ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

CAO THỊ THU HẰNG

TRUYỆN NGẮN NAM CAO

TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA NÔNG THÔN

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2016

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

CAO THỊ THU HẰNG

TRUYỆN NGẮN NAM CAO

TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA NÔNG THÔN

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: GS. Phong Lê

THÁI NGUYÊN - 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn này là do tôi viết. Mọi số liệu, tư liệu cũng

như kết quả nghiên cứu là của riêng tôi.

Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Hà Nam, ngày 5 tháng 4 năm 2016

Tác giả luận văn

Cao Thị Thu Hằng

Xác nhận của khoa chuyên môn Xác nhận của giáo viên hướng dẫn

GS. Phong Lê

i

LỜI CẢM ƠN

Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn tới

GS. Phong Lê - người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình tìm hiểu,

nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.

Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy cô, giáo

trường Đại học sư phạm Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong

suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.

Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến bạn bè, đồng nghiệp và người thân

đã giúp đỡ tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian học tập và

thực hiện luận văn.

Hà Nam, ngày 5 tháng 4 năm 2016

Tác giả luận văn

Cao Thị Thu Hằng

ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................ i

LỜI CẢM ƠN .................................................................................................... ii

MỤC LỤC ......................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1

2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2

3. Phạm vi nghiên cứu ......................................................................................... 4

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 5

4.1 Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 5

5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 5

Chương 1 ............................................................................................................ 8

CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI ....................................................................... 8

1.1. Nông thôn Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa................................................ 8

1.1.1. Khái niệm về “văn hóa” và “văn hóa nông thôn” ..................................... 8

1.2. Khái quát về văn hóa nông thôn Việt Nam đầu thế kỉ XX ......................... 13

1.3. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học ........................................................ 14

Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 19

Chương 2 .......................................................................................................... 20

DẤU ẤN VĂN HÓA NÔNG THÔN TRONG NỘI DUNG TRUYỆN NGẮN NAM CAO ........................................................................................... 20

2.1. Nông thôn và người nông dân trong truyện ngắn Nam Cao ...................... 20

2.1.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp Nam Cao ............................................ 20

2.1.2. Đề tài nông thôn và người nông dân trong truyện ngắn Nam Cao ......... 22

2.2. Phong tục tập quán ..................................................................................... 24

2.2.1. Tục hôn nhân ........................................................................................... 24

2.2.2. Tục tang ma ............................................................................................. 28

2.3. Trật tự nông thôn ........................................................................................ 30

iii

2.4. Tập tục sinh hoạt ......................................................................................... 35

2.4.1. Thói quen ăn uống. .................................................................................. 35

2.4.2. Trang phục và ngành nghề truyền thống. ................................................ 38

2.4.3. Xây dựng nhà ở........................................................................................ 41

2.5 Giao tiếp và ứng xử ..................................................................................... 43

2.5.1 Lối sống đậm tình nghĩa cùng những thói xấu của người nông dân. ....... 43

2.5.2. Sự tế nhị, ý tứ trong giao tiếp .................................................................. 50

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 80

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 83

iv

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Nam Cao là một nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại, có

một vị trí đặc biệt quan trọng trên văn đàn Việt Nam trước 1945, Gần một thế

kỉ trôi qua cho đến hôm nay tác phẩm của ông vẫn còn nguyên giá trị, vẫn thu

hút bạn đọc và các nhà nghiên cứu.

Năm 2015 cũng chính là năm kỉ niệm 100 năm ngày sinh Nam Cao, vẫn

tiếp tục khẳng định tiếng nói của Nam Cao trong nền văn học Việt Nam. 100

năm qua đi, người ta vẫn nhớ, vẫn nhắc đến Nam Cao, những trang viết của

ông vẫn còn nguyên giá trị hiện thực cho đến ngày nay. 100 năm thử thách

trong dư luận, Chí Phèo vẫn tồn tại, chất “Chí Phèo” vẫn còn có nghĩa là tính

thời sự của trang văn Nam Cao vẫn còn.Có lẽ, không một ai không biết đến Chí

Phèo, không biết đến Bá Kiến, những con người ấy không chỉ tồn tại trên trang

viết của Nam Cao mà đó chính là những nguyên mẫu ngoài đời. Sau Cách

mạng, người ta vẫn cứ nghĩ rằng, Chí Phèo đã chết, nhưng hoàn toàn không

phải vậy, hắn vẫn khật khưỡng bước từ trang văn của Nam Cao ra đời thực. Cái

làng quê Việt Nam hiện đại đâu thiếu những tên Chí Phèo, đâu vắng bóng

những Bá Kiến. Không chỉ có vậy, những phong tục ở làng quê vẫn còn đó,

những đám cưới, ma chay rồi những thói quen sinh hoạt, nếp sống từ bao đời

nay vẫn hiện hữu.

Không chỉ dừng lại ở những yếu tố phong tục, tập quán như một số nhà

văn khác, Nam Cao đi sâu vào những yếu tố văn hóa đã ăn sâu vào tâm thức

người Việt và kết hợp nó với sự biến động dữ dội của xã hội hiện đại mà khái

quát nên bi kịch của con người. Để khám phá toàn diện vấn đề này chúng ta

không chỉ đặt nó trong hoàn cảnh xã hội đương thời mà cần nhìn nhận qua lăng

kính của văn hóa nông thôn. Các công trình nghiên cứu về Nam Cao rất nhiều,

1

tuy nhiên dưới góc độ về văn hóa thì chưa có được sự nhìn nhận, đánh giá một

cách toàn diện.

Tìm hiểu truyện ngắn Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám từ góc độ

văn hóa sẽ giúp cho việc giảng dạy các tác phẩm của ông ở các cấp học được

sâu sắc hơn.

Một yếu tố thuộc về phía cá nhân khi chọn Nam Cao để nghiên cứu là

bởi tôi có vinh dự là người cùng chung quê hương với nhà văn. Sinh ra và lớn

lên ở Hà Nam, một mảnh đất đồng chiêm trũng, quanh năm ngập úng, tôi hiểu

được cái đói,cái nghèo, cuộc sống quẩn quanh lam lũ của con người quê tôi và

đặc biệt là văn hóa nông thôn đồng bằng Bắc Bộ còn nhiều điều phải bàn. Nhắc

đến Hà Nam có lẽ điều khiến người ta nhớ nhất chính là Nam Cao, tôi tự hào,

tôi hãnh diện vì điều đó.

Chọn “Truyện ngắn Nam Cao, từ góc nhìn văn hóa nông thôn”làm đề tài

nghiên cứu,chúng tôi mong muốn đem đến một cái nhìn hệ thống và toàn diện

về con người và sự nghiệp của Nam Cao, trên cơ sở đó khẳng định vị trí và

đóng góp của ông trong nền văn học hiện đại Việt Nam.

2. Lịch sử vấn đề

Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về sáng tác của nhà văn Nam

Cao từ giọng điệu, nhân vật, phong cách cho đến chất hài…và hầu như tất

cả đều xoáy sâu vào hoàn cảnh đương thời để lí giải tấn bi kịch của người

nông dân trước Cách mạng tháng Tám thế nhưng còn ít người chú ý đến

việc đặt tác phẩm trong không gian văn hóa nông thôn. Trong khi, theo

chúng tôi thì đây là một chiếc chìa khóa để khám phá chiều sâu tác phẩm của

Nam Cao.

Trong một số bài nghiên cứu về đề tài người nông dân trong sáng tác của

Nam Cao, các tác giả tuy đã ít nhiều đề cập tới yếu tố văn hóa nông thôn nhưng

lại chưa nhấn mạnh đến yếu tố này. Có chăng các tác giả chỉ nhắc đến một vài

yếu tố và vai trò của nó trong từng tác phẩm chứ chưa khái quát một cách toàn

2

diện. Trong bài viết Thứ nhất sợ kẻ anh hùng (đi tìm ẩn số nghệ thuật truyện

(Chí Phèo), tác giả Đỗ Lai Thúy cũng đã đề cấp đến tính chất đóng kín của cấu

trúc nông thôn Việt Nam và phân tích kĩ tác động của nó tới tâm thức nhân vật:

“… Tính chất đóng kín là một hằng số nghệ thuật của truyện ngắn này. Nó

chẳng những đổ bóng vào không gian và thời gian truyện, hằn dấu trên số

phận các nhân vật, mà còn khớp đúng với thực tiễn của làng xã Việt Nam, nhất

là ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ trước Cách mạng tháng Tám năm bốn

nhăm.” [51, tr.218]. Tuy nhiên ở đây, tác giả mới chỉ dừng lại ở vài nét tâm lí

của người nông dân trong tác phẩm Chí Phèo như tâm lí hám danh, an phận, sự

nhận thức về cái tôi…

Trong bài viết Các mối quan hệ xã hội trong làng Vũ Đại, tác giả Đức

Mậu cũng có đề cập đến không gian nông thôn khép kín và các mối quan hệ

cạnh tranh của nó: “Từ con người, tính cách, địa vị xã hội, đời sống vật chất

tinh thần cùng các mối quan hệ giữa những con người ấy là sản phẩm của cái

làng đóng kín vùng đồng bằng Bắc Bộ”. [50, tr.245]. Tác giả cũng tập trung thể

hiện quan hệ thống trị - bị trị của Bá Kiến với Chí Phèo, quan hệ tranh chấp

giữa Bá Kiến và Đội Tảo nhưng chưa có sự khái quát các mối quan hệ này.

Giáo sư Phong Lê khi viết về những dị dạng của nông thôn Việt Nam

trong truyện ngắn Nam Cao cũng nhấn mạnh : “Những con người dị dạng bẩm

sinh hoặc do hoản cảnh, ta thường thấy ở nông thôn, như một hiện tượng dị

biệt, lại như bổ sung để tô đậm thêm cảnh sống mù xám, trì độn và kinh rợn

của nó, đến trực tiếptừ sự bần cùng, hoặc sự lưu cữu và hậu quả của những

thói hủ tục lạc hậu” (Nam Cao - văn và đời,Lời giới thiệu Tuyển tập Nam Cao,

Nxb Văn học, Hà Nội 1987). Trong bài viết Nam Cao nhìn từ cuối thế kỉ, tác

giả Phong Lê cũng có viết: “Vũ Đại - không chỉ gợi một đơn vị làng với những

ao chuôm, những lũy tre, những vườn chuối, giàn trầu quen thuộc mà còn là sự

biểu hiện chung cho sự phong bế, trì trệ, nhếch nhác của bất cứ một quần thể

cư dân nào, cả nông thôn và thành thị.” [39, tr.116]. Như vậy, tác giả bài viết

3

đã có lưu ý đến sự khép kín, lạc hậu của nông thôn Việt Nam. Nó tạo nên

những mẫu người dị biệt sau lũy tre làng.

Tác giả Hà Minh Đức trong bài viết Tầm quan trọng của hoàn cảnh

trong tác phẩm của Nam Cao cũng cho thấy sự xung đột của không gian làng

xã với văn minh thành thị : “Thứ trong “Sống mòn” là một nhân vật mà hành

trình đi khá xa từ làng quê đến những thành phố xa xôi như sài Gòn, rồi Hà

Nội và cuối cùng lại bị thành thị khước từ để ném trở về quê” [50, tr.88].

Gần đây là công trình Làng quê Việt Nam trong văn xuôi hiện thực trước

1945 của Nguyễn Kim Hồng. Trong khi khảo sát một mảng rộng của văn học

Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám ở những nhà văn như Ngô Tất Tố, Tô

Hoài…tác giả đã nhấn mạnh đến yếu tố văn hóa là phong tục, tập quán. Tuy

nhiên với Nam Cao thì ông mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu tâm lí những

kiếp lầm than của người nông thôn, nêu lên số phận của con người làng quê

chịu tác động của hoàn cảnh xã hội đương thời mà chưa nhấn mạnh đến những

nét tâm lí ở tầng sâu văn hóa của con người nông thôn. Nói chung, công trình

mới khái quát được chiều rộng làng quê Việt Nam trong sáng tác trước 1945

còn chiều sâu văn hóa vẫn bỏ ngỏ.

Qua các công trình nghiên cứu kể trên, chúng tôi thấy việc tìm hiểu các

tác phẩm của Nam Cao dưới góc nhìn văn hóa nông thôn còn chưa thật thấu

đáo. Các tác giả mới chỉ dừng ở mức độ khái quát qua một vài dấu hiệu của văn

hóa nông thôn và cũng chưa làm rõ sự tác động của nó đến đời sống con người.

Chọn đề tài này, chúng tôi mong muốn có một cách tiếp nhận toàn diện hơn,

đầy đủ hơn với các sáng tác của Nam Cao qua góc nhìn văn hóa.

3. Phạm vi nghiên cứu

4

Nghiên cứu Truyện ngắn Nam Cao từ góc nhìn văn hóa nông thôn luận

văn chủ yếu tập trung khảo sát các truyện ngắn viết về đề tài người nông dân

của Nam Cao trước 1945.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1 Mục đích nghiên cứu

Trong luận văn này chúng tôi nghiên cứu những yếu tố văn hóa có trong

sáng tác của Nam Cao qua thể loại truyện ngắn. Đặc biệt tìm hiểu về những nét

đẹp văn hóa cũng như những hủ tục lạc hậu nơi làng quê để từ đó thấy những

sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nam Cao góp phần làm sáng rõ sức sống văn

chương ông. Trên cơ sở đó, chúng tôi hi vọng có thể góp một phần nhỏ bé vào

việc nghiên cứu truyện ngắn Nam Cao, khẳng định những giá trị đích thực,

những cống hiến to lớn của ông cho nền văn xuôi hiện đại Việt Nam.

4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn tập trung làm rõ giá trị của truyện ngắn Nam Cao từ phương

diện văn hoá nông thôn trên các phương diện về nội dung và nghệ thuật, từ đó

đưa ra được hướng tiếp cận mới cho các sáng tác của Nam Cao đồng thời thấy

được những đóng góp của Nam Cao cho văn xuôi hiện đại Việt Nam giai đoạn

1930 – 1945.

5. Phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp hệ thống

Luận văn nghiên cứu về truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn văn hóa

nên phải xuất phát từ từng tác phẩm, khảo sát mối quan hệ giữa các yếu tố

trong một chỉnh thể nghệ thuật. Vì vậy, việc sử dụng phương pháp hệ thống sẽ

giúp cho người nghiên cứu tránh được nguy cơ nhận biết thiếu tính khái quát,

chỉ thấy được cái bề ngoài không thấy được bản chất vấn đề.

5

5.2. Phương pháp nghiên cứu liên ngành

Kết hợp kiến thức từ các lĩnh vực, các bộ môn, chuyên ngành có liên

quan sẽ giúp cho vấn đề nghiên cứu được sâu rộng, toàn diện và sâu sắc hơn.

5.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu

Sử dụng phương pháp này để so sánh với một số truyện ngắn, tiểu thuyết

của các nhà văn cùng thời để làm rõ những vấn đề cần giải quyết. Đồng thời

qua đó để nhận diện và khẳng định phong cách nghệ thuật của Nam Cao

5.4 Phương pháp phân tích tổng hợp

Các phương pháp trên sẽ được kết hợp sử dụng linh hoạt trong quá trình

nghiên cứu để làm sáng rõ vấn đề.

6. Những đóng góp của luận văn.

- Tìm hiểu một cách có hệ thống về những yếu tố văn hoá nông thôn

trong truyện ngắn Nam Cao thông qua nội dụng và nghệ thuật của các tác

phẩm.

- Làm rõ được tài năng, sáng tạo của Nam Cao khi đưa những yếu tố văn

hoá vào các sáng tác của mình.

7. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn được triển khai

gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lí luận của đề tài

Nghiên cứu truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn văn hóa chúng tôi bắt

đầu với việc xác định các khái niệm nội hàm : Văn hóa, đặc trưng của văn hóa

nông thôn Việt Nam.

Chương 2: Dấu ấn văn hóa nông thôn trong nội dung truyện ngắn Nam

Cao

6

Trong chương này chúng tôi đề cập đến các vấn đề thuộc về nội hàm văn

hóa trong truyện ngắn Nam Cao như phong tục tập quán, cách tổ chức xã

hội…Qua đó để thấy được những nét đẹp, thuần phong mĩ tục cũng như những

hạn chế của các hủ tục lạc hậu đang đè nặng lên vai người nông dân. Đó là

những biểu hiện cụ thể của văn hóa ở nông thôn trong phạm vi hiện thực được

phản ánh.

Chương 3: Dấu ấn văn hoá nông thôn trong nghệ thuật truyện ngắn Nam

Cao

Nói đến truyện ngắn Nam Cao, ngoài yếu tố thuộc về nội dung thì không

thể không nói đến nghệ thuật trong truyện ngắn của ông. Những nét đặc sắc

nghệ thuật đã làm nên một nét rất riêng, rất Nam Cao.

7

Chương 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Nông thôn Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa

1.1.1. Khái niệm về “văn hóa” và “văn hóa nông thôn”

Thế khỉ XXI, thế kỉ của sự hội nhập và phát triển về mọi mặt, sự đổi thay

khiến con người ta thấy bất ngờ. Và trong sự vui mừng đón nhận nhịp điệu của

cuộc sống mới, chúng ta vẫn luôn chạnh lòng khi những giá trị thuộc về văn

hóa truyền thống đang dần bị mai một, đang dần bị lãng quên trong thế hệ trẻ

mà sự ảnh hưởng của nó không chỉ ở các thành phố lớn, nó đang len lỏi vào sâu

từng ngóc ngách ở nơi làng quê xưa vốn thanh bình. Cũng chính bởi vậy mà

khái niệm về “văn hóa” được nhắc đến nhiều hơn.

“Văn hóa” vốn không còn là khái niệm xa lạ nhưng nó được biết nhiều

hơn, được phổ biến rộng rãi hơn trong thế kỉ này. Có rất nhiều định nghĩa về

“văn hóa” được các nhà nghiên cứu đưa ra, mỗi định nghĩa đều đề cập đến

những khía cạnh, những đặc trưng của văn hóa. UNESSCO đã đưa ra một khái

niệm về văn hóa: “Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát và mọi

mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và cả cộng đồng) đã diễn ra trong quá

khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỉ, nó đã cấu thành

một hệ thống các giá trị, truyền thống thẩm mĩ và lối sống mà dựa trên đó từng

dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình”.

GS. Viện sĩ Trần Ngọc Thêm trong cuốn Cơ sở Văn hóa Việt Nam cũng

đưa ra nhận định của mình về “văn hóa”, theo ông “văn hóa là một hệ thống

hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua

quá trình hoạt động thực tiễn , trong sự tương tác giữa con người với môi

trường tự nhiên và xã hội”. Cũng theo đó Edouard Herriot, Viện sĩ Viện Hàn

lâm Pháp đã có câu nói bất hủ “Văn hóa là cái còn lại khi người ta đã quên đi

tất cả, là cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cả” [47, tr.i].

8

Có thể thấy rằng, trong quá trình phát triển của loài người, của một

quốc gia, văn hóa có một vị trí vô cùng quan trọng, là yếu tố sống còn.

Nhận thức được điều này, cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói “văn

hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức

sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam vượt qua biết bao sóng

gió và thác ghềnh tưởng chừng không thể vượt qua được, để không ngừng

phát triển và lớn mạnh” [47, tr.i]

Từ những nhận định của các nhà nghiên cứu có thể thấy : Văn hóa là một

hiện tượng khách quan, là sự tổng hòa của tất cả các mối quan hệ giữa con

người với môi trường xung quanh. Văn hóa tồn tại cả hữu thức và vô thức trong

mỗi con người.

Để hiểu về khái niệm “văn hóa nông thôn” trước hết chúng ta đi tìm

hiểu về khái niệm “nông thôn”

Nông: là chỉ nghề nông nghiệp.

Thôn: Là từ Hán Việt chỉ đơn vị hành chính cấp dưới xã, là một phần của

làng hoặc tương đương với một làng nhỏ.

Như vậy có thể thấy, nông thôn là khu vực hành chính mà ở đó cư dân

sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp, lấy sự phát triển nông nghiệp làm đầu.

Tuy nhiên cần phải lưu ý rằng, Việt Nam có nhiều vùng miền, nhiều dân tộc

khác nhau bởi vậy mà nông thôn ở từng vùng , từng miền lại có những đặc

điểm khác nhau. Ở đây, chúng tôi chỉ nghiên cứu nông thôn thuộc vùng đồng

bằng Bắc Bộ, vốn là vùng nông thôn với những đặc điểm tiêu biểu nhất, rất ổn

định và mang tính khái quát cao. Nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ mang

những đặc trưng văn hóa của người Việt, đây cũng là nơi mà các sáng tác của

Nam Cao tập trung hướng đến.

Qua đó có thể thấy, văn hóa nông thôn là tất cả những giá trị thuộc về

mặt vật chất cũng như tinh thần tồn tại trong không gian nông thôn , những giá

trị ấy được bảo lưu từ thế hệ này sang thế hệ khác.

9

1.1.2. Đặc trưng cơ bản của văn hóa nông thôn Việt Nam

1.1.2.1. Tính cộng đồng

Việc tổ chức nông thôn đồng thời theo nhiều nguyên tắc khác nhau tạo

nên tính cộng đồng. Tính cộng đồng là sự liên kết các thành viên trong làng lại

với nhau, mỗi người đều hướng tới những người khác - nó là đặc trưng dương

tính, hướng ngoại.

Biểu tượng truyền thống của tính cộng đồng là hình ảnh sân đình, bến

nước, cây đa. Làng nào cũng có một cái đình, đây chính là trung tâm văn hóa,

chính trị của cả làng. Đây là nơi diễn ra nhiều hoạt động quan trọng từ hội họp,

thu sưu thuế cho đến việc diễn ra các lễ hội văn hóa như diễn chèo, tuồng.

Không chỉ vậy, đình còn là trung tâm về mặt tôn giáo, nơi đây thờ Thành

Hoàng làng, bảo vệ cho cả làng. Chính vì giữ những vị trí quan trọng như vậy

mà hình ảnh mái đình còn chi phối tình cảm của những con người nông thôn.

Nhắc đến nông thôn, đặc biệt là những ai đi xa khi nhớ về quê hương của mình

họ thường nghĩ ngay đến mái đình chứ không phải ngôi nhà của mình:

Qua đình ngả nón trông đình

Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu.

Bên cạnh cái đình làng, hình ảnh cây đa, bến nước cũng là một biểu

tượng quen thuộc ở nông thôn. Nếu bến nước là nơi hàng ngày những người

phụ nữ giặt giũ, chuyện trò thì cây đa lại có quán nước, là nơi nghỉ chân của

những người đi làm đồng, những khách qua đường. Nơi đây họ trò chuyện,

giao lưu, gặp gỡ nhau để từ đó gắn kết hơn với mọi người trong làng và với cả

thế giới bên ngoài.

Do đặc trưng lối sống của nông thôn là tính tập thể, bởi vậy con

người nơi đây luôn đoàn kết gắn bó với nhau như anh em trong gia đình.

Trong quan hệ ứng xử giữa con người với nhau từ gia đình đến làng xóm

đều theo nguyên tắc trọng tình. Do quá trình sản xuất nông nghiệp đòi hỏi

con người phải sống gắn bó và lâu dài với nhau tạo ra một cuộc sống hòa

10

thuận trên cơ sở lấy tình nghĩa làm đầu. Cũng vì thế mà bên cạnh những

mặt tích cực từ lối sống này tạo nên thì nó cũng nảy sinh không ít những

tiêu cực. Lối sống trọng tình đã dẫn đến cách ứng xử hết sức linh hoạt và

thích ứng nhanh với điều kiện hoàn cảnh cụ thể:

Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài.

hay

Đi với bụt mặc áo cà sa

Đi với ma mặc áo giấy

Với nhu cầu sống hòa thuận trên cơ sở cái gốc là tình cảm giữa con

người với nhau trong làng xóm càng làm cho lối sống linh hoạt trở nên đậm nét

và chính là cơ sở của tâm lý hiếu hòa trong các mối quan hệ xã hội dựa trên sự

tôn trọng và cư xử bình đẳng với nhau. Lối sống linh hoạt, trọng tình, dân chủ

là những đặc điểm tích cực, nhưng mặt trái của nó là đặc điểm tâm lý áp đặt,

tuỳ tiện, tâm lý "hòa cả làng", coi thường phép nước: "Phép vua thua lệ làng".

Sức mạnh của tính cộng đồng còn thể hiện hiện ở tinh thần đùm bọc, yêu

thương nhau. Mọi người có trách nhiệm cưu mang, hỗ trợ nhau nhau về vật

chất, tinh thần và dìu dắt, làm chỗ dựa cho nhau về chính trị (Một người làm

quan cả họ được nhờ). Tuy nhiên, cũng vì sự đoàn kết gắn bó mà ý thức về cá

nhân bị thủ tiêu dẫn đến thói quen dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể, vào số đông đưa

đến tình trạng Cha chung không ai khóc là điều rất phổ biến. Cũng từ đó, một

nhược điểm của của người nông dân là tâm lý cào bằng, đố kỵ, không muốn

cho ai hơn mình (để cho tất cả mọi người đồng nhất, như nhau) - Xấu đều hơn

tốt lỏi.

