người biết đến. Vì vậy,

việc nghiên cứu về bộ phận văn học này là rất cần thiết, nhất là nghiên cứu tác

phẩm, tác giả cụ thể. Nếu nghiên cứu thành công bộ phận văn học này sẽ góp

phần giới thiệu cho đông đảo độc giả của cả nước có thêm sự hiểu biết, sự trân

trọng đối với bộ phận văn học này.

Trong văn học DTTS Việt Nam hiện đại, ngoài thể loại thơ được đánh

giá có nhiều thành tựu nhất bởi hàng loạt các tên tuổi như: Nông Quốc Chấn,

Bàn Tài Đoàn, Y Phương, Mã A Lềnh, Lò Ngân Sủi, Pờ Sảo Mìn, Nông Thị

Ngọc Hòa, Bùi Tuyết Mai, Inrasara… thì văn xuôi - đặc biệt là ở thể loại truyện

ngắn và tiểu thuyết cũng đã có một quá trình phát triển khá mạnh mẽ, đạt được

những thành tựu đáng ghi nhận, đáng được tự hào, với các tên tuổi như: Nông

Minh Châu, Vi Hồng, Triều Ân, Vi Thị Kim Bình, La Quán Miên, Hà Thị Cẩm

Anh, Cao Duy Sơn, Kha Thị Thường, Sa Phong Ba, Y Phương, Kim Nhất, Hữu

Tiến, Linh Nga Niek Đam, Đoàn Thị Ngọc Minh, Bùi Thị Như Lan… Trong đó nổi

lên 2 cây bút đã được nhận nhiều giải thưởng cao là: Nhà văn Vi Hồng - Giải

1

thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật và nhà văn Cao Duy Sơn - Giải thưởng

Asean về Văn học .

Trong đội ngũ các nhà văn, nhà thơ DTTS này đã có nhiều người được

bạn đọc và các nhà nghiên cứu, phê bình biết đến, giới thiệu, nghiên cứu… Tuy

nhiên, trong đó cũng còn có nhiều tác giả, tác phẩm chưa được chú ý nghiên cứu

để khẳng định những đóng góp của họ đối với sự phát triển, sự phong phú và sự

đặc sắc của văn học dân tộc thiểu số. Tác giả Bùi Thị Như Lan là một trường

hợp nhà văn như thế.

Trong các cây bút nữ DTTS - nhà văn Bùi Thị Như Lan là một trong

những nhà văn nữ thuộc thế hệ sau, còn khá trẻ và sung sức (sinh năm

1967), và là cây bút nữ hiếm hoi trong quân đội (thuộc Quân khu I - Quân

khu miền núi phía Bắc). Do đó, ngoài những đặc điểm chung có thể thấy ở

các nhà văn nữ DTTS khác thì các sáng tác của nhà văn quân đội Bùi Thị

Như Lan còn có những nét đặc trưng riêng, thể hiện rõ được phong cách

nghệ thuật riêng của chị. Và đồng thời, đó cũng là những đóng góp riêng,

có ý nghĩa cuả nhà văn dân tộc Tày này đối với văn xuôi nữ DTTS nói

riêng và văn xuôi các DTTS nói chung.

Bùi Thị Như Lan là một trong những cây bút viết Truyện ngắn xuất sắc

của tỉnh Thái Nguyên. Tác phẩm của chị cũng đã được đưa vào giới thiệu trong

phần Văn học địa phương của tỉnh Thái Nguyên. Chị cũng là một trong những

nữ nhà văn đầu tiên của tỉnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam. Chị có

sở trường viết truyện ngắn và chị đã có khá nhiều Tập truyện ngắn đạt Giải

thưởng quốc gia và khu vực.

Bùi Thị Như Lan là cây bút nữ DTTS có sức viết khỏe, chị đã xuất bản 8

tập truyện ngắn và 1 tập bút kí. Tác phẩm của chị đậm màu sắc dân tộc và miền

núi (ở đây là dân tộc Tày), lại có “chất lính” khá rõ rệt. Do đó, tác phẩm của chị

có một nét rất riêng bên cạnh những nét chung của các cây bút DTTS khác. Vì

vậy, có một số độc giả đã biết tới tác phẩm của chị, đã yêu mến và bước đầu có

người giới thiệu, nghiên cứu về sáng tác của chị. Tuy nhiên cho tới nay vẫn

2

chưa có một công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn

diện về sự nghiệp sáng tác của chị; cũng như chưa chỉ ra được những nét đặc

sắc cùng những đóng góp nhiều mặt của chị đối với văn học DTTS nói chung,

văn xuôi DTTS nói riêng.

Chính vì những lý do trên, chúng tôi đã lựa chọn việc nghiên cứu về tác

giả Bùi Thị Như Lan làm đề tài Luận văn Thạc sĩ của mình, bởi nếu giải quyết

tốt đề tài này, chúng tôi sẽ đạt được một số mục đích sau:

- Đem đến bạn đọc một sự hiểu biết sâu sắc và toàn diện hơn và có sự

đánh giá chính xác hơn về những đóng góp đáng trân trọng của nhà văn nữ dân

tộc Tày - Bùi Thị Như Lan đối với văn học DTTS tỉnh Thái Nguyên nói riêng,

văn học DTTS Việt Nam hiện đại nói chung .

- Nếu đề tài này thành công sẽ là một tài liệu tham khảo có ích, phục vụ

cho việc học tập và nghiên cứu những tác giả, tác phẩm văn học địa phương

tỉnh Thái Nguyên cho đội ngũ giáo viên và học sinh tỉnh Thái Nguyên nói riêng

cũng như của cả khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam.

2. Lịch sử vấn đề

Bùi Thị Như Lan là một tác giả nữ có một sự nghiệp văn chương khá nổi

trội trong các cây bút nữ DTTS Việt Nam thời kì hiện đại. Cho tới nay, chị đã

có 9 tập truyện , trong đó có 8 tập truyện ngắn và 1 tập bút kí (Tiếng chim kỷ

giàng, Hoa mía, Mùa hoa mắc mật, Bồng bềnh sương nú i, Lời sli vắt ngang núi, Cọn nước đôi, Mùa hoa Bjooc phạ, Tiếng kèn Pílè và Những con đường sau

lặng im tiếng súng.). Trong đó có một số Truyện ngắn và Tập truyện ngắn được

nhận Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Văn học Nghệ thuật các

DTTS Việt Nam, của Tạp chí Văn nghệ quân đội, của Tổng cục Chính trị và

của tỉnh Thái Nguyên…

Tuy nhiên việc nghiên cứu về nhà văn Bùi Thị Như Lan cùng các tác

phẩm của chị hiện vẫn còn ở mức độ khiêm tốn. Chúng tôi sẽ phác họa cụ thể

về tình hình nghiên cứu, phê bình, tác giả, tác phẩm Bùi Thị Như Lan như sau:

3

2.1. Tác giả Bùi Thị Như Lan được nhắc tới trong các công trình nghiên

cứu về Văn học DTTS Việt Nam hiện đại nói chung, hoặc về văn xuôi DTTS

nói riêng. Cái tên Bùi Thị Như Lan đã được các tác giả nhắc đến như là một đại

diện tiêu biểu của các cây bút có nhiều đóng góp cho văn xuôi DTTS cuối

những năm 90, đầu những năm thế kỉ XXI. Có thể kể tên một số công trình,

những bài nghiên cứu đó như: “40 năm văn hóa nghệ thuật các dân tộc thiểu

số Việt Nam” (của Phong Lê), “Văn học và miền núi” (của Lâm Tiến - Hoàng

Văn An), “Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại” (của Lâm

Tiến),“Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại - một số đặc điểm”

(của Trần Thị Việt Trung - Cao Thị Hảo), “Hiện đại mà dân tộc” (của Ma

Trường Nguyên), “Bản sắc văn hóa dân tộc trong văn xuôi của các nhà văn

dân tộc thiểu số Việt Nam” (của Đào Thủy Nguyên, Dương Thu Hằng)…

2.2. Đã có một số bài viết đăng trên báo chí, giới thiệu, nhận xét, đánh

giá về tác phẩm, tác giả Bùi Thị Như Lan của một số nhà phê bình, hoặc của

các đồng nghiệp của chị.. Ví dụ như nhà nghiên cứu phê bình: Bùi Việt Thắng

với bài viết: “Những màu sắc của núi rừng”, (Đọc Tiếng kèn pí lè - truyện ngắn

Bùi Thị Như Lan) - được đăng trên Báo Quân đội Nhân dân cuối tuần, 2015 -

viết về Tập truyện ngắn Tiếng kèn Pí lè: “Tiếng kèn pí lè là tập truyện ngắn

thứ tám của Bùi Thị Như Lan trong vòng mười hai năm (2003-2015). Như thế

cũng đủ để thấy nữ nhà văn trung thành với thể loại “nhỏ”. Cũng có thể nói

chính thể loại chọn nhà văn. Nữ sỹ quan (trung tá) - nhà báo (công tác tại Báo

Quân khu I) - nhà văn này người dân tộc Tày. Đọc truyện ngắn của Bùi Thị

Như Lan, riêng tôi, có được cái cảm xúc đặc biệt về những sắc màu, âm thanh,

đường nét, mùi vị của không gian rừng núi. Hay nói cách khác là một “ngoại

cảnh” đặc sắc thường ít thấy xuất hiện trong văn chương/văn xuôi đương đại.

Mười truyện trong tập Tiếng kèn pílè tôi hình dung như mười ngón tay của của

hai bàn tay một người đan quyện bền chặt trong bất kì hành động nào….”[42];

Hồ Thủy Giang có bài viết về “Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Hoa

4

Mía của Bùi Thị Như Lan” đăng trên Báo Văn nghệ Thái Nguyên:“Hoa mía”

là một câu chuyện buồn, phảng phất phong vị dân gian. Chất dân gian đã tạo

cho truyện một không khí như nửa thức, nửa mơ; nửa hiện đại, nửa hoang sơ;

nửa hiện thực, nửa huyền ảo. Đây cũng là một nét mạnh của “Hoa mía”. Tuy

nhiên, ở bài viết này tôi lại muốn khơi sâu hơn vào phân tích việc sử dụng

không gian truyện đầy hiệu quả của tác giả….”[9] ; Nông Thị Ngọc Hòa với

bài viết “Tiếng kèn pí lè của người gái bản” đăng trên Báo Văn nghệ Thái

Nguyên: “Vẫn những mạch nguồn dào dạt từ những tập trước - Tiếng kèn Pílè

phản ánh cuộc sống mưu sinh vất vả của người miền núi, nhưng cũng đầy sự

lãng mạn, nặng tình yêu thương, bao dung,nhân ái và cao thượng.

Mở đầu tập truyện là Lá bùa đỏ - Lá bùa định mệnh biến gã trai bản

hồn nhiên như cây cỏ trải những thăng trầm, lĩnh án tù bởi sự thiếu hiểu biết

về pháp luật. Sự trở về sau khi thụ án của Lình đã khép lại một trang buồn

để mở tiếp những trang vui.

Ngọt ngào những câu dân ca, đắng đót bao số phận: Lời Sli trôi trong

trăng như một trò đùa số phận khiến cặp sơn nữ song sinh đẹp như hoa như

mộng, giống nhau như hai giọt nước gặp nhiều oan trái. Sự nhầm lẫn tai hại đã

khiến Sang (cô chị) được gả cho chàng trai bản khác. Đêm tân hôn ngọt ngào tận

hiến, qua phút giây nồng nàn, người chồng mân mê bàn tay vợ thấy không có ngón

tay thừa - đặc điểm duy nhất để nhận biết sự khác nhau với Sao (cô em), người đã

cùng anh trao gửi yêu thương qua bao mùa trăng hò hẹn. Cay đắngcủa Sang là duy

nhất sau một lần làm vợ mà với chồng cứ như người xa lạ. Cay đắng những đêm Sli

để Sao nuôi con một mình….”[13]

Đó là những lời nhận xét, đánh giá rất đúng, rất trúng và khá tinh tế của

các nhà phê bình, các bạn văn của Như Lan về văn chương của chị. Tuy nhiên,

trong những bài viết này các tác giả trên chưa đi sâu nghiên cứu một cách hệ

thống, đầy đủ các tác phẩm của nhà văn quân đội Bùi Thị Như Lan. Hầu như

đó mới chỉ là những đánh giá, nhận xét về một tác phẩm, hoặc một khía cạnh

5

trong các sáng tác của chị, chưa phát hiện ra hết những nét độc đáo cùng những

đóng góp kể về nội dung và nghệ thuật trong các sáng tác của chị đối với sự

vận động và phát triển của văn xuôi DTTS thời kỳ hiện đại.

2.3. Tác giả Bùi Thị Như Lan cũng đã được nhắc đến , được khẳng định

như là một cây bút văn xuôi DTTS tiêu biểu thời kì sau năm 2000 trong các

luận văn Thạc sỹ, luận án Tiến sĩ viết về đề tài văn học dân tộc và miền núi. Ví

dụ như Luận án Tiến sĩ của Cao Thị Thu Hoài với đề tài “Nửa thế kỷ phát triển

văn xuôi các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam khoảng từ 1960 đến

nay”; Luận văn Thạc sĩ của Cao Thị Hồng Vân với đề tài “Con người trong

văn xuôi miền núi của các tác giả trẻ đương đại Cao Duy Sơn, Đỗ Bích Thúy

và Phạm Duy Nghĩa” (2012); Khóa luận tốt nghiệp của Bùi Thị Lương với đề

tài: “Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của Bùi Thị Như Lan (2015)…

* Qua việc khảo sát tình hình nghiên cứu, phê bình về tác giả Bùi Thị

Như Lan cùng các sáng tác của chị, chúng tôi có nhận xét như sau: Mặc dù đây

là một tác giả nữ DTTS có nhiều tác phẩm khá đặc sắc, có những đóng góp

đáng trân trọng và có phong cách riêng khá độc đáo, nhưng cho đến nay việc

nghiên cứu về tác giả nữ DTTS này còn ở tình trạng sơ sài, lẻ tẻ, chưa toàn diện,

chưa có tính hệ thống. Chính vì vậy chúng tôi thấy rằng, rất cần phải có một

công trình nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện, chỉ ra những đặc điểm,

những nét đặc trưng trong sáng tác của nhà văn nữ DTTS Bùi Thị Như Lan;

đồng thời qua đó để độc giả có một sự hiểu biết cụ thể hơn và đầy đủ hơn về

những tác phẩm cũng như về những đóng góp chung của nhà văn nữ DTTS này

đối với văn xuôi DTTS trong quá trình phát triển, nhất là trong giai đoạn đầu

thế kỉ XXI. Do đó, chúng tôi đã lựa chọn vấn đề nghiên cứu về Truyện ngắn

Bùi Thị Như Lan làm đề tài Luận văn Thạc sĩ của mình, với hi vọng: Sẽ góp

phần nghiên cứu một cách hệ thống hơn, toàn diện hơn về nhà văn nữ DTTS

đồng thời cũng là nhà văn quân đội vùng miền núi phía Bắc này.

6

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Nghiên cứu những đặc điểm cơ

bản về nội dung và nghệ thuật trong các tác phẩm của Bùi Thị Như Lan (8 tập

truyện ngắn).

* Phạm vi nghiên cứu: Toàn bộ truyện ngắn của nhà văn Bùi Thị Như

Lan, bao gồm 8 tập truyện ngắn, cụ thể là các tác phẩm sau:

- Tiếng chim kỷ giàng - Tập truyện ngắn - Nxb Quân đội nhân dân

năm 2003

- Mùa hoa mắc mật - Tập truyện ngắn - Nxb Thanh niên năm 2005

- Hoa mía - Tập truyện ngắn - Nxb Thanh niên năm 2006

- Lời sli vắt ngang núi - Tập truyện ngắn - Nxb Quân đội nhân dân

năm 2008

- Bồng bềnh sương núi - Tập truyện ngắn - Nxb văn hóa dân tộc năm 2009

- Cọn nước đôi - Tập truyện ngắn - Nxb Quân đội nhân dân năm 2012

- Mùa hoa Bjooc phạ - Tập truyện ngắn - Nxb Kim đồng năm 2013

- Tiếng kèn Pí lè - Tập truyện ngắn - Nxb Quân đội nhân dân năm 2015

- Bên cạnh đó, chúng tôi còn khảo sát một số truyện ngắn của một số cây bút

nữ DTTS khác để so sánh đối chiếu (như truyện ngắn của Vi Thị Kim Bình, Hà Thị

Cẩm Anh, Kha Thị Thường, Kim Nhất, Linh Nga Niếc Đam, Đoàn Ngọc Minh…)

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Luận văn có nhiệm vụ chỉ ra những đặc điểm cơ bản trong sáng tác

của Bùi Thị Như Lan (cả phương diện nội dung và phương diện nghệ thuật ở

thể loại Truyện ngắn)

- Đưa ra những nhận xét, đánh giá một cách khách quan, khoa học về những

giá trị của các tác phẩm, cũng như đóng góp đáng trân trọng của nhà văn nữ DTTS

Bùi Thị Như Lan đối với văn xuôi các DTTS Việt Nam thời kỳ hiện đại, đặc biệt

ở thời kỳ sau năm 2000 cho đến nay.

7

5. Phương pháp nghiên cứu

Để hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn, chúng tôi đã sử dụng

các phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:

- Phương pháp phân tích tổng hợp (phân tích tác phẩm, tác giả)

- Phương pháp khảo sát, thống kê

- Phương pháp so sánh, đối chiếu

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành (văn học, văn hóa, lịch sử...)

- Vận dụng một số thao tác nghiên cứu của Thi pháp học.

6. Cấu trúc của đề tài

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phần Nội dung chính

của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Vài nét về văn xuôi dân tộc thiểu số và nhà văn nữ dân tộc

Tày - Bùi Thị Như Lan

Chương 2: Đặc điểm truyện ngắn Bùi Thị Như Lan nhìn từ phương

diện nội dung

Chương 3: Một số đặc điểm về nghệ thuật

8

NỘI DUNG

Chương 1

VÀI NÉT VỀ VĂN XUÔI DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ NHÀ VĂN NỮ

DÂN TỘC TÀY - BÙI THỊ NHƯ LAN

1.1. Vài nét khái quát về văn xuôi dân tộc thiểu số thời kì hiện đại

Văn học dân tộc thiểu số (DTTS) hiện đại là một bộ phận nằm trong

dòng chảy của văn học Việt Nam hiện đại, bao gồm các sáng tác của tác giả

người dân tộc thiểu số và chủ yếu viết về đề tài dân tộc và miền núi.

Đầu thế kỉ XX, cùng với sự hình thành và phát triển của nền văn học

Quốc ngữ, văn học viết về đề tài dân tộc và miền núi cũng xuất hiện và dần

khẳng định vị trí với sự tham gia của nhiều tác giả là người dân tộc Kinh, ví dụ

như: Thế Lữ, Lan Khai, Nguyễn Tuân…; giai đoạn sau năm 1945 có: Nam

Cao, Tô Hoài, Nguyễn Trung Thành…; và từ năm 1975 đến nay có Nguyễn

Huy Thiệp, Ma Văn Kháng, Phạm Duy Nghĩa, Đỗ Bích Thúy... Những tác

phẩm của các tác giả người Kinh này đã khắc họa được bức tranh về con người

và cuộc sống miền núi (Việt Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên....) trong suốt chiều dài

lịch sử từ thời chống Pháp, chống Mỹ và thời hòa bình của đất nước ta. Sự xuất

hiện của các tác giả này với những tác phẩm của họ thực sự là rất quan trọng để

những nhu cầu và khát vọng viết về dân tộc mình bằng văn xuôi của các nhà

văn DTTS có điều kiện được thực hiện. Học tập và kế thừa thành tựu của văn

xuôi người Kinh viết về miền núi, được sự quan tâm cụ thể của Đảng và Nhà

Nước, từ sau kháng chiến chống Pháp, các cây bút văn xuôi DTTS đã dần xuất

hiện và ngày càng khẳng định sự có mặt của mình trong đời sống văn học nước

nhà, nhằm đem lại cho độc giả những hiểu biết chân thực, toàn diện và đầy đủ

hơn về cuộc sống, về con người, về các phong tục tập quán… của đồng bào các

dân tộc ít người ở các vùng trong cả nước.

9

Như trên đã nói, đầu thế kỷ XX, trên văn đàn văn học Việt Nam đã xuất

hiện một số tác phẩm viết về đời sống sinh hoạt của người dân tộc thiểu số ở

miền núi. Những tác giả đóng góp cho mảng đề tài này đều là người Kinh như:

Thế Lữ với tập truyện Vàng và máu (1934), Lan Khai với Truyện đường

rừng (1940)... Đương thời, những tác phẩm này đã thu hút sự chú ý của người

đọc bởi sự mới mẻ, kì dị, kích thích trí tò mò khám phá của độc giả trước cảnh

sắc của những miền đất xa xôi, hoang dã với những phong tục tập quán lạ kì,

hoặc những hủ tục mông muội, thậm chí là man dợ của những con người và

cộng đồng các DTTS. Nhà văn giống như một người du khách, một lãng tử

muốn khám phá những miền đất còn hoang vu, chiêm ngưỡng những tộc người

còn nhiều bí ẩn đối với những người miền xuôi, người thành phố - nên tác phẩm

thường mang tính chủ quan, không chân thực, giàu tính tưởng tượng và thường

được viết với bút pháp lãng mạn (chủ yếu để gợi trí tò mò của độc giả).

Trước năm 1945, văn xuôi của tác giả người DTTS hầu như chưa xuất

hiện. Từ sau 1945 với các chủ trương, định hướng và đường lối văn nghệ của

Đảng, mảng văn học DTTS được quan tâm phát triển cả về lực lượng sáng tác,

số lượng, chất lượng tác phẩm và đã đạt được những thành tựu đáng kể ở thời

kì này. Ngoài một số tác giả người Kinh có những sáng tác về đề tài miền núi,

dân tộc như: Nam Cao (Nhật kí ở rừng, 1948), Tô Hoài (Vợ chồng A

Phủ, 1952; Cứu đất cứu mường, 1953), Nguyên Ngọc (Đất nước đứng lên,

1954)… thì đã xuất hiện một số tác phẩm của các tác giả người DTTS và từng

bước họ đã gia nhập vào dòng chảy chung của văn xuôi Việt Nam hiện đại -

vốn trước đây chỉ là “độc quyền” của những cây bút người Kinh. Một thế hệ

nhà văn người dân tộc đã được hình thành trong những năm 50 – 60 (thế kỷ

XX) - khi miền Nam đang đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống Mỹ, miền Bắc xây

dựng Xã hội Chủ nghĩa. Họ hầu hết là những trí thức DTTS thiết tha muốn

đóng góp tiếng nói văn học của mình vào nền văn học chung của dân tộc Việt

Nam bằng sức lực và tài năng của chính mình. Đó là các tác giả Nông Viết

10

Toại (với tác phẩm :Boỏng tàng tập éo, 1952), Nông Minh Châu (với: Ché Mèn

được đi họp, 1959), Y Điêng (với: Em chờ bộ đội Awa Hồ, 1960), Hoàng Hạc

(với: Ké Nàm, 1963), Triều Ân (với: Tiếng khèn A Pá, 1968), Vi Thị Kim Bình

(với: Những bông huệ trắng, 1968)... Cách mạng, nhân dân và văn hoá dân gian

chính là ba nguồn mạch cảm hứng chủ yếu nuôi dưỡng các cây bút văn xuôi

người dân tộc thiểu số trong những năm tháng cách mạng và trong kháng chiến

chống Pháp, chống Mỹ. Sáng tác của họ luôn bám sát công cuộc cách mạng của

dân tộc, thể hiện sâu sắc ý chí, tình cảm, tâm trạng của người dân miền núi

trong những tháng ngày gian khổ đầy mất mát, hi sinh, nhưng cũng rất oanh

liệt, oai hùng. Phạm vi đề tài phản ánh khá rộng, họ không chỉ viết về miền núi

mà còn viết về miền xuôi, về miền Nam, thậm chí quan tâm cả tới những vấn

đề có tính quốc tế, ngợi ca sự đổi đời của nhân dân các dân tộc và cuộc đấu

tranh thống nhất nước nhà của cả nước.

Văn xuôi thời kỳ này chủ yếu viết về con người, quê hương miền núi.

Đây là giai đoạn mà ý thức về tiếng nói văn học của cộng đồng các DTTS đã

phát triển khá mạnh mẽ. Họ háo hức khám phá với tinh thần tự hào, tự tôn dân

tộc và cũng chính vì thế, văn xuôi DTTS Việt Nam đã dần được định vị và góp

phần xứng đáng vào công cuộc cách mạng (cuộc kháng chiến chống Pháp,

chống Mĩ và xây dựng Xã hội Chủ nghĩa) của đất nước, và đã trở thành một bộ

phận không thể thiếu của nền văn học Việt Nam thời kì hiện đại.

Từ sau năm 1975 và đặc biệt là từ sau năm 1986, trong không khí hoà

bình, xây dựng cuộc sống mới trên cơ sở đổi mới tư duy - văn xuôi DTTS phát

triển khá mạnh mẽ. Các tác giả người DTTS ngày càng đông đảo hơn và gặt hái

được nhiều thành tựu sáng tác rực rỡ hơn. Thời kỳ này văn xuôi dân tộc thiểu

số phát triển mạnh về số lượng cũng như chất lượng, giúp chúng ta có thể nhận

diện một cách rõ ràng, khẳng định nó như một thực thể riêng, độc đáo trong

dòng chảy văn học Việt Nam hiện đại.

11

Vào những năm cuối thế kỉ XX, ngoài những tác giả người Kinh vẫn

không ngừng trăn trở về đề tài miền núi, dân tộc như: Mạc Phi, Xuân Thiều,

Khuất Quang Thuỵ, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Khắc Trường, Sơn Nam, Vũ

Hạnh, Phạm Duy Nghĩa…,thì đội ngũ những cây bút người dân tộc cũng đang

được phát triển với một tốc độ nhanh chóng trên toàn quốc - không chỉ ở phía

Bắc mà cả miền Trung, miền Nam của đất nước. Ở Tây Nguyên có Hlinh Niê

(Êđê) với tập truyện Con rắn màu xanh da trời (1997) và tập kí Trăng Xí

Thoại (1999)..., Kim Nhất(Ba na) với các tập truyện Động rừng (1999), Hồn

ma núi (2002)... ,và Niê Thanh Mai (Êđê) với tập truyện Về bên kia

núi(2007)...; Ở phía Nam - lần đầu tiên xuất hiện văn xuôi của một số dân tộc

như: Truyện kí Chân dung người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh (1994) của Lý

Lan (Hoa), tiểu thuyết Chân dung cát (2006) của Inrasara... Ở khu vực miền

Trung xuất hiện các tác giả: La Quán Miên (Thái) với tập truyện Hai người trở

về bản (1996)..., Kha Thị Thường với tập truyện Lũ núi (2003), Lang Quốc

Khánh với tập kí Những miền thương nhớ (2005), Hà Thị Cẩm Anh (Mường)

với Gốc gội xù xì.... Ở vùng Việt Bắc và Tây Bắc, các tác giả người Tày luôn

chiếm số đông bên cạnh các nhà văn của các dân tộc khác (Thái, Mông, Dao,

Mường, Hmông…), ngoài các nhà văn như: Vi Hồng, Triều Ân, Ma Trường

Nguyên, Hà Lâm Kỳ..., còn có Nguyễn Hữu Tiến, Đoàn Lư, Hoàng Hữu Sang,

Cao Duy Sơn, Đoàn Thị Ngọc Minh... Trong đó nổi bật là hiện tượng nhà văn

Vi Hồng – nhà tiểu thuyết người dân tộc Tày, quê Cao Bằng, nhưng lập nghiệp

và thành danh ở Thái Nguyên. Từ 1980 - 1997, tác giả Vi Hồng đã cho ra đời

14 cuốn tiểu thuyết: Đất bằng (1980), Núi cỏ yêu thương (1984), Thung lũng

đã rơi (1985), Vào hang (1990), Người trong ống (1990), Gã ngược đời (1990),

Lòng dạ đàn bà (1992), Dòng sông nước mắt (1993), Ái tình và kẻ hành khất

(1993), Tháng năm biết nói (1993), Chồng thật vợ giả (1994), Phụ tình (1994),

Đi tìm giàu sang (1995), Đọa đày (1997). Ngoài ra ông còn có các tập truyện

ngắn: Đuông Thang (1988), Người làm mồi bẫy hổ (1990), Thách đố (1995),

12

Đường về với mẹ chữ (1997).... Ông là một hiện tượng văn học rất đáng được

trân trọng về sức làm việc phi thường và những hiểu biết về con người, phong

tục tập quán, thiên nhiên miền núi mang đậm sắc thái Tày vùng Việt Bắc.

Trong những sáng tác trên, có những tác phẩm khá xuất sắc thể hiện

được bản sắc dân tộc và phong cách nghệ thuật của tác giả qua cách miêu tả

cảnh vật thiên nhiên và con nguời miền núi, qua cách sử dụng ngôn ngữ nghệ

thuật và lối tư duy nghệ thuật độc đáo. Theo nhận xét của PGS.TS Cao Thị Hảo

trong bài viết “Bước đầu phác thảo diện mạo văn xuôi dân tộc thiểu số Việt

Nam hiện đại” thì: Thời kì này cũng đã có nhiều tác phẩm đã kết hợp được bút

pháp tự sự theo kiểu truyền thống ảnh hưởng từ các sử thi, truyện cổ, truyện

thơ... với bút pháp văn xuôi hiện đại tạo nên sự đa dạng, nhiều vẻ, nhiều giọng

điệu, trở thành “vườn hoa nhiều hương sắc”, làm phong phú bức tranh của đời

sống văn học hiện đại nước ta, ví dụ như: Mã A Lềnh với bút kí Cao Nguyên

trắng mang giọng điệu sôi nổi hào hứng đã ghi lại những đổi mới trên quê

hương trong thời kỳ kinh tế thị trường với văn phong lôi cuốn, hấp dẫn, linh

hoạt, phong phú, quê hương miền núi hiện ra như một bức tranh với những nét

hoa văn khác nhau nhưng luôn có gam màu chủ đạo là rực rỡ sôi động; Cao

Duy Sơn với Người lang thang, Cực lạc, Hoa mận đỏ…, đặc biệt là Đàn

trời đã tái hiện một bức tranh xã hội phong phú với những mảnh đời và lối sống

khác nhau ở miền núi. Tác giả đã miêu tả những xung đột trong cuộc sống,

trong tâm hồn mỗi cá nhân với một ngòi bút tinh tế, sinh động, đậm chất hiện

thực nhưng cũng không kém phần lãng mạn. Kim Nhất (Ba Na) thể hiện khá

phong phú những phong tục tập quán của dân tộc mình qua Chuyện buôn làng,

Nối dây, Phạt kơ đi…; còn qua tập kí Chân dung người Hoa ở thành phố Hồ

Chí Minh, nhà văn Lý Lan đã khắc hoạ chân thực, cảm động “chân dung” của

một bộ phận người Hoa sống ở thành phố hiện đại nhất nước ta trong một thời

gian dài và một không gian rộng, gắn liền với từng bước thăng trầm của lịch sử

dân tộc. Hình ảnh những con người lao động vất vả trong mưu sinh, lập nghiệp

13

luôn có ý chí vươn lên làm chủ cuộc sống, bên cạnh những ông chủ tham lam

xảo quyệt bon chen làm giầu hiện lên thật sinh động… Nhưng điều được thể

hiện nổi bật ở đây là tinh thần đoàn kết gắn bó của người Hoa đối với dân tộc

Việt trong cuộc đấu tranh bảo vệ tổ quốc; Hlinh Niê đã biết kết hợp hài hoà,

hiệu quả giữa chất huyền thoại và sử thi khi viết về con người, cuộc sống ở Tây

Nguyên. Tác giả giới thiệu kho tàng folklore độc đáo với những ngôi nhà rông,

hình hoa văn chim thú được lưu giữ trên nóc các nhà mồ, nghệ thuật ẩm thực

kiểu Tây Nguyên…; miêu tả sắc nét lễ hội đâm trâu, lễ hội cồng chiêng, những

nét hoa văn thổ cẩm phối hợp hài hoà giữa các gam: xanh, vàng, đỏ để làm nổi

bật hai màu chủ đạo: đen và trắng (Về đâu hỡi thổ cẩm Tây Nguyên, Trăng Xí

Thoại). Tác giả còn ngợi ca cuộc sống mới đang chuyển mình của dân tộc Tây

Nguyên. Một bộ phận người dân đã vươn lên trong làm kinh tế, thoát khỏi cuộc

sống thiếu thốn nghèo khổ, được thụ hưởng cuộc sống có điện, có tiện nghi (Du

xuân Tây Nguyên, Làng mặt trời, Bình minh người Dao Cư Suê, Buôn Yung

mùa hoa trắng…).

Có thể nói, tuy chưa có được những tài năng thật xuất sắc, nhưng những

cây bút người dân tộc thiểu số đã phần nào thực hiện được sứ mệnh cũng như

khát khao cháy bỏng của những người con không quên nguồn cội - đó là việc:

gìn giữ và thổi bùng lên ngọn lửa văn chương của dân tộc mình. Nếu không có

sự hoà nhập máu thịt, cộng sinh giữa chủ thể và khách thể thì các nhà văn DTTS

không thể viết về con người, cuộc sống của dân tộc mình đầy cảm xúc như thế.

Hầu hết các nhà văn dân tộc thường có cảm xúc mãnh liệt, cháy bỏng da diết về

con người, cuộc sống của dân tộc mình, quê hương mình. Bởi những người cầm

bút chính là con em các dân tộc miền núi, nên họ có những thế mạnh nhất định

của những người trong cuộc viết về chính mình – điều mà những tác giả người

Kinh không có được.

Trong sự phát triển chung của đất nước, bức tranh về cuộc sống miền núi

và cuộc sống của đồng bào các dân tộc thiểu số đã và đang có bước phát triển

14

đa dạng về mọi mặt. Nhiều tác phẩm hướng về công cuộc xây dựng đời sống,

phát triển kinh tế ở miền núi, ví dụ như: Tiểu thuyết Gió hoang của Ma Trường

Nguyên, tập bút kí Cao nguyên trắng của Mã A Lềnh và các tập truyện ngắn

của Sa Phong Ba. Những vấn đề nhạy cảm, những góc trái của hiện thực trước

đây từng bị né tránh nay phần nào đã được phản ánh ở những tác phẩm văn

học. Trong những năm 90, các tiểu thuyết của Vi Hồng được dư luận quan tâm

bởi những vấn đề về góc trái đó của hiện thực. Tác giả đề cập đến sự băng hoại

đạo đức của một số người, một số trí thức người DTTS có địa vị trong xã hội

nhưng ham tiền, theo đuổi danh vọng bất chấp đạo lý (Người trong ống, Gã

ngược đời)…; cùng những sai lầm của mô hình hợp tác xã nông nghiệp, sự ấu

trĩ của việc ngăn cấm cá nhân làm giàu trong xã hội thời hiện đại ở miền

núi(Chồng thật vợ giả, Thung lũng đá rơi,…).

Hầu hết văn xuôi dân tộc thiểu số miền núi đều hướng ngòi bút của mình

về việc phản ánh thực trạng còn nhiều khó khăn và nghèo đói của người dân

vùng cao, phản ánh những lối sống thực dụng, vô đạo đức của một bộ phận

người dân miền núi làm cho những giá trị văn hóa, sự trong trẻo bình yên ngàn

đời của núi rừng đang bị tổn thương và ngày càng mai một. Bên cạnh những

vấn đề mang tính xã hội, một số tác phẩm đã đi vào những câu chuyện tình yêu

(nhiều sóng gió, trắc trở), với những số phận cá nhân chứa đầy bi kịch…Trước

năm 1975, văn xuôi dân tộc thiểu số chủ yếu tập trung phản ánh cuộc đấu tranh

cứu quốc vĩ đại của dân tộc, có nhiệm vụ tuyên truyền cách mạng, ca ngợi quê

hương, đất nước, con người mới, nhưng đến nay, biên độ sáng tác đã mở rộng

hơn. Văn xuôi dân tộc thiểu số đã từng bước bắt nhịp vào đời sống của đất

nước, ca ngợi cái mới, cái tốt đẹp, đồng thời cũng phê phán cái xấu, cái lạc hậu,

cái ác; cổ vũ, động viên đi sâu miêu tả thân phận con người miền núi với những

số phận mới, khát vọng mới, đặc biệt là thân phận, số phận người phụ nữ miền

núi. Họ chính là tiêu điểm của bức tranh toàn cảnh về số phận con người ngàn

đời trên vùng núi cao cùng với bao hủ tục lạc hậu, bao khó khăn thách thức của

15

cuộc sống phong phú, phức tạp hôm nay. Nhưng ở họ vẫn sáng lên những

phẩm chất tốt đẹp, những khát vọng chính đáng, những hoài bão về một tương

lai tươi sáng. Hầu hết các nhà văn DTTS đều chịu ảnh hưởng của thi pháp dân

gian về cả nội dung phản ánh lẫn nghệ thuật thể hiện, ví dụ như: Với quan niệm

“Ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”, với lối kết thúc có hậu (kẻ ác bị trừng trị,

người tốt được hạnh phúc), nhân vật lí tưởng thường được mô tả với những

người tốt đẹp nhất, nên hay được “thần hóa”, “tiên hóa”. Người con gái đẹp

miền núi thường được ví như “Những bông hoa trên vách núi”, “Đẹp như một

nàng tiên”….. Họ thường là những con người giàu lòng nhân ái, giàu khát vọng

về tình yêu tự do, có sức sống bền bỉ, mãnh liệt. Và đó cũng chính là khát vọng

muôn đời mà các nhà văn người dân tộc gửi gắm, kì vọng ở những nhân vật đại

diện cho vẻ đẹp của dân tộc mình, cộng đồng mình.

