ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM –––––––––––––––––––––––––

LƯỜNG THỊ DUNG TỰ TRUYỆN VĂN HỌC TRƯỜNG HỢP GIA ĐÌNH BÉ MỌN CỦA DẠ NGÂN

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,

VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2018

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM –––––––––––––––––––––––––

LƯỜNG THỊ DUNG TỰ TRUYỆN VĂN HỌC TRƯỜNG HỢP GIA ĐÌNH BÉ MỌN CỦA DẠ NGÂN Ngành: Văn học Việt Nam Mã ngành: 8.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,

VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

CÁN BỘ HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP

THÁI NGUYÊN - 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này do chính bản thân tôi thực hiện. Kết quả

nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa được sử dụng trong các công

trình khoa học khác.Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu của

luận văn.

Thái Nguyên, ngày 27 tháng 4 năm 2018

Tác giả luận văn

Lường Thị Dung

i

LỜI CẢM ƠN

Bằng sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin trân trọng cảm ơn

PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp - Người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong

quá trình thực hiện đề tài của luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, các thầy, cô khoa Ngữ văn

Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã giúp đỡ và tạo điều kiện

cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại trường.

Tôi xin cảm ơn tập thể lớp cao học K24 Bắc Kạn chuyên ngành Ngữ văn

trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã đóng góp ý kiến trong quá trình học

tập và thực hiện luận văn.

Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè, đồng

nghiệp và cơ quan đã quan tâm, động viên, chia sẻ và tạo mọi điều kiện để giúp

tôi hoàn thành luận văn này.

Thái Nguyên, ngày 27 tháng 4 năm 2018

Tác giả luận văn

Lường Thị Dung

ii

MỤC LỤC

Lời cam đoan ........................................................................................................ i

Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii

Mục lục ............................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ............................................................................... 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 11

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 11

5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 11

6. Đóng góp của luận văn ................................................................................. 12

7. Cấu trúc .......................................................................................................... 12

NỘI DUNG ....................................................................................................... 13

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TỰ TRUYỆN VÀ QUÁ

TRÌNH SÁNG TẠO CỦA DẠ NGÂN ........................................................... 13

1.1. Một số vấn đề về tự truyện ......................................................................... 13

1.1.1. Khái niệm tự truyện ................................................................................. 13

1.1.2. Phân biệt tự truyện với hồi ký ................................................................. 15

1.1.3. Sự nở rộ của tự truyện trong văn học Việt Nam đương đại .................... 18

1.2. Quá trình sáng tạo của Dạ Ngân ................................................................. 19

1.2.1. Vài nét về nhà văn Dạ Ngân .................................................................... 19

1.2.2. Hành trình sáng tác .................................................................................. 21

1.2.3. Sự ra đời của tiểu thuyết Gia đình bé mọn .............................................. 22

1.3. Quan niệm nghệ thuật của Dạ Ngân ........................................................... 24

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 .................................................................................... 28

Chương 2: CÁC PHƯƠNG DIỆN CỦA CÁI TÔI TRONG GIA ĐÌNH

BÉ MỌN CỦA DẠ NGÂN .............................................................................. 29

2.1. Cái tôi trong cuộc sống thường nhật .......................................................... 29

iii

2.1.1. Cái tôi trong sinh hoạt hằng ngày ............................................................ 29

2.1.2. Cái tôi trong mối quan hệ với chính nó ................................................... 34

2.2. Cái tôi trong tình yêu và hạnh phúc gia đình ............................................. 42

2.2.1. Cái tôi trong quan hệ với gia đình riêng .................................................. 42

2.2.2. Cái tôi trong quan hệ với những người thân trong gia đình .................... 50

2.3. Cái tôi với những dư chấn của chiến tranh ................................................. 53

2.3.1. Dư chấn của chiến tranh đối với cuộc sống của con người ..................... 53

2.3.2. Dư chấn của chiến tranh đối với cuộc sống gia đình .............................. 55

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 .................................................................................... 58

Chương 3: PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN CÁI TÔI TRONG GIA

ĐÌNH BÉ MỌN CỦA DẠ NGÂN .................................................................. 59

3.1. Người kể chuyện ......................................................................................... 59

3.2. Ngôn ngữ .................................................................................................... 62

3.3. Giọng điệu .................................................................................................. 66

3.4. Không gian và thời gian nghệ thuật............................................................ 69

3.4.1. Không gian nghệ thuật ............................................................................. 69

3.4.2. Thời gian nghệ thuật ................................................................................ 74

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 .................................................................................... 80

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 81

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 83

iv

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Nếu như văn học trước 1975 chỉ tập trung vào cuộc chiến liên quan

đến vận mệnh của dân tộc, không có chỗ cho cái tôi thì văn học sau 1975, nhất

là sau 1986 đã quan tâm tới mọi mặt, soi chiếu mọi ngõ ngách của đời sống đặc

biệt là cái tôi cá nhân đã xuất hiện một cách trực diện. Bên cạnh những nhà văn

là nam giới thì văn học giai đoạn này còn góp phần không nhỏ của những nhà

văn nữ như: Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Ấm, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Dạ

Ngân…Trong đó, Dạ Ngân được độc giả chú ý đến từ truyện ngắn Con chó và

vụ ly hôn sau đó nữ nhà văn miệt vườn này đã cho in thành sách rất nhiều tập

truyện ngắn, ký, tản văn, truyện dài, truyện vừa, tiểu thuyết, kịch bản phim…

Dạ Ngân cũng là nhà văn vinh dự nhận được nhiều giải thưởng cao quý: Giải

nhì truyện ngắn tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 1987; Giải nhì truyện ngắn

báo Tuổi trẻ năm 1989; Giải ba truyện ngắn báo Sài Gòn Giải phóng năm

1990; Giải khuyến khích Nxb Kim Đồng năm 2002; Giải thưởng Hội nhà văn

Hà Nội năm 2005; Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam (2004, 2006). Như vậy,

Dạ Ngân chính là một trong số những nhà văn nữ trưởng thành sau 1975 có

đóng góp không nhỏ trong sự đổi mới văn học đương đại Việt Nam.

1.2. Gia đình bé mọn (2005) là tác phẩm thành công của nữ nhà văn được

dịch sang tiếng Anh và tiếng Pháp, được bạn bè thế giới đón nhận. Tác phẩm

đã giúp Dạ Ngân nhận giải thưởng Hội nhà văn Hà Nội (2005) và Hội nhà văn

Việt Nam (2006). Không phải ngẫu nhiên mà tác phẩm này có tới 5 lần tái bản

ở Việt Nam, nó là “minh chứng đầy thuyết phục cho sức hấp dẫn mạnh mẽ của

tác phẩm đối với công chúng, một lần nữa khẳng định chắc chắn độ chín cũng

như sức bền của ngòi bút Dạ Ngân” [21]. Đây là tác phẩm xoay quanh số phận,

cuộc đời của một người phụ nữ trong hành trình đấu tranh để đến với hạnh

phúc. Trong tác phẩm ta thấy có bóng dáng đời tư của nhà văn hay nói cách

khác là mang yếu tố tự truyện. Cuộc đời nhân vật nữ chính trong tác phẩm

1

đã phản ánh một phần hiện thực cuộc đời nữ nhà văn Dạ Ngân. Bởi vậy, có

thể nói chính yếu tố tự truyện chân thực về bản thân đã đem lại giá trị lớn

cho tác phẩm.

1.3. Qua quá trình khảo sát thực tế, tôi nhận thấy đã có nhiều công trình

nghiên cứu về tiểu thuyết Gia đình bé mọn của Dạ Ngân, tuy nhiên mỗi công

trình có một hướng nghiên cứu, tiếp cận khác nhau. Các công trình nghiên cứu

ấy sẽ là cơ sở để tôi đi sâu tìm hiểu tự truyện Gia đình bé mọn của Dạ Ngân

một cách có hệ thống. Bởi vậy tôi chọn đề tài nghiên cứu về: Tự truyện văn học

trường hợp Gia đình bé mọn của Dạ Ngân với mong muốn có những phát hiện

mới mẻ về con người cá nhân nhà văn trong tác phẩm mang tính tự truyện của

mình cũng như đóng góp của Dạ Ngân trong văn xuôi Việt Nam đương đại.