Như vậy có thể thấy, tính cộng đồng trong lối sống của người Việt có rất

nhiều điểm tích cực. Chính đặc trưng văn hóa này đã tạo nên truyền thống tốt

đẹp, tương thân tương ái, đùm bọc lẫn nhau, đoàn kết để đấu tranh chống giặc

ngoại xâm. Tuy nhiên, cũng không thể không nói đến những tiêu cực do đặc

11

trưng này tạo ra vì vậy cần phải điều chỉnh lối sống sao cho phù hợp để giữ gìn

và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

1.1.2.2 Tính tự trị

Nông thôn Việt Nam với nét tiêu biểu là cấu trúc làng xã mà sản phẩm

đặc trưng chính là tính tự trị: làng nào biết làng ấy, các làng tồn tại khá biệt lập

với nhau và phần nào biệt lập với triều đình phong kiến. Chính điều này tạo nên

truyền thống Phép vua thua lệ làng. Đây là đặc trưng âm tính, hướng nội. Biểu

hiện rõ nhất của tính tự trị trong văn hóa nông thôn Việt Nam đó là hình ảnh

lũy tre. Lũy tre bao kín làng tạo một thành trì kiên cố bất khả xâm phạm.

Cũng giống như tính cộng đồng, tính tự trị cũng mang lại nhiều mặt tích

cực. Đầu tiên đó là tính tự lập, mỗi làng, mỗi tập thể phải tự lo liệu lấy mọi

việc. Bên cạnh đó, tính tự trị cũng tạo nên đức tính cần cù cho người nông dân

Việt Nam. Sở dĩ có điều này vì mỗi làng phải tự đáp ứng mọi nhu cầu cho cuộc

sống của làng mình. Mặt khác, vì tính tự trị này mà người nông dân Việt Nam

đã nảy sinh nhiều thói xấu. Mỗi người chỉ biết lo, biết giữ của riêng mình Ai có

thân người ấy lo, ai có bò người ấy giữ. Vì làng nào biết làng ấy nên đã nảy

sinh bè phái, địa phương cục bộ:

Ta về ta tắm ao ta

Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn

Một thói xấu nữa nảy sinh từ tính tự trị là óc gia trưởng tôn ti. Chính điều

này trở thành một vật cản đáng sợ cho sự phát triển của xã hội. Nó càng trở nên

nghiêm trọng hơn khi mà thói gia đình chủ nghĩa đang là một căn bệnh lan tràn.

Những người đàn ông đứng đầu gia đình thường tự mình quyết định mọi việc,

áp đặt tâm lý lên các thành viên khác, tạo nên những thứ bậc vô lý.

Đặc điểm môi trường sống đã quy định tính cách của con người Việt

Nam, đặc biệt là những người ở nông thôn khi cuộc sống gắn liền với nông

nghiệp lúa nước. Họ vừa có tinh thần đoàn kết tương trợ lại có óc tư hữu ích kỉ

và thói cào bằng. Vừa có tính tập thể hòa đồng lại vừa có óc gia trưởng tôn ti,

vừa có tinh thần tự lập lại vừa xem nhẹ vai trò cá nhân, vừa có tính cần cù và

12

nếp sống tự cấp tự túc vừa có thói dựa dẫm ỷ lại. Tất cả những cái tốt và cái

xấu ấy đều tồn tại thành từng cặp trong mỗi người; bởi lẽ nó bắt nguồn từ hai

đặc trưng trái ngược nhau là tính cộng đồng và tính tự trị. Tùy lúc tùy nơi mà

mặt tốt mặt xấu sẽ được phát huy; khi đứng trước những khó khăn lớn, những

nguy cơ đe dọa sự sống còn của cộng đồng thì mặt tích cực nổi lên sẽ là tinh

thần đoàn kết và tính tập thể; khi những nguy cơ ấy đi qua rồi thì thói tư hữu và

óc bè phái địa phương có thể nổi lên.

1.2. Khái quát về văn hóa nông thôn Việt Nam đầu thế kỉ XX

Bởi những đặc trưng của mình mà văn hóa nông thôn tương đối ổn định,

dù là mặt tích cực hay tiêu cực, nó đều được lưu giữ sau lũy tre làng mà ít có sự

biến động. Tuy nhiên, trong tiến trình lịch sử của dân tộc, có những giai đoạn

diễn ra những biến động dữ dội, điều này khiến cho văn hóa nông thôn không

tránh khỏi sự ảnh hưởng đó, nhiều giá trị văn hóa của vùng nông thôn gìn giữ

lâu đời bị thay đổi hoặc thậm chí bị mất đi. Nguyên nhân của sự biến động này

chính là quá trình xâm lược của thực dân Pháp vào nước ta kể từ nửa sau thế kỉ

XIX.

Đầu thế kỉ XX, khi thực dân Pháp hoàn thành quá trình xâm lược nước ta

chúng bắt tay vào công cuộc khai thác thuộc địa. Sự thay đổi về mặt cấu trúc

của nông thôn chính là hệ quả của công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân

Pháp. Pháp tích cực đầu tư vào nước ta để phục vụ cho mục đích bóc lột của

chúng, dưới sự tác động đó nhiều đô thị đã mọc lên kéo theo cả những hệ lụy

của nó. Bên cạnh việc được tiếp xúc với nền văn minh Châu Âu hiện đại thì

những lố lăng , những trò dởm trong xã hội cũng được hình thành. Nông thôn

là nơi ít chịu ảnh hưởng của cuộc khai thác song không phải là không có mà

khía cạnh đều tiên chịu ảnh hưởng đó chính là nền văn hóa truyền thống ở nông

thôn, nó tạo nên những biến đổi trong lối sống, trong tính cách và trong tâm

hồn con người Việt, những người nông dân xưa nay vốn thật thà chất phác.

13

Khi đô thị mở rộng và phát triển thì không gian nông thôn không còn là

một không gian khép kín sau lũy tre làng, không còn là cây đa, giếng nước, mái

đình mà thay vào đó người nông dân đã biết rộng hơn, biết xa hơn cái vùng quê

nơi mình ở. Họ được tiếp thu cả những văn minh lẫn cặn bã của xã hội thuộc

địa, bởi vậy mà quan niệm, cách nhìn của họ cũng thay đổi, làng quê không thể

trói buộc được họ nữa, họ đã bắt đầu có tư tưởng hướng ngoại. Khi mà văn

minh nơi đô thị tác động đến vùng nông thôn thì những giá trị văn hóa truyền

thống bị biến dạng ghê gớm, trở nên kì quái hơn bao giờ hết giữa sự giao thoa

của nông thôn và thành thị, của Châu Âu và Châu Á. Người nông dân trước kia

khi bị bần cùng, bị áp bức đến cùng cực thì họ cũng không dám nghĩ đến việc

rời khỏi lũy tre làng, nhưng bây giờ họ đã nghĩ đến việc “thoát li” đi ra thành

phố để kiếm sống. Sau lũy tre làng không còn là sự bình yên như thuở nào mà

thay vào đó là sự biến động dữ dội. Những người nông dân vốn hiền lành chất

phác, quanh năm chỉ biết đến cái cày cái cuốc, với cây đa, mái đình nay họ lạc

lõng giữa cái mới với đủ sự hay dở của xã hội đương thời. Nhưng sự đời luôn

trớ trêu, những cái xấu luôn được tiếp thu nhanh hơn, họ nhanh chóng vứt bỏ

những điều tốt đẹp nơi làng quê để nhận lấy những thứ cặn bã của thành thị và

rồi khi trở về làng lại nhân rộng nó ra như một mô hình. Chính điều này là nguy

cơ làm rạn nứt những giá trị văn hóa truyền thống được xây dựng từ lâu đời,

cũng chính từ việc làm thay đổi, làm mất đi nền văn hóa ấy mà những vùng

nông thôn yên bình từ bao đời nay bỗng nảy sinh ra nhiều chuyện mới , nhiều

con người mới - những con người kì dị đến khó lường. Những sự việc ấy,

những con người ấy được phản ánh rất nhiều trong văn học thông qua nhiều

khía cạnh, nhiều phương diện đời sống. Có thể thấy rằng, sự am hiểu về văn

hóa với hai mặt ổn định và biến động là cơ sở để đi sâu tìm hiểu các tác phẩm

văn chương nói chung và của Nam Cao nói riêng.

1.3. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học

Văn học là nghệ thuật dùng ngôn từ và hình tượng để thể hiện con người

và đời sống xã hội, “văn học thời nào cũng phải đặt trong cấu trúc tổng thể của

14

văn hóa, nhưng ở ta xem xét văn học và tiếp cận văn học từ góc độ văn hóa

hiện nay vẫn là vấn đề hết sức mới mẻ. Trước đây, văn học và văn hóa bị xem

xét một cách biệt lập do người ta quan niệm văn học có đặc trưng loại biệt.

Bây giờ đặc trưng loại biệt không phải là không còn nhưng trong nhiều cách

tiếp cận văn học từ góc độ văn hóa đang cho thấy một hướng tiếp cận có hiệu

quả. Cách tiếp cận này xem văn học như một thành tố trong cấu trúc tổng thể

của văn hóa nó truyền tải, lưu giữ được những giá trị văn hóa” [51, tr.3].

Văn học được coi là một sản phẩm của văn hóa tinh thần. Vì thế khi

nghiên cứu một hiện tượng văn học, nhà nghiên cứu nếu tách khỏi môi trường

văn hóa đã sản sinh ra nó sẽ dẫn đến cách hiểu không đúng giá trị đích thực của

hiện tượng văn học đó. Trước đây, quan hệ văn hóa và văn học được coi là

quan hệ tương hỗ. Bởi thế, nghiên cứu văn hóa thì văn học được coi như một

nguồn tài liệu, còn nghiên cứu văn học thì lại tìm thấy ở nó những chủ đề văn

hóa, cũng là một kiểu tài liệu. Như vậy văn hóa và văn học làm tài liệu nghiên

cứu cho nhau. Gần đây, sau khi UNESSCO phát động những thập kỉ phát triển

văn hóa nên quan hệ văn hóa, văn học được chú ý nhiều hơn. Đã có một số tác

giả đi theo hướng nghiên cứu này như Trần Đình Hượu, Trần Ngọc Vương, Đỗ

Lai Thúy, Trần Nho Thìn…và các công trình của M. Bakhtin được giới thiệu,

các nhà nghiên cứu đã thống nhất văn hóa là nhân tố chi phối văn học. Tác giả

Đỗ Lai Thúy đã khẳng định “Văn hóa là một tổng thể , một hệ thống bao gồm

nhiều yếu tố, trong đó có văn học. Như vậy, văn hóa chi phối văn học với tư

cách là hệ thống chi phối yếu tố, toàn thể chi phối bộ phận. Đây là quan hệ bất

khả kháng. Tuy nhiên, văn học so với các yếu tố khác là một yếu tố mạnh và

năng động. Bởi thế, nó luôn có xu hướng đi trượt ra ngoài hệ thống. Trong khi

đó thì hệ thống, nhất là hệ thống văn hóa, luôn có xu hương duy trì sự ổn

định.Như vậy, sự xung đột, sự chống lại của văn học đối với văn hóa là không

thể tránh khỏi. Nhưng nhờ thế mà văn học có sáng tạo. Sáng tạo những giá trị

mới cho bản thân nó và cho hệ thống. Sáng tạo lớn thì có thể dẫn tới sự thay

15

đổi của hệ thống”[51, tr.3]. Lịch sử văn học đã chứng minh, văn hóa chính là

chất liệu để văn học sáng tạo nên thế giới nghệ thuật của mình.

Văn hóa dân gian Việt Nam vô cùng phong phú và đa dạng, có thể nói,

đó là nơi lưu giữ và bảo tồn đầy đủ nhất những giá trị thuộc về văn hóa truyền

thống. Ở đó, người Việt có thể tìm về được cội nguồn của chính mình qua

những lời ru, những câu chuyện cổ tích hay những truyền thuyết, thần thoại từ

thuở dựng nước. Những phong tục từ xưa đến nay được giữ gìn trong kho báu

văn học dân gian, ta bắt gặp tục ăn trầu trong sự tích trầu cau, ngày tết người

Việt ta lại bồi hồi nhớ lại chàng Lang Liêu trong sự tích bánh chưng bánh dầy.

Như vậy, các phong tục tập quán, các yếu tố văn hóa được đưa vào văn học,

làm đề tài cho văn học. Cũng chính vì thế mà nhiều giá trị văn hóa đã chiến

thắng được thời gian để tồn tại cho tới bây giờ.

Văn hóa thời kì phong kiến cũng được phán ánh sâu sắc qua các tác

phẩm văn học. Chúng ta thấy được lịch sử qua các trang sách, thấy được cuộc

chiến đấu oanh liệt,vẻ vang của ông cha ta trong quá trình dựng nước và giữ

nước hay gần gũi hơn là bức tranh dân gian trong thơ Hồ Xuân Hương, là

những trò chơi, những câu đố, tục ngữ…. Trước đây khi nghiên cứu thơ trào

phúng Hồ Xuân Hương , các nhà nghiên cứu khẳng định thơ bà là sự thể hiện

mạnh mẽ bản năng tính dục của con người bị xã hội kìm nén. Các nhà nghiên

cứu theo quan điểm xã hội học lại khẳng định thơ Hồ Xuân Hương mang giá trị

phê phán. Nhà thơ đã dùng cái tục như một phương tiện để đả kích xã hội

phong kiến thối nát, hạ bệ bọn vua chúa, hiền nhân quân tử dâm ô trụy lạc. Tuy

nhiên, nếu đọc toàn bộ và đọc kĩ thơ Hồ Xuân Hương chúng ta thấy không phải

toàn bộ thơ bà viết ra đều nhằm vào mục đích phê phán đả kích. Ở một số bài

thơ còn hết lời ca ngợi vẻ đẹp của tình yêu. Muốn hiểu đúng thơ Hồ Xuân

Hương phải đặt nó trong văn hóa Việt , có vậy mới tránh được lối hiểu phiến

diện , mới thấy được hết ý nghĩa giá trị của thơ bà. Thơ Hồ Xuân Hương là

trường thơ vừa mang tính văn hóa truyền thống với tín ngưỡng phồn thực vừa

16

mang tính thời sự. Từ đó có thể khẳng định rằng, muốn hiểu đúng, hiểu sâu sắc

về một tác phẩm văn học, phải đặt nó trong nền văn hóa mà nó ra đời chứ

không chỉ đặt riêng trong hoàn cảnh xã hội.

Qua văn học, chúng ta thấy được văn hóa qua từng thời kì lịch sử. Tuy

nhiên, văn học không thể phản ánh trực tiếp được văn hóa mà “chỉ có thể phản

ánh thông qua “lăng kính” văn hóa, thông qua “bộ lọc” của các giá trị văn

hóa. Nhờ thế mà tránh được sự phản ánh “gương”, phản ánh một cách trần

trụi. Và có lẽ, cũng nhờ thế mà tạo cho văn học một lối phản ánh đặc trưng,

phản ánh, như người ta nói, có nghệ thuật” [51, tr.3].

Văn hóa qua từng thời kì, từng giai đoạn lịch sử lại có một chuẩn mực

riêng. Bởi vậy, khi thưởng thức một tác phẩm văn học chúng ta hãy đặt nó

trong môi trường văn hóa hình thành nên tác phẩm ấy để mà hiểu, mà soi xét.

Thời kì trung đại chúng ta quen với những lễ giáo phong kiến thì đến thời hiện

đại chúng ta lại bắt gặp những cái mới, đó có thể là văn hóa uống trà trong tùy

bút của Nguyễn Tuân hay cốt cách người nông dân được đào tạo qua biến thiên

cách mạng trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, rồi những tín ngưỡng,

những phong tục trong tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn của Nguyễn Xuân

Khánh….Có thể nói, văn hóa phát triền theo từng thời kì lịch sử. Ở đó, có

những giá trị vẫn còn tồn tại nhưng cũng có những giá trị đã mất đi hay dần bị

mai một. Chẳng hạn như trong bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên, đó là nỗi xót

xa của tác giá trước một nét văn hóa đang dần bị mai một và cùng với đó là sự

suy tàn của xã hội phong kiến. Hay với Nguyễn Tuân, ông đã dùng ngòi bút

của mình để vẽ lại bức tranh của một thời quá khứ vàng son với những thú vui

tao nhã như thưởng trà, ngắm hoa… Thời gian qua đi, nhiều biến cố lịch sử đã

đổi thay nền văn hóa của dân tộc, nhưng khi đọc lại những tác phẩm văn học

ấy, chúng ta vẫn như sống lại không khí lịch sử của cả một thời xưa. Hiện nay,

dưới sự phát triển của khoa học hiện đại và quá trình đô thị hóa, văn hóa nông

nghiệp đang dần bị mai một. Nó như một hồi chuông cảnh tỉnh về sự mất dần

17

của một nền văn hóa, có lẽ sự biến mất này một phần nào đó là do nó ít được

phản ánh trong các tác phẩm văn học. Bàn về điều này, tác giả Đỗ Lai Thúy đã

khẳng định “văn học không thể ảnh hưởng tức thời, trực tiếp đến hành động

của con người mà chỉ có thể tác động đến con người với tư cách là chủ/ khách

thể của văn hóa, làm cho con người biến chuyển rồi mới phát sinh hành động

cụ thể. [51, tr.3].

Nói về mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, chúng tôi muốn khẳng

định việc tìm hiểu văn học dưới góc độ văn hóa là hoàn toàn đúng đắn và

mang tính thiết thực. Với nhiều tác phẩm văn học, nếu chỉ tìm hiểu trên

bình diện đạo đức, thẩm mĩ thì không thể khơi hết được giá trị của nó. Bởi

vậy, tiếp cận văn học có nhiều con đường nhưng con đường văn hóa là một

phương pháp có nhiều thuận lợi bởi lẽ “nó dẫn người ta đi từ cái đã biết

đến cái chưa biết, cái biết nhiều đến cái biết ít, cái toàn thể đến cái bộ

phận bằng con đường loại suy” [51, tr.3].

18

Tiểu kết chương 1

Qua việc tìm hiểu những khái niệm tiền đề về văn hóa và những đặc

trưng của văn hóa, chúng tôi muốn thấy rõ hơn những nét cơ bản trong văn hóa

Việt Nam mà biểu hiện rõ nhất chính là văn hóa ở nông thôn với hai đặc trưng

cơ bản là tính cộng đồng và tính tự trị.

Bên cạnh đó, chúng tôi đi vào tìm hiểu tình hình nông thôn Việt Nam

trước Cách mạng tháng Tám 1945 để thấy được đặc điểm về kinh tế, chính trị,

xã hội…của nông thôn trong giai đoạn này. Đây là giai đoạn mà văn học Việt

Nam xuất hiện nhiều tác giả với sức sáng tạo hết sức dồi dào và có phong cách

độc đáo.

Để hiểu một tác phẩm văn học không chỉ đặt nó trong thời kì lịch sử,

trong hoàn cảnh sáng tác mà cần phải tìm hiểu nó trong nét văn hóa đặc trưng.

Điều này đã được thể hiện rõ ngay cả trong văn học dân gian thông qua những

câu ca dao, những bài đồng dao, những truyền thuyết từ xa xưa hay trong văn

học trung đại với Hồ Xuân Hương, văn học hiện đại với Nam Cao, Nguyễn

Tuân… Từ đó chúng tôi tìm hiểu truyện ngắn của Nam Cao mà cụ thể là trong

các sáng tác về đề tài nông thôn và người nông dân dưới góc nhìn văn hóa nông

thôn.

19

Chương 2

DẤU ẤN VĂN HÓA NÔNG THÔN TRONG NỘI DUNG TRUYỆN

NGẮN NAM CAO

2.1. Nông thôn và người nông dân trong truyện ngắn Nam Cao

2.1.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp Nam Cao

2.1.1.1. Cuộc đời

Nam Cao (1915 - 1951 ) là bút danh của nhà văn - nhà báo - liệt sĩ Trần

Hữu Tri. Ông sinh ra trong một gia đình nông dân tại làng Đại Hoàng, tổng Cao

Đà, huyện Nam Sang, nay thuộc xã Hòa Hậu, huyện Lí Nhân, tỉnh Hà Nam

(cách thành phố Nam Định chừng hơn 10km). Học xong bậc Thành chung,

Nam Cao từng có lúc vào Sài Gòn kiếm sống bằng nhiều nghề, nhưng bệnh tật

đẩy ông về quê. Từ đó, Nam Cao sống chật vật bằng nghề dạy học và viết văn.

Nam 1943, ông vào Hội văn hóa cứu quốc. Tham gia Tổng khởi nghĩa ở quê

hương, ông được cử làm Chủ tịch xã. Sau Cách mạng, với tư cách phóng viên -

Nam cao đã có mặt trong đoàn quân Nam tiến, rồi lên chiến khu Việt Bắc làm

công tác văn nghệ. Cuối tháng 11 năm 1951, trên đường đi công tác vào vùng

địch tạm chiếm, Nam Cao anh dũng hi sinh tại Gia Viễn, Ninh Bình.

Nam Cao là một cây bút xuất sắc của dòng văn học hiện thực 1940 -

1945, là người tiên phong trong việc xây dựng nền văn học mới. Ông đóng một

vai trò quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Cả cuộc đời Nam Cao

là một quá trình phấn đấu không ngừng cho một nhân cách cao đẹp - nhân cách

trong cuộc đời và nhân cách trong sáng tạo nghệ thuật. Từ hơn nửa thế kỉ qua,

con người và sáng tác của Nam Cao đã trở thành đối tượng khảo sát của nhiều

20

thế hệ nghiên cứu phê bình và độc giả. Ông là một trong những nhà văn lớn của

thế kỉ được nghiên cứu nhiều nhất, liên tục nhất.

Cuộc đời Nam Cao khép lại ở tuổi 35 nhưng ông đã để lại cho hậu thế

một kho tàng văn chương tuy không đạt mức kỉ lục về số lượng nhưng tác

phẩm của ông luôn ẩn chứa những giá trị sâu sắc chứng tỏ sức sống tiềm tàng

của một giá trị văn chương vượt lên trên các bờ cõi và giới hạn.

2.1.1.2. Sự nghiệp

Trước Cách mạng 1945, tài năng Nam Cao kết tinh trong gần 60

truyện ngắn, một truyện vừa và tiểu thuyết Sống mòn. Đây cũng là quãng

thời gian mà cây bút Nam Cao đạt đến đỉnh cao trong sự nghiệp. Tuy nhiên,

cái đỉnh cao trong ngòi bút của ông không phải được tính bằng số lượng

hay độ dài mà là chất lượng, chất lượng về ngôn ngữ nghệ thuật, về tư duy

xã hội và tư duy văn học.

Sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng tập trung ở hai đề tài: Người trí

thức nghèo và người nông dân trong vật lộn với miếng cơm manh áo. Xã hội

Việt Nam trong thời kì này đang chìm đắm trong đêm trường nô lệ, nhân dân

phải sống trong cảnh tối tăm, u ám dưới chế độ thực dân nửa phong kiến. Bọn

thực dân và phong kiến cấu kết chặt chẽ với nhau nhằm bóp nghẹt đời sống của

người nông dân. Vì vậy, trong mảng đề tài viết về làng quê Việt Nam, ngòi bút

sắc sảo của Nam Cao không chỉ dừng lại ở việc phản ánh những chuyện

chướng tai gai mắt, những thói hư tật xấu bề ngoài, ông đã thâm nhập vào sâu

trong đời sống của làng quê để thấy được cả một bộ mặt kì dị và quái dở, thấy

được cả xã hội nô lệ, lạc hậu để rồi chính cái xã hội ấy đã làm con người tha

hóa, biến chất như thế nào.

21

2.1.2. Đề tài nông thôn và người nông dân trong truyện ngắn Nam Cao

Nam Cao không phải người đầu tiên cũng không phải duy nhất viết về đề

tài nông thôn và người nông dân; trước đó độc giả đã biết đến nông thôn và

người nông dân Việt Nam trong các sáng tác của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công

Hoan…Là cây bút đi sau, nhưng ông chính là người đưa lên đỉnh cao và kết

thúc vẻ vang trào lưu hiện thực. Khác với các nhà văn khác khi viết về nông

thôn, ông không đứng bên ngoài để nhìn nhận mà đi sâu vào nó để khám phá.