Dù cho tới nay, nhiều DTTS vẫn chưa có tiếng nói trong đời sống văn

học nước nhà nhưng so với khoảng thời gian hơn 30 năm của công cuộc Đổi

mới, văn xuôi DTTS đã có sự phát triển mạnh mẽ về cả số lượng và chất

lượng. Tuy còn thiếu những tác phẩm có tầm cỡ, có thể khái quát được những

vấn đề trọng tâm của dân tộc - miền núi trong quá trình chuyển sang cơ chế

kinh tế thị trường, thực hiện “xóa đói giảm nghèo”, đi vào công nghiệp hóa,

hiện đại hóa cũng như một số vấn đề “thời sự” ở các vùng miền núi (như: An

ninh, quốc phòng...) chưa được phản ánh toàn diện, triệt để….; những vấn đề

như: Tình trạng đói nghèo, thất học, mù chữ, hoặc tái mù chữ ở nhiều nơi đến

nay mới chỉ được đề cập trong một số rất ít truyện ngắn. Về đội ngũ sáng tác,

sự kế tục của thế hệ người viết trẻ tuy đã được chú ý, nhưng vẫn còn nhiều bất

cập – khi đa số thế hệ nhà văn trẻ miền núi đều không sáng tác được bằng tiếng

mẹ đẻ, và hầu hết họ đều đã được “bứng” ra khỏi môi trường sống miền núi .

Đây cũng là một trong những vấn đề đang được nhiều nhà nghiên cứu, nhà văn

quan ngại khi nhìn về tương lai phát triển của văn xuôi miền núi trong thời kì

mới – thời kì đương đại, thế kỷ XXI.

16

Một điểm rất đáng được lưu ý là trong đội ngũ các nhà văn DTTS đã

xuất hiện khá nhiều các cây bút nữ. Các cây bút văn xuôi nữ dân tộc thiểu số

xuất hiện chậm hơn một chút so với các cây bút nam người DTTS. Phải đến

những năm 1968-1970 mới xuất hiện một số cây bút văn xuôi nữ, và đặc biệt là

từ sau Đổi Mới đến nay thì các nhà văn nữ DTTS mới xuất hiện nhiều hơn và

đã đạt được những thành tựu đáng trân trọng. Nhà văn nữ DTTS thuộc thế hệ

đầu tiên phải kể đến là như: Vi Thị Kim Bình - bà chính là cánh chim đầu đàn

của làng văn nữ các dân tộc thiểu số Việt Nam. Vốn sinh ra từ quê hương miền

núi, người dân tộc Tày, lại là một lương y - bà đã viết về đề tài ngành Y với tất

cả tâm huyết của mình. Chính nhờ sự cố gắng không mệt mỏi bên cạnh việc

chăm lo sức khỏe cho mọi người mà bà đã có được những thành quả đáng phục

trong sự nghiệp cầm bút. Tác phẩm “Đặt tên” in trên Tạp chí Văn Nghệ Việt

Bắc năm 1962 (đạt Giải thưởng) và Truyện ngắn “Những bông Huệ trắng” (đã

được trao Giải thưởng của Báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam) - là hai

tác phẩm tiêu biểu bên cạnh 49 tác phẩm truyện ngắn và ký khác của chị. Vi

Thị Kim Bình xứng đáng là một nhà văn đàn chị của các nhà văn nữ Việt Nam.

Hầu hết các tác phẩm của bà đều viết về người phụ nữ, trong đó phần nhiều là

những người phụ nữ dân tộc mang bản tính dịu dàng, mộc mạc, giản dị, dù mỗi

cuộc đời với những hoàn cảnh khác nhau, số phận khác nhau nhưng điều nổi

bật ở họ là những phẩm chất cao quý, sự hi sinh, lòng vị tha, luôn sẵn sàng

chấp nhận mọi hi sinh, thiệt thòi và luôn dành những gì tốt đẹp nhất cho những

người thân yêu của mình, cho xã hội.

Tiếp theo phải kể đến nhà văn Hà Thị Cẩm Anh, người dân tộc Mường,

với các tác phẩm như: “Người con gái Mường Biện (2002)”; “Những đứa trẻ

mồ (2003)”;“Bài xường ru từ núi(Tập truyện ngắn),2004”; “Gốc gội xù xì

(Truyện ngắn)2004”; “Một nửa của người đàn bà (2013)”... Nhà văn Hà Thị

Cẩm Anh viết bằng tất cả những gì quan sát được, bằng cả trái tim và tâm hồn

của người phụ nữ Mường. Các tác phẩm của bà đều hướng vào việc phản ánh

17

thân phận của những người phụ nữ Mường. Mỗi người có một hoàn cảnh

riêng, một số phận riêng, nhưng đằng sau những số phận ấy luôn toát lên vẻ

đẹp của lòng vị tha, của đức hi sinh. Hình ảnh người phụ nữ với vẻ đẹp thủy

chung son sắt, với sự hi sinh, sự yêu thương hết lòng trong tình yêu dù gặp

bao éo le, trắc trở - luôn là một hình ảnh trở đi trở lại như một sự “ám ảnh”

không dứt trong lòng người đọc khi tiếp cận với các sáng tác của nhà văn

Mường – Thanh Hóa này.

Nhà văn Lý Lan - nhà văn người dân tộc Hoa cũng nằm trong đội ngũ

nhà văn nữ tiêu biểu thời kì này. Bên cạnh những đàn chị xuất sắc thì Lý Lan

cũng xứng đáng đứng vào đội ngũ cây bút văn xuôi nữ DTTS tiêu biểu, với

hàng loạt những truyện ngắn như: “Cơlút(1983)”; “Ngôi nhà trong cỏ(1984)”;

“Nơi bình yên chim hót(1986)”; “Chút lòng mang trong mưa(1987)”; “Chiêm

bao thấy núi(1991)”; “Hội đèn lồng(1991)”; “Những người lớn(1992)”;

“Mưa chuồn chuồn(1993)”; “Chân dung người Hoa(1994)”; “Đất khách

(1995)”; “Lệ Mai(1998)”; “Sài Gòn Chợ Lớn Rong chơi (1998)”; “Dị mộng

(1999)”; “Khi nhà văn khóc(1999)”; “Dặm Đường lang thang(1999)”;“Qúa

chén (2000)”; “Quán bạn (In chung với Thanh Nguyên, Lưu Thị Lương và

Chim Trắng, 2001)”; “Một Góc Phố Tàu(2001)”; “Ba người và ba con

vật(2002)”; “Là mình(2005)”; “Người đàn bà kể chuyện(2006)”; “Bí mật

giữa tôi và thằn lằn đen(2008)”; “Hồi xuân(2009)”.

Là người mang hai dòng máu Việt - Hoa, Lý Lan có cái lợi thế hưởng

được hai nền văn hóa từ khi còn nhỏ. Cầm bút trong tâm thế của một con người

có hai quê hương, nhà văn đã khai thác thành công những khía cạnh mà chị

quan sát tỉ mỉ bởi một con mắt của người vừa ở bên trong lại vừa đứng ở bên

ngoài, quê hương mà chị đang sống là Việt Nam nhưng trong chị luôn luôn ẩn

chứa những tình cảm sâu sắc dành cho quê nội mà có thể chị chưa hề biết đến.

Qua nhiều tác phẩm, Lý Lan có khuynh hướng miêu tả cuộc sống đời thường

dưới cái nhìn của một nhà báo hơn là một nhà văn. Chị ghi nhận sự kiện và sắp

18

xếp chúng bằng những trình tự mà sự kiện liên tục xảy ra (ít sự hoa mỹ và hư

cấu). Trong nhiều tác phẩm, Lý Lan lấy bối cảnh của đồng bằng Nam bộ làm

nền cho câu chuyện của mình, vì vậy văn phong miệt vườn không khỏi ảnh

hưởng đến lối viết của chị. Nhà văn Sơn Nam có lẽ ảnh hưởng đến chị nhiều

nhất, nhưng khác với Sơn Nam, Lý Lan đằm thắm một cách phụ nữ trong cách

diễn tả nội tâm và cũng chi ly hơn khi nhìn những chi tiết xem ra rất nhỏ trong

cuộc sống đời thường dưới góc nhìn phụ nữ.

Kha Thị Thường - nữ nhà văn dân tộc Thái của tỉnh Nghệ An cũng cũng

là một cây bút sôi nổi. Bà đã cho ra đời hàng loạt những tác phẩm như: “Kí ức

xanh(1998)”; “Đêm canh ba(2000)”; “Văn học dân tộc thiểu số Nghệ

An(2001)”; “Lũ núi(2002)”… Kha Thị Thường - một phụ nữ miền núi lãng

mạn, đa cảm có những tác phẩm với lối viết nhẹ nhàng về hình ảnh quê hương

và gương mặt thân quen của những con người “ở bản” với cả điều tốt đẹp lẫn

tầm thường cứ hiện lên, trở đi trở lại trong các tác phẩm của chị. Chị từng tâm

sự: “…Những câu chuyện của những người tôi từng biết, từng chứng kiến,

cũng có khi chỉ từ một chi tiết nhỏ tôi hư cấu ra. Nhân vật của tôi không bị đẩy

xuống tận cùng xấu xa, cũng không được nâng lên đến độ vô trùng, suy cho

cùng cuộc sống vẫn luôn luôn tồn tại hai mặt và mỗi người nên biết chấp nhận,

cảm thông với điều đó....”[15,tr597]. Người ta nhận thấy trong các trang văn

của chị, cuộc sống đời thường ở miền núi luôn hiện ra một cách vừa đơn giản,

nhẹ nhàng, vừa phong phú, phức tạp, không “đao to búa lớn” nhưng chân thực

và sống động.

Hay nhắc đến nhà văn nữ Kim Nhất - người con gái được sinh ra ở vùng

đất Tây Nguyên kiên cường và giàu bản sắc văn hóa. Người ta nói: Chị giống

như con chim được xổ ra khỏi lồng, cứ cất cánh bay miết không muốn dừng lại.

Kim Nhất khẳng định vị trí của mình ở làng Văn nghệ Đăk Lăk với hàng loạt

truyện ngắn nối tiếp nhau ra đời như:“Mụ Xoại(1995)”; “Ly hôn(1998)”;

“Truyện cổ Ba Na(2000)”; “Bắt chồng(1994)”; “Về với Ban Mê(1996)”;

19

“Hoan hô Ama Yi(1997)”; “Động rừng(1999)”… Kim Nhất thường viết dưới

dạng kể chuyện những người thật, việc thật mà chị gặp trong cuộc sống hàng

ngày. Hầu hết là những nhân vật ở tầng lớp lao động chân tay, lam lũ, thậm chí

là những kẻ tật nguyền, bất hạnh như người ăn xin, kẻ làm thuê, làm mướn, cô

gái bán hoa... Hình như tác giả đã từng chịu sự tác động bởi chính sự khốn khó

của cuộc sống, nên đã tái hiện lại rất sinh động với lòng yêu thương, sự cảm

thông với những con người, kiếp người, những mảnh đời vất vả… ở môi trường

này. Chính chị đã từng tâm sự: “…Kết hợp đi thực tế nhiều vùng để tận mắt

nhìn thấy, tai nghe mà thu lượm ít nhiều những gì ở đời thường của mỗi con

người, mỗi gia đình rồi đưa vào văn học một cách trung thực và trong sáng. Có

những cái xảy ra ở đời thường kết thúc vô hậu, nhưng khi đưa vào văn học tôi

đã kết thúc có hậu, để người đọc, nhất là bà con Tây Nguyên cùng đồng cảm

với tôi phần nào - một nhà văn nữ người dân tộc đầy trắc trở....”[15,tr481].

Cũng trên mảnh đất Tây Nguyên đầy bản sắc ấy chúng ta không thể

không nhắc đến là nữ nhà văn Linh Nga Niếk Đam. Là một nghệ sĩ - nhà văn,

nhưng ở cả hai “vai” bà đều có những tác phẩm mà khiến người đọc nhớ và

khắc sâu vào tiềm thức. Ở thể loại văn xuôi bà có những tác phẩm ghi dấu ấn

như: “Con rắn màu xanh da trời(1997), Trăng xí thoại(1998), Đi tìm hồn

chiêng(2003), Gió đỏ(2004)”....Đọc những tác phẩm của Linh Nga NiếK Đam

người ta đều có thể nhận thấy một tâm hồn say đắm, một sự tự hào cao độ về

quê hương của bà, nhưng cũng nhận ra sự lo lắng, xót xa của bà trước một Tây

Nguyên đang dần phai nhạt bản sắc, tình người trong cuộc sống thời kì hiện

đại, trong cơ chế thị trường hôm nay.

Nói về các nhà văn nữ DTTS còn có thể nhắc đến nhà văn Đoàn Ngọc

Minh -nữ nhà văn dân tộc Tày của Cao Bằng. Những năm tháng đầu tiên cầm

bút, nhà văn Ngọc Minh chủ yếu viết cho thiếu nhi với những tác phẩm như:

“Dòng sông kỉ niệm”, “Phía sau đỉnh Khau Khoang”, “Cánh chim”. Các tập

truyện ngắn của chị đều được xuất bản với số lượng lớn và phát cho trẻ em dân

20

tộc thiểu số trong cả nước. Ngoài ra, Ngọc Minh cũng có nhiều tác phẩm đoạt

giải trong các cuộc thi viết như: “Lời hẹn(1997)”; “Dòng sông kỉ

niệm(1997)”; “Cánh chim(1999)”; “Sông ngàn lau(2001)”; “Gió

xoáy(2004)”; “Gọi nắng(2004)”; “Núi Bó Phạ trở về(2003)”; “Thằng bạn

tôi(1995)”; “Mùa lá rụng(2000)”; “Chuyện của đại tá Thi(2001)”…. Đoàn

Ngọc Minh sáng tác cả thơ và văn xuôi, và ở cả hai thể loại này, chị đều được

ghi nhận bởi bạn đọc. Truyện của Đoàn Ngọc Minh luôn phảng phất một nỗi

buồn, một sự day dứt trăn trở nhưng vẫn tràn đầy niềm nhân ái, bao dung. Tác

phẩm của chị không có sự ồn ào, to tát, nhưng với lòng nhiệt tình, sự hiểu biết,

vốn kiến thức về quê hương, con người miền núi chị đã chắt chiu, dồn hết tình

cảm vào trang văn nên tác phẩm của chị cứ lặng lẽ ngấm dần vào tâm hồn

người đọc.

Nhìn vào đội ngũ các nhà văn nữ dân tộc thiểu số như đã nói ở trên có

thể thấy: Trong khoảng hơn nửa thế kỉ qua, bên cạnh đội ngũ nhà văn nam

DTTS thì các nhà văn nữ cũng đã xuất hiện và trưởng thành nhanh chóng cùng

với sự lớn mạnh về số lượng và chất lượng tác phẩm. Hàng loạt những tác

phẩm được ra đời bởi những cây bút thuần thục của các nhà văn DTTS như: Vi

Thị Kim Bình, Hà Thị Cẩm Anh, Kim Nhất, Linh Nga Niếk Đam, Kha

Thường, Đoàn Thị Ngọc Minh, Niê Thanh Mai, Bùi Thị Như Lan... những nữ

nhà văn này đã rất tích cực sáng tác và đã có đóng góp vào việc phát triển đội

ngũ nhà văn nữ dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Những tác phẩm của họ đã

góp phần tạo nên một bộ phận văn xuôi giàu tiềm năng, giàu bản sắc trong nền

văn học các DTTS Việt Nam hiện đại.

Nhà văn nữ DTTS Bùi Thị Như Lan là một trường hợp khá đặc biệt, chị

thuộc thế hệ thứ 3 (xuất hiện đầu thế kỷ XXI), và xuất thân từ một quân nhân.

Là một nhà văn quân đội, nên những tác phẩm của chị phản ánh những vấn đề

từ cuộc sống đời thường của những người miền núi, đặc biệt là những người

phụ nữ có chồng là người lính và bản thân họ là những người lính. Là một nhà

21

văn nữ nhưng Bùi Thị Như Lan đã đi rất nhiều trên mọi miền vùng biên giới

phía Bắc. Chị viết đều, viết nhiều, chủ yếu là truyện ngắn(8 tập truyện ngắn).

Chị rất xứng đáng xếp vào hàng các nhà văn nữ có nhiều đóng góp cho văn

xuôi DTTS trong thời kì Đổi Mới.

1.2. Nhà văn nữ quân đội dân tộc Tày - Bùi Thị Như Lan

1.2.1. Vài nét về nhà văn Bùi Thị Như Lan

Nhà văn Bùi Thị Như Lan người dân tộc Tày, sinh năm 1967, tại Chợ

Đồn, Bắc Kạn. Chợ Đồn nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Bắc Kạn. Chợ Đồn có vị

thế chiến lược quan trọng trong lịch sử đấu tranh cách mạng của vùng Việt Bắc.

Với địa hình hiểm trở, chạy dài suốt phía Bắc và Tây Bắc, có cánh cung sông

Gâm với nhiều ngọn núi cao trên 1000 mét. Dãy núi Phja Bjóoc hùng vĩ trở

thành mái nhà chung của ba huyện: Chợ Đồn, Phủ Thông, Ba Bể. Ngoài ra, nơi

này còn là căn cứ địa cách mạng quan trọng, được chọn làm nơi xây dựng an

toàn khu (ATK). Chợ Đồn là nơi hội tụ, sinh sống của sáu dân tộc anh em, bao

gồm: Tày, Nùng, Dao, Mông, Hoa, Kinh - trong đó dân tộc Tày chiếm 71,3%

tổng số dân trong huyện. Cộng đồng Tày sống chủ yếu ở vùng thấp và là một

dân tộc có bản sắc văn hóa đa dạng phong phú, có truyền thống văn hóa lâu

đời. Chính vì được sinh ra trong “nôi” văn hóa giàu có, phong phú và lâu đời

đó mà các sáng tác của nhà văn Bùi Thị Như Lan luôn thấm đẫm bản sắc Tày

và mang hơi thở của vùng núi Việt Bắc quê hương.

Ngay từ khi còn nhỏ, còn ngồi trên ghế nhà trường, chị đã viết tản văn

với các bài: Thiên nhiên thu, Mùa hoa trẩu, Xuân về trên rẻo cao, sương trên

núi hoa… (được đăng trên các báo Thiếu niên, Nhi đồng, tạp chí Thanh Niên).

Lớn lên chị đi học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và đến năm 1989, chị

được phân công về dạy tại Trường Thiếu sinh quân Quân khu I. Và bắt đầu từ

đó chị trở thành nữ quân nhân.

Năm 1999 trong đợt tham gia trại sáng tác Quân khu, chị viết truyện

ngắn Bố ơi đã giành được Giải Ba và gây được sự chú ý của một số độc giả

22

trong vùng. Thành công ngay từ tác phẩm đầu tiên, nhà văn Như Lan như được

tiếp “ thêm lửa, thêm nghị lực” để dấn thân vào con đường viết văn đầy nhọc

nhằn nhưng cũng đầy thú vị, đầy đam mê.

Trong hai năm (2000, 2001), chị cho ra đời một loạt tập truyện ngắn: Núi

đợi, Mùa mắc mật, Tiếng chim kỷ giàng (được sáng tác và hoàn thiện trong đợt

tham gia Trại sáng tác của quân đội ở Đồ Sơn) và được in trên Tạp chí Văn

nghệ quân đội.

Năm 2003 nhà văn Bùi Thị Như Lan trở thành Hội Viên Hội Văn học

nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên. Năm 2005, chị chuyển công tác lên làm Báo

Quân khu I và cũng trong năm này chị đã được kết nạp vào Hội văn học nghệ

thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam. Năm 2006 chị trở thành hội viên của Hội

Nhà văn Việt Nam.

Nhà văn Như Lan trở thành nữ nhà văn quân đội như là mối “duyên nợ”.

Bố chị là bộ đội, thương binh trong kháng chiến chống Mỹ, sau khi tốt nghiệp

Đại học Sư phạm, chị trở thành giáo viên của Trường Thiếu sinh quân Việt Bắc

(1990-2005). Ở ngôi trường đặc biệt này, học sinh là những con em dân tộc

thiểu số Việt Bắc - những người lính miền núi tương lai, nên chị có dịp tiếp

xúc, hiểu sâu sắc về những đối tượng này. Ngoài ra, khi làm Báo Quân khu I,

do đặc thù nghề nghiệp nhà văn đi công tác rất nhiều, đặc biệt là công tác tại 6

tỉnh trong địa bàn của lực lượng vũ trang của Quân khu I, đó là: Thái Nguyên,

Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Ninh. Những chuyến đi công

tác dài ngày ở các tỉnh biên giới Cao Bằng, Lạng Sơn… chị luôn được cùng

sống, cùng ăn, cùng ở với đồng bào, lắng nghe nhiều chuyện về cuộc sống của

đồng bào miền núi và qua đó, nhà văn có thêm những nguồn tư liệu vô cùng

quý giá về cuộc sống, con người cùng các phong tục tập quán của đồng bào các

dân tộc vùng cao.

Do sinh ra và lớn lên ở miền núi, nhà văn Bùi Thị Như Lan có một tình

yêu đặc biệt với quê hương núi rừng, với đồng bào mình, thấu hiểu và thông

23

cảm cho cuộc sống của họ. Thông qua những tác phẩm của chị, tiếng nói, nỗi

lòng của đồng bào dân tộc thiểu số được bộc lộ, qua đó để người đọc hiểu hơn

và thông cảm hơn, cũng như tôn trọng hơn với con người và cuộc sống của

đồng bào miền núi.

Nhà văn Như Lan đã từng viết: “Chặng đường 14 năm cầm bút sáng tác

văn xuôi của tôi chưa phải là dài so vói các bậc nhà văn cao niên, những “cây

đa, cây đề” trong làng văn Thái nguyên như Cố nhà văn Vi Hồng, Nhà văn Ma

Trường Nguyên, nhà văn Hà Đức Toàn, nhà văn Hồ Thủy Giang…..và những

cây bút văn xuôi đàn anh đàn chị “lão luyện” như Ngọc Thị Kẹo, Phạm Đức,

Hoàng Luận. Thế nhưng điều tôi có thể “trải lòng” đó là tôi luôn đam mê, tâm

huyết sáng tác về mảng đề tài Dân tộc-Miền núi. Trong đó bản sắc văn hóa dân

tộc của quê hương Việt Bắc là một “vỉa quặng” quý hiếm, mà tôi càng đi sâu

khai thác càng thấy ngổn ngang những điều muốn nói, muốn viết.” [14]

Khi hỏi về con đường cũng như nguồn cảm hứng nào đưa chị tới văn

chương? Nhà văn cho rằng: “Tôi sinh ra và lớn lên trong gia đình người dân

tộc Tày. Tuổi thơ tôi đằm trong tiếng ru, lời hát “lượn khắp”, “lượn cọi” của

bà của mẹ. Bà ngoại đã thổi vào tâm hồn tôi những câu truyện cổ tích “ Cổ

tích thổ công Bản Mạc” “ Pjạ lấy vợ tiên”, “ Cô quý, cô chèn”… và kể chuyện

thơ nôm như “ Slam Péc-Anh Tài, Nam Kim Thị Đan, Khảm Hải, Bjoóc

Râm…mang đậm văn hóa vùng miền. Những đứa trẻ núi chúng tôi, từ bé đến

khi trưởng thành, được sống trong âm hưởng của nền ca dao tục ngữ, thành

ngữ phong phú, đậm đà bản sắc, phản ánh những kinh nghiệm sản xuất và đấu

tranh của nhân dân lao động chống lại sự khắc nghiệt của thiên nhiên, chống

bất công trong xã hội, cũng như tình yêu đôi lứa, gia đình….. đó chính là cái

nôi nuôi dưỡng ước mơ sáng tác văn học của tôi”[14].

Qua lời bộc bạch, Bùi Thị Như Lan đã nói rõ con đường và nguồn cảm

hứng để đi đến sự nghiệp văn chương của mình. Đó là nguồn cội văn hóa dân

24

tộc, là tình yêu quê hương miền núi và ý thức trách nhiệm của người cầm bút

đối với cuộc sống, con người miền núi chân chính.

1.2.2. Bùi Thị Như Lan - nữ nhà văn quân đội miền núi

Nhà văn nữ dân tộc Tày - Bùi Thị Như Lan là mô ̣t nhà văn quân đội

(Quân khu Việt Bắc). Vì thế, chị hay viết về đề tài cuộc sống con người miền

núi phía Bắc, và nhất là những số phận, cảnh ngộ của những người phụ nữ (có

chồng tham gia quân đội) và những người lính DTTS trong đời sống quân ngũ

và cuộc sống đời thường. Là một nhà văn nữ còn khá trẻ, khỏe, Bùi Thị Như

Lan đã đi và lăn lộn trên khắp mọi miền thuộc biên giới phía Bắc. Với niềm

đam mê nghiệp văn chương, chị đã viết đều, viết đa dạng các thể loại và chủ

đề, nhưng viết nhiều hơn và thành công hơn cả là thể loại truyện ngắn. Chính ở

thể loại này chị đã gặt hái được nhiều thành công, được đánh giá cao và đạt

được nhiều Giải thưởng từ Trung ương đến địa phương.

Năm 1999, vớ i truyê ̣n ngắn đầu tay Bố ơi đươ ̣c in trang tro ̣ng trong Ta ̣p

chí Văn nghệ quân đô ̣i, bướ c đầu cái tên Bù i Thị Như Lan đã xuất hiện và in dấu trong lò ng đô ̣c giả. Thành công đầu tiên ấy đã thôi thú c chị dấn thân sâu

hơn vào con đường văn chương đầy vất vả, nhọc nhằn nhưng cũng đầy ý nghĩa. Nhà văn Như Lan say sưa, miệt mài vớ i sự nghiệp văn chương của mình nên chị đã có một số lượng tác phẩm đáng nể trọng. Chă ̣ng đườ ng gần 20 năm cầm bú t - nhà văn đã cho ra đờ i một số tác phẩm cụ thể như sau:

+ Tiếng chim kỷ già ng,Tâ ̣p truyê ̣n, Nhà xuất bản Quân đô ̣i, 2004

+ Mù a hoa mắc mật, Tập truyện, Nhà xuất bản Thanh niên, 2005 + Hoa mía,Tâ ̣p truyê ̣n , Nhà xuất bản Thanh niên, 2006 + Lờ i sli bay cao, Tập truyện, Nhà xuất bản Quân đô ̣i, 2007

+ Bồng bềnh sương núi, Tập truyện, Nhà xuất bản Dân tộc 2009

+ Cọn nước đôi, Tập truyện, Nhà xuất bản Quân đội 2012

+ Mùa hoa Bjoóc phạ, Tập truyện, Nhà xuất bản Kim đồng 2013

+ Tiếng kè n pílè , Tâ ̣p truyê ̣n, Nhà xuất bản Quân đội năm 2015

25

+ Tập ký : Những con đường lặng im sau tiếng súng (2016)

Các tác phẩm củ a chị đã đa ̣t đươ ̣c nhiều Giải thưở ng như: - Giả i Ba, Truyê ̣n ngắn Bố ơi! Cuô ̣c thi viết truyê ̣n ngắ n trong đờ i bộ

đội củ a Tổng cu ̣c Chính tri ̣ (1999).

- Giả i Ba (Không có giải Nhất), truyê ̣n ngắn Nú i đợi,(Cuô ̣c thi viết

truyê ̣n ngắ n, Ta ̣p chí Văn nghệ Quân đô ̣i (2001-2002).

- Giả i Nhì, truyê ̣n ngắn Gió hoang, (cuô ̣c thi sá ng tá c truyê ̣n ngắ n và

bú t kí, Ta ̣p chí văn hóa cá c dân tô ̣c (2004)).

- Giả i C, Tâ ̣p truyê ̣n Hoa mía, (Hô ̣i Văn ho ̣c nghê ̣ thuâ ̣t cá c dân tô ̣c

thiểu số Việt Nam (2006)).

- Giả i A, Tâ ̣p truyê ̣n ngắn Tiếng chim kỷ già ng,(Tổ ng kết 5 năm truyê ̣n

ngắ n Thá i Nguyên (2007)).

- Giải Ba truyện ngắnMùa hoa Bjoóc phạ,(cuộc thi viết truyện ngắn,

bút ký do Hội Nhà văn phối hợp với Bộ Giáo dục - Đào tạo tổ

chức,(Năm 2013)….

- Trong tâ ̣p truyện Tiếng kèn pílè có mô ̣t số truyê ̣n đươ ̣c phát trên đài phát thanh Việt Nam như: Lờ i sli trôi trong trăng, Bạn toồng… Ngoài ra chị cò n một số tác phẩm được in trên Ta ̣p chí văn nghệ Quân đô ̣i (như: Gió thổi qua rừ ng, Tiếng kè n pílè …) và in trên Báo văn nghệ Công an (như: Hắn, Lá bùa đỏ…).

Là nhà văn quân đội, Bùi Thị Như Lan cũng những quan điểm riêng,

cách viết riêng để có được những tác phẩm mang nét riêng, độc đáo. Theo nhà văn thì vấn đề quan thiết nhất đối với các nhà văn và các cây bú t đó chính là tư duy, là tài năng, sự tâm huyết và sự lựa cho ̣n đề tài. Tài năng củ a nhà văn là yếu tố hàng đầu để có tác phẩm hay. Đó là ha ̣t giố ng, nhưng để ha ̣t giố ng đó nảy mầm, ra hoa, kết trái, phải phu ̣ thuô ̣c vào mảnh đất gieo trồ ng. Mảnh đất ấy chính là cô ̣i nguồ n văn hóa, là môi trường sáng tác củ a mỗi nhà văn, để rồ i bằng vố n số ng được tích lũy bằng tình cảm sâu sắc và cách tiếp câ ̣n và khai thác các đề tài miền núi tâm đắ c

26

nhất. Có lối tư duy đầy sáng tạo thì nhà văn sẽ cho ra đờ i tác phẩm mang hơi thở , hương sắc và đặc trưng của cuô ̣c số ng vù ng miền với những con người cụ thể trong

những hoàn cảnh sống cụ thể

Vớ i Bùi Thị Như Lan, cô ̣i nguồ n và môi trường sống của chị chính là thiên nhiên núi rừng và cuộc sống của đồng bào các DTTS vù ng cao Viê ̣t Bắc. Trong đó ,

tinh hoa văn hó a và nét đe ̣p truyền thống nằm trong ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc; là phong tu ̣c tâ ̣p quán và trong các tín ngưỡng dân gian, trong các lễ hô ̣i cổ truyền và trong vốn văn hó a văn nghê ̣ dân gian phong phú đặc sắc của các dân tộc vùng miền núi… Đó chính là nguồ n sữa nuôi dưỡng sự đam mê, sự trưởng thành trong sự nghiệp văn chương củ a nhà văn.

Khi sáng tác điều mà nhà văn luôn phải quan tâm đó là việc phải bám sát sự

đổi thay củ a cuô ̣c số ng ở miền núi, của con người vùng cao trong các giai đoạn lịch sử cụ thể, đặc biệt là trong thờ i kì Đổ i Mớ i và hô ̣i nhâ ̣p quốc tế. Các sáng tác văn ho ̣c nếu “bám rễ” vào cuô ̣c số ng mớ i thì mới nêu bật được cái hay, cái đe ̣p, những thành quả của khoa học kĩ thuật, mố i giao thoa giữa các nền văn hó a trong cô ̣ng đồ ng và cả cái khiếm khuyết, cái mặt trái củ a cuô ̣c số ng hiê ̣n ta ̣i đang trên đà chuyển đô ̣ng, đổi mớ i và phát triển. Đó là nhiê ̣m vụ và trách nhiệm củ a người cầm bú t. Và khi tác phẩm đi sâu vào đờ i số ng củ a đồ ng bào vù ng cao, khám phá cái hay, cái đẹp, cái được, cái mất… trong sự đổi thay xã hội đối với từng số phận con người

vùng cao - thì khi ấy mới có giá trị, mới có sự đóng góp vào việc giữ gìn phát triển

bản sắc văn hóa dân tộc, sức sống của dân tộc trong thời kỳ hiện đại và hội nhập.

Để phản ánh thực tra ̣ng cuô ̣c số ng và sự phát triển củ a thờ i đa ̣i, khi sáng tác Bùi Thị Như Lan đi sâu vào nhiều khía ca ̣nh, gó c đô ̣ củ a cuô ̣c số ng, khai thác các hoàn cảnh, các thân phận của nhiều đối tượng con người khác nhau với các tính

cách, phẩm chất khác nhau, tạo nên sự đa dạng, phong phú trong thế giới nhân vật.

Bên cạnh đó chị luôn chú ý đến cách miêu tả, cách xây dựng nhân vật, cách sử dụng

ngôn ngữ mang đậm màu sắc dân tộc miền núi… nên tác phẩm của chị luôn có cái

mới, cái lạ, bên cạnh cái quen, nên luôn có sức hấp dẫn đối với người đọc.

27

Đề tài xuyên suốt trong các sáng tác của chị số phận của những người dân

miền núi thời kì sau chiến tranh và thời kì hiện đại hóa, hội nhập quốc tế. Vấn đề

mà nhà văn thường đề cập là sự khó khăn, sự éo le trong cuộc sống, trong tình yêu, trong gia đình củ a con ngườ i sau chiến tranh. Ví du ̣ như các tác phẩm: Chiế c vò ng bạc hình đôi chim nộc phầy, Mù a hoa gắ m, Bố ơi, Hoa mía, Gió hoang,… viết về các nội dung: những đôi trai gái miền núi yêu nhau, chưa lấy nhau thì phải chia tay nhau để người con trai ra chiến trường, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, đến khi trở về thì

có thể chỉ còn là: một cơ thể không lành lặn, hoặc là họ không thể trở về, hoă ̣c

người yêu (vợ) lại đi lấy người khác…; hoặc có sự bất trắc, éo le trong cuộc sống

thường ngày với sự khắc nghiệt của thiên nhiên và sự mê muội, mê tín của con

người miền núi. Ví dụ như: Câu chuyện nhà Ké Pả n đang số ng rất ha ̣nh phú c, nhưng do ha ̣n hán liên miên, do hủ tục và sự mê muội của người dân, ngườ i vợ xinh đẹp củ a Ké Pản bỗng trở thành na ̣n nhân, làm vâ ̣t tế thần, dẫn đến gia đình li tán; hoặc có sự éo le bởi sự yếu đuố i, không vượt qua nổi thử thách củ a lò ng ngườ i (do không thắng được du ̣c vo ̣ng tầm thường mà người anh rể quan hê ̣ với em vợ) để rồ i cuố i cù ng gia đình đổ vỡ, tan nát như trong truyện “Hoa Mía”…

Nhà văn Bùi Thi ̣ Như Lan là một nhà văn nữ rất hay viết về các nhân vâ ̣t là người phụ nữ miền núi với các số phận khác nhau. Hàng loạt các nhân

vật, với bao số phận, thân phận với các hoàn cảnh khác nhau được hiện lên

trong các tác phẩm của chị. Các nhân vật phụ nữ miền núi với những tính

cách khác nhau, những số phận khác nhau, nhưng ở họ luôn toát lên vẻ đẹp tự

nhiên, một vẻ đẹp hồn hậu, khỏe khoắn, luôn khát khao một cuộc sống bình

yên, hạnh phúc và luôn sẵn sàng hi sinh hết mình vì những người thân yêu của

mình, nhưng cũng sẵn sàng “xù lông như những con nhím” khi bị dồn đẩy vào

bước đường cùng của cuộc sống. Đây cũng chính là một phát hiện, một đóng

góp đáng trân trọng của Bùi Thị Như Lan qua các sáng tác của mình.

