ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
CAO THỊ THU HẰNG
TRUYỆN NGẮN NAM CAO
TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA NÔNG THÔN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2016
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
CAO THỊ THU HẰNG
TRUYỆN NGẮN NAM CAO
TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA NÔNG THÔN
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: GS. Phong Lê
THÁI NGUYÊN - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là do tôi viết. Mọi số liệu, tư liệu cũng
như kết quả nghiên cứu là của riêng tôi.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Hà Nam, ngày 5 tháng 4 năm 2016
Tác giả luận văn
Cao Thị Thu Hằng
Xác nhận của khoa chuyên môn Xác nhận của giáo viên hướng dẫn
GS. Phong Lê
i
LỜI CẢM ƠN
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn tới
GS. Phong Lê - người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình tìm hiểu,
nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy cô, giáo
trường Đại học sư phạm Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong
suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến bạn bè, đồng nghiệp và người thân
đã giúp đỡ tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian học tập và
thực hiện luận văn.
Hà Nam, ngày 5 tháng 4 năm 2016
Tác giả luận văn
Cao Thị Thu Hằng
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................... ii
MỤC LỤC ......................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2
3. Phạm vi nghiên cứu ......................................................................................... 4
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 5
4.1 Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 5
Chương 1 ............................................................................................................ 8
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI ....................................................................... 8
1.1. Nông thôn Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa................................................ 8
1.1.1. Khái niệm về “văn hóa” và “văn hóa nông thôn” ..................................... 8
1.2. Khái quát về văn hóa nông thôn Việt Nam đầu thế kỉ XX ......................... 13
1.3. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học ........................................................ 14
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 19
Chương 2 .......................................................................................................... 20
DẤU ẤN VĂN HÓA NÔNG THÔN TRONG NỘI DUNG TRUYỆN NGẮN NAM CAO ........................................................................................... 20
2.1. Nông thôn và người nông dân trong truyện ngắn Nam Cao ...................... 20
2.1.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp Nam Cao ............................................ 20
2.1.2. Đề tài nông thôn và người nông dân trong truyện ngắn Nam Cao ......... 22
2.2. Phong tục tập quán ..................................................................................... 24
2.2.1. Tục hôn nhân ........................................................................................... 24
2.2.2. Tục tang ma ............................................................................................. 28
2.3. Trật tự nông thôn ........................................................................................ 30
iii
2.4. Tập tục sinh hoạt ......................................................................................... 35
2.4.1. Thói quen ăn uống. .................................................................................. 35
2.4.2. Trang phục và ngành nghề truyền thống. ................................................ 38
2.4.3. Xây dựng nhà ở........................................................................................ 41
2.5 Giao tiếp và ứng xử ..................................................................................... 43
2.5.1 Lối sống đậm tình nghĩa cùng những thói xấu của người nông dân. ....... 43
2.5.2. Sự tế nhị, ý tứ trong giao tiếp .................................................................. 50
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 83
iv
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nam Cao là một nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại, có
một vị trí đặc biệt quan trọng trên văn đàn Việt Nam trước 1945, Gần một thế
kỉ trôi qua cho đến hôm nay tác phẩm của ông vẫn còn nguyên giá trị, vẫn thu
hút bạn đọc và các nhà nghiên cứu.
Năm 2015 cũng chính là năm kỉ niệm 100 năm ngày sinh Nam Cao, vẫn
tiếp tục khẳng định tiếng nói của Nam Cao trong nền văn học Việt Nam. 100
năm qua đi, người ta vẫn nhớ, vẫn nhắc đến Nam Cao, những trang viết của
ông vẫn còn nguyên giá trị hiện thực cho đến ngày nay. 100 năm thử thách
trong dư luận, Chí Phèo vẫn tồn tại, chất “Chí Phèo” vẫn còn có nghĩa là tính
thời sự của trang văn Nam Cao vẫn còn.Có lẽ, không một ai không biết đến Chí
Phèo, không biết đến Bá Kiến, những con người ấy không chỉ tồn tại trên trang
viết của Nam Cao mà đó chính là những nguyên mẫu ngoài đời. Sau Cách
mạng, người ta vẫn cứ nghĩ rằng, Chí Phèo đã chết, nhưng hoàn toàn không
phải vậy, hắn vẫn khật khưỡng bước từ trang văn của Nam Cao ra đời thực. Cái
làng quê Việt Nam hiện đại đâu thiếu những tên Chí Phèo, đâu vắng bóng
những Bá Kiến. Không chỉ có vậy, những phong tục ở làng quê vẫn còn đó,
những đám cưới, ma chay rồi những thói quen sinh hoạt, nếp sống từ bao đời
nay vẫn hiện hữu.
Không chỉ dừng lại ở những yếu tố phong tục, tập quán như một số nhà
văn khác, Nam Cao đi sâu vào những yếu tố văn hóa đã ăn sâu vào tâm thức
người Việt và kết hợp nó với sự biến động dữ dội của xã hội hiện đại mà khái
quát nên bi kịch của con người. Để khám phá toàn diện vấn đề này chúng ta
không chỉ đặt nó trong hoàn cảnh xã hội đương thời mà cần nhìn nhận qua lăng
kính của văn hóa nông thôn. Các công trình nghiên cứu về Nam Cao rất nhiều,
1
tuy nhiên dưới góc độ về văn hóa thì chưa có được sự nhìn nhận, đánh giá một
cách toàn diện.
Tìm hiểu truyện ngắn Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám từ góc độ
văn hóa sẽ giúp cho việc giảng dạy các tác phẩm của ông ở các cấp học được
sâu sắc hơn.
Một yếu tố thuộc về phía cá nhân khi chọn Nam Cao để nghiên cứu là
bởi tôi có vinh dự là người cùng chung quê hương với nhà văn. Sinh ra và lớn
lên ở Hà Nam, một mảnh đất đồng chiêm trũng, quanh năm ngập úng, tôi hiểu
được cái đói,cái nghèo, cuộc sống quẩn quanh lam lũ của con người quê tôi và
đặc biệt là văn hóa nông thôn đồng bằng Bắc Bộ còn nhiều điều phải bàn. Nhắc
đến Hà Nam có lẽ điều khiến người ta nhớ nhất chính là Nam Cao, tôi tự hào,
tôi hãnh diện vì điều đó.
Chọn “Truyện ngắn Nam Cao, từ góc nhìn văn hóa nông thôn”làm đề tài
nghiên cứu,chúng tôi mong muốn đem đến một cái nhìn hệ thống và toàn diện
về con người và sự nghiệp của Nam Cao, trên cơ sở đó khẳng định vị trí và
đóng góp của ông trong nền văn học hiện đại Việt Nam.
2. Lịch sử vấn đề
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về sáng tác của nhà văn Nam
Cao từ giọng điệu, nhân vật, phong cách cho đến chất hài…và hầu như tất
cả đều xoáy sâu vào hoàn cảnh đương thời để lí giải tấn bi kịch của người
nông dân trước Cách mạng tháng Tám thế nhưng còn ít người chú ý đến
việc đặt tác phẩm trong không gian văn hóa nông thôn. Trong khi, theo
chúng tôi thì đây là một chiếc chìa khóa để khám phá chiều sâu tác phẩm của
Nam Cao.
Trong một số bài nghiên cứu về đề tài người nông dân trong sáng tác của
Nam Cao, các tác giả tuy đã ít nhiều đề cập tới yếu tố văn hóa nông thôn nhưng
lại chưa nhấn mạnh đến yếu tố này. Có chăng các tác giả chỉ nhắc đến một vài
yếu tố và vai trò của nó trong từng tác phẩm chứ chưa khái quát một cách toàn
2
diện. Trong bài viết Thứ nhất sợ kẻ anh hùng (đi tìm ẩn số nghệ thuật truyện
(Chí Phèo), tác giả Đỗ Lai Thúy cũng đã đề cấp đến tính chất đóng kín của cấu
trúc nông thôn Việt Nam và phân tích kĩ tác động của nó tới tâm thức nhân vật:
“… Tính chất đóng kín là một hằng số nghệ thuật của truyện ngắn này. Nó
chẳng những đổ bóng vào không gian và thời gian truyện, hằn dấu trên số
phận các nhân vật, mà còn khớp đúng với thực tiễn của làng xã Việt Nam, nhất
là ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ trước Cách mạng tháng Tám năm bốn
nhăm.” [51, tr.218]. Tuy nhiên ở đây, tác giả mới chỉ dừng lại ở vài nét tâm lí
của người nông dân trong tác phẩm Chí Phèo như tâm lí hám danh, an phận, sự
nhận thức về cái tôi…
Trong bài viết Các mối quan hệ xã hội trong làng Vũ Đại, tác giả Đức
Mậu cũng có đề cập đến không gian nông thôn khép kín và các mối quan hệ
cạnh tranh của nó: “Từ con người, tính cách, địa vị xã hội, đời sống vật chất
tinh thần cùng các mối quan hệ giữa những con người ấy là sản phẩm của cái
làng đóng kín vùng đồng bằng Bắc Bộ”. [50, tr.245]. Tác giả cũng tập trung thể
hiện quan hệ thống trị - bị trị của Bá Kiến với Chí Phèo, quan hệ tranh chấp
giữa Bá Kiến và Đội Tảo nhưng chưa có sự khái quát các mối quan hệ này.
Giáo sư Phong Lê khi viết về những dị dạng của nông thôn Việt Nam
trong truyện ngắn Nam Cao cũng nhấn mạnh : “Những con người dị dạng bẩm
sinh hoặc do hoản cảnh, ta thường thấy ở nông thôn, như một hiện tượng dị
biệt, lại như bổ sung để tô đậm thêm cảnh sống mù xám, trì độn và kinh rợn
của nó, đến trực tiếptừ sự bần cùng, hoặc sự lưu cữu và hậu quả của những
thói hủ tục lạc hậu” (Nam Cao - văn và đời,Lời giới thiệu Tuyển tập Nam Cao,
Nxb Văn học, Hà Nội 1987). Trong bài viết Nam Cao nhìn từ cuối thế kỉ, tác
giả Phong Lê cũng có viết: “Vũ Đại - không chỉ gợi một đơn vị làng với những
ao chuôm, những lũy tre, những vườn chuối, giàn trầu quen thuộc mà còn là sự
biểu hiện chung cho sự phong bế, trì trệ, nhếch nhác của bất cứ một quần thể
cư dân nào, cả nông thôn và thành thị.” [39, tr.116]. Như vậy, tác giả bài viết
3
đã có lưu ý đến sự khép kín, lạc hậu của nông thôn Việt Nam. Nó tạo nên
những mẫu người dị biệt sau lũy tre làng.
Tác giả Hà Minh Đức trong bài viết Tầm quan trọng của hoàn cảnh
trong tác phẩm của Nam Cao cũng cho thấy sự xung đột của không gian làng
xã với văn minh thành thị : “Thứ trong “Sống mòn” là một nhân vật mà hành
trình đi khá xa từ làng quê đến những thành phố xa xôi như sài Gòn, rồi Hà
Nội và cuối cùng lại bị thành thị khước từ để ném trở về quê” [50, tr.88].
Gần đây là công trình Làng quê Việt Nam trong văn xuôi hiện thực trước
1945 của Nguyễn Kim Hồng. Trong khi khảo sát một mảng rộng của văn học
Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám ở những nhà văn như Ngô Tất Tố, Tô
Hoài…tác giả đã nhấn mạnh đến yếu tố văn hóa là phong tục, tập quán. Tuy
nhiên với Nam Cao thì ông mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu tâm lí những
kiếp lầm than của người nông thôn, nêu lên số phận của con người làng quê
chịu tác động của hoàn cảnh xã hội đương thời mà chưa nhấn mạnh đến những
nét tâm lí ở tầng sâu văn hóa của con người nông thôn. Nói chung, công trình
mới khái quát được chiều rộng làng quê Việt Nam trong sáng tác trước 1945
còn chiều sâu văn hóa vẫn bỏ ngỏ.
Qua các công trình nghiên cứu kể trên, chúng tôi thấy việc tìm hiểu các
tác phẩm của Nam Cao dưới góc nhìn văn hóa nông thôn còn chưa thật thấu
đáo. Các tác giả mới chỉ dừng ở mức độ khái quát qua một vài dấu hiệu của văn
hóa nông thôn và cũng chưa làm rõ sự tác động của nó đến đời sống con người.
Chọn đề tài này, chúng tôi mong muốn có một cách tiếp nhận toàn diện hơn,
đầy đủ hơn với các sáng tác của Nam Cao qua góc nhìn văn hóa.
3. Phạm vi nghiên cứu
4
Nghiên cứu Truyện ngắn Nam Cao từ góc nhìn văn hóa nông thôn luận
văn chủ yếu tập trung khảo sát các truyện ngắn viết về đề tài người nông dân
của Nam Cao trước 1945.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Mục đích nghiên cứu
Trong luận văn này chúng tôi nghiên cứu những yếu tố văn hóa có trong
sáng tác của Nam Cao qua thể loại truyện ngắn. Đặc biệt tìm hiểu về những nét
đẹp văn hóa cũng như những hủ tục lạc hậu nơi làng quê để từ đó thấy những
sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nam Cao góp phần làm sáng rõ sức sống văn
chương ông. Trên cơ sở đó, chúng tôi hi vọng có thể góp một phần nhỏ bé vào
việc nghiên cứu truyện ngắn Nam Cao, khẳng định những giá trị đích thực,
những cống hiến to lớn của ông cho nền văn xuôi hiện đại Việt Nam.
4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung làm rõ giá trị của truyện ngắn Nam Cao từ phương
diện văn hoá nông thôn trên các phương diện về nội dung và nghệ thuật, từ đó
đưa ra được hướng tiếp cận mới cho các sáng tác của Nam Cao đồng thời thấy
được những đóng góp của Nam Cao cho văn xuôi hiện đại Việt Nam giai đoạn
1930 – 1945.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp hệ thống
Luận văn nghiên cứu về truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn văn hóa
nên phải xuất phát từ từng tác phẩm, khảo sát mối quan hệ giữa các yếu tố
trong một chỉnh thể nghệ thuật. Vì vậy, việc sử dụng phương pháp hệ thống sẽ
giúp cho người nghiên cứu tránh được nguy cơ nhận biết thiếu tính khái quát,
chỉ thấy được cái bề ngoài không thấy được bản chất vấn đề.
5
5.2. Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Kết hợp kiến thức từ các lĩnh vực, các bộ môn, chuyên ngành có liên
quan sẽ giúp cho vấn đề nghiên cứu được sâu rộng, toàn diện và sâu sắc hơn.
5.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Sử dụng phương pháp này để so sánh với một số truyện ngắn, tiểu thuyết
của các nhà văn cùng thời để làm rõ những vấn đề cần giải quyết. Đồng thời
qua đó để nhận diện và khẳng định phong cách nghệ thuật của Nam Cao
5.4 Phương pháp phân tích tổng hợp
Các phương pháp trên sẽ được kết hợp sử dụng linh hoạt trong quá trình
nghiên cứu để làm sáng rõ vấn đề.
6. Những đóng góp của luận văn.
- Tìm hiểu một cách có hệ thống về những yếu tố văn hoá nông thôn
trong truyện ngắn Nam Cao thông qua nội dụng và nghệ thuật của các tác
phẩm.
- Làm rõ được tài năng, sáng tạo của Nam Cao khi đưa những yếu tố văn
hoá vào các sáng tác của mình.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn được triển khai
gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận của đề tài
Nghiên cứu truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn văn hóa chúng tôi bắt
đầu với việc xác định các khái niệm nội hàm : Văn hóa, đặc trưng của văn hóa
nông thôn Việt Nam.
Chương 2: Dấu ấn văn hóa nông thôn trong nội dung truyện ngắn Nam
Cao
6
Trong chương này chúng tôi đề cập đến các vấn đề thuộc về nội hàm văn
hóa trong truyện ngắn Nam Cao như phong tục tập quán, cách tổ chức xã
hội…Qua đó để thấy được những nét đẹp, thuần phong mĩ tục cũng như những
hạn chế của các hủ tục lạc hậu đang đè nặng lên vai người nông dân. Đó là
những biểu hiện cụ thể của văn hóa ở nông thôn trong phạm vi hiện thực được
phản ánh.
Chương 3: Dấu ấn văn hoá nông thôn trong nghệ thuật truyện ngắn Nam
Cao
Nói đến truyện ngắn Nam Cao, ngoài yếu tố thuộc về nội dung thì không
thể không nói đến nghệ thuật trong truyện ngắn của ông. Những nét đặc sắc
nghệ thuật đã làm nên một nét rất riêng, rất Nam Cao.
7
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Nông thôn Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa
1.1.1. Khái niệm về “văn hóa” và “văn hóa nông thôn”
Thế khỉ XXI, thế kỉ của sự hội nhập và phát triển về mọi mặt, sự đổi thay
khiến con người ta thấy bất ngờ. Và trong sự vui mừng đón nhận nhịp điệu của
cuộc sống mới, chúng ta vẫn luôn chạnh lòng khi những giá trị thuộc về văn
hóa truyền thống đang dần bị mai một, đang dần bị lãng quên trong thế hệ trẻ
mà sự ảnh hưởng của nó không chỉ ở các thành phố lớn, nó đang len lỏi vào sâu
từng ngóc ngách ở nơi làng quê xưa vốn thanh bình. Cũng chính bởi vậy mà
khái niệm về “văn hóa” được nhắc đến nhiều hơn.
“Văn hóa” vốn không còn là khái niệm xa lạ nhưng nó được biết nhiều
hơn, được phổ biến rộng rãi hơn trong thế kỉ này. Có rất nhiều định nghĩa về
“văn hóa” được các nhà nghiên cứu đưa ra, mỗi định nghĩa đều đề cập đến
những khía cạnh, những đặc trưng của văn hóa. UNESSCO đã đưa ra một khái
niệm về văn hóa: “Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát và mọi
mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và cả cộng đồng) đã diễn ra trong quá
khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỉ, nó đã cấu thành
một hệ thống các giá trị, truyền thống thẩm mĩ và lối sống mà dựa trên đó từng
dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình”.
GS. Viện sĩ Trần Ngọc Thêm trong cuốn Cơ sở Văn hóa Việt Nam cũng
đưa ra nhận định của mình về “văn hóa”, theo ông “văn hóa là một hệ thống
hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua
quá trình hoạt động thực tiễn , trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hội”. Cũng theo đó Edouard Herriot, Viện sĩ Viện Hàn
lâm Pháp đã có câu nói bất hủ “Văn hóa là cái còn lại khi người ta đã quên đi
tất cả, là cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cả” [47, tr.i].
8
Có thể thấy rằng, trong quá trình phát triển của loài người, của một
quốc gia, văn hóa có một vị trí vô cùng quan trọng, là yếu tố sống còn.
Nhận thức được điều này, cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói “văn
hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức
sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam vượt qua biết bao sóng
gió và thác ghềnh tưởng chừng không thể vượt qua được, để không ngừng
phát triển và lớn mạnh” [47, tr.i]
Từ những nhận định của các nhà nghiên cứu có thể thấy : Văn hóa là một
hiện tượng khách quan, là sự tổng hòa của tất cả các mối quan hệ giữa con
người với môi trường xung quanh. Văn hóa tồn tại cả hữu thức và vô thức trong
mỗi con người.
Để hiểu về khái niệm “văn hóa nông thôn” trước hết chúng ta đi tìm
hiểu về khái niệm “nông thôn”
Nông: là chỉ nghề nông nghiệp.
Thôn: Là từ Hán Việt chỉ đơn vị hành chính cấp dưới xã, là một phần của
làng hoặc tương đương với một làng nhỏ.
Như vậy có thể thấy, nông thôn là khu vực hành chính mà ở đó cư dân
sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp, lấy sự phát triển nông nghiệp làm đầu.
Tuy nhiên cần phải lưu ý rằng, Việt Nam có nhiều vùng miền, nhiều dân tộc
khác nhau bởi vậy mà nông thôn ở từng vùng , từng miền lại có những đặc
điểm khác nhau. Ở đây, chúng tôi chỉ nghiên cứu nông thôn thuộc vùng đồng
bằng Bắc Bộ, vốn là vùng nông thôn với những đặc điểm tiêu biểu nhất, rất ổn
định và mang tính khái quát cao. Nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ mang
những đặc trưng văn hóa của người Việt, đây cũng là nơi mà các sáng tác của
Nam Cao tập trung hướng đến.
Qua đó có thể thấy, văn hóa nông thôn là tất cả những giá trị thuộc về
mặt vật chất cũng như tinh thần tồn tại trong không gian nông thôn , những giá
trị ấy được bảo lưu từ thế hệ này sang thế hệ khác.
9
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của văn hóa nông thôn Việt Nam
1.1.2.1. Tính cộng đồng
Việc tổ chức nông thôn đồng thời theo nhiều nguyên tắc khác nhau tạo
nên tính cộng đồng. Tính cộng đồng là sự liên kết các thành viên trong làng lại
với nhau, mỗi người đều hướng tới những người khác - nó là đặc trưng dương
tính, hướng ngoại.
Biểu tượng truyền thống của tính cộng đồng là hình ảnh sân đình, bến
nước, cây đa. Làng nào cũng có một cái đình, đây chính là trung tâm văn hóa,
chính trị của cả làng. Đây là nơi diễn ra nhiều hoạt động quan trọng từ hội họp,
thu sưu thuế cho đến việc diễn ra các lễ hội văn hóa như diễn chèo, tuồng.
Không chỉ vậy, đình còn là trung tâm về mặt tôn giáo, nơi đây thờ Thành
Hoàng làng, bảo vệ cho cả làng. Chính vì giữ những vị trí quan trọng như vậy
mà hình ảnh mái đình còn chi phối tình cảm của những con người nông thôn.
Nhắc đến nông thôn, đặc biệt là những ai đi xa khi nhớ về quê hương của mình
họ thường nghĩ ngay đến mái đình chứ không phải ngôi nhà của mình:
Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu.
Bên cạnh cái đình làng, hình ảnh cây đa, bến nước cũng là một biểu
tượng quen thuộc ở nông thôn. Nếu bến nước là nơi hàng ngày những người
phụ nữ giặt giũ, chuyện trò thì cây đa lại có quán nước, là nơi nghỉ chân của
những người đi làm đồng, những khách qua đường. Nơi đây họ trò chuyện,
giao lưu, gặp gỡ nhau để từ đó gắn kết hơn với mọi người trong làng và với cả
thế giới bên ngoài.
Do đặc trưng lối sống của nông thôn là tính tập thể, bởi vậy con
người nơi đây luôn đoàn kết gắn bó với nhau như anh em trong gia đình.
Trong quan hệ ứng xử giữa con người với nhau từ gia đình đến làng xóm
đều theo nguyên tắc trọng tình. Do quá trình sản xuất nông nghiệp đòi hỏi
con người phải sống gắn bó và lâu dài với nhau tạo ra một cuộc sống hòa
10
thuận trên cơ sở lấy tình nghĩa làm đầu. Cũng vì thế mà bên cạnh những
mặt tích cực từ lối sống này tạo nên thì nó cũng nảy sinh không ít những
tiêu cực. Lối sống trọng tình đã dẫn đến cách ứng xử hết sức linh hoạt và
thích ứng nhanh với điều kiện hoàn cảnh cụ thể:
Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài.
hay
Đi với bụt mặc áo cà sa
Đi với ma mặc áo giấy
Với nhu cầu sống hòa thuận trên cơ sở cái gốc là tình cảm giữa con
người với nhau trong làng xóm càng làm cho lối sống linh hoạt trở nên đậm nét
và chính là cơ sở của tâm lý hiếu hòa trong các mối quan hệ xã hội dựa trên sự
tôn trọng và cư xử bình đẳng với nhau. Lối sống linh hoạt, trọng tình, dân chủ
là những đặc điểm tích cực, nhưng mặt trái của nó là đặc điểm tâm lý áp đặt,
tuỳ tiện, tâm lý "hòa cả làng", coi thường phép nước: "Phép vua thua lệ làng".
Sức mạnh của tính cộng đồng còn thể hiện hiện ở tinh thần đùm bọc, yêu
thương nhau. Mọi người có trách nhiệm cưu mang, hỗ trợ nhau nhau về vật
chất, tinh thần và dìu dắt, làm chỗ dựa cho nhau về chính trị (Một người làm
quan cả họ được nhờ). Tuy nhiên, cũng vì sự đoàn kết gắn bó mà ý thức về cá
nhân bị thủ tiêu dẫn đến thói quen dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể, vào số đông đưa
đến tình trạng Cha chung không ai khóc là điều rất phổ biến. Cũng từ đó, một
nhược điểm của của người nông dân là tâm lý cào bằng, đố kỵ, không muốn
cho ai hơn mình (để cho tất cả mọi người đồng nhất, như nhau) - Xấu đều hơn
tốt lỏi.