Trong nhiều tác phẩm của mình, ông để cho nhân vật “tôi” xuất hiện, trực tiếp

tham gia vào câu chuyện, chứng kiến mọi sự việc đang diễn ra. Có lẽ, cũng vì

thế mà bức tranh nông thôn của Nam Cao trở nên chân thực và sinh động hơn

bao giờ hết “Không như Tam Lang, Trọng Lang và một số nhà văn lãng mạn

khác, Nam Cao không nhìn người nghèo với con mắt khinh bỉ, giễu cợt nhưng

cũng không thi vị hóa, lý tưởng hóa họ. Tấm lòng yêu thương nhân đạo và sự

hiểu biết sâu sắc về con người, đời sống ở thôn quê đã giúp Nam Cao xây dựng

được những hình tượng nông dân sinh động.” [39, tr.476]. Nông thôn trong các

sáng tác của Nam Cao không được miêu tả trên diện rộng, không đi sâu vào

những hủ tục hay những mâu thuẫn gay gắt nơi làng quê lúc bấy giờ, ngòi bút

của ông đi sâu vào từng ngóc ngách của đời sống để mà viết, viết những

chuyện vặt vãnh, tủn mủn của đời sống nơi thôn quê nhưng cũng chỉ chừng ấy

thôi đã đủ để thấy được bộ mặt của cả một vùng nông thôn. Không có những

xung đột nhưng bức tranh về nông thôn trong các tác phẩm của Nam Cao vẫn

hiện lên rõ nét những đau đớn quằn quại của con người nơi đây. Phía sau lũy

tre làng vốn không bình yên như những gì người ta vẫn nghĩ mà đó là những

kiếp người sống mòn mỏi, lay lắt trong giành giật miếng cơm manh áo “Khác

22

với Ngô Tất Tố, viết về nông thôn, Nam Cao ít đưa vào những xung đột giai

cấp gay gắt và miêu tả trên một bình diện rộng. Ông tập trung chủ yếu vào

những cuộc đời cụ thể, và cũng chỉ lấy ra một chặng đường ngắn của nhân vật

để miêu tả [39, tr.476].

Nếu Ngô Tất Tố tập trung miêu tả người nông dân trong những áp bức,

bóc lột của bọn thống trị thì Nam Cao lại đặt người nông dân vào những thử

thách khắc nghiệt của cái đói, cái nghèo. Không ít lần những con người ấy bị

xô đẩy đến cái chết, những cái chết đau đớn quằn quại. Dù vậy, trong cành ngộ

nào, Nam Cao vẫn tìm thấy được những điểm sáng ở họ. Ông nhìn thấy cả mặt

tích cực và tiêu cực bởi vậy khi đi vào bình phẩm hay nhận xét, đánh giá về

người nông dân ông vẫn dành cho họ những tình cảm ưu ái, đặt niềm tin vào

những cuộc đời, những thân phận bé nhỏ ấy, vẫn tin tưởng rằng họ - những con

người thà “chết trong còn hơn sống đục” Có lẽ, vì sinh ra và lớn lên ở vùng

nông thôn nên phần nào ông thấu hiểu được phẩm chất của những con người ấy,

hiểu những điều tốt đẹp ẩn phía sau tâm hồn của họ “ Tôi gần gũi với họ rất

nhiều. Tôi đã gần như thất vọng vì thấy họ phần đông dốt nát, nheo nhếch, nhát

sợ, nhịn nhục một cách đáng thương. Nghe các ông nói đến “sức mạnh quần

chúng”, tôi rất nghi ngờ. Tôi vẫn cho rằng đa số nước mình là nông dân, mà

nông dân nước mình thì vạn kiếp nữa cũng chưa làm được cách mạng. Cái thời

Lê Lợi, Quang Trung có lẽ đã chết hẳn rồi, chẳng bao giờ trở lại. Nhưng đến hồi

tổng khởi nghĩa thì tôi đã ngã ngửa người. Té ra người nông dân nước mình cẫn

có thể làm được cách mạng, mà làm cách mạng hăng hái lắm” [11, tr. 468]. Có

được cái nhìn toàn diện như vậy là do quá trình bám sát cuộc sống của người

nông dân và đặc biệt là sự cảm thông, thấu hiểu cho hoàn cảnh của họ.

23

Từ đó, độc giả có thể thấy được những giá trị sâu sắc mà tác phẩm của

Nam Cao đóng góp cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Có lẽ, chính vì lẽ ấy

mà bất chấp mọi thử thách, người ta vẫn nhớ, vẫn nhắc đến Nam Cao, những

trang viết của ông vẫn còn nguyên giá trị đến ngày nay.

2.2. Phong tục tập quán

2.2.1. Tục hôn nhân

Hôn nhân là một việc hệ trọng của đời người, nó lại càng đặc biệt hơn ở

nông thôn, bởi con người nơi đây sống tập thể, tính cộng đồng cao, việc không

phải của một người, một nhà mà đó là việc chung của cả một dòng họ, của cả

một làng. Bởi vậy việc đầu tiên không phải là chọn một người mà chọn một gia

đình một dòng họ sao cho môn đăng hộ đối.

Cùng nhìn lại cuộc hôn nhân của Dần (Một đám cưới) ta sẽ thấy rõ hơn

điều này. Gia đình Dần nghèo mẹ lại mất sớm, chỉ còn mình bố nuôi mấy chị

em Dần trong cảnh nheo nhóc túng thiếu. Đã vậy, ngày mẹ Dần mất ông còn

phải đi vay nợ nhà ngươi ta về làm ma “Mắc cái lúc mẹ mày nằm xuống, nhà

không còn một đồng xu nào, không còn vớ víu vào đâu được, tao đã nhận của

người ta hai mươi đồng bạc cưới. Như vậy, cuộc hôn nhân của Dần đã được

định sẵn mà đôi lứa hai bên không cần tìm hiểu nhau, không hề diễn ra cuộc

yêu đương như những thanh niên trong văn học lãng mạn của Tự lực văn đoàn.

Gia cảnh nhà mẹ chồng Dần cũng không lấy gì làm khá giả “Ông cũng khổ,

nhưng tôi còn khổ hơn ông, thày cháu chết đi, tôi chỉ được có mình cháu là con

trai, ông có thương tôi…”. Như vậy là môn đăng hộ đối rồi, hai gia đình, hai

hoàn cảnh giống nhau, họ chọn nhau làm thông gia. Có lẽ những người có hoàn

cảnh như Dần cũng không bao giờ dám nghĩ mình có thể vào làm dâu một gia

24

đình nào khấm khá hơn, cũng giống như bà lão, cái nghèo, cái khổ bà không

dám hỏi chỗ nào hơn cho con trai mình. Môn đăng hộ đối trong quan hệ hôn

nhân ở nông thôn là điều vô cùng quan trọng, bởi lẽ chỉ trong hoàn cảnh giống

nhau họ mới có thể thấu hiểu và cảm thông cho nhau. Gia đình nhà chồng Dần

neo người, nhà chỉ có hai mẹ con, vì thế mà bà mẹ chồng mong cưới sớm có lẽ

cũng là một phần để đáp ứng nhu cầu về người làm trong gia đình. Trong hoạt

động sản xuất nông nghiệp thủ công trước đây, thì lao động dựa hoàn toàn vào

con người, người ta cần người làm, cưới vợ về cũng là vì lý do đó. Nhớ lại

truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, Mị mang cái danh là con dâu nhà Pá

Tra nhưng thực chất lại là người ở. Và trong gia đình nhà Pá Tra không phải

chỉ có một mình Mị phải chịu cảnh đó mà còn nhiều cô Mị khác cũng vậy. Như

vậy, dù ở các vùng miền khác nhau song hôn nhân của những người nông dân –

cả miền núi và miền xuôi phần lớn là để phục vụ nhu cầu làm nông, nhu cầu

làm kinh tế trong gia đình.

Khác với Dần (Một đám cưới), cuộc hôn nhân của Ngạn (Nhìn người ta

sung sướng) có điểm “sáng” hơn, nhưng nó cũng không phải đến từ tình yêu

đôi lứa mà nó đến vì Ngạn muốn bà mình vừa lòng, bởi lẽ sau cái gật đầu đồng

ý của Ngạn là một cái thở dài đến ngao ngán “Ngạn sẽ gật đầu một cái và thở

dài theo luôn”. Ngạn lấy vợ, lấy một người mà Ngạn chẳng mấy khi gần nhưng

cô gái ấy lại được lòng bà Ngạn, cũng vì “bà cụ thương Duyên cùng một cảnh

như bà hồi trẻ”, như vậy là môn đăng hộ đối rồi.

Trong cưới hỏi, nếu môn đăng hộ đối là phương diện tâm lý thì tục thách

cưới là phương diện kinh tế. Nếu nhà trai không nộp đủ tiền cưới cho nhà gái,

cho làng thì sẽ không được đón dâu. Nhìn lại cuộc hôn nhân bất thành của

25

thằng con trai Lão Hạc ta mới hiểu rõ điều này. Thằng con trai của lão và đứa

con gái “mê nhau lắm”, đây là lần hiếm hoi ta bắt gặp được tình yêu của đôi trẻ

trong truyện ngắn Nam Cao, ấy vậy mà nó lại không thành. Không thành bởi lẽ

tiền thách cưới nặng quá : “nguyên tiền mặt phải một trăm đồng bạc, lại còn

cau, còn rượu…cả cưới nữa thì mất đến cứng hai trăm bạc. Lão Hạc không lo

được” . Cùng chung tâm lý với lão Hạc là nỗi lo lắng của bà Quản Thích (Nửa

đêm), bà lo cho thằng cháu mình không lấy được vợ bởi những đám gần thì

chẳng ai chịu gả con cho thằng cháu bà, cái thằng vừa là con thằng Thiên Lôi

lại vừa ngờ nghệch, còn những đám ở xa thì những người nghèo như bà không

có tiền. Có biết bao nhiêu tình yêu không thành vì tục thách cưới quá nặng,

cũng có biết bao nhiêu đám cưới khốn đốn vì những tục lệ cưới xin nặng nề,

đám càng xa thì tiền nộp treo càng nặng. Trong Rửa hờn, người đọc vẫn nhớ

cái tỉnh cảnh của đôi vợ chồng trẻ, vì chẳng có tiền cưới cheo gì nộp cho làng

mà đến lúc đứa con ra đời đã không thể khai sinh. Phải chăng, qua những cuộc

hôn nhân khốn đốn ấy, Nam Cao muốn phê phán cái tục cưới xin nặng nề, nó

đã gieo rắc lên người dân nghèo bao nhiêu tai họa. Thiết nghĩ, nếu không có cái

tục thách cưới kia hay chí ít nó được giảm nhẹ hơn thì thằng con trai lão Hạc đã

không phải bỏ nhà mà đi như thế và lão cũng không phải chết một cách tức tưởi

như vậy,mà hơn thế người ta hoàn toàn có thể nghĩ đến một tương lai tươi sáng

hơn cho đôi vợ chồng trẻ.

Bên cạnh những cảnh thách cưới nặng nề thì cũng có những gia đình

nghèo, họ thấu hiểu cho nhau mà nhẹ nhàng hơn rất nhiều. Cùng trở lại với gia

đình Dần trong cuộc bàn chuyện cưới xin. Người ta thấy được sự cảm thông,

thấu hiểu của bố Dần đối với bà cụ. Cái thấu hiểu ở đây là thấu hiểu cho cảnh

26

nghèo, phải chăng vì ở cùng trong cảnh đó với nhau nên người ta dễ mà hiểu

cho nhau hơn. Đám cưới Dần được tối giản một cách tối đa, ông bố Dần cũng

không có gì là thách “Xin nhiều thì mang tiếng; với lại người ta lấy gì mà đưa

cho mình được? Vay công vay nợ lắm vào thì về sau lại chỉ khổ chúng mày.

Tao phải bảo người ta:muốn may cho mày thế nào thì may lấy, tao không dám

nhận”. Đọc đến đây người ta thầm nghĩ, giá như người cha nào cũng nghĩ được

như cha của Dần thì cuộc sống sẽ dễ chịu biết bao.

Ngoài những thủ tục cưới xin nặng nề cũng không thể không đề cập đến

những nét văn hóa tốt đẹp, nó trở thành một điểm sáng trong văn hóa nông

thôn. Các cụ ta vẫn có câu “miếng trầu là đầu câu chuyện”, và cũng không ai

có thể quên sự tích cau trầu là tình nghĩa vợ chồng thủy chung, gắn bó. Bởi thế,

trong cưới hỏi, dù nghèo khó, thiếu thốn đến đâu người ta cũng phải sắm cơi

trầu để hỏi cưới. Trong đám cưới của Dần người ta không thấy sự vui mừng hồ

hởi mà là một không khí ảm đạm bởi đó là đám cưới chui, còn chưa được trọn

vẹn. Thế nhưng những gì là bắt buộc thì nó vẫn không thể thiếu, đó là hình ảnh

cơi trầu khi xin dâu, dẫu ở đây nó không được chu toàn “chú rể xách một chẽ

cau, chừng một chục quả. Vào đến nhà, y lúng túng không biết đặt đâu” . Nhìn

lại đám cưới của dì Hảo (Dì Hảo), dù nó diễn ra vào một buổi chiều có sương

bay, đón dâu vào lúc tờ mờ tối, dù “nhà người ta có trở” nhưng cũng không

thể không “biện cơi trầu bát nước” để mà xin dâu. Đây là một yếu tố văn hóa

bất biến, nó là một nét đẹp vẫn còn tồn tại cho đến tận ngày nay. Đưa chi tiết

này vào truyện, Nam Cao muốn khẳng định với người đọc rằng cái gì thuộc về

truyền thống, mà đã là truyền thống tốt đẹp thì không gì có thể bỏ được.

27

2.2.2. Tục tang ma

Nếu hôn nhân được xem là một việc hệ trọng của đời người thì tang ma

cũng không thể xem nhẹ. Tang ma không đơn thuần là tiễn đưa, chôn cất một

người đã chết mà kéo theo đó còn rất nhiều thủ tục khác. Người Việt xưa, đặc

biệt là những người ở vùng nông thôn thường lo liệu trước cho cái chết của

mình. Họ chuẩn bị từ cỗ quan tài cho đến tiền lo ma chay. Bởi lẽ, khi người ta

chết đi thì cái việc chôn cất không còn là việc riêng gì của con cháu trong gia

đình mà nó là việc của cả làng, vì vậy nó kèm theo cả việc ăn uống cho những

người đến giúpvà hơn nữa càng không thể chôn một người như một con vật đã

chết. Cũng với quan niệm, chết không phải là hết, chết là bước sang một cuộc

sống mới ở thế giới bên kia nên thậm chí có những đám ma còn ăn uống linh

đình. Trở lại với truyện ngắn Lão Hạc , trước khi chết lão đã chu tất mọi việc

bởi chết chưa phải là hết cho người còn sống. Hiểu điều đó, lão Hạc đã lo liệu

trước cho cái chết của mình “lão còn được hăm nhăm đồng bạc, muốn gửi tôi

để lỡ có chết thì tôi đem ra, nói với hàng xóm giúp, gọi là của lão có tí chút,

còn bao nhiêu đành nhờ hàng xóm cả”, bởi lúc này lão chỉ sống có một mình

biết trông cậy vào ai. Sau cái chết mới cả là một đại sự, bởi lẽ “Người không

phải là con chó, người không thể chết như con chó chết:chết còn làm lợi cho kẻ

khác. Người chết phải đem chôn. Lại không thể cầm cái mai, moi một đống đất

lên mà chôn, như chôn một con mèo chết vào gốc một cây khế cho cây khế

ngọt. Phải mua cỗ gỗ. Phải mời xóm, mời làng. Phải có bát nước, miếng trầu.

Phải biện lưng cơm cho những người khiêng. Ấy, với phận nghèo. Nếu cái thể

còn vay mượn được thì còn phải đến trăm thứ khác. Cái chết ở thôn quê là một

28

cái gì rầy rà to” (Làm tổ). Thế mới hiểu, cái sự lo liệu cho cái chết của mình

còn to tát hơn việc lo cho mạng sống.

Bên cạnh đó, xót thương là việc không thể tránh bởi lẽ “nghĩa tử là

nghĩa tận”. Nếu cái chết của Lão Hạc, một người ăn ở hiền lành, chu tất thì sự

xót thương của mọi người là điều hiển nhiên. Ông giáo chua xót khi mất đi một

người hàng xóm, một người đáng trân trọng để mà thốt lên “Lão Hạc ơi! Lão

hãy yên lòng mà nhắm mắt” , thế nhưng cũng có những người khi sống gây bao

nhiêu tai họa, lúc chết vẫn có những tiếng khóc dẫu chỉ là khóc hờ. Đó không ai

khác chính là cái thằng Thiên lôi giết người ấy, thế mà khi hắn chết “người mẹ

nuôi vẫn mong hắn chết , bây giờ muốn khóc và khóc thật. Có ai hiểu được cái

nước mắt của loài người! Vợ kế đã run sợ mà lấy nó, đã nguyền rủa nó, bây

giờ cũng khóc. Chao ôi! Những giọt châu của loài người”. Đến đây người đọc

lại nhớ tới Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, khi mà đám con cháu bỗng rất vui mừng

và phấn khởi bởi cái chết của cụ tổ. Thật chua xót, cũng một kiếp người vậy mà

có những cái chết để lại bao suy ngẫm và cũng có những cái chết khiến người

ta nhẹ lòng như bớt đi được một mối hiểm họa vậy.

Sẽ là thiếu sót nếu trong đám ma mà không có người đọc điếu văn. Đây

là những lời thương xót của người sống dành cho người chết, có khi là tình

cảm,là kỉ niệm giữa họ với nhau, có khi là công lao của người chết lúc còn

sống. Anh Phúc chết (Điếu văn) trong sự thờ ơ của người vợ, nhưng bên cạnh

anh vẫn còn những người bạn như “tôi”, “tôi” xót thương cho cảnh của anh

Phúc, xót xa cho cảnh hai đứa con anh bị đói nheo nhóc. Toàn bộ câu chuyện là

cuộc đời anh Phúc từ lúc còn sống đến khi chết, những thiệt thòi, những gắng

gượng của anh để rồi cuối cùng chết trong đau đớn. Thế nhưng, sự đời không

29

thể mãi u ám như vậy được, hai đứa con anh sẽ được “một bàn tay bạn bè sẽ

nắm lấy bàn tay chúng cùng đi tới một cuộc đời đẹp hơn”. Như vậy, ở đây lời

điếu văn ấy không chỉ đơn giản là sự xót xa trước cuộc đời, trước cái chết của

anh Phúc mà nó còn là một lời hứa hẹn với người bạn xấu số.

Đề cập đến vấn đề này , Nam Cao muốn qua đó để giữ gìn những truyền

thống tốt đẹp vốn có của văn hóa nông thôn, nhưng một mặt ông cũng phê phán

những hủ tục, những tục lệ rườm rà làm con người ta khốn đốn. Đó là những

giá trị sâu sắc mà tác giả muốn truyền đạt đến và nó vẫn còn nguyên giá trị cho

đến tận ngày nay.

2.3. Trật tự nông thôn

Người dân Việt Nam ở đồng bằng Bắc Bộ có những điểm chung nhau về

sự hệ lụy giữa cá nhân với gia đình, làng, nước. Yếu tố văn hóa này in đậm

trong ý thức của mỗi người dân nơi đây. Và trong cơ cấu tổ chức ở nông thôn

thì thường được liên kết theo kiểu các gia đình liền kề nhau, xung quanh làng

có lũy tre bao bọc, có cây đa, cổng làng, có nơi thờ tự chung, có lễ hội dân

gian, mùa vụ… Đặc biệt, nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ lại chịu ảnh hưởng

rất sâu sắc của Nho giáo nên những lề thói, những khuôn phép, thứ bậc tôn ti

trong gia đình, dòng tộc, làng xã đều được xem trọng trong đời sống hàng ngày.

Đình làng được coi như một trung tâm văn hóa, chính trị của mỗi làng, mọi

sinh hoạt đều được tổ chức tại đây, đây là nơi biểu hiện rõ nhất cho quan hệ thứ

bậc trong làng. Gắn với đình làng là sự phân chia về địa vị, thân phận của mỗi

người.

Như đã nói, Nam Cao sinh ra và lớn lên ở làng quê Bắc Bộ, ông viết

nhiều về nông thôn, về những sinh hoạt, lối sống của người nông dân. Vì thế,

30

hầu hết trong tác phẩm của mình, dù ít hay nhiều, ở những mức độ khác nhau

Nam Cao đều đề cập đến vấn đề ngôi thứ.

Đình làng là một biểu tượng văn hóa rất Việt Nam. Đình làng gắn với

những cuộc hội họp bàn bạc, nó tạo nên đặc trưng của tính tự trị và sự tồn tại

lâu đời của nông thôn Bắc Bộ nói riêng và Việt Nam nói chung.

Gắn với sinh hoạt đình làng là sự phân chia ngôi thứ, nó liên quan

đến lợi ích vật chất và tinh thần của những người có chức sắc trong làng,

chính nơi đây cũng nảy sinh nhiều hủ tục, nhiều tệ nạn đè nặng lên đời

sống của những người dân nghèo. Với con mắt sắc sảo, sự quan sát tỉ mỉ,

Nam Cao đã tái hiện lại một cách sâu sắc những câu chuyện oái oăm xoay

quanh vấn đề ngôi thứ ở chốn đình trung.

Trọng danh vị là tâm lí phổ biến của người dân, tâm lí này hoàn toàn dễ

hiểu đối với những người nông dân quanh năm lam lũ. Tâm lí này cũng gắn với

ước mơ đổi đời của họ. Đất lề quê thói, đời sống cộng đồng buộc người nông

dân phải sống theo mọi người, không một cá nhân nào có thể tồn tại riêng lẻ mà

phải duy trì theo cộng đồng, theo đúng lệ làng. Vì vậy, ngoài việc lo thiên tai

hạn hán, lo mùa màng thì chính việc lo lắng về chức vị, về những đóng góp là

nguyên nhân khiến cho giấc mơ về một cuộc sống no đủ của người nông dân

không bao giờ thành hiện thực. Cùng đọc lại truyện Mua danh ta sẽ phần nào

thấu hiểu hơn nỗi khổ đó của người nông dân.

Ước mơ về một mùa màng bội thu là ước mơ chung của nhiều gia đình

và nhà anh Bịch cũng không ngoại lệ. Năm nay gia đình anh được trời thương

nên vườn trầu lại tốt lạ lùng, cứ ngỡ ấy là điềm lành, là cái mà anh có thể trông

cậy vào để nuôi đàn con nheo nhóc. Thế nhưng, trời thương mà người đời

31

chẳng thương cho anh, cụ Túy đã dòm ngó cái giàn trầu và gợi ý anh mua lấy

cái chức “hương trưởng”. Nào, một người ăn chẳng đủ, quanh năm làm nghề

xúc dậm anh có dám mơ tưởng gì đến chức tước đâu, chỉ mong có cái ăn mà

nuôi bốn đứa con nhỏ. Những tưởng giàn trầu sẽ giúp anh thực hiện giấc mơ đó

thế nhưng vừa từ chối việc mua chức hương trưởng với cụ Túy thì “Mấy hôm

sau, làng lại nhốn nháo lên về việc bắt phu. Người ta đồn rằng: lớp này bắt

những tám mươi người đàn ông với bốn chục đàn bà”, cái tin ấy khiến anh

Bịch không khỏi hoang mang. Vợ chồng Bịch nghĩ đến cảnh nếu anh bị bắt phu

thì “mẹ con tôi cũng phải bỏ làng mà đi nốt”, nhưng giờ tính nước nào cũng

không xong, thật là chua xót. Nhìn anh Bịch lúc này, không ai là không xót xa

thương cảm “Hắn ngồi bó củi, cằm nghếch trên đầu gối. Mặt hắn thưỡn ra, vừa

tức tối vừa chán nản. Một chút nước mắt chạy vòng quanh.” Và rồi, cuối cùng

anh vẫn phải cắn răng mà mua lấy cái chức hương trưởng để tránh cho mình

khỏi bị bắt phu và “cũng chưa bao giờ chức hương trưởng trong làng lại rẻ

như thế ấy” chỉ một trăm đồng là xong tất cả. Vậy là đã xong xuôi cuộc mua

bán danh vọng, cũng đồng nghĩa với nó là anh Bịch đã mất trắng đi vườn trầu

vào chức hương trưởng. Những tưởng mọi việc như vậy đã êm xuôi nào ai ngờ

hết cái tủi nhục khi làm ông hương của anh Bịch. Vì không có tiền để khao

danh cho làng nên cái chức của anh chỉ được ghi trong hương ước của làng chỉ

mấy cụ tiên chỉ biết chứ dân làng không ai hay. Thế nên, lúc anh ra đình cái

chức ấy cũng chẳng đủ oai để dẹp lũ trẻ con mà lại còn mang nhục vào thân “-

Hương cái con khỉ! Chưa làm rượu đã vác mặt ra đình! Bộ thằng tớ có chào nó

là ông hương”. Ấy thế là “tiền mất tật mang” đã vậy còn bị dọa “Muốn cách

không?” thật là khổ hết chỗ nói. Vậy là cái nghèo vẫn cứ đeo bám, cái chức mà

32

anh mua được cũng không giúp ích được gì. Nỗi lòng của anh Bịch cũng chính

là hoàn cảnh của rất nhiều người nông dân lúc bấy giờ, họ bị chèn ép bởi những

địa vị, những ngôi thứ trong làng. Ở cái chốn làng quê ấy, người nông dân

không thể nào ngóc đầu lên được bởi những trò oái oăm, gàn dở.

Khác với Bịch, có được chức hương trưởng một cách bất đắc dĩ thì Trạch

văn Đoành (Đôi móng giò) từ một anh đi câu, lại leo lên được hàng Cửu phẩm

nhờ tiền bạc và cái cốt yếu là nhờ vào mánh khóe của mình, thế nhưng chẳng

lúc nào hắn được yên với các bậc chức sắc trong làng, lúc nào hắn cũng bị “các

ông về hùa với nhau để chành chẽ hắn, hễ động hắn mở miệng ra là chèn”.