Ngò i bú t củ a nhà văn Bùi Thị Như Lan đã phác thảo nên bứ c tranh sinh

đô ̣ng về con người cùng với những nét văn hóa trong cuộc sống của các cộng

28

đồng dân tộc ở vù ng nú i phía Bắc. Ở đó có những vỉa tầng văn hó a đươ ̣c hun đú c qua nhiều thế hê ̣ với những phong tục tập quán đa dạng, phong phú và đặc

sắc của các tộc người miền núi; với những lố i số ng, nếp số ng văn hó a miền núi

đươ ̣c ẩn chứa trong những nếp nhà sàn ven núi, trong các hoạt động cộng đồng

DTTS, trong cách ứng xử của đồng bào với thiên nhiên, rừng núi quê hương.

Với những sáng tạo không ngừng, với những trang viết thấm đẫm tình

người miền núi, thấm đẫm lòng tự hào về con người và quê hương miền núi,

cùng những trăn trở, băn khoăn, đau đớn, xót xa của một người đã từng gắn bó

máu thịt với cuộc sống và con người miền núi trong thời kì hiện đại hóa và hội

nhập - nhà văn Bùi Thị Như Lan để có những tác phẩm chân thực, cảm động

lòng người – chị đã khẳng định được vị trí của mình trong đội ngũ các nhà văn

nữ DTTS nói riêng, trong đội ngũ các nhà văn DTTS nói chung. Chị xứng đáng

nhận được sự trân trọng và lòng yêu mến của bạn đọc, đặc biệt là bạn đọc vùng

trung du miền núi phía Bắc; và xứng đáng được đánh giá là một cây bút nữ

DTTS có những đóng góp trong văn học DTTS thời kì Đổi Mới ở miền núi

hôm nay.

TIỂU KẾT

Bức tranh miền núi và cuộc sống của đồng bào dân tộc qua ngòi bút của

các nhà văn DTTS đang ngày càng chiếm được ưu thế hơn bao giờ hết. Nếu

như trước năm 1945 văn xuôi của các tác giả người DTTS hầu như chưa xuất

hiện, thì từ sau năm 1945 văn xuôi ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn cả về số

lượng và chất lượng. Vấn đề được hướng đến ở đây đó là những khó khăn, sự

nghèo đói của người dân vùng cao…

Điều đáng quan tâm hơn cả chính là về đội ngũ nhà văn DTTS; hơn 30

năm của công cuộc Đổi mới, đội ngũ nhà văn đã được trẻ hóa và chất lượng

cầm bút cũng đạt ở trình độ cao. Nếu như trước chủ yếu là những cây bút nam

29

DTTS thì cho tới thời kì này xuất hiện rất nhiều các cây bút nữ; họ đều là

những cây bút tiêu biểu của văn học DTTS. Trong đội ngũ nhà văn nữ đó nổi

lên nhà văn trẻ Bùi Thị Như Lan – chị là nhà văn quân đội, lăn lộn trên khắp

mọi miền thuộc biên giới phía Bắc. Với niềm say mê và lòng nhiệt huyết chị đã

cho ra đời 8 tập truyện ngắn và 1 tập bút kí; chủ yếu đều viết về con người và

cuộc sống miền núi. Đó là bức tranh sinh động, nhiều màu sắc về nét văn hóa

trong cuộc sống của người DTTS.

Chính sự say mê đó đã khiến Bùi Thị Như Lan có được những tập truyện

ngắn đặc sắc và cảm động đến độc giả đến vậy. Chị xứng đáng là một cây bút

văn xuôi DTTS trẻ với nhiều đóng góp cho nền văn học nói chung và văn xuôi

DTTS nói riêng.

30

Chương 2

THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN BÙI THỊ NHƯ LAN

Trong các sáng tác của Bùi Thị Như Lan xuất hiện nhiều loại nhân vật

khác nhau, gồm các thành phần, các lứa tuổi khác nhau( người lớn, trẻ em, phụ

nữ, nam giới, nông dân, bộ đội, người trí thức…), nhưng nhân vật phụ nữ luôn

chiếm một tỷ lệ rất cao trong sáng tác của chị. Theo khảo sát của chúng tôi thì:

Có đến 60/66 truyện (trong tổng số các truyện trong 8 tập Truyện ngắn của chị)

viết về người phụ nữ với các lứa tuổi, với các thân phận khác nhau. Có thể

khẳng định: Hình tượng người phụ nữ DTTS đã trở thành hình tượng nhân vật

chính trong tất cả sáng tác của Bùi Thị Như Lan. Chị đã dồn nhiều tâm huyết,

tình cảm, tài năng của mình để xây dựng hình tượng nhân vật này. Và cũng

chính hình tượng nhân vật này đã thể hiện rất rõ tư tưởng nghệ thuật, cũng như

tài năng văn chương và tình cảm của chị đối với người phụ nữ DTTS.

Khi viết về các nhân vật phụ nữ DTTS, nhà văn Bùi Thị Như Lan đã rất

chú ý đến việc khắc họa, miêu tả vẻ đẹp ( bên ngoài cũng như bên trong) của

họ - với sự quan sát sắc sảo, với tình cảm yêu quý, trân trọng và sự cảm thông

sâu sắc. Có lẽ do chị cũng là một người phụ nữ miền núi, nên sự hiểu biết, sự

nhìn nhận, sự miêu tả…những nhân vật này trong tác phẩm của chị trở nên sinh

động, chân thật và cảm động. Qua ngòi bút của chị, hình tượng người phụ nữ

DTTS được hiện lên với những vẻ đẹp, nét đẹp cụ thể, sinh động, chân thật,

đáng quý. Vẻ đẹp đó trước hết được thể hiện ở việc miêu tả về ngoại hình và

nội tâm của các nhân vật phụ nữ này.

2.1. Hình tượng người phụ nữ dân tộc thiểu số trong truyện ngắn Bùi Thị Như

Lan

Các nhân vật phụ nữ trong tác phẩm của Bùi Thị Như Lan xuất hiện một

cách khá đậm đặc với những số phận khác nhau, với những hoàn cảnh khác

nhau và chiếm một tỷ lệ rất cao (60/66 truyện). Họ là những người con gái

31

miền núi xinh đẹp, duyên dáng, hồn nhiên như những bông hoa rừng tươi mát;

họ là những người phụ nữ khỏe mạnh, chịu thương, chịu khó, đảm đang công

việc gia đình và công việc làng bản; họ là những người mẹ, người vợ tảo tần,

đảm đang, chung thủy... Họ xuất thân từ những vùng nông thôn miền núi,

những người phụ nữ chỉ biết đến làm ruộng, làm rẫy, quanh quẩn với nếp nhà

sàn, với làng bản, núi rừng. Và phần lớn trong họ đều là những người có số

phận kém may mắn. Nhưng điều đáng quý ở những người phụ nữ này là họ

chưa bao giờ mất đi niềm tin vào cuộc sống. Họ đối mặt với lạc hậu, nghèo

nàn, với những khó khăn đang giăng mắc trước mắt nhưng vẫn cố vươn lên và

mong muốn có được một cuộc sống tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn.

2.1.1. Người phụ nữ miền núi với vẻ đẹp khỏe mạnh, tự nhiên, rực rỡ, đậm

chất dân tộc và miền núi.

Hình ảnh người phụ nữ miền núi trong tác phẩm của Bùi Thị Như Lan

luôn được hiện lên với một vẻ đẹp mang đậm màu sắc dân tộc và miền núi -

một vẻ đẹp khỏe mạnh, tự nhiên, rực rỡ, tươi mát, trong trẻo. Vẻ đẹp ấy làm

rung động lòng người: “…. khuôn mặt tròn như trăng rằm, đôi mắt đen láy giấu

dưới hàng mi dày lua tua, ngờm ngợp, đến cái miệng đỏ tươi như màu quả mác

lừ trên núi, mỗi khi cười để lại lúm đồng xu xoáy nước cuộn lại mọi điều bí

mật..”[20,tr55-56]. Vẻ đẹp trong sáng, thuần khiết đó lôi cuốn, làm say đắm

bao chàng trai trẻ miền núi đến độ: “Vẻ đẹp đằm thắm của mé làm cho nhiều

thằng trai trong vùng phải ngẩn ngơ, thay hết ống sáo trúc này tới ống sáo trúc

khác để thả lời yêu say đắm” [21,tr66]. Trong mắt các chàng trai miền núi, họ

đẹp như: “con chim đẹp, nói giỏi, hát hay” [20,tr56]; vẻ đẹp ấy tỏa sáng giữa

núi rừng, rực rỡ, đầy sức cuốn hút: “Cái đẹp thoát ra thầm kín từ lời nói, bước

đi, từ đôi mắt tròn đen thăm thẳm mặn mà. Ánh mắt tụi con trai xoáy sâu mãi

vào cái cổ ba ngấn trắng ngần mầu hoa bật bông mà mơ tưởng đắm đuối”,

“Trăng đêm dát bạc đổ tràn vào người chị. Đôi má chị chín đỏ, mồ hôi, nước

mắt tong tả đầy vơi lòng cối..” [20,tr121]…

32

Bùi Thị Như Lan thường lấy vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng làm chuẩn

mực so sánh với vẻ đẹp của người phụ nữ miền núi, nên hình ảnh người phụ nữ

ở đây được hiện ra với những gì bình dị nhất, nhưng cũng rực rỡ, tươi sáng

nhất. Ví dụ như khi tác giả miêu tả vẻ đẹp của Dín: “Nước da Dín mịn màng

trắng như hoa mơ, hoa mận đến độ nở rộ, mỗi khi khóm lửa bên bếp, lửa cũng

tí tách hờn ghen vì màu hồng trên đôi má Dín. Khi cười, Dín khoe hàm răng

trắng đều như bắp nếp để lại trên má hai đồng xu duyên dáng mặn mà. Dín

như con ong cần mẫn. Nương ngô, nương lúa nhà Dín, tay Dín làm cả thôi.

Ngô xanh mướt mát, mập mạp rủ nhau trổ cờ, tung phấn chồi bắp mẹ, bắp con.

Lúa nặng bông trĩu hạt từ gốc lên ngọn đến độ vàng óng chụm đầu vào nhau,

lắc lư theo điệu nhảy của ngọn gió rừng, dắt tay nhau về bíu chặt xà ngang, xà

dọc” [20.Tr166-167]; Hay khi miêu tả vẻ đẹp của người mẹ tuy rất vất vả, tảo

tần nhưng vẫn sáng lên vẻ đẹp tự nhiên, khỏe mạnh, cuốn hút đến lạ kì: “Mế

Ngần nổi tiếng là bông hoa đẹp trong vùng. Đôi mắt mế to đen, trong vắt như

nước hồ Nặm Poọc. Mái tóc đen mượt óng ả, ôm lấy tấm lưng ong mềm mại.

Khi gội đầu, tóc xõa ra, dài như dòng suối Lùng cuối bản” [17,tr49].

Sở hữu vẻ đẹp hình thức bên ngoài đến độ “bếp lửa cũng tí tách hờn

ghen, nhưng đáng quý hơn là: Ở họ còn có những vẻ đẹp bên trong đầy hấp

dẫn, đó là: Vẻ đẹp của đôi bàn tay khéo léo, của sự chăm chỉ, kiên trì của

những người phụ nữ vùng cao, những người dệt nên những bộ váy áo, những

tấm chăn, chiếc khăn, chiếc địu đẹp rực rỡ…: “Ở miền núi quê tôi, đàn bà con

gái được đo sự khéo tay bằng mền chăn ấm, những bộ quần áo váy sặc sỡ hay

tấm vải mịn màng đi chợ thị trấn Khau Luổng. Mẹ tôi còn khéo tay hơn những

người đàn bà khác trong bản. Mẹ lên rừng tìm lá cây, nhuộm sợi nhiều màu

đựng đầy các quẩy tấu. Mẹ dệt con hươu, con nai, con chim noộc só uống nước

suối Nặm Só, mẹ dệt con gấu ngồi trên cây tìm mật ong, mẹ dệt hình ông mặt

trời, hình chị mặt trăng đậu trên ngọn núi Phia Sao và cả hình người cưỡi

ngựa đi săn ở trong rừng...” [17,tr119].

33

Người phụ nữ miền núi được miêu tả với vẻ đẹp của đức tính cần cù,

chịu khó, của đôi bàn tay khéo léo và óc thẩm mỹ cao. Ngoài những công việc

nương, rẫy, gia đình, làng bản ra thì người phụ nữ còn rất khéo léo dệt vải để

làm chăn, làm váy, áo… Họ lên rừng tìm lá, nhuộm sợi, dệt vải, thêu hoa… để

có được những mảnh vải sặc sỡ và bền màu cho gia đình và cho bản thân. Qua

việc miêu tả vẻ đẹp trong sáng và hồn hậu, đáng yêu ấy của họ nhà văn đã thể

hiện được tình yêu, lòng tự hào của một người con gái miền núi – lúc nào cũng

gửi trọn tình cảm của mình về quê hương, về cộng đồng DTTS của mình.

Nhà văn còn chú ý khắc họa về vẻ đẹp của giọng hát, của điệu ru, của

tiếng kèn lá… ngọt ngào, thánh thót như chim rừng của họ khiến cho con người

và cả thiên nhiên cũng ngây ngất: “Seo Mây như con chim công đẹp cả bộ lông

lẫn tiếng hót. Cái miệng Seo Mây hút hồn ông hết mùa mía này đến mùa mía

khác” [20,tr73-74]; “đầu gối, bàn tay chị trầy trật, rớm máu là lúc tiếng khèn

lá, tiếng hát giao duyên gọi bạn từ bên kia bờ suối thong thả cất lên. Khuôn

mặt chị tôi thoắt ửng hồng ngời ngợi như được dệt bằng luồng sáng huyền ảo.

Giây lát ấy, tôi ngỡ tưởng chị là nàng tiên núi vừa bước ra từ thế giới cổ tích

chị kể đêm đêm... Chị tôi kể nhiều chuyện lắm, giọng chị ấm áp vời

vợi”[20,tr107 – 108].

Qua cách miêu tả vẻ đẹp bên ngoài cũng như vẻ đẹp bên trong của người

phụ nữ miền núi, ta thấy rõ khả năng quan sát, nghệ thuật miêu tả cùng với lối

ví von, so sánh đậm chất dân tộc và miền núi của tác giả Như Lan. Chính

những kinh nghiệm sống và sự trải nghiệm từ thực tiễn vô cùng phong phú và

phức tạp đã khiến cho chị có được những trang văn đầy cảm xúc và có ý nghĩa

hiện thực sâu sắc, đa chiều – thong qua việc miêu tả hình ảnh những người phụ

nữ dân tộc thiểu số với những số phận, hoàn cảnh khác nhau này.

Đọc tác phẩm của Bùi Thị Như Lan, ta nhận thấy: những nhân vật phụ

nữ trong tác phẩm của chị dù ở hoàn cảnh nào, dù có số phận khác nhau như

thế nào... thì ở họ vẫn luôn ánh lên một vẻ đẹp đáng trân trọng và cảm động. Ví

34

dụ trong tác phẩm “Chiếc vòng bạc hình đôi chim Noộc Phầy”, do hoàn cảnh

chiến tranh tàn khốc nên bao đôi lứa yêu nhau, chưa kịp cưới xin đã phải xa

nhau. Hoàn cảnh trớ trêu khi người con gái một mình sinh con, nuôi con, bên

nhà nội thì không chấp nhận con dâu và không nhận cháu. Người mẹ trẻ bị dân

làng cười chê, khinh rẻ. Người mẹ lúc này đã âm thầm chịu đựng, nén buồn

đau, dành tất cả tình yêu cho đứa con nhỏ. Chị cô đơn, trống vắng, oan ức mà

vẫn phải gánh vác mọi công việc của gia đình, của làng bản – nhưng vẫn không

được đối xử công bằng, vẫn bị khinh bỉ: “Tôi nhận ra sự thiếu vắng đàn ông

ngay trong ngôi nhà của mình. Cái “lìn” đựng nước bị vỡ một miếng vẫn phải

dùng vì không có ai thay, máng dẫn nước từ đầu nguồn về cây đỡ xiêu vẹo, tạm

bợ. Cái chuồng ngựa xộc xệch tưởng chừng như một cơn gió chạy qua là đổ ụp

xuống….Trong nhà đã khổ rồi, nhưng đối với người cùng họ hay người bản cái

khổ mế tôi cõng trên lưng dường như nặng gấp trăm gấp ngàn lần. Những lúc có

việc lớn họp họ, đàn bà con gái chỉ quanh quẩn lo bếp núc, bát đĩa, nước sôi, đàn

ông bảo sao nghe thế, không thuận tai, không ưng cái bụng cũng không được tham

gia. Tôi biết mế con tôi cái gì cũng phải chịu thua kém người trong họ, ngoài

bản…”[20,tr8]. Rồi chính những khó khăn chất chồng đè nặng trên đôi vai nhỏ bé

của người phụ nữ đã khiến họ trở nên khắc khổ, già nua đi nhanh chóng: “Trên

khuôn mặt kín vết nhăn, mái tóc nhuộm màu đá vỡ”, “Đẽo gọt, mài mòn mế tôi đến

nỗi còn ra bọc xương. Dấu vết khắc nghiệt của tuổi tác đè nặng lên người mế không

nấn ná, không buông tha” [20,tr15].

Bùi Thị Như Lan đã biến mỗi một câu chuyện thành một bức tranh phác

thảo chân dung về người phụ nữ với những hình hài và dáng dấp khác nhau.

Những bức tranh nhiều mầu sẫm, tối khiến người đọc luôn xúc động, thương

cảm: “Những ngày bố đi vắng cần cối gãy chỏng chơ nằm đấy. Mế không muốn

đi giã gạo nhờ, phiền lắm. Mế phải giã gạo bằng tay cả buổi mới được cối gạo.

Chị Ngải ăn cơm là nuốt cả vị mồ hôi mặn mòi của mế. Nhà vắng đàn ông khổ

thế, việc gì cũng đến tay mế”[20,tr110]…

35

Nhưng những người phụ nữ miền núi ấy không phải chỉ có những nỗi

đau, những mất mát về sự thiếu vắng người đàn ông trong gia đình, về sự nhọc

nhằn của những năm tháng vất vả mưu sinh, mà họ còn bị đầy đọa, bị trở thành

nạn nhân của những hủ tục lạc hậu, tàn nhẫn. Trong truyện “Truyện nhà Ké

Pản” người phụ nữ tên Hoa phải đi khỏi bản làng, bỏ chồng, bỏ con chạy trốn

bởi: “Và o năm ấy, đã sang thá ng tư mà không có mưa, ngườ i già , trẻ con ốm lay, ốm lắt. Trâu, bò , dê cứ lả đi rồ i chết khát. Thế rồ i xả y ra chá y rừ ng, chá y mất mấy ngà y, mấy đêm, khố i ngùn ngụt phủ kín trời. Già bản tập trung cá c cụ lại họp bà n lập đà n cú ng. Thầy mo cú ng hết đêm, đén sá ng bảo, cá c thần không nghe rồi! Trong bản có người không biết nói, không biết nghe tiếng của cá c dò ng họ, chỉ biết nó i tiếng lạ! Thần rừng, Thần nú i đò i phạt, mang người ấy đi tế thần. Người ấy là cái Hoa vợ Pản. Tục lê ̣ tế thần ở đây, ngoà i một trâu, ba bò là m lễ, người là m vật tế bi ̣ tró i lại, treo trên cột đá trên nú i Phja Khao. Có là m thế thì ngườ i bản mớ i thoát nạn khô hé o, cá c thần mớ i cho mưa, cho gió ”[20,tr47-48]. Những tập tục lạc hậu, những quan niệm và việc làm tàn nhẫn đầy tính mê tín, dị đoan của cộng đồng đã đẩy người phụ nữ vào cái chết, và

khiến cho bao gia đình ly tán, tan nát trong chốc lát. Bên cạnh đó còn có bao

nguyên nhân khác nữa đưa người phụ nữ vào cảnh khốn khổ như: lấy phải

người chồng ích kỉ, vô tâm, từ chối trách nhiệm làm cha khiến cho người vợ

một mình nuôi con... Nhưng có một điểm đáng quý là: hầu hết các nhân vật phụ

nữ miền núi trong tác phẩm của Bùi Thị Như Lan đều cố gắng vượt lên tất cả

những nỗi bất hạnh và bi kịch của cuộc đời mình, để vươn lên, để sống, để nuôi

con, để làm tròn bổn phận người mẹ, người con dâu trong gia đình. Vẻ đẹp tinh

thần của người phụ nữ được toát ra từ những việc làm ấy của họ.

Nhân vật Mai trong Tiếng chim kỉ giàng cũng đã lâm vào hoàn cảnh bi

đát khi người chồng của mình “đi tìm niềm vui mới”, ruồng rẫy mẹ con cô, để

mặc cô nuôi con trong vất vả, thiếu thốn; để mặc đứa con có cha mà không

được hưởng tình cha. Ta nhận thấy: đâu đó trong từng trang viết nhà văn Như

Lan cứ khắc khoải một nỗi đau, nỗi buồn, nỗi day dứt… khi viết về thân phận

36

người phụ nữ. Người phụ nữ, khi yêu (cũng như khi đã lập gia đình), ai cũng

khao khát có được cái gọi là “hạnh phúc”, là “đủ đầy” – có chồng, có con -

nhưng chẳng mấy khi họ được như ý. Trong tác phẩm chuyện nhà chị Ngai,

nhân vật Ngai bất hạnh khi đôi chân không như người bình thường, nên rất khó

khăn trong chuyện lấy chồng: “Ngai bi ̣ ông trờ i lấy đi một phần chiều dà i cá i chân. Vì thế mỗi bướ c chân đi của Ngai giố ng như ngườ i đi học chữ đặt bú t để dấu chấm dấu phẩy cạnh nhau. Ngườ i nú i coi trọng cá i chân lắ m. Chân khỏe mớ i leo nú i đi nương khỏe, là m được nhiều viê ̣c, chân yếu thì là m gì cũng khó . Tụi con trai không ai muốn hỏi Ngai là m vợ, chú ng nó bảo Ngai ngồi một chỗ thì đe ̣p như bông hoa đang thì khoe sắ c, cò n lú c Ngai đi giố ng như cá nh hoa đang tà n, chú ng nó chỉ đứ ng từ xa ngắ m, không muố n lấy là m vợ”[23,tr39-40]. Vì đôi chân không bình thường của Ngai nên dù khuôn mặt có đẹp như hoa

rừng thì cũng không có người đàn ông nào dám lấy Ngai làm vợ. Nhưng tới khi

có con thì chính người phụ nữ ấy đã dành hết tình cảm của mình cho đứa con:

“nhiều đêm chị băn khoăn, trăn trở không nhắm nổi cái mắt để ngủ vì lo nghĩ

thương con...chị tự an ủi mình như thế để gắng gượng nuôi con trưởng thành”

[23,tr36]. Chị luôn lo sợ khi đứa con biết sự thật về cha của nó, với trăm ngàn

câu hỏi: liệu người ta có đối xử tốt với nó hay không?, chính vì lẽ đó mà trái

tim của người mẹ đã thổn thức bồn chồn, lo lắng, đứng ngồi không yên khi

người con quyết tìm gặp người cha vô trách nhiệm kia.

Vẻ đẹp tinh thần của người phụ nữ miền núi còn được thể hiện ở lòng

thủy chung son sắt, ở tình cảm yêu bền, yêu chắc, yêu suốt đời “người thương”

của mình. Thật cảm động trước việc làm của người mẹ ấy – qua con mắt của

người con: “Biết mấy mù a ngô đến, mù a ngô tà n là ngần ấy mù a mế bẻ bắ p non, chờ đợi cha tôi trở về. Mà không hẳn là như thế, mế đã là m cá i viê ̣c bẻ bắ p non mấy chục năm rồ i. Cứ nhìn hai cá i thạ đựng đầy bắ p non hé o quắ t kia thì biết. Mỗi mù a bắ p mế lựa một cá i bắ p non trò n tri ̣a, hạt đều tăm tắ p, cho và o bếp nướ ng và ng, rồ i lặng lẽ đặt lên bà n thờ , quỳ ở đó rất lâu miê ̣ng lẩm bẩm như trò truyê ̣n. Cá i bắ p ngô để trên bà n thờ mãi đến mà u ngô non năm

37

sau khi trên mình nó phủ mầu xanh mế mớ i mang xuống, để và o chiếc thạ ở gó c bếp, rồ i bẻ bắ p non khá c để lên bà n thờ . Mù a bắ p nà y qua mù a bắ p khá c, đôi thạ đựng đầy bắ p non khô hú t hơi bồ hó ng đen ó ng như tó c ngườ i con gá i, cao dần lên…… ”[19,tr11]; và khi biết tin chồng vẫn cò n số ng: “ Mế đứ ng dậy từ lú c nà o, bỏ bắ p ngô nướ ng trên bà n thờ xuố ng, vớ i tay lấy cây đà n tính so dây” [19,tr17]…

Bên cạnh hình ảnh người con gái, người vợ miền núi, Bùi Thị Như Lan

còn đặc biệt quan tâm đến hình tượng người mẹ miền núi. Người mẹ ấy tảo tần,

nuôi con, nuôi cháu; người mẹ ấy lam lũ, nhọc nhằn gánh tất cả những lo toan

cơm áo trên đôi vai nhỏ của mình... Đó là hình ảnh Mế Ngần trong truyện

Trăng mọc trong thung lũng: “Ngày ngày dì ôm tôi đi khắp bản xin sữa các

bà, các mế nuôi con nhỏ. Nhưng các mế ít sữa lắm, cuộc sống lam lũ bán mặt

cho đất, bán lưng cho trời không đủ sữa nuôi con, còn đâu cho tôi? Dì ngần

nấu gạo chắt nước cơm đặc. Xuống hồ Nặm Poọc, lật hốc đá bắt cua giã quấy

bột cho tôi ăn. Ông trời không thương dì, làm tôi đau ốm luôn. Dì thức thâu

đêm, bồng tôi trên tay rong khắp nhà. Cái miệng tôi rỉ rả khóc….”[17,tr43].

Người mẹ ấy đã không quản khó khăn, gian khổ, đánh đổi cả tuổi trẻ của mình

để chăm sóc, nuôi dưỡng những đứa con (dù là con đẻ hay con chồng): “ Dì

đứng ôm tôi ngủ, ngồi ôm tôi ngủ. Mỗi khi tôi khóc ré lên, dì nhoáng nhoàng

giật mình mở đôi mắt đang trĩu lại vì thiếu ngủ, cái miệng à ơi ru hời. Nhiều

lần mệt quá dì áp tôi lên bụng, nằm dài bên bếp lửa, thở hổn hển, như tiếng gió

lùa qua vách phiên… Dì Ngần héo hắt để chị em tôi phổng phao, lớn lên trong

vòng tay yêu thương của dì”. Cuộc sống của Dì chẳng dễ dàng gì, khi trên vai

Dì còn hai đứa con nhỏ, đã vậy lại thiếu vắng đi bờ vai của người cha. Dì đã

đảm đương tất cả, gánh vác phần việc của người mẹ, và đảm đương nỗi lo của

người cha. Cuộc sống hàng ngày với bao vất vả nhọc nhằn, lam lũ, nghèo khổ.

Có bao nhiêu thứ ngon, miếng ngọt đều dành hết cho con, còn lại những nhọc

nhằn gian khổ Dì đều gánh trọn trên đôi vai của mình”. [17,tr43-44].

38

Tất cả những khó khăn, vất vả ấy có lẽ chỉ có người mẹ mới làm được

điều đó một cách tự nguyện. Người mẹ đã dành trọn cả cuộc đời, tuổi trẻ, tình

yêu để nuôi con khôn lớn. Để rồi qua thời gian, những vất vả thăng trầm, sự

nhọc nhằn sương gió đã hằn in lên khuôn mặt đầy khắc khổ của mế: “Mái tóc

đen dầy khi xưa, giờ bàng bạc trắng như bông hoa lau hòa quyện với sương mờ

bông bềnh. Lưng mế vồng lên vì tuổi tác. Trên cái lưng ấy, ngày nào tôi cũng

nằm trong địu ngủ ngon lành....Thế mà, dấu vết nghiệt ngã của thời gian đã

hằn cộm, khắc sâu lên người mế, không buông tha, không nương

nhẹ....”[17,tr50-51]. Sự gian nan, vất vả ấy lại đổ dồn lên đôi vai nhỏ của người

chị khi người mẹ bị bệnh nặng qua đời. Tuy còn nhỏ tuổi nhưng Ngải đã sớm

phải thay mẹ gánh vác gia đình, chăm lo cho em, dành tất cả sức lực và tình

yêu thương cho em. Có lẽ thấu hiểu được hoàn cảnh và trách nhiệm của mình

nên Ngải không oán trách số phận, hay gục ngã vì gánh nặng cuộc sống đang

hàng ngày đè nặng trên đôi vai nhỏ bé của cô. Mà Ngải hiểu hơn ai hết rằng

mình cần phải làm gì?, bởi thế mà: “Ngày nối ngày qua đi. Thấm thoát đã sáu

mùa mắc mật trôi qua, tôi phổng phao lớn bổng lên trong muôn nỗi vất vả

đắng cay của chị Ngải”, “Mỗi buổi tối, chị đơm đầy bát cơm to giục tôi: “Páo

à, em ăn cơm thôi chị còn tắm”. “Ăn xong tôi nằm lăn bên bếp lửa ấm áp,

ngủ một giấc, trẻ con là thế, dễ ăn, dễ ngủ. Bất chợt tiếng chuột cắn nhay

chí chóe trên mái làm tôi giật mình thức dậy. Chị tôi đang trệu trạo ăn sắn

với canh rau bò khai. Thì ra những tháng năm qua chị ăn ngô, ăn sắn, khi

đói, lúc no để chắt chiu dành phần cho tôi tất cả. Vì tôi, chị lặn lội âm thầm

nhường tất cả những tươi tắn cho tôi, nhận về mình sự héo úa…”[18,tr40-

41]. Từng trang, từng trang viết khiến cho chúng ta không khỏi chạnh lòng,

thương xót về số phận đầy bất hạnh của họ. Nhưng có một điều, dù cuộc

sống có khó khăn, vất vả nhưng chưa bao giờ họ than vãn, oán trách điều gì,

họ đã gắng vượt qua khó khăn, gian khổ để mà vươn lên, để nắm lấy hạnh

phúc dù là nhỏ nhoi của chính mình.

39

Trong mỗi một tác phẩm nhà văn đều cố gắng khắc họa hình ảnh người

phụ nữ với cuộc đời và số phận riêng, với những nỗi bất hạnh riêng và có

một cách xử lý riêng. Ví dụ như: Hoàn cảnh người phụ nữ không chồng mà

có con, hoặc do những tập tục cổ hủ mà họ rơi vào những hoàn cảnh đáng

thương. Những tác phẩm này khiến cho chúng ta phải xót xa, thương cảm

trước những nỗi đau của người phụ nữ. Mỗi một truyện là một mảnh đời

khác nhau, bất hạnh và đầy đau khổ, nhưng không phải vì những điều đó mà

khiến họ gục ngã. Càng khó khăn, càng cay đắng, cùng cực, họ càng cố gắng

vượt qua và vững vàng hơn. Họ vượt qua tất cả mọi cám dỗ, mọi tệ nạn, mọi

thử thách… để làm tròn bổn phận của người mẹ, người vợ... nơi mảnh đất

vùng cao đầy khó khăn này.

Cùng mạch cảm xúc đó, truyện Bố ở đâu cũng là một trong những tác

phẩm nói đến sự hi sinh, vất vả của người phụ nữ có chồng đi chiến trường. Chị

phải thay chồng nuôi hai con thơ dại trong điều kiện vô cùng gian khổ. Bom

đạn của chiến tranh càng làm người phụ nữ vất vả, khó khăn hơn. Hàng ngày

chị lao động cật lực để kiếm tiền nuôi hai đứa con nhỏ nhưng tối về thì ba mẹ

con lại quay quần bên hiên nhà, lật lại từng bức thư và mong ngóng tin chồng:

“Me ̣ quên cả bỏ nó n ra, ngồ i bê ̣t xuống bậc thềm bó c thư. Bà n tay me ̣ run run, giọng me ̣ cứ là lạ”[17,tr155]. Bởi quá vất vả, quá nhớ nhung nên khuôn mặt me ̣ gầy đi rất nhiều: “Lần trước mẹ và o thăm hai chi ̣ em, Loan chợt thấy trên má i tóc dài óng ả của me ̣ lố m đốm có sợi bạc. Gương mặt đẹp của me ̣ buồ n đến nao

lò ng”[17,tr161; và sức khỏe mẹ ngày càng cạn kiệt: “Mẹ nhợt nhạt, lảo đả o nằm úp ,ặt xuố ng gố i, bất động như sự sống không còn tồn tại trên cơ thể

nữa…..Mẹ ôm chặt hai chi ̣ em, gương mặt tá i xanh bợt bạt, ngườ i me ̣ chùng

xuố ng, héo hắ t như tàu lá khô, me ̣ đặt tờ giấy bá o tử lên bàn thờ , trong khó i

nhan trầm buồn giọng me ̣ lạc đi”[17,tr165]…

Qua những trang viết của nhà văn Như Lan, người đọc càng thêm yêu

mến, cảm thong, xa xót và xẻ chia với những nỗi vất vả, thiệt thòi của người

40

phụ nữ nói chung, người phụ nữ DTTS nói riêng – nhất là trong hoàn cảnh đất

nước có chiến tranh. Người phụ nữ luôn phải gồng mình lên, vừa làm mẹ, vừa

làm cha, vừa phải sống trong nỗi đợi chờ, nỗi khắc khoải lo âu… về người

chồng nơi chiến trận. Là một phụ nữ miền núi, là một nhà văn, một nhà báo

hoạt động trên vùng miền núi – cây bút Như Lan đã thấu hiểu và phản ánh một

cách vừa chân thành, vừa cảm động về hình tượng người phụ nữ miền núi. Đây

cũng là một đóng góp đáng ghi nhận ở chị.

2.1.2. Người phụ nữ DTTS trước khó khăn, thách thức của cuộc sống thời

kỳ hiện đại và hội nhập

Trong cuộc sống thời kì hiện đại, với bao điều kiện thuận lợi cùng

những thách thức, khắc nghiệt đối với người phụ nữ DTTS. Cũng như những

người phụ nữ Việt Nam khác, họ phải đương đầu với mọi khó khăn, thách thức,

mọi sự khắc nghiệt của xã hội với cơ chế thị trường hiện hữu trong cuộc sống.

Tác giả Bùi Thị Như Lan thấu hiểu điều đó, và chị đã hướng ngòi bút của mình

vào việc khắc họa hình tượng người phụ nữ DTTS trong thời kì hiện đại và hội

nhập với bao sự phức tạp, bao thách thức khó khăn đối với họ.

Đó là hình tượng người phụ nữ thời kỳ hiện đại với những bi kịch trong

cuộc sống nhưng luôn tự vượt mình với sức chịu đựng và sự vươn lên mạnh

mẽ. Chúng ta có thể thấy trong tác phẩm Hoa Mía - là truyện ngắn viết về

những mối quan hệ gia đình ở một vùng dân tộc ít người. Hoa Mía có cốt

truyện khá đơn giản, nhân vật luôn có sự dằn vặt, giằng xé trong tâm hồn với

bao sự phức tạp, sự bất ngờ trong cuộc sống hôm nay. Câu chuyện xảy ra tại

một vùng dân cư ở thung lũng Nặm Thàng, canh tác chủ yếu là trồng mía. Seo

Mây (chị gái) đã có chồng là Sùng Chứ; Seo Mỷ (em gái) là một người từ nhỏ

đã bị tật nguyền. Cả ba người chung sống trong một mái nhà; thời chống Mỹ,

Sùng Chứ đi bộ đội, đến tận ngày phục viên anh mới cùng Seo Mây sinh đứa

con trai đầu lòng là Sùng Choóng. Lúc này Seo Mỷ đã bước vào tuổi dậy thì,

lớn vổng lên. Tuy kẻ xấu trong bản gọi cô là “Mỷ gù” nhưng bù lại, cô có

41

“khuôn mặt rực rỡ”, cô chính là “bông hoa dại bị bỏ quên trong lũng núi”.