Như vậy có thể thấy, tính cộng đồng trong lối sống của người Việt có rất
nhiều điểm tích cực. Chính đặc trưng văn hóa này đã tạo nên truyền thống tốt
đẹp, tương thân tương ái, đùm bọc lẫn nhau, đoàn kết để đấu tranh chống giặc
ngoại xâm. Tuy nhiên, cũng không thể không nói đến những tiêu cực do đặc
11
trưng này tạo ra vì vậy cần phải điều chỉnh lối sống sao cho phù hợp để giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
1.1.2.2 Tính tự trị
Nông thôn Việt Nam với nét tiêu biểu là cấu trúc làng xã mà sản phẩm
đặc trưng chính là tính tự trị: làng nào biết làng ấy, các làng tồn tại khá biệt lập
với nhau và phần nào biệt lập với triều đình phong kiến. Chính điều này tạo nên
truyền thống Phép vua thua lệ làng. Đây là đặc trưng âm tính, hướng nội. Biểu
hiện rõ nhất của tính tự trị trong văn hóa nông thôn Việt Nam đó là hình ảnh
lũy tre. Lũy tre bao kín làng tạo một thành trì kiên cố bất khả xâm phạm.
Cũng giống như tính cộng đồng, tính tự trị cũng mang lại nhiều mặt tích
cực. Đầu tiên đó là tính tự lập, mỗi làng, mỗi tập thể phải tự lo liệu lấy mọi
việc. Bên cạnh đó, tính tự trị cũng tạo nên đức tính cần cù cho người nông dân
Việt Nam. Sở dĩ có điều này vì mỗi làng phải tự đáp ứng mọi nhu cầu cho cuộc
sống của làng mình. Mặt khác, vì tính tự trị này mà người nông dân Việt Nam
đã nảy sinh nhiều thói xấu. Mỗi người chỉ biết lo, biết giữ của riêng mình Ai có
thân người ấy lo, ai có bò người ấy giữ. Vì làng nào biết làng ấy nên đã nảy
sinh bè phái, địa phương cục bộ:
Ta về ta tắm ao ta
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn
Một thói xấu nữa nảy sinh từ tính tự trị là óc gia trưởng tôn ti. Chính điều
này trở thành một vật cản đáng sợ cho sự phát triển của xã hội. Nó càng trở nên
nghiêm trọng hơn khi mà thói gia đình chủ nghĩa đang là một căn bệnh lan tràn.
Những người đàn ông đứng đầu gia đình thường tự mình quyết định mọi việc,
áp đặt tâm lý lên các thành viên khác, tạo nên những thứ bậc vô lý.
Đặc điểm môi trường sống đã quy định tính cách của con người Việt
Nam, đặc biệt là những người ở nông thôn khi cuộc sống gắn liền với nông
nghiệp lúa nước. Họ vừa có tinh thần đoàn kết tương trợ lại có óc tư hữu ích kỉ
và thói cào bằng. Vừa có tính tập thể hòa đồng lại vừa có óc gia trưởng tôn ti,
vừa có tinh thần tự lập lại vừa xem nhẹ vai trò cá nhân, vừa có tính cần cù và
12
nếp sống tự cấp tự túc vừa có thói dựa dẫm ỷ lại. Tất cả những cái tốt và cái
xấu ấy đều tồn tại thành từng cặp trong mỗi người; bởi lẽ nó bắt nguồn từ hai
đặc trưng trái ngược nhau là tính cộng đồng và tính tự trị. Tùy lúc tùy nơi mà
mặt tốt mặt xấu sẽ được phát huy; khi đứng trước những khó khăn lớn, những
nguy cơ đe dọa sự sống còn của cộng đồng thì mặt tích cực nổi lên sẽ là tinh
thần đoàn kết và tính tập thể; khi những nguy cơ ấy đi qua rồi thì thói tư hữu và
óc bè phái địa phương có thể nổi lên.
1.2. Khái quát về văn hóa nông thôn Việt Nam đầu thế kỉ XX
Bởi những đặc trưng của mình mà văn hóa nông thôn tương đối ổn định,
dù là mặt tích cực hay tiêu cực, nó đều được lưu giữ sau lũy tre làng mà ít có sự
biến động. Tuy nhiên, trong tiến trình lịch sử của dân tộc, có những giai đoạn
diễn ra những biến động dữ dội, điều này khiến cho văn hóa nông thôn không
tránh khỏi sự ảnh hưởng đó, nhiều giá trị văn hóa của vùng nông thôn gìn giữ
lâu đời bị thay đổi hoặc thậm chí bị mất đi. Nguyên nhân của sự biến động này
chính là quá trình xâm lược của thực dân Pháp vào nước ta kể từ nửa sau thế kỉ
XIX.
Đầu thế kỉ XX, khi thực dân Pháp hoàn thành quá trình xâm lược nước ta
chúng bắt tay vào công cuộc khai thác thuộc địa. Sự thay đổi về mặt cấu trúc
của nông thôn chính là hệ quả của công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp. Pháp tích cực đầu tư vào nước ta để phục vụ cho mục đích bóc lột của
chúng, dưới sự tác động đó nhiều đô thị đã mọc lên kéo theo cả những hệ lụy
của nó. Bên cạnh việc được tiếp xúc với nền văn minh Châu Âu hiện đại thì
những lố lăng , những trò dởm trong xã hội cũng được hình thành. Nông thôn
là nơi ít chịu ảnh hưởng của cuộc khai thác song không phải là không có mà
khía cạnh đều tiên chịu ảnh hưởng đó chính là nền văn hóa truyền thống ở nông
thôn, nó tạo nên những biến đổi trong lối sống, trong tính cách và trong tâm
hồn con người Việt, những người nông dân xưa nay vốn thật thà chất phác.
13
Khi đô thị mở rộng và phát triển thì không gian nông thôn không còn là
một không gian khép kín sau lũy tre làng, không còn là cây đa, giếng nước, mái
đình mà thay vào đó người nông dân đã biết rộng hơn, biết xa hơn cái vùng quê
nơi mình ở. Họ được tiếp thu cả những văn minh lẫn cặn bã của xã hội thuộc
địa, bởi vậy mà quan niệm, cách nhìn của họ cũng thay đổi, làng quê không thể
trói buộc được họ nữa, họ đã bắt đầu có tư tưởng hướng ngoại. Khi mà văn
minh nơi đô thị tác động đến vùng nông thôn thì những giá trị văn hóa truyền
thống bị biến dạng ghê gớm, trở nên kì quái hơn bao giờ hết giữa sự giao thoa
của nông thôn và thành thị, của Châu Âu và Châu Á. Người nông dân trước kia
khi bị bần cùng, bị áp bức đến cùng cực thì họ cũng không dám nghĩ đến việc
rời khỏi lũy tre làng, nhưng bây giờ họ đã nghĩ đến việc “thoát li” đi ra thành
phố để kiếm sống. Sau lũy tre làng không còn là sự bình yên như thuở nào mà
thay vào đó là sự biến động dữ dội. Những người nông dân vốn hiền lành chất
phác, quanh năm chỉ biết đến cái cày cái cuốc, với cây đa, mái đình nay họ lạc
lõng giữa cái mới với đủ sự hay dở của xã hội đương thời. Nhưng sự đời luôn
trớ trêu, những cái xấu luôn được tiếp thu nhanh hơn, họ nhanh chóng vứt bỏ
những điều tốt đẹp nơi làng quê để nhận lấy những thứ cặn bã của thành thị và
rồi khi trở về làng lại nhân rộng nó ra như một mô hình. Chính điều này là nguy
cơ làm rạn nứt những giá trị văn hóa truyền thống được xây dựng từ lâu đời,
cũng chính từ việc làm thay đổi, làm mất đi nền văn hóa ấy mà những vùng
nông thôn yên bình từ bao đời nay bỗng nảy sinh ra nhiều chuyện mới , nhiều
con người mới - những con người kì dị đến khó lường. Những sự việc ấy,
những con người ấy được phản ánh rất nhiều trong văn học thông qua nhiều
khía cạnh, nhiều phương diện đời sống. Có thể thấy rằng, sự am hiểu về văn
hóa với hai mặt ổn định và biến động là cơ sở để đi sâu tìm hiểu các tác phẩm
văn chương nói chung và của Nam Cao nói riêng.
1.3. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học
Văn học là nghệ thuật dùng ngôn từ và hình tượng để thể hiện con người
và đời sống xã hội, “văn học thời nào cũng phải đặt trong cấu trúc tổng thể của
14
văn hóa, nhưng ở ta xem xét văn học và tiếp cận văn học từ góc độ văn hóa
hiện nay vẫn là vấn đề hết sức mới mẻ. Trước đây, văn học và văn hóa bị xem
xét một cách biệt lập do người ta quan niệm văn học có đặc trưng loại biệt.
Bây giờ đặc trưng loại biệt không phải là không còn nhưng trong nhiều cách
tiếp cận văn học từ góc độ văn hóa đang cho thấy một hướng tiếp cận có hiệu
quả. Cách tiếp cận này xem văn học như một thành tố trong cấu trúc tổng thể
của văn hóa nó truyền tải, lưu giữ được những giá trị văn hóa” [51, tr.3].
Văn học được coi là một sản phẩm của văn hóa tinh thần. Vì thế khi
nghiên cứu một hiện tượng văn học, nhà nghiên cứu nếu tách khỏi môi trường
văn hóa đã sản sinh ra nó sẽ dẫn đến cách hiểu không đúng giá trị đích thực của
hiện tượng văn học đó. Trước đây, quan hệ văn hóa và văn học được coi là
quan hệ tương hỗ. Bởi thế, nghiên cứu văn hóa thì văn học được coi như một
nguồn tài liệu, còn nghiên cứu văn học thì lại tìm thấy ở nó những chủ đề văn
hóa, cũng là một kiểu tài liệu. Như vậy văn hóa và văn học làm tài liệu nghiên
cứu cho nhau. Gần đây, sau khi UNESSCO phát động những thập kỉ phát triển
văn hóa nên quan hệ văn hóa, văn học được chú ý nhiều hơn. Đã có một số tác
giả đi theo hướng nghiên cứu này như Trần Đình Hượu, Trần Ngọc Vương, Đỗ
Lai Thúy, Trần Nho Thìn…và các công trình của M. Bakhtin được giới thiệu,
các nhà nghiên cứu đã thống nhất văn hóa là nhân tố chi phối văn học. Tác giả
Đỗ Lai Thúy đã khẳng định “Văn hóa là một tổng thể , một hệ thống bao gồm
nhiều yếu tố, trong đó có văn học. Như vậy, văn hóa chi phối văn học với tư
cách là hệ thống chi phối yếu tố, toàn thể chi phối bộ phận. Đây là quan hệ bất
khả kháng. Tuy nhiên, văn học so với các yếu tố khác là một yếu tố mạnh và
năng động. Bởi thế, nó luôn có xu hướng đi trượt ra ngoài hệ thống. Trong khi
đó thì hệ thống, nhất là hệ thống văn hóa, luôn có xu hương duy trì sự ổn
định.Như vậy, sự xung đột, sự chống lại của văn học đối với văn hóa là không
thể tránh khỏi. Nhưng nhờ thế mà văn học có sáng tạo. Sáng tạo những giá trị
mới cho bản thân nó và cho hệ thống. Sáng tạo lớn thì có thể dẫn tới sự thay
15
đổi của hệ thống”[51, tr.3]. Lịch sử văn học đã chứng minh, văn hóa chính là
chất liệu để văn học sáng tạo nên thế giới nghệ thuật của mình.
Văn hóa dân gian Việt Nam vô cùng phong phú và đa dạng, có thể nói,
đó là nơi lưu giữ và bảo tồn đầy đủ nhất những giá trị thuộc về văn hóa truyền
thống. Ở đó, người Việt có thể tìm về được cội nguồn của chính mình qua
những lời ru, những câu chuyện cổ tích hay những truyền thuyết, thần thoại từ
thuở dựng nước. Những phong tục từ xưa đến nay được giữ gìn trong kho báu
văn học dân gian, ta bắt gặp tục ăn trầu trong sự tích trầu cau, ngày tết người
Việt ta lại bồi hồi nhớ lại chàng Lang Liêu trong sự tích bánh chưng bánh dầy.
Như vậy, các phong tục tập quán, các yếu tố văn hóa được đưa vào văn học,
làm đề tài cho văn học. Cũng chính vì thế mà nhiều giá trị văn hóa đã chiến
thắng được thời gian để tồn tại cho tới bây giờ.
Văn hóa thời kì phong kiến cũng được phán ánh sâu sắc qua các tác
phẩm văn học. Chúng ta thấy được lịch sử qua các trang sách, thấy được cuộc
chiến đấu oanh liệt,vẻ vang của ông cha ta trong quá trình dựng nước và giữ
nước hay gần gũi hơn là bức tranh dân gian trong thơ Hồ Xuân Hương, là
những trò chơi, những câu đố, tục ngữ…. Trước đây khi nghiên cứu thơ trào
phúng Hồ Xuân Hương , các nhà nghiên cứu khẳng định thơ bà là sự thể hiện
mạnh mẽ bản năng tính dục của con người bị xã hội kìm nén. Các nhà nghiên
cứu theo quan điểm xã hội học lại khẳng định thơ Hồ Xuân Hương mang giá trị
phê phán. Nhà thơ đã dùng cái tục như một phương tiện để đả kích xã hội
phong kiến thối nát, hạ bệ bọn vua chúa, hiền nhân quân tử dâm ô trụy lạc. Tuy
nhiên, nếu đọc toàn bộ và đọc kĩ thơ Hồ Xuân Hương chúng ta thấy không phải
toàn bộ thơ bà viết ra đều nhằm vào mục đích phê phán đả kích. Ở một số bài
thơ còn hết lời ca ngợi vẻ đẹp của tình yêu. Muốn hiểu đúng thơ Hồ Xuân
Hương phải đặt nó trong văn hóa Việt , có vậy mới tránh được lối hiểu phiến
diện , mới thấy được hết ý nghĩa giá trị của thơ bà. Thơ Hồ Xuân Hương là
trường thơ vừa mang tính văn hóa truyền thống với tín ngưỡng phồn thực vừa
16
mang tính thời sự. Từ đó có thể khẳng định rằng, muốn hiểu đúng, hiểu sâu sắc
về một tác phẩm văn học, phải đặt nó trong nền văn hóa mà nó ra đời chứ
không chỉ đặt riêng trong hoàn cảnh xã hội.
Qua văn học, chúng ta thấy được văn hóa qua từng thời kì lịch sử. Tuy
nhiên, văn học không thể phản ánh trực tiếp được văn hóa mà “chỉ có thể phản
ánh thông qua “lăng kính” văn hóa, thông qua “bộ lọc” của các giá trị văn
hóa. Nhờ thế mà tránh được sự phản ánh “gương”, phản ánh một cách trần
trụi. Và có lẽ, cũng nhờ thế mà tạo cho văn học một lối phản ánh đặc trưng,
phản ánh, như người ta nói, có nghệ thuật” [51, tr.3].
Văn hóa qua từng thời kì, từng giai đoạn lịch sử lại có một chuẩn mực
riêng. Bởi vậy, khi thưởng thức một tác phẩm văn học chúng ta hãy đặt nó
trong môi trường văn hóa hình thành nên tác phẩm ấy để mà hiểu, mà soi xét.
Thời kì trung đại chúng ta quen với những lễ giáo phong kiến thì đến thời hiện
đại chúng ta lại bắt gặp những cái mới, đó có thể là văn hóa uống trà trong tùy
bút của Nguyễn Tuân hay cốt cách người nông dân được đào tạo qua biến thiên
cách mạng trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, rồi những tín ngưỡng,
những phong tục trong tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn của Nguyễn Xuân
Khánh….Có thể nói, văn hóa phát triền theo từng thời kì lịch sử. Ở đó, có
những giá trị vẫn còn tồn tại nhưng cũng có những giá trị đã mất đi hay dần bị
mai một. Chẳng hạn như trong bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên, đó là nỗi xót
xa của tác giá trước một nét văn hóa đang dần bị mai một và cùng với đó là sự
suy tàn của xã hội phong kiến. Hay với Nguyễn Tuân, ông đã dùng ngòi bút
của mình để vẽ lại bức tranh của một thời quá khứ vàng son với những thú vui
tao nhã như thưởng trà, ngắm hoa… Thời gian qua đi, nhiều biến cố lịch sử đã
đổi thay nền văn hóa của dân tộc, nhưng khi đọc lại những tác phẩm văn học
ấy, chúng ta vẫn như sống lại không khí lịch sử của cả một thời xưa. Hiện nay,
dưới sự phát triển của khoa học hiện đại và quá trình đô thị hóa, văn hóa nông
nghiệp đang dần bị mai một. Nó như một hồi chuông cảnh tỉnh về sự mất dần
17
của một nền văn hóa, có lẽ sự biến mất này một phần nào đó là do nó ít được
phản ánh trong các tác phẩm văn học. Bàn về điều này, tác giả Đỗ Lai Thúy đã
khẳng định “văn học không thể ảnh hưởng tức thời, trực tiếp đến hành động
của con người mà chỉ có thể tác động đến con người với tư cách là chủ/ khách
thể của văn hóa, làm cho con người biến chuyển rồi mới phát sinh hành động
cụ thể. [51, tr.3].
Nói về mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, chúng tôi muốn khẳng
định việc tìm hiểu văn học dưới góc độ văn hóa là hoàn toàn đúng đắn và
mang tính thiết thực. Với nhiều tác phẩm văn học, nếu chỉ tìm hiểu trên
bình diện đạo đức, thẩm mĩ thì không thể khơi hết được giá trị của nó. Bởi
vậy, tiếp cận văn học có nhiều con đường nhưng con đường văn hóa là một
phương pháp có nhiều thuận lợi bởi lẽ “nó dẫn người ta đi từ cái đã biết
đến cái chưa biết, cái biết nhiều đến cái biết ít, cái toàn thể đến cái bộ
phận bằng con đường loại suy” [51, tr.3].
18
Tiểu kết chương 1
Qua việc tìm hiểu những khái niệm tiền đề về văn hóa và những đặc
trưng của văn hóa, chúng tôi muốn thấy rõ hơn những nét cơ bản trong văn hóa
Việt Nam mà biểu hiện rõ nhất chính là văn hóa ở nông thôn với hai đặc trưng
cơ bản là tính cộng đồng và tính tự trị.
Bên cạnh đó, chúng tôi đi vào tìm hiểu tình hình nông thôn Việt Nam
trước Cách mạng tháng Tám 1945 để thấy được đặc điểm về kinh tế, chính trị,
xã hội…của nông thôn trong giai đoạn này. Đây là giai đoạn mà văn học Việt
Nam xuất hiện nhiều tác giả với sức sáng tạo hết sức dồi dào và có phong cách
độc đáo.
Để hiểu một tác phẩm văn học không chỉ đặt nó trong thời kì lịch sử,
trong hoàn cảnh sáng tác mà cần phải tìm hiểu nó trong nét văn hóa đặc trưng.
Điều này đã được thể hiện rõ ngay cả trong văn học dân gian thông qua những
câu ca dao, những bài đồng dao, những truyền thuyết từ xa xưa hay trong văn
học trung đại với Hồ Xuân Hương, văn học hiện đại với Nam Cao, Nguyễn
Tuân… Từ đó chúng tôi tìm hiểu truyện ngắn của Nam Cao mà cụ thể là trong
các sáng tác về đề tài nông thôn và người nông dân dưới góc nhìn văn hóa nông
thôn.
19
Chương 2
DẤU ẤN VĂN HÓA NÔNG THÔN TRONG NỘI DUNG TRUYỆN
NGẮN NAM CAO
2.1. Nông thôn và người nông dân trong truyện ngắn Nam Cao
2.1.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp Nam Cao
2.1.1.1. Cuộc đời
Nam Cao (1915 - 1951 ) là bút danh của nhà văn - nhà báo - liệt sĩ Trần
Hữu Tri. Ông sinh ra trong một gia đình nông dân tại làng Đại Hoàng, tổng Cao
Đà, huyện Nam Sang, nay thuộc xã Hòa Hậu, huyện Lí Nhân, tỉnh Hà Nam
(cách thành phố Nam Định chừng hơn 10km). Học xong bậc Thành chung,
Nam Cao từng có lúc vào Sài Gòn kiếm sống bằng nhiều nghề, nhưng bệnh tật
đẩy ông về quê. Từ đó, Nam Cao sống chật vật bằng nghề dạy học và viết văn.
Nam 1943, ông vào Hội văn hóa cứu quốc. Tham gia Tổng khởi nghĩa ở quê
hương, ông được cử làm Chủ tịch xã. Sau Cách mạng, với tư cách phóng viên -
Nam cao đã có mặt trong đoàn quân Nam tiến, rồi lên chiến khu Việt Bắc làm
công tác văn nghệ. Cuối tháng 11 năm 1951, trên đường đi công tác vào vùng
địch tạm chiếm, Nam Cao anh dũng hi sinh tại Gia Viễn, Ninh Bình.
Nam Cao là một cây bút xuất sắc của dòng văn học hiện thực 1940 -
1945, là người tiên phong trong việc xây dựng nền văn học mới. Ông đóng một
vai trò quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Cả cuộc đời Nam Cao
là một quá trình phấn đấu không ngừng cho một nhân cách cao đẹp - nhân cách
trong cuộc đời và nhân cách trong sáng tạo nghệ thuật. Từ hơn nửa thế kỉ qua,
con người và sáng tác của Nam Cao đã trở thành đối tượng khảo sát của nhiều
20
thế hệ nghiên cứu phê bình và độc giả. Ông là một trong những nhà văn lớn của
thế kỉ được nghiên cứu nhiều nhất, liên tục nhất.
Cuộc đời Nam Cao khép lại ở tuổi 35 nhưng ông đã để lại cho hậu thế
một kho tàng văn chương tuy không đạt mức kỉ lục về số lượng nhưng tác
phẩm của ông luôn ẩn chứa những giá trị sâu sắc chứng tỏ sức sống tiềm tàng
của một giá trị văn chương vượt lên trên các bờ cõi và giới hạn.
2.1.1.2. Sự nghiệp
Trước Cách mạng 1945, tài năng Nam Cao kết tinh trong gần 60
truyện ngắn, một truyện vừa và tiểu thuyết Sống mòn. Đây cũng là quãng
thời gian mà cây bút Nam Cao đạt đến đỉnh cao trong sự nghiệp. Tuy nhiên,
cái đỉnh cao trong ngòi bút của ông không phải được tính bằng số lượng
hay độ dài mà là chất lượng, chất lượng về ngôn ngữ nghệ thuật, về tư duy
xã hội và tư duy văn học.
Sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng tập trung ở hai đề tài: Người trí
thức nghèo và người nông dân trong vật lộn với miếng cơm manh áo. Xã hội
Việt Nam trong thời kì này đang chìm đắm trong đêm trường nô lệ, nhân dân
phải sống trong cảnh tối tăm, u ám dưới chế độ thực dân nửa phong kiến. Bọn
thực dân và phong kiến cấu kết chặt chẽ với nhau nhằm bóp nghẹt đời sống của
người nông dân. Vì vậy, trong mảng đề tài viết về làng quê Việt Nam, ngòi bút
sắc sảo của Nam Cao không chỉ dừng lại ở việc phản ánh những chuyện
chướng tai gai mắt, những thói hư tật xấu bề ngoài, ông đã thâm nhập vào sâu
trong đời sống của làng quê để thấy được cả một bộ mặt kì dị và quái dở, thấy
được cả xã hội nô lệ, lạc hậu để rồi chính cái xã hội ấy đã làm con người tha
hóa, biến chất như thế nào.
21
2.1.2. Đề tài nông thôn và người nông dân trong truyện ngắn Nam Cao
Nam Cao không phải người đầu tiên cũng không phải duy nhất viết về đề
tài nông thôn và người nông dân; trước đó độc giả đã biết đến nông thôn và
người nông dân Việt Nam trong các sáng tác của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công
Hoan…Là cây bút đi sau, nhưng ông chính là người đưa lên đỉnh cao và kết
thúc vẻ vang trào lưu hiện thực. Khác với các nhà văn khác khi viết về nông
thôn, ông không đứng bên ngoài để nhìn nhận mà đi sâu vào nó để khám phá.
Trong nhiều tác phẩm của mình, ông để cho nhân vật “tôi” xuất hiện, trực tiếp
tham gia vào câu chuyện, chứng kiến mọi sự việc đang diễn ra. Có lẽ, cũng vì
thế mà bức tranh nông thôn của Nam Cao trở nên chân thực và sinh động hơn
bao giờ hết “Không như Tam Lang, Trọng Lang và một số nhà văn lãng mạn
khác, Nam Cao không nhìn người nghèo với con mắt khinh bỉ, giễu cợt nhưng
cũng không thi vị hóa, lý tưởng hóa họ. Tấm lòng yêu thương nhân đạo và sự
hiểu biết sâu sắc về con người, đời sống ở thôn quê đã giúp Nam Cao xây dựng
được những hình tượng nông dân sinh động.” [39, tr.476]. Nông thôn trong các
sáng tác của Nam Cao không được miêu tả trên diện rộng, không đi sâu vào
những hủ tục hay những mâu thuẫn gay gắt nơi làng quê lúc bấy giờ, ngòi bút
của ông đi sâu vào từng ngóc ngách của đời sống để mà viết, viết những
chuyện vặt vãnh, tủn mủn của đời sống nơi thôn quê nhưng cũng chỉ chừng ấy
thôi đã đủ để thấy được bộ mặt của cả một vùng nông thôn. Không có những
xung đột nhưng bức tranh về nông thôn trong các tác phẩm của Nam Cao vẫn
hiện lên rõ nét những đau đớn quằn quại của con người nơi đây. Phía sau lũy
tre làng vốn không bình yên như những gì người ta vẫn nghĩ mà đó là những
kiếp người sống mòn mỏi, lay lắt trong giành giật miếng cơm manh áo “Khác
22
với Ngô Tất Tố, viết về nông thôn, Nam Cao ít đưa vào những xung đột giai
cấp gay gắt và miêu tả trên một bình diện rộng. Ông tập trung chủ yếu vào
những cuộc đời cụ thể, và cũng chỉ lấy ra một chặng đường ngắn của nhân vật
để miêu tả [39, tr.476].