Không hiền và non như Bịch, từ khi “đi lính chào mào sang bên Tây về” hắn

khôn và ranh mãnh hơn nhiều chứ không còn cái ngù ngờ của một anh nông

dân. Ban đầu hắn dùng tiền của mình để làm một ông kì mục, thế nhưng một

thằng bỏ làng chán chê mà đi, con một lão đi câu chết mất xác lại làm to như

vậy thì đời nào người ta chịu. Thế nên các ông trong làng chẳng ai chịu nhường

chiếu cho một thằng “không chôn nổi bố”, hắn bị chành chẽ, bị nói móc đến

thân phận mình. Nhưng, thói đời và tính ngang bướng dạy cho hắn phải kìm

chế để tìm cơ hội mà trả thù. Vậy là hắn ngấm ngầm soi mói các ông để mà

vạch tội. Ở cái làng quê ấy thì thiếu gì những con sâu mọt chuyên đục khoét

của người dân vậy thì thiếu gì tội để mà tố cáo các ông. Vậy là ông Cửu Đoành

đã làm được,“Đùng một cái hắn đưa bốn ông lên huyện vì việc bao chiếm công

điền. Đùng một cái nữa, hắn đưa mấy ông khác lên huyện vì việc lạm tiền công

quỹ. Rồi đùng một cái nữa…và cái nữa…Luôn năm sáu cái đùng như vậy hắn

làm các ông liểng xiểng” . Ấy thế mà hắn khôn, hắn không nhận một vài mối

lợi mà các ông dàn hòa với hắn bởi hắn thừa biết như vậy thì “há miệng mắc

33

quai” thế nhưng hắn thực sự là kẻ cao tay khi cũng thôi không kiện các ông

nữa.

Thế rồi, hắn cứ nghiễm nhiên mà ngồi ở cái chức Cửu phẩm mà ra oai

với mọi người trong làng, đến ngay cả các ông cũng không làm gì được hắn.

Ngay cả khi làng có làng vào đám, làm lợn tế thần thì lúc tế “ông Cửu Đoành

vẫn còn ngủ ở nhà”, quả thật là một ông Cửu độc nhất vộ nhị và nhàn rỗi, thế

nhưng có ai ngờ rằng, các ông ở trong làng cũng không mong sự có mặt của

ông , thành ra “ông cứ ở nhà cho đến hết đám cho quan viên mừng” ấy thật là

một trò ngược đời. Tuy nhiên, ông Cửu Đoành lại không như ông Hương Bịch

bởi vì ông có tiếng nói và bởi vì ông ranh mãnh khiến người ta phải sợ, thế nên

khi mọi người tế xong, ông mới ung dung “hai tay thọc trong túi áo ba- đờ -

xuy sắc chó gio vênh vênh cái mặt lên trời đi ra đình”. Có lẽ nhìn cảnh tượng

ấy, mấy quan viên trong làng không khỏi tức tối nhưng họ lại không thể đuổi

ông về, họ vẫn cố nín nhịn mà tươi cười, mà vồn vã chào đón ông. Vậy là ông

đã làm tròn được cái trách nhiệm của một ông Cửu phẩm khi cũng góp mặt ở

đình. Rồi sự góp mặt của ông đã gây ra những rắc rối mà chẳng ai ngờ đến, nó

xuất phát từ hai cái móng giò. Bốn cái móng giò của con lợn tế thần, lệ làng

vẫn là dành cho bốn ông to nhất bất ngờ lại bị mất hai cái, người này đổ cho

người kìa nhưng ông Cửu Đoành cứ thản nhiên như không mà mỉm cười bởi

với ông còn nhiều thứ to tát hơn hai cái móng giò ấy. Thế nhưng, khi ông ném

hai cái móng giò trong túi áo ra để thưởng cho cô hầu rượu và anh kép thì mới

thực sự là bất ngờ. Giá như ông cứ lấy và ỉm nó đi thì đã không có chuyện,

đằng này, đôi móng giò dành cho người to nhất làng nay lại được quăng ra như

quăng đi một khúc xương vậy. Vậy mà lạ thay chẳng cụ nào dám lên tiếng và

34

ông Cửu Đoành “lẹp kẹp kéo lê đôi giày qua bọn trai em hoan hôbằng những

tiếng cười nổ như xe phành phạch” thế có bực không chứ?

Từ câu chuyện của ông Cửu Đoành và Hương Bịch, Nam Cao muốn cho

người đọc thấy được bộ mặt của tầng lớp thống trị ở nông thôn lúc bấy giờ.

Phần lớn, những ông có máu mặt ở trong làng luôn tìm cách chèn ép những kẻ

yếu thế hơn. Cùng ngồi trong chiếu đình nhưng mỗi ông lại có một tư tưởng

riêng, một mánh khóe riêng và mỗi chức trong làng có được cũng theo những

cách khác nhau. Có người được trọng vọng, có người khiến người ta sợ hãi mà

dè chừng nhưng cũng không ít người có danh một cách bất đắc dĩ để rồi chuốc

lấy cái nhục vào thân. Những quy định về thứ bậc ở nông thôn lúc bấy giờ đáng

lẽ ra là một nét đẹp, thể hiện sự tôn ti trật tự thì nay lại trở thành một gánh

nặng, một hủ tục đáng lên án.

2.4. Tập tục sinh hoạt

Người Việt gắn với nền nông nghiệp lúa nước, sống phụ thuộc vào thiên

nhiên. Vì vậy, trong thói quen ăn, mặc cũng gắn liền với thiên nhiên đặc biệt là

nền kinh tế nông nghiệp với trồng trọt và chăn nuôi.

2.4.1. Thói quen ăn uống.

Hiển nhiên, để duy trì sự sống, ăn uống là việc quan trọng số một. Tuy

nhiên, quan niệm ăn uống của mỗi người về vấn đề này thì không giống nhau.

Người nông dân gắn liền với nông nghiệp lúa nước bởi vậy việc ăn uống vô

cùng quan trọng: Có thực mới vực được đạo. Nó quan trọng tới mức trời cũng

không dám xâm phạm: Trời đánh còn tránh miếng ăn. Có lẽ vì vậy mà trong

các truyện ngắn của mình Nam Cao đề cập rất nhiều đến việc ăn uống. Những

35

lo toan về bữa ăn, hình ảnh bữa cơm cứ trở đi trở lại trong từng trang viết của

ông.

Ăn uống cũng là văn hóa, văn hóa tận dụng môi trường tự nhiên nên cơ

cấu bữa ăn của người nông dân Việt Nam lại bộc lộ rất rõ dấu ấn của truyền

thống văn hóa nông nghiệp lúa nước. Đó là bữa ăn thiên về thực vật mà lúa gạo

đứng đầu bảng. Điều rất dễ nhận thấy trong tâm lý của người nông dân, thứ đầu

tiên họ lo đến là gạo. Người đọc không ít lần xót xa cho những người nông dân

nghèo, có mẻ gạo đi đong cuối cùng cũng bị bắt nợ. Đó là chị đĩ Chuột (Nghèo)

vừa kêu khóc vừa van lạy bà Huyên khi bà “nhất định bắt mẻ gạo mới đong để

trừ sáu hào nợ chị đĩ Chuột vay từ hai tháng trước cho chồng uống thuốc”. Có

lẽ, tiếng kêu khóc của chị, tiếng chửi bới của bà Huyên đã phần nào đẩy cái

chết của anh đĩ Chuột đến nhanh hơn, khiến anh chết trong tức tưởi. Cảnh bắt

nợ như thế này diễn ra rất phổ biến, miếng ăn của họ bị những chủ nợ chặn mà

lấy ngay giữa đường, giữa chợ, ấy là câu chuyện của người bà trong Dì Hảo và

còn nhiều câu chuyện như thế nữa diễn ra ở cái vùng quê nghèo đói ấy. Những

gia đình khá hơn không lo bị bắt nợ thì cũng từng ngày lo giá gạo lên. Cảnh gà

trống nuôi con đã khổ, lại càng khổ hơn trong cái sự đói nghèo lay lắt, đó là bố

con Dần. Cũng chăm chỉ làm lụng nhưng cuộc sống mỗi ngày một khó khăn

“Trước kia, mỗi người làm một ngày hào rưỡi thì đã gần đủ cả nhà ăn; bây giờ

mỗi ngày được ba hào, tiền gấp hai, nhưng nếu đem đong gạo thì chưa bằng

một góc ngày xưa” . Chỉ xoay quanh miếng ăn thôi mà biết bao nhiêu chuyện

đời, biết bao nhiêu cảnh ngộ.

Trong bữa ăn, nỗi lo về cơm gạo là quan trọng nhất sau đó là đến rau

quả. Có những nhà khấm khá, ngoài bữa cơm chính họ còn có thêm củ khoai,

36

củ sắn. Ấy là niềm vui của bà quản Thích (Nửa đêm) khi thằng Đức, cháu bà đã

lớn và có thể thay bà làm vườn, tuy chẳng giàu được như trước nhưng có khi

“tối đến còn được luộc củ khoai củ sắn”. Rồi lúc thằng Đức đi làm thuê cho

nhà ông Cửu Hòa, cứ trưa trưa nó lại được bữa ăn với củ khoai và bát nước chè.

Hay những khi nhàn rỗi, những người hàng xóm thân thích họ trò chuyện với

nhau và rồi “tôi đi luộc mấy củ khoai lang, nấu một ấm nước chè tươi thật đặc,

ông con mình ăn khoai, uống nước chè, rồi hút thuốc lào…Thế là sướng”(Lão

Hạc) . Ấy thế đã là sang rồi. Vì cuộc sống gắn với nền nông nghiệp nên củ

khoai củ sắn xuất hiện trong đời sống hàng ngày của người nông dân là điều dễ

hiểu, có khi nó không đơn thuần là bữa ăn chơi mà nó còn là bữa chính của

những người nghèo. Nhìn lại cảnh ngộ của lão Hạc không ai là không xót xa,

cuộc sống neo đơn của những người già thật sự rất đáng sợ. Đã mấy hôm liền

“lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi thì khoai cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế tạo được

món gì ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì

ăn rau má, với tỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai, bữa ốc.”

Bên cạnh đồ ăn, phải nói đến thức uống, trong truyền thống đó là nước

chè, là rượu gạo, là tục ăn trầu cau. Đầu tiên phải kể đến là thói quen ăn trầu

của người Việt ta mà đặc biệt là của người phụ nữ ở nông thôn. Cùng nhớ lại

hình ảnh đôi môi của Thị Nở (Chí Phèo), chính nhờ thói quen ăn trầu mà thị đã

phần nào che giấu được một cái xấu của mình, ấy là màu đỏ của trầu đã che đi

cái màu thịt trâu xám ngắt trên đôi môi thị. Có lẽ, cũng nhờ thói quen ăn trầu

nên việc trồng trầu đã trở thành một nghề của người nông dân như nhà anh

Bịch (Mua danh). Bên cạnh tục ăn trầu là uống rượu và nước chè. Ngày lễ tết

thì không thể thiếu đi chén rượu, những cuộc hội họp ăn uống trong nhà cũng

37

vậy. Hãy nhớ lại bữa rượu với thịt chó của người bố trong Trẻ con không được

ăn thịt chó ta sẽ thấy được phần nào thói quen này. Bữa ăn mời bạn đã đành là

có đồ ăn nhưng cũng không thể nào thiếu đi chén rượu, bởi vậy người bố khi

mời bạn bè của mình đến ăn nhậu dù nhà không có tiền hắn cũng bắt vợ đi mua

chịu cho mình chai rượu. Người vợ ở đây cũng là một người hiểu lẽ đời, vì

trong lòng thị dù ấm ức lắm nhưng cũng đành ngậm ngùi mà làm theo lời

chồng vì thị hiểu đã mời bạn bè đến ăn uống thì thiếu gì thì thiếu chứ sao thiếu

được chén rượu. Ngày lễ tết, hội hè thì như vậy, còn đối với ngày thường với

những cuộc trò chuyện dân dã lại không thể thiếu bát nước chè xanh. Đó là ấm

nước chè đặc ông giáo mời lão Hạc uống để ngồi nghe lão tâm sự về chuyện

đời (Lão Hạc), là bát nước chè giải khát giữa trưa của thằng Đức do cái Nhi

mang ra khi làm công cho ông Cửu Hòa.

Như vậy có thể thấy, đời sống ăn uống hàng ngày của người nông dân gắn

liền với những sản vật họ làm ra, gắn liền với đồng ruộng và mảnh vườn. Đó

cũng chính là tất cả tài sản mà họ có được. Và trải qua bao biến đổi thăng trầm

của lịch sử, nét văn hóa ấy còn giữ được nguyên vẹn cho đến tận ngày nay.

2.4.2. Trang phục và ngành nghề truyền thống.

Quan trọng đối với con người sau ăn có lẽ là mặc. Mặc thế nào để chống

chọi với cái nóng, cái rét, mưa gió…và nó còn là một phương thức để làm đẹp

đặc biệt là đối với người phụ nữ.

Vì cuộc sống gắn liền với nghề nông, gắn với tự nhiên nên không chỉ có

bữa ăn mới mang dấu ấn của nền văn hóa nông nghiệp mà ngay cả trong chất

liệu may mặc cũng vậy. Các trang phục ở nông thôn bấy giờ chất liệu đều có

nguồn gốc thực vật nó gắn liền với nghề trồng trọt, gắn liền với những mảnh

38

vườn của người nông dân. Chúng ta không còn xa lạ gì với nghề trồng dâu nuôi

tằm và càng thấy rõ vai trò của cái khung cửi trong nghề dệt vải. Đến với

truyện ngắn của Nam Cao người đọc thấy rất rõ công việc này. Đây là công

việc dành cho người phụ nữ, gần như không có một người phụ nữ nào lại

không biết đến khung cửi, đến ngay cả anh Chí (Chí Phèo) cũng đã từng mơ

ước về một gia đình “ chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”, cái nghề dệt vải

ấy dẫu có lúc rẻ mạt “cố co kéo mới được một tấm năm xu” nhưng nó là cách

để những người nông dân kiếm sống. Mấy ai mà dám rời khỏi khung cửi, họ cố

gắng kiếm từng đồng trên những khung cửi có khi đã rệu rạo. Những người phụ

nữ chân yếu tay mềm không thích hợp với công việc nặng nhọc nơi đồng áng

nên họ chỉ biết bám trụ lấy khung cửi bởi vậy mà cái gì họ cũng chỉ có thể quy

đổi ra miếng vải dệt “Trời ơi là trời !...Mày phá tao thế à? Từ sáng đến giờ,

tao ngồi trầy trầy trên khung cửi, mới được chừng một đồng hào, mà mày phá

tao một lúc một cái niêu, bốn năm cái bát…” (Con mèo). Ấy chính là lời xót xa

của chị vợ khi đồ đạc bị phá trong lần cãi nhau với chồng, họ cũng xót xa chứ,

bởi cả ngày ngồi trên cái khung cửi đâu có nhàn hạ, sung sướng gì mà số tiền

kiếm được lại ít ỏi. Tất cả đều là mồ hôi công sức họ bỏ ra. Vậy mà có những

lúc, họ muốn yên ổn làm ăn cũng không được với mấy ông quan trong làng. Họ

lợi dụng chức sắc của mình để bóc lột đến tận xương tủy những người nông

dân. Thật không có gì để diễn tả nổi sự trơ tráo của bọn quan lại nơi thôn quê

trong cuộc khám xét khung cửi “Tiên, thứ chỉ, lý, phó trưởng, và tất cả các

người có chân ban hội đồng kỳ hào phải hợp sức với nhau, đi khám tất cả các

nhà có công nghệ trong làng, xem mỗi nhà đích thực có bao nhiêu khung cửi

máy, khung cửi tay, về làm bản kê khai rành mạch, đệ lên cho quan xét”,thế là

39

cả làng được phen náo loạn vì cuộc đi khám xét của các quan, nào tiếng chửi

bới, tiếng chân người, tất cả khiến cho cái làng quê vốn yên bình ấy trở nên

nhốn nháo hơn bao giờ hết; và anh cu Thiêm, sau khi kiếm lợi được vài đồng từ

phi vụ này cuối cùng cũng nướng hết vào trò xóc đĩa. Thế rồi, cũng bên cái

khung cửi ấy là bao nhiêu kỉ niệm của nhân vật tôi với dì Hảo (Dì Hảo) . Bên

khung cửi ấy, dì đã dạy “tôi” từ những tiếng âm vô nghĩa đến câu thần chú gọi

cái khôn của loài người, để rồi khi “tôi” thuộc bài cũng là lúc tấm vải của dì

Hảo được dệt xong. Những tấm vải ấy chính là chất liệu để họ may mặc hàng

ngày và hơn hết nó còn là thứ duy trì nguồn sống.

Như đã nói, mặc là việc quan trọng đối với con người sau ăn uống,

những phụ nữ nông thôn bấy giờ luôn gắn liền với hình ảnh của chiếc áo yếm.

Chắc hẳn người đọc vẫn còn nhớ hình ảnh Thị Nở trong đêm gặp gỡ với Chí

Phèo, để chống chọi với cái nóng của mùa hè và để tận hưởng hết cái gió mát

của một đêm trăng bên bờ sống, thị đã cởi áo khoác ngoài chỉ mặc chiếc yếm

rồi ngủ. Chiếc yếm đối với người phụ nữ bấy giờ là một trang phục truyền

thống không thể thiếu, họ mặc nó để phù hợp với từng hoàn cảnh của tự nhiên,

để ứng phó với khí hậu nóng bức. Rồi hình ảnh những con nhà giàu có như cô

Đính thì “yếm lúc nào cũng trắng bong” (Lang Rận) nhưng trái lại, cũng có

những người phụ nữ khác, khác với mọi người. Khác là bởi người ấy không

khăn yếm gì như những người phụ nữ ở đây, đó chẳng ai khác chính là vợ

thằng Đức mới ở Nam Kì về (Nửa đêm). Có lẽ, thị khác bởi cuộc sống ở Nam

Kì vốn khác hơn ngoài này nên thị chẳng còn giữ được hình ảnh áo yếm truyền

thống mà thay vào đó là những trang phục mới mẻ và khác lạ hơn.

40

2.4.3. Xây dựng nhà ở.

Lo ăn. Lo mặc rồi tiếp đến là phải lo đến chỗ ở bởi lẽ An cư lạc nghiệp,

ấy là tư tưởng bao đời nay vẫn thế. Người nông dân gắn bó với đồng ruộng, họ

ưa sự ổn định chứ không thích sự thay đổi ngay kể cả những cái mới. Bởi vậy,

họ luôn cố gắng xây cho mình được một ngôi nhà lấy chỗ chui ra, chui vào, lấy

chỗ mà tránh mưa bão, nắng gió… Vấn đề mua nhà, làm nhà không còn là điều

xa lạ trong truyện ngắn Nam Cao, rất nhiều trang viết của ông đề cập đến vấn

đề này. Những người nông dân khấm khá thì mong có được cái nhà gỗ nhà tre

còn nghèo đói cũng cố dựng cho mình lấy cái túp lều để làm chỗ nương thân.

Đến ngay cả Chí Phèo (Chí Phèo), một thằng tối ngày chỉ biết chìm trong men

rượu, sống bằng nghề rạch mặt ăn vạ mà cũng phải có cái túp lều ở bờ sông để

làm chốn đi về. Dẫu y biến đổi cả về nhân hình lẫn nhân tính nhưng cái gốc

gác, cái bản chất con người nông thôn trong hắn vẫn không mất đi, thế nên hắn

mới “vâng dạ” với Bá Kiến để mua năm sào vườn ở bãi sông bằng số tiền đi

đòi nợ thuê. Có lẽ, trong suy nghĩ của hắn, hắn thấy lời của Bá Kiến “không có

vườn đất thì làm ăn gì” cũng có lí, cũng có nghĩa là trong đầu hắn đã từng nghĩ

tới một cuộc sống ổn định để mà làm ăn. Ngôi nhà mà Chí có được thực chất

chỉ là cái túp lều “ẩm thấp” nhưng nó cũng là may mắn bởi trong cái đêm có

biến ấy, cái đêm mà hắn “chỉ có đủ sức để rên khe khẽ ấy” hắn đã có nhà để

mà nương thân. Rồi cũng không ít những cuộc mua nhà, những lần mất nhà đến

xót xa của người nông dân. Cha của Ninh vì cờ bạc mà chị em Ninh không còn

nhà để ở (Từ ngày mẹ chết), nhìn cảnh người ta dỡ nhà mình đi Ninh chỉ còn

biết mếu máo mà gọi thầy rồi “Ninh nghẹn ngào, không nói được nữa. Nước

mắt ứa ra” , có lẽ một đứa trẻ như Ninh đủ để hiểu chuyện gì đang xảy ra với

41

gia đình nhà Ninh và cũng đủ để Ninh hình dung ra cảnh chị em Ninh sẽ phải

sống như thế nào những ngày tháng sau này. Thật là chuyện đời lắm trớ trêu.

Buồn vì mất nhà là chuyện đã đành, vậy mà có những người mua được nhà

cũng thấy áy náy. Đó không ai khác chính là nhân vật “tôi” (Mua nhà) khi mua

được ngôi nhà gỗ của một người bạn thì thấy mình ác, ác quá. Bởi “tôi” có

được nhà cũng đồng nghĩa là những đứa con của anh Kim bị mất đi ngôi nhà

chúng đang ở, chúng rồi sẽ ở đâu, nương náu chỗ nào, dẫu biết mình không

mua thì người khác cũng mua nhưng lòng “tôi” vẫn cứ không yên. Có lẽ hình

ảnh ám ảnh nhất của truyện ngắn này là lúc đứa con gái lớn ngồi xem người ta

dỡ nhà mình đi. Ban đầu “Mắt nó nheo lại. Cái mặt nó cau cau…Nhưng tôi cứ

thấy nó có vẻ thù ghét tôi lắm lắm” có lẽ nó nghĩ vì “tôi” nên nó mất nhà ở, rồi

khi người thợ mộc bắt đầu tháo gỗ, nó dường như không kìm được nữa, nó

khóc nức nở rồi hờ “Mẹ ơi!...” Tiếng gọi ấy như xé tâm can người khác, như

đang dằn vặt chính lương tâm của “tôi”.

Như vậy có thể thấy, cuộc sống của những người nông dân bấy giờ

có mối quan hệ rất mật thiết với tự nhiên. Sở dĩ có điều này vì cuộc sống

nông nghiệp đòi hỏi con người phải thích ứng với môi trường tự nhiên để

tồn tại. Bởi vậy, ngay trong bữa ăn của người nông dân, tất cả thực phẩm

đều hướng tới những sản phẩm từ nông nghiệp, từ chính những thành quả

lao động mà người nông dân tạo ra như lúa gạo, khoai, sắn…Đó là những

lợi ích, những thuận lợi nhờ tự nhiên mang lại mà con người đã biết cách

tận dụng để phục vụ cho đời sống của mình. Trong các tác phẩm của mình,

Nam Cao đề cập rất nhiều đến miếng ăn, đây là yếu tố đầu tiên để con

người có thể tồn tại, đặc biệt trong hoàn cảnh đói nghèo lúc bấy giờ, miếng

42

ăn càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Cũng bởi vậy, mà có những

người ăn một bữa cơm trong sự nhục nhã để rồi chết tức tưởi, cũng có kẻ để

bảo vệ cho tự trọng của mình mà ăn khoai, ăn sắn cho qua bữa để rồi khi

không cầm cự được nữa thì phải tự kết thúc cuộc đời mình bằng một cái

chết đau đớn. Bên cạnh việc tận dụng những lợi ích từ tự nhiên thì con

người cũng phải lo ứng phó với tự nhiên bởi những thiên tai luôn rình rập.

Vì thế mà họ nghĩ đến nơi ở sau miếng ăn, cũng vì cái nhu cầu nhà ở mà có

biết bao nhiêu chuyện dở khóc dở cười được Nam Cao tái hiện lại.

2.5 Giao tiếp và ứng xử

Con người là chủ thể sáng tạo văn hóa, là sản phẩm của môi trường

văn hóa mà chính nó là đại biểu mang giá trị văn hóa của thời đại. Viết về

nông thôn với những yếu tố văn hóa riêng, Nam Cao không chỉ dừng lại

trên bình diện của đời sống cộng đồng, những phong tục tập quán hay lối

ứng xử với tự nhiên mà ông còn thể hiện nó qua những mối quan hệ của con

người ở nông thôn.

2.5.1 Lối sống đậm tình nghĩa cùng những thói xấu của người nông dân.

Tương thân tương ái vốn là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt từ bao

đời nay. Đặc biệt, đối với người nông dân cuộc sống phụ thuộc hoàn toàn vào

nông nghiệp thì điều này càng không thể thiếu. Nền văn hóa nông nghiệp lúa

nước khiến họ phải nương tựa vào nhau mà sống, sống bằng tình cảm, ấy là

những con người duy tình.