Cũng giống như bao cô gái khác, Seo Mỷ đầy khao khát yêu thương, nhưng trớ

trêu thay Seo Mỷ lại phải lòng chính người anh rể, mối tình đơn phương ấy cứ

quằn quại, quẫy đạp trong lòng Seo Mỷ không yên. Cô hết mực yêu thương anh

chị, nhưng cũng ghen thầm với chị gái. Sùng Chứ là một người chồng, một

người anh rể tốt nhưng cũng khó “nín lòng” trước “tấm thân trinh nữ rạo rực”

của cô em vợ. Thế rồi một lần, anh và Seo Mỷ đã mắc tội với Seo Mây. Thật éo

le, cảnh tượng ấy lại vô tình diễn ra trước mắt Seo Mây. Những dằn vặt, khổ

đau, ân hận từ nhiều phía đã bao phủ lên mái nhà vốn yên tĩnh. Rồi, do quá sức

chịu đựng, Seo Mây đã chạy ào vào khe núi và không may bị rắn đá chúa cắn

chết. Trước khi tắt thở, cô trăng trối với chồng hãy gắng nuôi con và phải đối

xử tốt với Seo Mỷ. Seo Mỷ vì quá thương chị và quá ăn năn với nỗi lầm đã bỏ

nhà đi biệt. Hơn chục năm trôi qua Sùng Chứ sống trong cô đơn và sám hối.

Ông không dám và cũng không muốn đi tìm Seo Mỷ. Ngôi nhà chìm trong nỗi

buồn u uẩn, không lối thoát. Sùng Choóng lớn dần hơn, trở thành một thanh

niên trai tráng, đang chờ ngày nhập ngũ. Anh bảo với bố phải đi tìm dì Seo Mỷ

về sống ở ngôi nhà này mới hợp lẽ đời. Câu nói của Sùng Choóng như đánh

thức trái tim đang ngủ yên của người cha. Sùng Chứ giật mình hiểu ra, ông dự

định một ngày đi tìm Seo Mỷ. Ngày giỗ chị, Seo Mỷ vẫn lén trở về vườn mía

của nhà để thắt dây đeo tang cho mía theo tục lệ của bản. Câu chuyện được

khép lại bằng cảnh một đôi chim sẻ ríu ran trong vườn mía…..

Cuộc sống hòa bình đang trên đà hiện đại hóa, nhưng khi trở về làng bản,

quê hương, người phụ nữ vẫn phải đối diện với bao khó khăn, thách thức. Ví dụ

như nhân vật Thảo, sau khi ra trường, cô xung phong lên miền núi công tác,

nhận điểm trường ở Pù Lay để dạy tụi trẻ, tuy nhiên điều kiện vật chất nơi đây

còn quá nghèo nàn và thô sơ, khiến một cô gái trẻ như Thảo cảm thấy khó khăn:

“Hôm sau, Thảo lên lớp, nhìn ba bề bốn bên bủa vây bằng núi, ngôi trường

trống trải, mỗi lần gió thổi lên cột kèo kêu răng rắc như sắp đổ ụp xuống, bàn

42

ghế ghép bằng ván tạm bợ. Tụi trẻ đi học chưa ngồi nóng chỗ đã nhấp nhổm

đòi về theo mẹ lên nương, chăn bò chăn dê. Những điều ấy làm Thảo bật khóc

tức tưởi như đứa trẻ …”[19,tr96]. Tuy nhiên đó chỉ là cái cảm giác ban đầu khi

cô bắt đầu với công việc, người già trong làng đã khuyên cô: “ Rồi mọi chuyện

cũng đâu vào đấy. Tụi trẻ chăm học không đòi về nữa. Chúng nó nói với nhau

cố học cái chữ để giữ cô giáo ở lại Pù Lay”. Để rồi khi dần quen với công việc

cũng là lúc cô nảy nở tình yêu với Pàng - người lính trở về sau chiến tranh ấy

đã phải lòng cô giáo bản có khuôn mặt “trái xoan với đôi mắt đen tròn ngơ

ngác bước ra từ thế giới cổ tích”. Họ đến với nhau bằng một đám cưới của tất

cả niềm vui của dân làng “Thầy cô giáo trong vùng đến đông lắm. Cả xã Pù

Lay góp gạo, góp rượu, mang gà đến chia vui suốt hai ngày, một đêm. Vui quá

đi thôi...”[19,tr96-97]

Nếu cuộc sống của Thảo cứ êm đềm như thế thì không có gì đáng nói

nhưng trớ trêu thay khi chiến tranh xa rồi nó vẫn để lại di chứng trên cơ thể

chồng cô. Pàng nhiễm thứ bột độc của giặc rải xuống khiến anh không thể có

con. Anh biết điều đó và cảm thấy thương Thảo vô cùng, anh biết chứ, người

phụ nữ nào trong cuộc đời khi lấy chồng cũng đều muốn sinh con bế bồng nâng

niu, nhưng chính anh lại khiến cái khát khao thuần túy của người phụ nữ như

Thảo không thành hiện thực. Thảo vẫn bên cạnh anh, hai người vẫn sống với

nhau rất hạnh phúc và chờ đợi những đứa con. Sự chờ đợi của Thảo khiến Pàng

xót xa : “Vợ anh từ cô gái đẹp, giờ héo như dọc dưa phơi nắng. Pàng xót xa

lắm. Càng nghĩ càng lo, càng thương Thảo. Nhìn Thảo lay lắt như cái bóng

anh không chịu nổi. Mấy lần sinh nở không nghe được tiếng trẻ bi bô gọi bố mẹ,

Thảo nghĩ nhiều, buồn tủi sinh bệnh thôi. Trong bụng không vui, ăn thứ gì cũng

thấy nhạt, miệng đắng ngắt đến ứ lại rồi trôi không được”[19,tr97]. Dù không

bị thương nơi chiến trường, nhưng hậu quả của chiến tranh để lại còn đau xót

hơn gấp bội. Có người phụ nữ nào mà không mong mỏi có con? Có người phụ

nữ nào mà không chờ đợi đứa con đến với mình dù biết điều đó là không thể?.

43

Vợ chồng Thảo vẫn cố chờ đợi, chờ đợi hết năm này qua năm khác, đến độ héo

hon cả người.

Ở một tác phẩm khác chúng ta thấy người phụ nữ ở vào thời bình cũng

không có được hạnh phúc trọn vẹn, vì thiếu vắng đi người chồng, người cha

trong gia đình. Hàng ngày chăm sóc con, kể chuyện cho con ngủ, nhưng lúc

nào cũng vậy cứ kể chuyện xong thì đứa nào cũng rơm rớm nước mắt hỏi mẹ

về bố: “- Mẹ ơi, bố đâu?”[19,tr64]. Chỉ một câu hỏi thôi cũng như cứa sâu vào

lòng người phụ nữ có chồng hi sinh nơi chiến trận, nỗi đau mất mát vẫn chưa

thể nào nguôi ngoai khi hàng ngày vẫn gián tiếp đảo lộn cuộc sống của mẹ con

chị . Người mẹ sau những phút ngỡ ngàng, đã tĩnh tâm, bế con đến bên khung

ảnh của bố mà nói với con: “- con chào bố đi, bố đấy, bố đang cười với con

mà”[19,tr64]; đứa trẻ vẫn không chịu và vẫn khóc “- Ứ phải bố, bố phải nói

cơ”[19,tr65]. Chỉ vài chi tiết nhỏ vậy thôi, nhưng cũng làm cho mỗi người

chúng ta lặng đi vì xúc động. Sự ngây thơ của con trẻ vô tình làm đau lòng

người lớn, tuy nhiên chẳng ai trách cứ được sự ngây thơ của con trẻ; vì sự ngây

thơ ấy được xuất phát từ tình yêu, sự nhớ thương mỏi mòn của tình phụ tử.

Viết về tình mẫu tử, nhưng ở một tác phẩm khác, Bùi Thị Như Lan lại

đem đến cho mỗi người chúng ta những cảm xúc riêng, về người mẹ Sang - Mế.

Mế Sang và bố Sang lấy nhau, nhưng do tục lệ của làng nên hai người chưa

được ở cùng nhau: “ Phong tục ở vùng này, con gái lấy chồng, vẫn ở lại nhà

mình, lúc có con trai mới làm lễ rước con dâu và cháu nội. Chú rể sau lễ cưới

phải về nhà mình, đến rằm tháng bẩy, đốt mã trước cửa mả tổ tiên, ông bà và

tết cổ truyền đón xuân thì sang nhà gái, ở với vợ vài ngày, cứ thế cho đến lúc

có con, vợ chồng mới được sống cùng nhau”[19,tr21]; nhưng đến ngày bố Sang

phải đi bộ đội, mà hai người vẫn chưa kịp gần nhau, bố Sang đành liều: “Cha

ghì chặt mế trong đam mê, khao khát, bừng bừng bốc lửa, hiến dâng trọn

vẹn...Mế thiếp đi trong vòng tay yêu thương của cha, đến lúc cái mắt mở được

ra thì trời sáng tự bao giờ, cha đi không đánh thức mế, cha sợ mế không đủ

44

nước mắt để chia tay người ra trận...[19,tr22]. Thế rồi mọi chuyện đau khổ bắt

đầu từ đây, cái bụng Mế to dần, người trong bản thì buông những lời cay độc to

nhỏ, chê bai, khinh miệt, nhưng cô gái vẫn mạnh mẽ, đứng vững vàng một

mình nuôi con, đợi ngày chồng trở về. Nhưng số phận lại không cho Mế cái

hạnh phúc của ngày đoàn tụ, khi nghe tin chồng hi sinh nơi chiến trường, Mế

đã nén nỗi đau để nuôi đứa con trưởng thành, nên người.

Tác giả như đang nhỏ từng giọt nước mắt, nén từng nỗi đau, ghìm chặt

lòng mình khi viết về số phận người phụ nữ ấy. Có những câu chuyện nhà văn

viết, khiến người đọc như nghẹt thở vì xúc động, đó là câu chuyện của Mây.

Mây có con với Dầm nhưng bố mẹ Dầm lại không nhận con dâu và cháu. Mây

phải chịu bao điều tai tiếng nhưng vẫn làm mọi cách để bảo vệ đứa con của

mình: “Nhiều hôm có việc phải đi ra ngoài, đôi mắt đen tròn có hàng mi dày

ngợp của tôi thường dán xuống vạt cỏ mày mạy ở mép đường để tránh cái nhìn

của người bản. Mường trên, mường dưới, bản cao, bản thấp, mỗi khi có đám

vui, đám buồn, mẹ con tôi có đến cũng chỉ dám đứng dưới gầm sàn, hay dưới

chân thôi. Tôi không muốn thằng Sáng phải nghe những lời nói có gai mọc, tôi

sợ con phải nhìn, phải chịu trăm ngàn ánh mắt lạnh lùng, giễu cợt và xoi

mói...”[19,tr31]. Mây không quan tâm tới những lời cay độc khi nói về mình,

mà chỉ lo lắng cho con, sợ con nghe được những lời cay độc đó, sẽ bị tổn

thương. Điều đó xuất phát từ tình mẫu tử thiêng liêng, vì thế Mây đã gạt bỏ

những lời đàm tiếu, gạt bỏ những ánh mắt sắc lạnh của dân làng khi nhìn mẹ

con Mây, để chăm lo cho con lớn khôn, trưởng thành. Chỉ có điều, đôi lần Mây

vẫn nghĩ, đứa trẻ có tội tình gì đâu, nó chính là giọt máu của Dầm, là cháu của

họ Hoàng, tại sao họ lại không nhận cháu?. Nghĩ vậy Mây thấy thương con hơn

hết, con có cha mà vẫn phải mang họ ngoại. Đời thật bất công và trớ trêu với

mẹ con Mây. Trái tim người phụ nữ càng xót xa hơn khi chính mẹ Dầm lại là

người nói với Mây những lời cay độc: “ Mây à, mày mang lửa độc về đốt nhà

tao đấy ư? Thằng Dầm nó đi xa lâu rồi, nó có ở nhà đâu mà đổ vạ cho nó?

45

Thôi! Khác làm khắc chịu, đừng mang tai vạ đến nhà tao”[19,tr32]. Mẹ Dầm

còn nghĩ như thế thì thử hỏi dân làng bản xóm trách sao họ được đây?; cuộc

sống vất vả cứ thế trôi đi nhưng bản năng làm mẹ đã khiến cô trở nên mạnh mẽ

hơn bao giờ hết. Có thể đứng vững vượt qua mọi định kiến, dư luận là nhờ mẹ

cô rất nhiều; chính bà đã ở bên, động viên và chưa một lời trách móc; bởi bà

hiểu hơn ai hết nỗi khổ trong lòng của Mây: “Ngày ấy , người tôi gầy rộc đi và

xanh mướt. Nếu tôi không có mẹ chắc hẳn tôi đã ngã ngục vì đau khổ và tuyệt

vọng. Mẹ tôi không một lời trách mắng tôi, tấm lòng bao dung độ lượng từng

nếm trải mất mát của mẹ đã truyền cho tôi sinh khí, sức lực để tôi trụ vững

trước cuộc đời nghiệt ngã. Mẹ bảo tôi đừng có mà ủ ê buồn khổ, phải cố mà ăn

để đứa bé trong bụng nó khỏe, nó lớn lên mạnh mẽ như cây mọc trên đá, chờ

ngày bố nó trở về...”[19,tr33].

Có thể nói đây chính là những cuộc tình đầy trái ngang và éo le, mà

nguyên nhân của sự éo le ấy chủ yếu là do chiến tranh, khi người con trai, con

gái yêu nhau mà chưa kịp lấy nhau thì phải ra chiến trường đánh giặc. Khi trở

về thì - họ hoặc trở thành thương binh hoặc vợ đã đi lấy chồng khác; hoặc

người yêu đã bỏ đi nơi khác. Người phụ nữ đau đớn chờ đợi, rồi lại đau đớn,

buồn tủi khi không thể làm mẹ vì di chứng chiến tranh từ phía người chồng.

Còn có những câu chuyện chỉ vì phong tục tập quán, hủ tục lạc hậu, dẫn đến

việc người vợ của ké Pản(chuyện nhà ké Pản) bỗng trở thành nạn nhân, làm

vật tế thần, dẫn đến gia đình ly tán: “Người bản ùn ùn đến nhà Pản lôi Hoa đi.

Pản cắn môi bật máu vật vã gào lên “Phạ ơi” rồi ngất lịm. Thằng Mảy khóc

ngằn ngặt trên tay chị dâu, nó luôn mồm gọi “mế ơi”....Khó nhọc lắm mới leo

tới nơi Hoa bị trói. Cô kiệt sức lả đi trong vòng tay Pản. Anh Páy lấy mật ong

trong ống bắng rót vào miệng Hoa, cô tỉnh dần rồi khóc nức nở. Pản ấn vào

tay Hoa gói cơm “lèng” và ít tiền nói khó nhọc:

- Hoa à, em còn thương anh, thương con thì về xuôi ngay đi, đừng để

người bản nhìn thấy.

46

Anh Páy ngậm ngùi:

- Cô Hoa à, nghe lời chú Pản mà đi đi!, già làng mà biết cứu cô thì cả

nhà tôi bị tội chết đấy. Thằng Mảy nó phải được làm người...”[19,tr147-148].

Người phụ nữ trong sáng tác của Bùi Thị Như Lan luôn có những vẻ đẹp

tinh thần cao quý của những người phụ nữ DTTS, rất đáng trân trọng, tự hào,

nhưng đôi khi họ cũng rất đáng thương, bởi họ phải chịu nhiều thiệt thòi trong

đời sống tình cảm, nhất là trong tình yêu, trong cuộc sống gia đình; bởi họ đôi

khi quá nhẫn nhịn, quá hi sinh vì những người thân yêu của mình, nên có lúc bị

lợi dụng, bị ruồng rẫy, coi thường từ phía chính những người thân yêu của họ

(như người chồng bạc tình, như người con bạc nghĩa). Đây cũng là một hiện

thực đáng suy nghĩ về thân phận của người phụ nữ miền núi trong cuộc sống

hôm nay.

Bùi Thị Như Lan hiểu và cảm thông sâu sắc từng hoàn cảnh của người

phụ nữ miền núi, nên chị đã rất tâm huyết khi xây dựng về hình tượng người

phụ nữ DTTS trong các tác phẩm của mình - với cả nét đẹp, sự trân trọng tự

hào, nhưng cũng đầy sự trăn trở, sự cảm thương đối với nhiều số phận bất hạnh

của người phụ nữ miền núi.

Chính vì thế mà những sáng tác của nhà văn Bùi Thị Như Lan có sức hấp

dẫn riêng, bởi chị đã xây dựng được hình tượng người phụ nữ DTTS thời kỳ

hiện đại không đơn giản một chiều, vừa có tính truyền thống, vừa có tính hiện

đại, các nhân vật có cá tính, có đời sống nội tâm phong phú phức tạp, phản ánh

chân thật hình tượng người phụ nữ DTTS của ngày hôm nay với những số phận

khác nhau trong cuộc sống đa dạng, phức tạp của thời kì mới của đất nước.

2.2. Hình tượng người lính miền núi - nét riêng trong sáng tác của Bùi Thị

Như Lan

Bên cạnh hình tượng nhân vật phụ nữ, trong các sáng tác của Bùi Thị

Như Lan còn nổi bật lên hình tượng người lính miền núi. Bởi có lẽ Bùi Thị

47

Như Lan là một nữ quân nhân nên chị tỏ ra rất thành thạo khi viết về đối tượng

“thẩm mỹ” này.

Người lính miền núi trong quân ngũ là mảng đề tài mang nét riêng của nhà

văn Bùi Thị Như Lan. Đây cũng là một hình tượng nhân vật được khắc họa

thành công với sự am hiểu sâu sắc và tâm huyết của chị. Người lính trong sáng

tác của Bùi Thị Như Lan – trước hết đó là những thanh niên miền núi khỏe mạnh,

hồn nhiên, trong sáng, thật thà, đầy năng lượng sống, năng lượng yêu và có tinh

thần yêu nước sâu sắc; là những người chiến sỹ đã trải qua những cuộc chiến đấu

đầy gian khổ, hy sinh, trở về quê hương miền núi với một môi trường mới –

người lính trong cuộc sống đời thường.

2.2.1.Những người lính miền núi trong quân ngũ

Cũng như khi viết về hình tượng người phụ nữ miền núi, Bùi Thị Như

Lan có một tình cảm đặc biệt đối với hình tượng người lính miền núi. Trong

khá nhiều truyện ngắn của chị đã xuất hiện hình tượng người lính DTTS. Bởi

vốn là một cô gái dân tộc Tày lại là một quân nhân nên chị rất am hiểu về con

người, tinh thần và bản chất của người lính DTTS vùng Đông Bắc của Tổ quốc.

Họ - những người lính, là con em các DTTS, là những người thanh niên

khỏe mạnh, rất “thô sơ”, mộc mạc, rất hồn nhiên, trong sáng, thật thà. Một đặc

điểm chung nổi bật ở họ là: Tràn đầy năng lượng sống, năng lượng yêu, họ rất

giàu tình cảm và có tinh thần yêu quê hương, làng bản, yêu nước sâu sắc.

Chính vì vậy trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược, họ đã hăng hái lên

đường đánh giặc.

Hình ảnh thanh niên tên Chứ trong tác phẩm Phố trên đá là chàng thanh

niên: “giống cha đến nết ăn, nết ở... Chứ là thằng con ngoan, học xong đại học,

nó xung phong đi nhập ngũ. Nó muốn trở thành người lính như bố

nó..”[19,tr51]. Chàng trai trẻ đôi khi còn trầm ngâm suy ngẫm về cuộc đời:

“Chứ nén tiếng thở dài, ngước lên tượng đài người chiến sĩ. Chứ thấy anh chợt

mỉm cười như an ủi, động viên Chứ, hãy can đảm lên, cố gắng lên rồi mọi việc

48

sẽ qua ngay thôi”[19,tr48]. Chàng trai mang nỗi đau về người cha mãi mãi

không trở về ở nơi nào đó trong rừng U Minh xa xôi, đang háo hức lên đường

nhập ngũ để bước tiếp lòng dũng cảm của người cha: “Mẹ Chứ bảo cha chứ là

người khéo tay nhất vùng... Đó là, hình những chàng trai mặc áo tà pủ, những

cô gái váy xòe, gò lưng lăn đá chặn đứng giặc Tây càn vào khu căn cứ địa cách

mạng...”[19,tr47].

Tiếp bước chân của cha anh, những chàng trai trẻ cứ lần lượt lên đường

đi nhập ngũ như Pàng trong tác phẩm Gió hoang: “Năm Pàng mười sáu tuổi,

anh cứa ngón tay lấy máu viết đơn xung phong đi bộ đội. Anh đi một lèo, vượt

qua không biết bao nhiêu cánh rừng, quả núi vào tít trong Miền Nam đánh giặc.

Từ ngày đi không có thư từ, tin tức về...”[19,tr94]. Chàng trai trẻ ấp ủ trong

mình một tình yêu lớn về quê hương, đất nước nên khiến anh dù chưa đủ tuổi,

dù là con trai duy nhất trong gia đình (lẽ ra không phải nhập ngũ) nhưng vẫn

xung phong lên đường. Và đáng quí là chính những người cha, người mẹ miền

núi đã động viên, khuyến khích những đứa con của mình viết đơn nhập ngũ,

tham gia chiến trận.

Hay như trong tác phẩm Bộ ba xe pháo mã, ba chàng trai chỉ mới học

xong lớp 12, thi trượt đại học nhưng bố mẹ đã không những trách mắng mà còn

động viên họ đi bộ đội: “bà này, theo tôi để thằng Lâm đi bộ đội, rèn cho khỏe

người, chuyện học hành giác lại....Ông nói phải, ngày trước bằng tuổi nó tôi

với ông đều cầm súng...”[17,tr83]. Chàng thanh niên đó bỏ lại sau lưng ước mơ

còn dang dở, bỏ lại sau lưng quãng thời gian tươi đẹp nhất của tuổi trẻ, đã háo

hức cùng bạn bè nhập ngũ: “Ngày tôi nhập ngũ, dưới làn mưa bụi bay nhè nhẹ,

bố nhìn sâu vào ánh mắt buồn của tôi dặn: phải xứng đáng con nhà lính đấy”

[17,tr84].

Hay như chàng thanh niên A Phàng vừa mới cưới vợ chưa được bao lâu,

đứa con vẫn trong bụng chưa được nhìn thấy mặt cha thì anh đã đi bộ đội: “Anh

A Phàng à!, chúng mình ăn ở với nhau mới được bảy mùa lúa. Bé A Phin còn

dại, đứa con nữa trong bụng còn chưa nhìn anh. Bây giờ anh đi xa trăm ngày

49

đường, trăm quả núi...Không biết bao giờ về?...”[17,tr116]. Cuộc chiến đấu của

dân tộc cần đến những người lính, chính vì thế họ phải để lại sau lưng sự

thương nhớ cùng nước mắt của người thương: “Khi xa nhau nước mắt không

thêm sức, nó làm chồn chân anh xuống núi, chỉ làm bụng anh đau như có dao

cắt” [17,tr116]. Họ bỏ lại đằng sau gia đình nhỏ, với quyết tâm dứt áo ra đi làm

nhiệm vụ thiêng liêng, nhưng ẩn sâu trong họ vẫn là những người giàu tình cảm:

“nhìn sâu vào đáy mắt bố, tôi thấy có ngấn nước. Bố tôi thở dài, nặng trĩu như

đá núi, đứng dậy, cầm tay bà nội, tay mẹ đặt vào tay tôi....trên tay tôi bỗng có

giọt nước bỏng rát”[17,tr117]. Người lính ấy rất yêu thương vợ con, yêu gia

đình hết mực, nhưng họ ý thức được trách nhiệm của một người đàn ông, một

công dân yêu nước nên họ đã xung phong đi bộ đội, để lại bao tình cảm nhớ

thương, lưu luyến cho vợ con, cho gia đình.

Chàng trai đó là Sùng – anh đi bộ đội cũng ở hoàn cảnh đầy éo le, vợ

chồng ăn ở với nhau chưa đầy một vụ mía, vợ Sùng còn chưa có bầu thì anh đã

lên đường đi nhập ngũ. Chiến đấu biền biệt hơn chục năm mới có dịp về thăm

gia đình, hôm ấy: “ Trúng vụ thu mía về kéo mật. Ông mặc nguyên quân phục

bê bết bụi đường ôm chầm lấy Seo Mây, lăn tròn giữa những rãnh mía rập rạp.

Khắp người ông đến giờ vẫn như đang có vô vàn lông tơ rặm rặm của bẹ mía

đâm vào....”[,tr74]. Khoác trên mình chiếc áo quân phục, cầm súng đánh giặc

biền biệt hơn chục năm mới trở về, gặp lại người thân, gia đình, anh vẫn bồi hồi

nhớ lại khoảng khắc chiến trận không thể nào quên, với những vết thương chìm

sâu trên da thịt: “Cái lần ông bị thương nằm mê man bất tỉnh, lúc bay giữa

dòng sao đêm nhấp nháy trên dương thế, lúc lang thang bên bờ cái chết cận kề.

Đấy là lúc hồn ông đi mây về gió. Ông đã tới mép sông Mê Giang nước trong

leo lẻo, lạnh giá thăm thẳm...”[19,tr74]

Vẫn là cuộc chia tay đầy éo le như thế khi cha của Sang (trong tác phẩm

Chiếc vòng bạc hình đôi chim nọôc phầy) lên đường nhập ngũ. Khi ấy cha

chưa trở thành vợ chồng với mế Sang: “em à, mai anh đi bộ đội rồi” [19,tr22],

50

để lại đằng sau lời hẹn ước với người yêu: “Bao giờ hết lũ giặc anh về với em”

[19,tr22].

Hay cuộc chia tay đầy vội vã mà vẫn nhớ ghi lời căn dặn của người mẹ

thân yêu trong tác phẩm Trăng mọc trong thung lũng. “Ngày tiễn tôi xuống

núi đi bộ đội, cũng ở cái dốc này, mế dặn:

- Mày đi để biết con suối chảy về đâu, nhưng cái chân phải biết đi chắc,

đứng thẳng, cái bụng phải nhớ Nặm Poọc.

Tôi dạ vâng rồi đi. Cái chân đi xa mãi, mỗi năm tôi đảo qua nhà bằng

những ngày nghỉ ngắn, vội vã...”[17,tr39-40].

Cha đi bộ đội, những đứa trẻ thật ngây thơ khi nhắc về bố, chúng còn

quá nhỏ để hiểu chiến tranh là gì?, bọn giặc là ai?; để người lớn càng nhớ

thương khi nhắc về những người chồng, người cha nơi chiến trường xa thẳm:

“- Mế à, pò con đâu?

Sau một thoáng ngỡ ngàng, mế Ngần vỗ về:

- Pò đi bộ đội đuổi thằng giặc rồi.

- Thằng giặc là cái gì? - Tôi ôm cổ mế hỏi tiếp.

Mế Ngần nói giọng đanh lại:

- Thằng giặc giống như con thú ác trên rừng đến cướp đất nước

mình”[17,tr48]

Đề tài quen thuộc, nhưng dưới ngòi bút của tác giả chúng ta như đến với

một thế giới riêng với những câu chuyện riêng của nó; những câu chuyện mà

người lính là tâm điểm, với sự gan dạ, dũng cảm, xung phong tòng quân giết

giặc. Họ xứng đáng là những người con của núi rừng, là những chàng trai dũng

cảm của bản mường. Vẻ đẹp của người lính DTTS được tác giả Bùi Thị Như

Lan khắc họa thật cụ thể, sống động và chân thật.

Trong chiến đấu, người lính đã vượt qua bao gian khổ, bao thách thức;

họ đã chiến đấu dũng cảm và có những người đã anh dũng hi sinh; có những

người đã để lại một phần cơ thể, một phần máu thịt ở chiến trường ác liệt: “cho

51

đến một ngày bố tôi không bao giờ trở về với chị em tôi được nữa. Hôm nhận

giấy báo tử bố tôi, người trong bản đổ về nhà tôi. Trời đất quay cuồng vật

vã...”[17,tr74]…

Khi miêu tả những người lính trong quân ngũ, Bùi Thị Như Lan đã khắc

họa rất chân thật, sống động và vô cùng đáng yêu, đáng quý, đáng tự hào. Bởi

tác giả là một cây bút quân đội dân tộc thiểu số, khoác trên mình bộ quân phục

màu xanh người lính cho nên từng trang viết của chị về người lính miền núi rất

sống động và mang nhiều tình cảm, cảm xúc.

2.2.2. Người lính miền núi trong cuộc sống đời thường

Sau chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, những người lính miền núi lại trở về với

làng bản, quê hương của mình. Sau những ngày tháng chiến đấu anh dũng, vượt

qua những gian lao, thử thách, hy sinh để góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại,

giải phóng miền Nam thống nhất non sông, đem lại hòa bình trên cả nước -

những người lính lúc này trở về với cuộc sống đời thường ở quê hương miền

núi, với bao người thân yêu của mình đang ngày đêm chờ đợi.

Trong những tác phẩm của mình, nhà văn Bùi Thị Như Lan đã dành

nhiều trang viết của mình để nói về những hình ảnh người lính sau chiến tranh.

Đó là những người lính trở về quê hương, bước vào cuộc sống đời thường

nhưng không phải chỉ có ánh hào quang của người chiến thắng, mà còn có biết

bao vết thương trên da thịt và trong cả tâm hồn của mình. Trong tác phẩm

Trăng mọc trong thung lũng, hình ảnh người lính trở về với bao vết thương-

dấu vết của các cuộc chiến đấu đầy hi sinh: “Bố cởi phăng chiếc áo quân phục.

Trời! trên hai cánh tay bố, sưng to như bắp chuối sưng to như bắp chuối rừng.

Ở ngực nổi lên từng cục, từng cục. Nước vàng đang rỉ ra…”, hay “Những cơn

đau nhức nhối hành hạ bố tôi, không lá thuốc nào trong rừng, trên núi chữa

lành….cơn đau lien tục, dữ dội làm bố phải cắn chặt răng, người vồng lên, mồ

hôi túa ra trên gương mặt bợt nhạt….”[17,tr54]. Những người lính trở về với

quê hương với những tấm thân không lành lặn, họ bị thương, có thể bị mất tay,

52

mất chân, hoặc có thể mất đi một phần của cơ thể của mình. Trong tác phẩm

Chuyện nhà ké Pản - anh bộ đội Pản trở về với bao vết thương nặng nề: “Pản

trở về Khuôn Đảy sau giải phóng miền nam. Hết thằng giặc rồi nhưng Pản bị

thương nặng đấy. Khi quân ta tiến vào giải phóng thành phố Đà Nẵng, mảnh

đạn của giặc làm Pản mất một cánh tay, cái bàn chân và vài rảnh xương sườn

ọp ẹp phải bó đi, bó lại mãi mới chịu yên. Sau khi điều trị tại Quân y viện, Pản

không ở lại trại thương binh mà xin trở về quê…”[19,tr132]. Nhưng với những

người lính, dù bị mất mát đau đớn về thể xác, nhưng quê hương, làng bản luôn

là nơi để trái tim họ hướng tới và khao khát trở về.

Trong tác phẩm Bố ơi, nhân vật anh bộ đội Tâm trở về sau chiến tranh

cũng như vậy: “chú Tâm là thương binh, chú bị thương ở mặt trận Trị Thiên.

Chú sống một mình lẻ loi cô đơn...”[19,tr66], do bị thương ở chân nên việc đi lại là

rất khó khăn, hơn thế nữa chú lại bị nhiễm “Chất độc da cam”, cho nên vào những

ngày trái gió trở trời, chú lại bị những cơn đau dày vò khủng khiếp: “Ba tháng sau,

chú bị ốm nặng, người chú phình to ra, tóc rụng hết”[19,tr69].

Nhưng không chỉ có thế, họ còn là những người khi trở về nhà lại phải

đối diện với nỗi đau đớn, nỗi bất hạnh riêng, đó là những bi kịch, những hoàn

cảnh trớ trêu trong đời sống tình cảm, tinh thần. Họ không có được hạnh phúc

trọn vẹn vì bị mất đi khả năng làm cha, hoặc họ đã sinh ra những đứa con

không lành lặn vì bị ảnh hưởng của chiến tranh: “Pàng khẽ thở dài. Mới đây mà

vợ chồng Pàng đã ăn ở với nhau sáu năm rồi. Vợ anh từ cô gái đẹp, giờ héo

như dưa phơi nắng. Pàng xót xa lắm. Càng nghĩ càng lo, càng thương Thảo.

Nhìn Thảo lay lắt giống cái bóng anh không chịu nổi. Mấy lần sinh nở không

nghe được tiếng bi bô gọi bố mẹ, Thảo nghĩ nhiều, buồn tủi sinh bệnh thôi.

Trong bụng không vui, ăn thứ gì cũng thất nhạt, miệng đắng ngắt đến cổ ứ lại

rồi trôi không được” [19,tr97].

“Khổ thế! Pàng biết chuyện con không thành người là tại anh nhiễm thứ

bột độc của giặc rải xuống Trường Sơn năm nào…Vết thương tích của chiến

53

tranh ngấm và o cơ thể, đeo bá m dai dẳng hại cả đờ i con anh” [19,tr97]. Con cái luôn là niềm ao ước của cha mẹ, ấy vậy mà những người lính trở về lại bị

mất đi cái niềm hạnh phúc ấy, còn gì buồn đau hơn?. Họ là những người lính

chiến đấu cho sự bình yên của mỗi mái nhà, nhưng họ lại không thể có được

niềm hạnh phúc gia đình trọn vẹn. Hình ảnh những đứa con chờ đợi mỏi mòn

ngày cha trở về, nhưng chờ đợi mãi cũng không thấy bóng dáng của cha, ước

nguyện của đứa trẻ chỉ là một tiếng gọi “Bố ơi”! Chiến tranh đã cướp đi ước

vọng tưởng chừng bé nhỏ ấy của đứa trẻ, cái niềm khao khát ấy cứ hàng ngày,

hàng giờ thường trực đến mức những đứa trẻ thèm được gọi bố - nên đã xin

được gọi chú Tâm một lần là bố: “Chú cho cháu được một lần gọi bố ơi, cháu

thèm bố lắm…Mẹ bảo tôi chú bị nhiễm chất độc màu da cam, di chứng của

chiến tranh. Tôi khóc khản đặc, gào lên: - Bố ơi!”[19,tr69-70]. Đọc những

trang văn của chị mà ta tưởng chừng như đang chứng kiến cái cảnh đầy xót xa,

xúc động đó.

Vì lẽ đó, khi đọc tác phẩm Bố ơi ở đâu ta thấy rõ hơn cả là sự mong

ngóng, mỏi mòn của ba mẹ con Loan; những đứa trẻ cứ thắc mắc bố đang ở

đâu?, tại sao chưa về: “ - Ông trăng ơi, ông ở trên cao, ông có biết bố cháu

đang ở đâu không? …Lạ thật ! ông trăng cũng không thể trả lời cho Loan biết

bố đang ở đâu thì biết hỏi ai đây?”, cùng sự chờ đợi đến héo mòn thân thể của

người phụ nữ “Dạo này mẹ Loan gầy lắm, lần trước mẹ vào thăm hai chị em.

Loan chợt thấy trên mái tóc dài óng ả của mẹ, lốm đốm có sợi bạc. Gương mặt

đẹp của mẹ buồn đến nao lòng. Loan sợ mẹ nghĩ nhiều phát ốm thì khổ lắm.

Loan ao ước giá như có phép mầu nhiệm nào đó đem bố về với mẹ con Loan,

dù chỉ chốc nhát thôi cũng được. Nhiều đêm Loan mơ thấy bố về, bố mặc bộ

quân phục loang lổ khói sung và lấm lem bụi đường…úp mặt xuống gối Loan

thầm gọi da diết: - Bố ơi!”[19,tr161].

54

Đó chính là nỗi đau đớn, phiền muộn đến xót xa của người mẹ và các

con khi không có bố. Từng câu, từng chữ như cứa vào trái tim độc giả - khi

nghe đứa trẻ cất lên tiếng gọi xé lòng: “Bố ơi”.