Nếu Ngô Tất Tố tập trung miêu tả người nông dân trong những áp bức,
bóc lột của bọn thống trị thì Nam Cao lại đặt người nông dân vào những thử
thách khắc nghiệt của cái đói, cái nghèo. Không ít lần những con người ấy bị
xô đẩy đến cái chết, những cái chết đau đớn quằn quại. Dù vậy, trong cành ngộ
nào, Nam Cao vẫn tìm thấy được những điểm sáng ở họ. Ông nhìn thấy cả mặt
tích cực và tiêu cực bởi vậy khi đi vào bình phẩm hay nhận xét, đánh giá về
người nông dân ông vẫn dành cho họ những tình cảm ưu ái, đặt niềm tin vào
những cuộc đời, những thân phận bé nhỏ ấy, vẫn tin tưởng rằng họ - những con
người thà “chết trong còn hơn sống đục” Có lẽ, vì sinh ra và lớn lên ở vùng
nông thôn nên phần nào ông thấu hiểu được phẩm chất của những con người ấy,
hiểu những điều tốt đẹp ẩn phía sau tâm hồn của họ “ Tôi gần gũi với họ rất
nhiều. Tôi đã gần như thất vọng vì thấy họ phần đông dốt nát, nheo nhếch, nhát
sợ, nhịn nhục một cách đáng thương. Nghe các ông nói đến “sức mạnh quần
chúng”, tôi rất nghi ngờ. Tôi vẫn cho rằng đa số nước mình là nông dân, mà
nông dân nước mình thì vạn kiếp nữa cũng chưa làm được cách mạng. Cái thời
Lê Lợi, Quang Trung có lẽ đã chết hẳn rồi, chẳng bao giờ trở lại. Nhưng đến hồi
tổng khởi nghĩa thì tôi đã ngã ngửa người. Té ra người nông dân nước mình cẫn
có thể làm được cách mạng, mà làm cách mạng hăng hái lắm” [11, tr. 468]. Có
được cái nhìn toàn diện như vậy là do quá trình bám sát cuộc sống của người
nông dân và đặc biệt là sự cảm thông, thấu hiểu cho hoàn cảnh của họ.
23
Từ đó, độc giả có thể thấy được những giá trị sâu sắc mà tác phẩm của
Nam Cao đóng góp cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Có lẽ, chính vì lẽ ấy
mà bất chấp mọi thử thách, người ta vẫn nhớ, vẫn nhắc đến Nam Cao, những
trang viết của ông vẫn còn nguyên giá trị đến ngày nay.
2.2. Phong tục tập quán
2.2.1. Tục hôn nhân
Hôn nhân là một việc hệ trọng của đời người, nó lại càng đặc biệt hơn ở
nông thôn, bởi con người nơi đây sống tập thể, tính cộng đồng cao, việc không
phải của một người, một nhà mà đó là việc chung của cả một dòng họ, của cả
một làng. Bởi vậy việc đầu tiên không phải là chọn một người mà chọn một gia
đình một dòng họ sao cho môn đăng hộ đối.
Cùng nhìn lại cuộc hôn nhân của Dần (Một đám cưới) ta sẽ thấy rõ hơn
điều này. Gia đình Dần nghèo mẹ lại mất sớm, chỉ còn mình bố nuôi mấy chị
em Dần trong cảnh nheo nhóc túng thiếu. Đã vậy, ngày mẹ Dần mất ông còn
phải đi vay nợ nhà ngươi ta về làm ma “Mắc cái lúc mẹ mày nằm xuống, nhà
không còn một đồng xu nào, không còn vớ víu vào đâu được, tao đã nhận của
người ta hai mươi đồng bạc cưới. Như vậy, cuộc hôn nhân của Dần đã được
định sẵn mà đôi lứa hai bên không cần tìm hiểu nhau, không hề diễn ra cuộc
yêu đương như những thanh niên trong văn học lãng mạn của Tự lực văn đoàn.
Gia cảnh nhà mẹ chồng Dần cũng không lấy gì làm khá giả “Ông cũng khổ,
nhưng tôi còn khổ hơn ông, thày cháu chết đi, tôi chỉ được có mình cháu là con
trai, ông có thương tôi…”. Như vậy là môn đăng hộ đối rồi, hai gia đình, hai
hoàn cảnh giống nhau, họ chọn nhau làm thông gia. Có lẽ những người có hoàn
cảnh như Dần cũng không bao giờ dám nghĩ mình có thể vào làm dâu một gia
24
đình nào khấm khá hơn, cũng giống như bà lão, cái nghèo, cái khổ bà không
dám hỏi chỗ nào hơn cho con trai mình. Môn đăng hộ đối trong quan hệ hôn
nhân ở nông thôn là điều vô cùng quan trọng, bởi lẽ chỉ trong hoàn cảnh giống
nhau họ mới có thể thấu hiểu và cảm thông cho nhau. Gia đình nhà chồng Dần
neo người, nhà chỉ có hai mẹ con, vì thế mà bà mẹ chồng mong cưới sớm có lẽ
cũng là một phần để đáp ứng nhu cầu về người làm trong gia đình. Trong hoạt
động sản xuất nông nghiệp thủ công trước đây, thì lao động dựa hoàn toàn vào
con người, người ta cần người làm, cưới vợ về cũng là vì lý do đó. Nhớ lại
truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, Mị mang cái danh là con dâu nhà Pá
Tra nhưng thực chất lại là người ở. Và trong gia đình nhà Pá Tra không phải
chỉ có một mình Mị phải chịu cảnh đó mà còn nhiều cô Mị khác cũng vậy. Như
vậy, dù ở các vùng miền khác nhau song hôn nhân của những người nông dân –
cả miền núi và miền xuôi phần lớn là để phục vụ nhu cầu làm nông, nhu cầu
làm kinh tế trong gia đình.
Khác với Dần (Một đám cưới), cuộc hôn nhân của Ngạn (Nhìn người ta
sung sướng) có điểm “sáng” hơn, nhưng nó cũng không phải đến từ tình yêu
đôi lứa mà nó đến vì Ngạn muốn bà mình vừa lòng, bởi lẽ sau cái gật đầu đồng
ý của Ngạn là một cái thở dài đến ngao ngán “Ngạn sẽ gật đầu một cái và thở
dài theo luôn”. Ngạn lấy vợ, lấy một người mà Ngạn chẳng mấy khi gần nhưng
cô gái ấy lại được lòng bà Ngạn, cũng vì “bà cụ thương Duyên cùng một cảnh
như bà hồi trẻ”, như vậy là môn đăng hộ đối rồi.
Trong cưới hỏi, nếu môn đăng hộ đối là phương diện tâm lý thì tục thách
cưới là phương diện kinh tế. Nếu nhà trai không nộp đủ tiền cưới cho nhà gái,
cho làng thì sẽ không được đón dâu. Nhìn lại cuộc hôn nhân bất thành của
25
thằng con trai Lão Hạc ta mới hiểu rõ điều này. Thằng con trai của lão và đứa
con gái “mê nhau lắm”, đây là lần hiếm hoi ta bắt gặp được tình yêu của đôi trẻ
trong truyện ngắn Nam Cao, ấy vậy mà nó lại không thành. Không thành bởi lẽ
tiền thách cưới nặng quá : “nguyên tiền mặt phải một trăm đồng bạc, lại còn
cau, còn rượu…cả cưới nữa thì mất đến cứng hai trăm bạc. Lão Hạc không lo
được” . Cùng chung tâm lý với lão Hạc là nỗi lo lắng của bà Quản Thích (Nửa
đêm), bà lo cho thằng cháu mình không lấy được vợ bởi những đám gần thì
chẳng ai chịu gả con cho thằng cháu bà, cái thằng vừa là con thằng Thiên Lôi
lại vừa ngờ nghệch, còn những đám ở xa thì những người nghèo như bà không
có tiền. Có biết bao nhiêu tình yêu không thành vì tục thách cưới quá nặng,
cũng có biết bao nhiêu đám cưới khốn đốn vì những tục lệ cưới xin nặng nề,
đám càng xa thì tiền nộp treo càng nặng. Trong Rửa hờn, người đọc vẫn nhớ
cái tỉnh cảnh của đôi vợ chồng trẻ, vì chẳng có tiền cưới cheo gì nộp cho làng
mà đến lúc đứa con ra đời đã không thể khai sinh. Phải chăng, qua những cuộc
hôn nhân khốn đốn ấy, Nam Cao muốn phê phán cái tục cưới xin nặng nề, nó
đã gieo rắc lên người dân nghèo bao nhiêu tai họa. Thiết nghĩ, nếu không có cái
tục thách cưới kia hay chí ít nó được giảm nhẹ hơn thì thằng con trai lão Hạc đã
không phải bỏ nhà mà đi như thế và lão cũng không phải chết một cách tức tưởi
như vậy,mà hơn thế người ta hoàn toàn có thể nghĩ đến một tương lai tươi sáng
hơn cho đôi vợ chồng trẻ.
Bên cạnh những cảnh thách cưới nặng nề thì cũng có những gia đình
nghèo, họ thấu hiểu cho nhau mà nhẹ nhàng hơn rất nhiều. Cùng trở lại với gia
đình Dần trong cuộc bàn chuyện cưới xin. Người ta thấy được sự cảm thông,
thấu hiểu của bố Dần đối với bà cụ. Cái thấu hiểu ở đây là thấu hiểu cho cảnh
26
nghèo, phải chăng vì ở cùng trong cảnh đó với nhau nên người ta dễ mà hiểu
cho nhau hơn. Đám cưới Dần được tối giản một cách tối đa, ông bố Dần cũng
không có gì là thách “Xin nhiều thì mang tiếng; với lại người ta lấy gì mà đưa
cho mình được? Vay công vay nợ lắm vào thì về sau lại chỉ khổ chúng mày.
Tao phải bảo người ta:muốn may cho mày thế nào thì may lấy, tao không dám
nhận”. Đọc đến đây người ta thầm nghĩ, giá như người cha nào cũng nghĩ được
như cha của Dần thì cuộc sống sẽ dễ chịu biết bao.
Ngoài những thủ tục cưới xin nặng nề cũng không thể không đề cập đến
những nét văn hóa tốt đẹp, nó trở thành một điểm sáng trong văn hóa nông
thôn. Các cụ ta vẫn có câu “miếng trầu là đầu câu chuyện”, và cũng không ai
có thể quên sự tích cau trầu là tình nghĩa vợ chồng thủy chung, gắn bó. Bởi thế,
trong cưới hỏi, dù nghèo khó, thiếu thốn đến đâu người ta cũng phải sắm cơi
trầu để hỏi cưới. Trong đám cưới của Dần người ta không thấy sự vui mừng hồ
hởi mà là một không khí ảm đạm bởi đó là đám cưới chui, còn chưa được trọn
vẹn. Thế nhưng những gì là bắt buộc thì nó vẫn không thể thiếu, đó là hình ảnh
cơi trầu khi xin dâu, dẫu ở đây nó không được chu toàn “chú rể xách một chẽ
cau, chừng một chục quả. Vào đến nhà, y lúng túng không biết đặt đâu” . Nhìn
lại đám cưới của dì Hảo (Dì Hảo), dù nó diễn ra vào một buổi chiều có sương
bay, đón dâu vào lúc tờ mờ tối, dù “nhà người ta có trở” nhưng cũng không
thể không “biện cơi trầu bát nước” để mà xin dâu. Đây là một yếu tố văn hóa
bất biến, nó là một nét đẹp vẫn còn tồn tại cho đến tận ngày nay. Đưa chi tiết
này vào truyện, Nam Cao muốn khẳng định với người đọc rằng cái gì thuộc về
truyền thống, mà đã là truyền thống tốt đẹp thì không gì có thể bỏ được.
27
2.2.2. Tục tang ma
Nếu hôn nhân được xem là một việc hệ trọng của đời người thì tang ma
cũng không thể xem nhẹ. Tang ma không đơn thuần là tiễn đưa, chôn cất một
người đã chết mà kéo theo đó còn rất nhiều thủ tục khác. Người Việt xưa, đặc
biệt là những người ở vùng nông thôn thường lo liệu trước cho cái chết của
mình. Họ chuẩn bị từ cỗ quan tài cho đến tiền lo ma chay. Bởi lẽ, khi người ta
chết đi thì cái việc chôn cất không còn là việc riêng gì của con cháu trong gia
đình mà nó là việc của cả làng, vì vậy nó kèm theo cả việc ăn uống cho những
người đến giúpvà hơn nữa càng không thể chôn một người như một con vật đã
chết. Cũng với quan niệm, chết không phải là hết, chết là bước sang một cuộc
sống mới ở thế giới bên kia nên thậm chí có những đám ma còn ăn uống linh
đình. Trở lại với truyện ngắn Lão Hạc , trước khi chết lão đã chu tất mọi việc
bởi chết chưa phải là hết cho người còn sống. Hiểu điều đó, lão Hạc đã lo liệu
trước cho cái chết của mình “lão còn được hăm nhăm đồng bạc, muốn gửi tôi
để lỡ có chết thì tôi đem ra, nói với hàng xóm giúp, gọi là của lão có tí chút,
còn bao nhiêu đành nhờ hàng xóm cả”, bởi lúc này lão chỉ sống có một mình
biết trông cậy vào ai. Sau cái chết mới cả là một đại sự, bởi lẽ “Người không
phải là con chó, người không thể chết như con chó chết:chết còn làm lợi cho kẻ
khác. Người chết phải đem chôn. Lại không thể cầm cái mai, moi một đống đất
lên mà chôn, như chôn một con mèo chết vào gốc một cây khế cho cây khế
ngọt. Phải mua cỗ gỗ. Phải mời xóm, mời làng. Phải có bát nước, miếng trầu.
Phải biện lưng cơm cho những người khiêng. Ấy, với phận nghèo. Nếu cái thể
còn vay mượn được thì còn phải đến trăm thứ khác. Cái chết ở thôn quê là một
28
cái gì rầy rà to” (Làm tổ). Thế mới hiểu, cái sự lo liệu cho cái chết của mình
còn to tát hơn việc lo cho mạng sống.
Bên cạnh đó, xót thương là việc không thể tránh bởi lẽ “nghĩa tử là
nghĩa tận”. Nếu cái chết của Lão Hạc, một người ăn ở hiền lành, chu tất thì sự
xót thương của mọi người là điều hiển nhiên. Ông giáo chua xót khi mất đi một
người hàng xóm, một người đáng trân trọng để mà thốt lên “Lão Hạc ơi! Lão
hãy yên lòng mà nhắm mắt” , thế nhưng cũng có những người khi sống gây bao
nhiêu tai họa, lúc chết vẫn có những tiếng khóc dẫu chỉ là khóc hờ. Đó không ai
khác chính là cái thằng Thiên lôi giết người ấy, thế mà khi hắn chết “người mẹ
nuôi vẫn mong hắn chết , bây giờ muốn khóc và khóc thật. Có ai hiểu được cái
nước mắt của loài người! Vợ kế đã run sợ mà lấy nó, đã nguyền rủa nó, bây
giờ cũng khóc. Chao ôi! Những giọt châu của loài người”. Đến đây người đọc
lại nhớ tới Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, khi mà đám con cháu bỗng rất vui mừng
và phấn khởi bởi cái chết của cụ tổ. Thật chua xót, cũng một kiếp người vậy mà
có những cái chết để lại bao suy ngẫm và cũng có những cái chết khiến người
ta nhẹ lòng như bớt đi được một mối hiểm họa vậy.
Sẽ là thiếu sót nếu trong đám ma mà không có người đọc điếu văn. Đây
là những lời thương xót của người sống dành cho người chết, có khi là tình
cảm,là kỉ niệm giữa họ với nhau, có khi là công lao của người chết lúc còn
sống. Anh Phúc chết (Điếu văn) trong sự thờ ơ của người vợ, nhưng bên cạnh
anh vẫn còn những người bạn như “tôi”, “tôi” xót thương cho cảnh của anh
Phúc, xót xa cho cảnh hai đứa con anh bị đói nheo nhóc. Toàn bộ câu chuyện là
cuộc đời anh Phúc từ lúc còn sống đến khi chết, những thiệt thòi, những gắng
gượng của anh để rồi cuối cùng chết trong đau đớn. Thế nhưng, sự đời không
29
thể mãi u ám như vậy được, hai đứa con anh sẽ được “một bàn tay bạn bè sẽ
nắm lấy bàn tay chúng cùng đi tới một cuộc đời đẹp hơn”. Như vậy, ở đây lời
điếu văn ấy không chỉ đơn giản là sự xót xa trước cuộc đời, trước cái chết của
anh Phúc mà nó còn là một lời hứa hẹn với người bạn xấu số.
Đề cập đến vấn đề này , Nam Cao muốn qua đó để giữ gìn những truyền
thống tốt đẹp vốn có của văn hóa nông thôn, nhưng một mặt ông cũng phê phán
những hủ tục, những tục lệ rườm rà làm con người ta khốn đốn. Đó là những
giá trị sâu sắc mà tác giả muốn truyền đạt đến và nó vẫn còn nguyên giá trị cho
đến tận ngày nay.
2.3. Trật tự nông thôn
Người dân Việt Nam ở đồng bằng Bắc Bộ có những điểm chung nhau về
sự hệ lụy giữa cá nhân với gia đình, làng, nước. Yếu tố văn hóa này in đậm
trong ý thức của mỗi người dân nơi đây. Và trong cơ cấu tổ chức ở nông thôn
thì thường được liên kết theo kiểu các gia đình liền kề nhau, xung quanh làng
có lũy tre bao bọc, có cây đa, cổng làng, có nơi thờ tự chung, có lễ hội dân
gian, mùa vụ… Đặc biệt, nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ lại chịu ảnh hưởng
rất sâu sắc của Nho giáo nên những lề thói, những khuôn phép, thứ bậc tôn ti
trong gia đình, dòng tộc, làng xã đều được xem trọng trong đời sống hàng ngày.
Đình làng được coi như một trung tâm văn hóa, chính trị của mỗi làng, mọi
sinh hoạt đều được tổ chức tại đây, đây là nơi biểu hiện rõ nhất cho quan hệ thứ
bậc trong làng. Gắn với đình làng là sự phân chia về địa vị, thân phận của mỗi
người.
Như đã nói, Nam Cao sinh ra và lớn lên ở làng quê Bắc Bộ, ông viết
nhiều về nông thôn, về những sinh hoạt, lối sống của người nông dân. Vì thế,
30
hầu hết trong tác phẩm của mình, dù ít hay nhiều, ở những mức độ khác nhau
Nam Cao đều đề cập đến vấn đề ngôi thứ.
Đình làng là một biểu tượng văn hóa rất Việt Nam. Đình làng gắn với
những cuộc hội họp bàn bạc, nó tạo nên đặc trưng của tính tự trị và sự tồn tại
lâu đời của nông thôn Bắc Bộ nói riêng và Việt Nam nói chung.
Gắn với sinh hoạt đình làng là sự phân chia ngôi thứ, nó liên quan
đến lợi ích vật chất và tinh thần của những người có chức sắc trong làng,
chính nơi đây cũng nảy sinh nhiều hủ tục, nhiều tệ nạn đè nặng lên đời
sống của những người dân nghèo. Với con mắt sắc sảo, sự quan sát tỉ mỉ,
Nam Cao đã tái hiện lại một cách sâu sắc những câu chuyện oái oăm xoay
quanh vấn đề ngôi thứ ở chốn đình trung.
Trọng danh vị là tâm lí phổ biến của người dân, tâm lí này hoàn toàn dễ
hiểu đối với những người nông dân quanh năm lam lũ. Tâm lí này cũng gắn với
ước mơ đổi đời của họ. Đất lề quê thói, đời sống cộng đồng buộc người nông
dân phải sống theo mọi người, không một cá nhân nào có thể tồn tại riêng lẻ mà
phải duy trì theo cộng đồng, theo đúng lệ làng. Vì vậy, ngoài việc lo thiên tai
hạn hán, lo mùa màng thì chính việc lo lắng về chức vị, về những đóng góp là
nguyên nhân khiến cho giấc mơ về một cuộc sống no đủ của người nông dân
không bao giờ thành hiện thực. Cùng đọc lại truyện Mua danh ta sẽ phần nào
thấu hiểu hơn nỗi khổ đó của người nông dân.
Ước mơ về một mùa màng bội thu là ước mơ chung của nhiều gia đình
và nhà anh Bịch cũng không ngoại lệ. Năm nay gia đình anh được trời thương
nên vườn trầu lại tốt lạ lùng, cứ ngỡ ấy là điềm lành, là cái mà anh có thể trông
cậy vào để nuôi đàn con nheo nhóc. Thế nhưng, trời thương mà người đời
31
chẳng thương cho anh, cụ Túy đã dòm ngó cái giàn trầu và gợi ý anh mua lấy
cái chức “hương trưởng”. Nào, một người ăn chẳng đủ, quanh năm làm nghề
xúc dậm anh có dám mơ tưởng gì đến chức tước đâu, chỉ mong có cái ăn mà
nuôi bốn đứa con nhỏ. Những tưởng giàn trầu sẽ giúp anh thực hiện giấc mơ đó
thế nhưng vừa từ chối việc mua chức hương trưởng với cụ Túy thì “Mấy hôm
sau, làng lại nhốn nháo lên về việc bắt phu. Người ta đồn rằng: lớp này bắt
những tám mươi người đàn ông với bốn chục đàn bà”, cái tin ấy khiến anh
Bịch không khỏi hoang mang. Vợ chồng Bịch nghĩ đến cảnh nếu anh bị bắt phu
thì “mẹ con tôi cũng phải bỏ làng mà đi nốt”, nhưng giờ tính nước nào cũng
không xong, thật là chua xót. Nhìn anh Bịch lúc này, không ai là không xót xa
thương cảm “Hắn ngồi bó củi, cằm nghếch trên đầu gối. Mặt hắn thưỡn ra, vừa
tức tối vừa chán nản. Một chút nước mắt chạy vòng quanh.” Và rồi, cuối cùng
anh vẫn phải cắn răng mà mua lấy cái chức hương trưởng để tránh cho mình
khỏi bị bắt phu và “cũng chưa bao giờ chức hương trưởng trong làng lại rẻ
như thế ấy” chỉ một trăm đồng là xong tất cả. Vậy là đã xong xuôi cuộc mua
bán danh vọng, cũng đồng nghĩa với nó là anh Bịch đã mất trắng đi vườn trầu
vào chức hương trưởng. Những tưởng mọi việc như vậy đã êm xuôi nào ai ngờ
hết cái tủi nhục khi làm ông hương của anh Bịch. Vì không có tiền để khao
danh cho làng nên cái chức của anh chỉ được ghi trong hương ước của làng chỉ
mấy cụ tiên chỉ biết chứ dân làng không ai hay. Thế nên, lúc anh ra đình cái
chức ấy cũng chẳng đủ oai để dẹp lũ trẻ con mà lại còn mang nhục vào thân “-
Hương cái con khỉ! Chưa làm rượu đã vác mặt ra đình! Bộ thằng tớ có chào nó
là ông hương”. Ấy thế là “tiền mất tật mang” đã vậy còn bị dọa “Muốn cách
không?” thật là khổ hết chỗ nói. Vậy là cái nghèo vẫn cứ đeo bám, cái chức mà
32
anh mua được cũng không giúp ích được gì. Nỗi lòng của anh Bịch cũng chính
là hoàn cảnh của rất nhiều người nông dân lúc bấy giờ, họ bị chèn ép bởi những
địa vị, những ngôi thứ trong làng. Ở cái chốn làng quê ấy, người nông dân
không thể nào ngóc đầu lên được bởi những trò oái oăm, gàn dở.
Khác với Bịch, có được chức hương trưởng một cách bất đắc dĩ thì Trạch
văn Đoành (Đôi móng giò) từ một anh đi câu, lại leo lên được hàng Cửu phẩm
nhờ tiền bạc và cái cốt yếu là nhờ vào mánh khóe của mình, thế nhưng chẳng
lúc nào hắn được yên với các bậc chức sắc trong làng, lúc nào hắn cũng bị “các
ông về hùa với nhau để chành chẽ hắn, hễ động hắn mở miệng ra là chèn”.