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

2.1. Tình hình nghiên cứu về về tự truyện

2.1.1. Vài nét về tình hình nghiên cứu tự truyện trên thế giới

Lịch sử nghiên cứu tự truyện cho thấy, những tác phẩm tự truyện đầu tiên

xuất hiện trong thời cận đại ở Tây Âu sau đó nó được nở rộ ở Châu Âu và Bắc

Mỹ. Sự bùng nổ của tự truyện lúc bấy giờ được coi là kết quả tất yếu vì con

người thời đại ngày càng quan tâm nhiều đến những phức tạp trong tâm hồn

mỗi cá nhân và các mối quan hệ của con người trong xã hội.

Đến đầu thế kỉ XX, những nghiên cứu đầu tiên về tự truyện đã xuất hiện.

Tiêu biểu là những chuyên khảo của Anna Robson Burr (1909); Wayne

Shumaker (1926); Georges Gusdorf (1956)…[18].

Những năm 50 của thế kỉ XX, tự truyện chưa nhận được nhiều sự quan

tâm của các nhà phê bình nhưng nó cũng đã khẳng định được vị trí và vai trò

của mình với tư cách là một thể loại độc lập bên cạnh các thể loại khác. Lúc

này, một số nhà nghiên cứu quan tâm đến thể loại này cũng đã cố gắng tìm ra

những đặc điểm riêng biệt của nó. Điển hình như tiểu luận Những điều kiện và

Giới hạn của tự truyện (Conditions et Limitesde Lautobiographie) của Georges

2

Gusdorf - nhà phê bình người Pháp; Tự thú và tự truyện (Confessions and

Autobiographies) (1955) của Stephen Spender - nhà phê bình người Mỹ…[18].

Đến thập kỷ 70 của thế kỉ XX, tự truyện đã bắt đầu thu hút một số lượng

lớn các nhà nghiên cứu phê bình: Tiêu biểu như James Olney - nhà nghiên cứu

người Mỹ trong Ý nghĩa của tự truyện (Metaphors of the Self: The Meaning of

Autobiography) (1972) đã lưu ý về tính chất quy chiếu (reference) trong tự

truyện. Từ đó mà tự truyện đã thành thể loại văn học trung tâm với những

nghiên cứu liên quan đến nhiều lĩnh vực như chính trị - xã hội - văn hóa và

cũng vì vậy mà tự truyện đã được một số tác giả quan niệm: Tự truyện - với tư

cách là một câu chuyện về một tầng nền văn hóa - xã hội đặc thù phản chiếu

qua câu chuyện của những tính cách cá thể, cho phép người đọc tiếp cận trực

tiếp với những trải nghiệm và góc nhìn của các dân tộc, cộng đồng trong xã

hội. Đó là cách tiếp cận của các tác giả như: James M.cox với Tự truyện và

Châu Mỹ (Autobiography and American culture) (1971); Patricia Meyer

Spacks với Những câu chuyện của phụ nữ, những cái tôi phụ nữ (Womens

Stories, Womens Selves) (1977). Trong đó, đặc biệt được chú ý là Hiệp ước tự

thuật (Lepacte Autobiographique) (1975) của Philippe Lejeune - tác giả này đã

đưa ra nhiều tiêu chí và hình thức cụ thể để phân biệt tự truyện với một số thể

loại khác [18].

Khoảng cuối thập kỷ 70 - đầu thập kỷ 80 tự truyện đã có dấu hiệu kết

thúc. Tuy nhiên, từ giữa những thập kỷ 80 của thế kỷ XX cho đến những năm

gần đây tự truyện vẫn đang phát triển. Mặc dù có nhiều loại hình giải trí hiện

đại và tiện lợi khác tấn công nhưng sự có mặt của tự truyện vẫn góp phần làm

mới lên nền văn học, giúp văn học phần nào lấy lại được sự chú ý của đông đảo

độc giả.

Vì vậy, trong suốt thế kỉ qua, lý thuyết và phê bình về tự truyện trên thế

giới đã phát triển liên tục và có những ngã rẽ phức tạp. Hiện nay, lĩnh vực

3

nghiên cứu này vẫn còn hứa hẹn những khám phá mới mẻ, hấp dẫn, bởi vì đối

tượng nghiên cứu của thể loại này vẫn chưa dừng lại và còn tiếp tục phát triển.

2.1.2. Nghiên cứu tự truyện ở Việt Nam

Từ đầu thế kỉ XX, văn học Việt Nam phát triển cùng lúc nhiều thể loại và

đạt được nhiều thành tựu thế nhưng gương mặt của thể loại vẫn chưa được xác

định thật rõ.

Tác giả Đỗ Đức Hiểu trong phần 3, Phê bình tự truyện trong công trình

Thi pháp hiện đại cho rằng, về thể loại tự truyện, ngay những năm đầu thế kỉ

này còn nhiều tranh luận. Yếu tố tự truyện đã xuất hiện trong một số tác phẩm

văn xuôi viết bằng chữ quốc ngữ, tuy nhiên chủ yếu vẫn là cái tôi hư cấu, độc

giả chưa có những bằng chứng xác đáng cho những cái tôi ấy chính là tác giả.

Chẳng hạn như Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng khi xuất bản được định

danh là tiểu thuyết, nhưng nhiều công trình nghiên cứu về sau xếp tác phẩm

này vào thể hồi ký (Đặc sắc hồi ký Nguyên Hồng - Nguyễn Đăng Điệp; Một

cuộc đời sáng tạo trong đau khổ - Vương Trí Nhàn). Đồng thời, tác giả cũng

cho rằng, phải đến những năm 1930 - 1945, tự truyện mới chính thức cùng các

thể loại khác làm nên một diện mạo mới cho văn học Việt Nam. “Góp phần vào

sự thành công của thể loại tự truyện chúng ta không thể không nói tới Phan Bội

Châu niên biểu của Phan Bội Châu hay Tản Đà với Giấc mộng lớn. Song đến

mãi hơn mười năm sau, khi Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, Sống nhờ

của Mạnh Phú Tư…xuất hiện, thì sự nhận thức cho rằng tự truyện là một thể

loại mới bắt đầu” [15].

Tự truyện là một thể loại không mới ở nước ngoài nhưng lại rất mới ở

nước ta, bởi vậy mà thể loại này đã và đang nhận được nhiều sự quan tâm của

giới chuyên môn: Người nắm bắt được sự hình thành của thể loại tự truyện này

đầu tiên ở Việt Nam là Vũ Ngọc Phan. Với ý thức nghiên cứu thể loại, Vũ

Ngọc Phan là nhà nghiên cứu đầu tiên phân tách tự truyện ra khỏi tiểu thuyết

bằng các tiêu chí: Tính xác thực của sự kiện; Điểm nhìn hồi cố và cái tôi tác

4

giả hiển hiện trực tiếp trong tác phẩm. Đây là một cách tiếp cận hiện đại tuy

chưa thật đầy đủ và chưa thành hệ thống.

Vũ Ngọc Phan cho rằng tự truyện là một nhóm loại tiểu thuyết hấp dẫn

và nhiều thử thách. Các bài viết của ông về Dã tràng của Thiết Can,

Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, Sống nhờ của Mạnh Phú Tư có thể coi

là những nghiên cứu đầu tiên về tự truyện [33]. Cho đến hiện nay, những vấn

đề như: tự truyện là gì, văn học Việt Nam có tự truyện hay không, con đường

phát triển của nó là như thế nào, những dấu hiệu của tự truyện trong các tác

phẩm cụ thể… đã và đang được giới nghiên cứu quan tâm. Các nghiên cứu

được chia thành nhóm những vấn đề thể loại và nhóm quan tâm tới những tác

phẩm tự truyện riêng biệt.