Nhưng trên hết vẫn là hình ảnh những người lính luôn cố gắng vượt lên

trên tất cả những khó khăn, thử thách của cuộc đời, xứng đáng với phẩm chất

của người lính Cụ Hồ. Những chàng trai bản ưu tú từ chiến tranh trở về, vẫn

phát huy phẩm chất “vượt qua ngàn gian khó” để giúp đỡ dân bản phát triển

kinh tế, làm giàu đẹp quê hương. Nhân vật Chứ trong tác phẩm Phố trên đá là

một ví dụ cụ thể. Chứ nhìn thấy quê hương mình là nơi có tiềm năng phát triển

kinh tế, nên khi trở về anh đã đứng ra thành lập và khôi phục làng nghề truyền

thống vốn đã bị lãng quên bao nhiêu năm nay: “Cái nghề làm tượng đá, tranh

đá giờ cần lắm. Nó nói nhiều như con chim hót hay, nó bảo làm tranh, làm

tượng đẹp còn xuất khẩu ra nước ngoài….”[19,tr51]. Rồi cũng chính Chứ đứng

ra vay vốn ngân hàng để xây dựng cơ sở sản xuất làm tranh: “Sát con đường

lớn, giữa trung tâm Nà Lài, cạnh chợ Háng Cáy mới dựng cái cổng chào, trên

cổng cắm những lá cờ chuối đủ màu sắc bay phần phật. Dưới chân lá cờ, có

hàng chữ đỏ to đậm. kẻ trên miếng tôn sơn màu trắng: “Trung tâm sản xuất

tranh tượng đá Nà Lài” bên trong là dãy nhà hình chữ U xây to, cao, rộng rãi

quét vôi xanh…”[19,tr53]. Không bi quan về sự mất mát nơi chiến trường,

không nghĩ nhiều đến lợi ích cá nhân và cả tình yêu cá nhân nữa, Chứ lao vào

giúp dân bản vực dậy nền kinh tế để xóa đói, giảm nghèo. Không những thế,

Chứ còn lao tâm khổ tứ để dẹp đi những hủ tục lạc hậu còn đè nặng trên đôi vai

người dân miền núi nơi đây:“Sáng nay Chứ lên họp ở huyện, lãnh đạo tỉnh ủy

nói phải dẹp cảnh lễ bái hỗn độn, mê tín dị đoan ở hang phật đi. Bên phòng

văn hóa huyện cử người leo lên đỉnh Phja Dú không thấy có bia đá nào khắc

chữ cả…”[19,tr54]…

* Có thể nói, với mảng đề tài viết về người lính sau chiến tranh - nhà văn

Bùi Thị Như Lan cho chúng ta thấy được một nét riêng, một đóng góp riêng qua

55

các sáng tác của mình. Vốn là người con gái dân tộc thiểu số, lại là người lính

trong quân đội, là nhà báo, nhà văn quân đội khu vực miền núi, chị đã có sự am

hiểu sâu sắc về con người và hoàn cảnh, có nhiều vốn sống, có nhiều cảm xúc...

nên chị đã khá thành công khi viết về hình tượng người lính miền núi trong chiến

tranh và sau chiến tranh, trở về với cuộc sống đời thường. Những người lính ấy

bước ra khỏi chiến tranh tuy không còn lành lặn về thể xác, lại phải chịu những

nỗi đau đớn về cả tinh thần, nhưng họ vẫn vượt qua tất cả. Họ đã giữ vững được

phẩm chất của người lính cụ Hồ, phẩm chất của người trai bản ưu tú nên đã vượt

qua mọi khó khăn, mọi thử thách để cùng dân bản xây dựng cuộc sống mới no

ấm hơn, văn minh hơn trong thời kỳ mới của đất nước. Bùi Thị Như Lan đã khắc

họa hình tượng người lính miền núi ấy một cách sinh động, chân thực, tràn đầy

sự yêu thương, sự cảm thông cùng với niềm trân trọng tự hào.

TIỂU KẾT

Trong sáng tác của Bùi Thị Như Lan, thế giới nhân vật được biến hóa đa

dạng, nhiều thành phần, nhiều lứa tuổi khác nhau, nhưng nhân vật phụ nữ và

người lính luôn chiếm một tỷ lệ rất cao trong sáng tác của chị.

Đó là những người phụ nữ mang vẻ đẹp của thiên nhiên, núi rừng; hay

nói cách khác họ đẹp cả về ngoại hình bên ngoài lẫn tâm hồn bên trong. Với

tâm hồn tinh tế và bằng sự nhạy bén của một người phụ nữ, Bùi Thị Như Lan

đã khắc họa rõ nét, đầy đủ mọi khía cạnh của cuộc sống mà người phụ nữ phải

gánh chịu, dù là ở thời chiến hay thời bình thì người phụ nữ DTTS đều toát lên

những vẻ đẹp riêng mà chỉ có ở ngòi bút của Bùi Thị Như Lan.

Song hành cùng với hình tượng người phụ nữ đó chính là hình tượng

người lính. Xuất thân từ nữ quân nhân, cho nên chị là người hiểu và sâu sắc

nhất những khó khăn, những thử thách mà người lính phải trải qua trong cuộc

chiến đấu cũng như khi hòa bình trở về với làng bản. Hạnh phúc được trọn vẹn

56

khi người lính trở về với thân hình lành lặn, còn không thì đó là nỗi đau khi

chiến tranh đã vô tình cướp đi một phần thân thể, hay có những hoàn cảnh trớ

trêu hơn chính là chiến tranh đã cướp đi thiên chức làm cha của họ. Có thể nói

dù là người lính trong chiến tranh, hay sau chiến tranh trở về nhà thì nhà văn

Bùi Thị Như Lan đã cho chúng ta thấy ở mỗi thời kì đều có những nét riêng, sự

độc đáo mà chính chị là người trong cuộc mới nhìn thấu.

Bởi là người DTTS, là nữ quân nhân, nên chị có nhiều vốn sống, sự am

hiểu sâu sắc về những con người nơi đây. Không quá khi nói chị rất thành công

ở mảng đề tài này. Ở cả hai hình tượng người phụ nữ và người lính Bùi Thị

Như Lan đều cho chúng ta thấy được sự chân thực, lòng cảm mến và sự tự hào

của những con người miền núi.

57

Chương 3

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ NGHỆ THUẬT

3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

Như đã biết, con người là trung tâm của đời sống và cũng là trung tâm

phản ánh của văn học. Tuy nhiên, nhân vật văn học không phải là sự sao chép

nguyên si hình ảnh con người có thật ngoài đời mà đó là kết quả của sự chắt lọc,

khái quát để tạo nên những hình tượng nghệ thuật đủ sức chuyển tải tư tưởng

tình cảm, quan niệm nghệ thuật, lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn. Nhà văn bao

giờ cũng là con đẻ của nền văn hóa một dân tộc nên cách thức xây dựng nhân

vật của anh ta cũng chịu sự chi phối từ những quan niệm thẩm mỹ của cộng

đồng. Nghĩa là có thể thông qua nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác phẩm

văn học mà nhận diện nét riêng trong bản sắc văn hóa của một dân tộc; đồng

thời cũng thông qua đó mà nhận diện nét riêng trong phong cách nghệ thuật

một nhà văn.

Nhân vật trong văn xuôi dân tộc thiểu số là những con người của miền

núi. Họ có thể là người nông dân, người cán bộ, người trí thức; là phụ nữ, trẻ

em, là người nông dân, là anh bộ đội…nhưng đều sinh ra, lớn lên, gắn bó với

một nền tảng văn hóa mang đặc trưng vùng miền nhất định. Đây chính là cơ sở

quan trọng cho việc dựng người, dựng cảnh của nhà văn. Trong văn xuôi của

các nhà văn dân tộc thiểu số, các nhân vật hầu như đều mang những nét đặc

trưng mang đậm bản sắc con người và văn hóa miền núi.

3.1.1.Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật qua yếu tố ngoại hình

Ấn tượng nhân vật thường đến với người đọc trước tiên là hình thức bên

ngoài. Các nhà văn thường lựa chọn việc khắc họa nhân vật qua yếu tố ngoại

hình như một thủ pháp quen thuộc và quan trọng trong sáng tạo nghệ thuật.

Thiên nhiên, núi rừng, cỏ cây, hoa lá…vừa là môi trường sống tự nhiên

của người miền núi, vừa là vẻ đẹp tự nhiên, mộc mạc, tươi tốt, tràn đầy sức

58

sống, sức mạnh… thường được các nhà văn ví với vẻ đẹp của con người. Nói

một cách khác, vẻ đẹp của thiên nhiên miền núi được coi như một chuẩn mực

thẩm mỹ - để khi miêu tả vẻ đẹp của con người. Các nhà văn, nhà thơ DTTS

thường lấy vẻ đẹp đó để làm tiêu chuẩn, làm đối tượng thẩm mỹ để ví von, so

sánh với vẻ đẹp của con người(cả về hình thức lẫn nội tâm nhân vật). Và đây

cũng là một thủ pháp nghệ thuật quen thuộc của hầu hết các nhà văn DTTS,

thường được vận dụng trong cách miêu tả, trong cách khắc họa tính cách nhân

vật của họ.

Qua khảo sát các sáng tác củ a nhà văn Bùi Thị Như Lan, chú ng tôi nhận

thấy: Hệ thống nhân vâ ̣t trong tác phẩm củ a bà rất phong phú, đa dạng và khá

phức tạp về thành phần xuất thân và tính cách. Các hình tượng nhân vật trong

tác phẩm của nữ nhà văn DTTS này hiện lên một cách khá sinh động, vừa có

tính cách riêng, vừa có tính điển hình nên tạo cho người đọc những ấn tượng

sâu sắc. Những nhân vật đó như những điểm sáng bừ ng lên trên bứ c tranh hiê ̣n

thực về vùng đất Việt Bắc xa xôi. Qua việc xây dựng hệ thống nhân vâ ̣t đó, nhà văn đã gử i gắm những thông điê ̣p đầy tính nhân văn tới đô ̣c giả, đồ ng thời cũng

gử i gắm tình cảm yêu mến, gắn bó tha thiết vớ i quê hương miền núi của mình. Việc miêu tả ngoa ̣i hình củ a nhân vật để khắc họa tính cách, phẩm chất bên trong của nhân vật có thể nói là khá quan trọng đối với các cây bút văn

xuôi nói chung. Nhà văn Bùi Thị Như Lan là một nhà văn cũng rất chú ý đến

việc miêu tả ngoại hình các nhân vật của mình, từ đó khắc họa tính cách, phẩm

chất nhân vật một cách rõ nét. Một đặc điểm nổi bật trong nghệ thuật miêu tả

ngoại hình của nhà văn Bùi Thị Như Lan là việc nhà văn rất hay sử dụng biện

pháp so sánh, ví von vẻ đẹp của con người với vẻ đẹp của thiên nhiên, núi rừng

(vẻ đẹp của cỏ, cây, hoa lá, sông suối, cùng các loài vật đáng yêu, gần gũi), đặc

biệt là khi miêu tả vẻ đẹp ngoại hình của người phụ nữ DTTS. Ví dụ như: Nhân

vật cô gái trẻ trong tác phẩm Trôi trong mây gió – tác giả đã mô tả vẻ đẹp rực

rỡ, khỏe mạnh, tươi tắn, trong trẻo: “Cá i dá ng thon thả thắ t đá y lưng ong,

59

khuôn mặt trắ ng hồng như nhuộm phấn hoa, cũng đôi mắ t đen lá y, trong trẻo, nhìn ai cũng như cườ i” [21,tr54]; hay “Cơ thể trò n đầy trinh nguyên của Xú a ướ t đẫm sương nhưng lại tỏa ra hơi nó ng hầm hập mang theo hương thơm thoang thoảng của hoa rừ ng”[21,tr30]… Hoặc nhân vâ ̣t Dín trong truyê ̣n Sau lờ i há t Sli có vẻ đe ̣p rực rỡ, tươi tắn…mang nét đe ̣p tiêu biểu củ a mô ̣t thiếu nữ vù ng cao: “Nướ c da mi ̣n mà ng trắ ng như hoa mơ, hoa mận đến độ nở rộ, mỗi khi nhó m lử a bên bếp , lử a cũng tí tá ch hờ n ghen vì mà u hồng trên má Dín. Khi cườ i Dín khé o hà m răng trắ ng đều như bắ p nếp để lại trên má hai đồ ng xu duyên dá ng, mặn mà ”[17,tr6]. Vẻ đe ̣p củ a Dín luôn đươ ̣c tác giả so sánh với vẻ đẹp củ a thiên nhiên miền núi (hoa mơ, hoa mận, bắp nếp…). Ta nhận thấy cách miêu tả này của nhà văn Như Lan có sự ảnh hưởng, sự kế thừ a trong văn ho ̣c dân gian – giống như cách miêu tả của nhà văn Vi Hồng (nhà văn bậc thầy

của Như Lan) khi viết về vẻ đẹp của các cô gái Tày xinh đẹp của núi rừng Việt

Bắc, cụ thể như: “Mặt nàng đẹp như bông hoa đào trong nắng, mái tóc bồng

bềnh như mây trôi”, “cánh tay mềm như con suối”, “cặp môi đỏ au như bi

chuối rừng”, “Đôi mắt trong sáng như mắt chim Nục Phầy”, “Lung linh như

chim họa mi”...Hoặc người con gái đẹp “như một con công đẹp, như một bông

hoa lớn thần tiên trăm hương trăm sắc trong các truyện cổ người Tày... như

một nàng tiên giáng thế để cứu kẻ khốn khổ”, hoặc một người con gái khác

cũng đẹp như: “một nàng tiên rực rỡ, như một đóa hoa tiên hoa thánh nơi vách

đá, bốn mùa tắm gội giữa mây trời” [34,tr206 -207]. Hay như cách miêu tả vẻ

đẹp của người phụ nữ Tây Nguyên của Hlinh Niê: “chiếc miềng dù bạc hết

đường chỉ màu, vẫn khoe tấm thân căng đầy sức sinh sôi của đất của ngàn,

tràn ra nơi cặp mắt long lanh, đôi má ửng hồng và làn da mịn màng như trái

chín. Miệng tươi, hàng răng bắp non, ánh mắt như có lửa...”; “Lần đầu tiên

Yang thích ngắm cô bé Hnhoan. Cô có bắp chân chắc nịch, đôi cánh tay tròn

trĩnh như tre lồ ô, khuôn mặt xinh tươi như con trăng giữa tháng”;

Hoặc:“Người con gái có đôi mắt đen thật ướt , cặp vú nở như con ngựa giống

60

quý ông thường cưỡi mỗi khi đi thăm đất đai, đôi chân dài khỏe, cặp mông tròn

như trái bí. Da cô ấy mát rượi trong làn nước Ea Sieerr...” [34,tr207]

Lối miêu tả ngoại hình nhân vật như vậy rất phù hợp với cách cảm, cách

nghĩ, cách diễn đạt của người miền núi. Cũng qua cách miêu tả ấy, người đọc

nhận thấy: Vẻ đẹp của các cô gái miền núi: khỏe mạnh, hồn nhiên, khéo léo,

đảm đang, tràn đầy sinh lực sống, sinh lực yêu và khả năng làm vợ, làm mẹ…

Trong tác phẩm Chiếc kèn lá nối dài mùa trăng – nhà văn Bùi Thị Như Lan

đã nhấn mạnh rất rõ vẻ đẹp “phồn thực” đó của người phụ nữ miền núi: “Tiếng

kèn làm cho cơ thể tròn căng của tôi nhức nhối, rạo rực, bồn chồn và bừng

trỗi dậy bản năng khao khát, bản năng ham muốn được dâng hiến, được cho và

được nhận. Bầu ngực tôi căng cứng, hổn hển sau làn váy mỏng. Người tôi nóng

hầm hập như muốn bốc lửa”[21,tr19]…

Bên cạnh việc miêu tả ngoại hình với vẻ đẹp tự nhiên của những người

phụ nữ miền núi, tác giả Bùi Thị Như Lan cũng đã chú ý khắc họa vẻ ngoại

hình bị khiếm khuyết ( vì nhiều lý do) của các nhân vật là người miền núi.

Cũng vẫn cách ví von, so sánh với thiên nhiên, cảnh sắc, con vật…ở miền núi,

nhưng ở đây tác giả lại nhấn mạnh đến yếu tố ngược lại của nó. Ví dụ như: hình

ảnh người bố thương binh trong tác phẩm Bồng bềnh sương núi: “Mặt ông đỏ

dừ, bỗng nhợt nhạt, chuyển sang màu tím tái…Chẩu thoảng thốt nhận ra ông

nội với nét mặt đang cau có, giận dữ. Mắt ông quắc lên như ngàn con đuốc

chạy vào. Cánh tay chắc nịch của ông cầm con dao sáng loáng, chĩa về người

đàn bà trẻ…”; “Người phình to, tóc rụng hết…lọc cọc đôi nạng gỗ vừa đi vừa

nghỉ” [17,tr31-32] – với mục đích nhấn mạnh đến trạng thái tinh thần và tình

cảm không bình thường của họ.

Tác giả Bùi Thị Như Lan đã cho chúng ta thấy mỗi một nhân vật của đều

mang những nét ngoại hình riêng. Đó là vẻ đe ̣p củ a mỗi ngườ i lính trong truyê ̣n Bô ̣ ba xe phá o mã vớ i những đặc điểm và tính cách khác nhau, nhưng ho ̣ cù ng chung mô ̣t vẻ đe ̣p - đó là tình đồng đô ̣i, tình đoàn kết và sự hài hướ c dí dỏ m

61

trong cuô ̣c số ng củ a những ngườ i lính trẻ này. Nhà văn đã hó a thân vào nhân vâ ̣t “tôi” để miêu tả các đồ ng đô ̣i củ a mình - vớ i con mắt củ a một người lính để khắc họa nên vẻ đẹp khỏe mạnh, hồ n nhiên, hó m hỉnh củ a những chàng lính trẻ. Nhân vâ ̣t Phong đươ ̣c miêu tả: là ngườ i “thá o vá t, vui tính, nó i chuyê ̣n có duyên. Da trắ ng như than đá , mối mọt không dá m đục”, vớ i đôi mắ t lá u cá , và được mê ̣nh danh là sá t gá i”. Cò n Thò ong thì: “ít nó i, đôi chân cao ngổng cao ngồng của nó phải leo nhiều dố c lớ n, dốc nhỏ lởm chởm đá nên chân to như chân ông hộ phá p. Nhá t gá i vô cù ng, đi qua đá m con gá i, đỏ dựng mặt tựa quả gấc chín” [22,tr24]... Nhà văn chú ý miêu tả sự khác nhau về ngoại hình củ a mỗi nhân vâ ̣t để thông qua đó cũng thể hiê ̣n tính cách khác nhau củ a mỗi nhân vâ ̣t. Có một số nhân vật cũng đã được Bùi Thị Như Lan miêu tả ngoại hình đối

lập với bản chất, phẩm chất bên trong của họ. Ví dụ như: nhân vật Ngai trong

tác phẩm Chuyện nhà chị Ngai. Đó là vẻ ngoại hình xấu xí, đầy khiếm khuyết

của chị Ngai: “Ngai bi ̣ ông trờ i lấy đi một phần chiều dà i cá i chân. Vì thế mà mỗi bướ c đi của Ngai giố ng như ngườ i đi học chữ đặt bú t để chấm dấu phảy cạnh nhau” [21,tr87]. Ngoa ̣i hình củ a Ngai ta ̣o ấn tươ ̣ng ma ̣nh, khắc sâu trong tâm trí ngườ i đo ̣c, nhưng ngoa ̣i hình ấy chỉ là nền để tô đâ ̣m, làm nổ i bâ ̣t vẻ đe ̣p tâm hồ n Ngai. Ngai là con ngườ i nhân hâ ̣u, giầu yêu thương và luôn tận tâm giúp đỡ mọi ngườ i. Sinh ra Ngai đã bị thiê ̣t thò i như vâ ̣y, nên me ̣ Ngai đã cố gắng dâ ̣y con cách bố c thuố c (quanh nhà, trên nú i). Ngai bố c thuố c rất mát tay, giúp cho nhiều ngườ i khỏ i bê ̣nh. Ngai cũng đã nhiều khi quên cả việc nhà, quên cả bản thân để cứu người: “Trong một đêm Ngai nghe có tiếng ngườ i rên ở ngoà i, Ngai không ngần ngại bướ c tớ i trướ c mặt ngườ i đà n ông mặt mũi xanh như tà u lá đang dựa và o gố c cây dẻ thở khó nhọc,Ngai không chần chừ ngại ngần mình là đà n bà con gá i yếu ớ t, chi ̣ vực ngườ i đà n ông đứ ng dậy, dìu từ ng bướ c khó nhọc lên nhà , mả i lo thuố c thang cứ u ngườ i, mãi tớ i lú c chi ̣ Vần về Ngai mớ i nhớ là chưa là m gì để thắ p hương me ̣” [21,tr88-89]…

Tó m la ̣i, với bú t pháp nghê ̣ thuâ ̣t thay đổ i linh hoa ̣t, vừ a mang tính chất truyền thố ng, vừ a có tính hiê ̣n đa ̣i, nhà văn Như Lan đã khắc ho ̣a lên những bứ c

62

chân dung nhân vật với dáng vẻ ngoại hình khá rõ nét và sinh động. Qua việc

miêu tả ngoa ̣i hình của tác giả, người ta có thể thấy đươ ̣c tính cách và phẩm chất củ a nhân vâ ̣t với vẻ đẹp chân chất, tự nhiên giống như vẻ đẹp của thiên

nhiên núi rừng, cùng với những đức tính và phẩm chất tốt đẹp của họ. Bên cạnh

đó, nhà văn đôi khi cò n xây dựng nên những nhân vâ ̣t có ngoa ̣i hình xấu xí, khiếm khuyết nhưng ho ̣ la ̣i là những con ngườ i tốt bụng, thông minh, khéo léo và giàu lò ng yêu thương, giàu đức hi sinh. Qua những hình ảnh đó, đô ̣c giả có dịp hiểu biết thêm về con ngườ i miền nú i, có cái nhìn sâu sắc hơn, toàn diện và chính xác hơn về ho ̣. Có thể thấy, trong nghệ thuật xây dựng nhân vật nhà văn

Bùi Thị Như Lan cũng có sự gặp gỡ với một số nhà văn dân tộc thiểu số khác,

đó là việc: đã rất chú ý đến việc khắc họa ngoại hình nhân vật với nhiều dáng

vẻ khác nhau và cũng rất hay sử dụng yếu tố thiên nhiên miền núi để so sánh

với vẻ đẹp của con người, nhất là đối với các nhân vật là phụ nữ. Tuy nhiên,

dưới góc nhìn và cách miêu tả của chị vẫn có những nét riêng, có sự sáng tạo

riêng (như đã nêu trên). Đây cũng chính là một đặc điểm, một nét nổi bật trong

nghệ thuật miêu tả ngoại hình của tác giả dân tộc Tày Bùi Thị Như Lan.

3.1.2. Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật qua hành động

Trong văn ho ̣c, để miêu tả phẩm chất và tính cách nhân vật, các tác giả đă ̣c biê ̣t chú ý miêu tả hành đô ̣ng của nhân vâ ̣t, và cũng thông qua đó mà thể hiê ̣n một phần chủ đề tư tưở ng củ a tác phẩm:

“Hà nh động của nhân vật không chỉ là yếu tố cần thiết để bộc lộ tính cách mà nó cò n là yếu tố không thể thiếu thú c đẩy diễn biến của cố t truyê ̣n trong tác phẩm. Đó chính là những viê ̣c là m cụ thể của nhân vật trong ứ ng xử

vớ i nhân vật khác trong những tình huống khá c nhau của cuộc số ng.” [10].

Nhân vâ ̣t trong truyê ̣n ngắn củ a nhà văn Như Lan hầu hết đều là những

người dân miền núi nên tính cách của họ bô ̣c lô ̣ rất rõ bản chất và cá tính của

ngườ i miền nú i. Họ là những người chân chất, mộc mạc, thẳng thắn, trung thực

và thường rất hay bộc lộ tính cách, phẩm chất của mình qua các hành động cụ

63

thể. Hành động của họ thường bùng nổ bất ngờ, và thường gây ấn tượng mạnh

đối với độc giả. Độc giả bất ngờ trước vẻ bề ngoài lầm lì tưởng chừng thô mộc,

lạnh lung nhưng bên trong lại rất tình cảm và ẩn chứa một sức mạnh to lớn.

Đây là nét tính cách tâm lý điển hình của người miền núi.

Trong truyê ̣n Bô ̣ ba xe phá o mã ngoài viê ̣c miêu tả những buổ i tâ ̣p diễn quân, những lần đi tăng gia, tác giả cò n đưa một tình tiết vào cuố i tác phẩm đó là một vu ̣ cháy ở mô ̣t ngôi làng. Sự viê ̣c này đẩy cao trào củ a câu chuyê ̣n và làm gia tăng thêm kịch tính của câu chuyện. Để thấy được lòng dũng cảm, sự bất chấp nguy hiểm, hi sinh củ a những ngườ i lính, tác giả đã miêu tả hành động: họ lao vào biển lửa để cứ u dân, cứ u bản. Qua đây ta thấy đươ ̣c sự sẵn sàng hi sinh thân mình để bảo vệ cuộc sống yên lành cho dân của những người

lính ở miền núi. Sự viê ̣c đươ ̣c bắt đầu khi mo ̣i ngườ i đang nghỉ ngơi sau trâ ̣n diễn tâ ̣p: “Thò ong “kều” hớ t hải, đầm đìa mồ hôi chạy về la to: “Chá y, chá y bản rồ i”. Nó chỉ tay về phía đá m chá y, từ ng đụn khó i xá m cuồn cuộn bố c lên, sau khi nhận được lê ̣nh chú ng tôi lao đi nhanh” [17,tr95]; các chiến sĩ đã không nga ̣i ngần nguy hiểm, hy sinh để lao vào đám cháy cứ u ngườ i: “Lử a ngù n ngụt chá y, gió rà n rạt ké o ngọn lử a bố c lên cao, gió cà ng mạnh, lử a cà ng lớ n. Không biết tôi quẳng ba lô đi từ lú c nà o. Tiếng trẻ khó c thé t ngằ n ngặt ở phía trướ c như bứ t da, như xé thi ̣t tôi. Trờ i ơi…Nhà trẻ, me ̣ cá c chá u cò n trên nương xa…Lao và o giữa nấm lử a, tôi ôm thố c lấy cá c chá u đưa khỏi vò ng lử a ma quá i…Chợt, từ trên đầu tôi, vầng lử a nghiê ̣t ngã ụp xuố ng…rừ ng rực đỏ

bầm…Tôi mê man thiếp đi giữa nú i lử a nhạt nhò a…” [17,tr95]. Hành động

diễn ra thật nhanh chóng, bất ngờ nhưng lại phản ánh đúng bản chất của người

chiến sỹ: “Vì nước quên mình, vì dân phục vụ”. Bởi thế những hành động ấy đã

để lại một ấn tượng khó quên đối với độc giả. Trong truyê ̣n ngắn Gió hoang

cũng nó i về hành đô ̣ng củ a nhân vật Pàng anh bộ đô ̣i DTTS đi chiến trườ ng về và bi ̣ nhiễm chất đô ̣c da cam. Anh luôn khao khát có một đứa con để ẵm bế,

nuôi dưỡng, yêu thương, nhưng không thể được. Vơ ̣ chồ ng anh rất đau khổ ,

64

anh không ngần nga ̣i lội xuống sông, lặn lội nơi vực sâu đi bắt cá chép về nấu cháo cho vơ ̣ ăn để tầm bổ . Trong một buổ i tố i đi bắt cá chép, anh đã nhìn thấy mô ̣t cô gái tự tử , vớ i phản xa ̣ nhanh nha ̣y củ a ngườ i lính, anh kêu to “Dân bản ..cứ u…..cứ u….ng..u..ờ i...” và lao xuống dò ng nướ c đầy bí ẩn của mà n đêm. Anh ngụp lăn, vẫy vù ng. Sau đó cũng có mấy ngườ i nhả y xuống. Anh lao và o vò ng xoá y cù ng ngườ i trai bả n vật lộn vớ i dò ng nướ c như muốn rú t chân

ngườ i, tú m được cá nh tay ngườ i bi ̣ nạn đang dập dềnh giã gạo” [17,tr96].

Hành động kiên quyết cứu người không kể hiểm nguy đến tính mạng bản thân

của anh, tuy bất ngờ nhưng lại rất hợp với cái “chất” của người lính dũng cảm

đã từng chiến đấu ngoan cường nơi chiến trường xưa. Họ đã từng không sợ

nguy hiểm lao vào trận mạc đánh thắng kẻ thù, giành độc lập tự do cho Tổ

quốc, thì lúc này đây họ cũng không ngại ngần hiểm nguy lao vào cứu những

người gặp hoạn nạn.

Nhà văn đã chú ý đi sâu vào miêu tả hành đô ̣ng củ a những ngườ i phu ̣ nữ miền nú i trong cuô ̣c số ng củ a mình. Biết bao ngườ i phu ̣ nữ miền núi đã âm thầm nhớ thương, mong mỏi chờ chồ ng đi chiến trườ ng trở về qua năm này năm khác. Ho ̣ đã không đi bướ c nữa mà ở vâ ̣y nuôi con, đợi chồng rồi thờ chồ ng - như nhân vâ ̣t ngườ i phu ̣ nữ trong truyê ̣n ngắn Chiếc vòng ba ̣c hình đôi chim Noô ̣c Phầy. Hành động chân thành giản dị mà làm người đọc buốt

nhói, xót thương, nể phục chị vô cùng. Chị để những chiếc bắp ngô non lên bàn thờ chồ ng - mỗi khi mù a ngô đến. Người phụ nữ miền núi ấy, người góa phụ, người mẹ ấy thật thủy chung, son sắt, thật giàu tình nghĩa…; Hay nhân vật Xúa

trong truyện Bồng bềnh sương nú i khi bi ̣ cha ngăn cấm tình yêu củ a mình đã cha ̣y trố n, bằng cả lòng quyết tâm rời bỏ hẳn nơi mà hủ tục luôn đè nặng lên số

phận người con gái, dù cho máu chảy, dù rách nát cả bàn chân: “Cô chạy xuống

nú i, bà n chân không giầy cứ thế băng trên đườ ng đá gập ghềnh. Đá cứ a và o lò ng bà n chân, đá dứ t từ ng mảng da ở ngó n chân cô, Xú a chạy qua ngà y sang đêm, chạy đến lú c cá i chân không dẫm trên đá , trên sỏi mà lú n ngập xuống những thử a ruộng bằ ng phẳng thì Xú a biết đây là vù ng soi bãi của ngườ i

65

Kinh…..”; “ Vụt chạy ra khỏi cổng, băng băng trên con đườ ng rừ ng ngập á nh sao đêm và hồ i hộp nín thở leo lên chò i canh” [21,tr32]. Hành động quyết liệt này của cô gái đã thể hiện sức mạnh của tình yêu trong trái tim của người con

gái vùng cao, thấy được thái độ quyết bảo vệ tình yêu trước mọi rào cản, thách

thức của cuộc đời mình - kể cả rào cản từ phía cha mẹ của mình. Thông qua

những hành động trên, nhà văn như muốn gửi gắm những cảm thông, hoặc

để nhấn mạnh sự chia sẻ và sự đồng tình của mình đối với nhân vật trong

truyện. Hay khi nói về sự chung thủy của nhân vật Sìn dành cho Xúa, tác giả

đã khắc họa hành động “ở vậy nuôi con” của Sìn, dù bố anh có lấy vợ khác

cho anh, nhưng vì tình yêu của anh dành cho Xúa mà anh không hề “đụng

chạm” gì đến người phụ nữ đó, “mỗi ngườ i nằ m mô ̣t giườ ng”. Hành động đó đã cho chúng ta thấy tình yêu của họ thật mãnh liệt, thủy chung đến nhường

nào. Thông qua hành động của Xúa, của Sìn chúng ta càng thêm hiểu, thêm

yêu quý và trân trọng những con người miền núi. Họ mộc mạc, chân chất

nhưng cũng rất giàu tình cảm, mãnh liệt trong tình yêu và thủy chung son sắt

trong tình nghĩa vợ chồng.

Hay như việc khắc họa những hành động liên tiếp để thể hiện sự đau

đớn, tuyệt vọng của Seo Mây khi nhìn thấy cảnh em gái Seo Mỷ và chồng yêu

nhau: “Đôi mắt Seo Mây tuôn nước như mưa rào tháng ba, cô nấc lên thổn

thức, tóc tai xổ tung, tức tưởi, vụt chạy như hóa rồ vào trong khe núi…”

[19,tr85]…

Có thể thấy, trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, nhà văn Bùi Thị Như

Lan rất chú ý đến việc khắc họa tính cách nhân vật thông qua việc miêu tả các

hành động cụ thể của nhân vật. Là con người miền núi - dù là người phụ nữ hay

người nam giới, là già hay trẻ… các nhân vật của Bùi Thị Như Lan đều mang

những đặc điểm riêng về hình thức (ngoại hình) và nội tâm bên cạnh những suy

nghĩ, những hành động cụ thể, phù hợp với tính cách, phẩm chất của người

miền núi. Dưới ngòi bút tinh tế của tác giả, các nhân vật với những hành động

cụ thể trong những tình huống cụ thể (mạnh mẽ, quyết liệt…đôi khi mang tính

66

bột phát, bản năng…) đã thể hiện rất rõ bản chất và tính cách của mình. Đây

cũng là một điểm mạnh trong nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật của tác

giả Bùi Thị Như Lan.

3.1.3. Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật thông qua ngôn ngữ nhân vật

Ngôn ngữ chính là chất liê ̣u, là phương tiê ̣n biểu hiê ̣n mang tính đă ̣c trưng của văn học. Không có ngôn ngữ thì không thể có tác phẩm văn ho ̣c. Trong đó , ngôn ngữ củ a nhân vâ ̣t là yếu tố không thể thiếu trong tác phẩm tự sự. Bở i nhà văn không chỉ khắc ho ̣a nhân vâ ̣t củ a mình thông qua ngoa ̣i hình , hành đô ̣ng mà cò n thông qua ngôn ngữ nữa. Qua ngôn ngữ nhân vật, ta thấy đươ ̣c tính cách và tư tưở ng củ a họ. Trong truyê ̣n ngắn củ a mình nhà văn Như Lan đã có sự chú ý đặc biệt với việc sử dụng hai hình thức ngôn ngữ nhân vật

đó là: Ngôn ngữ đối thoại và độc thoại nội tâm.

* Ngôn ngữ đối thoại

Ngôn ngữ đối thoại là một hình thức của ngôn ngữ nhân vật và là một

trong những phương diện quan trọng nhằm thể hiện những suy nghĩ, những tư

tưởng và cá tính của nhân vật. Theo cuốn Từ điển thuật ngữ Văn học - thì

ngôn ngữ đối thoại là: “lờ i trong cuộc giao tiếp song phương mà lờ i nà y xuất hiê ̣n là phả n ứ ng đá p lại lờ i nó i trướ c” [10;tr186]. Trong những truyện ngắn

của mình, nhà văn Như Lan đã sử dụng khá nhiều những đoạn đối thoại và

thông qua những đối thoại đó người đọc có thể thấy rõ nét hơn về những suy

nghĩ, tư duy và bản chất của nhân vật. Nhìn chung những đoạn đối thoại của

nhân vật trong các tác phẩm của nhà văn Bùi Thị Như Lan thường ngắn gọn,

đơn giản. Có thể do đặc điểm vùng miền và tính cách của những người dân

miền núi – họ thường ít nói, ít chia sẻ, tâm sự về những suy nghĩ, những tình

cảm của riêng mình đối với người khác. Và khi nói với nhau họ thường dung

một thứ ngôn ngữ ngắn gọn, thậm chí thô, mộc, không dài dòng, văn vẻ mà rất

thẳng thắn, thật thà. Ví dụ như trong tác phẩm Bố ơi ở đâu, có cuô ̣c đố i thoa ̣i

67

giữa ba me ̣ con Loan. Thông qua cuô ̣c đố i thoa ̣i người đọc có thể hiểu hơn về

tình cảm, nỗi nhớ thương, sự mong đợi của ba me ̣ con Loan là như thế nào:

“- Bố ôm hai chi ̣ em và o lò ng, bố bảo:

- Hai chi ̣ em ở nhà ngoan ngoãn nghe lờ i me ̣, ngà y thố ng nhất bố trở về. Bố vỗ nhe ̣ và o vai me ̣, khẽ nó i: - Cam đảm lên em, anh đi viết thư về ngay thôi

Me ̣ nghe ̣n ngà o - Anh nhớ giữ gìn sức khỏe. [17,tr152] …..