Không hiền và non như Bịch, từ khi “đi lính chào mào sang bên Tây về” hắn
khôn và ranh mãnh hơn nhiều chứ không còn cái ngù ngờ của một anh nông
dân. Ban đầu hắn dùng tiền của mình để làm một ông kì mục, thế nhưng một
thằng bỏ làng chán chê mà đi, con một lão đi câu chết mất xác lại làm to như
vậy thì đời nào người ta chịu. Thế nên các ông trong làng chẳng ai chịu nhường
chiếu cho một thằng “không chôn nổi bố”, hắn bị chành chẽ, bị nói móc đến
thân phận mình. Nhưng, thói đời và tính ngang bướng dạy cho hắn phải kìm
chế để tìm cơ hội mà trả thù. Vậy là hắn ngấm ngầm soi mói các ông để mà
vạch tội. Ở cái làng quê ấy thì thiếu gì những con sâu mọt chuyên đục khoét
của người dân vậy thì thiếu gì tội để mà tố cáo các ông. Vậy là ông Cửu Đoành
đã làm được,“Đùng một cái hắn đưa bốn ông lên huyện vì việc bao chiếm công
điền. Đùng một cái nữa, hắn đưa mấy ông khác lên huyện vì việc lạm tiền công
quỹ. Rồi đùng một cái nữa…và cái nữa…Luôn năm sáu cái đùng như vậy hắn
làm các ông liểng xiểng” . Ấy thế mà hắn khôn, hắn không nhận một vài mối
lợi mà các ông dàn hòa với hắn bởi hắn thừa biết như vậy thì “há miệng mắc
33
quai” thế nhưng hắn thực sự là kẻ cao tay khi cũng thôi không kiện các ông
nữa.
Thế rồi, hắn cứ nghiễm nhiên mà ngồi ở cái chức Cửu phẩm mà ra oai
với mọi người trong làng, đến ngay cả các ông cũng không làm gì được hắn.
Ngay cả khi làng có làng vào đám, làm lợn tế thần thì lúc tế “ông Cửu Đoành
vẫn còn ngủ ở nhà”, quả thật là một ông Cửu độc nhất vộ nhị và nhàn rỗi, thế
nhưng có ai ngờ rằng, các ông ở trong làng cũng không mong sự có mặt của
ông , thành ra “ông cứ ở nhà cho đến hết đám cho quan viên mừng” ấy thật là
một trò ngược đời. Tuy nhiên, ông Cửu Đoành lại không như ông Hương Bịch
bởi vì ông có tiếng nói và bởi vì ông ranh mãnh khiến người ta phải sợ, thế nên
khi mọi người tế xong, ông mới ung dung “hai tay thọc trong túi áo ba- đờ -
xuy sắc chó gio vênh vênh cái mặt lên trời đi ra đình”. Có lẽ nhìn cảnh tượng
ấy, mấy quan viên trong làng không khỏi tức tối nhưng họ lại không thể đuổi
ông về, họ vẫn cố nín nhịn mà tươi cười, mà vồn vã chào đón ông. Vậy là ông
đã làm tròn được cái trách nhiệm của một ông Cửu phẩm khi cũng góp mặt ở
đình. Rồi sự góp mặt của ông đã gây ra những rắc rối mà chẳng ai ngờ đến, nó
xuất phát từ hai cái móng giò. Bốn cái móng giò của con lợn tế thần, lệ làng
vẫn là dành cho bốn ông to nhất bất ngờ lại bị mất hai cái, người này đổ cho
người kìa nhưng ông Cửu Đoành cứ thản nhiên như không mà mỉm cười bởi
với ông còn nhiều thứ to tát hơn hai cái móng giò ấy. Thế nhưng, khi ông ném
hai cái móng giò trong túi áo ra để thưởng cho cô hầu rượu và anh kép thì mới
thực sự là bất ngờ. Giá như ông cứ lấy và ỉm nó đi thì đã không có chuyện,
đằng này, đôi móng giò dành cho người to nhất làng nay lại được quăng ra như
quăng đi một khúc xương vậy. Vậy mà lạ thay chẳng cụ nào dám lên tiếng và
34
ông Cửu Đoành “lẹp kẹp kéo lê đôi giày qua bọn trai em hoan hôbằng những
tiếng cười nổ như xe phành phạch” thế có bực không chứ?
Từ câu chuyện của ông Cửu Đoành và Hương Bịch, Nam Cao muốn cho
người đọc thấy được bộ mặt của tầng lớp thống trị ở nông thôn lúc bấy giờ.
Phần lớn, những ông có máu mặt ở trong làng luôn tìm cách chèn ép những kẻ
yếu thế hơn. Cùng ngồi trong chiếu đình nhưng mỗi ông lại có một tư tưởng
riêng, một mánh khóe riêng và mỗi chức trong làng có được cũng theo những
cách khác nhau. Có người được trọng vọng, có người khiến người ta sợ hãi mà
dè chừng nhưng cũng không ít người có danh một cách bất đắc dĩ để rồi chuốc
lấy cái nhục vào thân. Những quy định về thứ bậc ở nông thôn lúc bấy giờ đáng
lẽ ra là một nét đẹp, thể hiện sự tôn ti trật tự thì nay lại trở thành một gánh
nặng, một hủ tục đáng lên án.
2.4. Tập tục sinh hoạt
Người Việt gắn với nền nông nghiệp lúa nước, sống phụ thuộc vào thiên
nhiên. Vì vậy, trong thói quen ăn, mặc cũng gắn liền với thiên nhiên đặc biệt là
nền kinh tế nông nghiệp với trồng trọt và chăn nuôi.
2.4.1. Thói quen ăn uống.
Hiển nhiên, để duy trì sự sống, ăn uống là việc quan trọng số một. Tuy
nhiên, quan niệm ăn uống của mỗi người về vấn đề này thì không giống nhau.
Người nông dân gắn liền với nông nghiệp lúa nước bởi vậy việc ăn uống vô
cùng quan trọng: Có thực mới vực được đạo. Nó quan trọng tới mức trời cũng
không dám xâm phạm: Trời đánh còn tránh miếng ăn. Có lẽ vì vậy mà trong
các truyện ngắn của mình Nam Cao đề cập rất nhiều đến việc ăn uống. Những
35
lo toan về bữa ăn, hình ảnh bữa cơm cứ trở đi trở lại trong từng trang viết của
ông.
Ăn uống cũng là văn hóa, văn hóa tận dụng môi trường tự nhiên nên cơ
cấu bữa ăn của người nông dân Việt Nam lại bộc lộ rất rõ dấu ấn của truyền
thống văn hóa nông nghiệp lúa nước. Đó là bữa ăn thiên về thực vật mà lúa gạo
đứng đầu bảng. Điều rất dễ nhận thấy trong tâm lý của người nông dân, thứ đầu
tiên họ lo đến là gạo. Người đọc không ít lần xót xa cho những người nông dân
nghèo, có mẻ gạo đi đong cuối cùng cũng bị bắt nợ. Đó là chị đĩ Chuột (Nghèo)
vừa kêu khóc vừa van lạy bà Huyên khi bà “nhất định bắt mẻ gạo mới đong để
trừ sáu hào nợ chị đĩ Chuột vay từ hai tháng trước cho chồng uống thuốc”. Có
lẽ, tiếng kêu khóc của chị, tiếng chửi bới của bà Huyên đã phần nào đẩy cái
chết của anh đĩ Chuột đến nhanh hơn, khiến anh chết trong tức tưởi. Cảnh bắt
nợ như thế này diễn ra rất phổ biến, miếng ăn của họ bị những chủ nợ chặn mà
lấy ngay giữa đường, giữa chợ, ấy là câu chuyện của người bà trong Dì Hảo và
còn nhiều câu chuyện như thế nữa diễn ra ở cái vùng quê nghèo đói ấy. Những
gia đình khá hơn không lo bị bắt nợ thì cũng từng ngày lo giá gạo lên. Cảnh gà
trống nuôi con đã khổ, lại càng khổ hơn trong cái sự đói nghèo lay lắt, đó là bố
con Dần. Cũng chăm chỉ làm lụng nhưng cuộc sống mỗi ngày một khó khăn
“Trước kia, mỗi người làm một ngày hào rưỡi thì đã gần đủ cả nhà ăn; bây giờ
mỗi ngày được ba hào, tiền gấp hai, nhưng nếu đem đong gạo thì chưa bằng
một góc ngày xưa” . Chỉ xoay quanh miếng ăn thôi mà biết bao nhiêu chuyện
đời, biết bao nhiêu cảnh ngộ.
Trong bữa ăn, nỗi lo về cơm gạo là quan trọng nhất sau đó là đến rau
quả. Có những nhà khấm khá, ngoài bữa cơm chính họ còn có thêm củ khoai,
36
củ sắn. Ấy là niềm vui của bà quản Thích (Nửa đêm) khi thằng Đức, cháu bà đã
lớn và có thể thay bà làm vườn, tuy chẳng giàu được như trước nhưng có khi
“tối đến còn được luộc củ khoai củ sắn”. Rồi lúc thằng Đức đi làm thuê cho
nhà ông Cửu Hòa, cứ trưa trưa nó lại được bữa ăn với củ khoai và bát nước chè.
Hay những khi nhàn rỗi, những người hàng xóm thân thích họ trò chuyện với
nhau và rồi “tôi đi luộc mấy củ khoai lang, nấu một ấm nước chè tươi thật đặc,
ông con mình ăn khoai, uống nước chè, rồi hút thuốc lào…Thế là sướng”(Lão
Hạc) . Ấy thế đã là sang rồi. Vì cuộc sống gắn với nền nông nghiệp nên củ
khoai củ sắn xuất hiện trong đời sống hàng ngày của người nông dân là điều dễ
hiểu, có khi nó không đơn thuần là bữa ăn chơi mà nó còn là bữa chính của
những người nghèo. Nhìn lại cảnh ngộ của lão Hạc không ai là không xót xa,
cuộc sống neo đơn của những người già thật sự rất đáng sợ. Đã mấy hôm liền
“lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi thì khoai cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế tạo được
món gì ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì
ăn rau má, với tỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai, bữa ốc.”
Bên cạnh đồ ăn, phải nói đến thức uống, trong truyền thống đó là nước
chè, là rượu gạo, là tục ăn trầu cau. Đầu tiên phải kể đến là thói quen ăn trầu
của người Việt ta mà đặc biệt là của người phụ nữ ở nông thôn. Cùng nhớ lại
hình ảnh đôi môi của Thị Nở (Chí Phèo), chính nhờ thói quen ăn trầu mà thị đã
phần nào che giấu được một cái xấu của mình, ấy là màu đỏ của trầu đã che đi
cái màu thịt trâu xám ngắt trên đôi môi thị. Có lẽ, cũng nhờ thói quen ăn trầu
nên việc trồng trầu đã trở thành một nghề của người nông dân như nhà anh
Bịch (Mua danh). Bên cạnh tục ăn trầu là uống rượu và nước chè. Ngày lễ tết
thì không thể thiếu đi chén rượu, những cuộc hội họp ăn uống trong nhà cũng
37
vậy. Hãy nhớ lại bữa rượu với thịt chó của người bố trong Trẻ con không được
ăn thịt chó ta sẽ thấy được phần nào thói quen này. Bữa ăn mời bạn đã đành là
có đồ ăn nhưng cũng không thể nào thiếu đi chén rượu, bởi vậy người bố khi
mời bạn bè của mình đến ăn nhậu dù nhà không có tiền hắn cũng bắt vợ đi mua
chịu cho mình chai rượu. Người vợ ở đây cũng là một người hiểu lẽ đời, vì
trong lòng thị dù ấm ức lắm nhưng cũng đành ngậm ngùi mà làm theo lời
chồng vì thị hiểu đã mời bạn bè đến ăn uống thì thiếu gì thì thiếu chứ sao thiếu
được chén rượu. Ngày lễ tết, hội hè thì như vậy, còn đối với ngày thường với
những cuộc trò chuyện dân dã lại không thể thiếu bát nước chè xanh. Đó là ấm
nước chè đặc ông giáo mời lão Hạc uống để ngồi nghe lão tâm sự về chuyện
đời (Lão Hạc), là bát nước chè giải khát giữa trưa của thằng Đức do cái Nhi
mang ra khi làm công cho ông Cửu Hòa.
Như vậy có thể thấy, đời sống ăn uống hàng ngày của người nông dân gắn
liền với những sản vật họ làm ra, gắn liền với đồng ruộng và mảnh vườn. Đó
cũng chính là tất cả tài sản mà họ có được. Và trải qua bao biến đổi thăng trầm
của lịch sử, nét văn hóa ấy còn giữ được nguyên vẹn cho đến tận ngày nay.
2.4.2. Trang phục và ngành nghề truyền thống.
Quan trọng đối với con người sau ăn có lẽ là mặc. Mặc thế nào để chống
chọi với cái nóng, cái rét, mưa gió…và nó còn là một phương thức để làm đẹp
đặc biệt là đối với người phụ nữ.
Vì cuộc sống gắn liền với nghề nông, gắn với tự nhiên nên không chỉ có
bữa ăn mới mang dấu ấn của nền văn hóa nông nghiệp mà ngay cả trong chất
liệu may mặc cũng vậy. Các trang phục ở nông thôn bấy giờ chất liệu đều có
nguồn gốc thực vật nó gắn liền với nghề trồng trọt, gắn liền với những mảnh
38
vườn của người nông dân. Chúng ta không còn xa lạ gì với nghề trồng dâu nuôi
tằm và càng thấy rõ vai trò của cái khung cửi trong nghề dệt vải. Đến với
truyện ngắn của Nam Cao người đọc thấy rất rõ công việc này. Đây là công
việc dành cho người phụ nữ, gần như không có một người phụ nữ nào lại
không biết đến khung cửi, đến ngay cả anh Chí (Chí Phèo) cũng đã từng mơ
ước về một gia đình “ chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”, cái nghề dệt vải
ấy dẫu có lúc rẻ mạt “cố co kéo mới được một tấm năm xu” nhưng nó là cách
để những người nông dân kiếm sống. Mấy ai mà dám rời khỏi khung cửi, họ cố
gắng kiếm từng đồng trên những khung cửi có khi đã rệu rạo. Những người phụ
nữ chân yếu tay mềm không thích hợp với công việc nặng nhọc nơi đồng áng
nên họ chỉ biết bám trụ lấy khung cửi bởi vậy mà cái gì họ cũng chỉ có thể quy
đổi ra miếng vải dệt “Trời ơi là trời !...Mày phá tao thế à? Từ sáng đến giờ,
tao ngồi trầy trầy trên khung cửi, mới được chừng một đồng hào, mà mày phá
tao một lúc một cái niêu, bốn năm cái bát…” (Con mèo). Ấy chính là lời xót xa
của chị vợ khi đồ đạc bị phá trong lần cãi nhau với chồng, họ cũng xót xa chứ,
bởi cả ngày ngồi trên cái khung cửi đâu có nhàn hạ, sung sướng gì mà số tiền
kiếm được lại ít ỏi. Tất cả đều là mồ hôi công sức họ bỏ ra. Vậy mà có những
lúc, họ muốn yên ổn làm ăn cũng không được với mấy ông quan trong làng. Họ
lợi dụng chức sắc của mình để bóc lột đến tận xương tủy những người nông
dân. Thật không có gì để diễn tả nổi sự trơ tráo của bọn quan lại nơi thôn quê
trong cuộc khám xét khung cửi “Tiên, thứ chỉ, lý, phó trưởng, và tất cả các
người có chân ban hội đồng kỳ hào phải hợp sức với nhau, đi khám tất cả các
nhà có công nghệ trong làng, xem mỗi nhà đích thực có bao nhiêu khung cửi
máy, khung cửi tay, về làm bản kê khai rành mạch, đệ lên cho quan xét”,thế là
39
cả làng được phen náo loạn vì cuộc đi khám xét của các quan, nào tiếng chửi
bới, tiếng chân người, tất cả khiến cho cái làng quê vốn yên bình ấy trở nên
nhốn nháo hơn bao giờ hết; và anh cu Thiêm, sau khi kiếm lợi được vài đồng từ
phi vụ này cuối cùng cũng nướng hết vào trò xóc đĩa. Thế rồi, cũng bên cái
khung cửi ấy là bao nhiêu kỉ niệm của nhân vật tôi với dì Hảo (Dì Hảo) . Bên
khung cửi ấy, dì đã dạy “tôi” từ những tiếng âm vô nghĩa đến câu thần chú gọi
cái khôn của loài người, để rồi khi “tôi” thuộc bài cũng là lúc tấm vải của dì
Hảo được dệt xong. Những tấm vải ấy chính là chất liệu để họ may mặc hàng
ngày và hơn hết nó còn là thứ duy trì nguồn sống.
Như đã nói, mặc là việc quan trọng đối với con người sau ăn uống,
những phụ nữ nông thôn bấy giờ luôn gắn liền với hình ảnh của chiếc áo yếm.
Chắc hẳn người đọc vẫn còn nhớ hình ảnh Thị Nở trong đêm gặp gỡ với Chí
Phèo, để chống chọi với cái nóng của mùa hè và để tận hưởng hết cái gió mát
của một đêm trăng bên bờ sống, thị đã cởi áo khoác ngoài chỉ mặc chiếc yếm
rồi ngủ. Chiếc yếm đối với người phụ nữ bấy giờ là một trang phục truyền
thống không thể thiếu, họ mặc nó để phù hợp với từng hoàn cảnh của tự nhiên,
để ứng phó với khí hậu nóng bức. Rồi hình ảnh những con nhà giàu có như cô
Đính thì “yếm lúc nào cũng trắng bong” (Lang Rận) nhưng trái lại, cũng có
những người phụ nữ khác, khác với mọi người. Khác là bởi người ấy không
khăn yếm gì như những người phụ nữ ở đây, đó chẳng ai khác chính là vợ
thằng Đức mới ở Nam Kì về (Nửa đêm). Có lẽ, thị khác bởi cuộc sống ở Nam
Kì vốn khác hơn ngoài này nên thị chẳng còn giữ được hình ảnh áo yếm truyền
thống mà thay vào đó là những trang phục mới mẻ và khác lạ hơn.
40
2.4.3. Xây dựng nhà ở.
Lo ăn. Lo mặc rồi tiếp đến là phải lo đến chỗ ở bởi lẽ An cư lạc nghiệp,
ấy là tư tưởng bao đời nay vẫn thế. Người nông dân gắn bó với đồng ruộng, họ
ưa sự ổn định chứ không thích sự thay đổi ngay kể cả những cái mới. Bởi vậy,
họ luôn cố gắng xây cho mình được một ngôi nhà lấy chỗ chui ra, chui vào, lấy
chỗ mà tránh mưa bão, nắng gió… Vấn đề mua nhà, làm nhà không còn là điều
xa lạ trong truyện ngắn Nam Cao, rất nhiều trang viết của ông đề cập đến vấn
đề này. Những người nông dân khấm khá thì mong có được cái nhà gỗ nhà tre
còn nghèo đói cũng cố dựng cho mình lấy cái túp lều để làm chỗ nương thân.
Đến ngay cả Chí Phèo (Chí Phèo), một thằng tối ngày chỉ biết chìm trong men
rượu, sống bằng nghề rạch mặt ăn vạ mà cũng phải có cái túp lều ở bờ sông để
làm chốn đi về. Dẫu y biến đổi cả về nhân hình lẫn nhân tính nhưng cái gốc
gác, cái bản chất con người nông thôn trong hắn vẫn không mất đi, thế nên hắn
mới “vâng dạ” với Bá Kiến để mua năm sào vườn ở bãi sông bằng số tiền đi
đòi nợ thuê. Có lẽ, trong suy nghĩ của hắn, hắn thấy lời của Bá Kiến “không có
vườn đất thì làm ăn gì” cũng có lí, cũng có nghĩa là trong đầu hắn đã từng nghĩ
tới một cuộc sống ổn định để mà làm ăn. Ngôi nhà mà Chí có được thực chất
chỉ là cái túp lều “ẩm thấp” nhưng nó cũng là may mắn bởi trong cái đêm có
biến ấy, cái đêm mà hắn “chỉ có đủ sức để rên khe khẽ ấy” hắn đã có nhà để
mà nương thân. Rồi cũng không ít những cuộc mua nhà, những lần mất nhà đến
xót xa của người nông dân. Cha của Ninh vì cờ bạc mà chị em Ninh không còn
nhà để ở (Từ ngày mẹ chết), nhìn cảnh người ta dỡ nhà mình đi Ninh chỉ còn
biết mếu máo mà gọi thầy rồi “Ninh nghẹn ngào, không nói được nữa. Nước
mắt ứa ra” , có lẽ một đứa trẻ như Ninh đủ để hiểu chuyện gì đang xảy ra với
41
gia đình nhà Ninh và cũng đủ để Ninh hình dung ra cảnh chị em Ninh sẽ phải
sống như thế nào những ngày tháng sau này. Thật là chuyện đời lắm trớ trêu.
Buồn vì mất nhà là chuyện đã đành, vậy mà có những người mua được nhà
cũng thấy áy náy. Đó không ai khác chính là nhân vật “tôi” (Mua nhà) khi mua
được ngôi nhà gỗ của một người bạn thì thấy mình ác, ác quá. Bởi “tôi” có
được nhà cũng đồng nghĩa là những đứa con của anh Kim bị mất đi ngôi nhà
chúng đang ở, chúng rồi sẽ ở đâu, nương náu chỗ nào, dẫu biết mình không
mua thì người khác cũng mua nhưng lòng “tôi” vẫn cứ không yên. Có lẽ hình
ảnh ám ảnh nhất của truyện ngắn này là lúc đứa con gái lớn ngồi xem người ta
dỡ nhà mình đi. Ban đầu “Mắt nó nheo lại. Cái mặt nó cau cau…Nhưng tôi cứ
thấy nó có vẻ thù ghét tôi lắm lắm” có lẽ nó nghĩ vì “tôi” nên nó mất nhà ở, rồi
khi người thợ mộc bắt đầu tháo gỗ, nó dường như không kìm được nữa, nó
khóc nức nở rồi hờ “Mẹ ơi!...” Tiếng gọi ấy như xé tâm can người khác, như
đang dằn vặt chính lương tâm của “tôi”.
Như vậy có thể thấy, cuộc sống của những người nông dân bấy giờ
có mối quan hệ rất mật thiết với tự nhiên. Sở dĩ có điều này vì cuộc sống
nông nghiệp đòi hỏi con người phải thích ứng với môi trường tự nhiên để
tồn tại. Bởi vậy, ngay trong bữa ăn của người nông dân, tất cả thực phẩm
đều hướng tới những sản phẩm từ nông nghiệp, từ chính những thành quả
lao động mà người nông dân tạo ra như lúa gạo, khoai, sắn…Đó là những
lợi ích, những thuận lợi nhờ tự nhiên mang lại mà con người đã biết cách
tận dụng để phục vụ cho đời sống của mình. Trong các tác phẩm của mình,
Nam Cao đề cập rất nhiều đến miếng ăn, đây là yếu tố đầu tiên để con
người có thể tồn tại, đặc biệt trong hoàn cảnh đói nghèo lúc bấy giờ, miếng
42
ăn càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Cũng bởi vậy, mà có những
người ăn một bữa cơm trong sự nhục nhã để rồi chết tức tưởi, cũng có kẻ để
bảo vệ cho tự trọng của mình mà ăn khoai, ăn sắn cho qua bữa để rồi khi
không cầm cự được nữa thì phải tự kết thúc cuộc đời mình bằng một cái
chết đau đớn. Bên cạnh việc tận dụng những lợi ích từ tự nhiên thì con
người cũng phải lo ứng phó với tự nhiên bởi những thiên tai luôn rình rập.
Vì thế mà họ nghĩ đến nơi ở sau miếng ăn, cũng vì cái nhu cầu nhà ở mà có
biết bao nhiêu chuyện dở khóc dở cười được Nam Cao tái hiện lại.
2.5 Giao tiếp và ứng xử
Con người là chủ thể sáng tạo văn hóa, là sản phẩm của môi trường
văn hóa mà chính nó là đại biểu mang giá trị văn hóa của thời đại. Viết về
nông thôn với những yếu tố văn hóa riêng, Nam Cao không chỉ dừng lại
trên bình diện của đời sống cộng đồng, những phong tục tập quán hay lối
ứng xử với tự nhiên mà ông còn thể hiện nó qua những mối quan hệ của con
người ở nông thôn.
2.5.1 Lối sống đậm tình nghĩa cùng những thói xấu của người nông dân.
Tương thân tương ái vốn là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt từ bao
đời nay. Đặc biệt, đối với người nông dân cuộc sống phụ thuộc hoàn toàn vào
nông nghiệp thì điều này càng không thể thiếu. Nền văn hóa nông nghiệp lúa
nước khiến họ phải nương tựa vào nhau mà sống, sống bằng tình cảm, ấy là
những con người duy tình.