Ở nhóm nghiên cứu vấn đề thể loại tự truyện có thể kể đến các công

trình: Truyện tiểu sử, một loại hình tự sự cần được khẳng định và phát triển

của Trương Dĩnh năm 2000; Viết tự truyện, khi nào và vì sao của Trần Văn

Toàn năm 2003, đặc biệt, tác giả Đoàn Cầm Thi với hàng loạt bài viết đăng rải

rác trên báo văn nghệ từ 2004 đến 2008; Tương lai tự truyện Việt Nam còn ở

phía trước (2008), bài viết của Lê Tú Anh: Phan Bội Châu niên biểu (Phan Bội

Châu) và Giấc mộng lớn (Tản Đà) - Những bước đi đầu tiên của tự truyện Việt

Nam (2010), của Đỗ Hải Ninh: Mối quan hệ giữa tự truyện - tiểu thuyết và một

số dạng tự thuật trong văn học Việt Nam đương đại (2009)…Theo đó, các tác

giả cho rằng tự truyện là thể loại mới của văn học, bởi vậy mà thể loại này đã

và đang nhận được nhiều sự quan tâm của giới chuyên môn:

Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học do Lại Nguyên Ân (chủ biên) cho

rằng: “Tự truyện là tác phẩm tự sự thường được viết bằng văn xuôi trong đó

tác giả tự kể và miêu tả cuộc đời của bản thân mình” [3, tr.28]. Theo quan niệm

này, một tác phẩm tự truyện là bức tranh của cái tôi thuần túy. Tác giả, người

kể chuyện và nhân vật chính là một, ngoài ra không có sự xuất hiện của cá

nhân khác.

5

Còn Triệu Xuân, trong Tự truyện không hẳn là văn học viết: Nó là một

thể văn viết ghi lại tư liệu có thật nhằm thuật lại cuộc đời, sự nghiệp của một cá

nhân, gia đình, dòng họ. Tự truyện chỉ có thể là văn học khi nó được viết theo

cái cách của văn học. Thông qua số phận cá nhân ấy, gia đình ấy, phản ánh và

biểu hiện tâm thế của cộng đồng, một dân tộc, một thời đại… Các cuốn như

Thép đã tôi thế đấy của N. Ôxtrovski, Bộ ba tác phẩm: Thời thơ ấu, Kiếm sống,

Những trường đại học của tôi của M. Gorki, Những ngày thơ ấu của Nguyên

Hồng, Cai của Vũ Bằng là tự truyện chính cống [38].

Tác giả Lê Tú Anh trong một bài phê bình có tên Tự truyện như một thể

loại văn học có nói về tự truyện như sau: Theo tôi, tự truyện như một thể loại

văn học hay một tác phẩm tự truyện ngoài việc cần có những điểm khá khả thủ

để phân biệt ở một mức độ tương đối với hồi ký, nhật ký, tiểu thuyết; cần phải

đáp ứng được những yêu cầu để có thể phân biệt với một tự truyện chưa đạt

đến trình độ tác phẩm văn học (cận văn học) [48]. Và theo tác giả bài viết thì

có một số yêu cầu cụ thể để nhận diện tự truyện như: Thứ nhất: Tự truyện

thuộc hệ thống thể loại văn xuôi tự sự, nghĩa là có yếu tố “sự” và thao tác tự sự

(narative). Các sự kiện phải được xâu chuỗi, kết nối, liên hệ…tạo thành cốt

truyện, qua đó thấy được “hình hài” của một con người, một cuộc đời, một số

phận…Thứ hai: Từ câu chuyện có thật của cái “tôi” người viết, tác phẩm tự

truyện phải đạt tới cái “chúng ta”. Nghĩa là, một tự truyện văn chương đích

thực không phải chỉ là những câu chuyện vặt vãnh về cuộc đời của một cá

nhân, tách rời những vấn đề lớn của xã hội, thời đại mà cái “tôi” ấy đã sống.

Thứ ba: Người viết tự truyện phải đảm bảo độ trung thực, đáng tin cậy của

những sự thật được tiết lộ và phải thể hiện chúng trong tinh thần nhân bản. Thứ

tư: Tác phẩm tự truyện phải đảm bảo yếu tố kết cấu và ngôn từ có tính nghệ

thuật [48].

6

Ngoài các nhận định của giới chuyên môn thì tự truyện còn được nhiều tác

giả chọn làm đề tài nghiên cứu trong các luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ. Có

thể điểm qua một số tác giả sau:

Luận án tiến sĩ của Đỗ Hải Ninh Khuynh hướng tự truyện trong tiểu thuyết

Việt Nam đương đại, ở công trình nghiên cứu này tác giả khẳng định: Vấn đề tự

truyện là vấn đề có ý nghĩa đối với văn học đương đại bởi nó gắn với cái tôi

của tác giả - sự khẳng định cái tôi cá nhân mạnh mẽ trong thời đại bùng nổ

công nghệ thông tin, sự tương tác và dung nạp lẫn nhau giữa các thể loại. Cùng

với quá trình đổi mới, yếu tố tự truyện xuất hiện ngày càng nhiều thể hiện nhu cầu

được bộc lộ cái tôi, ý thức phản tỉnh và khuynh hướng nhận thức lại thực tại của

dòng văn học tự vấn [22]. Cũng trong luận án của mình, tác giả đã lần lượt bày tỏ

quan niệm của mình về các vấn đề xoay quanh tới tự truyện.

Tác giả Bùi Thị Thu trong luận văn Thạc sĩ yếu tố tự truyện trong văn

xuôi của Đoàn Lê cũng nhấn mạnh tới chất liệu sử dụng trong các tác phẩm

mang tính tự truyện. Theo tác giả, chất liệu đó chính là câu chuyện tác giả kể

để thông qua đó nhà văn gửi gắm tư tưởng, tình cảm của mình tới người đọc

[34]. Trong luận văn Thạc sĩ Đặc điểm tự truyện và hồi ký của Tô Hoài, tác giả

Nguyễn Thị Ái Vân cho rằng: Tác phẩm tự truyện thường có phương hướng lý

giải cuộc sống đã qua (của tác giả) như một chỉnh thể, tạo ra những đường nét

mạch lạc cho cuộc sống trải nghiệm của mình. [31]. Còn Bùi Thị Mát trong

Luận văn Yếu tố tự truyện Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng lại đề cao

vai trò của yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết: Trong văn học Việt Nam vốn ít có

truyền thống tác giả tự kể chuyện đời mình, nhìn chung cái tôi của nhà văn Việt khá

kín đáo và không thích lộ diện nhưng trong khoảng vài thập kỉ trở lại đây, tự truyện

trở thành một tố chất thể loại vừa mới mẻ, vừa mạnh mẽ, tự truyện trở thành một

dòng chảy trong tiểu thuyết [20]. Tác giả Trần Thị Xuân Hợp trong Yếu tố tự

truyện trong tiểu thuyết của Nguyễn Khải thời kì đổi mới cũng khẳng định: Có

thể thấy rằng tự truyện đã trở thành một dạng của thể loại văn học dù nó xuất

7

hiện muộn mằn hơn nhiều thể loại khác [17]… Gần đây nhất, trong luận văn

Yếu tố tự truyện trong Sống mòn của Nam Cao, tác giả Phạm Thị Hà Ninh cũng

đề cập tới mối quan hệ giữa tự truyện và tiểu thuyết: nhà văn đã đem lại cho

câu chuyện kể về đời mình những màu sắc của tiểu thuyết trong sự kết hợp hài

hòa với tự truyện [23].

Như vậy, điểm qua một số công trình trên cho thấy những nghiên cứu nói

trên phần lớn đều nhìn nhận tự truyện là một thể loại hay tự truyện luôn gắn với

tiểu thuyết, thậm chí là tiểu thuyết. Dựa trên những cơ sở lí thuyết đó, tôi

nghiên cứu Tự truyện trường hợp Gia đình bé mọn của Dạ Ngân là tìm hiểu

các chi tiết thuộc về con người cá nhân tác giả tham dự vào tác phẩm, chứ

không khai thác tác phẩm trên phương diện thể loại.