Em Linh níu tay hỏi me ̣

- Me ̣ ơi, me ̣ có đi không?

Me ̣ lắ c đầu:

- Me ̣ ở lại trực chiến bảo vê ̣ xí nghiê ̣p. Linh phụng phi ̣u:

- Me ̣, mẹ đi vớ i tụi con Me ̣ xoa đầu em Linh rồi di ̣u dà ng nó i: - Cá c con lớ n rồ i, phải cam đảm lên để xứ ng đá ng con nhà lính chứ ”…

[17,tr157-158].

Mỗi câu đối thoại đều là những câu ngắn, nhưng nó lại chất chứa những

tình cảm, sự thiết tha mong mỏi của những đứa con về người cha của mình.

Trong tác phẩm Gió hoang, cuộc đố i thoa ̣i giữa các thành viên trong gia đình Dẻn khi mế Sinh “tự dưng trở về” làm không khí trong gia đình trở lên ngô ̣t nga ̣t. Đoạn đố i thoa ̣i thể hiện rõ sự căng thẳng, đồng thời cũng thấy rõ bản

chất của từng nhân vật: Người cha tốt bụng, rộng lòng tha thứ; người con thẳng

thắn, kiên quyết; người mẹ trơ trẽn, tha hóa:

“- Có chuyê ̣n gì mà cô về? - Nhớ đến hai đứ a con thì tôi về thôi. Về để nó i cho chú ng nó biết ai là

ngườ i đẻ ra chú ng nó .

68

….

- Sinh à, em về là tốt rồi, về ở hẳn nhà thôi, đừ ng đi nữa - Không được đâu, em là vợ của ngườ i đà n ông chủ thầu gỗ rồ i. Nhà to

tiền nhiều, tiêu không phả i đếm

….

-Dân không được hỗn mế sinh đẻ ra mà y đấy Anh Dân bặm môi hé t:

- Không! Không phải mế

- Cô thay đổi nhanh quá . Mỗi ngườ i một phận, cô lấy người ta rồ i thì để

cho tụi nhỏ được yên, đừng mang dầu đổ và o lử a nữa.

- Con tôi đẻ ra tôi có quyền, khi nà o tôi muốn đem chú ng nó đi, nó về là

do tôi! [17,tr179].

Hoặc cũng có những cuô ̣c đố i thoa ̣i giữa các nhân vật mà qua đó ngườ i đo ̣c có thể cảm nhâ ̣n thấy một sự thay đổi về nhận thức, về lối sống của những

người trẻ tuổi miền núi, cùng với sự ngạc nhiên, trách móc và sự buồn bã của

những người mẹ, người cha DTTS khi thấy con mình đang xa rời lối sống cùng

các bản sắc văn hóa truyền thống:

- Sang à , phố xá là m mà y thay đổi nhiều rồ i. Đà n bà con gá i cắ t tó c

ngắ n không tốt đâu.

Miếng ngô chợt nghe ̣n ứ trong cổ, tôi lắ c đầu:

- Mế! Ở dưới phố dù ng nước má y, con gội đầu tóc rít lai ̣ gỡ không nổi ,

tiếc lắm nhưng phải cắt thôi.

Nướ c má y là nước gì? Có giống nướ c bản mình không - Nướ c má y là nướ c sông nướ c nú i chả y ra cả thôi nhưng được lọc ,

được khử trùng.

- Ầy! Thế thì “hiện tại” quá , chẳng trá ch mà y muốn ở dướ i đấy mãi,

không muố n về nhà nữa. Mà y quên luôn mặc á o vả i chàm rồ i.[21,tr119].

69

Đặc biệt khi Sang nó i cho mế biết thông tin “hình như cha mình còn số ng” và trớ trêu sao khi người yêu của Sang lại là con của người đàn ông ấy.

không khí căng thẳng và vỡ òa khi mẹ của Sang bất ngờ biết điều đó:

- Mế! Con nhận lời thương ngườ i con trai tên Hùng, anh ấy dậy cùng

trườ ng Đại học Sư phạm vớ i con

Mế tủm tỉm: - Thế à , tố t quá rồi! Nhà nó ở đâu? Có là thằng trai vạm vỡ để là m cá i

cây gỗ chắ c không?

- Bố me ̣ anh ấy đang ở trong trại Điều dưỡng thương binh. Nhưng mà … - Cái con này, lại có chuyê ̣n gì thế? Mà y đừ ng là m mế phải lo lắ ng. - Hình như… bố anh Hù ng là cha hay sao ấy… Mế xoay ngườ i, đặt tay lên vai tôi lắ c lấy lắ c để: - Sao? Sao hả Sang? Mày nó i đi, thằ ng Hù ng nó ké m tuổi hay bằ ng tuổi

mà y? Bố mế nó tên gì?

- Anh ấy hơn con năm tuổi. Bác trai tên là Sả ng, bá c gá i là Liên.

[21,tr134]

Hay ngôn ngữ đối thoại của người mẹ với đứa con trong trạng thái luôn

nén những nỗi đau trước những câu hỏi ngờ nghệch, ngây thơ của con trẻ:

- Có phải mẹ yêu thầy Tâm không?

Mẹ ôm chặt tôi vào lòng thảng thốt, nước mắt rơi lã chã ướt đầm má tôi,

khuôn mặt mẹ như chùng xuống, chứa đựng nỗi đau da diết…Tôi vội giơ đôi

bàn tay bé xíu gạt nước mắt mẹ cuống quýt:

- Mẹ, mẹ! con không hỏi nữa đâu, mẹ đừng khóc.

Mẹ nghẹn ngào:

- Con đừng nghe tụi trẻ nói bậy.

[17,tr24 -25]…

Có thể thấy, qua ngôn ngữ đố i thoa ̣i, nhân vâ ̣t trong tác phẩm của Như Lan không chỉ bô ̣c lô ̣ đươ ̣c tính cách con ngườ i mô ̣t cách chân thâ ̣t nhất mà nó

70

cò n thể hiê ̣n lối ứng xử văn hóa của cộng đồng ngườ i Tày nó i riêng và người vùng cao nó i chung. Đây cũng là mô ̣t trong những yếu tố ta ̣o nên nét riêng biệt

trong truyê ̣n ngắn của nhà văn Bùi Thị Như Lan.

* Ngôn ngữ độc thoại nội tâm

Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “ Độc thoại nội tâm là lờ i phá t ngôn của nhân vật nó i vớ i chính mình, thể hiê ̣n quá trình tâm lí nội tâm, mô phỏng hoạt động cả m xú c, suy nghĩ của con ngườ i trong dò ng chả y trực tiếp của nó ”. [10;tr122].

Đô ̣c thoại nô ̣i tâm là tiếng nói bên trong tâm hồn củ a nhân vâ ̣t, là những ý nghĩ thầm kín, là lời tâm sự, giãi bày, là lờ i nhắn nhủ … của nhân vật. Ngôn ngữ đô ̣c thoa ̣i nô ̣i tâm có một sứ c ma ̣nh đặc biê ̣t. Nó biểu hiê ̣n mô ̣t cách rõ rệt, chân thực nhất những suy nghĩ, những tư tưởng và tâm tra ̣ng phứ c ta ̣p củ a nhân

vâ ̣t. Chính vì vậy mà nó có sức lay đô ̣ng những tình cảm sâu xa củ a ngườ i đo ̣c. Khảo sát truyê ̣n ngắn củ a nhà văn Như Lan, ta thường thấy có sự xuất hiê ̣n

hai dạng độc thoại nô ̣i tâm: đô ̣c thoa ̣i bằng lờ i trực tiếp và đô ̣c thoa ̣i bằng lờ i nử a trực tiếp.

Đô ̣c thoa ̣i bằng lờ i trực tiếp là nhà văn chỉ rõ nhân vâ ̣t tự nghĩ, tự nhủ hoă ̣c tự nó i vớ i mình. Da ̣ng này trong truyê ̣n ngắn củ a nhà văn Như Lan xuất hiê ̣n khá nhiều. Ta bắt gă ̣p những lờ i trăn trở , khú c mắc trong lò ng cô gái trẻ khi cô nghi ngờ về thân phâ ̣n củ a mình “Tôi yên tâm vì câu giải thích ấy và nghĩ me ̣ không thể nó i dố i tôi. Nhưng hôm nay thì khá c, tôi bỗng đặt câu hỏi vì sao thằ ng Hải nó i thế? Sao nó cứ nhằ m và o tôi mà trêu chọc? Sao ngà y me ̣ đưa tôi đến lớ p học của thầy Tâm, đôi mắ t me ̣ sưng đỏ như ớ t chín? Tôi chợt nhớ tôi mang họ Nguyễn của me ̣. Những câu hỏi quay cuồng trong đầu tôi nhứ c nhố i” [17,tr28]; Hoặc có những đoa ̣n độc thoại của nhân vâ ̣t “tôi” đấu tranh tư tưở ng căng thẳng với bao suy nghĩ, đắn đo, rối bời trong lòng khiến cô tự đă ̣t câu hỏ i hoang mang ,lo sơ ̣ : “Tôi đã đi ngà n bướ c chân rồ i sao vẫn quay lại đếm một…hai…ba? Tôi muốn ké o thờ i gian trù ng lại, dà i ra để đừ ng tớ i

71

ngà y mai. Tôi sợ ngà y mai biết bao. Tôi sợ phải xa anh, xa bao lâu thì tôi không biết. Anh như con chim đủ lớ n chạy khỏi cá nh rừ ng, cò n tôi giống như gốc cây con thú vừ a dừ ng chân lấy sứ c mà thôi.” [19,tr38]; Hay những lờ i đố i thoa ̣i nô ̣i tâm củ a nhân vật My ̣ Phua cũng đã thể hiê ̣n rất rõ trạng thái bồn chồn, lo lắng của cô: “Nhà có đá m vui mà sao tụi chim cứ bay liê ̣ng kêu mãi thế” [21,tr13]. Đoa ̣n đố i thoa ̣i của nhân vật Tôi vớ i sự day dứt, dằn vặt của lương tâm mình về quá khứ : “Tôi thấy mình có tội lớ n vớ i anh Dân, bao năm qua sao tôi không nó i ra chuyê ̣n ấy, sao tôi nỡ dối lừ a anh. Tôi là ngườ i đà n bà bỏ đi”, “ Sao tôi không rì rầm nó i chuyê ̣n vớ i dò ng Nậm Ú n như mọi khi? Tôi bỗng thở dà i sườ n sượt, ừ thì mọi chuyê ̣n mấy năm qua đi rồi sao tôi không dá m nó i ra sự thật vớ i anh? Sao tôi nỡ giấu cả pá tôi”, “liê ̣u anh Dân có tha thứ cho tội lỗi của tôi không”[21,tr71]; Hoặc có những đoa ̣n đối thoa ̣i nội tâm – trong đó nhân vâ ̣t tự vấn lương tâm mình, tự đă ̣t câu hỏ i cho chính mình: “Là m thế nà o để vừ a là m mế vui và vừ a có được anh?”, “phải chăng tôi là ngườ i bất hiếu như mế nó i?” [21,tr108]. Trong truyê ̣n ngắn Chuyê ̣n nhà chi ̣ Ngai - Chi ̣ Ngai - me ̣ củ a Diên lo lắng, day dứ t, hồ i hô ̣p cho đứ a con gái của mình đi tìm ngườ i cha đẻ ở dướ i thành phố đã được thể hiện trong đoạn đối thoại nội tâm sau: “Chi ̣ nhẩm tính bằ ng đố t ngó n tay, hôm nay đã bướ c sang ngà y thứ tư rồi mà sao vẫn chưa thấy bó ng con? Chi ̣ thấy lo quá . Không biết có chuyê ̣n gì xảy ra vớ i nó , mà con bé có tìm được cá i nơi cần đến không? Ngườ i ta có đố i xử không tốt thì chi ̣ cũng không là m gì nổi”… [21,tr82]…

Qua những lờ i đô ̣c thoa ̣i trực tiếp củ a nhân vâ ̣t, đô ̣c giả hiểu đươ ̣c rõ hơn, cụ thể hơn sư ̣ chuyển biến tư tưởng trong đờ i số ng nô ̣i tâm cùng những sắc thái tình cảm với những đau khổ, dằn vă ̣t, sự giằng xé trong tâm hồ n của nhân vật. Đây có lẽ là một biểu hiện cho tính hiện đại trong bút pháp nghệ thuật

khắc họa tính cách nhân vật qua miêu tả nội tâm nhân vật của nhà văn Tày

Bùi Thị Như Lan.

Đô ̣c thoa ̣i bằng lờ i nử a trực tiếp là khi nhà văn trực tiếp phân tích tâm lí nhân vâ ̣t trong sự hò a quyê ̣n vào lời tự bạch của nhân vâ ̣t khiến ta khó phân

72

đi ̣nh rõ ràng, rành mạch đâu là suy nghĩ của nhân vật, đâu là suy nghĩ của tác

giả. Miêu tả nhân vâ ̣t qua lờ i đô ̣c thoa ̣i nử a trực tiếp là mô ̣t thủ pháp nghê ̣ thuâ ̣t

chiếm ưu thế trong truyê ̣n ngắn củ a nhà văn Như Lan. Trong truyê ̣n ngắn của

chị xuất hiện nhiều đoa ̣n văn khiến cho đô ̣c giả khó phân biê ̣t đâu là gio ̣ng của

nhà văn, đâu là gio ̣ng nhân vâ ̣t. Nhà văn Như Lan đã cố gắng miêu tả đờ i số ng

nô ̣i tâm củ a nhân vâ ̣t, với sự phân tích, mổ xẻ những suy nghĩ, tâm trạng của

nhân vâ ̣t khiến nó thể hiện mô ̣t cách tro ̣n ve ̣n tính cách và bản chất. tư tưởng của nhân vâ ̣t. Trong truyê ̣n Chiếc vòng ba ̣c hình đôi chim Noô ̣c Phầy tác giả đã miêu tả tâm tra ̣ng lo lắng, xó t xa của người con đối với ngườ i me ̣ củ a mình: “Bếp lử a chập chờ n há t sá ng lên mế,lên khuôn mặt kín vết nhăn, lên má i tó c nhuộm mầu đá vỡ. Nỗi sợ hại bỗng từ đâu đổ ập và o ngườ i tôi. Tôi lo lắ ng một ngà y nà o đó mế bỏ tôi đi xuống âm thế tìm cha. Mế vẫn nó i vớ i tôi, bao giờ toi cứ ng cỏi, đứ ng vững bằ ng đôi chân của mình, như cá i cây đủ lớ n cắ m rễ sâu xuố ng lò ng đất thì mế sẽ yên bụng ra đi. Bất giá c đôi mắ t tôi nhìn và o nơi gó c nhà , qua á nh lử a leo lé t, khú c gỗ dẻ dườ ng như lớ n hơn rất nhiều. Mế tôi đã chuẩn bi ̣ sẵn cho sự ra đi của mình như thế nà y ư? Lần trướ c tôi về khú c gỗ nà y chưa có ở trong nhà , thế mà nó sừ ng sững hiê ̣n diê ̣n ở kia như trêu tứ c, như thá ch đố như răn đe tôi”[21,tr125]. Nhân vâ ̣t “tôi” dườ ng như đang hoang mang, lo lắng cực độ trước thái độ và hành động của người mẹ luôn yêu

thương, hy sinh và nhiều đau khổ của mình.

Có những đoạn văn ngườ i đo ̣c dườ ng như khó có thể phân biê ̣t đâu là

gio ̣ng của nhà văn đâu là gio ̣ng của nhân vâ ̣t, nhà văn và nhân vâ ̣t dườ ng như

nhâ ̣p thành mô ̣t. Ví dụ như: “ Chao ôi! Dướ i quầng sá ng lú c tỏ, khi mờ của lử a

bếp, trong hương củi mần tang thơm đượm, khuôn mặt me ̣ buồ n đến lao lò ng. Me ̣ rọi cá i nhìn tớ i một nơi nà o đó xa xăm, vô đi ̣nh trong bó ng đêm như tìm kiếm, như mong chờ ….á nh nhìn ấy cho tôi biết tâm can me ̣ đang bi ̣ vò xé . Ngườ i tôi bỗng run lên, bả i hoả i, rã rờ i và khắ c khoả i trướ c á nh mắ t vờ i vợi chất chứ a đầy bí ẩn của me ̣. Tôi đi ̣nh nó i điều gì vớ i me ̣ mà không thể mở

73

miê ̣ng được. Mắ t tôi cay nồng, rưng rưng và tấy bỏng…..” [19,tr40]. Đoạn văn đã diễn tả được tâm tra ̣ng buồ n đau với những suy nghĩ thầm kín không thể giãi

bày của người mẹ và sự ân hận, lo lắng, sợ hãi.

Cò n ở đoạn văn khác nhà văn như đã hóa thân vào nhân vật để diễn tả tâm tra ̣ng đau đớn tô ̣t cù ng trong đêm tân hôn khi sự nhầm lẫn đã khiến hai chị em Sang và Sao đau khổ: “Một sự nhầm lẫn tê ̣ hại xả y ra. Và không ai khá c, chính tôi là ngườ i phả i hứng chi ̣u. Tôi chạy ra khỏi nhà mặc cho á nh mắ t của bà me ̣ chồng ố m yếu đang ngồi hơ lửa đuổi theo. Đi đâu tôi cũng không biết

nữa, cá i chân tự nhiên chạy cuống lên, tôi chạy mãi, vừ a vấp rụi, gục xuống rồi lại vục dậy chạy tiếp. Chạy tớ i ngà y hôm sau thì không có sứ c để chạy nữa, mặt tôi tối sầm, mắ t nổ hoa cà , hoa cải, có một chất gì đó mằ n mặn, nhầy nhậy, ướ t á t, nong nóng chảy từ mũi xuống rồi loang xuống cằ m, ngườ i tôi đổ vật xuống, chìm và o cõi miên man. Tôi đang thấy mình đang trôi trên đỉnh nú i, giữa những đá m mây lớ n mi ̣t mùng, và từ trên nú i, tôi trượt mãi, trượt mãi xuố ngvực

sâu hun hú t”.[19,tr125-126]. Sự tủi hờ n cho sự trớ trêu của số phận khi có sự nhầm lẫn trong hôn nhân để cả cuô ̣c đờ i cô rơi vào cuộc số ng không có hạnh phúc làm mẹ. Đêm nằm bên ca ̣nh chồ ng mà như nằm bên ngườ i xa la ̣, cò n ngườ i em gái song sinh đáng thương của cô thì lại “không chồ ng mà có con”. Cuô ̣c số ng củ a hai chi ̣ em mỗi ngườ i mô ̣t hoàn cảnh, đều bi kịch như nhau.

Sự dằn vă ̣t củ a nhân vâ ̣t Sìn(con nuôi) khi ngườ i cha biết đươ ̣c chuyê ̣n tình cảm củ a anh vớ i Xúa(con đẻ), anh dằn vă ̣t, day dứ t lương tâm, anh cảm thấy xấu hổ vớ i tổ tiên có lỗi vớ i cha: “Sìn lục vấn lò ng mình bằ ng những câu hỏi mà không tìm được câu trả lờ i. Đã đà nh, cá i chuyê ̣n anh yêu Xú a là chuyê ̣n nấp kín trong lò ng không thể giãi bà y, không dễ gì lôi ra. Sìn muốn trá i lờ i cha mà không đà nh. Muốn ra đi tìm Xú a mà không thể cất bướ c. Cha cấm anh đi tìm Xú a. Cha bảo đứ a con gá i bỏ nhà , bỏ bả n ra đi là đồ bỏ đi rồi, cho nó đi luôn cho khỏi bận mắ t. Sìn thương Xú a, nhớ Xú a quay quắ t. Sao Xú a có thể bỏ cha bỏ anh mà đi như thế? Sìn không cò n là thằ ng ngườ i nữa rồ i! Anh là m hại

74

đờ i Xú a, là m khổ cha. Cá i tội của anh lớ n quá ”.[21,tr36] . Nhân vâ ̣t Sìn đươ ̣c nhà văn dư ̣ng lên trong sư ̣ day dứ t, mâu thuẫn giằng xé trong lương tâm củ a mình, anh muố n làm điều này nhưng la ̣i sơ ̣ điều kia, chính sư ̣ giằ ng xé này làm nổ i bâ ̣t lên cuộc đấu tranh nô ̣i tâm đầy căng thẳng, đầy nhức nhối củ a nhân vâ ̣t. Đây là những ví dụ điển hình củ a nghệ thuật xây dựng nhân vật qua đố i thoa ̣i nô ̣i tâm mà tác giả đã sử dụng trong tác phẩm để làm nên sự thành công củ a tác phẩm.

Nhà văn Như Lan đã khắc họa được đờ i số ng nô ̣i tâm phong phú (đôi khi

cũng rất phứ c ta ̣p) củ a ngườ i miền nú i. Từ đó nhà văn xoáy sâu vào khai thác, tìm hiểu, phân tích những điều thầm kín, ẩn ở đáy sâu tâm hồn nhân vật, qua đó phản ánh được những suy nghĩ, cảm xú c sâu sa, tinh tế củ a nhân vâ ̣t. Ngườ i miền nú i thườ ng ít nói, thườ ng bộc lô ̣ mình thông qua hành đô ̣ng, qua suy nghĩ và qua cách khắc họa tính cách nhân vật của tác giả Như Lan, ta có thể thấy con ngườ i nơi đây giản dị trong nếp số ng và cũng giản di ̣ trong nếp nghĩ nhưng cũng không kém phần sâu sắc, tinh tế. Qua truyê ̣n ngắn củ a mình, nhà văn Như Lan đã có sự đó ng gó p cho quá trình đổ i mớ i nghệ thuật ở mảng văn xuôi dân tô ̣c thiểu số , ở khía ca ̣nh khai thác chiều sâu tâm hồn con ngườ i. Nhà văn đã tạo đươ ̣c sự đa da ̣ng và cá thể hó a trong ngôn ngữ của nhân vâ ̣t, kết hơ ̣p miêu tả ngoa ̣i hình nội tâm với hành đô ̣ng của nhân vật; nhà văn đã dựng lên những bứ c chân dung về những con ngườ i miền nú i, bô ̣c lô ̣ những cá tính đô ̣c đáo, những suy nghĩ trong thẳm sâu tâm hồn củ a ho ̣, đồng thờ i cũng thể hiê ̣n nét bản sắc văn hó a riêng trong cuộc sống thường ngày của đồ ng bào DTTS vù ng cao.

3.2. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện

Để tạo nên một thế giới nhân vật khá đa dạng, có những nét đặc trưng

riêng, để lại dấu ấn trong lòng bạn đọc như vậy - nhà văn Bùi Thị Như Lan đã

có những sự sáng tạo trong cách xây dựng nhân vật của mình. Ngoài nghệ thuật

xây dựng nhân vật (đặc biệt là loại nhân vật người phụ nữ miền núi và người

75

lính miền núi), thì yếu tố góp phần làm nên thành công của truyện ngắn Bùi Thị

Như Lan là nghệ thuật xây dựng cốt truyện.

Cốt truyện là hệ thống các sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư

tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong

hình thức động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và kịch. Đó là yếu tố

quan trọng bậc nhất, không thể thiếu trong bất cứ hình thức tự sự nào. Loại bỏ

cốt truyện, văn bản tự sự lập tức chuyển thành dạng văn bản khác. Như vậy

hiểu một cách đơn giản nhất, cốt truyện là bộ xương của cơ thể tác phẩm văn

xuôi - yếu tố không thể thiếu, là lõi diễn biến của truyện từ khởi đầu cho đến

kết thúc, bao gồm toàn bộ các biến cố, sự kiện được nhà văn kể ra và là cái mà

người đọc có thể đem kể lại.

Văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam – một bộ phận của văn xuôi Việt

Nam hiện đại cũng có đủ ba kiểu cốt truyện đó là: Kiểu cốt truyện truyền

thống thường miêu tả sự kiện theo dòng thời gian tuyến tính, kết thúc có hậu;

Kiểu cốt truyện hiện đại miêu tả gấp khúc, đảo lộn thời gian, nhảy cóc tự sự,

kết thúc bỏ ngỏ và kiểu cốt truyện hậu hiện đại là truyện lồng trong truyện,

cắt dán, xáo trộn….

3.2.1. Cốt truyện theo thời gian tuyến tính

Có thể thấy kiểu cốt truyện truyền thống - miêu tả sự kiện theo dòng thời

gian tuyến tính, đây là kiểu phổ biến, chiếm tỷ lệ nhiều nhất trong văn xuôi các

dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Mang âm hưởng của cốt truyện dân gian,

kiểu cốt truyện này thường tổ chức các sự kiện theo dòng thời gian tuyến tính

với những xung đột và thường kết thúc có hậu. Có thể nói đây là kiểu cốt

truyện truyền thống gặp ở các tác giả nữ văn xuôi dân tộc thiểu số quen thuộc

như: Vi Thị Kim Bình, Đoàn Ngọc Minh, Kim Nhất, Hlinh Niê…và cả Bùi Thị

Như Lan nữa.

Cốt truyện theo thờ i gian tuyến tính triển khai truyê ̣n theo trình tự biên niên, sự kiê ̣n nào xảy ra trướ c kể trước, sự kiê ̣n nào xảy ra sau kể sau. Trong

76

các tâ ̣p truyê ̣n ngắn củ a nhà văn Như Lan kiểu cốt truyện này chiếm tỷ lệ không cao, có một số tác phẩm cụ thể triển khai theo kiểu này như: Phố trên

nú i, Tiếng kèn nố i dài mù a trăng và Mùa mắc mật.

Trong truyê ̣n Phố trên nú i đươ ̣c tác giả kể la ̣i vớ i mô ̣t trình tự hơ ̣p lí và

không gian mở , nhà văn miêu tả sự đổ i thay củ a bản làng sau khi tiến hành

nông thôn mớ i. Sự đổ i thay đầu tiên khi ở bản xuất hiê ̣n hang phật hàng ngày

có rất nhiều ngườ i đổ xô về đây để bái la ̣y, cầu may, chính điều đó làm cho bản

“tấp nâ ̣p”: “Vù ng đất Nà Là i trở lên huyên ná o. Ngườ i ta ké o đến nườ m nượp,

ngườ i đội mâm cú ng, ngườ i xá ch đồ lễ, hương khó i nghi ngú t xuốt ngà y”; cũng

từ ngày “bản tấp nâ ̣p” cuô ̣c số ng ngườ i dân nơi đây cũng thay đổ i: “Ngườ i dân

Nà Là i cũng tất bật, xôn xao vớ i viê ̣c đẽo gọt là m tranh, đục tượng”. Sự thay

đổ i đó đến vớ i ngườ i dân rất nhanh, khiến cho cán bô ̣ xã (như Chứ ) lo lắng, bởi

ẩn chứ a đằng sau đó là rất nhiều vấn đề, làng bản xuất hiê ̣n nhiều ông bà thầy

bó i làm cho những tê ̣ na ̣n như mê tín di ̣ doan xuất hiê ̣n ngày càng nhiều ở đây.

Sự xuất hiê ̣n ngôi đền mới và sự đổi mới của làng bản đã khiến nơi đây trở

thành điểm “du li ̣ch văn hó a”. Nhưng sau đó, cù ng vớ i viê ̣c xây dựng khu du

li ̣ch, loa ̣i bỏ đền thờ cú ng bái, mê tín di ̣ đoan thì bản la ̣i đươ ̣c đổ i mớ i theo

Chương trình nông thôn mớ i, đườ ng mở rô ̣ng trải nhựa thẳng tắp, nhiều ngôi

nhà mo ̣c lên… Sự thay đổ i củ a làng bản đươ ̣c nhà văn miêu tả rất cu ̣ thể và

theo trình tự trướ c sau: Ngày xưa những ô ruô ̣ng trồ ng lú a, trồ ng ngô khoai giờ

đươ ̣c dựng lên thành những ngôi nhà, ngày ngày hàng hó a đổ về đây rất nhiều.

Do phát triển mạnh nên mo ̣i ngườ i ở dướ i xuôi và các tỉnh khác đổ xô về đây

buôn bán làm ăn. Nhà văn say sưa miêu tả sự đổ i thay nhanh chó ng qua từ ng

ngày củ a bản Nà Lài cho ta thấy cuô ̣c số ng củ a ngườ i dân nơi đây đang đươ ̣c

cải thiện cả về vật chất và tinh thần với sự cố gắng nỗ lực của toàn bộ dân làng

trong việc đấu tranh chống cái cũ, cái lạc hậu, sự lợi dụng lòng tin của nhân dân

(của một số kẻ phản động) về tín ngưỡng tôn giáo ở mảnh đất xa xôi này.

77

Nhân vâ ̣t Mỵ Phua trong truyê ̣n Tiếng kèn nố i dài mù a trăng đươ ̣c nhà văn kể tỉ mỉ, để cho người đọc có thể thấy đươ ̣c nỗi khổ của cô luôn đươ ̣c báo trước. Điều đó đươ ̣c bắt đầu khi cô từ chố i tiếng kèn tỏ tình củ a chàng trai đứ ng ngoài rào đá để về làm vơ ̣ A Vừ . Cô là mô ̣t cô gái xinh đe ̣p đươ ̣c nhiều ngườ i thương, nhưng cô đã rất khổ tâm khi không lấy được ngườ i mình yêu. Rồ i đến ngày cướ i hoa bjoó c thá y nhuô ̣m tím đất trời báo hiê ̣u điềm không bình thường:

“Ngườ i già trong bản bảo lâu lắ m rồ i hoa Bjoó c thá y mớ i nở nhiều như thế.

Đây không biết là điềm là nh hay điềm dữ”[21,tr12]. Rồ i sáng sớ m hôm cướ i lại có bầy chim Noô ̣c É c chao đảo kêu những tiếng kêu nhứ c nhối khiến mo ̣i ngườ i nghĩ có điềm dữ. Rồ i chuyê ̣n dữ ấy cũng đã đến khi trong ngày cướ i củ a cô khi không có mặt chú rể. Về đến nhà trai, cô mớ i biết ngày cưới cũng là ngày tang củ a chồ ng cô. Mỵ Phua đau đớn như có thể chết đi được. Rồ i những chuỗi ngày về sau, cuô ̣c số ng củ a cô từ ng ngày diễn ra cô đơn nặng nề, vô nghĩa. Giữa lúc đó tiếng kèn cất lên như cảm thông, như an ủi cô. Tác giả tỏ ra rất tinh tế và khéo léo khi sắp xếp các sự viê ̣c và tình tiết làm cho câu chuyê ̣n lôi cuố n hấp dẫn ngườ i đọc. Nhà văn như đưa ngườ i đo ̣c vào chính hoàn cảnh củ a nhân vâ ̣t để cảm thông, chia sẻ vớ i tình cảm và số phâ ̣n của nhân vâ ̣t.

Khác vớ i hai truyê ̣n trên, ở truyê ̣n Mù a mắ c mâ ̣t nhà văn lại tâ ̣p trung miêu tả tỉ mỉ cuô ̣c số ng củ a hai chi ̣ em Ngải và Páo, ngay từ nhỏ hai chi ̣ em đã phải mồ côi cha me ̣. Mă ̣c dù chi ̣ Ngải không phải là con đẻ củ a bố me ̣ nhưng khi bố me ̣ mất chi ̣ vẫn chăm lo cho gia đình đă ̣c biê ̣t là nuôi đứ a em nhỏ . Khi bố me ̣ mất, Páo cò n rất nhỏ , chi ̣ đã dành hết tuổ i thanh xuân củ a mình để nuôi em khôn lớ n. Câu chuyê ̣n này đươ ̣c nhà văn kể rất chi tiết và tỉ mỉ về nhưng nỗi khổ và sự hi sinh củ a chi ̣ Ngải dành cho Páo: “Chi ̣ Ngải vẫn nhẫn nại bò lổm ngổm cho tôi hò , tôi hé t, tôi nhả y choi choi lên lưng gà y ướ t dượt mồ hôi của

chi ̣. Đầu gối, bà n tay chi ̣ trầy trật, rớ m má u”[17,tr64]. Sự hi sinh củ a chi ̣ còn đươ ̣c miêu tả qua cuô ̣c số ng hàng ngày của hai chi ̣ em nghèo khổ , cơm không có ăn, áo không có mặc, người chi ̣ đã dành những miếng ăn ngon nhất cho em,

78

mong sao cho em khỏ e ma ̣nh, lớ n nhanh: “Thì ra những thá ng năm qua chi ̣ ăn ngô, ăn sắ n, khi đó i, lú c no để chắ t chiu dà nh phần cho tôi tất cả ”[17,tr71]. Chi ̣ dành cho em những gì tố t đe ̣p để nhâ ̣n la ̣i về mình những sự buồn tủi héo hon. Qua cách kể củ a nhà văn cho ngườ i đo ̣c thấy đươ ̣c sư ̣ tần tảo và tấm lò ng yêu thương củ a ngườ i con gái miền nú i dành cho ngườ i mà ho ̣ thương yêu.

Xây dựng cốt truyện tuyến tính với kết thúc có hậu như vậy, một mặt nhà

văn giúp cho người đọc dễ nắm bắt cốt truyện, dễ hình dung ra nhân vật, có

thái độ yêu, ghét rõ ràng, nhưng mặt khác lại khiến cho nhân vật trở nên giản

đơn về tính cách.

Giống với Bùi Thị Như Lan, nhà văn Hà Thị Cẩm Anh (Mường) cũng

thường để lại ấn tượng nơi độc giả của mình với những kết thúc có hậu đậm

màu cổ tích. Trong sáng tác của mình, tác giả tập trung khắc họa nhiều nhân vật

có số phận thiệt thòi, bất hạnh, tật nguyền… cuộc đời của các nhân vật này

thường rất chật vật, khổ sở(Những đứa trẻ mồ côi, gốc gội xù xì…). Nhưng

cuối cùng, nhờ sự nỗ lực của bản thân và sự trợ giúp của cộng đồng xã hội,

hoặc may mắn mà họ đã có được cuộc sống tốt đẹp hơn, tràn đầy hi vọng .

Người ta không thể quên được hình ảnh một cô gái tật nguyền, có khuôn mặt

xấu xí, biến dạng nhưng cô đã may mắn được một người đàn ông tốt bụng, hào

hiệp, thương yêu, nâng đỡ và lấy làm vợ… trong tác phẩm của nhà văn dân tộc

Mường này.

Hoặc trường hợp nhà văn Vi Thị Kim Bình cũng như vậy, những câu

chuyện mà nhà văn Kim Bình viết như mô ̣t thướ c phim kể về những câu chuyê ̣n, những số phâ ̣n, cuô ̣c số ng củ a con ngườ i miền nú i (chủ yếu ở Lạng

Sơn). Những câu chuyê ̣n đó như đươ ̣c tái hiê ̣n rõ hơn khi tác giả sắp xếp theo mô ̣t trình tự nhất đi ̣nh làm cho ngườ i đọc cuố n hú t theo tình tiết câu chuyê ̣n.

Như vậy, lựa chọn cách xây dựng cốt truyện theo lối truyền thống là

điểm gặp gỡ của hầu hết các cây bút văn xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam. Tuy

còn những hạn chế nhất định nhưng cách xây dựng cốt truyện như vậy đã cho

79

người đọc thấy được phần nào tư duy nghệ thuật hướng về truyền thống của

các nhà văn người dân tộc thiểu số. Qua các tác phẩm của họ - nổi bật lên bức

chân dung về thân phận, về tâm hồn của con người miền núi. Sâu xa hơn là ý

nghĩa nhân đạo, nhân sinh cao đẹp mà các tác giả đã gửi gắm vào trong từng

câu chuyện kể của mình.

3.2.2. Cốt truyện theo thời gian gấp khúc, đảo lộn

Cốt truyện theo thời gian gấp khúc là cốt truyện không theo trình tư ̣ biên niên mà có sư ̣ đảo lô ̣n, đan xen giữa quá khứ và hiê ̣n ta ̣i, thậm chí là

cả tương lai.