Nam Cao với sự am hiểu của mình về nông thôn đã nhìn ra mối quan hệ
tốt đẹp này. Ông đi sâu vào khai thác, trân trọng và ngợi ca điều đó. Trong các
sáng tác của Nam Cao không thiếu những con người đáng bị lên án, không
43
thiếu những mảng đen của xã hội nhưng sáng ngời lên trên từng trang viết của
ông vẫn là tình người cao đẹp. Đó là sự sẻ chia, đùm bọc và yêu thương lẫn
nhau trong lúc khó khăn hoạn nạn. Sống trong cái ao đời đó, mấy ai mà không
thoát khỏi cảnh nghèo,bởi vậy mà nhiều khi vì nghèo quá, không thể giúp đỡ
được gì cho người khác nhưng họ có thể lắng nghe, cảm thông và thấu hiểu cho
nhau. Chỉ vậy thôi cũng đủ làm ấm lòng những người bất hạnh.
Ông giáo - người láng giềng của Lão Hạc đã giúp lão trong những lúc
khó khăn. Lúc lão buồn ông giáo là người xuất hiện để chia sẻ, giúp đỡ lão, là
người bỏ ra hàng giờ để ngồi nghe lão kể chuyện, nghe lão than phiền về sự
đời. Dẫu có những lúc ông đã nghĩ sai về lão nhưng khi hiểu ra cơ sự ông càng
cảm phục và trân trọng lão hơn. Ông lo ma chay cho lão và giữ mảnh vườn
theo lời di nguyện của lão khi nào con trai lão về thì trao lại. Và cũng như ông
giáo, Lão Hạc tin tưởng ông, người láng giềng của mình một cách tuyệt đối nên
mới giao cho ông giáo cái mảnh vườn mà ông phải đánh đổi bằng mạng sống
của mình để giữ lấy. Chính bằng tình cảm chân thành mà những người láng
giềng dành cho nhau nên khi lão mất đi ông giáo đã vô cùng đau đớn “Lão Hạc
ơi! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt! Lão đừng lo gì cho cái vườn của lão. Tôi
sẽ cố giữ gìn cho lão. Đến khi con trai lão về tôi sẽ trao lại cho hắn và bảo:
“Đây là cái vườn mà ông cụ thân sinh ra anh đã cố để lại cho anh trọn vẹn:cụ
thà chết chứ không chịu bán đi một sào…” . Đó chính là thứ tình cảm nơi thôn
quê mộc mạc, giản dị nhưng chứa đựng biết bao nhiêu là nghĩa tình mà ông cha
ta đã từng nói “bán anh em xa mua láng giềng gần”. Không dừng lại ở đó,
người đọc sao có thể quên được hình ảnh bác Vụ (Từ ngày mẹ chết) khi lấy
phần cơm của con mình cho Đật ăn. Có lẽ bác thấu hiểu được sự thiệt thòi của
44
chị em Ninh khi không còn mẹ, dẫu nghèo túng, dẫu một mình nuôi bốn đứa
nhỏ nhưng vì sự xót thương cho hoàn cảnh của người hàng xóm mà bác không
cầm lòng được. Những con người ấy họ đều nghèo khó, nhưng họ vẫn giúp đỡ
nhau bằng tất cả sự chân thành của mình dù đó chỉ là những đồng xu bé nhỏ,
“Đây này:tôi cho nhà chị vay, bao giờ kiếm được thì trả tôi;chúng nó giầu mà
coi đồng xu bằng cái mẹt” (Dì Hảo) . Đến với tác phẩm Chí Phèo, chúng ta
càng thấy ấm lòng hơn bởi sự yêu thương, đùm bọc của những người nông dân
nghèo khổ. Họ không thể dửng dưng trước một thằng bé bị bỏ rơi “trần truồng
và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên một lò gạch bỏ không”. Dẫu bị
chuyển từ nhà này sang nhà khác nhưng Chí vẫn được cưu mang, đùm bọc
trong vòng tay của những người lương thiện cho đến khi họ mất đi. Cũng chính
tình cảm ấy đã nuôi dưỡng tâm hồn Chí, để anh trở thành một anh canh điền
hiền lành, chịu khó cho đến khi bị xã hội thực dân đẩy vào con đường lưu manh
hóa.
Tình cảm láng giềng của những người dân nghèo thật đáng trân trọng
biết bao. Dù sự giúp đỡ thế nào đi nữa thì đó cũng là biểu hiện của tình người
sâu sắc . Dù nghèo khổ họ vẫn không dửng dưng trước số phận của những
người xung quanh, sự giúp đỡ ấy đã tạo nên tình cảm gắn kết, tạo nên sự cố kết
trong cộng đồng nông thôn. Những người nông dân cũng giống như hình ảnh
lũy tre làng, đan vào nhau, tựa vào nhau, gắn kết với nhau để chống lại gió bão.
Biết nương tựa vào nhau để sinh tồn là cội nguồn của sức mạnh.
Bên cạnh những người sống với nhau bằng tình cảm cao đẹp thì trong
mối quan hệ phức tạp này cũng không tránh khỏi những toan tính ích kỉ, những
ghen tị, hờ hững vô tâm một cách tàn nhẫn với nhau. Sống trong hoàn cảnh cái
45
đói, cái nghèo cứ đeo bám, có những người nông dân bị đẩy sâu xuống vực
thẳm của sự ích kỉ và tàn nhẫn. Cái khổ đã bóp nát những mối quan hệ tốt đẹp
ấy. Đó là những người hay nghe ngóng, thọc mạch chuyện của người khác như
Nam Cao đã khái quát “Ông trời muốn người trong nhà bao giờ cũng phải
nghe chuyện nhà mình ở môi miệng một người ngoài ngõ. Có thế mới vui. Nếu
không những cái miệng đàn bà chỉ dùng vào hai việc: ăn và uống.” (Nửa đêm)
. Vì thế cho nên họ hay soi mói và bêu riếu chuyện người khác. Vì lẽ đó mà cả
cuộc đời của Đức luôn bị ám ảnh bởi mình là con thằng Thiên lôi. Thật đáng
thương cho một thằng bé bị hắt hủi ngay từ khi còn nhỏ. Người đời không chỉ
xa lánh mà còn khoét sâu vào nỗi đau ấy bằng một điệu hát ẩn chứa những định
kiến ghê gớm “Con thằng Thiên lôi ,đâm lòi bụng vợ…”; hay anh cu Lộ (Tư
cách mõ) cũng vậy, “Họ thấy Lộ làm sãi ăn ngon quá. Họ ngấm ngầm ghen với
hắn” để rồi từ một người hiền lành ai cũng yêu mến cuối cùng Lộ trở thành
một tên mõ chính tông, cũng tham lam , cũng đê tiện. Miệng lưỡi người đời quả
thật có sức ảnh hưởng ghê gớm!
Rồi kế đó là những người đàn bà vốn vẫn được coi là hiền lành, là những
người giàu lòng yêu thương thì cũng có lúc lại ích kỉ, lại tàn nhẫn. Bởi lẽ họ
khổ, họ còn đang chật vật với cuộc sống của mình sao dám nghĩ đến việc đi
giúp đỡ người khác. Quả thực trong cảnh khổ người ta khó có thể yêu thương
nhau được. Cái khổ làm người ta thờ ơ, dửng dưng trước cảnh khổ của nhau để
rồi quên đi truyền thống “tương thân tương ái” chứ bản chất họ không vậy
“…Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi.Một người đau chân có lúc nào
quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến cái khác đâu?Khi người ta khổ
quá rồi thì người ta chẳng còn nghĩ đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của
46
người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất”. Ông thấu hiểu
được nguyên nhân của sự thờ ơ, ích kỉ ấy; bởi vậy ông không trách họ mà
thương họ nhiều hơn. Đó cũng là một bi kịch, bi kịch tinh thần mà những người
nông dân phải gánh chịu. Nhiều khi họ nhận thức được việc làm của mình,
nhận thức được sự ích kỉ của mình song họ không thể làm gì hơn được. Con
người ta không ai muốn mình phải ác nhưng hoàn cảnh buộc họ phải thế, hoàn
cảnh không cho phép họ tốt với người khác được: “Đâu phải tôi muốn tệ !
Nhưng biết làm sao được? Ai bảo đời cứ khắt khe vậy? Giá người ta vẫn có thể
nghĩ đến mình mà chẳng thiệt đến ai…” .Ông nhận ra nguồn gốc của cái ác, tội
lỗi sinh ra từ cái khổ, để từ đó mà nhìn sâu hơn vào những biến động của xã hội
và tác động của nó đối với con người.
Không dừng lại ở những mối quan hệ làng xóm, Nam Cao đề cập đến cả
những mối quan hệ máu mủ ruột thịt trong gia đình. Trước hết đó là sự hi sinh
vĩ đại của những người cha, người mẹ cho con cái mình. Lão Hạc đã quên đi
cuộc đời mình vì thằng con trai đi phu đồn điền cao su, trong cái lúc đói quay
đoái quắt ấy lão thà ăn củ sắn, củ chuối, ăn bả chó chứ nhất quyết không phạm
đến món tiền hay một tấc đất để dành cho con. Rồi đến tình cảm cha con quyến
luyến bịn rịn khi Dần đi lấy chồng (Một đám cưới); và thậm chí có những
người cha đã treo cổ tự tử để nhường lại cho con mình miếng ăn (Nghèo), tất cả
đều đáng trân trọng lắm chứ. Thế nhưng bên cạnh đó, có những người vì nghèo
đói, vì hoàn cảnh mưu sinh chật vật…mà đã đối xử vô tâm, cay nghiệt với
chính những người thân yêu của mình. Đó là ai? Chính là người cha trong Trẻ
con không được ăn thịt chó , một người cha tham ăn, sẵn sàng giành ăn với
chính con ruột của mình trong khi đó, chúng nheo nhóc, đói khát “chúng nuốt
47
nước bọt nhem nhép. Chúng thừ mặt ra. Chúng nằm ẹp xuống đất và lật áo lên
để khoe cái bụng. Bụng đứa nào cũng gần dính lưng” . Cái cảnh ấy thật xót xa
biết bao, vậy mà người cha lại nhẫn tâm ăn hết phần của chúng để chúng quằn
quại vì cái đói, “Trong mâm, chỉ còn bát không. Thằng cu con khóc òa lên.Nó
lăn ra, chân đập như một người giãy chết, tay cào xé mẹ”. Hay người mẹ của
Hồng (Bài học quét nhà) thì chỉ vì cuộc sống khó khăn mà trút mọi bực dọc,
tức giận lên đầu đứa con gái của mình, chửi mắng, thậm chí đánh đập con hết
sức vô lý “Hồng phải mắng luôn luôn. Động một tí gì thì u cũng mắng. Nói một
mình, mắng ! Vấp ngã, mắng! Đi chậm mắng!...”; rồi thậm chí cả những việc
không liên quan đến mình Hồng cũng bị mắng. Rồi đến bà ngoại của Ngạn
(Nhìn người ta sung sướng) cả đời bà phải chịu cực khổ bởi vậy mà bà ghen tị
với sự sung sướng của con gái và cháu trai bà. Đây thực sự là một điều kì lạ,
xưa nay người ta chỉ thấy họ ghen tị với hàng xóm, với người ngoài chứ ai đi
ghen tị với cả con cháu mình.
Không chỉ vậy, mối quan hệ gay gắt trong gia đình được Nam Cao đề
cập nhiều nhất chính là mối quan hệ vợ chồng. Nghèo đói, khổ cực đã khiến
những con người vốn hiền lành trở nên tàn nhẫn và lạnh lùng hơn, khiến họ
hành động trái với bản chất của mình. Vợ chồng thương yêu nhau là thế, vậy
mà vẫn cứ rình để bắt bẻ, để gây gổ, để đay nghiến nhau…nhưng rồi chỉ trong
chốc lát họ lại có thể làm hòa với nhau ngay được. Nam Cao đã vẽ ra một
khung cảnh rất hài hước của đôi vợ chồng trong truyện ngắn Con mèo , vợ
chồng chì chiết, rượt đuổi lẫn nhau. Sau một cơn thịnh nộ người ta cứ nghĩ mọi
việc sẽ trở nên trầm trọng hơn, nhưng không, họ làm hòa với nhau nhanh đến
mức ngay cả người trong cuộc như họ cũng thấy ngượng ngùng vì xấu hổ
48
“Nỡm lắm. Có ra chõng mà nằm không? Cái Viễn nó lại cười cho là trò trẻ.
Mới giận nhau chập tối, nửa đêm đã lành” . Quả thật, trong cuộc sống nghèo
khổ, con người dễ dàng mâu thuẫn , gây sự bởi những chuyện không đâu. Có
vậy mới thấy cái nghèo nó ám ảnh ghê gớm đến mức nào. Bên cạnh những
cảnh hài hước như vậy thì người đọc cũng phải xót xa trước cảnh vợ chồng
Đức (Nửa đêm) , chúng cứ đánh đập chửi bới nhau rồi lại làm lành triền miên
như vậy. Quan hệ vợ chồng là mỗi quan hệ hai chiều, những người phụ nữ trên
ít nhiều cũng đã có tiếng nói nhưng bên cạnh đó cũng có những người vợ sống
nhẫn nhịn, cam chịu. Đó là dì Hảo, từ ngày đi lấy chồng nụ cười của dì đã
không còn tồn tại. Người phụ nữ ấy phải chịu đựng những bất công vô lý trong
mối quan hệ gia đình. Cả cuộc đời không có lấy một nguồn vui nào để động
viên an ủi. Gia đình tan nát, con chết, bản thân bị bệnh tật, con người này
dường như phải chịu tất cả những cay đắng nghiệt ngã mà cuộc đời đổ dồn lên.
Cuối cùng chỉ còn lại những tiếng khóc xót xa: “Dì nghiến chặt răng để cho
khỏi khóc, nhưng mà dì cứ khóc. Chao ôi ! Dì Hảo khóc. Dì khóc nức nở, khóc
nấc lên, khóc như người ta thổ” . Nỗi chua chát, bẽ bàng ấy không chỉ có một
mình người phụ nữ như dì Hảo phải chịu đựng, còn có người vợ trong Đòn
chồng, cũng bị hành hạ hết sức dã man, bị giày xéo, đánh đập. ..Qua nỗi bất
hạnh của những người vợ ấy, Nam Cao muốn gióng lên một hồi chuông kêu
cứu với những số phận người nông dân mà đặc biệt là những người phụ nữ
trong mối quan hệ gia đình đầy bất công và ngang trái. Cảnh tỉnh với những
người nông dân ham cờ bạc, rượu chè để gia đình tan nát, đổ vỡ.
49
2.5.2. Sự tế nhị, ý tứ trong giao tiếp
Trước hết, xét về thái độ của người Việt trong giao tiếp, có thể thấy
được đặc điểm của người Việt là thích giao tiếp nhưng lại rất rụt rè. Điều
này rất đúng đối với người nông dân. Sở dĩ họ có đặc điểm này bởi sống
trong môi trường lao động với tính tập thể rất cao nên người nông dân rất
thích giao tiếp, rất cởi mở trong giao tiếp. Tuy nhiên, vì cuộc sống cố định
ít có di chuyển mà chỉ ở một chỗ, không có sự giao lưu với bên ngoài vì
vậy họ rất rụt rè.
Xét về quan hệ giao tiếp, với nguồn gốc văn hóa nông nghiệp lối sống
trọng tình đã dẫn người Việt ta đến chỗ lấy tình cảm, lấy sự yêu ghét làm
nguyên tắc ứng xử, cuộc sống thiên về tình cảm mà coi nhẹ lí lẽ. Đặc biệt là
những người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, biểu hiện của yếu tố trọng tình trong
giao tiếp chính là sự tế nhị, ý tứ.
Những cách nói đưa đẩy, rào đón trước khi đi vào nội dung chính của
câu chuyện là một thói quen trong khi giao tiếp của người nông dân. Không
phải chỉ những ông lý trưởng, những ông chánh tổng…mới biết cách ăn nói này
mà đến ngay cả một thằng say rượu như Chí Phèo cũng biết, bởi đó là một thói
quen đã ăn sâu vào lối sống của mỗi người. Nhớ lại cảnh anh Chí khật khưỡng
bước đến nhà Bá Kiến để xin đi ở tù. Thoạt đầu, người ta thấy đây là điều hết
sức vô lý, xin gì không xin lại xin đi ở tù, chẳng hay hắn là kẻ không bình
thường. Cùng nhìn lại cuộc đối thoại giữa Chí Phèo và Bá Kiến để hiểu rõ hơn
điều này:
- Bẩm không ạ, bẩm thật là không say. Con đến xin cụ cho con đi ở tù mà
nếu không được thì…thì…thưa cụ…
50
Hắn móc đủ mọi túi, để tìm một cái gì, hắn giơ ra:đó là một con dao nhỏ,
nhưng rất sắc. Hắn nghiến răng nói tiếp;
-Vâng, bẩm cụ không đươc thì con phải đâm chết dăm ba thằng, rồi cụ
bắt con giải huyện.
Rồi hắn cúi xuống, tần mần gọt cạnh cái bàn lim. Cụ Bá cười khanh
khách. Cụ vẫn tự phụ hơn đời cái cười Tào Tháo ấy. Cụ đứng lên vỗ vai hắn
mà bảo rằng:
-Anh bứa lắm. Nhưng này, anh Chí ạ, anh muốn đâm người cũng không
khó gì. Đội Tảo nó còn nợ tôi năm mươi đồng ấy, anh chịu khó đến đòi cho tôi,
đòi được tự nhiên có vườn.
Một người như Bá Kiến không khó khăn gì để nhận ra mục đích của Chí
Phèo, hắn không phải xin đi ở tù mà điều hắn muốn ấy chính là tiền, hắn muốn
tiền để thỏa mãn cái cơn thèm rượu của hắn. Ngay đến cả ông Trương (Nửa
đêm) khi đi hỏi vợ cũng vậy. Một kẻ làm nghề đồ tể, vốn cục cằn thô lỗ vậy mà
cũng biết cách nói vòng vo này. Hắn đi hỏi vợ nhưng lại nói “Ở đây có nuôi
một con gà mái tơ rất đẹp, tôi muốn mua đem về nhà nuôi”, không muốn nói
thẳng ý của mình muốn để cho bà cụ tự hiểu, chứ ai đời đi gả con gái cho một
kẻ như hắn. Ấy thế mà thoạt đầu bà cụ không hiểu thật, nhưng sau rồi cũng
hiểu mà lại không dám tỏ ra là đã hiểu. Sự đời thế mới thật oái oăm bởi điều
mà hắn muốn thì hắn sẽ có cho bằng được. Hay chuyện lão Hạc (Lão Hạc) nhờ
ông giáo trông coi mảnh vườn và lo liệu lúc lão chết cũng vậy. Chỉ có hai vấn
đề đó thôi nhưng lão không nói thẳng ngay mà còn vòng vo kể rất dài dòng. Có
lẽ lão phải kể dài dòng như vậy để ông giáo hiểu cho hoàn cảnh của lão mà
51
giúp lão, ông phải kể ngọn ngành mọi chuyện như vậy giống như một lý do để
thuyết phục ông giáo. Đó là những con người rất hiểu đời.
Sự tôn trọng danh dự, địa vị xã hội khi giao tiếp cũng là một điểm làm
nên nét văn hóa của người nông dân trong các sáng tác của Nam Cao. Khi một
người có chức vị thì điều đầu tiên mà người ta hãnh diện là trong giao tiếp họ
sẽ không bị gọi bằng tên tục của mình mà gọi bằng chức vụ ông lý, ông cửu,
ông chánh tổng…và được xưng hô bằng những từ kính cẩn như ông, cụ…
Ngay cả Lê Văn Dự (Nửa đêm) , một tên đồ tể chỉ làm cái chức trương tuần
thôi thế mà vẫn được một người già khọm gọi bằng “ông” và thưa gửi một cách
kính cẩn “Thưa với ông Trương”. Có thể, lời xưng hô ấy không có chút thành
tâm hay tôn trọng nào mà chỉ bởi bà lão muốn yên ổn nhưng hẳn là hắn cũng
thấy oai lắm. Rồi đến một thằng không sợ trời không sợ đất như Chí Phèo vậy
mà khi gặp Bá Kiến hắn vẫn một câu dạ, hai câu vâng và thưa gửi bẩm cụ rất
kính trọng. Ấy là cái tâm lý của người Việt, họ trọng những người có chức hay
có học như ông giáo chẳng hạn (Lão Hạc). Lão Hạc già cả nhưng với một
người biết chữ như ông giáo, lão rất nể nên cuối câu nói của lão bao giờ cũng là
“ông giáo ạ!”.
Không chỉ đối với những người có học, những người có chức sắc mà
ngay cả trong gia đình, vợ chồng cũng xưng hô rất tình cảm: mình, tôi, thầy nó,
bu nó… Đôi vợ chồng trẻ trong Rình trộm khiến không ít người phải ganh tị
bởi sự thân thiết và tình cảm của họ. Dù chưa có con nhưng họ vẫn gọi nhau là
bu mày với thầy nó. Hay một chuyện vợ chồng (Con mèo) lúc cãi nhau thì xưng
mày - tao vậy mà chỉ qua một đêm đã làm lành với nhau, lại mỉm cười và
chẳng còn nữa cái từ mày - tao .
Có thể nói, cách thức giao tiếp, sự lựa chọn từ ngữ xưng hô cẩn thận là
một điều khá hay trong truyện ngắn Nam Cao. Nó càng khắc họa nổi bật hơn
những nét văn hóa truyền thống của người nông dân ngày xưa, mộc mạc giản dị
nhưng chân thành và đầy tình cảm.
52
Tiểu kết chương 2
Qua tiếp cận các sáng tác của Nam Cao về đề tài nông thôn trước 1945
dưới góc nhìn văn hóa ta thấy được chiều sâu trong các tác phẩm của ông. Nam
Cao đề cập đến những vấn đề của nông thôn không đơn thuần là lên án hay tố
cáo chế độ của xã hội cũ chà đạp lên những người nông dân mà bên cạnh đó
ông còn đề cập đến cả một không gian văn hóa với những nét văn hóa cần được
bảo lưu bên cạnh những cái cần được xóa bỏ hay cách tân nó đi cho phù hợp.
Thông qua các sáng tác của Nam Cao người đọc thấy được một nông thôn Việt
Nam với những phong tục tập quán vừa đẹp vừa nhân văn nhưng lại vừa là
những hủ tục có tính chất vô nhân đạo. Nó góp phần cùng bộ máy thống trị của
thực dân phong kiến đẩy người nông dân vào sự bế tắc, cùng đường. Hay nói
cách khác, giai cấp thống trị đã lợi dụng những hủ tục, lợi dụng lòng “hám
danh” của người nông dân để bóc lột họ tới tận xương tuỷ.Cuộc sống khốn khó
của người nông dân gây ra bởi chế độ xã hội là cái nhìn khách quan trước mắt,
nhưng yếu tố chủ quan lại chính là những quan niệm truyền thống do chính
người dân tạo ra. Chính họ tự buộc mình vào con đường của cái đói, cái nghèo
mà không thoát ra được. Nhiều khi chính họ hàng, làng xóm lại là những người
đẩy nhau vào ngõ cụt của cuộc sống bởi lòng tham, bởi tầm nhìn hạn hẹp trong
không gian sống. Tuy nhiên khi nói về người nông dân, dù có cả những thói hư
tật xấu và cả những cái tốt đẹp nhưng Nam Cao không hề khinh bỉ hay miệt thị
họ, ngược lại ông càng hiểu họ hơn, thông cảm và trân trọng trước những cảnh
đời éo le. Có được sự cảm thông ấy trước hết vì ông chung hoàn cảnh sống với
họ, cùng sinh ra từ một làng quê nghèo trong tình cảnh khốn khỏ, từng chứng
kiến cảnh đàn con của mình nheo nhóc và có đứa đã chết bởi cái đói. Ông xót
xa cho những kiếp sống cực khổ khiến họ mụ mị và tăm tối hơn. Mặt khác ông
cũng đề cao những giá trị văn hóa làm sống dậy tinh thần của con người, mà ở
đây căn bản nhất chính là sự yêu thương lẫn nhau. Đó là ai, là Thị Nở - một đại
53
diện của cái xấu đã cứu rỗi cho cuộc đời của Chí Phèo để hắn thức tỉnh và để
hắn được làm người khi đã bước vào bờ vực thẳm. Ai dám nói tình yêu ấy
không đẹp, nó không chỉ đẹp mà còn là cao cả, bởi vượt lên trên cả tình yêu đôi
lứa, đó là tình thương giữa con người với con người, là sự đồng cảm và sẻ chia
với nhau của hai kẻ bất hạnh. Trên trang viết của Nam Cao người nông dân
không chỉ tồn tại một chiều với những nghĩa cử cao đẹp của tình làng nghĩa
xóm mà có cả những kẻ ích kỉ, tàn nhẫn chứ không có cái nhìn một chiều,
phiến diện như Tự lực văn đoàn. Ấy là điểm mới, là sự tiến bộ và sâu sắc của
Nam Cao.