2.2. Nghiên cứu về Gia đình bé mọn của Dạ Ngân

Là một trong số những cây bút nữ trưởng thành sau 1975, Dạ Ngân được

công chúng biết đến qua một loạt tác phẩm: Con chó và vụ ly hôn (Tập truyện

1990); Dạ Ngân- truyện ngắn chọn lọc (Tập truyện 1995); Truyện dài thiếu nhi

Miệt vườn xa lắm (2003)…đặc biệt là cuốn tiểu thuyết Gia đình bé mọn (2005).

Dạ Ngân quan điểm: Văn chương là một nghề đặc biệt, nhất là khi người cầm

bút lại là phụ nữ. Qua những trải nghiệm về cuộc đời và sáng tác văn học, nhà

văn cho rằng con đường văn chương cho bà sự cô độc tối cao, niềm tin dai

dẳng và có thể khóc cười thoải mái một mình [39].

Gia đình bé mọn có thể coi là đứa con mà Dạ Ngân đứt ruột sinh ra, nói

như nhiều độc giả yêu mến tác phẩm, yêu mến Dạ Ngân đều đồng quan điểm

rằng: từng chương, từng trang, từng chi tiết của cuốn sách đều có thể quy chiếu

hiện thực tác phẩm vào hiện thực cuộc sống. Như tên gọi của tác phẩm cho

biết, Gia đình bé mọn trước hết là cuốn tiểu thuyết kể chuyện gia đình. Đúng

hơn là kể chuyện những gia đình của nhân vật trung tâm - nữ nhà văn tên

Tiệp… Vượt lên trên tất cả những cái đó, bao giờ Tiệp cũng cho thấy một mẫu

hình phụ nữ chủ động lèo lái con thuyền cuộc đời mình, một kiểu phụ nữ kiên

8

nhẫn tới mức lì lợm để sống thật và sống đẹp với chính nhu cầu tinh thần của

mình. Và ở phương diện này, phải chăng Gia đình bé mọn chính là thiên tiểu

thuyết tiếp tục cái mạch mà tiểu thuyết cổ điển thế kỷ 19 rất hứng thú: khẳng

định cá nhân, ca ngợi những con người dám đương đầu với tất cả để bảo vệ

hạnh phúc, bảo vệ phẩm giá của mình? [24].

Trong bài giới thiệu tiểu thuyết Gia đình bé mọn, Wayne Karlin (nhà văn

Mỹ) giới thiệu nhân vật nữ Tiệp trong tác phẩm chính là nhân vật đi cùng số

phận đất nước.Từ một nữ du kích góp phần vào cuộc chiến tranh vì sự nghiệp

giải phóng dân tộc và một xã hội lý tưởng. Đến tuổi trưởng thành lại đấu tranh

cho giải phóng con người và tình yêu cá nhân. Hành trình Gia đình bé mọn của

Tiệp trùng hợp với hành trình của đất nước từ đoạn chót của cuộc chiến Việt -

Mỹ đến thế kỉ 21 [42].

Không chỉ là tác phẩm có ý nghĩa cho cuộc đời cũng như sự nghiệp sáng

tác của Dạ Ngân, Gia đình bé mọn còn là tác phẩm văn học có giá trị to lớn

đóng góp vào sự đổi mới của văn xuôi đương đại Việt Nam. Bởi vậy mà ngay

từ khi ra mắt công chúng tác phẩm đã nhận được sự yêu mến nồng nhiệt của

đông đảo bạn đọc. Minh chứng là đã có rất nhiều bài viết, bài luận án, luận văn

nghiên cứu về tác phẩm. Tài liệu trên Giáo án.Violet.vn có bài giới thiệu Dạ

Ngân và tiểu thuyết Gia đình bé mọn. Tài liệu đề cập tới ý nghĩa nhan đề, đề

tài, chủ đề, giá trị nội dung, nghệ thuật và cả thông điệp của tác phẩm.

Tác giả luận văn Dương Thế Thuật trong Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật

Dạ Ngân cho rằng: Tiểu thuyết Gia đình bé mọn là một thành công lớn của chị,

đã nhận được nhiều ý kiến phản hồi từ những người nghiên cứu. Nhà phê bình

Nguyễn Hoài Nam đã nhận định “Những phẩm chất làm nên thế mạnh ngòi bút

của Dạ Ngân: sự cẩn trọng và tinh tế trong câu chữ, khả năng kết hợp nhuần

nhuyễn giữa mỹ văn và ngôn ngữ đời thường của người Nam Bộ, sự sắc sảo

trong phác họa nhân vật bằng vài chi tiết đắt giá, nhanh gọn; và sau cùng là một

cái nhìn cuộc đời - dù với sự phê phán - nhưng vẫn luôn đôn hậu”. Còn Hoàng

9

Thị Quỳnh Nga đã nhận xét: “Ngoài những trang viết tinh tế và xúc động về

cảm giác và sự giằng xé, Gia đình bé mọn còn hấp dẫn người đọc bởi bức tranh

xã hội thời bao cấp” [35].

Trên trang http://doan.edu.vn/do-an/de-tai-bi-kich-hanh-phuc-cua-nguoi-

phu-nu-giua-doi-thuong-3997/ lại chú ý tới bi kịch hạnh phúc của người phụ nữ

trong Gia đình bé mọn của Dạ Ngân, tác giả bài viết nhấn mạnh: Đặt vấn đề

này trong toàn bộ tiểu thuyết Gia đình bé mọn chúng tôi nhận thấy đây là nội

dung có tính xuyên suốt cả tác phẩm, bên cạnh nhiều vấn đề rộng lớn hơn: Bức

tranh xã hội Việt Nam thời bao cấp, sự sắp đặt của chiến tranh đối với số phận

con người…đồng thời cuộc tình bền bỉ sóng gió và dai dẳng của nhân vật chính

cùng những giằng xé đau đớn trong nội tâm gia đình về hạnh phúc, về tình yêu

với tất thảy bi kịch đời thường nhất còn mang dáng dấp của những sự thực sâu

kín trong đời tư nhà văn tạo nên sức hấp dẫn riêng đặc biệt cho thiên truyện[42]

Bên cạnh đó, cái tên Dạ Ngân hay tiểu thuyết Gia đình bé mọn còn được

nhắc đến trong một số luận văn khác như: Luận văn Người phụ nữ hiện đại qua

cái nhìn của một số nhà văn nữ của Trần Thúy An (2007); Đặng Thị Cúc

(2014), Thế giới nghệ thuật truyện ngắn Dạ Ngân; Đề tài gia đình trong văn

học Việt Nam sau 1975- Tạp chí khoa học số 2B/2007…

Qua sự tổng hợp trên cho thấy đã có nhiều công trình nghiên cứu về tiểu

thuyết Gia đình bé mọn của Dạ Ngân, trong đó mỗi công trình có một hướng

nghiên cứu, tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu ấy sẽ

là cơ sở để tôi đi sâu tìm hiểu Tự truyện Gia đình bé mọn của Dạ ngân một

cách có hệ thống. Với hướng tiếp cận này, tôi hi vọng sẽ góp tiếng nói của

mình vào việc khẳng định tài năng, cống hiến của Dạ Ngân đối với nền văn học

Việt Nam đương đại.

10

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

- Yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết Gia đình bé mọn của Dạ Ngân.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Ngoài tiểu thuyết Gia đình bé mọn chúng tôi còn tìm hiểu thêm một số

sáng tác khác của Dạ Ngân và các nhà văn cùng thời để so sánh.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích nghiên cứu

- Làm nổi rõ yếu tố tự truyện trong Gia đình bé mọn.

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tìm hiểu những vấn đề lý luận về tự truyện

- Khảo sát yếu tố tự truyện trong Gia đình bé mọn của Dạ Ngân

- So sánh yếu tố tự truyện trong Gia đình bé mọn và một số tác phẩm văn

học khác để làm nổi rõ sự độc đáo của nữ nhà văn Dạ Ngân.

5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn là sự kết hợp của nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó có

các phương pháp cơ bản sau:

- Phương pháp hệ thống. Người viết có thể hệ thống được những đặc điểm

nổi bật về phương diện nội dung và nghệ thuật trong Gia đình bé mọn của Dạ

Ngân cũng như có cái nhìn và đánh giá riêng về nhà văn.