Nam Cao với sự am hiểu của mình về nông thôn đã nhìn ra mối quan hệ

tốt đẹp này. Ông đi sâu vào khai thác, trân trọng và ngợi ca điều đó. Trong các

sáng tác của Nam Cao không thiếu những con người đáng bị lên án, không

43

thiếu những mảng đen của xã hội nhưng sáng ngời lên trên từng trang viết của

ông vẫn là tình người cao đẹp. Đó là sự sẻ chia, đùm bọc và yêu thương lẫn

nhau trong lúc khó khăn hoạn nạn. Sống trong cái ao đời đó, mấy ai mà không

thoát khỏi cảnh nghèo,bởi vậy mà nhiều khi vì nghèo quá, không thể giúp đỡ

được gì cho người khác nhưng họ có thể lắng nghe, cảm thông và thấu hiểu cho

nhau. Chỉ vậy thôi cũng đủ làm ấm lòng những người bất hạnh.

Ông giáo - người láng giềng của Lão Hạc đã giúp lão trong những lúc

khó khăn. Lúc lão buồn ông giáo là người xuất hiện để chia sẻ, giúp đỡ lão, là

người bỏ ra hàng giờ để ngồi nghe lão kể chuyện, nghe lão than phiền về sự

đời. Dẫu có những lúc ông đã nghĩ sai về lão nhưng khi hiểu ra cơ sự ông càng

cảm phục và trân trọng lão hơn. Ông lo ma chay cho lão và giữ mảnh vườn

theo lời di nguyện của lão khi nào con trai lão về thì trao lại. Và cũng như ông

giáo, Lão Hạc tin tưởng ông, người láng giềng của mình một cách tuyệt đối nên

mới giao cho ông giáo cái mảnh vườn mà ông phải đánh đổi bằng mạng sống

của mình để giữ lấy. Chính bằng tình cảm chân thành mà những người láng

giềng dành cho nhau nên khi lão mất đi ông giáo đã vô cùng đau đớn “Lão Hạc

ơi! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt! Lão đừng lo gì cho cái vườn của lão. Tôi

sẽ cố giữ gìn cho lão. Đến khi con trai lão về tôi sẽ trao lại cho hắn và bảo:

“Đây là cái vườn mà ông cụ thân sinh ra anh đã cố để lại cho anh trọn vẹn:cụ

thà chết chứ không chịu bán đi một sào…” . Đó chính là thứ tình cảm nơi thôn

quê mộc mạc, giản dị nhưng chứa đựng biết bao nhiêu là nghĩa tình mà ông cha

ta đã từng nói “bán anh em xa mua láng giềng gần”. Không dừng lại ở đó,

người đọc sao có thể quên được hình ảnh bác Vụ (Từ ngày mẹ chết) khi lấy

phần cơm của con mình cho Đật ăn. Có lẽ bác thấu hiểu được sự thiệt thòi của

44

chị em Ninh khi không còn mẹ, dẫu nghèo túng, dẫu một mình nuôi bốn đứa

nhỏ nhưng vì sự xót thương cho hoàn cảnh của người hàng xóm mà bác không

cầm lòng được. Những con người ấy họ đều nghèo khó, nhưng họ vẫn giúp đỡ

nhau bằng tất cả sự chân thành của mình dù đó chỉ là những đồng xu bé nhỏ,

“Đây này:tôi cho nhà chị vay, bao giờ kiếm được thì trả tôi;chúng nó giầu mà

coi đồng xu bằng cái mẹt” (Dì Hảo) . Đến với tác phẩm Chí Phèo, chúng ta

càng thấy ấm lòng hơn bởi sự yêu thương, đùm bọc của những người nông dân

nghèo khổ. Họ không thể dửng dưng trước một thằng bé bị bỏ rơi “trần truồng

và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên một lò gạch bỏ không”. Dẫu bị

chuyển từ nhà này sang nhà khác nhưng Chí vẫn được cưu mang, đùm bọc

trong vòng tay của những người lương thiện cho đến khi họ mất đi. Cũng chính

tình cảm ấy đã nuôi dưỡng tâm hồn Chí, để anh trở thành một anh canh điền

hiền lành, chịu khó cho đến khi bị xã hội thực dân đẩy vào con đường lưu manh

hóa.

Tình cảm láng giềng của những người dân nghèo thật đáng trân trọng

biết bao. Dù sự giúp đỡ thế nào đi nữa thì đó cũng là biểu hiện của tình người

sâu sắc . Dù nghèo khổ họ vẫn không dửng dưng trước số phận của những

người xung quanh, sự giúp đỡ ấy đã tạo nên tình cảm gắn kết, tạo nên sự cố kết

trong cộng đồng nông thôn. Những người nông dân cũng giống như hình ảnh

lũy tre làng, đan vào nhau, tựa vào nhau, gắn kết với nhau để chống lại gió bão.

Biết nương tựa vào nhau để sinh tồn là cội nguồn của sức mạnh.

Bên cạnh những người sống với nhau bằng tình cảm cao đẹp thì trong

mối quan hệ phức tạp này cũng không tránh khỏi những toan tính ích kỉ, những

ghen tị, hờ hững vô tâm một cách tàn nhẫn với nhau. Sống trong hoàn cảnh cái

45

đói, cái nghèo cứ đeo bám, có những người nông dân bị đẩy sâu xuống vực

thẳm của sự ích kỉ và tàn nhẫn. Cái khổ đã bóp nát những mối quan hệ tốt đẹp

ấy. Đó là những người hay nghe ngóng, thọc mạch chuyện của người khác như

Nam Cao đã khái quát “Ông trời muốn người trong nhà bao giờ cũng phải

nghe chuyện nhà mình ở môi miệng một người ngoài ngõ. Có thế mới vui. Nếu

không những cái miệng đàn bà chỉ dùng vào hai việc: ăn và uống.” (Nửa đêm)

. Vì thế cho nên họ hay soi mói và bêu riếu chuyện người khác. Vì lẽ đó mà cả

cuộc đời của Đức luôn bị ám ảnh bởi mình là con thằng Thiên lôi. Thật đáng

thương cho một thằng bé bị hắt hủi ngay từ khi còn nhỏ. Người đời không chỉ

xa lánh mà còn khoét sâu vào nỗi đau ấy bằng một điệu hát ẩn chứa những định

kiến ghê gớm “Con thằng Thiên lôi ,đâm lòi bụng vợ…”; hay anh cu Lộ (Tư

cách mõ) cũng vậy, “Họ thấy Lộ làm sãi ăn ngon quá. Họ ngấm ngầm ghen với

hắn” để rồi từ một người hiền lành ai cũng yêu mến cuối cùng Lộ trở thành

một tên mõ chính tông, cũng tham lam , cũng đê tiện. Miệng lưỡi người đời quả

thật có sức ảnh hưởng ghê gớm!

Rồi kế đó là những người đàn bà vốn vẫn được coi là hiền lành, là những

người giàu lòng yêu thương thì cũng có lúc lại ích kỉ, lại tàn nhẫn. Bởi lẽ họ

khổ, họ còn đang chật vật với cuộc sống của mình sao dám nghĩ đến việc đi

giúp đỡ người khác. Quả thực trong cảnh khổ người ta khó có thể yêu thương

nhau được. Cái khổ làm người ta thờ ơ, dửng dưng trước cảnh khổ của nhau để

rồi quên đi truyền thống “tương thân tương ái” chứ bản chất họ không vậy

“…Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi.Một người đau chân có lúc nào

quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến cái khác đâu?Khi người ta khổ

quá rồi thì người ta chẳng còn nghĩ đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của

46

người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất”. Ông thấu hiểu

được nguyên nhân của sự thờ ơ, ích kỉ ấy; bởi vậy ông không trách họ mà

thương họ nhiều hơn. Đó cũng là một bi kịch, bi kịch tinh thần mà những người

nông dân phải gánh chịu. Nhiều khi họ nhận thức được việc làm của mình,

nhận thức được sự ích kỉ của mình song họ không thể làm gì hơn được. Con

người ta không ai muốn mình phải ác nhưng hoàn cảnh buộc họ phải thế, hoàn

cảnh không cho phép họ tốt với người khác được: “Đâu phải tôi muốn tệ !

Nhưng biết làm sao được? Ai bảo đời cứ khắt khe vậy? Giá người ta vẫn có thể

nghĩ đến mình mà chẳng thiệt đến ai…” .Ông nhận ra nguồn gốc của cái ác, tội

lỗi sinh ra từ cái khổ, để từ đó mà nhìn sâu hơn vào những biến động của xã hội

và tác động của nó đối với con người.

Không dừng lại ở những mối quan hệ làng xóm, Nam Cao đề cập đến cả

những mối quan hệ máu mủ ruột thịt trong gia đình. Trước hết đó là sự hi sinh

vĩ đại của những người cha, người mẹ cho con cái mình. Lão Hạc đã quên đi

cuộc đời mình vì thằng con trai đi phu đồn điền cao su, trong cái lúc đói quay

đoái quắt ấy lão thà ăn củ sắn, củ chuối, ăn bả chó chứ nhất quyết không phạm

đến món tiền hay một tấc đất để dành cho con. Rồi đến tình cảm cha con quyến

luyến bịn rịn khi Dần đi lấy chồng (Một đám cưới); và thậm chí có những

người cha đã treo cổ tự tử để nhường lại cho con mình miếng ăn (Nghèo), tất cả

đều đáng trân trọng lắm chứ. Thế nhưng bên cạnh đó, có những người vì nghèo

đói, vì hoàn cảnh mưu sinh chật vật…mà đã đối xử vô tâm, cay nghiệt với

chính những người thân yêu của mình. Đó là ai? Chính là người cha trong Trẻ

con không được ăn thịt chó , một người cha tham ăn, sẵn sàng giành ăn với

chính con ruột của mình trong khi đó, chúng nheo nhóc, đói khát “chúng nuốt

47

nước bọt nhem nhép. Chúng thừ mặt ra. Chúng nằm ẹp xuống đất và lật áo lên

để khoe cái bụng. Bụng đứa nào cũng gần dính lưng” . Cái cảnh ấy thật xót xa

biết bao, vậy mà người cha lại nhẫn tâm ăn hết phần của chúng để chúng quằn

quại vì cái đói, “Trong mâm, chỉ còn bát không. Thằng cu con khóc òa lên.Nó

lăn ra, chân đập như một người giãy chết, tay cào xé mẹ”. Hay người mẹ của

Hồng (Bài học quét nhà) thì chỉ vì cuộc sống khó khăn mà trút mọi bực dọc,

tức giận lên đầu đứa con gái của mình, chửi mắng, thậm chí đánh đập con hết

sức vô lý “Hồng phải mắng luôn luôn. Động một tí gì thì u cũng mắng. Nói một

mình, mắng ! Vấp ngã, mắng! Đi chậm mắng!...”; rồi thậm chí cả những việc

không liên quan đến mình Hồng cũng bị mắng. Rồi đến bà ngoại của Ngạn

(Nhìn người ta sung sướng) cả đời bà phải chịu cực khổ bởi vậy mà bà ghen tị

với sự sung sướng của con gái và cháu trai bà. Đây thực sự là một điều kì lạ,

xưa nay người ta chỉ thấy họ ghen tị với hàng xóm, với người ngoài chứ ai đi

ghen tị với cả con cháu mình.

Không chỉ vậy, mối quan hệ gay gắt trong gia đình được Nam Cao đề

cập nhiều nhất chính là mối quan hệ vợ chồng. Nghèo đói, khổ cực đã khiến

những con người vốn hiền lành trở nên tàn nhẫn và lạnh lùng hơn, khiến họ

hành động trái với bản chất của mình. Vợ chồng thương yêu nhau là thế, vậy

mà vẫn cứ rình để bắt bẻ, để gây gổ, để đay nghiến nhau…nhưng rồi chỉ trong

chốc lát họ lại có thể làm hòa với nhau ngay được. Nam Cao đã vẽ ra một

khung cảnh rất hài hước của đôi vợ chồng trong truyện ngắn Con mèo , vợ

chồng chì chiết, rượt đuổi lẫn nhau. Sau một cơn thịnh nộ người ta cứ nghĩ mọi

việc sẽ trở nên trầm trọng hơn, nhưng không, họ làm hòa với nhau nhanh đến

mức ngay cả người trong cuộc như họ cũng thấy ngượng ngùng vì xấu hổ

48

“Nỡm lắm. Có ra chõng mà nằm không? Cái Viễn nó lại cười cho là trò trẻ.

Mới giận nhau chập tối, nửa đêm đã lành” . Quả thật, trong cuộc sống nghèo

khổ, con người dễ dàng mâu thuẫn , gây sự bởi những chuyện không đâu. Có

vậy mới thấy cái nghèo nó ám ảnh ghê gớm đến mức nào. Bên cạnh những

cảnh hài hước như vậy thì người đọc cũng phải xót xa trước cảnh vợ chồng

Đức (Nửa đêm) , chúng cứ đánh đập chửi bới nhau rồi lại làm lành triền miên

như vậy. Quan hệ vợ chồng là mỗi quan hệ hai chiều, những người phụ nữ trên

ít nhiều cũng đã có tiếng nói nhưng bên cạnh đó cũng có những người vợ sống

nhẫn nhịn, cam chịu. Đó là dì Hảo, từ ngày đi lấy chồng nụ cười của dì đã

không còn tồn tại. Người phụ nữ ấy phải chịu đựng những bất công vô lý trong

mối quan hệ gia đình. Cả cuộc đời không có lấy một nguồn vui nào để động

viên an ủi. Gia đình tan nát, con chết, bản thân bị bệnh tật, con người này

dường như phải chịu tất cả những cay đắng nghiệt ngã mà cuộc đời đổ dồn lên.

Cuối cùng chỉ còn lại những tiếng khóc xót xa: “Dì nghiến chặt răng để cho

khỏi khóc, nhưng mà dì cứ khóc. Chao ôi ! Dì Hảo khóc. Dì khóc nức nở, khóc

nấc lên, khóc như người ta thổ” . Nỗi chua chát, bẽ bàng ấy không chỉ có một

mình người phụ nữ như dì Hảo phải chịu đựng, còn có người vợ trong Đòn

chồng, cũng bị hành hạ hết sức dã man, bị giày xéo, đánh đập. ..Qua nỗi bất

hạnh của những người vợ ấy, Nam Cao muốn gióng lên một hồi chuông kêu

cứu với những số phận người nông dân mà đặc biệt là những người phụ nữ

trong mối quan hệ gia đình đầy bất công và ngang trái. Cảnh tỉnh với những

người nông dân ham cờ bạc, rượu chè để gia đình tan nát, đổ vỡ.

49

2.5.2. Sự tế nhị, ý tứ trong giao tiếp

Trước hết, xét về thái độ của người Việt trong giao tiếp, có thể thấy

được đặc điểm của người Việt là thích giao tiếp nhưng lại rất rụt rè. Điều

này rất đúng đối với người nông dân. Sở dĩ họ có đặc điểm này bởi sống

trong môi trường lao động với tính tập thể rất cao nên người nông dân rất

thích giao tiếp, rất cởi mở trong giao tiếp. Tuy nhiên, vì cuộc sống cố định

ít có di chuyển mà chỉ ở một chỗ, không có sự giao lưu với bên ngoài vì

vậy họ rất rụt rè.

Xét về quan hệ giao tiếp, với nguồn gốc văn hóa nông nghiệp lối sống

trọng tình đã dẫn người Việt ta đến chỗ lấy tình cảm, lấy sự yêu ghét làm

nguyên tắc ứng xử, cuộc sống thiên về tình cảm mà coi nhẹ lí lẽ. Đặc biệt là

những người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, biểu hiện của yếu tố trọng tình trong

giao tiếp chính là sự tế nhị, ý tứ.

Những cách nói đưa đẩy, rào đón trước khi đi vào nội dung chính của

câu chuyện là một thói quen trong khi giao tiếp của người nông dân. Không

phải chỉ những ông lý trưởng, những ông chánh tổng…mới biết cách ăn nói này

mà đến ngay cả một thằng say rượu như Chí Phèo cũng biết, bởi đó là một thói

quen đã ăn sâu vào lối sống của mỗi người. Nhớ lại cảnh anh Chí khật khưỡng

bước đến nhà Bá Kiến để xin đi ở tù. Thoạt đầu, người ta thấy đây là điều hết

sức vô lý, xin gì không xin lại xin đi ở tù, chẳng hay hắn là kẻ không bình

thường. Cùng nhìn lại cuộc đối thoại giữa Chí Phèo và Bá Kiến để hiểu rõ hơn

điều này:

- Bẩm không ạ, bẩm thật là không say. Con đến xin cụ cho con đi ở tù mà

nếu không được thì…thì…thưa cụ…

50

Hắn móc đủ mọi túi, để tìm một cái gì, hắn giơ ra:đó là một con dao nhỏ,

nhưng rất sắc. Hắn nghiến răng nói tiếp;

-Vâng, bẩm cụ không đươc thì con phải đâm chết dăm ba thằng, rồi cụ

bắt con giải huyện.

Rồi hắn cúi xuống, tần mần gọt cạnh cái bàn lim. Cụ Bá cười khanh

khách. Cụ vẫn tự phụ hơn đời cái cười Tào Tháo ấy. Cụ đứng lên vỗ vai hắn

mà bảo rằng:

-Anh bứa lắm. Nhưng này, anh Chí ạ, anh muốn đâm người cũng không

khó gì. Đội Tảo nó còn nợ tôi năm mươi đồng ấy, anh chịu khó đến đòi cho tôi,

đòi được tự nhiên có vườn.

Một người như Bá Kiến không khó khăn gì để nhận ra mục đích của Chí

Phèo, hắn không phải xin đi ở tù mà điều hắn muốn ấy chính là tiền, hắn muốn

tiền để thỏa mãn cái cơn thèm rượu của hắn. Ngay đến cả ông Trương (Nửa

đêm) khi đi hỏi vợ cũng vậy. Một kẻ làm nghề đồ tể, vốn cục cằn thô lỗ vậy mà

cũng biết cách nói vòng vo này. Hắn đi hỏi vợ nhưng lại nói “Ở đây có nuôi

một con gà mái tơ rất đẹp, tôi muốn mua đem về nhà nuôi”, không muốn nói

thẳng ý của mình muốn để cho bà cụ tự hiểu, chứ ai đời đi gả con gái cho một

kẻ như hắn. Ấy thế mà thoạt đầu bà cụ không hiểu thật, nhưng sau rồi cũng

hiểu mà lại không dám tỏ ra là đã hiểu. Sự đời thế mới thật oái oăm bởi điều

mà hắn muốn thì hắn sẽ có cho bằng được. Hay chuyện lão Hạc (Lão Hạc) nhờ

ông giáo trông coi mảnh vườn và lo liệu lúc lão chết cũng vậy. Chỉ có hai vấn

đề đó thôi nhưng lão không nói thẳng ngay mà còn vòng vo kể rất dài dòng. Có

lẽ lão phải kể dài dòng như vậy để ông giáo hiểu cho hoàn cảnh của lão mà

51

giúp lão, ông phải kể ngọn ngành mọi chuyện như vậy giống như một lý do để

thuyết phục ông giáo. Đó là những con người rất hiểu đời.

Sự tôn trọng danh dự, địa vị xã hội khi giao tiếp cũng là một điểm làm

nên nét văn hóa của người nông dân trong các sáng tác của Nam Cao. Khi một

người có chức vị thì điều đầu tiên mà người ta hãnh diện là trong giao tiếp họ

sẽ không bị gọi bằng tên tục của mình mà gọi bằng chức vụ ông lý, ông cửu,

ông chánh tổng…và được xưng hô bằng những từ kính cẩn như ông, cụ…

Ngay cả Lê Văn Dự (Nửa đêm) , một tên đồ tể chỉ làm cái chức trương tuần

thôi thế mà vẫn được một người già khọm gọi bằng “ông” và thưa gửi một cách

kính cẩn “Thưa với ông Trương”. Có thể, lời xưng hô ấy không có chút thành

tâm hay tôn trọng nào mà chỉ bởi bà lão muốn yên ổn nhưng hẳn là hắn cũng

thấy oai lắm. Rồi đến một thằng không sợ trời không sợ đất như Chí Phèo vậy

mà khi gặp Bá Kiến hắn vẫn một câu dạ, hai câu vâng và thưa gửi bẩm cụ rất

kính trọng. Ấy là cái tâm lý của người Việt, họ trọng những người có chức hay

có học như ông giáo chẳng hạn (Lão Hạc). Lão Hạc già cả nhưng với một

người biết chữ như ông giáo, lão rất nể nên cuối câu nói của lão bao giờ cũng là

“ông giáo ạ!”.

Không chỉ đối với những người có học, những người có chức sắc mà

ngay cả trong gia đình, vợ chồng cũng xưng hô rất tình cảm: mình, tôi, thầy nó,

bu nó… Đôi vợ chồng trẻ trong Rình trộm khiến không ít người phải ganh tị

bởi sự thân thiết và tình cảm của họ. Dù chưa có con nhưng họ vẫn gọi nhau là

bu mày với thầy nó. Hay một chuyện vợ chồng (Con mèo) lúc cãi nhau thì xưng

mày - tao vậy mà chỉ qua một đêm đã làm lành với nhau, lại mỉm cười và

chẳng còn nữa cái từ mày - tao .

Có thể nói, cách thức giao tiếp, sự lựa chọn từ ngữ xưng hô cẩn thận là

một điều khá hay trong truyện ngắn Nam Cao. Nó càng khắc họa nổi bật hơn

những nét văn hóa truyền thống của người nông dân ngày xưa, mộc mạc giản dị

nhưng chân thành và đầy tình cảm.

52

Tiểu kết chương 2

Qua tiếp cận các sáng tác của Nam Cao về đề tài nông thôn trước 1945

dưới góc nhìn văn hóa ta thấy được chiều sâu trong các tác phẩm của ông. Nam

Cao đề cập đến những vấn đề của nông thôn không đơn thuần là lên án hay tố

cáo chế độ của xã hội cũ chà đạp lên những người nông dân mà bên cạnh đó

ông còn đề cập đến cả một không gian văn hóa với những nét văn hóa cần được

bảo lưu bên cạnh những cái cần được xóa bỏ hay cách tân nó đi cho phù hợp.

Thông qua các sáng tác của Nam Cao người đọc thấy được một nông thôn Việt

Nam với những phong tục tập quán vừa đẹp vừa nhân văn nhưng lại vừa là

những hủ tục có tính chất vô nhân đạo. Nó góp phần cùng bộ máy thống trị của

thực dân phong kiến đẩy người nông dân vào sự bế tắc, cùng đường. Hay nói

cách khác, giai cấp thống trị đã lợi dụng những hủ tục, lợi dụng lòng “hám

danh” của người nông dân để bóc lột họ tới tận xương tuỷ.Cuộc sống khốn khó

của người nông dân gây ra bởi chế độ xã hội là cái nhìn khách quan trước mắt,

nhưng yếu tố chủ quan lại chính là những quan niệm truyền thống do chính

người dân tạo ra. Chính họ tự buộc mình vào con đường của cái đói, cái nghèo

mà không thoát ra được. Nhiều khi chính họ hàng, làng xóm lại là những người

đẩy nhau vào ngõ cụt của cuộc sống bởi lòng tham, bởi tầm nhìn hạn hẹp trong

không gian sống. Tuy nhiên khi nói về người nông dân, dù có cả những thói hư

tật xấu và cả những cái tốt đẹp nhưng Nam Cao không hề khinh bỉ hay miệt thị

họ, ngược lại ông càng hiểu họ hơn, thông cảm và trân trọng trước những cảnh

đời éo le. Có được sự cảm thông ấy trước hết vì ông chung hoàn cảnh sống với

họ, cùng sinh ra từ một làng quê nghèo trong tình cảnh khốn khỏ, từng chứng

kiến cảnh đàn con của mình nheo nhóc và có đứa đã chết bởi cái đói. Ông xót

xa cho những kiếp sống cực khổ khiến họ mụ mị và tăm tối hơn. Mặt khác ông

cũng đề cao những giá trị văn hóa làm sống dậy tinh thần của con người, mà ở

đây căn bản nhất chính là sự yêu thương lẫn nhau. Đó là ai, là Thị Nở - một đại

53

diện của cái xấu đã cứu rỗi cho cuộc đời của Chí Phèo để hắn thức tỉnh và để

hắn được làm người khi đã bước vào bờ vực thẳm. Ai dám nói tình yêu ấy

không đẹp, nó không chỉ đẹp mà còn là cao cả, bởi vượt lên trên cả tình yêu đôi

lứa, đó là tình thương giữa con người với con người, là sự đồng cảm và sẻ chia

với nhau của hai kẻ bất hạnh. Trên trang viết của Nam Cao người nông dân

không chỉ tồn tại một chiều với những nghĩa cử cao đẹp của tình làng nghĩa

xóm mà có cả những kẻ ích kỉ, tàn nhẫn chứ không có cái nhìn một chiều,

phiến diện như Tự lực văn đoàn. Ấy là điểm mới, là sự tiến bộ và sâu sắc của

Nam Cao.