54
CHƯƠNG 3: DẤU ẤN VĂN HOÁ NÔNG THÔN TRONG NGHỆ
THUẬT TRUYỆN NGẮN NAM CAO
3.1 Dấu ấn văn hoá nông thôn trong ngôn ngữ
Ngôn ngữ truyện ngắn Nam Cao mang một chất giọng riêng bởi nó gắn
rất sâu với đời, với cảnh ngộ và tâm trạng của nhiều loại người từ ngôn ngữ
trần thuật đến ngôn ngữ của các nhân vật
3.1.1 Ngôn ngữ trần thuật
Trong tác phẩm tự sự, “trần thuật là phương diện cơ bản của phương
thức tự sự, là việc giới thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật,
sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của một người trần thuật nhất định.
Vai trò của trần thuật rất lớn.” [14;tr307]. Trần thuật là thành phần lời của tác
giả, của người trần thuật hoặc của một người kể chuyện… Trần thuật là phương
thức chủ yếu cấu tạo nên tác phẩm ở việc kể, miêu tả các hành động và các biến
cố trong thời gian; mô tả chân dung, hoàn cảnh hành động, tả ngoại cảnh, tả nội
thất,… bàn luận; lời nói bán trực tiếp của các nhân vật…. Vì vậy, ngôn ngữ
trần thuật là ngôn ngữ nhà văn dùng để xây dựng câu chuyện, là nơi bộc lộ rõ ý
thức sử dụng ngôn ngữ có chủ ý của nhà văn. Ngôn ngữ trần thuật giữ một vị
trí vô cùng quan trọng, thông qua đó người đọc có thể nhận ra được phong
cách, cá tính riêng của từng nhà văn.
Với Nam Cao, ông có cái nhìn mới mẻ, có ngôn ngữ mới cho sáng tác
của mình. Ngôn ngữ trần thuật của Nam Cao là một thứ ngôn ngữ phong phú
như hiện thực của cuộc sống. Ông đưa vào ngôn ngữ của mình những chiêm
nghiệm, những cảm xúc suy tư về cuộc sống và con người. Nhân vật người kể
chuyện ở ngôi thứ 3 xuất hiện tương đối nhiều trong truyện ngắn của Nam Cao
với một loạt các tác phẩm như: Từ ngày mẹ chết, Bài học quét nhà, Chí Phèo,
55
Một bữa no, Nửa đêm, Một đám cưới, Nghèo, Đôi móng giò, Trẻ con không
được ăn thịt chó,… Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Nam Cao mang đậm
màu sắc triết lý. Ông phân tích, mổ xẻ để tìm ra ngọn nguồn của mọi sự việc.
Trong ngôn ngữ ấy, nó mang đậm nét văn hoá của người nông dân. Tâm trạng
của một đứa con gái nhớ đến mẹ mình mỗi khi trời mưa rét, điều ấy là hoàn
toàn hợp lý, bởi lẽ, cái rét, cái mưa khiến cho người ta cô đơn hơn và thèm hơi
ấm hơn bao giờ hết. Cái Ninh (Từ ngày mẹ chết) cũng vậy, nó nhớ bu nó, nhớ
cái thói quen thường ngày khi bu nó còn sống, rồi nó nghĩ về cha nó, trong đầu
nó bắt đầu hiện lên những câu hỏi vẩn vơ về người cha đi đâu mấy hôm nay
không thấy về “Đàn ông chả mấy người biết thương con cái... Thật thế ư?
Không có lẽ. Thầy Ninh thương chị em Ninh lắm chứ!... Hồi bu mới chết, thằng
Đật khóc suốt ngày. Nó gào bu. Nó đã hiểu là thế nào đâu. Nó cứ đòi gọi bu về
với nó. Thầy phải cõng nó ra chợ mua bánh. Thầy mua cho nó nhiều bánh lắm.
Thầy mua cả cho Ninh nữa. Thầy với Ninh bày cỗ chơi với Đật. Thầy làm cho
Đật những con quay bằng những quả bưởi con, những cái giường, những cái
ghế tràng kỷ bằng cây chót. Trông thích lắm. Nhờ vậy Đật mới không khóc
nữa…” Có thể thấy, trong lời kể chuyện là sự băn khoăn, tác giả dường như
đang hoá thân vào nhân vật để thấy được sự giằng xé trong nội tâm của nhân
vật. Có những câu hỏi đặt ra, có những hoài nghi rồi lại có cả những lý
giải…tất cả đều phù hợp với tâm trạng của một bé gái mới lớn như cái Ninh.
Những đứa trẻ mới lớn ở nông thôn chúng thường có suy nghĩ già dặn hơn tuổi,
những suy nghĩ của những người lớn và Ninh cũng vậy. Cuộc sống nghèo khổ
và thiếu vắng mẹ nên nó phải lớn trước cái độ tuổi của mình.
Cùng với lối kể chuyện ấy, Nam Cao đã dẫn người đọc vào một thế nội
tâm nhân vật đầy phức tạp, đó là nội tâm nhân vật Chí Phèo (Chí Phèo), là tâm
trạng của một kẻ say rượu khi bị ốm, khi một lần thực sự tỉnh táo. Ấy là cái
trạng thái bâng khuâng của một người lần đầu tiên tỉnh rượu, là những suy nghĩ
miên man về quá khứ, một quá khứ với những ước mơ hết sức bình dị “Hắn
56
bâng khuâng như tỉnh dậy, hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn. Người thì
bủn rủn, chân tay không buồn nhấc, hay là đói rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột
gan lại nôn nao lên một tý. Hắn sợ rượu cũng như những người ốm sợ cơm.
Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cườu nói của những người đi
chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá.Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào
chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy... Chao ôi là buồn!... Hình như có
một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê,
vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua
dăm ba sào ruộng làm.” Đây cũng chính là tâm lý của những người nông dân,
những con người đã bước sang cái “dốc bên kia” của cuộc đời, khi ngẫm nghĩ
về tương lai, về quá khứ họ thường dằn vặt, day dứt bởi những điều không thực
hiện được. Chí Phèo cũng vậy, sinh ra ở nông thôn, hắn cũng như bao người
khác, chẳng dám mong ước điều gì xa xôi, cái mà hắn muốn là một cuộc sống
bình thường như bao nhiêu con người khác. Nhưng hiện thực xã hội đẩy hắn
xuống bùn lầy để ngày hôm nay khi tỉnh dậy sau một cơn say hắn thấy buồn,
thấy cô độc hơn bao giờ hết và phải chăng hắn đã già. Quả thật hắn đã già, dấu
hiệu của sức khoẻ báo cho hắn biết và cái tuổi già ấy còn đến trong những suy
tư của hắn.
Có thể thấy, Nam Cao rất tinh tế trong việc diễn tả tâm lý nhân vật, hiểu
nội tâm của nhân vật, ông không dùng lời kể của mình để kể một câu chuyện
hay cuộc đời một nhân vật nào mà xen vào đó là những sắc thái tình cảm đối
nghịch nên tác phẩm của ông cùng lúc vang lên nhiều tiếng nói. Có những khi
ông kể với giọng vừa sắc lạnh vừa gân guốc nhưng cũng chan chứa yêu thương
và tha thiết trữ tình. Có những lúc lại vui tươi, hóm hỉnh khi nghe Hồng (Bài
học quét nhà) kể về những kỉ niệm vui của hai bố con. Cũng chính điều này đã
tạo nên màu sắc riêng trong lời kể chuyện ở truyện ngắn Nam Cao, làm nên
phong riêng, tạo ấn tượng đối với người đọc.
57
3.1.2 Ngôn ngữ nhân vật
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nam Cao hết sức phong phú, từ
những người nông dân nghèo đến những bậc trí thức, bởi vậy, mỗi một con
người là một giọng điệu riêng, một ngôn ngữ riêng, nhân vật nào ngôn ngữ ấy.
Trên địa bàn nông thôn thế nhưng không phải ai cũng nói giống nhau, không
phải ai cũng nhẹ nhàng, tình cảm và thấu đáo như ông giáo (Lão Hạc), cũng
không phải ai cũng chua ngoa như bà Phó Thụ (Một bữa no).
Nhìn lại cuộc gặp gỡ giữa bà cái Đĩ và bà Phó Thụ trước ngưỡng cửa của
cái chết vì đói. Cái cuộc đi chơi của bà cái Đĩ mà thực chất là đi ăn chực bữa
cơm, cũng từ đó lẽ ra bà chết đói mà trở thành chết no. Có lẽ nào bà cụ chết vì
no cơm là một phần mà chết vì no chửi lại là phần nhiều. Lời của bà Phó Thụ
cứ mãi văng vẳng trong câu chuyện: “Chơi với bời! Cái lúc nó mới đến trông
như con giun chết, cạy gỉ mũi chưa sạch thì không thấy chơi với bời! Người ta
nuôi mãi, bây giờ mới trơn lông đỏ da một tí đã phải đến mà giở quẻ. Tưởng
báu ngọc lắm đấy! Tưởng người ta phải giữ khư khư lấy đấy !...Úi chào! Có
phải mả tổ nhà người ta đâu mà người ta giữ? Muốn bắt nó về, cho nhà nào nó
nuôi làm bà cô tổ nhà nó thì cứ bắt. Ai người ta thiết ? Cứ trả lại tiền người
ta”. Cùng sống ở nông thôn, thế nhưng những người có ăn như bà Phó Thụ
dường như có cái quyền xỉa xói vào mặt người khác, có cái cách nói đay
nghiến, xoáy sâu vào tâm cam người ta, khiến người ta thấy nhục nhã. Giá mà
bà Phó Thụ cũng nói được như ông giáo (Lão Hạc) “Kiếp ai cũng thế thôi, cụ
ạ! Cụ tưởng tôi sung sướng hơn chăng?” thì biết đâu bà lão đã chẳng phải chết
như vậy.Ông giáo cũng nghèo, cũng cực nên hiểu được hoàn cảnh của lão để
mà cảm thông, chia sẻ với lão, còn bà Phó Thụ hay Bá Kiến, một người có của
ăn của để, môt kẻ có chức có quyền sao biết được nỗi lòng. Hoàn cảnh nào
ngôn ngữ đó, nhân vật trong truyện ngắn Nam Cao có ngôn ngữ riêng bởi vậy
58
mà giữa thế giới nhân vật đông đúc không ai lẫn vào nhau. Ngôn ngữ trí thức
của ông giáo khác với ngôn ngữ của những người trí thức như Ngạn (Nhìn
người ta sung sướng), những kẻ cầm quyền như Bá Kiến sao lẫn được với ông
Cửu Đoành. Thế giới nhân vật trong sáng tác Nam Cao sống động hơn qua
ngôn ngữ và trước hết là nhờ vào ngôn ngữ, với ngôn ngữ đối thoại và ngôn
ngữ độc thoại của nhân vật.
3.1.2.1 Ngôn ngữ đối thoại
Dù có khoảng thời gian dài không sống ở nông thôn, nhưng dường như
chất “quê” vẫm thấm đẫm trong ngòi bút của Nam Cao khi miêu tả về cuộc
sống cũng như tâm lý, phẩm chất và tính cách của người nông dân. Nhân vật
của ông thường bị đặt vào những tình huống hết sức éo le, có những khi là sự
lựa chọn giữa lợi ích cá nhân và thái độ của mọi người xung quanh. Bởi vậy
trong ngôn ngữ của từng nhân vật, cách lựa chọn, xử lý tình huống cũng đa
dạng hơn bao giờ hết. Khi đề cập nỗi khổ của người nông dân, ngòi bút Nam
Cao xoáy sâu vào những bi kịch về miếng ăn, về cái đói của những người nông
dân. Nhưng đứng trước nỗi lo ấy mỗi người nông dân lại có cách xử lý khác
nhau. Có những người chồng, người cha đặt trước thử thách miếng ăn họ vẫn
cam chịu, nhẫn nhục và nhận về mình phần thiệt thòi hơn. Lão Hạc (Lão Hạc)
vì muốn giữ lại mảnh vườn cho con mà phải ăn bả chó để chết chứ quyết không
phạm vào mảnh đất cho con. Đó là tình thương vô bờ bến mà người cha dành
cho con. Cũng giống như Lão Hạc, anh Đĩ Chuột cũng chọn lấy cho mình cái
chết để nhường cho con miếng cơm. Thế mới thấy được, tình phụ tử thiêng
liêng như thế nào.
Người nông dân trước những áp lực của cuộc sống họ vẫn giữ được bản
tính tốt đẹp của mình - đó là bản tính hiền lành, sự thuỷ chung, nhân hậu,
không chỉ đối với con người, không chỉ với những người thân trong gia đình nó
còn biểu hiện ngay cả với con vật nuôi trong nhà. Lão Hạc (Lão Hạc) là một
trong những người nông dân như thế. Cách mà lão đặt tên cho con chó (Vàng)
59
hay cách lão gọi nó cũng đủ để biết được với lão con chó không chỉ là con vật
nuôi mà nó còn là một người bạn, mộtngười thân. Rồi đến khi nghe giọng lão
thông báo với ông giáo rằng đã bán cậu Vàng mà người đọc không thể không
xúc động:
“- Cậu Vàng đi đời rồi ông giáo ạ
_ Cụ bán rồi?
_ Bán rồi! Họ vừa bắt xong.”
Không chỉ vậy, lão còn tự mắng mình khi đã già mà còn đi lừa một con
chó “Khốn nạn! Khốn nạn ông giáo ơi! … Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi
còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó”. Vì hoàn cảnh mà
lão phải bán đi cậu Vàng và đây là hành động duy nhất mà lão làm trái với
lương tâm của mình. Hành động ấy cùng với ánh mắt của cậu Vàng nhìn lão
cũng đủ để lão day dứt đến lúc chết. Và cách lão chọn cho mình cái chết cũng
như để trừng phạt mình vì đã trót lừa một con chó.
Cuộc sống nơi làng quê của những người nông dân vốn là cuộc sống
trong tối tăm, chịu sự đè nén của bọn thống trị; nhưng dù trong hoàn cảnh cùng
cực họ - những người nông dân vẫn giữ được lòng tự trọng cho mình. Đó là nét
đẹp vô cùng đáng quý, đáng được trân trọng. Chí Phèo (Chí Phèo) từ nhỏ đã
chịu thiệt thòi khi sinh ra là thằng không cha không mẹ, đánh đổi sức lực của
mình để kiếm lấy miếng ăn một cách chân chính. Khi đi ở cho nhà Bá Kiến
lòng tự trọng của một anh thanh niên được biểu hiện khi bị bà ba gọi lên bóp
chân. Lúc ấy Chí thấy nhục chứ có thích thú hay yêu thương gì đâu bởi lẽ “Hai
mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không toàn là xác thịt. Người ta
không thích cái gì người ta khinh. Vả lại bị một con đàn bà gọi đến nhà mà bóp
chân! Hắn thấy nhục hơn là thích, huống hồi lại sợ”. Người nông dân họ
nghèo nhưng không hèn, những con người như thế lại càng giàu lòng tự trọng
hơn bao giờ hết.
60
Điều tiếp đến mà người ta nhận thấy ở những người nông dân đó là sự
lương thiện, lương thiện từ lối sống đến suy nghĩ. Người nông dân đầu tiên mà
người ta nghĩ đến với bản tính lương thiện chính là lão Hạc. Lão khóc khi trót
lừa một con chó, cho đến khi đứng trước nguy cơ của cái đói lão đã cố nhặt
nhạnh số tiền mà mình có để gửi ông giáo lo liệu chuyện hậu sự cho mình bằng
một thái độ dứt khoát “ Được ạ ! tôi đã liệu đâu vào đấy… Thế nào rồi cũng
xong” (Lão Hạc). Và cách mà lão lo liệu chính là việc tìm đến cái chết, một cái
chết vật vã, quằn quại. Từ lúc sống lão đã kiếm ăn một cách chân chính trên
mảnh vườn của mình, từ việc làm lụng và bán hoa màu, đến lúc quá khó khăn
lão mới bán con chó đi nhưng lại day dứt và ân hận vô cùng. Cho đến khi bị
dồn vào bước đường cùng của cuộc sống lão đầu đành hàng hoàn cảnh để giữ
cho mình sự lương thiện ấy bằng việc tìm đến cái chết.
Hay ở nhân vật bố của Dần (Một đám cưới) cũng vậy, cảnh gà trống nuôi
con với biết bao khốn khó, ông phải một mình lo liệu mọi việc trong gia đình,
thế nhưng cũng giống như lão Hạc “ Thì chỉ đến chết là cùng chứ gì? Còn hơn
ngồi nhà mà chết đói”, đó vẫn là cái tuyên ngôn cho bản tính lương thiện của
những người nông dân “chết trong còn hơn sống đục”, và đây cũng là bài học
làm người mà ông cha ta truyền lại cho con cháu. Xót xa hơn là hoàn cảnh của
gia đình anh đĩ Chuột, bệnh tật xen lẫn cái đói đang hoành hành trong con
người anh, đói lờ đờ cả mắt nhưng anh và mọi người trong gia đình vẫn gắng
gượng bằng nồi cháo cám chứ không thể nào sống mà đánh mất đi sự lương
thiện của mình được.
Cuộc sống đói khổ, miếng cơm manh áo đã đẩy các nhân vật của Nam
Cao vào những hoàn cảnh khác nhau, có những người chọn cái chết để giữ cho
mình một nhân phẩm tốt đẹp như lão Hạc, bố Dần, anh đĩ Chuột…nhưng cũng
có những kẻ bất chấp tất cả vì miếng ăn như anh cu Lộ (Tư cách mõ), từ một
người hiền lành, lương thiện, giàu lòng tự trọng vậy mà bỗng chốc vì cái lợi
trước mắt, vì miếng ăn anh đã trở thành một tên mõ chính tông, bỏ qua sự dèm
61
pha của mọi người. Rồi những người như Chí Phèo sống bằng nghề rạch mặt
ăn vạ đến khi muốn tìm lại sự lương thiện thì đã quá muộn:
“- Tao muốn làm người lương thiện
_ Ồ, tưởng gì ! Tôi cần anh lương thiện cho thiên hạ nhờ
_ Không được ! Ai cho tao lương thiện ? Làm thế nào để mất được
những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa.
Biết không ! Chỉ có một cách… biết không! Chỉ có một cách là… cái này biết
không!”
Cuộc đối thoại với Bá Kiến đã cho thấy được sự trỗi dậy của con người
lương thiện trong Chí nhưng mong muốn quay về làm người lương thiện giờ
đây là không thể. Cách duy nhất mà Chí có thể làm đó là tìm đến cái chết, hắn
chết trên con đường trở về làm người.
Người nông dân dù bị tha hoá, dù giữ lại được bản tính tốt đẹp của mình
thì cuối cùng họ đều phải nhận một kết thúc đau đớn. Tất cả đều bắt nguồn từ
nguyên nhân sâu xa, đó là do chế độ xã hội lúc bấy giờ, những kẻ thống trị đã
lợi dùng sự lương thiện của họ, lợi dụng những thói quen, những phong tục tập
quán ở nông thôn mà đẩy người nông dân vào con đường cùng, đẩy họ đến chỗ
tha hoá. Dù ở cảnh ngộ nào thì cũng thật xót xa.
3.1.2.2 Ngôn ngữ độc thoại nội tâm
Cuộc sống ở nông thôn với không gian khép kín, quẩn quanh sau luỹ tre
làng nên những người nông dân thường ưa sự ổn định, bản tính hiền lành nên
thường mang tâm lý nhẫn nhịn, chấp nhận với số phận, đặc biệt là những người
phụ nữ. Người phụ nữ khổ nhất trên trang viết của Nam Cao có lẽ phải nói đến
dì Hảo (Dì Hảo), cuộc đời dì bước sang một trang đen tối kể từ khi đi lấy
chồng. Cuộc sống nghèo khổ lại thêm người chồng mải chơi, bạc bẽo càng làm
cho cuộc đời dì Hảo trở nên thê thảm hơn bao giờ hết. Thế nhưng, tuyệt nhiên
trong suốt cả câu chuyện người ta không hề thấy dì hé răng mà kêu than lấy
nửa lời ngay cả khi phải chung chồng, phải phục dịch chồng và nhân tình của
62
chồng. Những người như dì có lẽ chỉ ước ao có lấy một mái nhà để làm chỗ đi
về nên dì cứ nhẫn nhịn, nhưng càng nhẫn nhịn dì càng bị lấn lướt. Người chồng
ấy với dì có cũng như không, mà có lẽ, có dì lại càng thêm khổ nhưng chẳng ai
lý giải được vì sao dì không bỏ hắn mà vẫn có suy nghĩ “Phải, nhẫn nại là hơn
nếu hắn cứ ở nhà cũng thế”. Thế rồi, dì cứ im lặng mà sống cho hết những
chuỗi ngày buồn nhất của cuộc đời. Dì Hảo không phải là trường hợp duy nhất
như vậy. Người đọc hẳn có nhớ rõ hình ảnh người vợ trong Trẻ con không
được ăn thịt chó, khi nhìn lũ con của mình đói nheo nhóc để chờ người chồng,
người cha tham ăn mà quên đi đàn con của mình. Dù người vợ này có hơn dì
Hảo một chút ít đó là có sự phản ứng nhưng cuối cùng cũng đành thoả hiệp
trước người chồng bởi thị cũng muốn cho yên nhà “Khốn nạn cho thị lắm! Cái
số thị chẳng ra gì nên vớ phải một thằng chồng không biết lo, biết nghĩ, chỉ
thích ăn, thích uống. Con chó to bằng ấy, lúc này bán đâu không nổi ba đồng
bạc? Cả nhà ăn gạo hàng nửa tháng. Ấy thế mà cái môi nó vừa máy lên một
cái, nó đã phải đè ra mà giết ngay. Ăn hoang, phá hại. Ăn uống thế, có khác gì
ăn thịt con không, hở trời? Thị nghẹn ngào cả cổ. Thị muốn gào thật lớn.
Nhưng còn vướng mấy người bạn đây. Thôi cũng đành cắn răng.” Để rồi kết
thúc câu chuyện là cảnh đàn con khóc vì đói khi trong mâm không còn thứ gì
ăn được, người mẹ ấy chỉ biết khóc vì thương con và có lẽ cũng khóc vì uất hận
với người chồng, người cha ấy.
Có thể thấy rằng, với tâm lý ưa ổn định của những người nông dân đã
khiến cho họ có sự chịu đựng rất lớn mà đặc biệt là những người phụ nữ. Vì
mong muốn yên bình mà họ chấp nhận số phận, suy nghĩ xuôi chiều, cam tâm
với mọi chuyện đã sắp đặt.
Bên cạnh những người nông dân cam tâm chấp nhận số phận thì cũng có
những người bị biến chất trước hoàn cảnh. Tiểu biểu trong đó là Chí Phèo (Chí
Phèo). Hắn vốn là một anh canh điền hiền lành, khoẻ mạnh và cũng đã có thời
hắn ước ao như bao nhiêu người khác, một cuộc sống thật bình yên “Chống
63
cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn
liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm.” Thế nhưng, ước mơ ấy mới chỉ
kịp hình thành đã bị đập tan từ trứng nước để cuối cùng từ một người nông dân
thuần phác hắn trở thành một tên lưu manh, liều lĩnh, liều lĩnh để kiếm miếng
ăn “Cùng lắm, nó có dở quẻ, hắn cũng chỉ đến đi ở tù. Ở tù thì hắn coi là
thường. Thôi cứ vào”. Đây chính là suy nghĩ của một kẻ liều lĩnh, một kẻ
dường như không còn gì để mất. Thế nhưng khi gặp được Thị Nở, được chăm
sóc bởi bàn tay người đàn bà và bát cháo hành nóng hổi trong lúc bệnh tật, Chí
nhận ra được giá trị của cuộc sống để rồi khát khao hoà nhập với cuộc sống,
khát khao trở về với con người lương thiện xưa kia mà điểm tựa cho hắn lúc
này không ai khác chính là Thị Nở “Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà
với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn
với hắn thì sao người khác lại không thể được. Họ sẽ thấy rằng hắn cũng có thể
không làm hại được ai. Họ sẽ nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện
của những người lương thiện.” Ở cái độ tuổi của hắn bây giờ suy nghĩ cũng đã
chín chắn, sâu sắc hơn cái thời hắn mười tám, đôi mươi bởi thế mà hắn muốn
hoàn lương, muốn hoà nhập.
Người nông dân vốn sống đơn giản, không thích sự cầu kì, bởi thế mà
trong tâm lý con người cũng vậy, không phức tạp không giằng xé như những
con người trí thức, với họ là sự yêu ghét rạch ròi, và trong truyện ngắn của
Nam Cao, mỗi người nông dân chỉ bộc lộ một khía cạnh nào đó của trạng thái
tâm lý mà ở đây chủ yếu là sự bực bội do cảnh nghèo gây nên. Trong truyện
Con mèo, là sự tức tối, bực bội của hai vợ chồng sau một ngày làm việc mệt
mỏi. Con mèo chỉ là cái cớ để họ nảy sinh xung đột, để gây sự với nhau. Anh
chồng tuy không nói ra lời nào nhưng lại thầm mong con mèo quay lại niêu
cơm chỉ với mục đích để chọc tức chị vợ “Anh thầm mong cho nó đút đầu vào
niêu cơm nguội”, còn chị vợ thì liên tục cằn nhằn đến mức anh chồng “muốn
tát vào cái mặt cong cớn của vợ anh vài cái”. Giận là vậy, gây sự với nhau là
64
vậy thế mà khi trút được hết những bực dọc trong người rồi thì họ lại làm hoà
với nhau nhanh đến mức không ngờ. Vợ chồng vốn yêu thương nhau thì dù có
mâu thuẫn thế nào đến cuối cùng họ vẫn làm lành với nhau, vẫn quan tâm nhau
và lại cùng nhau sống tiếp những tháng ngày hạnh phúc và cũng không thiếu
những lúc bắt bẻ, gây gổ với nhau.