- Phương pháp phân tích văn bản: Đây là phương pháp cơ bản, thường

xuyên được sử dụng trong luận văn, góp phần tìm hiểu rõ nét, cụ thể về nội

dung và nghệ thuật tác phẩm, từ đó nổi bật những luận điểm cơ bản trong Gia

đình bé mọn.

- Phương pháp thống kê, so sánh: Luận văn tiến hành tìm hiểu văn bản

trong nhiều phương diện. Trong một cái nhìn chung của cá nhân nhà văn và

11

thời đại. Sự nghiên cứu này đồng thời dựa trên sự so sánh Gia đình bé mọn của

Dạ Ngân với những tác phẩm khác.

- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Đây là con đường quan trọng để

người viết tìm hiểu các phương thức thể hiện yếu tố tự truyện của tác giả như

về ngôn ngữ, cách trần thuật, thời gian, không gian nghệ thuật, miêu tả diễn

biến tâm lí…

- Phương pháp liên ngành: Vận dụng kiến thức của các ngành khác nhau

như lịch sử, xã hội học, tâm lí học, dân tộc học…để cái nhìn nhìn toàn diện và

sâu sắc hơn về yếu tố tự truyện trong tác phẩm.

6. Đóng góp của luận văn

Chỉ ra được những biểu hiện của yếu tố tự truyện trong cuốn tiểu thuyết

Gia đình bé mọn của Dạ Ngân.

Từ đó, luận văn góp phần khẳng định diện mạo, vai trò, vị trí của Dạ Ngân

trong sự vận động và phát triển tự truyện của nền văn học Việt Nam đương đại.

7. Cấu trúc

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục. Phần nội

dung được trình bày trong ba chương:

Chương 1. Một số vấn đề lí luận về tự truyện và quá trình sáng tạo

của Dạ Ngân.

Chương 2. Các phương diện của cái tôi trong Gia đình bé mọn của Dạ ngân.

Chương 3. Phương thức biểu hiện cái tôi tron Gia đình bé mọn của Dạ Ngân.

12

NỘI DUNG

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TỰ TRUYỆN VÀ

QUÁ TRÌNH SÁNG TẠO CỦA DẠ NGÂN

1.1. Một số vấn đề về tự truyện

1.1.1. Khái niệm tự truyện

Tự truyện (autobiographique) là thuật ngữ văn học bắt nguồn từ tiếng

Pháp có nghĩa chỉ tác phẩm viết về chính cuộc đời mình. Tuy vậy, trên những

lập trường khác nhau có khá nhiều cách hiểu khác nhau về thuật ngữ này.

Thứ nhất, theo các nhà từ điển học, thuật ngữ tự truyện được hiểu theo

nhiều cách, tựu chung lại thì tự truyện được coi là một thể loại văn học trong đó

tác giả tự kể về cuộc đời mình. Tác phẩm tự truyện thường có thiên hướng lí

giải cuộc sống đã qua của tác giả như một chỉnh thể, tạo nên những đường nét

mạch lạc cho cuộc sống kinh nghiệm của mình. Cụ thể như sau:

Theo Từ điển tiếng việt thì tự truyện là truyện tác giả viết về chính bản thân

mình [25, tr.177].

Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì Tự truyện là tác phẩm văn học thuộc thể

loại tự sự do tác giả viết về cuộc đời mình… [25, tr.389].

Theo Từ điển văn học: Tự truyện thường là những câu chuyện viết

bằng văn xuôi, kể lại dĩ vãng của chính tác giả…Tự truyện không phải là

một tập hợp những kỷ niệm tản mạn, mà được bố trí như một truyện, một

tiểu thuyết… [11, tr.1905-1906].

Tác giả Lại Nguyên Ân trong 150 thuật ngữ văn học cũng cho rằng Tự

truyện là tác phẩm văn học tự sự, thường được viết bằng văn xuôi, trong đó tác

giả tự kể và miêu tả cuộc đời của bản thân mình [3].

Theo Bách khoa toàn thư Wikipedia thì Tự truyện là những tác phẩm văn

học thuộc thể loại tự sự, thường được viết bằng văn xuôi trong đó tác giả tự kể

lại và miêu tả cuộc đời mình trong tác phẩm.

13

Như vậy theo các nhà từ điển, thuật ngữ Tự truyện được hiểu là những tác

phẩm văn xuôi, trong đó tác giả tự viết về cuộc đời của chính mình. Hầu hết

các nhà từ điển học đều có điểm chung khi cho rằng tự truyện thể hiện chân

dung và cuộc đời của tác giả. Theo cách những khái niệm từ điển, tự truyện vừa

có điểm của hồi kí, vừa mang đặc điểm của tiểu thuyết tự thuật.

Thứ hai, quan điểm của các nhà nghiên cứu văn học.

Tác giả Đặng Thị Hạnh dẫn định nghĩa tự truyện như sau Năm 1971

trong cuốn Tự thuật ở Pháp Philippe Lejeune định nghĩa nó như sau:

Truyện kể mang tính nhìn lại dĩ vãng, mà một người có thật viết về cuộc sống

của mình, khi người đó đặt trọng âm lên đời sống riêng, nhất là lên sự hình

thành nhân cách [12, tr.36]. Tác giả Phùng Xuân Tửu trong công trình Tiểu

thuyết Pháp bên thềm thế kỷ XXI (2005) đều dẫn định nghĩa của tác giả người

Pháp Philippe Lejeune. Có thể coi đây là những cơ sở đầu tiên cho việc xác

định tự truyện là gì. Theo đó, tự truyện được coi là bức chân dung tự họa của

tác giả, vì thế, tự truyện mang cái tôi cá nhân của tác giả, thể hiện sự hình thành

nhân cách của một con người.

Tác giả Nguyễn Thành Thi nhìn nhận tự truyện dưới con mắt hình thức

thể loại và cho rằng: Nhà văn khi sáng tác tác phẩm bao giờ cũng sáng tác theo

một mô hình thể loại xác định. Thể loại tác phẩm văn học, thường được hiểu là

khái niệm chỉ quy luật loại hình của tác phẩm trong đó ứng với một loại nội

dung nhất định có một loại hình thức nhất định, tạo cho tác phẩm một hình

thức tồn tại chỉnh thể [31, tr.12]. Như vậy, theo tác giả, tự truyện là một thể

loại của văn học, thể hiện một nội dung nhất định theo chủ ý của tác giả.

Đồng quan điểm khi cho rằng tự truyện như một thể loại văn học, tác giả

Lê Tú Anh là tác giả quan tâm tới vấn đề tự truyện có phải là văn học hay

không. Theo tác giả tự truyện như một thể loại văn học hay một tác phẩm tự

truyện ngoài việc cần phải có những điểm khả thủ để phân biệt ở một mức độ

tương đối với hồi ký, nhật ký, tiểu thuyết; cần phải đáp ứng được những yêu

14

cầu để có thể phân biệt với một tự truyện chưa đạt đến trình độ tác phẩm văn

học (cận văn học). Các yêu cầu cụ thể là: phải có thao tác tự sự, có ý nghĩa

nhân sinh và ngôn từ có tính nghệ thuật [2].

Như vậy, theo các nhà nghiên cứu văn học, tác phẩm tự truyện thường có

phương hướng viết về những gì đã xảy ra trong cuộc sống của chính mình như

một chỉnh thể, tạo ra những đường nét mạch lạc cho cuộc sống trải nghiệm của

mình. Đồng thời, tác giả có thể vận dụng hư cấu, tưởng tượng để sắp xếp các chi

tiết, sự kiện của cuộc đời mình để diễn biến sự tình trở nên hợp lý, nhất quán. Thời

gian trong tự truyện luôn luôn là thời gian đan xen giữa quá khứ với thực tại, khi

mà tác giả trong hiện tại nhìn về quá khứ với con mắt hoặc là hoài niệm, hoặc là

tiếc nuối, hoặc thể hiện sự trải nghiệm và chiêm nghiệm về cuộc sống.