54

CHƯƠNG 3: DẤU ẤN VĂN HOÁ NÔNG THÔN TRONG NGHỆ

THUẬT TRUYỆN NGẮN NAM CAO

3.1 Dấu ấn văn hoá nông thôn trong ngôn ngữ

Ngôn ngữ truyện ngắn Nam Cao mang một chất giọng riêng bởi nó gắn

rất sâu với đời, với cảnh ngộ và tâm trạng của nhiều loại người từ ngôn ngữ

trần thuật đến ngôn ngữ của các nhân vật

3.1.1 Ngôn ngữ trần thuật

Trong tác phẩm tự sự, “trần thuật là phương diện cơ bản của phương

thức tự sự, là việc giới thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật,

sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của một người trần thuật nhất định.

Vai trò của trần thuật rất lớn.” [14;tr307]. Trần thuật là thành phần lời của tác

giả, của người trần thuật hoặc của một người kể chuyện… Trần thuật là phương

thức chủ yếu cấu tạo nên tác phẩm ở việc kể, miêu tả các hành động và các biến

cố trong thời gian; mô tả chân dung, hoàn cảnh hành động, tả ngoại cảnh, tả nội

thất,… bàn luận; lời nói bán trực tiếp của các nhân vật…. Vì vậy, ngôn ngữ

trần thuật là ngôn ngữ nhà văn dùng để xây dựng câu chuyện, là nơi bộc lộ rõ ý

thức sử dụng ngôn ngữ có chủ ý của nhà văn. Ngôn ngữ trần thuật giữ một vị

trí vô cùng quan trọng, thông qua đó người đọc có thể nhận ra được phong

cách, cá tính riêng của từng nhà văn.

Với Nam Cao, ông có cái nhìn mới mẻ, có ngôn ngữ mới cho sáng tác

của mình. Ngôn ngữ trần thuật của Nam Cao là một thứ ngôn ngữ phong phú

như hiện thực của cuộc sống. Ông đưa vào ngôn ngữ của mình những chiêm

nghiệm, những cảm xúc suy tư về cuộc sống và con người. Nhân vật người kể

chuyện ở ngôi thứ 3 xuất hiện tương đối nhiều trong truyện ngắn của Nam Cao

với một loạt các tác phẩm như: Từ ngày mẹ chết, Bài học quét nhà, Chí Phèo,

55

Một bữa no, Nửa đêm, Một đám cưới, Nghèo, Đôi móng giò, Trẻ con không

được ăn thịt chó,… Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Nam Cao mang đậm

màu sắc triết lý. Ông phân tích, mổ xẻ để tìm ra ngọn nguồn của mọi sự việc.

Trong ngôn ngữ ấy, nó mang đậm nét văn hoá của người nông dân. Tâm trạng

của một đứa con gái nhớ đến mẹ mình mỗi khi trời mưa rét, điều ấy là hoàn

toàn hợp lý, bởi lẽ, cái rét, cái mưa khiến cho người ta cô đơn hơn và thèm hơi

ấm hơn bao giờ hết. Cái Ninh (Từ ngày mẹ chết) cũng vậy, nó nhớ bu nó, nhớ

cái thói quen thường ngày khi bu nó còn sống, rồi nó nghĩ về cha nó, trong đầu

nó bắt đầu hiện lên những câu hỏi vẩn vơ về người cha đi đâu mấy hôm nay

không thấy về “Đàn ông chả mấy người biết thương con cái... Thật thế ư?

Không có lẽ. Thầy Ninh thương chị em Ninh lắm chứ!... Hồi bu mới chết, thằng

Đật khóc suốt ngày. Nó gào bu. Nó đã hiểu là thế nào đâu. Nó cứ đòi gọi bu về

với nó. Thầy phải cõng nó ra chợ mua bánh. Thầy mua cho nó nhiều bánh lắm.

Thầy mua cả cho Ninh nữa. Thầy với Ninh bày cỗ chơi với Đật. Thầy làm cho

Đật những con quay bằng những quả bưởi con, những cái giường, những cái

ghế tràng kỷ bằng cây chót. Trông thích lắm. Nhờ vậy Đật mới không khóc

nữa…” Có thể thấy, trong lời kể chuyện là sự băn khoăn, tác giả dường như

đang hoá thân vào nhân vật để thấy được sự giằng xé trong nội tâm của nhân

vật. Có những câu hỏi đặt ra, có những hoài nghi rồi lại có cả những lý

giải…tất cả đều phù hợp với tâm trạng của một bé gái mới lớn như cái Ninh.

Những đứa trẻ mới lớn ở nông thôn chúng thường có suy nghĩ già dặn hơn tuổi,

những suy nghĩ của những người lớn và Ninh cũng vậy. Cuộc sống nghèo khổ

và thiếu vắng mẹ nên nó phải lớn trước cái độ tuổi của mình.

Cùng với lối kể chuyện ấy, Nam Cao đã dẫn người đọc vào một thế nội

tâm nhân vật đầy phức tạp, đó là nội tâm nhân vật Chí Phèo (Chí Phèo), là tâm

trạng của một kẻ say rượu khi bị ốm, khi một lần thực sự tỉnh táo. Ấy là cái

trạng thái bâng khuâng của một người lần đầu tiên tỉnh rượu, là những suy nghĩ

miên man về quá khứ, một quá khứ với những ước mơ hết sức bình dị “Hắn

56

bâng khuâng như tỉnh dậy, hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn. Người thì

bủn rủn, chân tay không buồn nhấc, hay là đói rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột

gan lại nôn nao lên một tý. Hắn sợ rượu cũng như những người ốm sợ cơm.

Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cườu nói của những người đi

chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá.Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào

chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy... Chao ôi là buồn!... Hình như có

một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê,

vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua

dăm ba sào ruộng làm.” Đây cũng chính là tâm lý của những người nông dân,

những con người đã bước sang cái “dốc bên kia” của cuộc đời, khi ngẫm nghĩ

về tương lai, về quá khứ họ thường dằn vặt, day dứt bởi những điều không thực

hiện được. Chí Phèo cũng vậy, sinh ra ở nông thôn, hắn cũng như bao người

khác, chẳng dám mong ước điều gì xa xôi, cái mà hắn muốn là một cuộc sống

bình thường như bao nhiêu con người khác. Nhưng hiện thực xã hội đẩy hắn

xuống bùn lầy để ngày hôm nay khi tỉnh dậy sau một cơn say hắn thấy buồn,

thấy cô độc hơn bao giờ hết và phải chăng hắn đã già. Quả thật hắn đã già, dấu

hiệu của sức khoẻ báo cho hắn biết và cái tuổi già ấy còn đến trong những suy

tư của hắn.

Có thể thấy, Nam Cao rất tinh tế trong việc diễn tả tâm lý nhân vật, hiểu

nội tâm của nhân vật, ông không dùng lời kể của mình để kể một câu chuyện

hay cuộc đời một nhân vật nào mà xen vào đó là những sắc thái tình cảm đối

nghịch nên tác phẩm của ông cùng lúc vang lên nhiều tiếng nói. Có những khi

ông kể với giọng vừa sắc lạnh vừa gân guốc nhưng cũng chan chứa yêu thương

và tha thiết trữ tình. Có những lúc lại vui tươi, hóm hỉnh khi nghe Hồng (Bài

học quét nhà) kể về những kỉ niệm vui của hai bố con. Cũng chính điều này đã

tạo nên màu sắc riêng trong lời kể chuyện ở truyện ngắn Nam Cao, làm nên

phong riêng, tạo ấn tượng đối với người đọc.

57

3.1.2 Ngôn ngữ nhân vật

Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nam Cao hết sức phong phú, từ

những người nông dân nghèo đến những bậc trí thức, bởi vậy, mỗi một con

người là một giọng điệu riêng, một ngôn ngữ riêng, nhân vật nào ngôn ngữ ấy.

Trên địa bàn nông thôn thế nhưng không phải ai cũng nói giống nhau, không

phải ai cũng nhẹ nhàng, tình cảm và thấu đáo như ông giáo (Lão Hạc), cũng

không phải ai cũng chua ngoa như bà Phó Thụ (Một bữa no).

Nhìn lại cuộc gặp gỡ giữa bà cái Đĩ và bà Phó Thụ trước ngưỡng cửa của

cái chết vì đói. Cái cuộc đi chơi của bà cái Đĩ mà thực chất là đi ăn chực bữa

cơm, cũng từ đó lẽ ra bà chết đói mà trở thành chết no. Có lẽ nào bà cụ chết vì

no cơm là một phần mà chết vì no chửi lại là phần nhiều. Lời của bà Phó Thụ

cứ mãi văng vẳng trong câu chuyện: “Chơi với bời! Cái lúc nó mới đến trông

như con giun chết, cạy gỉ mũi chưa sạch thì không thấy chơi với bời! Người ta

nuôi mãi, bây giờ mới trơn lông đỏ da một tí đã phải đến mà giở quẻ. Tưởng

báu ngọc lắm đấy! Tưởng người ta phải giữ khư khư lấy đấy !...Úi chào! Có

phải mả tổ nhà người ta đâu mà người ta giữ? Muốn bắt nó về, cho nhà nào nó

nuôi làm bà cô tổ nhà nó thì cứ bắt. Ai người ta thiết ? Cứ trả lại tiền người

ta”. Cùng sống ở nông thôn, thế nhưng những người có ăn như bà Phó Thụ

dường như có cái quyền xỉa xói vào mặt người khác, có cái cách nói đay

nghiến, xoáy sâu vào tâm cam người ta, khiến người ta thấy nhục nhã. Giá mà

bà Phó Thụ cũng nói được như ông giáo (Lão Hạc) “Kiếp ai cũng thế thôi, cụ

ạ! Cụ tưởng tôi sung sướng hơn chăng?” thì biết đâu bà lão đã chẳng phải chết

như vậy.Ông giáo cũng nghèo, cũng cực nên hiểu được hoàn cảnh của lão để

mà cảm thông, chia sẻ với lão, còn bà Phó Thụ hay Bá Kiến, một người có của

ăn của để, môt kẻ có chức có quyền sao biết được nỗi lòng. Hoàn cảnh nào

ngôn ngữ đó, nhân vật trong truyện ngắn Nam Cao có ngôn ngữ riêng bởi vậy

58

mà giữa thế giới nhân vật đông đúc không ai lẫn vào nhau. Ngôn ngữ trí thức

của ông giáo khác với ngôn ngữ của những người trí thức như Ngạn (Nhìn

người ta sung sướng), những kẻ cầm quyền như Bá Kiến sao lẫn được với ông

Cửu Đoành. Thế giới nhân vật trong sáng tác Nam Cao sống động hơn qua

ngôn ngữ và trước hết là nhờ vào ngôn ngữ, với ngôn ngữ đối thoại và ngôn

ngữ độc thoại của nhân vật.

3.1.2.1 Ngôn ngữ đối thoại

Dù có khoảng thời gian dài không sống ở nông thôn, nhưng dường như

chất “quê” vẫm thấm đẫm trong ngòi bút của Nam Cao khi miêu tả về cuộc

sống cũng như tâm lý, phẩm chất và tính cách của người nông dân. Nhân vật

của ông thường bị đặt vào những tình huống hết sức éo le, có những khi là sự

lựa chọn giữa lợi ích cá nhân và thái độ của mọi người xung quanh. Bởi vậy

trong ngôn ngữ của từng nhân vật, cách lựa chọn, xử lý tình huống cũng đa

dạng hơn bao giờ hết. Khi đề cập nỗi khổ của người nông dân, ngòi bút Nam

Cao xoáy sâu vào những bi kịch về miếng ăn, về cái đói của những người nông

dân. Nhưng đứng trước nỗi lo ấy mỗi người nông dân lại có cách xử lý khác

nhau. Có những người chồng, người cha đặt trước thử thách miếng ăn họ vẫn

cam chịu, nhẫn nhục và nhận về mình phần thiệt thòi hơn. Lão Hạc (Lão Hạc)

vì muốn giữ lại mảnh vườn cho con mà phải ăn bả chó để chết chứ quyết không

phạm vào mảnh đất cho con. Đó là tình thương vô bờ bến mà người cha dành

cho con. Cũng giống như Lão Hạc, anh Đĩ Chuột cũng chọn lấy cho mình cái

chết để nhường cho con miếng cơm. Thế mới thấy được, tình phụ tử thiêng

liêng như thế nào.

Người nông dân trước những áp lực của cuộc sống họ vẫn giữ được bản

tính tốt đẹp của mình - đó là bản tính hiền lành, sự thuỷ chung, nhân hậu,

không chỉ đối với con người, không chỉ với những người thân trong gia đình nó

còn biểu hiện ngay cả với con vật nuôi trong nhà. Lão Hạc (Lão Hạc) là một

trong những người nông dân như thế. Cách mà lão đặt tên cho con chó (Vàng)

59

hay cách lão gọi nó cũng đủ để biết được với lão con chó không chỉ là con vật

nuôi mà nó còn là một người bạn, mộtngười thân. Rồi đến khi nghe giọng lão

thông báo với ông giáo rằng đã bán cậu Vàng mà người đọc không thể không

xúc động:

“- Cậu Vàng đi đời rồi ông giáo ạ

_ Cụ bán rồi?

_ Bán rồi! Họ vừa bắt xong.”

Không chỉ vậy, lão còn tự mắng mình khi đã già mà còn đi lừa một con

chó “Khốn nạn! Khốn nạn ông giáo ơi! … Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi

còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó”. Vì hoàn cảnh mà

lão phải bán đi cậu Vàng và đây là hành động duy nhất mà lão làm trái với

lương tâm của mình. Hành động ấy cùng với ánh mắt của cậu Vàng nhìn lão

cũng đủ để lão day dứt đến lúc chết. Và cách lão chọn cho mình cái chết cũng

như để trừng phạt mình vì đã trót lừa một con chó.

Cuộc sống nơi làng quê của những người nông dân vốn là cuộc sống

trong tối tăm, chịu sự đè nén của bọn thống trị; nhưng dù trong hoàn cảnh cùng

cực họ - những người nông dân vẫn giữ được lòng tự trọng cho mình. Đó là nét

đẹp vô cùng đáng quý, đáng được trân trọng. Chí Phèo (Chí Phèo) từ nhỏ đã

chịu thiệt thòi khi sinh ra là thằng không cha không mẹ, đánh đổi sức lực của

mình để kiếm lấy miếng ăn một cách chân chính. Khi đi ở cho nhà Bá Kiến

lòng tự trọng của một anh thanh niên được biểu hiện khi bị bà ba gọi lên bóp

chân. Lúc ấy Chí thấy nhục chứ có thích thú hay yêu thương gì đâu bởi lẽ “Hai

mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không toàn là xác thịt. Người ta

không thích cái gì người ta khinh. Vả lại bị một con đàn bà gọi đến nhà mà bóp

chân! Hắn thấy nhục hơn là thích, huống hồi lại sợ”. Người nông dân họ

nghèo nhưng không hèn, những con người như thế lại càng giàu lòng tự trọng

hơn bao giờ hết.

60

Điều tiếp đến mà người ta nhận thấy ở những người nông dân đó là sự

lương thiện, lương thiện từ lối sống đến suy nghĩ. Người nông dân đầu tiên mà

người ta nghĩ đến với bản tính lương thiện chính là lão Hạc. Lão khóc khi trót

lừa một con chó, cho đến khi đứng trước nguy cơ của cái đói lão đã cố nhặt

nhạnh số tiền mà mình có để gửi ông giáo lo liệu chuyện hậu sự cho mình bằng

một thái độ dứt khoát “ Được ạ ! tôi đã liệu đâu vào đấy… Thế nào rồi cũng

xong” (Lão Hạc). Và cách mà lão lo liệu chính là việc tìm đến cái chết, một cái

chết vật vã, quằn quại. Từ lúc sống lão đã kiếm ăn một cách chân chính trên

mảnh vườn của mình, từ việc làm lụng và bán hoa màu, đến lúc quá khó khăn

lão mới bán con chó đi nhưng lại day dứt và ân hận vô cùng. Cho đến khi bị

dồn vào bước đường cùng của cuộc sống lão đầu đành hàng hoàn cảnh để giữ

cho mình sự lương thiện ấy bằng việc tìm đến cái chết.

Hay ở nhân vật bố của Dần (Một đám cưới) cũng vậy, cảnh gà trống nuôi

con với biết bao khốn khó, ông phải một mình lo liệu mọi việc trong gia đình,

thế nhưng cũng giống như lão Hạc “ Thì chỉ đến chết là cùng chứ gì? Còn hơn

ngồi nhà mà chết đói”, đó vẫn là cái tuyên ngôn cho bản tính lương thiện của

những người nông dân “chết trong còn hơn sống đục”, và đây cũng là bài học

làm người mà ông cha ta truyền lại cho con cháu. Xót xa hơn là hoàn cảnh của

gia đình anh đĩ Chuột, bệnh tật xen lẫn cái đói đang hoành hành trong con

người anh, đói lờ đờ cả mắt nhưng anh và mọi người trong gia đình vẫn gắng

gượng bằng nồi cháo cám chứ không thể nào sống mà đánh mất đi sự lương

thiện của mình được.

Cuộc sống đói khổ, miếng cơm manh áo đã đẩy các nhân vật của Nam

Cao vào những hoàn cảnh khác nhau, có những người chọn cái chết để giữ cho

mình một nhân phẩm tốt đẹp như lão Hạc, bố Dần, anh đĩ Chuột…nhưng cũng

có những kẻ bất chấp tất cả vì miếng ăn như anh cu Lộ (Tư cách mõ), từ một

người hiền lành, lương thiện, giàu lòng tự trọng vậy mà bỗng chốc vì cái lợi

trước mắt, vì miếng ăn anh đã trở thành một tên mõ chính tông, bỏ qua sự dèm

61

pha của mọi người. Rồi những người như Chí Phèo sống bằng nghề rạch mặt

ăn vạ đến khi muốn tìm lại sự lương thiện thì đã quá muộn:

“- Tao muốn làm người lương thiện

_ Ồ, tưởng gì ! Tôi cần anh lương thiện cho thiên hạ nhờ

_ Không được ! Ai cho tao lương thiện ? Làm thế nào để mất được

những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa.

Biết không ! Chỉ có một cách… biết không! Chỉ có một cách là… cái này biết

không!”

Cuộc đối thoại với Bá Kiến đã cho thấy được sự trỗi dậy của con người

lương thiện trong Chí nhưng mong muốn quay về làm người lương thiện giờ

đây là không thể. Cách duy nhất mà Chí có thể làm đó là tìm đến cái chết, hắn

chết trên con đường trở về làm người.

Người nông dân dù bị tha hoá, dù giữ lại được bản tính tốt đẹp của mình

thì cuối cùng họ đều phải nhận một kết thúc đau đớn. Tất cả đều bắt nguồn từ

nguyên nhân sâu xa, đó là do chế độ xã hội lúc bấy giờ, những kẻ thống trị đã

lợi dùng sự lương thiện của họ, lợi dụng những thói quen, những phong tục tập

quán ở nông thôn mà đẩy người nông dân vào con đường cùng, đẩy họ đến chỗ

tha hoá. Dù ở cảnh ngộ nào thì cũng thật xót xa.

3.1.2.2 Ngôn ngữ độc thoại nội tâm

Cuộc sống ở nông thôn với không gian khép kín, quẩn quanh sau luỹ tre

làng nên những người nông dân thường ưa sự ổn định, bản tính hiền lành nên

thường mang tâm lý nhẫn nhịn, chấp nhận với số phận, đặc biệt là những người

phụ nữ. Người phụ nữ khổ nhất trên trang viết của Nam Cao có lẽ phải nói đến

dì Hảo (Dì Hảo), cuộc đời dì bước sang một trang đen tối kể từ khi đi lấy

chồng. Cuộc sống nghèo khổ lại thêm người chồng mải chơi, bạc bẽo càng làm

cho cuộc đời dì Hảo trở nên thê thảm hơn bao giờ hết. Thế nhưng, tuyệt nhiên

trong suốt cả câu chuyện người ta không hề thấy dì hé răng mà kêu than lấy

nửa lời ngay cả khi phải chung chồng, phải phục dịch chồng và nhân tình của

62

chồng. Những người như dì có lẽ chỉ ước ao có lấy một mái nhà để làm chỗ đi

về nên dì cứ nhẫn nhịn, nhưng càng nhẫn nhịn dì càng bị lấn lướt. Người chồng

ấy với dì có cũng như không, mà có lẽ, có dì lại càng thêm khổ nhưng chẳng ai

lý giải được vì sao dì không bỏ hắn mà vẫn có suy nghĩ “Phải, nhẫn nại là hơn

nếu hắn cứ ở nhà cũng thế”. Thế rồi, dì cứ im lặng mà sống cho hết những

chuỗi ngày buồn nhất của cuộc đời. Dì Hảo không phải là trường hợp duy nhất

như vậy. Người đọc hẳn có nhớ rõ hình ảnh người vợ trong Trẻ con không

được ăn thịt chó, khi nhìn lũ con của mình đói nheo nhóc để chờ người chồng,

người cha tham ăn mà quên đi đàn con của mình. Dù người vợ này có hơn dì

Hảo một chút ít đó là có sự phản ứng nhưng cuối cùng cũng đành thoả hiệp

trước người chồng bởi thị cũng muốn cho yên nhà “Khốn nạn cho thị lắm! Cái

số thị chẳng ra gì nên vớ phải một thằng chồng không biết lo, biết nghĩ, chỉ

thích ăn, thích uống. Con chó to bằng ấy, lúc này bán đâu không nổi ba đồng

bạc? Cả nhà ăn gạo hàng nửa tháng. Ấy thế mà cái môi nó vừa máy lên một

cái, nó đã phải đè ra mà giết ngay. Ăn hoang, phá hại. Ăn uống thế, có khác gì

ăn thịt con không, hở trời? Thị nghẹn ngào cả cổ. Thị muốn gào thật lớn.

Nhưng còn vướng mấy người bạn đây. Thôi cũng đành cắn răng.” Để rồi kết

thúc câu chuyện là cảnh đàn con khóc vì đói khi trong mâm không còn thứ gì

ăn được, người mẹ ấy chỉ biết khóc vì thương con và có lẽ cũng khóc vì uất hận

với người chồng, người cha ấy.

Có thể thấy rằng, với tâm lý ưa ổn định của những người nông dân đã

khiến cho họ có sự chịu đựng rất lớn mà đặc biệt là những người phụ nữ. Vì

mong muốn yên bình mà họ chấp nhận số phận, suy nghĩ xuôi chiều, cam tâm

với mọi chuyện đã sắp đặt.

Bên cạnh những người nông dân cam tâm chấp nhận số phận thì cũng có

những người bị biến chất trước hoàn cảnh. Tiểu biểu trong đó là Chí Phèo (Chí

Phèo). Hắn vốn là một anh canh điền hiền lành, khoẻ mạnh và cũng đã có thời

hắn ước ao như bao nhiêu người khác, một cuộc sống thật bình yên “Chống

63

cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn

liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm.” Thế nhưng, ước mơ ấy mới chỉ

kịp hình thành đã bị đập tan từ trứng nước để cuối cùng từ một người nông dân

thuần phác hắn trở thành một tên lưu manh, liều lĩnh, liều lĩnh để kiếm miếng

ăn “Cùng lắm, nó có dở quẻ, hắn cũng chỉ đến đi ở tù. Ở tù thì hắn coi là

thường. Thôi cứ vào”. Đây chính là suy nghĩ của một kẻ liều lĩnh, một kẻ

dường như không còn gì để mất. Thế nhưng khi gặp được Thị Nở, được chăm

sóc bởi bàn tay người đàn bà và bát cháo hành nóng hổi trong lúc bệnh tật, Chí

nhận ra được giá trị của cuộc sống để rồi khát khao hoà nhập với cuộc sống,

khát khao trở về với con người lương thiện xưa kia mà điểm tựa cho hắn lúc

này không ai khác chính là Thị Nở “Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà

với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn

với hắn thì sao người khác lại không thể được. Họ sẽ thấy rằng hắn cũng có thể

không làm hại được ai. Họ sẽ nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện

của những người lương thiện.” Ở cái độ tuổi của hắn bây giờ suy nghĩ cũng đã

chín chắn, sâu sắc hơn cái thời hắn mười tám, đôi mươi bởi thế mà hắn muốn

hoàn lương, muốn hoà nhập.

Người nông dân vốn sống đơn giản, không thích sự cầu kì, bởi thế mà

trong tâm lý con người cũng vậy, không phức tạp không giằng xé như những

con người trí thức, với họ là sự yêu ghét rạch ròi, và trong truyện ngắn của

Nam Cao, mỗi người nông dân chỉ bộc lộ một khía cạnh nào đó của trạng thái

tâm lý mà ở đây chủ yếu là sự bực bội do cảnh nghèo gây nên. Trong truyện

Con mèo, là sự tức tối, bực bội của hai vợ chồng sau một ngày làm việc mệt

mỏi. Con mèo chỉ là cái cớ để họ nảy sinh xung đột, để gây sự với nhau. Anh

chồng tuy không nói ra lời nào nhưng lại thầm mong con mèo quay lại niêu

cơm chỉ với mục đích để chọc tức chị vợ “Anh thầm mong cho nó đút đầu vào

niêu cơm nguội”, còn chị vợ thì liên tục cằn nhằn đến mức anh chồng “muốn

tát vào cái mặt cong cớn của vợ anh vài cái”. Giận là vậy, gây sự với nhau là

64

vậy thế mà khi trút được hết những bực dọc trong người rồi thì họ lại làm hoà

với nhau nhanh đến mức không ngờ. Vợ chồng vốn yêu thương nhau thì dù có

mâu thuẫn thế nào đến cuối cùng họ vẫn làm lành với nhau, vẫn quan tâm nhau

và lại cùng nhau sống tiếp những tháng ngày hạnh phúc và cũng không thiếu

những lúc bắt bẻ, gây gổ với nhau.