Cùng với các nhà văn lớp cũ, một số tên tuổi mới trong làng văn xuôi

dân tộc thiểu số cũng đã trình làng các tác phẩm được xây dựng theo kiểu cốt

truyện hiện đại, miêu tả gấp khúc, đảo lộn thời gian, nhảy cóc tự sự và đặc biệt

là lối kết thúc mở, có thể là không có hậu đối với số phận của nhân vật. Nhà

văn Bùi Thị Như Lan đã có khá nhiều truyện ngắn mà kết thúc truyện bằng nỗi

niềm đau thương mất mát, xót xa của những người mẹ, người vợ có người thân

ra mặt trận không bao giờ trở về nữa (Núi đợi, bố ơi ở đâu); Hoặc số phận của

người phụ nữ có chồng đi bộ đội về bị nhiễm chất độc màu da cam không

thể có hạnh phúc được làm cha, làm mẹ (Trăng mọc trong thung lũng, gió

hoang). Cũng tương tự như vậy là hình ảnh những người phụ nữ Tây

Nguyên có cuộc đời đầy đau khổ, bất hạnh và cũng là hiện thực cay đắng

xót xa trong các sáng tác của nhà văn Kim Nhất (Uyển Ngọc, Cô Lài, Phat

Kơ đi)…, hay trong các truyện ngắn của Hlinh Niê (Hoa Pơ Lang, Nối dòng,

Cầu vồng lung linh…)

Trong các tâ ̣p truyê ̣n củ a nhà văn Như Lan thì truyê ̣n viết theo kiểu thờ i gian phi tuyến tính chiếm tỉ lê ̣ nhiều hơn hẳn so với kiểu truyện viết theo thời gian tuyến tính. Những câu chuyê ̣n đươ ̣c kể đan xen về thời gian như: đương

thời, sau và trướ c; hoặc trướ c và sau; hoặc từ hiê ̣n ta ̣i rồi quay lại quá khứ rồ i la ̣i trở về hiê ̣n ta ̣i. Nhân vâ ̣t trong tác phẩm luôn sống trong sự hồ i tưở ng, suy tư

80

nên tác giả thường cho ̣n kiểu thờ i gian này. Các truyê ̣n ngắn củ a nhà văn Như Lan luôn mở đầu bằng hiê ̣n ta ̣i và trở về quá khứ , sau đó trở về hiê ̣n ta ̣i và hướ ng tớ i tương lai. Tiêu biểu như các truyê ̣n Hoa mía, Gió hoang, Truyê ̣n nhà ké Pả n, Bjoó c Pha ̣, Mù a hoa gắ m, Ngày mế trở về, Bồng bềnh sương nú i, Trôi trong mây gió , Bên dòng Nâ ̣m Ú n…..

Truyê ̣n ngắn Truyê ̣n nhà ké Pả n mở đầu bằng cuô ̣c bằng hình ảnh Ké Pản buồ n rầu thu mình trong không gian lãnh lẽo củ a ngôi nhà nằm giữa lưng nú i sương mù vây quanh cái la ̣nh ôm lấy dãy nú i, ngoài trờ i đã la ̣nh lẽo trong ngôi nhà cò n la ̣nh lẽo hơn: “Ké Pả n bỗng rù ng mình vì chợt cả m thấy nỗi cô đơn cứ quá n lấy Ké trong căn nhà trố ng vắ ng”. Ké đang buồ n vì thằng con dở chứ ng không lấy vơ ̣ nữa “Pá sang nó i vớ i nhà ngườ i ta, con cò n trẻ, con chưa vội lấy vợ”. Rồi cuô ̣c cãi vã củ a hai cha con xung quanh viê ̣c lấy vơ ̣ và tu ̣c bắt gà lôi làm lễ dạm hỏ i làm cho hai cha con giận nhau. Thằng Mảy giâ ̣n cha bỏ đi, cò n ông Ké Pản buồ n bực vớ i nỗi lo trong lò ng, trong lú c đó ông nhớ tớ i ngườ i vơ ̣ củ a ông vì dân bản đã “là m tình là m tội” nên bà phải ra đi. Ké nhắm mắt để dò ng hồ i tưở ng lô ̣i ngươ ̣c về quá khứ . Ngày ấy ông đi bộ đô ̣i về mo ̣i ngườ i ở bản đến chú c mừ ng, anh chi ̣ dâu có ý muố n mai mố i cho Ké vì Ké đã có tuổ i, Chi ̣ dâu đã mai mố i cho Ké Pản với cô Hoa là ba ̣n củ a mình. Sau mấy mù a trăng thì Ké Pản và cô Hoa cũng đã lấy nhau. Đang nghĩ thì Ké Pản bi ̣ đánh thứ c bở i con Cáy, ông cảm thấy bớ t cô đơn khi có nó ở bên ca ̣nh. Truyê ̣n củ a con trai Ké Pản ông đã kể cho anh chi ̣ dâu biết để nhờ khuyên thằng con trai ông, mă ̣c dù giâ ̣n nó nhưng trong lò ng Ké Pản rất thương nó , nghĩ đến đây ông la ̣i nhớ về ngườ i vơ ̣ củ a mình với câu chuyê ̣n xảy trong quá khứ . Năm đó , nắng chó i chang, ngườ i già trẻ con ố m lay ố m lắt, trâu bò cứ lả đi rồ i chết vì khát, mo ̣i ngườ i trong bản lâ ̣p đèn cú ng và ông thầy mo nó i Hoa - vơ ̣ Pản là cái

nghiê ̣t, làm thần sông thần nú i pha ̣t bản làng như vâ ̣y. Muố n thoát khỏ i cảnh

này phải tế thần và lấy vơ ̣ Pản làm vâ ̣t tế, mă ̣c dù đã hết sức van xin nhưng vẫn

không đươ ̣c, nên đến đêm Pản và vơ ̣ chồ ng anh chi ̣ dâu đi cứ u Hoa và đưa cô

81

ấy về xuôi, bởi nếu ở đây cô ấy sẽ phải chi ̣u chết oan! Ông đang mải miết nghĩ thì thằng Mảy về, khi đươ ̣c bác dâu kể và nó i rõ về ngườ i mà nó đi ̣nh lấy là ai thì Mảy cũng hiểu ra và đồ ng ý. Ké Pản vui lắm, như gỡ đươ ̣c gánh nă ̣ng trong

lò ng: “Ké Pả n vui quá sắ p hết năm rồ i , bà n chuyê ̣n cướ i chuyê ̣n tết thôi”.

Việc lựa cho ̣n thờ i điểm hiê ̣n ta ̣i có những sự kiê ̣n để nhân vâ ̣t hồ i tưở ng quá khứ , khiến các sự kiện diễn ra tự nhiên theo ma ̣ch suy nghĩ của con ngườ i. Trong tác phẩm Bồng bềnh sương nú i, nhân vâ ̣t “Tôi” lí giải sự la ̣nh lù ng củ a ngườ i me ̣ hiê ̣n tại vớ i Chẩu là do sự vô tâm, hững hờ của ngườ i cha khi cuô ̣c tình củ a cha Chẩu vớ i me ̣ đẻ không thành vì sự ngăn cấm củ a ông nô ̣i. Nhân vâ ̣t “Tôi” kể rõ về cuô ̣c số ng hiê ̣n ta ̣i củ a Chẩu và me ̣, sau đó lại hồ i tưở ng về quá khứ , với những nguyên căn gây ra những biến cố ngày hôm nay. Câu chuyê ̣n đươ ̣c bắt đầu về chuyê ̣n tình cảm củ a Sìn và Xú a là bố me ̣ đẻ củ a Chẩu, cuô ̣c tình này bi ̣ cấm bở i ông nô ̣i Chẩu (vì Sìn và Xú a là hai anh em tuy không cù ng dòng máu nhưng đều đươ ̣c ông nuôi dưỡng). Khi tình cảm bi ̣ ngăn cấm, me ̣ Chẩu bỏ cha ̣y lên chù a, ông nô ̣i ở nhà cướ i vơ ̣ mớ i cho Sìn là Mỉ Nhua - tức là me ̣ kế của Chẩu bây giờ . Mỉ Nhua về cái nhà này như ngườ i thừ a trong gia đình, Sìn thì la ̣nh nhạt thờ ơ, cò n Chẩu ngày đó cứ bám chă ̣t lấy bố không cho Mỉ Nhua cha ̣m vào. Sự la ̣nh nha ̣t, thờ ơ của cha con Chẩu làm cho Mị Nhua cảm thấy bi ̣ tổ n thương và trở thành người thừ a trong gia đình nên bà tỏ ra rất ghê gớm và hay cáu gắt vớ i Chẩu, nhưng trong lò ng Mi ̣ Nhua luôn coi Chẩu là con củ a mình

Hồ i tưở ng la ̣i quá khứ chính là biểu hiê ̣n củ a việc phản ánh đờ i số ng nô ̣i tâm và tâm lí của nhân vâ ̣t. Khi buồ n con ngườ i thườ ng nhớ về quá khứ . Có quá khứ tươi đe ̣p khiến con ngườ i nuố i tiếc, quá khứ đau buồ n khiến con ngườ i

xó t xa. Nhờ có sự hồi tưởng với bao suy nghĩ, bao trạng thái tình cảm mà nhân

vật trở nên có chiều sâu tâm hồn. Trong quá trình xây dựng tính cách nhân vật,

nhà văn Như Lan rất hay viết cốt truyện theo kiểu này, ví dụ như tác phẩm Bên

dòng Nậm Ún kể về sự dằn vặt của Ngấn về quá khứ của mình với người

82

chồng hiện tại. Mở đầu tác phẩm nhà văn cho chúng ta thấy sự dằn vặt của

Ngấn khi người chồng của mình trở lại làm cho cô sợ hãi, lo lắng về những gì

mà cô đã cố gắng chôn chặt và giấu kín trong suốt bao nhiêu năm qua. Nếu bây

giờ mọi chuyện vỡ lẽ thì cô không biết sẽ như thế nào? Cô sẽ đối diện với mọi

người ra sao?. Cảm giác tội lỗi bắt đầu xuất hiện, trong con người cô luôn có sự

dằn vặt, đau khổ “Bỗng nhiên tôi cả m thấy có tội lớ n vớ i anh Dân, bao năm qua sao tôi không nó i ra chuyê ̣n ấy, sao tôi lỡ nó i dố i anh. Tôi là ngườ i đà n bà

đá ng bỏ đi”[21,tr65]. Câu chuyện ấy tưởng chừng như đã được chôn chặt, được

gói gém bởi thời gian, mà giờ đây nó lại trở lại, làm cô bấn loạn, lo lắng và sợ

hãi vô cùng. Cô nhớ về những ngày tháng mình được sinh ra giữa núi rừng, nỗi

khổ khi nhìn thấy cảnh “gà trống nuôi con”, rồi cô lại nhớ cái ngày thằng Sinh

con cô được chào đời và nó được chồng cô nâng niu như thế nào?.Cô càng nghĩ

thì lại càng cảm thấy có lỗi với anh. Hồi còn nhỏ, cô ở với bố, là một cô gái

xinh đẹp mang chất núi rừng, khi đi học dưới thành phố, đó là một quãng thời

gian đẹp và cô đã quen được rất nhiều bạn trong đó có Tuyết và Anh. Tình bạn

và tình yêu tưởng chừng như đẹp như hoa thì sự việc xảy ra. Cái ngày liên hoan

ra trường thì Tuyết và Anh không đến, hôm sau cả trường xôn xao khi bố Tuyết

lên gặp Ban Giám hiệu nhà trường báo cáo: “Không hiểu nhà trườ ng quả n lí sinh viên kiểu gì, đêm qua cậu sơn nhân lú c xuống nhà ông chơi, lợi dụng cá i Tuyết say rượu dở trò đốn mạt và ngủ quên luôn ở phò ng con gá i ông”[21,tr78- 79]. Nghe được tin động trời đó cô vô cùng đau khổ và bỏ về quê nhà với mầm

sống nhỏ nhoi đang dần lớn lên trong bụng. Giờ đây cuộc sống của cô đang yên

bình trở lại thì người đàn ông phụ bạc đó quay trở lại làm cho bao nhiêu ngày

tháng đau khổ dày vò cô trong quá khứ lại hiện lên. Cô vẫn còn cảm thấy run

sợ khi nhớ lại hình ảnh người đàn ông đó chặn ngang cổng trường mà hỏi cô.

Giữa lúc cô đang mơ màng giữa quá khứ và hiện tại thì nghe thấy tiếng chồng

(là anh Dân) thì cô bừng tỉnh mà quay trở về với hiện tại.

83

Có thể nói, sự đan xen giữa quá khứ và hiện tại ở tác phẩm của Bùi Thị

Như Lan là khá nhiều, hầu như ở tập Truyện ngắn nào của chị cũng có các câu

chuyện được xây dựng kiểu cốt truyện như thế. Hoa mía là truyện ngắn viết về

những mối quan hệ gia đình ở một vùng dân tộc ít người. “Hoa mía” có cốt

truyện khá đơn giản. Nhân vật, tuy có những giằng xé nhưng vẫn là những mâu

thuẫn quen thuộc trong văn xuôi viết về miền núi. Câu chuyện được nhắc đến

trong ngôi nhà của vợ chồng Sùng Chứ với Seo Mây, Seo Mây có người em gái là

Seo Mỷ, từ nhỏ đã bị tật nguyền (gù lưng). Ba người sống chung trong một mái nhà

rất hạnh phúc; nhưng càng lớn Seo Mỷ càng xinh đẹp và đem lòng yêu chính anh rể

của mình. Để rồi chỉ một lần duy nhất thôi Sùng Chứ không ngăn được lòng ham

muốn trước tấm thân trinh nữ rạo rực của cô em vợ. Không may Seo Mây lại chứng

kiến cảnh tượng đó và bỏ đi vào núi không may bị rắn cắn chết. Từ đó trở đi Sùng

Chứ ân hận, sống với sự ăn năn, Seo Mây cũng vậy, cô vì thương chị và hối hận về

việc mình làm nên đã bỏ đi biệt tích. Hai bố con Sùng Chứ và Sùng Choóng chìm

trong nỗi buồn, cùng sự dằn vặt sám hối của người cha.

“Hoa mía” là một câu chuyện buồn, phảng phất phong vị dân gian.

Chất dân gian đã tạo cho truyện một không khí như nửa thức, nửa mơ; nửa

hiện đại, nửa hiện thực, nửa huyền ảo. Đây cũng là một nét đặc biệt hấp

dẫn của “Hoa mía”.

Về không gian nghệ thuật: Ở đây là thung lũng Nặm Thàng. Cái không

gian đầy biến ảo với nhiều màu sắc, nhiều hương vị và nhiều sự lo âu, vui,

buồn, hạnh phúc, bất hạnh, đều đã được diễn ra ở đây. Đó là vùng mía - không

gian mía luôn xuất hiện trong tác phẩm. Cái không gian ấy cũng sinh tử, nhọc

nhằn, mất mát, khổ đau và hạnh phúc cùng con người Nặm Thàng. Chưa đầy

hai mươi trang sách mà có tới mười năm lần không gian vườn mía, luống mía,

rãnh mía… cứ quay đi, trở lại không dứt. Có lúc không gian mía hiện ra chơi

vơi, xa vắng như sương như khói, có lúc lại đăm đắm, ảo mờ như một nỗi buồn

nhớ khôn nguôi. Một không gian lắng đọng mà lan tỏa, day dứt và đầy trắc ẩn.

84

Không gian vật chất ấy đã trở thành không gian của tinh thần, của tâm hồn

phong phú, phức tạp của con người.

Không gian mía với hình ảnh: “Cả vạt mía rộng được bọc lớp áo cũ,

bỗng lộ ra những tấm mía tròn trĩnh, vàng óng như bắp tay con gái tuổi dậy

thì”[19,tr72-73], ở đây nhà văn không nhằm tả cảnh một cách đơn thuần, chị đã

dựng lên một không gian đầy tính phồn thực, mang màu sắc nhục cảm: Mía

“bóc lớp áo cũ”, mía “lộ ra những đốt tròn trĩnh”, mía “vàng óng như bắp tay

con gái tuổi dậy thì” - cái không gian ấy như một dự cảm về những hành động

“phá rào” không cưỡng nổi của bản năng. Bởi vậy, không gian ấy đã mang tín

hiệu của một thời gian đang chuyển động với những biến cố bất ngờ.

Một ví dụ nữa là đoạn viết về cảnh Sùng Chứ xuất ngũ trở về, gặp lại

nhau sau bao năm xa cách - Sùng Chứ và Seo Mây ôm riết lấy nhau, lăn lộn

trên những rãnh mía rậm rạp. Trong cái say mê cuồng nhiệt ấy, anh chị đã bị

“vô vàn lông tơ rặm rặm của bẹ mía đâm vào”. Người đọc ngờ ngợ nhận ra đó

là một thứ không gian hạnh phúc đến tột cùng, nhưng cũng đau thương đến tận

cùng. Không phải chỉ là lông tơ mía mà chính cái “không gian hạnh phúc đau

thương” ấy đã găm vào da thịt, găm vào trái tim của họ. Nó gợi cho độc giả

hình dung về một sự bất an ở phía trước. Không gian trong truyện ngắn của Bùi

Thị Như Lan thường có tính dự báo về số phận của con người như vậy.

Bùi Thị Như Lan là một cây bút tỏ ra có nghề trong việc sử dụng những

tiểu không gian cho các nhân vật. Thử hình dung cái tiểu không gian của Seo

Mỷ: “Từ bé Seo Mỷ lặng lẽ sống theo ý mình. Cứ nhìn vào góc giương nhỏ

của nó thì biết. Trong đấy đủ các thứ vụn vặt. Đấy là nửa chiếc lược sừng gãy,

cái cặp ba lá hoen gỉ…” [19,tr83]; hoặc “Seo Mỷ sống âm thầm như thứ quả

xanh trên cây, náu mình trong tán lá dày bị cớm nắng, không chín được”.

Những nơi “góc giương”, “tán lá dày bị cớm nắng” đã diễn đạt khá trọn vẹn

không gian tinh thần của một cô gái tật nguyền. Tuy nhiên, đối trọng với cái

không gian tinh thần ngưng đọng ấy lại là một sức xuân bừng bừng của cơ thể

85

căng tràn nhựa sống, chỉ muốn “nổi loạn” của Seo Mỷ. Người đọc chỉ thấy

buồn và đáng tiếc vì sự đi quá giới hạn của Sùng Chứ và Seo Mỷ chứ không

muốn kết tội cái tình huống mà họ “phạm tội”. Cái không gian nghệ thuật mà

nhà văn xây dựng đã có sức mạnh thay đổi quan niệm, cả cách đánh giá sự việc

con người.

Dù thế nào đi nữa thì bi kịch vẫn cứ là bi kịch. Seo Mây chết, Seo Mỷ bỏ

đi biệt xứ, Sùng Chứ ở vậy nuôi con trong nỗi dằn vặt khủng khiếp. Một không

gian bi kịch bao trùm lên khắp nơi, khắp chốn trong thung lũng Nặm Thàng.

Không gian bi kịch ấy còn được mở rộng thêm, đẩy ra xa hơn, di động theo

từng bước chân tha hương của Seo Mỷ. Và nó cũng bao trùm lên cả tâm hồn

độc giả.

Nhưng rồi cái không gian bi kịch kéo dài hàng chục năm ấy cũng đến lúc

phải chấm dứt để mở ra một không gian mới: sang sủa hơn bởi sự sự tha thứ

của con người. Tất cả được xuất phát từ một lời đối thoại duy nhất của cậu con

trai Sùng Choóng với người cha: “Cha phải nghĩ khác thôi, mẹ con cũng muốn

thế. Cha còn nhớ mẹ bảo cha đối tốt với dì Seo Mỷ? Cha không đón dì về thì

mẹ nằm trên núi lạnh cũng không yên bụng. Mẹ giận cha nhiều đấy. Con muốn

cha sống khác.”[19,tr87]. Sống khác! Nói rõ hơn chính là phải tạo ra một

không gian khác - một không gian lạc quan, sáng sủa, thay vào không gian tăm

tối, nặng nề đang đè nặng lên mái nhà của những người vốn rất thương yêu

nhau. Nó là không gian của mơ ước, không gian tinh thần. Tới đây ta bỗng có

một cảm tưởng thung lũng Nặm Thàng vốn âm thầm ấy như bừng lên trong

nắng mới. Cái sức mạnh “làm đổi thay” ấy ở truyện ngắn này thuộc về chàng

trai Sùng Choóng, một thanh niên sắp trở thành anh “Bộ đội Cụ Hồ”. Sùng

Choóng không phải là nhân vật chính, nhưng là đại diện của cái mới, cái đổi

mới của nhân sinh quan. Nhân vật Sùng Choóng là “điểm sáng” của tác phẩm.

Cũng cần nói thêm cái không gian “con muốn cha sống khác” mà Sùng Choóng

mở ra, tuy chỉ mới manh nha, nhưng là vệt ánh sáng phản chiếu lên toàn bộ

86

không gian nhợt nhạt, thăm thẳm cô đơn của Sùng Chứ và Seo Mỷ. Nó kéo tư

tưởng tác phẩm thoát ra khỏi phạm trù bi kịch. Đấy có lẽ cũng là tư tưởng của

tác giả.

Về hình thức thể hiện, một điều dễ nhận thấy trong “Hoa Mía” là tác giả

sử dụng ít đối thoại. Điều này cũng phù hợp với hoàn cảnh, tâm trạng của các

nhân vật trong tác phẩm. Những đoạn tả cảnh, những lớp không gian luôn

chiếm ưu thế trên từng trang viết. Đấy cũng là bút pháp quen thuộc của nhiều

cây bút người dân tộc hoặc khi viết về miền núi. Có lẽ bởi thiên nhiên rộng rãi,

khoáng đạt, trùng điệp, hoang sơ và đầy bí ẩn của miền núi cao, rừng sâu đã “rủ

rê” ngòi bút của người viết. Tuy nhiên, để có được sự biểu đạt thành công về

những không gian nghệ thuật thì không phải bất cứ tác giả nào cũng có được.

Đoạn kết truyện cũng được Bùi Thị Như Lan sử dụng rất hiệu quả lối

diễn tả không gian nghệ thuật. Ngày Sùng Choóng nhập ngũ, Sùng Chứ đã tiễn

con trong không gian “biển mía xanh mướt mát, có tiếng đôi chim sẻ ríu rít”.

Vẫn là không gian của vùng mía quen thuộc, nhưng đã là một không gian tươi

sáng, mở rộng (biển mía). Nhưng nếu chỉ có vậy thì truyện sẽ sơ lược và thiếu

chiều sâu thẩm mĩ, nhà văn Bùi Thị Như Lan đã “tung” ra một tiểu không gian

xen vào cái không gian “đại cảnh” kia: Hoa mía trắng bồng bềnh, trắng như

một nỗi cô đơn. Hoa mía - dấu hiệu sinh học của sự tàn phai (mía ra hoa là ruột

mía đã bị bấc rất ít nước ngọt); Hoa mía là linh hồn của Seo Mây, là biểu tượng

của nỗi sầu muộn không tan, là sự ngưng kết tái tê của những lỗi lầm. Hoa mía

vĩnh viễn trường tồn trong mọi kiếp nhân sinh đầy biến động. Thế là bên cạnh

cái không gian kết truyện đầy sáng sủa kia, còn thấp thoáng một không gian xót

xa, một không gian tâm linh có mầu sắc u hoài. Cái không gian ấy vô hình,

nhưng có sức đeo bám khủng khiếp trong trái tim người. Bởi vậy “người kể

chuyện” đã phải khéo nhẹ nhàng nhắc nhở: “Kìa! Đôi chim này, se sẽ cái mồm

thôi. Đừng mải miết bay nhảy mà đểnh đoảng làm đau hoa mía đấy”[19,tr89].

Câu kết đầy ắp nhân tình mà khiến ta buồn hiu hắt.

87

Khi buồ n con ngườ i thườ ng hướng về quá khứ . Có quá khứ tươi đe ̣p

khiến con người nuối tiếc, có quá khứ đau buồ n khiến con ngườ i xó t xa. Nhờ

có thời gian trong quá khứ qua hồ i tưởng mà nhân vâ ̣t trở thành con ngườ i đang

vâ ̣n động, có chiều sâu tâm hồ n. Nhà văn Như Lan thường xây dựng nhân vật

của mình theo chiều hướng này và đạt được hiệu quả nghệ thuật nhất định. Dù

ở khoảng thời gian, không gian nào thì các nhân vật của chị đều đem tới cho

mỗi người chúng ta những khoảng lặng của kí ức không quên, khó phai nhạt.

Thoáng nhìn thì có vẻ như các tác giả có xu hướng xa rời truyền thống, nhưng

xem xét kĩ, thì điểm chung của các tác giả là hăng hái dấn thân tìm tòi, thử

nghiệm cách xây dựng cốt truyện theo hướng hiện đại này lại chính là ý thức đề

cao tính dân tộc và vẻ đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc mình. Trong thời

kỳ hiện đại.

3.2.3. Cốt truyện vừa mang tính hiện thực vừa mang tính huyền ảo

Cốt truyện vừa mang tính hiện thực vừa mang tính huyền ảo chính là

kiểu cốt truyện “hậu hiện đại”: Truyện lồng trong truyện, cắt dán, xáo trộn (

hoặc không có mở đầu và kết thúc).

Trong các truyện ngắn của Bùi Thị Như Lan thì kiểu cốt truyện này

chiếm số lượng không nhiều. Đó là khung cảnh thiên nhiên, cảnh cuộc sống

sinh hoạt của con người. Cảnh thì như thực, như mơ, khi mờ, khi ảo. Tất cả như

vẽ ra trước mắt người đọc nhiều bức tranh được dán chồng lên nhau đa nghĩa,

đa chiều.

Rất nhiều trang trong các truyện ngắn của tác giả Như Lan miêu tả cảnh

thiên nhiên với các chi tiết hết sức cụ thể, với những hình ảnh sống động, thực

tế ở vùng miền núi. Ví dụ như hình ảnh con đường mòn trên các sườn, hình ảnh

ngôi nhà sàn, những đồi, những dốc, những đèo cao, sương mù…. ““tôi cặm

cụi ngược nú i về nhà (…) cò n phải leo qua mấy cá i dố c nữa tôi mớ i về đến nhà ” ; “Ngôi nhà vẵng chãi vớ i chín bậc cầu thang né p mình dướ i chân nú i Phja Mạ là nơi tôi cất tiếng khó c chà o đờ i” [21,tr139]; “Chặng đườ ng gập

88

ghềnh về bản, đây là con đè o vừ a rộng vừ a cao, độ dốc tưởng chừ ng như dựng

đứ ng, cá i chân khó nhọc leo lên từ ng bậc đá , lưng cú i gập xuố ng, khuôn mặt cá ch đườ ng chừ ng và i sả i tay. Mỗi lần về nhà Dần đi như bò qua đây, muố n đi nhanh nhưng không đi nổi. Lên trên đỉnh đè o thì sương mù đặc quá nh níu chặt chân ngườ i. Gió ở đâu đó à o ạt, hun hú t tú m lấy ngườ i lôi đi Dần rù ng mình vì lạnh. Cá i mắ t căng ra nhìn trướ c, nhìn sau, chỉ thấy cây rừ ng nối nhau chạy dà i mà không thấy ngườ i bản”[25,tr80]. Sự heo hú t, hoang vắng, gồ ghề củ a con đườ ng cho ta thấy đươ ̣c phần nào sự gian khổ cùng những hiểm nguy trong

cuộc sống củ a ngườ i dân. Đó là hiện thực khắc nghiệt của thiên nhiên: “Tôi nhe ̣

bướ c trên lố i mò n lởm chởm đá , những ngọn cỏ cõng đầy sương, cọ và o chân

tôi má t lạnh và ướ t á t. Tôi đi và o rừ ng chè . Những cây chè cao to sừ ng sững vò m lá xanh đậm ken dầy nà y giữ trọn bí mật cuộc đờ i tôi” [20,tr139], nhưng những đoa ̣n đườ ng đó trở lên gần gũi quen thuô ̣c vớ i ngườ i dân miền nú i: “…Cây nọ nối liền cây kia tầng tầng, lớp lớp chen chúc nhau từ bản leo tít lên

những ngọn núi, bám rễ vào vách đá, bừng bừng trỗi dậy một sức sống bình

minh, mãnh liệt. Trải qua không biết bao nhiêu mùa mưa, mùa nắng trôi qua

đã tạo nên rừng mắc tào cổ thụ, có cây to chừng ba người ôm không nổi. Năm

nào cũng thế, khi những cánh gió cuối đông vội vã trượt dài xuống núi, kéo

theo tụi lá khô gấp gáp lăn trên sườn đá sàn sạt, cũng là lúc mây trắng như

bông cõng sương mù lang thang sà xuống bản…”[23,tr70].

Không gian nú i rừ ng ở đây không phải nơi đâu cũng dữ dô ̣i, nguy hiểm

mà cũng có những sự thơ mô ̣ng huyền ảo “Chiều đã ké o bó ng xuố ng sông, nắ ng chưa tắ t hẳn, hẵy cò n và i giọt bấu víu trên những ngọn cây lau, cây chít. Bên kia sông, một dả i nướ c lấp lá nh và ng chạy dà i xuố ng bãi ngô đang rập rờ n chuyển động theo ngọn gió chiều” [19,tr7]. Không gian thoáng đãng, yên ả, trải

đầy mầu vàng êm ái, làm cho con ngườ i ta thấy ấm áp, êm ái, tâm hồ n nhe ̣

nhàng. Ở nơi đây làm cho tâm hồ n con ngườ i ta thấy nhe ̣ nhàng hơn, bao nhiêu

muô ̣n phiền như đươ ̣c chia sẻ vơi đi. Trước mắt người đọc như bao trùm những

89

dải núi trùng trùng với những con đường mòn nhỏ gập ghềnh đến đáng sợ,

nhưng bên cạnh những dải núi ấy lại là khung cảnh đẹp tựa như một bức tranh

đầy mầu sắc trong truyện ngắn Bùi Thị Như Lan. Đó là cảnh “sơn thủy hữu

tình”, là cảnh làm ấm lòng biết bao người đến đây.

Đến với một tác phẩm khác như Gió hoang, mở đầu tác phẩm nhà văn miêu tả ngôi nhà của Dẻn, nhà Dẻn ở dướ i chân núi Phja Dú : “Nơi giữa lò ng trờ i

có con thuồ ng luồng ngó đầu xuống nó c nhà ở Pù Lay. Từ trong cá i miê ̣ng rộng ngoá c, bí ẩn nhả ra dòng nước to, đổ ầm ầm xuố ng thung lũng, hụp xoá y thà nh cá i hồ lớ n, quanh năm hơi nướ c bố c lên mù mi ̣t gọi là hồ Mây”[19,tr90]. Ngay ở đầu tác phẩm nhà văn đã miêu tả sư ̣ dữ dô ̣i, nguy hiểm củ a dòng nướ c, sự hiểm trở của núi rừ ng, không gian được mở ra theo ba chiều khiến cái nguy hiểm, dữ dô ̣i củ a sông nước ở đây càng tăng lên gấp bô ̣i. Chính sư ̣ mở đầu này làm phông nền cho sư ̣ xuất hiê ̣n và thể hiê ̣n lò ng dũng cảm củ a nhân vâ ̣t Pàng khi anh bất chấp nguy hiểm ra nơi “Chính giữa vực, nơi dò ng nướ c xoá y mạnh đổ từ miê ̣ng thuồ ng luồ ng xuố ng” – nơi mà mọi ngườ i không ai dám ra, mă ̣c dù biết chỗ đó rất nhiều cá. Nhưng Pàng dám “cả gan” ra để bắt những con cá chép to về nấu cháo cho vơ ̣ tầm bổ sứ c khỏ e khi mang thai. Vì tình thương vơ ̣ anh bất chấp nguy hiểm, nhưng cũng chính ở chỗ nguy hiểm đó , anh đã cứ u được một người phu ̣ nữ đi ̣nh tư ̣ tử . Nhà văn đã đă ̣t nhân vâ ̣t vào không gian ẩn đầy những bất trắ c ấy để tô đâ ̣m lò ng dũng cảm cù ng sứ c ma ̣nh của lòng nhân ái củ a ngườ i lính năm xưa.

Cảnh nú i rừ ng vây bo ̣c trong sương mỗi sớ m mai là hình ảnh đă ̣c trưng củ a miền sơn cướ c. Điều này đã đươ ̣c nhà văn đưa vào tác phẩm củ a mình: “Đến lú c những sợi nắ ng ấy bi ̣ hú t và o lũng nú i, nhườ ng chỗ cho bụi sương từ trên nú i Phja Khao theo gió bay về lan khắ p bản Khuôn Đả y, sương bủa vây trù m kín nhà ké phả ra hơi nướ c là nh lạnh” [19,tr129], Chính không gian mờ ảo, la ̣nh lẽo củ a sương nú i làm cho phong cảnh trở lên mờ mờ ảo ảo. Cái se se la ̣nh củ a sương làm cho con ngườ i ta cũng thấy lò ng di ̣u la ̣i, những nỗi lo hàng

90

ngày chơ ̣t vơi đi. Không gian ấy đã khiến cho bao nhiêu muộn phiền, bao khó khăn nhọc nhằn những tưởng chẳng thể nào vơi đi - nhưng ở đây, chỉ cần nhìn

vào, hòa vào khung cảnh ấy thì hình như bao nhiêu muộn phiền đều được giảm

đi, bao nỗi buồn như được xóa tan đi vậy.

Có thể nói, nhà văn Như Lan đã gử i gắm bao tình yêu, tình cảm của mình vào từ ng mái nhà sàn nhỏ bé, những con đường nhỏ he ̣p quanh co dướ i chân nú i, rồ i cả khung cảnh nú i non chờn vờ n trong mây sớm… Tất cả ta ̣o nên những trang văn vừa gần gũi, vừ a thơ mô ̣ng mang đẫm bản sắc vù ng cao. Con người như hòa lẫn vào với thiên nhiên, khó phân định, đôi khi tưởng chừng như

đó là bức tranh nhiều mảng: Sáng - tối; rực rỡ - u buồn; thực – mơ… khiến

người đọc mơ hồ khó nắm bắt. Với thủ pháp nghệ thuật này, hình ảnh thiên

nhiên và con người miền núi được khắc họa từ nhiều góc cạnh khác nhau. Kiểu

cốt truyện này tuy không xuất hiện nhiều trong sáng tác của Bùi Thị Như Lan,

nhưng cũng đủ cho ta thấy: Sự cố gắng, nỗ lực không ngừng để khám phá và

phản ánh hiện thực, với ý thức làm mới, làm phong phú, đa dạng, nhiều góc

cạnh hơn trong cách tiếp cận hiện thực cuộc sống của cây bút nữ DTTS này.

3.3. Một số đặc điểm về ngôn ngữ nghệ thuật

Ngôn ngữ nghệ thuật được sử dụng chủ yếu trong các tác phẩm văn

chương có chức năng chủ yếu là để xây dựng hình tượng nghệ thuật, tác động

đến cảm xúc của người đọc, biểu hiện cái đẹp, khơi gợi và nuôi dưỡng cảm xúc

thẩm mỹ cho người đọc.

Ngôn ngữ nghệ thuật có vai trò đặc biệt quan trọng bởi nó là yếu tố vật

chất duy nhất trong tác phẩm văn học. Qua ngôn ngữ, người đọc khám phá

được bao điều trong tác phẩm: Thế giới hình tượng, tư tưởng, quan niệm… mà

nhà văn gửi gắm trong tác phẩm của mình. Bên cạnh đó, ngôn ngữ nghệ thuật

chính là cái vỏ, cái hình thức chứa đựng cả thế giới mà nhà văn sáng tạo: Từ

cảnh vật, con người, đến cốt truyện, kết cấu, chủ đề… Trong mối quan hệ chặt

chẽ ấy, ngôn ngữ nghệ thuật trở thành phương thức tồn tại, phương thức biểu

hiện của nội dung, đồng thời nó còn biểu hiện trực tiếp và rõ nét phong cách và

91

tài năng của nhà văn. Khác với ngôn ngữ văn hóa, ngôn ngữ nghệ thuật mang

dấu ấn, màu sắc riêng của từng tác giả, phản ánh nét độc đáo của mỗi nhà văn.

Khi các nhà văn sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật, mỗi người lại có khả năng thể

hiện một giọng điệu riêng, cách xử lí riêng tạo nên cá tính sáng tạo, phong cách

đặc thù.

3.3.1. Ngôn ngữ dung dị, đời thường mang đậm chất dân tộc, miền núi

Hiện nay phần lớn các nhà văn DTTS đều dùng tiếng phổ thông để sáng

tạo tác phẩm văn chương của mình. Thế nhưng , trong sáng tác của một số nhà

văn DTTS, độc giả vẫn thấy thấp thoáng những câu, những dòng, những từ ngữ

của ngôn ngữ người DTTS. Bởi các nhà văn thường có ý thức đưa ngôn ngữ

mẹ đẻ vào tác phẩm văn chương như một cách giúp người đọc hiểu sâu hơn về

cuộc sống về tâm hồn, về bản sắc văn hóa của cộng đồng dân tộc mình.