Có thể thấy, tự truyện bao gồm cả yếu tố truyện (hình thức, một thể loại

tự sự) và yếu tố tự thân (nội dung, bản thân) của người viết truyện. Yếu tố cá

nhân, đời tư của tác giả là chất liệu hiện thực được tác giả sử dụng với nhiều

mục đích nghệ thuật khác nhau. Trong tự truyện có cả yếu tố hồi ký và chân

dung nhà văn.

1.1.2. Phân biệt tự truyện với hồi ký

1.1.2.1. Hồi ký

Hồi ký không phải là một khái niệm mới trong văn học. Ở Việt Nam, các

nhà nghiên cứu văn học đã giải thích khái niệm này căn cứ vào nhiều góc độ

khác nhau như: căn cứ vào nội hàm nghĩa của từ hồi ký; căn cứ vào đặc trưng

thể loại; căn cứ vào cách kể chuyện… Nhưng tựu chung lại, các nhà nghiên cứu

có điểm tương đồng ở việc xác định hồi ký là tái hiện quá khứ gắn với người

thật, việc thật, tác giả chính là người trong cuộc hoặc chứng kiến... Dưới đây là

các cách hiểu đó.

Theo quan điểm của các nhà từ điển:

Theo tác giả Hoàng Phê thì hồi ký là thể ký, ghi lại những điều còn nhớ

sau khi đã trải qua, đã chứng kiến sự việc [25, tr.459].

15

Theo tài liệu [9] thì Hồi ký là một thể loại thuộc loại hình ký, kể lại những

biến cố đã xảy ra trong quá khứ mà tác giả là người tham dự hoặc chứng kiến. Và

Xét về phương diện quan hệ giữa tác giả với sự kiện được ghi lại về tính chính xác

của sự kiện, về góc độ và phương thức diễn đạt, hồi ký có nhiều chỗ gần với nhật

ký. Còn về phương diện tư liệu, về tính xác thực và không có hư cấu thì hồi ký lại

gần với văn xuôi lịch sử, tiểu sử khoa học [9, tr.152].

Từ điển thuật ngữ văn học: Hồi ký là một thể loại thuộc loại hình ký, kể lại

những biến cố đã xảy ra trong quá khứ mà tác giả là người tham dự hoặc

chứng kiến. Họ cho rằng: Xét về phương diện quan hệ giữa tác giả với sự kiện

được ghi lại về tính chính xác của sự kiện, về góc độ và phương thức diễn đạt,

hồi ký có nhiều chỗ gần với nhật ký. Còn về phương diện tư liệu, về tính xác

thực và không có hư cấu thì hồi ký lại gần với văn xuôi lịch sử, tiểu sử khoa

học [11, tr.152].

Theo Từ điển văn học do Đỗ Đức Hiểu chủ biên, hệ thống: "Thuật ngữ chỉ

một thể loại nằm trong nhóm thể tài ký. Tác phẩm hồi ký là một thiên trần thuật

từ ngôi tác giả, kể về những sự kiện có thực xảy ra trong quá khứ mà tác giả

tham dự hoặc chứng kiến" [14, tr.648].

Nhìn nhận hồi ký theo quan niệm thể loại:Tác giả Lại Nguyên Ân trong

150 thuật ngữ văn học cho rằng: hồi ký là một thể thuộc thể tài ký. Tác phẩm

hồi ký là một thiên trần thuật từ ngôi tác giả, kể về những sự kiện có thực trong

quá khứ mà tác giả tham dự hoặc chứng kiến [3, tr.154]. Theo tài liệu các tác

giả trong Lý luận văn học cho rằng hồi ký là thể loại ghi chép các sự kiện

quá khứ đã trải qua do đó sự thực hiện, cũng là một hình thức văn học riêng

[10, tr.286]. Đồng thời, tác giả xác định: Hồi ký ghi lại những diễn biến của

câu chuyện và nhân vật theo bước đi của thời gian qua hồi tưởng [10, tr.285].

Tuy vậy, bản thân thể hồi ký có đời sống riêng, vận động thay đổi ở từng chặng

đường văn học, khiến cho các khái niệm, quy ước có tính quy phạm không lý

giải hết sự đa dạng của nó. Vì vậy, ranh giới giữa hồi ký với các loại hình gần

16

nó cần phải xác định rõ ràng. Đặc biệt, đặc trưng của hồi ký là một thể văn học

luôn vận động, chuyển hóa không ngừng.

Tác giả của hồi ký ghi chép phần hiện thực mà tác giả chứng kiến hơn là dựa

trên những ấn tượng và hồi ức riêng trực tiếp của mình.Vì vậy hồi ký thường khó

tránh khỏi tính phiến diện và ít nhiều chủ quan về thông tin, tính không đầy đủ của

sự kiện, song sự không đầy đủ của nó do sự diễn đạt sinh động trực tiếp của tác giả

lại có giá trị như một tài liệu xác thực đáng tin cậy [8, tr. 127].

Nhóm tác giả trong Từ điển Văn học (bộ mới) cho rằng: Hồi ký gần nhật

ký ở hình thức giãi bày, ở chỗ không dùng thủ pháp cốt truyện, ở cách kể

thường theo thứ tự thời gian, ở việc chú ý đến các sự kiện mang tính tiểu sử

[24, tr.646-647].

Như vậy, qua việc đưa ra các cách hiểu về hồi kí của các nhà nghiên cứu, luận

văn xác định được đặc trưng của hồi ký, từ đó phân biệt hồi ký với tự truyện.

1.1.2.1. Sự khác biệt giữa tự truyện và hồi ký

Xét về nội hàm hai khái niệm thì hai khái niệm hồi ký và tự truyện tương

đối gần nhau nhưng không hoàn toàn trùng khít.Theo tác giả Đỗ Đức Hiểu thì:

Hồi ký có thể chỉ ghi lại những sự kiện về một thời kỳ lịch sử mà tác giả không

phải là nhân vật chính; còn tự truyện kể chuyện của cái “tôi” tác giả. Tự

truyện không phải một tập hợp những kỉ niệm tản mạn, mà được bố trí như một

truyện, một tiểu thuyết [14, tr.1906]. Theo nhận định này thì chúng ta có phân

biệt tự truyện và hồi ký như sau: Tự truyện là sự phân tích, mổ xẻ cái tôi và nó

cũng là biểu hiện của cái tôi đạt tới trình độ cao. Còn hồi ký là chứng kiến các sự

kiện đã trải qua, cá nhân người viết chỉ là một phần những chi tiết trong đời sống.

Như vậy, điểm chung giữa hồi ký và tự truyện đều đề cập đến những gì

thuộc về quá khứ. Tác giả của cả hai loại này đều hướng về dĩ vãng, đều có

cảm hứng tổng kết và lý giải, đều được viết ra cho người khác đọc để bộc bạch

cái tôi, chia sẻ kinh nghiệm cá nhân.Tuy vậy, xét về bản chất, tự truyện mang

đặc trưng của truyện, giàu tính miêu tả, chú ý đến nghệ thuật kể, còn hồi ký

17

mang đặc trưng của ký, nặng về tính sự kiện, tính xác thực. Nếu như tự truyện

xuất phát từ nhu cầu lý giải bản thân để lý giải quá trình hình thành nhân cách

và thế giới nội tâm của mình trong sự tương tác với thế giới bên ngoài, thì hồi

ký chỉ xuất hiện khi người ta có cảm hứng hồi cố, có nhu cầu trục vớt quá khứ

khi nó đòi được hiện diện trong hiện tại, thỏa mãn mong muốn xét lại lịch sử.

Vì vậy, trong tự truyện có cái tôi hiện tại, trong hồi ký không có. Đặc biệt, hồi

ký cần có độ lùi thời gian hơn đủ cho ký ức sống lại, đong đầy một niềm tiếc

nuối, hiện thực bị khuất lấp được trình ra.

1.1.3. Sự nở rộ của tự truyện trong văn học Việt Nam đương đại

Thế kỉ XIX, các nhà văn hiện thực viết về bản thân để phơi bày các mối

quan hệ giữa con người với nhau và giữa con người với hoàn cảnh xã hội. Ở

thế kỉ XX, nhiều nhà văn thuật lại cuộc đời của chính mình để qua đó phản ánh

số phận của dân tộc, cộng đồng và thời đại. Như vậy, các phương diện của đời

sống: đời tư, thế sự và sử thi đều có thể nằm trong tự truyện.