Mang một tâm trạng phức tạp hơn là Chí Phèo (Chí Phèo), chỉ sau một
đêm thức giấc mà có biết bao nhiêu sự đổi thay mà việc khiến hắn suy ngẫm
hơn cả là cuộc gặp gỡ với Thị Nở. Đầu tiên là bát cháo hành, chỉ vậy thôi mà
mắt hắn “ươn ướt” và thấy hạnh phúc vô cùng để rồi đưa ra một nhận định rằng
“những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo ăn rất ngon.
Nhưng tại sao mãi đến tận bây giờ hắn mới nếm mùi vị cháo. Thế rồi hắn bắt
đầu lo lắng, điều mà trước giờ chưa từng thấy ở con người hắn, hắn lo cho
tương lại của mình bởi lẽ “Xưa nay hắn chỉ sống bằng cướp giật và doạ nạt.
Nếu không còn cướp giật và doạ nạt được nữa thì sao?”, hắn thoáng nghĩ về
điều ấy, hắn thấy được cái tương lại mịt mù phía trước bởi thế mà hắn khát
khao “Trời ơi ! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết
bao”. Khao khát ấy đang cháy bỏng, đang trỗi dậy mãnh liệt trong hắn và
dường như nó đang cào xé tâm can hắn.
Người nông dân là thế, đứng trước những nghịch cảnh của cuộc sống họ
không dày vò, không cắn rứt bản thân mà bộc phát thành hành động để tự bảo
vệ cho chính mình. Đây cũng chính là biểu hiện cho những suy nghĩ nông cạn,
nhưng hành động tự phát của người nông dân. Bởi họ sống đơn giản, hành
động dứt khoát, rạch ròi.
Điều đặc biệt ở đây chính là tính thời sự của ngôn ngữ Nam Cao, dù là
ngôn ngữ trần thuật hay ngôn ngữ đối thoại. Đã hơn nửa thế kỉ đi qua, bao biến
động của lịch sử, bao đổi thay của vận mệnh dân tộc nhưng ngôn ngữ Nam Cao
gần như không cũ. Ngôn ngữ Nam Cao không xa lạ, không sang trọng kiểu
cách như Tự lực văn đoàn mà đó chính là cách hành văn của chúng ta hôm nay;
65
“Vẽ cái con chuột chết”; “Con gái gì mà ngủ trương lên đến tận nửa buổi chưa
chán mắt”; “- Ái chà”…chỉ chừng ấy thôi đã đủ thấy, nó không phải thứ ngôn
ngữ phòng khách, không phải lối văn chương sách vở, nó chính là thứ đang
diễn ra hàng ngày trong cuộc sống đời thường, không hề cũ kĩ. Nam Cao đã
đưa được ngôn ngữ của mình bắt kịp với dòng chảy của thời đại, khiến cho nó
luôn cập được những bến bờ thời sự.
3.1.3 Sử dụng nhiều thành ngữ
Thành ngữ là một trong các phương tiện để biểu đạt nội dung, thông tin,
tư tưởng. Sử dụng thành ngữ trong giao tiếp sẽ đạt hiệu quả cao bởi thành ngữ
mang nhiều nghiã biểu đạt mà dung lượng từ ngữ lại ít. Tính thời sự trong ngôn
ngữ của Nam Cao cũng thể hiện rất rõ thông qua việc sử dụng thành ngữ trong
các sáng tác của ông bởi nó gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày của người nông
dân.
Nam Cao đã vận dụng rất linh hoạt các thành ngữ trong các sáng tác của
mình. Có khi là những thành ngữ nguyên dạng, có những khi ông biến đổi nó đi
cho phù hợp với mục đích diễn đạt của mình. Chẳng hạn, khi nói về Bá Kiến
(Chí Phèo), Nam Cao đã sử dụng rất nhiều thành ngữ để có thể bộc lộ hết sự
khôn ngoan của một kẻ thuộc giai cấp thống trị, từ cách nhìn người cho đến
cách trị người của lão. Những thành ngữ được sử dụng cho Bá Kiến giống như
những kinh nghiệm được đúc kết từ cả một quá trình làm quan của lão. Với
những kẻ trời không sợ, đất không sợ như Chí Phèo thì phải có những bài riêng
để mà trị, để mà lợi dụng. Thế nên khi Chí Phèo đến nhà lão ăn vạ lão mới
mềm mỏng với hắn bởi “Không phải cụ đớn, chính thật cụ khôn róc đời, thứ
nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân. Chí không phải là anh
hùng, nhưng nó là cái thằng liều lĩnh. Liều lĩnh thì còn ai thèm chấp ! Thế nào
là mềm nắn rắn buông? Cái nghề làm việc quan, nếu nhất nhất cái gì cũng đè
đầu cưỡi cổ thì lại bán nhà đi cho sớm”. Phải nói rằng,cụ Bá đúng là khôn róc
đời, cụ biết xử thế nào để lấy lợi về mình mà lại được người ta nể. Trong hoàn
66
cảnh này, nếu chấp với một thằng say đi ăn vạ, một thằng liều như Chí thì
người thiệt chỉ có là cụ Bá mà thôi. Cụ nắm rõ được cái quy luật “Mềm nắn rắn
buông” để mà ứng xử. Thật là thâm thuý, sâu xa. Cùng với Chí, Bá Kiến cũng
phải đối mặt với Năm Thọ, hắn không say để mà dễ lợi dụng như Chí, hắn lại là
một tên trùm lưu manh. Khi nói về Năm Thọ, Nam Cao đã miêu tả bằng những
thành ngữ hết sức biểu cảm để thấy được một nhân vật ngổ ngáo, đáng sợ
“Năm Thọ vốn là một thằng đầu bò đầu bướu. Hồi ấy, Bá Kiến mới ra làm lý
trưởng, nó hình như kình nhau với lão ra mặt; lý Kiến muốn trị những chưa có
dịp. Được ít lâu, hắn can dự vào một vụ cướp bị bắt giam; lý Kiến ngấm ngầm
vận động cho vào tù. Vẫn tưởng một người vai vế như Năm Thọ mà thất cơ lỡ
vận đến nỗi tội tù thì làm gì còn dám vác cái mặt mo về làng”. Thành ngữ đầu
bò đầu bướu được Nam Cao sử dụng rất đắt khi miêu tả về Năm Thọ, nó hoàn
toàn phù hợp với những kẻ ngỗ ngược như hắn. Không cần nhiều chi tiết hay
bất cứ một hành động nào, chừng ấy thôi cũng đủ để người đọc có thể hình
dung ra con người của tên trùm lưu manh này.
Khác với cách miêu tả giai cấp thống trị hay những tên lưu manh, những
con người tha hoá ở nông thôn, khi miêu tả về người nông dân Nam Cao chủ
yếu nói về đời sống tinh thần và hoàn cảnh sống khốn khó của họ. Lão Hạc
(Lão Hạc) cả đời tằn tiện vì con, thà chết chứ không phạm một đồng của con
“Đã đành rằng là thế, nhưng tôi bòn vườn của nó bao nhiêu, tiêu hết cả. Nó vợ
con chưa có. Ngộ nó không lấy gì lo được lại bán vườn thì sao?... Tôi cắn rơm,
cắn cỏ tôi lạy ông giáo! Ông giáo có nghĩ cái tình tôi già nua tuổi tác mà
thương thì ông giáo cứ cho tôi gửi”. Thành ngữ “cắn rơm cắn cỏ” đã đủ để
thấy được sự khẩn thiết trong lời nói của ông lão, lời nhờ cậy ấy thật sự là đang
rất cần với lão. Nghe những lời van xin khẩn thiết như vậy của lão Hạc thì ai có
thể dám từ chối, huống hồ là người có học như ông giáo lại càng thấu hơn lẽ
đời. Vậy vì đâu mà lão phải làm thế, vì ai mà lão già như vậy lại phải hạ mình
đi xin ông giáo? Tất cả chỉ vì xuất phát từ tình thương vô bờ bến mà lão dành
67
cho thằng con trai. Cuối cùng, sự nhờ cậy của lão cũng được ông giáo đồng ý,
đây chính là hiệu quả của việc sử dụng thành ngữ trong lời nói. Nam Cao còn
sử dụng những thành ngữ khi nói về hoàn cảnh sống của nhân vật. Chí Phèo
(Chí Phèo) ban đầu được biết đến là một kẻ “Tứ cố vô thân”, không nơi nương
tựa ngay từ khi sinh ra. Thành ngữ ấy đã phần nào nói lên được cảnh ngộ của
Chí, một tuổi thơ bơ vơ, bất hạnh…lớn lên không người thân thích, một mình
dựa vào chính mình. Nhưng Chí cũng lớn lên, cũng sống một cuộc sống như
bao nhiêu người khác với một ước mơ giản dị và hết sức đời thường “Hình như
có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày
thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì
ma dăm ba sào ruộng làm”. Ước mơ “Cày thuê cuốc mướn”mới thật bình dị
làm sao, những người nghèo khổ như Chí cũng không dám ước gì hơn. Bình dị
thật đấy, đẹp thật đấy nhưng nghe sao tội nghiệp đến thế!
Bên cạnh đó, với việc sử dụng thành ngữ trong miêu tả chân dung các
nhân vật, Nam Cao đã làm cho hệ thống nhân vật của mình trở nên hấp dẫn,
sinh động và rõ nét hơn bao giờ hết. Có lẽ, bức chân dung đầu tiên mà người ta
muốn nhắc đến chính là Thị Nở. Có thể nói, đây là nhân vật xấu nhất trong các
nhân vật của Nam Cao mà rộng hơn thì đây còn là nhân vật xấu nhất trong lịch
sử văn học. Cùng đọc lại đoạn văn miêu tả chân dung Thị Nở, người đọc sẽ
thấy rõ được điều này: “Nhưng người đàn bà ấy lại chính là thị Nở, một người
ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn. Cái mặt
của thị đích thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó ngắn đến nỗi người ta có
thể tưởng bề ngang lớn hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai
hại, nếu má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn, là
thứ mặt vốn nhiều hơn người ta tưởng, trên cổ người. Cái mũi thì vừa ngắn,
vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau
với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi: có lẽ vì cố quá cho nên
chúng nứt nở như rạn ra. Ðã thế thị lại ăn trầu thuốc, hai môi dày được bồi
68
cho dày thêm, cũng may quyết trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám
ngoách. Ðã thế những cái răng rất to lại chìa ra: ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối
chữa được một vài phần cho sự xấu. Ðã thế thị lại dở hơi; đó là một ân huệ đặc
biệt của Thượng đế chí công” Ở đây, Nam Cao không dùng thành ngữ để miêu
tả chân dung của Thị Nở mà chỉ dùng duy nhất một thành ngữ để khái quát lại
bức chân dung ấy, cũng là lời nhận xét về dung nhan của Thị đó là “Xấu ma
chê quỷ hờn”. Tất cả đã khái quát toàn diện bức chân dung của nhân vật, đây
cũng chính là cái tài trong việc sử dụng ngôn ngữ của nhà văn. Tuy nhiên, nhân
vật người phụ nữ trong sáng tác của Nam Cao không phải ai cũng xấu, ngược
lại, có những người lại đẹp, đẹp đến mức không ai không động lòng. Người
phụ nữ ấy không đâu xa chính là vợ của Năm Thọ (Chí Phèo) “Chị vợ ở nhà
còn trẻ, mới hai con, cái mắt sắc như dao lại hồng hồng đôi má, bỗng nhiên lại
sinh ra vắng chồng, của ngon trờ trờ ngay trước mắt, ai mà chịu được?”. Vẻ
đẹp của người phụ nữ này không được đánh giá qua ngoại hình mà nó ở đôi
mắt, đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, đôi mắt ấy lại “sắc như dao” nên nó đã thu hút
cái nhìn của bao nhiêu người. Thế rồi, có những nhân vật được Nam Cao miêu
tả ngoại hình nhưng không thiên về vẻ đẹp hay xấu mà lại hiện hữu bởi hoàn
cảnh sống. Đấy chính là Dần (Một đám cưới), Nam Cao cũng đã sử dụng thành
ngữ khi miêu tả về nhân vật này “Con người ta, có cơm vào là có da, có thịt
ngay. Chẳng lâu đâu. Người mẹ nghĩ và mừng. Thị chắc chỉ vài, ba tháng sau,
nếu Dần được một ngày rỗi rãi về chơi với các em, cả nhà sẽ ngạc nhiên thấy
nó béo như con cun cút. Mà trắng, mà đẹp, mà lành lặn, ra phết cô con gái
lắm!...Dần có về thật, nhưng nó vẫn gầy như một cái que. Nó khóc hu hu. Nó
đòi ở nhà với các em, muốn cho ăn thế nào thì cho, muốn bắt làm gì thì bắt, chỉ
đừng bắt nó ở cho nhà bà chánh nữa. Cơm nhà giàu khó nuốt. Ăn của họ mà
không làm lợi cho họ được thì họ làm cho đến phải mửa ra mà giả họ. Dần
chân yếu tay mềm lắm. Nó thà nhịn đói mà ở cửa, ở nhà còn hơn. Mẹ Dần nhất
định không nghe. Thương con thì để bụng.” Mẹ Dần cho con đi ở chỉ với mong
69
ước là con có ăn sẽ béo ra, có ra có thịt thế nhưng sự thật lại nghiệt ngã hơn
những gì người ta nghĩ rất nhiều. Hai thành ngữ “béo như con cun cút” và
“gầy như một cái que” đã phần nào diễn tả được cảnh ngộ xót xa của Dần.
Bên cạnh những thành ngữ được sử dụng nguyên dạng thì cũng không ít
những thành ngữ được Nam Cao biến đổi về mặt cấu trúc như tách các thành
ngữ hay thêm bớt một vài yếu tố trong thành ngữ để làm mờ tác dụng của nó.
Có thể lấy ra một vài ví dụ điển hình như : “Tại sao ở hiền không phải bao giờ
cũng gặp lành” (Ở hiền), “Cưỡi lên đầu lên cổ” (Mua danh)…
Như vậy có thể nói rằng, các thành ngữ mà Nam Cao sử dụng rất đa dạng
và phong phú bởi nó được ông lựa chọn và sáng tạo sao cho phù hợp với mục
đích thể hiện của mình.
3.2 Hình ảnh đặc sắc.
3.2.1 Hình ảnh sinh hoạt
Nói đến nông thôn, nói đến người nông dân điều đầu tiên mà người nghĩ
đến chính là nghề làm nông mà ở đây quan trọng nhất là việc trồng lúa. Hình
ảnh màu gặt dường như đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người nông dân bởi
với họ đây là khoảng thời gian gặt hái thành quả sau những tháng ngày lao
động vất vả. Với người nông dân trong truyện ngắn Nam Cao thì hình ảnh mùa
gặt càng trở nên có ý nghĩa hơn bởi với họ cái đói cái nghèo luôn đeo bám. Thế
nhưng, vụ gặt trong truyện của ông lại là một vụ mất mùa “Năm ấy mất mùa.
Lúa làng xấu lắm. Chúng tôi gặt ruộng nhà xong, mới đi gặt thuê được mỗi
người vài ba buổi mà lúa làng đã vãn” (Quái dị) vì thế mà người ta bàn nhau
đi gặt thuê ở nơi khác để kiếm công, kiếm bữa cơm. Chuyện gặt thuê, gặt đổi
không lấy gì làm xa lạ với những người nông dân, thế nhưng cũng xoay quanh
chuyện ấy là những tình huống dở khóc, dở cười của cả chủ và người làm công
và có những câu chuyện đã trở thành tích, cứ mỗi lần đi gặt thuê là nó lại được
70
kể lại “Về cái tích cà này, ông nhiêu kể lại một chuyện buồn cười lắm. Mùa ấy,
ông cũng đi gặt ở mạn Ðông, với mấy anh em nữa, toàn người làng cả. Họ gặt
cho một nhà cũng khá giàu, mà có vẻ quí người. Trưa đến, quẩy lúa về, nhà
chủ mời quan viên thợ gặt ngồi lên cái giường giữa trước bàn thờ để nghỉ ngơi
cho nó mát rồi xơi cơm. Quan viên khấp khởi mừng thầm. Ngồi như vậy, thế
nào ăn chẳng khá. Họ đã nghĩ đến riêu cá mè, thịt lợn kho, hay ít ra thì cũng
được bát canh bí nấu với cua để húp cho mát ruột. Nhưng quan viên nhầm cả.
Mâm cơm bưng lên lại toàn một thứ cà, cái thứ cà to bằng một cái bát con,
thâm sịt và mặn như "cô" muối vào. Anh nào muốn sắt ruột lại thì cứ ăn! Ấy
thế mà quan viên ăn rất nhiều. Chính cô con dâu nhà chủ, có lẽ đã quen ăn
mặn lắm, mà cũng phải chịu bọn thợ gặt này là ăn mặn. Một bữa ăn, cô phải
lấy thêm cà năm, sáu lượt. Cứ vừa đem một đĩa lên, đã lại thấy họ gào đem đĩa
nữa. Sau cùng, thấy đĩa thì không xuể, cô xúc luôn cho họ một bát tàu to thật
đầy. Chỉ có bốn người ăn mà vại cà vơi đi... Chiều hôm ấy, thấy cô con dâu ra
đồng đội lúa, ông nhiêu Tiêm hỏi: "Cô ơi cô! Tôi hỏi thế này khí không phải...
Cô đã lấy nước cho các cụ chưa?" Người con dâu ngơ ngác. Cô không hiểu vì
ý gì mà người ta hỏi thế. Hỏi họ thì họ chỉ cười khúc khích. Cô ngờ ngợ. Về
nhà, cô đem chuyện ấy khoe với chồng. Chồng cô không hiểu nốt. Y khoe với
bố. Ông bố có học được ít chữ nho thì phải. Người có chữ nho thâm thúy. Ông
nghĩ ngợi. Ông vào nhà, củ soát lại bàn thờ ông vải. Khi mở đến bốn cái đài,
ông thấy đài nào cũng đầy lên những cà.”
Không chỉ có hình ảnh vụ gặt mà những thói quen trong sinh hoạt cũng
được Nam Cao đưa vào các sáng tác của mình hết sức tự nhiên. Một hình ảnh
nữa của người nông dân mà chúng ta không thể không nói đến chính là công
việc đi gánh nước . Đây cũng chính là cơ duyên khiến Chí Phèo gặp được Thị
Nở (Chí Phèo). Người nông dân cũng không còn lạ lẫm gì với hình ảnh đôi lọ
đi gánh nước ở sông hay ở giếng làng về sinh hoạt hàng ngày, Thị Nở cũng như
mọi người, cũng công việc gánh nước, nhưng gió mát và trăng sáng đã khiến
71
thị quên đi công việc của mình để rồi gặp được Chí. Để rồi mãi đến nửa đêm
khi ra vườn, đôi lọ mới nhắc cho thị cái việc đi gánh nước, thị lại “mải mốt
mặc áo, kín nước, rồi xách đôi lọ nước đi về nhà.”. Cùng với vụ gặt, việc gánh
nước hàng ngày là điều rất quen thuộc với người nông dân. Nam Cao đã đưa
vào trang viết của mình một cách rất tự nhiên nhưng cũng không thiếu đi sự
sáng tạo để trang viết của mình trở nên sinh động và chân thực hơn.
Sẽ là thiếu sót nếu không nói tới hình ảnh ổ rơm vào những ngày đông
lạnh giá. Cuộc sống nông nghiệp gắn với nghề trồng lúa vì vậy mà rơm rất phổ
biến, nó được người nông dân tận dụng để phục vụ cho chính cuộc sống của
mình. Không chỉ có vậy, hình ảnh ổ rơm ấy còn gợi lên biết bao nhiêu kỉ niệm
trong lòng mỗi nhân vật. Ninh (Từ ngày mẹ chết) cứ vào những ngày mưa rét là
cô lại nhớ mẹ, nhớ những thói quen hàng ngày của mẹ khi còn sống “Mỗi khi
trời mưa rét Ninh lại nhớ đến bu. Hồi bu còn sống, những ngày mưa rét, không
ra vườn hái trầu, bóc mía hay làm cỏ được, bu hay mang cái bị giẻ và một ôm
quần áo rách vào ổ rơm ngồi vá”, hình ảnh người mẹ ngồi vá áo trong ổ rơm
ngày mưa rét sẽ mãi là kỉ niệm không bao giờ quên với Ninh. Dần (Một đám
cưới) cũng chịu chung cảnh ngộ với Ninh, mẹ mất sớm, bố một mình nuôi chị
em Dần, gia cảnh lại khó khăn, thiếu thốn, vì thế mà ổ rơm ngày đông là cách
để gia đình chống chọi với mùa đông khắc nghiệt. Cái ổ rơm ấy bình dị mà ấm
áp đến lạ, thế nên ròi khỏi nó cũng là một việc khó khăn ,“Dần nhỏm dậy. Nó
sờ soạng ra khỏi cái ổ rơm rồi đi thẳng ra ngoài. Bên ngoài mịt mù sương. Khí
lạnh sắc như dao. Dần rùng mình và hắt hơi mấy cái luôn”.
Những hình ảnh tưởng chừng như đơn sơ ấy nhưng lại chứa đựng biết
bao nhiêu ý nghĩa với người nông dân. Với họ, nó đã ăn sâu vào tiềm thức, là
thói quen sinh hoạt hàng ngày, là nét đẹp riêng của nông thôn mà những nơi
khác không thể có được. Nam Cao lại một lần nữa chứng tỏ được cái tài của
mình khi biết quan sát từ những điều nhỏ nhất của người nông dân, có lẽ nó
72
được đúc rút từ chính cuộc sống của ông, từ chính nơi ông đã sinh ra và lớn lên.
Những hình ảnh nhỏ nhưng giá trị của nó lại không hề nhỏ.
3.2.1 Hình ảnh con người.
Có hai kiểu xuất hiện trong truyện ngắn của Nam Cao đó là con người
thuộc giai cấp thống trị và người nông dân. Ở mỗi kiểu người này Nam Cao lại
có những hình ảnh sắc nét để làm nổi bật lên bản chất, tính cách của họ.
Có lẽ, kẻ đại diện cho giai cấp thống trị đầu tiên phải nói đến chính là Bá
Kiến. Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng hình ảnh Bá Kiến chỉ thông qua
những chi tiết rất nhỏ như tiếng cười “Cụ bá cười nhạt, nhưng tiếng cười giòn
giã lắm: người ta bảo cụ hơn người cũng chỉ bởi cái cười.”. Cái cười cụ bá tuy
nhạt nhưng lại giòn, rồi giọng cụ có thể đổi ngay thành giọng thân mật để mà
nắm thóp kẻ thù “Khổ quá! Giá có tôi ở nhà thì đâu đến nỗi. Ta nói chuyện với
nhau, thế nào cũng xong. Người lớn cả, chỉ một câu chuyện với nhau là đủ. Chỉ
tại thằng lý Cường nóng tính không biết nghĩ trước nghĩ sau. Ai, chứ anh với
nó còn có họ kia đấy.” Quả thật, với mỗi người, điều mà người khác ấn tượng
đầu tiên chính là ở giọng nói và điệu cười, nó có thể toát lên phong thái của họ.
Vậy là chỉ cần qua tiếng cười, qua giọng nói người ta có thể hình dung được
con người của Bá Kiến, ấy là sự khôn ngoan, ranh mãnh, rất hiểu đời và hiểu
tâm lý người khác. Có thế cụ mới làm quan được, có thể mới trụ vững được ở
cái làng có thế “quần ngư tranh thực” ấy. Hay Đội Tảo, khi thấy kẻ thù bị giết,
hắn thể hiện ngay thái độ của mình mà không cần kín kẽ “Thằng bố chết, thằng
con lớp này không khỏi người ta cho ăn bùn”. Đó là lời của kẻ khi trừ được
mối hoạ của mình, là sự hống hách của giai cấp thống thống trị, trong lời nói,
trong tiếng cười cũng đã chứa đựng sự nham hiểm.
Khác với hình ảnh giai cấp thống trị, hình ảnh những người nông dân
hiện lên thật thà, hiền lành, chất phác. Đó là lão Hạc“Lão cố làm ra vẻ vui vẻ.