Mang một tâm trạng phức tạp hơn là Chí Phèo (Chí Phèo), chỉ sau một

đêm thức giấc mà có biết bao nhiêu sự đổi thay mà việc khiến hắn suy ngẫm

hơn cả là cuộc gặp gỡ với Thị Nở. Đầu tiên là bát cháo hành, chỉ vậy thôi mà

mắt hắn “ươn ướt” và thấy hạnh phúc vô cùng để rồi đưa ra một nhận định rằng

“những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo ăn rất ngon.

Nhưng tại sao mãi đến tận bây giờ hắn mới nếm mùi vị cháo. Thế rồi hắn bắt

đầu lo lắng, điều mà trước giờ chưa từng thấy ở con người hắn, hắn lo cho

tương lại của mình bởi lẽ “Xưa nay hắn chỉ sống bằng cướp giật và doạ nạt.

Nếu không còn cướp giật và doạ nạt được nữa thì sao?”, hắn thoáng nghĩ về

điều ấy, hắn thấy được cái tương lại mịt mù phía trước bởi thế mà hắn khát

khao “Trời ơi ! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết

bao”. Khao khát ấy đang cháy bỏng, đang trỗi dậy mãnh liệt trong hắn và

dường như nó đang cào xé tâm can hắn.

Người nông dân là thế, đứng trước những nghịch cảnh của cuộc sống họ

không dày vò, không cắn rứt bản thân mà bộc phát thành hành động để tự bảo

vệ cho chính mình. Đây cũng chính là biểu hiện cho những suy nghĩ nông cạn,

nhưng hành động tự phát của người nông dân. Bởi họ sống đơn giản, hành

động dứt khoát, rạch ròi.

Điều đặc biệt ở đây chính là tính thời sự của ngôn ngữ Nam Cao, dù là

ngôn ngữ trần thuật hay ngôn ngữ đối thoại. Đã hơn nửa thế kỉ đi qua, bao biến

động của lịch sử, bao đổi thay của vận mệnh dân tộc nhưng ngôn ngữ Nam Cao

gần như không cũ. Ngôn ngữ Nam Cao không xa lạ, không sang trọng kiểu

cách như Tự lực văn đoàn mà đó chính là cách hành văn của chúng ta hôm nay;

65

“Vẽ cái con chuột chết”; “Con gái gì mà ngủ trương lên đến tận nửa buổi chưa

chán mắt”; “- Ái chà”…chỉ chừng ấy thôi đã đủ thấy, nó không phải thứ ngôn

ngữ phòng khách, không phải lối văn chương sách vở, nó chính là thứ đang

diễn ra hàng ngày trong cuộc sống đời thường, không hề cũ kĩ. Nam Cao đã

đưa được ngôn ngữ của mình bắt kịp với dòng chảy của thời đại, khiến cho nó

luôn cập được những bến bờ thời sự.

3.1.3 Sử dụng nhiều thành ngữ

Thành ngữ là một trong các phương tiện để biểu đạt nội dung, thông tin,

tư tưởng. Sử dụng thành ngữ trong giao tiếp sẽ đạt hiệu quả cao bởi thành ngữ

mang nhiều nghiã biểu đạt mà dung lượng từ ngữ lại ít. Tính thời sự trong ngôn

ngữ của Nam Cao cũng thể hiện rất rõ thông qua việc sử dụng thành ngữ trong

các sáng tác của ông bởi nó gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày của người nông

dân.

Nam Cao đã vận dụng rất linh hoạt các thành ngữ trong các sáng tác của

mình. Có khi là những thành ngữ nguyên dạng, có những khi ông biến đổi nó đi

cho phù hợp với mục đích diễn đạt của mình. Chẳng hạn, khi nói về Bá Kiến

(Chí Phèo), Nam Cao đã sử dụng rất nhiều thành ngữ để có thể bộc lộ hết sự

khôn ngoan của một kẻ thuộc giai cấp thống trị, từ cách nhìn người cho đến

cách trị người của lão. Những thành ngữ được sử dụng cho Bá Kiến giống như

những kinh nghiệm được đúc kết từ cả một quá trình làm quan của lão. Với

những kẻ trời không sợ, đất không sợ như Chí Phèo thì phải có những bài riêng

để mà trị, để mà lợi dụng. Thế nên khi Chí Phèo đến nhà lão ăn vạ lão mới

mềm mỏng với hắn bởi “Không phải cụ đớn, chính thật cụ khôn róc đời, thứ

nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân. Chí không phải là anh

hùng, nhưng nó là cái thằng liều lĩnh. Liều lĩnh thì còn ai thèm chấp ! Thế nào

là mềm nắn rắn buông? Cái nghề làm việc quan, nếu nhất nhất cái gì cũng đè

đầu cưỡi cổ thì lại bán nhà đi cho sớm”. Phải nói rằng,cụ Bá đúng là khôn róc

đời, cụ biết xử thế nào để lấy lợi về mình mà lại được người ta nể. Trong hoàn

66

cảnh này, nếu chấp với một thằng say đi ăn vạ, một thằng liều như Chí thì

người thiệt chỉ có là cụ Bá mà thôi. Cụ nắm rõ được cái quy luật “Mềm nắn rắn

buông” để mà ứng xử. Thật là thâm thuý, sâu xa. Cùng với Chí, Bá Kiến cũng

phải đối mặt với Năm Thọ, hắn không say để mà dễ lợi dụng như Chí, hắn lại là

một tên trùm lưu manh. Khi nói về Năm Thọ, Nam Cao đã miêu tả bằng những

thành ngữ hết sức biểu cảm để thấy được một nhân vật ngổ ngáo, đáng sợ

“Năm Thọ vốn là một thằng đầu bò đầu bướu. Hồi ấy, Bá Kiến mới ra làm lý

trưởng, nó hình như kình nhau với lão ra mặt; lý Kiến muốn trị những chưa có

dịp. Được ít lâu, hắn can dự vào một vụ cướp bị bắt giam; lý Kiến ngấm ngầm

vận động cho vào tù. Vẫn tưởng một người vai vế như Năm Thọ mà thất cơ lỡ

vận đến nỗi tội tù thì làm gì còn dám vác cái mặt mo về làng”. Thành ngữ đầu

bò đầu bướu được Nam Cao sử dụng rất đắt khi miêu tả về Năm Thọ, nó hoàn

toàn phù hợp với những kẻ ngỗ ngược như hắn. Không cần nhiều chi tiết hay

bất cứ một hành động nào, chừng ấy thôi cũng đủ để người đọc có thể hình

dung ra con người của tên trùm lưu manh này.

Khác với cách miêu tả giai cấp thống trị hay những tên lưu manh, những

con người tha hoá ở nông thôn, khi miêu tả về người nông dân Nam Cao chủ

yếu nói về đời sống tinh thần và hoàn cảnh sống khốn khó của họ. Lão Hạc

(Lão Hạc) cả đời tằn tiện vì con, thà chết chứ không phạm một đồng của con

“Đã đành rằng là thế, nhưng tôi bòn vườn của nó bao nhiêu, tiêu hết cả. Nó vợ

con chưa có. Ngộ nó không lấy gì lo được lại bán vườn thì sao?... Tôi cắn rơm,

cắn cỏ tôi lạy ông giáo! Ông giáo có nghĩ cái tình tôi già nua tuổi tác mà

thương thì ông giáo cứ cho tôi gửi”. Thành ngữ “cắn rơm cắn cỏ” đã đủ để

thấy được sự khẩn thiết trong lời nói của ông lão, lời nhờ cậy ấy thật sự là đang

rất cần với lão. Nghe những lời van xin khẩn thiết như vậy của lão Hạc thì ai có

thể dám từ chối, huống hồ là người có học như ông giáo lại càng thấu hơn lẽ

đời. Vậy vì đâu mà lão phải làm thế, vì ai mà lão già như vậy lại phải hạ mình

đi xin ông giáo? Tất cả chỉ vì xuất phát từ tình thương vô bờ bến mà lão dành

67

cho thằng con trai. Cuối cùng, sự nhờ cậy của lão cũng được ông giáo đồng ý,

đây chính là hiệu quả của việc sử dụng thành ngữ trong lời nói. Nam Cao còn

sử dụng những thành ngữ khi nói về hoàn cảnh sống của nhân vật. Chí Phèo

(Chí Phèo) ban đầu được biết đến là một kẻ “Tứ cố vô thân”, không nơi nương

tựa ngay từ khi sinh ra. Thành ngữ ấy đã phần nào nói lên được cảnh ngộ của

Chí, một tuổi thơ bơ vơ, bất hạnh…lớn lên không người thân thích, một mình

dựa vào chính mình. Nhưng Chí cũng lớn lên, cũng sống một cuộc sống như

bao nhiêu người khác với một ước mơ giản dị và hết sức đời thường “Hình như

có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày

thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì

ma dăm ba sào ruộng làm”. Ước mơ “Cày thuê cuốc mướn”mới thật bình dị

làm sao, những người nghèo khổ như Chí cũng không dám ước gì hơn. Bình dị

thật đấy, đẹp thật đấy nhưng nghe sao tội nghiệp đến thế!

Bên cạnh đó, với việc sử dụng thành ngữ trong miêu tả chân dung các

nhân vật, Nam Cao đã làm cho hệ thống nhân vật của mình trở nên hấp dẫn,

sinh động và rõ nét hơn bao giờ hết. Có lẽ, bức chân dung đầu tiên mà người ta

muốn nhắc đến chính là Thị Nở. Có thể nói, đây là nhân vật xấu nhất trong các

nhân vật của Nam Cao mà rộng hơn thì đây còn là nhân vật xấu nhất trong lịch

sử văn học. Cùng đọc lại đoạn văn miêu tả chân dung Thị Nở, người đọc sẽ

thấy rõ được điều này: “Nhưng người đàn bà ấy lại chính là thị Nở, một người

ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn. Cái mặt

của thị đích thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó ngắn đến nỗi người ta có

thể tưởng bề ngang lớn hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai

hại, nếu má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn, là

thứ mặt vốn nhiều hơn người ta tưởng, trên cổ người. Cái mũi thì vừa ngắn,

vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau

với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi: có lẽ vì cố quá cho nên

chúng nứt nở như rạn ra. Ðã thế thị lại ăn trầu thuốc, hai môi dày được bồi

68

cho dày thêm, cũng may quyết trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám

ngoách. Ðã thế những cái răng rất to lại chìa ra: ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối

chữa được một vài phần cho sự xấu. Ðã thế thị lại dở hơi; đó là một ân huệ đặc

biệt của Thượng đế chí công” Ở đây, Nam Cao không dùng thành ngữ để miêu

tả chân dung của Thị Nở mà chỉ dùng duy nhất một thành ngữ để khái quát lại

bức chân dung ấy, cũng là lời nhận xét về dung nhan của Thị đó là “Xấu ma

chê quỷ hờn”. Tất cả đã khái quát toàn diện bức chân dung của nhân vật, đây

cũng chính là cái tài trong việc sử dụng ngôn ngữ của nhà văn. Tuy nhiên, nhân

vật người phụ nữ trong sáng tác của Nam Cao không phải ai cũng xấu, ngược

lại, có những người lại đẹp, đẹp đến mức không ai không động lòng. Người

phụ nữ ấy không đâu xa chính là vợ của Năm Thọ (Chí Phèo) “Chị vợ ở nhà

còn trẻ, mới hai con, cái mắt sắc như dao lại hồng hồng đôi má, bỗng nhiên lại

sinh ra vắng chồng, của ngon trờ trờ ngay trước mắt, ai mà chịu được?”. Vẻ

đẹp của người phụ nữ này không được đánh giá qua ngoại hình mà nó ở đôi

mắt, đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, đôi mắt ấy lại “sắc như dao” nên nó đã thu hút

cái nhìn của bao nhiêu người. Thế rồi, có những nhân vật được Nam Cao miêu

tả ngoại hình nhưng không thiên về vẻ đẹp hay xấu mà lại hiện hữu bởi hoàn

cảnh sống. Đấy chính là Dần (Một đám cưới), Nam Cao cũng đã sử dụng thành

ngữ khi miêu tả về nhân vật này “Con người ta, có cơm vào là có da, có thịt

ngay. Chẳng lâu đâu. Người mẹ nghĩ và mừng. Thị chắc chỉ vài, ba tháng sau,

nếu Dần được một ngày rỗi rãi về chơi với các em, cả nhà sẽ ngạc nhiên thấy

nó béo như con cun cút. Mà trắng, mà đẹp, mà lành lặn, ra phết cô con gái

lắm!...Dần có về thật, nhưng nó vẫn gầy như một cái que. Nó khóc hu hu. Nó

đòi ở nhà với các em, muốn cho ăn thế nào thì cho, muốn bắt làm gì thì bắt, chỉ

đừng bắt nó ở cho nhà bà chánh nữa. Cơm nhà giàu khó nuốt. Ăn của họ mà

không làm lợi cho họ được thì họ làm cho đến phải mửa ra mà giả họ. Dần

chân yếu tay mềm lắm. Nó thà nhịn đói mà ở cửa, ở nhà còn hơn. Mẹ Dần nhất

định không nghe. Thương con thì để bụng.” Mẹ Dần cho con đi ở chỉ với mong

69

ước là con có ăn sẽ béo ra, có ra có thịt thế nhưng sự thật lại nghiệt ngã hơn

những gì người ta nghĩ rất nhiều. Hai thành ngữ “béo như con cun cút” và

“gầy như một cái que” đã phần nào diễn tả được cảnh ngộ xót xa của Dần.

Bên cạnh những thành ngữ được sử dụng nguyên dạng thì cũng không ít

những thành ngữ được Nam Cao biến đổi về mặt cấu trúc như tách các thành

ngữ hay thêm bớt một vài yếu tố trong thành ngữ để làm mờ tác dụng của nó.

Có thể lấy ra một vài ví dụ điển hình như : “Tại sao ở hiền không phải bao giờ

cũng gặp lành” (Ở hiền), “Cưỡi lên đầu lên cổ” (Mua danh)…

Như vậy có thể nói rằng, các thành ngữ mà Nam Cao sử dụng rất đa dạng

và phong phú bởi nó được ông lựa chọn và sáng tạo sao cho phù hợp với mục

đích thể hiện của mình.

3.2 Hình ảnh đặc sắc.

3.2.1 Hình ảnh sinh hoạt

Nói đến nông thôn, nói đến người nông dân điều đầu tiên mà người nghĩ

đến chính là nghề làm nông mà ở đây quan trọng nhất là việc trồng lúa. Hình

ảnh màu gặt dường như đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người nông dân bởi

với họ đây là khoảng thời gian gặt hái thành quả sau những tháng ngày lao

động vất vả. Với người nông dân trong truyện ngắn Nam Cao thì hình ảnh mùa

gặt càng trở nên có ý nghĩa hơn bởi với họ cái đói cái nghèo luôn đeo bám. Thế

nhưng, vụ gặt trong truyện của ông lại là một vụ mất mùa “Năm ấy mất mùa.

Lúa làng xấu lắm. Chúng tôi gặt ruộng nhà xong, mới đi gặt thuê được mỗi

người vài ba buổi mà lúa làng đã vãn” (Quái dị) vì thế mà người ta bàn nhau

đi gặt thuê ở nơi khác để kiếm công, kiếm bữa cơm. Chuyện gặt thuê, gặt đổi

không lấy gì làm xa lạ với những người nông dân, thế nhưng cũng xoay quanh

chuyện ấy là những tình huống dở khóc, dở cười của cả chủ và người làm công

và có những câu chuyện đã trở thành tích, cứ mỗi lần đi gặt thuê là nó lại được

70

kể lại “Về cái tích cà này, ông nhiêu kể lại một chuyện buồn cười lắm. Mùa ấy,

ông cũng đi gặt ở mạn Ðông, với mấy anh em nữa, toàn người làng cả. Họ gặt

cho một nhà cũng khá giàu, mà có vẻ quí người. Trưa đến, quẩy lúa về, nhà

chủ mời quan viên thợ gặt ngồi lên cái giường giữa trước bàn thờ để nghỉ ngơi

cho nó mát rồi xơi cơm. Quan viên khấp khởi mừng thầm. Ngồi như vậy, thế

nào ăn chẳng khá. Họ đã nghĩ đến riêu cá mè, thịt lợn kho, hay ít ra thì cũng

được bát canh bí nấu với cua để húp cho mát ruột. Nhưng quan viên nhầm cả.

Mâm cơm bưng lên lại toàn một thứ cà, cái thứ cà to bằng một cái bát con,

thâm sịt và mặn như "cô" muối vào. Anh nào muốn sắt ruột lại thì cứ ăn! Ấy

thế mà quan viên ăn rất nhiều. Chính cô con dâu nhà chủ, có lẽ đã quen ăn

mặn lắm, mà cũng phải chịu bọn thợ gặt này là ăn mặn. Một bữa ăn, cô phải

lấy thêm cà năm, sáu lượt. Cứ vừa đem một đĩa lên, đã lại thấy họ gào đem đĩa

nữa. Sau cùng, thấy đĩa thì không xuể, cô xúc luôn cho họ một bát tàu to thật

đầy. Chỉ có bốn người ăn mà vại cà vơi đi... Chiều hôm ấy, thấy cô con dâu ra

đồng đội lúa, ông nhiêu Tiêm hỏi: "Cô ơi cô! Tôi hỏi thế này khí không phải...

Cô đã lấy nước cho các cụ chưa?" Người con dâu ngơ ngác. Cô không hiểu vì

ý gì mà người ta hỏi thế. Hỏi họ thì họ chỉ cười khúc khích. Cô ngờ ngợ. Về

nhà, cô đem chuyện ấy khoe với chồng. Chồng cô không hiểu nốt. Y khoe với

bố. Ông bố có học được ít chữ nho thì phải. Người có chữ nho thâm thúy. Ông

nghĩ ngợi. Ông vào nhà, củ soát lại bàn thờ ông vải. Khi mở đến bốn cái đài,

ông thấy đài nào cũng đầy lên những cà.”

Không chỉ có hình ảnh vụ gặt mà những thói quen trong sinh hoạt cũng

được Nam Cao đưa vào các sáng tác của mình hết sức tự nhiên. Một hình ảnh

nữa của người nông dân mà chúng ta không thể không nói đến chính là công

việc đi gánh nước . Đây cũng chính là cơ duyên khiến Chí Phèo gặp được Thị

Nở (Chí Phèo). Người nông dân cũng không còn lạ lẫm gì với hình ảnh đôi lọ

đi gánh nước ở sông hay ở giếng làng về sinh hoạt hàng ngày, Thị Nở cũng như

mọi người, cũng công việc gánh nước, nhưng gió mát và trăng sáng đã khiến

71

thị quên đi công việc của mình để rồi gặp được Chí. Để rồi mãi đến nửa đêm

khi ra vườn, đôi lọ mới nhắc cho thị cái việc đi gánh nước, thị lại “mải mốt

mặc áo, kín nước, rồi xách đôi lọ nước đi về nhà.”. Cùng với vụ gặt, việc gánh

nước hàng ngày là điều rất quen thuộc với người nông dân. Nam Cao đã đưa

vào trang viết của mình một cách rất tự nhiên nhưng cũng không thiếu đi sự

sáng tạo để trang viết của mình trở nên sinh động và chân thực hơn.

Sẽ là thiếu sót nếu không nói tới hình ảnh ổ rơm vào những ngày đông

lạnh giá. Cuộc sống nông nghiệp gắn với nghề trồng lúa vì vậy mà rơm rất phổ

biến, nó được người nông dân tận dụng để phục vụ cho chính cuộc sống của

mình. Không chỉ có vậy, hình ảnh ổ rơm ấy còn gợi lên biết bao nhiêu kỉ niệm

trong lòng mỗi nhân vật. Ninh (Từ ngày mẹ chết) cứ vào những ngày mưa rét là

cô lại nhớ mẹ, nhớ những thói quen hàng ngày của mẹ khi còn sống “Mỗi khi

trời mưa rét Ninh lại nhớ đến bu. Hồi bu còn sống, những ngày mưa rét, không

ra vườn hái trầu, bóc mía hay làm cỏ được, bu hay mang cái bị giẻ và một ôm

quần áo rách vào ổ rơm ngồi vá”, hình ảnh người mẹ ngồi vá áo trong ổ rơm

ngày mưa rét sẽ mãi là kỉ niệm không bao giờ quên với Ninh. Dần (Một đám

cưới) cũng chịu chung cảnh ngộ với Ninh, mẹ mất sớm, bố một mình nuôi chị

em Dần, gia cảnh lại khó khăn, thiếu thốn, vì thế mà ổ rơm ngày đông là cách

để gia đình chống chọi với mùa đông khắc nghiệt. Cái ổ rơm ấy bình dị mà ấm

áp đến lạ, thế nên ròi khỏi nó cũng là một việc khó khăn ,“Dần nhỏm dậy. Nó

sờ soạng ra khỏi cái ổ rơm rồi đi thẳng ra ngoài. Bên ngoài mịt mù sương. Khí

lạnh sắc như dao. Dần rùng mình và hắt hơi mấy cái luôn”.

Những hình ảnh tưởng chừng như đơn sơ ấy nhưng lại chứa đựng biết

bao nhiêu ý nghĩa với người nông dân. Với họ, nó đã ăn sâu vào tiềm thức, là

thói quen sinh hoạt hàng ngày, là nét đẹp riêng của nông thôn mà những nơi

khác không thể có được. Nam Cao lại một lần nữa chứng tỏ được cái tài của

mình khi biết quan sát từ những điều nhỏ nhất của người nông dân, có lẽ nó

72

được đúc rút từ chính cuộc sống của ông, từ chính nơi ông đã sinh ra và lớn lên.

Những hình ảnh nhỏ nhưng giá trị của nó lại không hề nhỏ.

3.2.1 Hình ảnh con người.

Có hai kiểu xuất hiện trong truyện ngắn của Nam Cao đó là con người

thuộc giai cấp thống trị và người nông dân. Ở mỗi kiểu người này Nam Cao lại

có những hình ảnh sắc nét để làm nổi bật lên bản chất, tính cách của họ.

Có lẽ, kẻ đại diện cho giai cấp thống trị đầu tiên phải nói đến chính là Bá

Kiến. Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng hình ảnh Bá Kiến chỉ thông qua

những chi tiết rất nhỏ như tiếng cười “Cụ bá cười nhạt, nhưng tiếng cười giòn

giã lắm: người ta bảo cụ hơn người cũng chỉ bởi cái cười.”. Cái cười cụ bá tuy

nhạt nhưng lại giòn, rồi giọng cụ có thể đổi ngay thành giọng thân mật để mà

nắm thóp kẻ thù “Khổ quá! Giá có tôi ở nhà thì đâu đến nỗi. Ta nói chuyện với

nhau, thế nào cũng xong. Người lớn cả, chỉ một câu chuyện với nhau là đủ. Chỉ

tại thằng lý Cường nóng tính không biết nghĩ trước nghĩ sau. Ai, chứ anh với

nó còn có họ kia đấy.” Quả thật, với mỗi người, điều mà người khác ấn tượng

đầu tiên chính là ở giọng nói và điệu cười, nó có thể toát lên phong thái của họ.

Vậy là chỉ cần qua tiếng cười, qua giọng nói người ta có thể hình dung được

con người của Bá Kiến, ấy là sự khôn ngoan, ranh mãnh, rất hiểu đời và hiểu

tâm lý người khác. Có thế cụ mới làm quan được, có thể mới trụ vững được ở

cái làng có thế “quần ngư tranh thực” ấy. Hay Đội Tảo, khi thấy kẻ thù bị giết,

hắn thể hiện ngay thái độ của mình mà không cần kín kẽ “Thằng bố chết, thằng

con lớp này không khỏi người ta cho ăn bùn”. Đó là lời của kẻ khi trừ được

mối hoạ của mình, là sự hống hách của giai cấp thống thống trị, trong lời nói,

trong tiếng cười cũng đã chứa đựng sự nham hiểm.

Khác với hình ảnh giai cấp thống trị, hình ảnh những người nông dân

hiện lên thật thà, hiền lành, chất phác. Đó là lão Hạc“Lão cố làm ra vẻ vui vẻ.