Văn học thời trung đại có khuynh hướng thiên về cái vô ngã. Đến thời kì

1930 - 1945, văn học nhắc nhiều đến cái tôi với những tác phẩm của Nguyên

Hồng, Nam Cao, Kim Lân… Tuy nhiên, đến thời kỳ kháng chiến chống Pháp

và chống Mĩ, do yêu cầu của thời đại, văn học tập trung vào những vấn đề

chung của thời đại. Do vậy cái tôi cá nhân một lần nữa ít được nhắc đến trong

văn học.

Sau năm 1975 đặc biệt là sau năm 1986 đổi mới nền văn học cũng là một

yêu cầu bức thiết. Xuất phát từ điều đó, văn xuôi Việt Nam những năm 80 xuất

hiện nhiều tác phẩm viết về cái tôi cá nhân và gắn với nỗi khát khao tình yêu đôi

lứa. Đây là chủ đề được khai thác rất hạn chế trong văn học Việt Nam từ trước đến

nay do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân lịch sử. Các tác giả Lê Lựu,

Nhật Tuấn, Dạ Ngân, Ngô Thị Kim Cúc, Tạ Duy Anh, Ma Văn Kháng, Dương

Hướng,…đã thể hiện sự quan tâm đến hạnh phúc cá nhân, phản ánh những mặt

18

riêng tư nhất, đời thường nhất của con người, không đặt vấn đề phải hi sinh hạnh

phúc cá nhân cho sự nghiệp lớn lao nữa, mà đặt vấn đề: trong khi xây dựng sự

nghiệp lớn lao kia, không nên bỏ qua hạnh phúc cá nhân.

Văn học Đồng bằng sông Cửu Long cũng cũng không nằm ngoài thông

lệ đó. Những cây bút như Sơn Nam, Nguyễn Quang Sáng, Lê Chí, Trang Thế

Hy, đã thể hiện ró nét cái tôi cá nhân trong những sáng tác của mình. Đặc biệt

là sự xuất hiện của nhiều cây bút nữ có tài năng như Lý Lan, Dạ Ngân,

Song Hảo, Nguyễn Ngọc Tư, Đinh Thị Thu Vân,… đã đem đến một luồng

sáng mới cho nền văn học khu vực. Trong đó, có một số nhà văn, viết tác

phẩm trở thành một hành trình tìm kiếm chính mình, chăm chú vào bí ẩn của

cái tôi, lật xới vấn đề muôn thuở cái tôi là gì? Bằng cách nào nắm bắt được cái

tôi? Do vậy khuynh hướng tự truyện trong văn học đương đại đang dần trở

nên gây chú ý.

1.2. Quá trình sáng tạo của Dạ Ngân

1.2.1. Vài nét về nhà văn Dạ Ngân

Nữ văn sĩ Dạ Ngân tên thật là Lê Hồng Nga, sinh ngày 06 tháng 02 năm

1952. Tuổi thơ của nhà văn gắn bó vườn cổ Cao Lãnh sông Tiền.

Dạ Ngân sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng (ba bà bị

tù, án khổ sai Côn Đảo rồi chết trong xà lim). Cô Tư, cô ruột của nhà văn,

người đàn bà goá đã ở vậy đến già để chăm nuôi bầy cháu cho ba bà đi kháng

chiến. Có thể nói, đây là hai nhân vật mà tâm hồn và tính cách của họ ảnh

hưởng mạnh mẽ nhất đến tư chất Dạ Ngân sau này. Cũng giống như nhiều gia

đình ở miền nam trong thời kháng chiến (trước là trả thù nhà, sau là trả nợ

nước), gia đình của Dạ Ngân có truyền thống yêu nước, cha hi sinh trong kháng

chiến, còn tất cả các chị em gái của Dạ Ngân đều vào cứ tham gia đánh giặc.

Nhà văn đã bộc bạch: Quê gốc tôi ở miệt vườn Cao Lãnh sông Tiền nhưng

vì ông nội tôi thích thi thố nên đưa tất cả anh em giạt xuống tận Cần Thơ để

phỉ chí nghề vườn. Tôi là phụ nữ miệt vườn chính cống và tôi luôn tự hào về

19

điều đó.Tuổi thơ tôi được bảo bọc bằng nghề vườn, cây vườn và nhà nội, trong

đó vai trò quyết định thuộc cô tôi, người đàn bà goá đã ở vậy đến già để chăm

nuôi bầy cháu cho ba tôi đi kháng chiến. Cho đến khi ba tôi bị tù, án khổ sai

Côn Đảo rồi chết trong xà lim thì tôi thuộc về cô tôi hoàn toàn, tâm hồn và tính

cách ấy đã quyết định tư chất tôi. Ở vào vùng hành lang giữa căn cứ kháng

chiến tỉnh với căn cứ kháng chiến Khu Chín, gia đình tôi không có sự lựa chọn

nào khác cho chị em gái nhà tôi: Tất cả phải đi vào Cứ tham gia đánh giặc,

con đường của cha tôi. Lý tưởng đã được đơn giản hoá thành thù nhà rồi sau

mới là nghĩa nước [4, tr.27].

Cuộc đời riêng của Dạ Ngân rất lận đận. Cũng như bao phụ nữ khác sinh

ra trong thời kỳ đất nước trải qua cuộc chiến tranh ác liệt. Dạ Ngân phải chịu

nhiều thiệt thòi mất mát không được học hành đến nơi đến chốn nhưng nhờ có

ý chí kiên cường, giàu nghị lực Dạ Ngân đã vượt qua những khó khăn, trở ngại

của cuộc sống để trở thành một nữ nhà văn tài năng.

Năm 1978, truyện đầu tay của Dạ Ngân được tạp chí văn nghệ tỉnh in vào

số tết. Sau đó, Dạ Ngân được chuyển sang Hội văn nghệ tỉnh từ bộ phận làm tin

thuộc Sở văn hoá thông tin tỉnh Hậu Giang. Đầu năm 1982, lần đầu một truyện

ngắn của bà được in trên tuần báo Văn nghệ của Hội nhà văn. Cũng trong thời

gian đó, với việc tham dự sự kiện trại sáng tác của Hội văn nghệ tỉnh ở Vũng

Tàu, cuộc đời và sáng tác của bà có những bước chuyển. Ở trại sáng tác, bà đã

gặp nhà văn Nguyễn Quang Thân - người chồng sau của bà. Cuộc tình này đã

trải qua nhiều sóng gió của dư luận nhưng với tình yêu mãnh liệt, sau hơn mười

năm trời người Nam kẻ Bắc chỉ trao đổi qua thư từ, điện tín và thỉnh thoảng

mới gặp nhưng cuối cùng họ vẫn đến được với nhau. Bắt đầu từ trại sáng tác

đó, nghiệp văn và đời tư của bà luôn gắn bó với nhau để bà cho ra đời những

tác phẩm: truyện ngắn Con chó và vụ ly hôn (1985) và nhiều đầu sách, kịch bản

phim, nhiều tản văn, hàng nghìn kì thư Tư vấn gia đình với bút danh Dạ

Hương. Đặc biệt, tiểu thuyết Miệt vườn xa lắm, Gia đình bé mọn, tên tuổi Dạ

ngân trở nên gần gũi với độc giả cả nước.

20

Được kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam năm 1987, Dạ Ngân được tu

nghiệp bốn năm ở Trường viết văn Nguyễn Du. Từ đây, cuộc sống của bà có

nhiều thay đổi và gắn bó với Hà Nội và người chồng thứ hai của bà.

1.2.2. Hành trình sáng tác

Dạ Ngân là một người có niềm say mê và có năng khiếu với văn học từ

sớm. Ngay những ngày tham gia kháng chiến, Dạ Ngân đã lén đọc Sông Đông

êm đềm của Mikhain Sôlôkhôp. Đây là cuốn sách bị xem là có vấn đề về chính

trị thời bấy giờ. Với một tâm hồn bay bổng, lãng mạn Dạ Ngân đã được tiên

đoán trước sau gì cũng sẽ theo nghiệp văn chương. Và đúng như dự đoán, cả

cuộc đời bà sau này đã coi văn chương như là hơi thở, là cuộc sống của bà.