73
Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước, tôi muốn ôm
choàng lấy lão mà oà lên khóc.” (Lão Hạc), trông lão lúc này mới thật đáng
thương và tội nghiệp biết bao. Thế rồi không kìm nén được cảm xúc, lão khóc,
khóc vì đã bán đi cậu Vàng, người bạn thân thiết của lão, khóc vì lão đã trót lừa
cậu Vàng “Mặt lão đột nhiên co dúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép
cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém
của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc...”. Hình ảnh đó có lẽ đã ám ảnh
người đọc rất nhiều. Không chỉ có lão Hạc mà còn có những người nông dân
khác cũng hiện lên thật mộc mạc và đáng trân trọng. Đó là bố Dần (Một đám
cưới), khi vợ chết, cảnh gà trông nuôi con nhưng ông lo liệu mọi việc chu toàn.
Hình ảnh người bố tính chuyện gia đình cứ trở đi trở lại trong câu chuyện, ông
tính chuyện cưới xin cho Dần, tính chuyện lên rừng kiếm miếng ăn, dường như
mọi chuyện đã được sắp xếp đâu ra đấy cả rồi “Ðằng nào mày cũng phải đi,
mà mày đi thì tao không làm thế nào vừa trông coi các em mày vừa đi làm
được. Cho nên tao nhất định mang gửi chúng nó, rồi lên rừng một chuyến.
Kiếm ăn được, tao sẽ đem chúng nó đi.”. Hay người bố trong Nghèo cũng vậy,
người đọc xót xa vô cùng khi chứng kiến hình ảnh ốm đau và gầy gò của anh
Đĩ Chuột khiến anh trở nên đáng sợ, khiến những đứa con của anh lại sợ bố nó
“làn ánh sáng mờ lướt qua làm cho cái mặt hốc hác và màu da đã xanh lại
càng thêm xanh. Mái tóc dài quá xoà xuống tai và cổ, hai con mắt ngơ ngác và
lờ đờ, những chiếc răng dài và thưa ở mồm hé ra để cho dễ thở khiến anh có
cái vẻ dễ sợ của con ma đói”, cái đói hoành hành thật khốc liệt, nó khiến con
người ta không còn là người. Nhưng trong cái đói ấy, trong cái màu tối u ám
của hoàn cảnh vẫn sáng bừng lên tình cha con sâu nặng khi anh chọn cái chết
để nhường miếng cơm cho con mình. Cái chết đau đớn, hình ảnh con người ấy
khi chết lại càng khiến người ta không cầm được nước mắt “Cái bộ xương bọc
da giãy giụa như một con gà bị bẫy, sau cùng nó chỉ giật từng cái chậm dưới
sợi dây thừng lủng lẳng”. Rồi cả những người vợ, người mẹ nhường từng
74
miếng ăn cho chồng cho con, vất vả lo toan cho gia đình như chị Đĩ Chuột,
cuộc sống vất vả lại thiếu ăn khiến chị cũng chẳng hơn chồng mình là mấy “
hai hõm má xanh bùng như người ngã nước”, rồi mẹ của Dần (Một đám cưới)
với suy nghĩ cho con đi ở để nó đến nhà người ta có ăn cho nó có da, có thịt và
trong đầu thị đã tưởng tượng ra cảnh đứa con gái của mình sẽ “béo như con
cun cút”. Hình ảnh những người cha như bố Dần, như Lão Hạc, như anh Đĩ
Chuột, những người mẹ như mẹ Dần, như chị Đĩ Chuột thật đáng quý, đáng
trân trọng. Đó cũng là những hình ảnh của người nông dân lúc bấy giờ, họ sống
tình nghĩa, thuỷ chung và chu đáo.
3.3 Không gian nghệ thuật.
Cùng với ngôn ngữ và hình ảnh thì không gian nghệ thuật là một trong
những yếu tố mang dấu ấn văn hoá nông thôn trong truyện ngắn Nam Cao.
Không gian trong sáng tác của Nam Cao trước hết là vùng nông thôn, những
căn nhà nơi thôn dã, những con đường làng…Trong những mối liên hệ của thời
gian và không gian, làng quê, ngôi nhà con đường hóa ra là cơ bản và quan
trọng nhất : tất cả những mối liên hệ còn lại hoặc bị chúng cuốn hút hoặc trở
thành thứ yếu trong thế giới nghệ thuật của nhà văn.
Làng quê trong truyện ngắn Nam Cao, người đọc bắt gặp một không gian
rộng lớn nhưng không trù phú mà mà hết sức thê thảm với “nhưng mái nhà lá
xác xơ trông tiều tụy như những cái nón rách trên gáy những người ăn mày…”.
Nó hoàn toàn khác xa với cái làng Đông Xá huyên náo, dồn dập tiếng trống
thúc sưu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, nông thôn trong tác phẩm của Nam
Cao có cái vẻ vắng lặng, hoang vu của một vùng quê nghèo đói “Một cái làng
quê u tịch đôi khi chết lặng vì cái nắng trưa gay gắt của mùa hè, xao xác vào
những ngày thu, tả tơi vào mùa mưa bão, quạnh vắng vào những đêm trăng”.
Không gian ở đây yên tĩnh đến nỗi người ta có thể nghe thấy cả “tiếng kêu rầm
rĩ của những thớ gỗ trong cái kèo, cái cột,hình như chúng tê mỏi mà vươn mình
75
hay sốt ruột mà rên lên” (Nửa đêm). Thế rồi, trong cái không gian vắng lặng ấy
thi thoảng có những âm thanh vang lên, đó là tiếng chửi, tiếng khóc hờ…sau
đó, tất cả lại chìm vào yên ắng đáng sợ.
Có thể nói, làng Vũ Đại chính là xã hội phong kiến Việt Nam thu nhỏ lúc
bấy giờ. Ở cái vị trí “đầu tỉnh, cuối huyện” lại càng thuận bề cho những bọn
cường hào, bóc lột, hà hiếp người nông dân. Chúng chia bè kéo cánh đối
nghịch nhau để tranh giành quyền lợi để mà đè nén người dân. Ngoài mặt
chúng tử tế với nhau nhưng trong bụng chúng lúc nào cũng muốn cho nhau lụn
bại để giành vị trí thống trị. Trong cái không gian ấy, những kiếp người đang
sống mòn mỏi, lay lắt, vật vờ. Có những người sống trong sự nhẫn nại, chịu
đựng mọi cay đắng như dì Hảo, rồi những con người nếu không chết vì đói
nghèo hay bệnh tật (nghèo, điếu văn) thì rồi cũng chết vì no (một bữa no) . Và
trong cái không gian xơ xác ở vùng quê ấy hiện lên hình ảnh những ngôi nhà.
Gọi là “nhà” cho sang chứ nó gần như không giống nhà mà giống một túp lều
hay tệ hơn, trông xa nó giống như cái “chuồng bò”. Ở đó, cuộc sống của từng
cá nhân, từng gia đình hiện lên rất thực trên các trang viết của Nam Cao. Tài
sản duy nhất của Chí Phèo là một túp lều ven sông được miêu tả với không
gian “ẩm thấp” và ánh sáng “hơi lờ mờ. Khung cảnh ấy thấy tồi tàn nhưng nếu
nó được đặt ở một vị trí khác chứ không phải “ở gần một con sông con, nước
lặng và trong, khắp bãi trồng toàn dâu, gió đưa đẩy những thân mềm oặt ẹo,
cuộn theo nhau thành làn” thì có lẽ nó sẽ được chú ý hơn. Ngôi nhà của hắn
cũng có vườn đấy chính là lối nhỏ đi ra sông của mọi người trong làng. Thế
nhưng, từ khi cái túp lều của hắn dựng lên thì chẳng còn ai đi qua lối ấy nữa mà
tìm một đường xa hơn. Như vậy, rõ ràng không gian sống của Chí Phèo bị tách
biệt khỏi mọi người trong làng, hắn bị cô lập. Có lúc trong cái không gian ấy
thiên nhiên trở nên âm u khác lạ tạo cảm giác rờn rợn “những bóng chuối đen
đen như những cái áo nhuộm vắt tung trên bãi” phải chăng nó lạnh lẽo bởi
thiếu vắng đi sự sống của con người. Thế nhưng, cũng có lúc cái bãi sông nhà
76
hắn cũng đẹp lạ lùng “trăng tỏa trên sông và gợn biết bao nhiêu gợn vàng”.
Giữa khung cảnh thiên nhiên ấy, một tình yêu đã nảy nở, nhưng trớ trêu thay,
nó không giống như những mối tình của các nam thanh nữ tú như trong văn của
Tự lực văn đoàn, nó lại là cuộc gặp gỡ của một đôi trai gái khốn khổ, những
con người bị cả xã hội xa lánh, hắt hủi. Rời xa không gian bên bờ sông của anh
Chí, chúng ta cùng đến với ngôi nhà của Phúc (Điếu văn) , một không gian chật
hẹp, ẩm thấp đầy mùi bệnh tật. Và điều này hoàn toàn phù hợp với cái chết của
anh. Trong không gian ấy, con người không thể tồn tại, thứ có thể sinh sôi nảy
nở ở đây chỉ còn là đám ruồi.
Không gian cá nhân lúc này bị dồn nén tới mức ngột ngạt thường xuất
hiện cùng với sự cô đơn của nhân vật đã tạo điều kiện thuận lợi cho nó bộc lộ
cái bản tính cốt yêu nhất của mình như một con người giàu suy tưởng. dưới
những mái nhà tranh, nhân vật của Nam Cao thường miên man trong những lo
toan, suy nghĩ, độc thoại nội tâm triền miên, âm thầm chua chát. Nhiều nhân
vật cứ nằm ngay trên giường mà suy nghĩ. Đó là Phúc (Điếu văn) nằm ngay
trên giường nhìn ra không gian bên ngoài mà thổn thức “Bên ngoài trời rất
đẹp. Nắng tưng bừng…Ôi chao! Đời vui quá! Muôn loài sống mạnh mẽ và sung
sướng” để rồi xót xa, chua chát cho số phận hẩm hiu của mình. Đến với Chí
Phèo, một người lúc nào cũng chìm ngập trong men rượu thì sau cái đêm gặp
Thị Nở lần đầu tiên Chí tỉnh táo, lần đầu tiên Chí cảm nhận cuộc sống bên
ngoài “Mặt trời đã cao ,và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ. Cứ nghe chim ríu rít
bên ngoài là đủ biết”. Để rồi hắn cũng “bâng khuâng” cũng trăn trở về cuộc
sống của mình rồi khẽ thở dài “Chao ôi là buồn”. Có thể nói, không gian nhà
ở, căn buồng là không gian chủ yếu để các nhân vật của Nam Cao suy tưởng
qua các hình thức đối thoại, độc thoại nội tâm, thậm chí cả dòng ý thức.
Nam Cao đã sử dụng linh hoạt các yếu tố về không gian và thời gian
trong truyện ngắn của mình. Không gian và thời gian nghệ thuật ở đây được mở
ra nhiều chiều nhờ những hồi tưởng, những chiêm nghiệm của nhân vật. Câu
77
chuyện về cuộc đời một nhân vật có thể từ hiện tại đến quá khứ rồi tương lai
thậm chí có khi xáo trộn cả không gian và thời gian. Điều này làm nên những
nét riêng của Nam Cao, mỗi truyện ngắn là một sự khám phá mới mẻ.
78
Tiểu kết chương 3
Với bút pháp hiện thực đặc sắc, Nam Cao đã xây dựng cho mình một
phong cách nghệ thuật riêng, không lặp lại những Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất
Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Tô Hoài…là những người đến trước ông
hoặc cùng thời với ông. Cùng viết về làng quê nhưng ở Nam Cao không có sự
trùng lặp với những cây bút đi trước. Bằng tài năng, sự sắc sảo và nhạy bén của
mình ông đã để lại cho chúng ta những trang viết giá trị và một phong cách độc
đáo, ngày càng tỏ rõ sức hấp dẫn kì lạ.
Mỗi một nhà văn có một hoàn cảnh riêng, một thế giới tinh thần riêng ,
có những tâm tư, ước vọng và một cái tạng riêng, những yếu tố ấy chi phối và
làm nên phong cách. Nhưng yếu tố chi phối trực tiếp là bút pháp vì bút pháp
thể hiện quan điểm của nhà văn, quy tụ tất cả năng lực tinh thần của nhà văn để
làm nên tác phẩm.
Thật khó có thể dùng một từ để xác định được phong cách nghệ thuật
của Nam Cao bởi vì những sắc thái phong cách của ông khá phong phú, thể
hiện ở nhiều bình diện. Nam Cao có một kiểu ngôn ngữ riêng, một kiểu
sáng tạo nghệ thuật riêng và những nét riêng của một cá tính sáng tạo. Tất
cả hòa trộn vào nhau, cùng bộc lộ, thống nhất nhưng là trong vận động.
Chính điều này đã đưa Nam Cao lên vị trí hàng đầu trong dòng hiện thực
Việt Nam trong giai đoạn cuối (1941 – 1945).
79
KẾT LUẬN
1. Ngày nay trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước theo hướng
Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa, đi đôi với đó là xây dựng một nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong khi đó, văn hóa Việt Nam chủ yếu
được bảo tồn và hình thành ở nông thôn, nói đúng hơn, đây chính là điểm phát
sinh của loại hình văn hóa và là nơi bảo tồn những giá trị văn hóa. Trong sự
phát triển của đời sống xã hội ngày nay, có nhiều loại hình văn hóa cổ xưa đã bị
biến mất trong cuộc sống hiện đại thì những vùng quê là nơi chúng ta có thể
tìm và nhận diện lại những nét văn hóa đã mất ấy.
2. Văn học những năm 1930 - 1945 phát triển trong bối cảnh xã hội có
nhiều biến đổi phức tạp, có sự du nhập của các yếu tố ngoại lai, Tây học đã chi
phối đến khuynh hướng sáng tác của các nhà văn đương thời đặc biệt là nhóm
Tự lực văn đoàn và trào lưu hiện thực. Nam Cao là nhà văn lớn của nền văn
học Việt Nam hiện đại, là người đưa chủ hiện thực lên đỉnh cao và kết thúc
trong vẻ vang. Qua các tác phẩm của mình Nam Cao đã tái hiện lại hiện thực
của xã hội Việt Nam qua hai mảng đề tài: người trí thức và người nông dân.
Đặc biệt khi viết về người nông dân ông đã có cái nhìn sâu sắc, đa diện cùng
nét văn hóa vốn có ở nông thôn.
Dưới góc nhìn văn hóa, chúng tôi thấy các tác phẩm của Nam Cao không
chỉ đơn thuần là sự phản ánh hiện thực mà trong đó còn ẩn chứa những giá trị
văn hóa truyền thống lâu đời nơi thôn quê. Đó có thể là những nét đẹp, những
hình ảnh đã trở thành một tín hiệu văn hóa, một yếu tố bất di bất dịch trong văn
hóa nông thôn như cây đa, giếng nước, mái đình. Bên cạnh đó, ông cũng thẳng
80
thắn nhìn nhận những mặt hạn chế trong văn hóa nông thôn đặc biệt là trong
không gian và mối quan hệ giữa con người với con người ở nông thôn. Không
gian tù túng chật hẹp là nguyên nhân chính kìm hãm sự phát triển của kinh tế,
đồng thời nó cũng lý giải cho những thói hư, tật xấu của người Việt. Tuy nhiên,
cũng không thể nào phủ định những điều tốt đẹp chỉ tồn tại ở nông thôn, đó là
tình người, là tình làng nghĩa xóm, là tình cảm anh em ruột thịt, tình vợ chồng
thủy chung son sắt… Nhìn chung, trong các sáng tác của mình Nam Cao đã cho
ta nhận dạng một mô hình văn hóa truyền thống của dân tộc với cả hai mặt tích
cực và tiêu cực. Qua đó, chúng ta có thêm một lí do sâu xa nữa để lí giải bi kịch
vật chất và tinh thần của con người Việt Nam trong xã hội thực dân phong kiến.
Về nghệ thuật, Nam Cao đã xây dựng thành công không gian và thời
gian nghệ thuật để làm nổi bật lên bức tranh làng quê Việt Nam trước Cách
mạng tháng Tám. Đặc biệt, việc miêu tả tâm lí nhân vật cùng với những chi tiết
nghệ thuật độc đáo ông đã xây dựng được những hình tượng nhân vật bất tử
trước thời gian. Với ngòi bút sinh động, Nam Cao đã dựng lại nhiều bức tranh
chân thực của cả làng quê đang vật vã trong cơn đau đớn của một thời kì lịch sử
tàn khốc. Đồng thời, ông cũng gióng lên một hồi chuông kêu cứu: hãy giữ lấy
truyền thống tốt đẹp của quê hương và những phong tục tập quán lành mạnh từ
lâu đời đang dần bị tàn phá. Và xót xa hơn cả là tiếng kêu cứu hãy giữ lấy nhân
phẩm cao đẹp của những người lao động đang bị đe dọa đổ vỡ.
3. Cuộc sống của làng quê Việt Nam luôn có sự đan xen giữa ánh sáng
và bóng tối. Xét về mặt đời sống cộng đồng, đời sống cá nhân chính việc duy
trì những thuần phong mĩ tục, những yếu tố thể hiện được những đạo lý tốt đẹp
của dân tộc như tinh thần tương thân tương ái, sự quan tâm giữa con người
81
trong gia đình, giữa con người xã hội với nhau…và mạnh dạn giúp người nông
dân loại bỏ đi những hủ tục lạc hâu chi phối đời sống …là những việc làm thiết
thực góp phần phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam trên con đường hội nhập.
Quan trọng thông qua việc tìm hiểu các dấu ấn văn hóa trong tác phẩm của một
nhà văn , chúng tôi đi đến khẳng định sự đóng góp có giá trị của một tác giả
văn học tiêu biểu, hàng đầu của trào lưu văn học hiện thực đối với nền văn hóa,
lịch sử của nước ta - nhà văn Nam Cao.
82
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thái An (1992), Lão Bá Kiến quả là cao tay,báo Giáo dục và thời đại.
2. Vũ Bằng (1969), Nam Cao nhà văn không biết khóc, Văn học Sài Gòn.
3. Hoàng Cao (1994), Viết thêm về Chí Phèo, đặc san Văn nghệ.
4. Nguyễn Minh Châu (1994), Trang giấy trước đèn, NXB Khoa học xã hội.
5. Nguyễn Đức Dân (1991), Thử đọc Chí Phèo, Kiến thức ngày nay, Tp Hồ
Chí Minh.
6. Phan Huy Dũng (1992), Bàn thêm về ý nghĩa thẩm mĩ của cái gọi là yếu tố
tự nhiên chủ nghĩa trong tác phẩm Nam Cao, Nxb Hội Nhà văn.
7. Hà Minh Đức (1961), Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc, Nxb Văn hóa.
8. Hà Minh Đức (1983), Nhà văn Việt Nam (1945 – 1975),Nxb Đại học và
trung học chuyên nghiệp.
9. Hà Minh Đức (1988), Những cánh hoa tàn, Nxb Tác phẩm mới.
10. Hà Minh Đức (1997), Nam Cao đời văn và tác phẩm, Nxb Văn học.
11. Hà Minh Đức (biên soạn 2002), Nam Cao Toàn tập I, Nxb Văn học.
12. Hà Minh Đức (biên soạn 2002 ), Nam Cao Toàn tập II, Nxb Văn học.
13. Hải Hà (1995), Đi tìm tung tích Chí Phèo, Tạp chí Trung học phổ thông,
Khoa học xã hội, số 3.
14. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2006), Từ
điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.
15. Nguyễn Đức Hạnh (1998 - 2003), Giáo trình thi pháp, Nxb. ĐH Thái Nguyên.
16. Nguyễn Văn Hạnh (1993) Nam Cao - Một đời người, một đời văn, Nxb
Giáo dục.
17. Trần Ngọc Hiến (1995), Ai là mẹ Chí Phèo, Tạp chí Trung học phổ thông,
Khoa học xã hội, số 6.
18. Tô Hoài (1991) Những kỉ niệm về Nam Cao, báo Văn nghệ.
19. Lê Thị Liên Hoan (1998), Phỏng vấn Chí Phèo, Văn nghệ Trẻ, số 13.
83
20. Đỗ Kim Hồi (1990), Chí Phèo của Nam Cao, Tạp chí Văn học.
21. Nguyễn Thị Huấn (1997), Với Chí Phèo, Nam Cao đã thể hiện lòng nhân
ái như thế nào?, Văn học và Tuổi trẻ, tập 16.
22. Nguyễn Hoành Khung (1998), Đọc “Nam Cao- Phác thảo sự nghiệp và
chân dung”, Tạp chí Văn học, số 3.
23. Kim Lân (1977), Tôi là nhân vật của anh, trong Tuyển tập Kim Lân, NXB
Văn học.
24. Phong Lê (1968), Sống mòn và tâm sự của Nam Cao, Tạp chí Văn học,
số 9.
25. Phong Lê (1985), Nam Cao trong Nhà văn Hà Nam Ninh, Hội Văn học
nghệ thuật Hà Nam Ninh.
26. Phong Lê (1987), Cấu trúc và ngôn ngữ truyện ngắn Nam Cao, Tạp chí
Văn nghệ quân đội
27. Phong Lê (1994), Chân dung gốc Chí Phèo, Tạp chí Văn học và tuổi trẻ,
số 3.
28. Phong Lê (1998), Văn học trên hành trình của thế kỉ XX, Nxb Đại học
quốc gia.
29. Phong Lê (2014), Nam Cao sự nghiệp và chân dung, Nxb Thông tin và
truyền thông.
30. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên, 2008), Ngữ Văn 11, tập 1, Nxb.GD.
31. Phương Lựu (Chủ biên, 2006), Lí luận văn học, Nxb.GD.
32. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Nhà văn tư tưởng và phong cách, NXB Văn
học.
33. Nguyễn Đăng Mạnh (1996) Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà
văn, Nxb Giáo dục.
34. Mkhitarian (1963), Nam Cao - lời tựa tập truyện “Đợi Chờ”, NXB Văn
học nghệ thuật.
84
35. Lê Hồng My (2015) Chuyên đề Ngôn ngữ nghệ thuật trong văn học Việt
Nam hiện đại, ĐHTN.
36. Vũ Tú Nam (1991), Tôi đã được Nam Cao khuyên bảo về nghề, Tạp chí
Tác phẩm mới, số 11.
37. Vương Trí Nhàn (1993), Những kiếp hoa dại, Nxb Hội Nhà văn.
38. Nguyễn Tri Niên (1992), Chí Phèo tỉnh, Chí Phèo không say, Tạp chí Văn
học, số 1.
39. Nhiều tác giả (2001), Văn học Việt Nam 1900 - 1945, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
40. Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên, 2014), Ngữ Văn 8, tập 1, NXB Giáo dục
41. Phan Diễm Phương (1992), Ngôn ngữ người kể chuyện trong truyện ngắn
của Nam Cao, Tạp chí văn học.
42. Trương Văn Quang (1996), Lão Hạc, trong, Tiếng nói tri âm,tập II, NXB
Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
43. Vũ Dương Quý (1991) Tìm thêm lời giải đáp cho một câu hỏi của Chí
Phèo, báo Văn nghệ.
44. Đặng Đức Siêu (2006), Sổ tay văn hóa Việt Nam, NXB Lao động.
45. Trần Đình Sử (Chủ biên, 2007), Giáo trình Lí luận văn học, tập II - Tác
phẩm và Thể loại văn học, Nxb. ĐHSP.
46. Nhất Thanh(Vũ Văn Khiếu)(2001), Đất lề quê thói, NXB Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
47. Trần Ngọc Thêm (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục.
48. Nguyễn Đình Thi (1956), Nam Cao, trong Mấy vấn đề về văn học, NXB
Văn nghệ.
49. Hoàng Trung Thông,(1987), Một lần gặp Nam Cao, báo Người Hà Nội
50. Bích Thu (biên soạn 1998) Nam Cao Về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục.
51. Đỗ Lai Thúy (2006),Mối quan hệ văn hóa - văn học nhìn từ lí thuyết
hệ thống.
85
52. Hoàng Tiến (1991), Ngôn ngữ Nam Cao, báo Nhân dân chủ nhật.
53. Hà Bình Trị (1996), Nam Cao Nghĩ về nghề văn, Tạp chí Văn nghệ
quân đội.
54. Hà Bình Trị, Một tác phẩm đặc sắc của Nam Cao chưa được chú
ý:Truyện người hàng xóm.
55. Lê Dục Tú (1992), Thị Nở xấu hay đẹp?, Tạp chí Khoa học về phụ nữ, số
12.
56. Phan Văn Tường (1996), Thêm tư liệu về nhà văn Nam Cao, Tạp chí Văn
học và Tuổi trẻ, tập 12.
57. Trần Quang Vinh (1992), Chuyện nghèo nhưng không hèn của nhà giáo
Nam Cao, Tạp chí Văn học, số 5.
58. Trần Đăng Xuyền (1991), Nam Cao và những vấn đề của cuộc sống hôm
nay, báo Văn nghệ.
59. Trần Đăng Xuyền (1991), Thời gian và không gian trong thế giới nghệ
thuật của Nam Cao, Tạp chí Văn học.
60. Zimonia.I (1963), Tuyển Nam Cao, Nguyên Hồng, NXB Văn học nghệ
thuật.