Có thể dễ dàng bắt gặp những đoạn văn, câu văn có sử dụng ngôn ngữ

Tày trong các tác phẩm của nhà văn Bùi Thị Như Lan. Trước chị, tác giả Hà

Thị Cẩm Anh là một nhà văn rất hay đưa tiếng hát ru bằng tiếng Mường vào tác

phẩm của mình, tạo nên một sắc thái đặc trưng: Sắc thái Mường trong sáng tạo

nghệ thuật.

Trong các sáng tác của mình, nhà văn Như Lan thường sử dụng thứ

ngôn ngữ rất dung dị, đời thường, chị còn đưa khá nhiều tiếng đi ̣a phương vào

tác phẩm củ a mình (ở cả ngôn ngữ nhân vâ ̣t và ngôn ngữ người trần thuâ ̣t).

Nhờ đó mà câu chuyê ̣n trở lên sinh đô ̣ng, mang giọng điệu riêng củ a ngườ i

miền nú i, làm cho câu chuyê ̣n có sứ c thuyết phu ̣c hấp dẫn ngườ i đo ̣c hơn. Ví

dụ, nhà văn đã sử du ̣ng tiếng địa phương để diễn tả tiếng kèn go ̣i ba ̣n tình củ a

các chàng trai tỏ tình cù ng ngườ i con gái mà ho ̣ yêu:

-“..Tù mua ơ, pi lầu pi nhueê pậy trôngs noồng pau noồ ng, pau noồng

thoôi tì se pán tau ti lâus tua, lớ thá chs hoỏ cứ nha. Pi lầus laà hé doó ng, tua

laus cuôn pừ hai pé t lầu la lù laâu cừ a kha khú a…”.

92

(….Em ơi, anh lên nú i cao hỏi bầy chim, chim sả i cá nh đưa chân anh tớ i nơi em ở. Anh vào rừng thẳm, gió rừ ng rì rà o nói hộ anh lờ i yêu thương nhớ em ra diết…).

-“….Pi lầu ơ, tu mú cư dà lú c peê đá mùa tù leềnh nghe, đá là mũa lừ mũa lừ de hoót phaũ tee chí leềnh la lù nhi ̣a tù mủ cứ đá mũa, lú c siaa nhi ̣aa tsênh tià thá pi lầu, rêng cau khù mua trêus tù pa ni ̣a lểnh vi ̣a….”

(…Anh ơi, em là bông hoa đã có người nâng niu, là giọt sương sớ m tan

trong bà n tay ngườ i con ấy, lời yêu em đã trao nơi trá i tim nồ ng nà n, đắ m say, xin

anh dà nh khú c há t muôn đờ i sang người con gá i khá c…) [21,tr11].

Hay: -“ Mật mè ng bên quá nả , chẳng lập lè , lè lặm, cần Slương chằ ng lập phuối, bấu chẳng đả y noọng she….” (Ong bướm bay qua trước mặt, chưa ki ̣p nhìn đã khuất, lời yêu chưa ki ̣p nó i, không giữ được em lại…)

-“ Đá lừm…Đá lừ m đảy tình” (Không quên, không quên được tình) -“ Noọng a Slương căn Slíp vằ n tà ng nhằ ng xẩu” (Em ơi, yêu nhau cá ch

mườ i ngà y đườ ng cò n gần…)[20,tr172].

Lờ i ai oán củ a chàng trai khi cô gái không đáp la ̣i chàng trai, để chàng trai tháng ngày theo đuổ i :“ Bjoóc ngá m, phong phú bàu tam, Bjoó c khó t rá c pền ăn chẳng sliêt….” (Hoa chú m chím mớ i nở không đi tìm hoa nở kết trá i rồi mớ i tiếc….)

- “….Có ai pây xà o pá o vạ noọng Noọng điếp, cần tà u có xà o páo cần đeo”.

(….Anh muốn hát trao duyên cù ng em Em lại yêu ai để anh há t một mình…)[17,tr50]. - “….Pi mừ a khoăn noọng củng mừa lè o

Khỏa noọng chắ p co phieo hua bả n

Pi ầu, ngài chứ đảo noọng nở chà i Pỉ mừa….Noọng mừa đuổi…..” (….Anh về hồn em cũng về theo

93

Hồ n em đậu bờ tre đầu bản

Bữa ăn, anh nhớ gọi tên em

Anh về…Em về theo…) [17,tr59-60].

Tiếng đi ̣a phương cò n đươ ̣c nhà văn sử dụng trong tiếng hát ru của

những người mẹ miền núi:

-“ ….Cứ tủa mấy troộng tua

Mấy ả troông pầnh tầu

Mấy lá chù a trềnh troông Sỉa Sỉa…” (….Nà y bé ngoan ta ơi! Đừ ng rẫy đừng đạp Bé ơi đừ ng hờ n dỗi Bé lớ n nhanh thà nh nú i cao vờ i vợi…”[17,tr112-113].

Ngôn ngữ dung dị, đời thường mang đậm chất dân tộc miền núi còn được thể

hiện qua những đoạn đối thoại, giữa các nhân vật là người DTTS với cách nói, cách

dùng từ rất đặc trưng như:

“ Sìn là u bà u: - Dí biết cá i bụng con không thể ở vớ i nó được mà . - Ây dà ! Mà y trá t đất bù n và o mặt tao như thế chưa đủ sao? Mà y…mà y

đã làm bố thằ ng trẻ con rồi đấy.

Sìn trò n mắt kinh ngạc, thoảng thố t: - Dí, sao thế được? Cá i đứ a vợ ấy con chưa đụng và o ngườ i nó mà .”

[21,tr37].

Hay :

- Chứ à, mà y lớn tuổi rồ i, đã để mắ t tớ i đứ a con gá i nà o chưa? Chứ lúng tú ng rồi ấp ú ng: - Có à …à chưa nỉa à . - Cá i thằng nà y sao thế? Hơn ba chục tuổi đầu rồi cò n để đến bao giờ ? - Nỉa à , vội gì, con….con có chỗ rồi.

94

- Chỗ nào thế? Nói để nỉa cò n lo. Nỉa già rồ i, không biết số ng chết thế nà o. Chứ chần chừ một lú c rồ i đưa cho me ̣ xem cá i khăn thêu hoa bjoó c lá p

trắ ng muốt hình trá i tim. Thoáng đỏ mặt, Chứ ngập ngừ ng:

- Nỉa à , của Nhí Trong ánh sá ng nhập nhò a của ngọn điê ̣n cuối nguồn, Chứ thấy me ̣ kín

đá o giấu nụ cườ i đi”. [19,tr55-56]

Hoă ̣c đó là những câu nó i dân dã quen thuô ̣c trong lối giao tiếp hàng

ngày theo cách diễn đạt của người DTTS như: “Hon à , lên nhà nhen lử a thôi, mà y đi ̣nh để hai mế con cù ng ngồi đây mà cá i bụng đó i à ? Ây da!Mà y đừ ng có thở dà i như thế, con gá i thở cá i tiếng ấy không sướ ng đâu” [21,tr51].

Ngườ i dân miền nú i thường không tính thờ i gian giống như ngườ i miền xuôi, mà ho ̣ tính thờ i gian bằng những mù a của các loài cây hoa, mùa cây lương thực trên nương, nên họ nói theo cách nói ấy: “Khi tôi ăn được bẩy mù a cây lú a trên nương cho hạt….”; “Vừ a qua một tiếng thở dà i đã hơn hai mươi

con lũ trôi”; “Từ lúc thằ ng Sù ng Choó ng con trai ông mớ i được ba mù a mía cho mật”; “Con tôi mớ i tắ m nắ ng trời được năm năm”, “Chị Ngả i nhìn thấy mặt trờ i trước tôi mườ i con lũ về, con lũ lại đi”, “Khi tôi sinh ra đươc sáu mù a lú a, thì bố tôi đi bộ đội”, “bố tôi xa nhà đã hơn ba mù a lú a trên nương”[21,tr140—146].

Khi nói tới ngôn ngữ của người DTTS, ta thấy có một đặc điểm nổi bật

trong các tập truyện ngắn của Bùi Thị Như Lan đó là những lời hát ru, những

lời cầu khấn cho mùa màng tươi tốt, cho những đứa trẻ mới chào đời. Đặc biệt

là những lời tỏ tình củ a các chàng trai gử i tớ i cô gái mà mình yêu thương, thường rất bay bổng, hình tượng và đầy chất ví von, so sánh, ví dụ như:

“…..anh là gió lang thang, là mưa khi không có em. Em ơi sao bước chân em lạc lối để anh đỏ con mắ t đi tìm…”

“ Em ơi, mù a nố i mù a qua đi qua, gió thổi và o trong khe, anh là hạt sương sớ mtan trong lò ng bà n tay em. Gió thổi lá cây lật nghiêng bên suối, anh

95

là nướ c tan dướ i bà n chân em, mặt trờ i thứ c anh rủ em lên nương và o rừ ng,

mặt trờ i ngủ anh cù ng em quay quần bên bếp lử a…” [21,tr40-43].

Đó còn là lờ i khấn trời đất, thần linh cầu mong điều tốt lành cho mọi

ngườ i, đó là lờ i cầu khấn cho mô ̣t đứ a trẻ mớ i sinh…, với những lời khẩn cầu

đậm chất miền núi: “Có một sinh linh nhỏ bé của bản, của mườ ng đã ra đờ i và

cầu xin cho nó có cái nết hay ăn mau lớn, khỏe mạnh để mai sau là ngườ i trụ cột của gia đình”. ;“….Hỡi trời cao, ơi đất dà y, hỡi tổ tiên họ Sù ng, con xin cú i đầu lậy ba lậy, xin ông bà chứng cho bụng con yêu thương em My ̣ Phua lớ n như dãy núi cả đầu bả n, dà i như con suố i chả y mãi không dừ ng..”

Đó là bài hát ru, bài hát tỏ tình bằng tiếng dân tộc do những người con

gái, con trai, do những người mẹ, người bà ở miền núi cất lên:

- “….Nù ng nho đê chú a kề Chì tro dề cu Là nh nho dê chia nu kế Tù trểnh cho tù đua”…. (…Chim cá ch xa mườ i dặm Không quên tổ cũ

Ngườ i cách xa trăm ngà y đường Không quên bó ng hình nhau…) (Nú i đơ ̣i) Hay:

-“ À ơi, con ơi con ngủ cho ngoan

Để mẹ đi hái lúa nương mang về…”[17,tr44].

Hoặc là những lời hát dồn dập, trách móc của lứa đôi:

-“ Có ai pây xào páo vạ noọng

Noọng điếp, cần tàu có xào páo cần đeo”

(…Anh muốn hát trao duyên cùng em

Em lại yêu ai để anh hát một mình…).[17,tr50]

Rồi trên các nẻo đường về nhà, vang lên lời hát “xào páo” thiết tha:

96

- “…Pi mừa khoăn noọng cũng mừa lèo

Khỏa noọng chắp co phieo hua bản

Pi ầu, ngài chứ đảo noọng nở chài

Pỉ mừa…..Noọng mừa đuổi…”

(….Anh về hồn em cũng về theo

Hồn em đậu bờ tre đầu bản

Bữa ăn, anh nhớ gọi tên em

Anh về…em về theo….). [17,tr59-60]

Bên ca ̣nh những bài dân ca, bài hát đó, trong các tác phẩm của mình -

nhà văn Như Lan cò n hay dùng các từ quen thuộc của người DTTS trong lời nó i sinh hoa ̣t hằng ngày của ho ̣ như: Dí, Nỉa, mế (cha, mẹ), Phạ (ông trờ i), xà o phá o (trao duyên), lồ ng tồng (xuố ng đồng), đắ t cá y (dặm cướ i), minh hom

(dặm ngõ)…. Đo ̣c những câu văn trên đô ̣c giả như đã thâm nhâ ̣p vào đờ i số ng văn hó a củ a ngườ i miền núi, hiểu thêm vẻ đẹp đặc trưng trong ngôn ngữ bản

địa của họ.

* Tóm lại, khi tìm hiểu về ngôn ngữ nghệ thuật trong truyê ̣n ngắn củ a nhà văn Như Lan chú ng tôi nhận thấy: nhà văn thường sử dụng thứ ngôn ngữ giản dị, đời thường với cách diễn đạt đúng theo cách nói của người miền núi.

Việc đưa nguyên văn một số từ hoặc một số câu là tiếng dân tộc vào trong tác

phẩm khiến cho người đọc vừa cảm thấy lạ, vừa cảm thấy thú vị, bởi nó rất

giàu sức gợi và thể hiện bản sắc dân tộc rõ nét.

3.3.2. Ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu chất so sánh, liên tưởng mang màu sắc

miền núi

Trong lời văn nghệ thuật của nhà văn Bùi Thị Như Lan, cũng giống như

một số nhà văn DTTS khác – chị rất hay sử dụng thứ ngôn ngữ giàu hình ảnh,

giàu chất so sánh, liên tưởng mang màu sắc miền núi. Có lẽ do được sinh ra và

lớn lên tại làng bản miền núi cho nên chị hiểu rõ rất rõ về ngôn ngữ và cách sử

dụng ngôn ngữ của cộng đồng dân tộc nơi đây. Dấu ấn về phong cách giao tiếp,

97

ngôn ngữ giao tiếp củ a đồ ng bào miền núi thể hiê ̣n ngay trong cách sử dụng từ ngữ, lựa cho ̣n hình ảnh, cách ví von, so sánh, liên tưởng….. trong câu nói, trong cách nói của họ. Những so sánh, liên tưởng đó mang tính trực giác mạnh

và rất gắn bó với sự vật, hiện tượng trong thiên nhiên, trong cuộc sống quen

thuộc, của người miền núi.

Trong các truyện ngắn của Bùi Thị Như Lan, những bức tranh thiên

nhiên được hiện ra với vẻ đẹp hung vĩ của núi rừng sông suối…bên cạnh những

ngôi nhà sàn – trông xa: “bé xíu san sá t, đứ ng ngồ i lổm ngổm trên lưng nú i hươu lớn, trên đầu hươu là “đôi sừ ng” tua tủa những “gạc ba”, “gạc bẩy” bá m chặt và o những vá ch đá , chen lẫn và o mầu xanh đẫm của rừng”. (Bồng bềnh sương nú i). Sự liên tưởng, so sánh về ngôi nhà như những con vật nhỏ bé đứng ngồi lổm ngổm trên những lưng núi (như con hươu), khiến cho người đọc

cảm nhận rất rõ về những làng, bản vừa cao, vừa nhỏ bé, vừa chênh vênh

nhưng lại rất vững chắc vì nó luôn bám chặt những vách núi.

Khi nói về đời người, về con người miền núi – tác giả cũng thường hay

sử dụng những từ ngữ vừa giản dị, vừa bóng bẩy bởi những hình ảnh đầy tính

so sánh, ví von với những hình ảnh quen thuộc của miền núi như: “Cuộc đờ i tôi cũng bướ c sang ranh giớ i của sự hé o hon tà n phai. Tôi đang cận kề chơi vơi như chiếc lá già sắp nhuố m màu và ng thì tôi mớ i thấy được sự mong chờ đằ ng đẵng, vớ i biết bao hi vọng của tôi theo thời gian sao mà nhanh thế ? Vừ a một tiếng thở dài đã hơn hai mươi con lũ trôi”(Mù a hoa gắ m; “Anh rể cứ ng

cỏi như cây tre, cây trúc. Người anh găm đầy vế t sẹo của bom đạn thằ ng giặc,

nhưng đôi chân anh khỏe chắc, bướ c chân phầm phập như nhát cuố c (….) Miê ̣ng anh rể nó i ngọt như nướ c sông Nậm Thoong (….). Anh rể như cây lê, cây đà o khỏe về vóc dá ng lại ngọt ngà o vi ̣ quả”.

Việc so sánh, ví von với các hình ảnh của thiên nhiên, núi rừng dường

như là một đặc điểm chung của các cây bút DTTS. Nhưng ở từng tác giả vẫn

có những nét khác nhau. Nhà văn HLinh Niê – một nhà văn Tây Nguyên rất

98

hay sử dụng phương pháp so sánh, ví von này. Những nhân vật được so sánh

trong văn của HLinh Niê là những hình ảnh thiên nhiên Tây Nguyên với các

sắc màu khác – so với sắc màu thiên nhiên Việt Bắc của Bùi Thị Như Lan. Ví

dụ như Hlinh Niê viết: “Cây blang có hoa đỏ mùa hè, kết thành bông trắng

mùa đông. Cánh đỏ như máu của hoa chính là từng mảnh trái tim đầy yêu

thương đã tan nát của nàng H`Bia. Gió đông tách những chùm bông trắng xóa

mang theo tình yêu của H`Bia theo Dam san tới tận cuối đất cùng trời. Các cô

gái Radeh nhặt bông ấy se chỉ, nhuộm nước lá rừng và dệt những tấm chăn đắp

ấm mọi lứa đôi yêu nhau” (Hoa blang)…

* Tóm lại, thứ ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu chất so sánh, liên tưởng của

nhà văn Như Lan được sử dụng ở hầu hết trong các tác phẩm của chị. Chính vì

thế khi đọc tác phẩm của chị dễ nhận ra: Đây chính là phong cảnh của núi

rừng Việt Bắc, đây chính là hình ảnh con người DTTS vùng phía Bắc. Ngôn

ngữ đậm sắc màu DTTS, khiến cho chị trở thành một nữ tác giả viết thành

công và được bà con vùng dân tộc và miền núi phía Bắc yêu thích. Bởi đó

chính là tiếng nói tâm hồn của họ, là hình ảnh cuộc sống của họ và là hình

ảnh quê hương với núi rừng, làng bản… của chính chị - người con dân tộc

Tày vùng núi cao Bắc Kạn.

TIỂU KẾT

Để khái quát nên được hình tượng nghệ thuật mà có thể truyền tải đủ tư

tưởng, tình cảm, quan niệm, nghệ thuật và lý tưởng thì nhà văn Bùi Thị Như

Lan đã vận dụng khá linh hoạt một số nghệ thuật tiêu biểu để hoàn thiện tác

phẩm của mình một cách xuất sắc nhất. Cũng giống như các nhà văn DTTS

khác Bùi Thị Như Lan cũng đi sâu chủ yếu vào miêu tả nhân vật và hành động

của nhân vật, để thấy dù là một nhà văn trẻ so với rất nhiều nhà văn gạo cội

trên dòng chảy của văn xuôi DTTS, nhưng chị cũng đã có rất nhiều những độc

đáo riêng. Hơn cả đó chính là về ngôn ngữ nghệ thuật, đó chính là tính dân tộc,

99

bản sắc dân tộc rất đậm đà trong cách viết của Bùi Thị Như Lan. Tác giả

thường lấy vẻ đẹp của tự nhiên, núi rừng để so sánh với hình tượng nhân vật

trong mỗi truyện, đã vận dụng, diễn đạt rất thành công lời ăn tiếng nói hàng

ngày của người miền núi vào trong từng đoạn, hoặc cả đoạn dài...

Với những thủ pháp nghệ thuật này có thể thấy Bùi Thị Như Lan là

người am hiểu sâu sắc, là cây bút đầy sáng tạo trên từng trang văn. Chính vì lí

do đó mà những tập truyện của chị được đánh giá cao, vừa hiện đại nhưng

không xa rời truyền thống.

100

KẾT LUẬN

1. Bùi Thị Như Lan là một nhà văn nữ DTTS thuộc thế hệ trưởng thành sau

những năm Đổi Mới. Chị là một trong số các nhà văn nữ DTTS có sức viết dồi dào

và đã đạt được những thành công trong sự nghiệp sáng tác văn chương của mình

bên cạnh những nhà văn trưởng thành khác. Chị đã có 8 tập truyện ngắn được công

bố liên tục từ sau năm 2000 đến nay, trong đó có một số tác phẩm được đánh giá

cao, được nhận giải thưởng của trung ương và địa phương. Chị là một trong những

gương mặt nhà văn nữ DTTS tiêu biểu thời kỳ sau Đổi Mới đến nay.

2. Truyện ngắn của Bùi Thị Như Lan có một số đặc điểm nổi bật (ở cả

phương diện nội dung và nghệ thuật) cụ thể như: Chị đã hướng ngòi bút và tình

cảm của mình vào việc viết về cuộc sống và con người miền núi thời kỳ sau

chiến tranh và thời kỳ hiện đại hóa – hội nhập quốc tế. Vấn đề mà nhà văn quan

tâm sâu sắc là số phận của những người phụ nữ miền núi, những người lính là

con em các DTTS trong chiến tranh cũng như khi hòa bình lập lại trên mảnh

đất vùng cao đầy khó khăn và thách thức này. Dưới ngòi bút của chị, hình ảnh

những người phụ nữ DTTS được hiện lên với vẻ đẹp khỏe mạnh, tự nhiên, mộc

mạc, nhưng cũng rất rực rỡ, đầy sức sống và có sức cuốn hút mãnh liệt. Không

những có vẻ đẹp ngoại hình, họ còn có vẻ đẹp nội tâm, vẻ đẹp tinh thần rất

đáng trân trọng, ngưỡng mộ. Họ là những người phụ nữ xinh đẹp, giỏi giang,

khéo léo dệt vải, thêu thùa, khéo chăm sóc chồng con, gia đình... Trong cuộc

sống cộng đồng, họ là những người gìn giữ bản sắc văn hóa quê hương với

những lời ca, tiếng hát, điệu kèn lá; cùng với tư cách là những người vợ, người

mẹ đảm đang, vượt qua mọi vất vả, gian truân trong cuộc sống để làm hậu

phương vững chắc cho những người chồng, người con nơi mặt trận đánh đuổi

kẻ thù. Bên cạnh việc ngợi ca, khẳng định vẻ đẹp của người phụ nữ miền núi,

tác giả Bùi Thị Như Lan đã chú ý khai thác những mảnh đời, những số phận bất

hạnh, đầy sự éo le, trắc trở của người phụ nữ DTTS hôm nay. Cuộc đời của họ

101

thường gặp nhiều thử thách, nhiều nỗi buồn và trong số họ có rất nhiều người

có số phận kém may mắn, bị rơi vào những bi kịch trong tình yêu và trong cuộc

sống. Một mặt, họ phải vất vả lo toan cuộc sống gia đình thay chồng đi chiến

đấu, mặt khác họ luôn phải sống trong chờ đợi, mong ngóng, sống trong nỗi cô

đơn, đau khổ. Đã thế họ còn phải đối mặt với bao thách thức khác trong cuộc

sống thời kỳ hậu chiến và thời kỳ hiện đại hóa. Bao người chồng trở về khi thân

thể bị tàn phế, không có khả năng làm chồng và không thể có con. Bao người

chồng trong cuộc sống phức tạp hôm nay đã phụ bạc, bỏ rơi họ trong nỗi cô

đơn, buồn tủi. Đã vậy lại còn những hủ tục lạc hậu góp phần làm cho họ khốn

khổ, đọa đầy và tan nát gia đình. Viết về vấn đề này, cho thấy tác giả Bùi Thị

Như Lan rất thấu hiểu, rất cảm thông và rất day dứt về những nỗi khổ, nỗi bất

hạnh của những người phụ nữ vùng cao hôm nay.

Bên cạnh hình ảnh những người phụ nữ là hình ảnh anh bộ đội vùng cao.

Là một người lính, là một phóng viên – tác giả Như Lan tỏ ra hiểu biết một

cách thấu đáo về những người lính miền núi này và luôn giành cho họ những

tình cảm đặc biệt. Người lính miền núi trong tác phẩm của Như Lan là những

người con trai ưu tú của bản làng. Họ khỏe mạnh, cường tráng, hồn nhiên như

cây rừng và mạnh mẽ, tràn đầy sinh lực sống và sinh lực yêu. Nhưng chiến

tranh xẩy ra, họ đã sẵn sàng và xung phong lên đường đánh giặc, giữ yên bản

làng, bảo vệ đất nước. Trong chiến đấu, họ anh dũng, ngoan cường và đã hy

sinh xương máu, để lại một phần cơ thể của mình ở chiến trường. Khi trở về

quê hương miền núi, họ phải đối mặt với bao khó khăn, thách thức mới –

nhưng với tinh thần của người chiến sỹ, của người trai bản, họ đã trở thành

những tấm gương cho bản làng về việc xây dựng, làm giàu chính đáng cho quê

hương. Tuy nhiên, bên cạnh hình ảnh tươi sáng, khỏe mạnh của người lính

miền núi, dưới ngòi bút chân thực của Như Lan, người lính miền núi còn được

khắc họa ở một góc khác: góc khuất với bao nỗi buồn, sự day dứt – thậm chí là

nỗi bất hạnh của những người lính từ chiến trường trở về. Họ bị thương tật, bị

102

khiếm khuyết; họ không có khả năng làm chồng và cùng vợ sinh ra những đứa

con khỏe mạnh. Họ sống trong nỗi đau đớn về thể xác do những vết thương

trên cơ thể, và do những day dứt, buồn phiền vì đời tư với những nỗi bất

hạnh riêng. Phản ánh “mặt khuất” này trong cuộc đời của người lính miền

núi – nhà văn đã tỏ rõ sự trân trọng, thương yêu và thể hiện cả sự cảm thông,

sự sẻ chia chân thành của mình với những đồng đội kém may mắn trong

cuộc sống hôm nay.

3. Về nghệ thuật truyện ngắn của Bùi Thị Như Lan: Qua khảo sát và

thẩm thấu tác phẩm của chị, chúng tôi nhận thấy rõ: khả năng quan sát và khả

năng miêu tả sự vật, hiện tượng, con người của chị khá sắc sảo và độc đáo.

Riêng về nghệ thuật xây dựng nhân vật (người phụ nữ và người lính) đã thấy có

những đặc điểm nổi bật. Đó là tính dân tộc, bản sắc dân tộc rất đậm đà trong

cách miêu tả hình thức (cũng như nội tâm nhân vật). Tác giả thường lấy vẻ đẹp

của núi rừng, của tự nhiên để so sánh với vẻ đẹp của nhân vật; đã sử dụng các

từ ngữ (thậm chí cả một đoạn văn) là ngôn ngữ DTTS; đã diễn đạt lời ăn, tiếng

nói, suy nghĩ, hành động… của nhân vật đúng như cách nói, cách nghĩ, cách tư

duy… của người miền núi. Cốt truyện được dựng một cách linh hoạt, vừa mang

tính truyền thống, vừa mang tính hiện đại (cốt truyện theo thời gian tuyến tính,

theo thời gian gấp khúc, đảo lộn; cốt truyện vừa có tính hiện thực, vừa có tính

huyền ảo). Với những thủ pháp nghệ thuật này – Như Lan đã chứng tỏ là một

cây bút có sáng tạo và có sự đổi mới, hiện đại nhưng không xa rời truyền

thống. Vì vậy, tác phẩm của chị vừa có mầu sắc lạ, lại vừa có điểm quen thuộc,

khiến người đọc dễ tiếp cận và dễ đồng cảm.

4. Tuy chưa phải là một nhà văn DTTS xuất sắc, nhưng với những gì

mà tác giả Bùi Thị Như Lan đã làm được, đã cống hiến cho độc giả các DTTS

của mình (nói riêng) và độc giả cả khu vực, cả nước (nói chung), có thể khẳng

định rằng: Chị xứng đáng là cây bút nữ DTTS tiêu biểu, có nhiều đóng góp

đối với sự phát triển của văn xuôi DTTS Việt Nam giai đoạn sau Đổi Mới.

103

Đọc tác phẩm của chị, khiến cho chúng ta hiểu hơn, trân trọng hơn và cảm

thong, chia sẻ hơn đối với những con người miền núi, với cuộc sống miền núi

trong thời đại mới – đầy niềm vui, cơ hội, nhưng cũng luôn phải đối mặt với

bao thách thức, khó khăn để có thể tồn tại và phát triển. Bài học có ý nghĩa

hiện thực và nhân văn từ trong các truyện ngắn của Như Lan có lẽ là như vậy.

104

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. La ̣i Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, NXB ĐH quố c gia Hà Nô ̣i. 2. Ngọc Bái, Văn học với đề tài miền núi, dân tộc, Nguồn: Nhandan.com.vn

3. Nông Quốc Chấn (1995), Văn học các dân tộc Việt Nam, NXB Văn hóa dân

tộc.

4. Nông Quốc Chấn (1998), Tuyển tập văn học dân tộc và miền núi, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

5. Trần Trí Dõi (1999), Nghiên cứu ngôn ngữ các DTTS Việt Nam thế kỷ XX,

NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

6. Hà Minh Đứ c (2006), Lí luận văn học, NXB giáo dục. 7. Hà Minh Đứ c, Lê Bá Hán (1995), Cơ sở lí luận văn học tập II, NXB Đa ̣i

ho ̣c và Trung ho ̣c chuyên nghiê ̣p.

8. Hồ Thủy Giang (2004), Tiểu thuyết Thái Nguyên, văn học Thái Nguyên -

tác giả và tác phẩm, Nxb Văn hóa dân tộc.

9. Hồ Thủy Giang, Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Hoa Mía của Bùi

Thị Như Lan, Báo Văn Nghệ Thái Nguyên

10. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử , Nguyễn Khắc Phi (2001), Từ điển thuật ngữ văn

học, NXB giá o dục

11. Hà Hằng, Cốt truyện trong văn xuôi dân tộc miền núi - báo Mùa hè

12. Cao Thị Hảo, Bước đầu phác thảo diện mạo văn xuôi dân tộc thiểu số Việt

Nam hiện đại

13. Nông Thị Ngọc Hòa, Tiếng kèn Pí Lè của người gái bản (7/2015), báo Văn

Nghệ Thái Nguyên

14. Hội văn học nghệ thuật các DTTS tỉnh Thái Nguyên (2011), Hội văn học

nghệ thuật các DTTS tỉnh Thái Nguyên (2011), Hội thảo văn học nghệ thuật

các DTTS Thái Nguyên.

105

15. Hội văn học nghệ thuật các DTTS Việt Nam (2004), Hội văn học nghệ

thuật các DTTS Việt Nam, Nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam - đời và văn,

NXB Văn hóa dân tộc.

16. Vi Hồng (1980), "Bước phát triển mới của văn học các dân tộc ít người

Việt Nam; con đường trữ tình đến văn xuôi kịch bản", Tạp chí văn học, số

5, Hà Nội.

17. Bùi Thi ̣ Như Lan (2004), Tiếng chim Kỷ Giàng, Tâ ̣p truyê ̣n ngắn, NXB

QĐND.

18. Bùi Thi ̣ Như Lan (2005), Mùa hoa mắc mật, Tập truyê ̣n ngắn, NXB Thanh

Niên.

19. Bùi Thi ̣ Như Lan (2006), Hoa mía, Tâ ̣p truyê ̣n ngắn, NXB Thanh Niên. 20. Bùi Thi ̣ Như Lan (2007), Lời Sli vắt ngang núi, Tập truyê ̣n ngắn, NXB

QĐND.

21. Bùi Thi ̣ Như Lan (2011), Bồng bềnh sương núi, Tâ ̣p truyê ̣n ngắn, NXB Văn

hó a Dân tô ̣c.

22. Bùi Thi ̣ Như Lan (2012), Cọn nướ c đôi, Tập truyê ̣n ngắn, NXB QĐND. 23. Bùi Thị Như Lan (2013), Mùa hoa Bjooc Phạ, Tập truyện ngắn, NXB Kim

Đồng.

24. Bùi Thị Như Lan (2015), Những con đường sau lặng im tiếng súng, Bút kí,

NXB Giao Thông Vận Tải.

25. Bùi Thị Như Lan (2015), Tiếng kèn Pí lè, Tập truyện ngắn, NXB QĐND.

26. Phong Lê (1985), 40 năm văn hóa nghệ thuật các DTTS Việt Nam 1945 -

1985, NXB Văn hóa Hà Nội.

27. Phong Lê (1998), Nhà văn các DTTS Việt Nam, NXB Văn hóa dân tộc.

28. Nguyễn Văn Lộc chủ biên (2006), Báo cáo tổng hợp nghiên cứu bảo tồn và

phát triển ngôn ngữ và văn hóa một số DTTS ở Việt Bắc, Đề tài độc lập cấp

nhà nước, Mã số: ĐTĐL - 2004/27.

106

29. Bùi Thị Lương (khóa luận tốt nghiệp 2015), thế giới nghệ thuật trong

truyện ngắn của Bùi Thị Như Lan.

30. Phương Lựu (1997), Lý luận văn học, NXB Giáo dục.

31. Phương Lựu (2006), Lí luận văn học, NXB Giáo du ̣c. 32. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà

văn, NXB Giáo dục.

33. Pha ̣m Duy Nghĩa (2008), Văn Xuôi miền nú i và vấn đề truyền thống, hiê ̣n

đại, http://www.google.com.vn/.

34. Đào Thủy Nguyên, Dương Thu Hằng (2014), Bản sắc văn hóa dân tộc

trong văn xuôi của các nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam, NXB Đại học

Thái Nguyên.

35. Nhiều tác giả (1996), Văn hóa truyền thống dân tộc Tày - Nùng, NXB Văn

hóa dân tộc.

36. Nhiều tác giả (1997), Nhà văn Việt Nam hiện đại, NXB Hội nhà văn.

37. Võ Quang Nhơn (1983), Văn học các dân tộc ít người ở Việt Nam, NXB

Đại học và trung học chuyên nghiệp.

38. Lò Giàng Páo (1997), Tìm hiểu văn hóa vùng các DTTS, NXB Văn hóa dân

tộc.

39. Quân khu I, Hoa ngàn Việt Bắc

40. Trần Đình Sử (1994), "Bản sắc dân tộc trong văn học Việt Nam và con

đường của thơ", Tạp chí văn học, số 1.

41. Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình văn học, NXB Hội nhà văn.

42. Bùi Việt Thắng (2015), Những màu sắc của núi rừng, Báo quân đội nhân

dân cuối tuần

43. Dương Thuấn (2000), "Nét mới của văn học dân tộc và miền núi", Tạp chí

Văn hóa dân tộc, số 7.

44. Lâm Tiến (1999), Về một mảng văn học dân tộc, NXB Văn hóa dân tộc.

107

45. Lâm Tiến (2002), Thế kỷ XX - chặng đường đầu của văn học viết các DTTS

Việt Nam, in trong cuốn Văn học và miền núi, NXB Văn hóa dân tộc, Hà

Nội.

46. Lâm Tiến (2002), Văn học và miền núi, NXB Văn hóa dân tộc.

47. Lâm Tiến (2006), "Viết về con người, cuộc sống các DTTS", Tạp chí Diễn

đàn văn nghệ Việt Nam, số 142.

48. Lâm Tiến (2011), Tiếp cận văn học DTTS, NXB Văn hóa thông tin.

49. Bùi Thu Trà (2011), Hình Tượng người phụ nữ trong thơ các dân tộc thiểu

số Việt Nam hiện đại khu vực phía Bắc, Luận văn Thạc sĩ, Trường ĐHSP

Thái Nguyên..

50. Trần Thị Việt Trung (2009), "Vấn đề bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa

dân tộc tại các trường đại học Việt Nam", Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt

Nam, số 174, 7/2009.

51. Trần Thị Việt Trung (2010), Bản sắc dân tộc trong thơ ca các DTTS Việt

Nam hiện đại, NXB Đại học Thái Nguyên.

52. Trần Thị Việt Trung (2014), Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam - truyền

thống và hiện đại, NXB Đại học Thái Nguyên.

53. Trần Thị Việt Trung, Lê Thị Bằng Giang (2006), "Một số đặc điểm nghệ

thuật xây dựng nhân vật phụ nữ dân tộc thiểu số trong sáng tác của Tô Hoài

và Vi Hồng", Tạp chí Khoa học và công nghệ, ĐH Thái Nguyên, số 3.

54. Trần Thị Việt Trung, Nguyễn Thế Thành (2008), "Nông Quốc Chấn - một

nhà thơ giàu bản sắc", Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 161,

6/2008.

55. Trần Thị Việt Trung, Cao Thị Hảo (2011), Văn học dân tộc thiểu số Việt

Nam thời kì hiện đại - Một số đặc điểm, NXB Đại học Thái Nguyên

56. Văn xuôi Thái Nguyên Tuyển tập văn xuôi Thái Nguyên (2001-2006).

57. Website văn học và nhà trường, Kết cấu trong văn xuôi dân tộc thiểu số

108