73

Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước, tôi muốn ôm

choàng lấy lão mà oà lên khóc.” (Lão Hạc), trông lão lúc này mới thật đáng

thương và tội nghiệp biết bao. Thế rồi không kìm nén được cảm xúc, lão khóc,

khóc vì đã bán đi cậu Vàng, người bạn thân thiết của lão, khóc vì lão đã trót lừa

cậu Vàng “Mặt lão đột nhiên co dúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép

cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém

của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc...”. Hình ảnh đó có lẽ đã ám ảnh

người đọc rất nhiều. Không chỉ có lão Hạc mà còn có những người nông dân

khác cũng hiện lên thật mộc mạc và đáng trân trọng. Đó là bố Dần (Một đám

cưới), khi vợ chết, cảnh gà trông nuôi con nhưng ông lo liệu mọi việc chu toàn.

Hình ảnh người bố tính chuyện gia đình cứ trở đi trở lại trong câu chuyện, ông

tính chuyện cưới xin cho Dần, tính chuyện lên rừng kiếm miếng ăn, dường như

mọi chuyện đã được sắp xếp đâu ra đấy cả rồi “Ðằng nào mày cũng phải đi,

mà mày đi thì tao không làm thế nào vừa trông coi các em mày vừa đi làm

được. Cho nên tao nhất định mang gửi chúng nó, rồi lên rừng một chuyến.

Kiếm ăn được, tao sẽ đem chúng nó đi.”. Hay người bố trong Nghèo cũng vậy,

người đọc xót xa vô cùng khi chứng kiến hình ảnh ốm đau và gầy gò của anh

Đĩ Chuột khiến anh trở nên đáng sợ, khiến những đứa con của anh lại sợ bố nó

“làn ánh sáng mờ lướt qua làm cho cái mặt hốc hác và màu da đã xanh lại

càng thêm xanh. Mái tóc dài quá xoà xuống tai và cổ, hai con mắt ngơ ngác và

lờ đờ, những chiếc răng dài và thưa ở mồm hé ra để cho dễ thở khiến anh có

cái vẻ dễ sợ của con ma đói”, cái đói hoành hành thật khốc liệt, nó khiến con

người ta không còn là người. Nhưng trong cái đói ấy, trong cái màu tối u ám

của hoàn cảnh vẫn sáng bừng lên tình cha con sâu nặng khi anh chọn cái chết

để nhường miếng cơm cho con mình. Cái chết đau đớn, hình ảnh con người ấy

khi chết lại càng khiến người ta không cầm được nước mắt “Cái bộ xương bọc

da giãy giụa như một con gà bị bẫy, sau cùng nó chỉ giật từng cái chậm dưới

sợi dây thừng lủng lẳng”. Rồi cả những người vợ, người mẹ nhường từng

74

miếng ăn cho chồng cho con, vất vả lo toan cho gia đình như chị Đĩ Chuột,

cuộc sống vất vả lại thiếu ăn khiến chị cũng chẳng hơn chồng mình là mấy “

hai hõm má xanh bùng như người ngã nước”, rồi mẹ của Dần (Một đám cưới)

với suy nghĩ cho con đi ở để nó đến nhà người ta có ăn cho nó có da, có thịt và

trong đầu thị đã tưởng tượng ra cảnh đứa con gái của mình sẽ “béo như con

cun cút”. Hình ảnh những người cha như bố Dần, như Lão Hạc, như anh Đĩ

Chuột, những người mẹ như mẹ Dần, như chị Đĩ Chuột thật đáng quý, đáng

trân trọng. Đó cũng là những hình ảnh của người nông dân lúc bấy giờ, họ sống

tình nghĩa, thuỷ chung và chu đáo.

3.3 Không gian nghệ thuật.

Cùng với ngôn ngữ và hình ảnh thì không gian nghệ thuật là một trong

những yếu tố mang dấu ấn văn hoá nông thôn trong truyện ngắn Nam Cao.

Không gian trong sáng tác của Nam Cao trước hết là vùng nông thôn, những

căn nhà nơi thôn dã, những con đường làng…Trong những mối liên hệ của thời

gian và không gian, làng quê, ngôi nhà con đường hóa ra là cơ bản và quan

trọng nhất : tất cả những mối liên hệ còn lại hoặc bị chúng cuốn hút hoặc trở

thành thứ yếu trong thế giới nghệ thuật của nhà văn.

Làng quê trong truyện ngắn Nam Cao, người đọc bắt gặp một không gian

rộng lớn nhưng không trù phú mà mà hết sức thê thảm với “nhưng mái nhà lá

xác xơ trông tiều tụy như những cái nón rách trên gáy những người ăn mày…”.

Nó hoàn toàn khác xa với cái làng Đông Xá huyên náo, dồn dập tiếng trống

thúc sưu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, nông thôn trong tác phẩm của Nam

Cao có cái vẻ vắng lặng, hoang vu của một vùng quê nghèo đói “Một cái làng

quê u tịch đôi khi chết lặng vì cái nắng trưa gay gắt của mùa hè, xao xác vào

những ngày thu, tả tơi vào mùa mưa bão, quạnh vắng vào những đêm trăng”.

Không gian ở đây yên tĩnh đến nỗi người ta có thể nghe thấy cả “tiếng kêu rầm

rĩ của những thớ gỗ trong cái kèo, cái cột,hình như chúng tê mỏi mà vươn mình

75

hay sốt ruột mà rên lên” (Nửa đêm). Thế rồi, trong cái không gian vắng lặng ấy

thi thoảng có những âm thanh vang lên, đó là tiếng chửi, tiếng khóc hờ…sau

đó, tất cả lại chìm vào yên ắng đáng sợ.

Có thể nói, làng Vũ Đại chính là xã hội phong kiến Việt Nam thu nhỏ lúc

bấy giờ. Ở cái vị trí “đầu tỉnh, cuối huyện” lại càng thuận bề cho những bọn

cường hào, bóc lột, hà hiếp người nông dân. Chúng chia bè kéo cánh đối

nghịch nhau để tranh giành quyền lợi để mà đè nén người dân. Ngoài mặt

chúng tử tế với nhau nhưng trong bụng chúng lúc nào cũng muốn cho nhau lụn

bại để giành vị trí thống trị. Trong cái không gian ấy, những kiếp người đang

sống mòn mỏi, lay lắt, vật vờ. Có những người sống trong sự nhẫn nại, chịu

đựng mọi cay đắng như dì Hảo, rồi những con người nếu không chết vì đói

nghèo hay bệnh tật (nghèo, điếu văn) thì rồi cũng chết vì no (một bữa no) . Và

trong cái không gian xơ xác ở vùng quê ấy hiện lên hình ảnh những ngôi nhà.

Gọi là “nhà” cho sang chứ nó gần như không giống nhà mà giống một túp lều

hay tệ hơn, trông xa nó giống như cái “chuồng bò”. Ở đó, cuộc sống của từng

cá nhân, từng gia đình hiện lên rất thực trên các trang viết của Nam Cao. Tài

sản duy nhất của Chí Phèo là một túp lều ven sông được miêu tả với không

gian “ẩm thấp” và ánh sáng “hơi lờ mờ. Khung cảnh ấy thấy tồi tàn nhưng nếu

nó được đặt ở một vị trí khác chứ không phải “ở gần một con sông con, nước

lặng và trong, khắp bãi trồng toàn dâu, gió đưa đẩy những thân mềm oặt ẹo,

cuộn theo nhau thành làn” thì có lẽ nó sẽ được chú ý hơn. Ngôi nhà của hắn

cũng có vườn đấy chính là lối nhỏ đi ra sông của mọi người trong làng. Thế

nhưng, từ khi cái túp lều của hắn dựng lên thì chẳng còn ai đi qua lối ấy nữa mà

tìm một đường xa hơn. Như vậy, rõ ràng không gian sống của Chí Phèo bị tách

biệt khỏi mọi người trong làng, hắn bị cô lập. Có lúc trong cái không gian ấy

thiên nhiên trở nên âm u khác lạ tạo cảm giác rờn rợn “những bóng chuối đen

đen như những cái áo nhuộm vắt tung trên bãi” phải chăng nó lạnh lẽo bởi

thiếu vắng đi sự sống của con người. Thế nhưng, cũng có lúc cái bãi sông nhà

76

hắn cũng đẹp lạ lùng “trăng tỏa trên sông và gợn biết bao nhiêu gợn vàng”.

Giữa khung cảnh thiên nhiên ấy, một tình yêu đã nảy nở, nhưng trớ trêu thay,

nó không giống như những mối tình của các nam thanh nữ tú như trong văn của

Tự lực văn đoàn, nó lại là cuộc gặp gỡ của một đôi trai gái khốn khổ, những

con người bị cả xã hội xa lánh, hắt hủi. Rời xa không gian bên bờ sông của anh

Chí, chúng ta cùng đến với ngôi nhà của Phúc (Điếu văn) , một không gian chật

hẹp, ẩm thấp đầy mùi bệnh tật. Và điều này hoàn toàn phù hợp với cái chết của

anh. Trong không gian ấy, con người không thể tồn tại, thứ có thể sinh sôi nảy

nở ở đây chỉ còn là đám ruồi.

Không gian cá nhân lúc này bị dồn nén tới mức ngột ngạt thường xuất

hiện cùng với sự cô đơn của nhân vật đã tạo điều kiện thuận lợi cho nó bộc lộ

cái bản tính cốt yêu nhất của mình như một con người giàu suy tưởng. dưới

những mái nhà tranh, nhân vật của Nam Cao thường miên man trong những lo

toan, suy nghĩ, độc thoại nội tâm triền miên, âm thầm chua chát. Nhiều nhân

vật cứ nằm ngay trên giường mà suy nghĩ. Đó là Phúc (Điếu văn) nằm ngay

trên giường nhìn ra không gian bên ngoài mà thổn thức “Bên ngoài trời rất

đẹp. Nắng tưng bừng…Ôi chao! Đời vui quá! Muôn loài sống mạnh mẽ và sung

sướng” để rồi xót xa, chua chát cho số phận hẩm hiu của mình. Đến với Chí

Phèo, một người lúc nào cũng chìm ngập trong men rượu thì sau cái đêm gặp

Thị Nở lần đầu tiên Chí tỉnh táo, lần đầu tiên Chí cảm nhận cuộc sống bên

ngoài “Mặt trời đã cao ,và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ. Cứ nghe chim ríu rít

bên ngoài là đủ biết”. Để rồi hắn cũng “bâng khuâng” cũng trăn trở về cuộc

sống của mình rồi khẽ thở dài “Chao ôi là buồn”. Có thể nói, không gian nhà

ở, căn buồng là không gian chủ yếu để các nhân vật của Nam Cao suy tưởng

qua các hình thức đối thoại, độc thoại nội tâm, thậm chí cả dòng ý thức.

Nam Cao đã sử dụng linh hoạt các yếu tố về không gian và thời gian

trong truyện ngắn của mình. Không gian và thời gian nghệ thuật ở đây được mở

ra nhiều chiều nhờ những hồi tưởng, những chiêm nghiệm của nhân vật. Câu

77

chuyện về cuộc đời một nhân vật có thể từ hiện tại đến quá khứ rồi tương lai

thậm chí có khi xáo trộn cả không gian và thời gian. Điều này làm nên những

nét riêng của Nam Cao, mỗi truyện ngắn là một sự khám phá mới mẻ.

78

Tiểu kết chương 3

Với bút pháp hiện thực đặc sắc, Nam Cao đã xây dựng cho mình một

phong cách nghệ thuật riêng, không lặp lại những Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất

Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Tô Hoài…là những người đến trước ông

hoặc cùng thời với ông. Cùng viết về làng quê nhưng ở Nam Cao không có sự

trùng lặp với những cây bút đi trước. Bằng tài năng, sự sắc sảo và nhạy bén của

mình ông đã để lại cho chúng ta những trang viết giá trị và một phong cách độc

đáo, ngày càng tỏ rõ sức hấp dẫn kì lạ.

Mỗi một nhà văn có một hoàn cảnh riêng, một thế giới tinh thần riêng ,

có những tâm tư, ước vọng và một cái tạng riêng, những yếu tố ấy chi phối và

làm nên phong cách. Nhưng yếu tố chi phối trực tiếp là bút pháp vì bút pháp

thể hiện quan điểm của nhà văn, quy tụ tất cả năng lực tinh thần của nhà văn để

làm nên tác phẩm.

Thật khó có thể dùng một từ để xác định được phong cách nghệ thuật

của Nam Cao bởi vì những sắc thái phong cách của ông khá phong phú, thể

hiện ở nhiều bình diện. Nam Cao có một kiểu ngôn ngữ riêng, một kiểu

sáng tạo nghệ thuật riêng và những nét riêng của một cá tính sáng tạo. Tất

cả hòa trộn vào nhau, cùng bộc lộ, thống nhất nhưng là trong vận động.

Chính điều này đã đưa Nam Cao lên vị trí hàng đầu trong dòng hiện thực

Việt Nam trong giai đoạn cuối (1941 – 1945).

79

KẾT LUẬN

1. Ngày nay trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước theo hướng

Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa, đi đôi với đó là xây dựng một nền văn hóa

tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong khi đó, văn hóa Việt Nam chủ yếu

được bảo tồn và hình thành ở nông thôn, nói đúng hơn, đây chính là điểm phát

sinh của loại hình văn hóa và là nơi bảo tồn những giá trị văn hóa. Trong sự

phát triển của đời sống xã hội ngày nay, có nhiều loại hình văn hóa cổ xưa đã bị

biến mất trong cuộc sống hiện đại thì những vùng quê là nơi chúng ta có thể

tìm và nhận diện lại những nét văn hóa đã mất ấy.

2. Văn học những năm 1930 - 1945 phát triển trong bối cảnh xã hội có

nhiều biến đổi phức tạp, có sự du nhập của các yếu tố ngoại lai, Tây học đã chi

phối đến khuynh hướng sáng tác của các nhà văn đương thời đặc biệt là nhóm

Tự lực văn đoàn và trào lưu hiện thực. Nam Cao là nhà văn lớn của nền văn

học Việt Nam hiện đại, là người đưa chủ hiện thực lên đỉnh cao và kết thúc

trong vẻ vang. Qua các tác phẩm của mình Nam Cao đã tái hiện lại hiện thực

của xã hội Việt Nam qua hai mảng đề tài: người trí thức và người nông dân.

Đặc biệt khi viết về người nông dân ông đã có cái nhìn sâu sắc, đa diện cùng

nét văn hóa vốn có ở nông thôn.

Dưới góc nhìn văn hóa, chúng tôi thấy các tác phẩm của Nam Cao không

chỉ đơn thuần là sự phản ánh hiện thực mà trong đó còn ẩn chứa những giá trị

văn hóa truyền thống lâu đời nơi thôn quê. Đó có thể là những nét đẹp, những

hình ảnh đã trở thành một tín hiệu văn hóa, một yếu tố bất di bất dịch trong văn

hóa nông thôn như cây đa, giếng nước, mái đình. Bên cạnh đó, ông cũng thẳng

80

thắn nhìn nhận những mặt hạn chế trong văn hóa nông thôn đặc biệt là trong

không gian và mối quan hệ giữa con người với con người ở nông thôn. Không

gian tù túng chật hẹp là nguyên nhân chính kìm hãm sự phát triển của kinh tế,

đồng thời nó cũng lý giải cho những thói hư, tật xấu của người Việt. Tuy nhiên,

cũng không thể nào phủ định những điều tốt đẹp chỉ tồn tại ở nông thôn, đó là

tình người, là tình làng nghĩa xóm, là tình cảm anh em ruột thịt, tình vợ chồng

thủy chung son sắt… Nhìn chung, trong các sáng tác của mình Nam Cao đã cho

ta nhận dạng một mô hình văn hóa truyền thống của dân tộc với cả hai mặt tích

cực và tiêu cực. Qua đó, chúng ta có thêm một lí do sâu xa nữa để lí giải bi kịch

vật chất và tinh thần của con người Việt Nam trong xã hội thực dân phong kiến.

Về nghệ thuật, Nam Cao đã xây dựng thành công không gian và thời

gian nghệ thuật để làm nổi bật lên bức tranh làng quê Việt Nam trước Cách

mạng tháng Tám. Đặc biệt, việc miêu tả tâm lí nhân vật cùng với những chi tiết

nghệ thuật độc đáo ông đã xây dựng được những hình tượng nhân vật bất tử

trước thời gian. Với ngòi bút sinh động, Nam Cao đã dựng lại nhiều bức tranh

chân thực của cả làng quê đang vật vã trong cơn đau đớn của một thời kì lịch sử

tàn khốc. Đồng thời, ông cũng gióng lên một hồi chuông kêu cứu: hãy giữ lấy

truyền thống tốt đẹp của quê hương và những phong tục tập quán lành mạnh từ

lâu đời đang dần bị tàn phá. Và xót xa hơn cả là tiếng kêu cứu hãy giữ lấy nhân

phẩm cao đẹp của những người lao động đang bị đe dọa đổ vỡ.

3. Cuộc sống của làng quê Việt Nam luôn có sự đan xen giữa ánh sáng

và bóng tối. Xét về mặt đời sống cộng đồng, đời sống cá nhân chính việc duy

trì những thuần phong mĩ tục, những yếu tố thể hiện được những đạo lý tốt đẹp

của dân tộc như tinh thần tương thân tương ái, sự quan tâm giữa con người

81

trong gia đình, giữa con người xã hội với nhau…và mạnh dạn giúp người nông

dân loại bỏ đi những hủ tục lạc hâu chi phối đời sống …là những việc làm thiết

thực góp phần phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam trên con đường hội nhập.

Quan trọng thông qua việc tìm hiểu các dấu ấn văn hóa trong tác phẩm của một

nhà văn , chúng tôi đi đến khẳng định sự đóng góp có giá trị của một tác giả

văn học tiêu biểu, hàng đầu của trào lưu văn học hiện thực đối với nền văn hóa,

lịch sử của nước ta - nhà văn Nam Cao.

82

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Thái An (1992), Lão Bá Kiến quả là cao tay,báo Giáo dục và thời đại.

2. Vũ Bằng (1969), Nam Cao nhà văn không biết khóc, Văn học Sài Gòn.

3. Hoàng Cao (1994), Viết thêm về Chí Phèo, đặc san Văn nghệ.

4. Nguyễn Minh Châu (1994), Trang giấy trước đèn, NXB Khoa học xã hội.

5. Nguyễn Đức Dân (1991), Thử đọc Chí Phèo, Kiến thức ngày nay, Tp Hồ

Chí Minh.

6. Phan Huy Dũng (1992), Bàn thêm về ý nghĩa thẩm mĩ của cái gọi là yếu tố

tự nhiên chủ nghĩa trong tác phẩm Nam Cao, Nxb Hội Nhà văn.

7. Hà Minh Đức (1961), Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc, Nxb Văn hóa.

8. Hà Minh Đức (1983), Nhà văn Việt Nam (1945 – 1975),Nxb Đại học và

trung học chuyên nghiệp.

9. Hà Minh Đức (1988), Những cánh hoa tàn, Nxb Tác phẩm mới.

10. Hà Minh Đức (1997), Nam Cao đời văn và tác phẩm, Nxb Văn học.

11. Hà Minh Đức (biên soạn 2002), Nam Cao Toàn tập I, Nxb Văn học.

12. Hà Minh Đức (biên soạn 2002 ), Nam Cao Toàn tập II, Nxb Văn học.

13. Hải Hà (1995), Đi tìm tung tích Chí Phèo, Tạp chí Trung học phổ thông,

Khoa học xã hội, số 3.

14. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2006), Từ

điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.

15. Nguyễn Đức Hạnh (1998 - 2003), Giáo trình thi pháp, Nxb. ĐH Thái Nguyên.

16. Nguyễn Văn Hạnh (1993) Nam Cao - Một đời người, một đời văn, Nxb

Giáo dục.

17. Trần Ngọc Hiến (1995), Ai là mẹ Chí Phèo, Tạp chí Trung học phổ thông,

Khoa học xã hội, số 6.

18. Tô Hoài (1991) Những kỉ niệm về Nam Cao, báo Văn nghệ.

19. Lê Thị Liên Hoan (1998), Phỏng vấn Chí Phèo, Văn nghệ Trẻ, số 13.

83

20. Đỗ Kim Hồi (1990), Chí Phèo của Nam Cao, Tạp chí Văn học.

21. Nguyễn Thị Huấn (1997), Với Chí Phèo, Nam Cao đã thể hiện lòng nhân

ái như thế nào?, Văn học và Tuổi trẻ, tập 16.

22. Nguyễn Hoành Khung (1998), Đọc “Nam Cao- Phác thảo sự nghiệp và

chân dung”, Tạp chí Văn học, số 3.

23. Kim Lân (1977), Tôi là nhân vật của anh, trong Tuyển tập Kim Lân, NXB

Văn học.

24. Phong Lê (1968), Sống mòn và tâm sự của Nam Cao, Tạp chí Văn học,

số 9.

25. Phong Lê (1985), Nam Cao trong Nhà văn Hà Nam Ninh, Hội Văn học

nghệ thuật Hà Nam Ninh.

26. Phong Lê (1987), Cấu trúc và ngôn ngữ truyện ngắn Nam Cao, Tạp chí

Văn nghệ quân đội

27. Phong Lê (1994), Chân dung gốc Chí Phèo, Tạp chí Văn học và tuổi trẻ,

số 3.

28. Phong Lê (1998), Văn học trên hành trình của thế kỉ XX, Nxb Đại học

quốc gia.

29. Phong Lê (2014), Nam Cao sự nghiệp và chân dung, Nxb Thông tin và

truyền thông.

30. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên, 2008), Ngữ Văn 11, tập 1, Nxb.GD.

31. Phương Lựu (Chủ biên, 2006), Lí luận văn học, Nxb.GD.

32. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Nhà văn tư tưởng và phong cách, NXB Văn

học.

33. Nguyễn Đăng Mạnh (1996) Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà

văn, Nxb Giáo dục.

34. Mkhitarian (1963), Nam Cao - lời tựa tập truyện “Đợi Chờ”, NXB Văn

học nghệ thuật.

84

35. Lê Hồng My (2015) Chuyên đề Ngôn ngữ nghệ thuật trong văn học Việt

Nam hiện đại, ĐHTN.

36. Vũ Tú Nam (1991), Tôi đã được Nam Cao khuyên bảo về nghề, Tạp chí

Tác phẩm mới, số 11.

37. Vương Trí Nhàn (1993), Những kiếp hoa dại, Nxb Hội Nhà văn.

38. Nguyễn Tri Niên (1992), Chí Phèo tỉnh, Chí Phèo không say, Tạp chí Văn

học, số 1.

39. Nhiều tác giả (2001), Văn học Việt Nam 1900 - 1945, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

40. Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên, 2014), Ngữ Văn 8, tập 1, NXB Giáo dục

41. Phan Diễm Phương (1992), Ngôn ngữ người kể chuyện trong truyện ngắn

của Nam Cao, Tạp chí văn học.

42. Trương Văn Quang (1996), Lão Hạc, trong, Tiếng nói tri âm,tập II, NXB

Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

43. Vũ Dương Quý (1991) Tìm thêm lời giải đáp cho một câu hỏi của Chí

Phèo, báo Văn nghệ.

44. Đặng Đức Siêu (2006), Sổ tay văn hóa Việt Nam, NXB Lao động.

45. Trần Đình Sử (Chủ biên, 2007), Giáo trình Lí luận văn học, tập II - Tác

phẩm và Thể loại văn học, Nxb. ĐHSP.

46. Nhất Thanh(Vũ Văn Khiếu)(2001), Đất lề quê thói, NXB Văn hóa thông

tin, Hà Nội.

47. Trần Ngọc Thêm (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục.

48. Nguyễn Đình Thi (1956), Nam Cao, trong Mấy vấn đề về văn học, NXB

Văn nghệ.

49. Hoàng Trung Thông,(1987), Một lần gặp Nam Cao, báo Người Hà Nội

50. Bích Thu (biên soạn 1998) Nam Cao Về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục.

51. Đỗ Lai Thúy (2006),Mối quan hệ văn hóa - văn học nhìn từ lí thuyết

hệ thống.

85

52. Hoàng Tiến (1991), Ngôn ngữ Nam Cao, báo Nhân dân chủ nhật.

53. Hà Bình Trị (1996), Nam Cao Nghĩ về nghề văn, Tạp chí Văn nghệ

quân đội.

54. Hà Bình Trị, Một tác phẩm đặc sắc của Nam Cao chưa được chú

ý:Truyện người hàng xóm.

55. Lê Dục Tú (1992), Thị Nở xấu hay đẹp?, Tạp chí Khoa học về phụ nữ, số

12.

56. Phan Văn Tường (1996), Thêm tư liệu về nhà văn Nam Cao, Tạp chí Văn

học và Tuổi trẻ, tập 12.

57. Trần Quang Vinh (1992), Chuyện nghèo nhưng không hèn của nhà giáo

Nam Cao, Tạp chí Văn học, số 5.

58. Trần Đăng Xuyền (1991), Nam Cao và những vấn đề của cuộc sống hôm

nay, báo Văn nghệ.

59. Trần Đăng Xuyền (1991), Thời gian và không gian trong thế giới nghệ

thuật của Nam Cao, Tạp chí Văn học.

60. Zimonia.I (1963), Tuyển Nam Cao, Nguyên Hồng, NXB Văn học nghệ

thuật.

86