Năm 1978 truyện ngắn đầu tay của Dạ Ngân được ra đời và in trên tạp chí

văn nghệ tỉnh số tết. Đây là động lực giúp nhà văn vững tin hơn trên con đường

sáng tác văn chương nhiều thử thách của mình.

Năm 1982 một truyện ngắn nữa của Dạ Ngân được đăng trên tuần báo văn

nghệ của Hội nhà văn Việt nam. Nhờ vậy mà tháng tư năm ấy, Dạ Ngân được

tham dự trại sáng tác của hội ở Vũng Tàu. Tại đây, Dạ Ngân đã được gặp nhiều

nhà văn tên tuổi trong đó có nhà văn Nguyễn Quang Thân - người chồng sau

này của bà.

Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Dạ Ngân sáng tác về nhiều mảng đề

tài khác nhau nhưng nổi bật nhất trong sáng tác của bà là đề tài chiến tranh và

gia đình. Về thể loại thì tiểu thuyết và truyện ngắn là thể loại mang lại nhiều

thành công cho Dạ Ngân. Dạ Ngân đã từng tâm sự Tôi là tạng nhà văn cái gì

không ngấm vào mình, không trải qua thì không thể viết sâu sắc [29, tr.103].

Chúng ta có thể kể đến một số tác phẩm chính, tiêu biểu của bà như:

Ở thể loại truyện ngắn, Dạ Ngân có những sáng tác sau:

- Quãng đời ấm áp - Tập truyện - NXB Phụ nữ 1986.

- Con chó và vụ ly hôn - Tập truyện - NXB Hội nhà văn 1990.

- Cõi nhà - tập truyện - NXB Thanh niên 1993.

- Dạ Ngân truyện ngắn chọn lọc - NXB Văn học 1995.

21

- Dạ Ngân và Nguyễn Quang Thân - Tập truyện - NXB Phụ nữ 1997.

- Nhìn từ phía khác - Tập truyện - NXB Hà Nội 2002.

- Tản mạn hồn quê - Tạp văn - NXB Phụ nữ 2007.

- Nước nguồn xuôi mãi - Tập truyện - NXB Phụ nữ 2008

Ở thể loại tiểu thuyết, Dạ Ngân có những sáng tác sau:

- Ngày của một đời - Tiểu thuyết - NXB Văn nghệ tp Hồ Chí Minh 1989.

- Mẹ Mèo - Tiểu thuyết (cho thiếu nhi) - NXB Kim Đồng 1992.

- Miệt vườn xa lắm - Truyện dài - NXB Kim Đồng 1992 (In lần thứ ba

tính đến tháng 6/2006). Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam 2004.

- Gia đình bé mọn - Tiểu thuyết - NXB Phụ Nữ tháng 7/2005 (In lần thứ

năm tính đến tháng 3/2008).

Sau Miệt vườn xa lắm, tiểu thuyết Gia đình bé mọn là tác phẩm được xem

là tác phẩm thành công nhất.Tác phẩm được nhận liền hai giải thưởng của Hội

Nhà văn Hà Nội năm 2005, và Hội nhà văn Việt Nam năm 2006. Không những

thế, tiểu thuyết Gia đình bé mọn trở thành cuốn tiểu thuyết đầu tiên ở Việt Nam

được nhà xuất bản Curbstone Press dịch sang tiếng Anh, xuất bản ở Mỹ với sự

chuyển ngữ của bà Rosemary Nguyễn.

Bên cạnh thành công của truyện ngắn và tiểu thuyết, bà còn có những kịch

bản phim như: Chuyến đi của mẹ - Kịch bản phim nhựa, sản xuất năm 1988;

Chân trời nơi ấy - Kịch bản phim nhựa, 2 tập, sản xuất năm 1995.

Như vậy, nhờ vào hành trình sáng tác không mệt mỏi và nhiều tâm huyết

đã giúp nữ nhà văn miệt vườn vinh dự nhận được nhiều giải thưởng cao quý.

Điều đó chứng tỏ nữ nhà văn đã có những đóng góp không nhỏ cho nền văn

học đương đại Việt nam.

1.2.3. Sự ra đời của tiểu thuyết Gia đình bé mọn

Gia đình bé mọn của Dạ Ngân là cuốn tiểu thuyết thứ hai trong văn nghiệp

của Dạ Ngân (sau Miệt vườn xa lắm) được nhận nhiều giải thưởng cao quý và

được dịch ở nhiều nước. Tác giả xuất thân từ miền Tây Nam Bộ, nhưng tác

phẩm được viết ở miền Bắc, là sự hồi tưởng lại quá khứ của nhân vật có nhiều

22

điểm tương đồng với cuộc đời của nữ văn sĩ. Tác phẩm xoáy sâu vào hiện thực

của bối cảnh xã hội Việt Nam thời kì sau chiến tranh chống Mỹ (năm 1975).

Tác phẩm Gia đình bé mọn lấy bối cảnh không gian chính là xã hội Việt

Nam những năm sau 1975 giải phóng hoàn toàn đất nước và nhân dân bước vào

một thời kì bao cấp chật vật, đầy rẫy khó khăn, hà khắc, bủa vây lấy cuộc sống

và tinh thần con người. Nhân vật chính trong tác phảm là nhà văn Mỹ Tiệp, vốn

là người miền Tây có nhan sắc, cá tính, có khát vọng mãnh liệt trong tình yêu

và mưu cầu hạnh phúc. Cuộc chiến tranh chống Mỹ ác liệt đã dàn xếp cuộc hôn

nhân giữa cô với anh chồng Hai Tuyên, một người đàn ông chỉ biết với cương

vị phó phòng tuyên truyền, có thể thao thao đứng lớp những bài giảng về: “thế

nào là nếp sống mới, con người mới”. Hơn thế, Tuyên còn là một con người

lạnh lùng, vô tâm, tàn nhẫn với vợ con mình, coi công danh là mục đích phấn

đấu và bắt vợ phải đồng hành với mình trên con đường chính trị “lên nữa, lên

mãi”. Mặc dù biết không được sự ủng hộ của gia đình nhưng Tiệp vẫn quyết

tâm từ bỏ vỏ bọc hào nhoáng về mái ấm hạnh phúc bề ngoài để tìm đến hạnh

phúc thực sự mà trái tim mình mong muốn. Đầu tiên là tình cảm bồng bột của

Tiệp với anh nhà báo từ thành phố lớn, giống như một chú công giữa thị trấn

tỉnh lẻ. Thất bại, nhưng Tiệp vẫn không muốn tiếp tục chung sống với Tuyên.

Gia đình của Tiệp với những ràng buộc về danh dự của gia tộc đã tìm mọi cách

ngăn cản nhưng Tiệp vẫn kiên quyết từ bỏ Tuyên. Thế rồi cuộc gặp gỡ Đính -

nhà văn người xứ Nghệ, sống và viết tại Hà Nội đã khiến Tiệp rẽ sang một

hướng khác. Mặc dù tình cảm của họ lại gặp phải quá nhiều ngăn trở.Với hành

trình trên mười năm năm khổ cực với bao đau buồn giằng xé tâm can giữa tình

mẫu tử, tình gia tộc, Tiệp đã đến đích.

Như vậy, Gia đình bé mọn tập trung vào bi kịch của người phụ nữ trong

xã hội hiện đại giữa nhiều mối quan hệ trong gia đình, trong tình yêu. Qua đó,

Dạ Ngân đặc biệt có ý thức đi sâu, lý giải, cắt nghĩa nguyên nhân sâu xa trong

bi kịch mà họ phải chịu đựng. Cùng với nguyên nhân chính là sự huỷ diệt của

chiến tranh đối với tuổi thanh xuân, mà còn là tư tưởng hà khắc còn mang nặng

trong trí óc con người. Đồng thời, với tâm thế của một người trong cuộc, tác

23

giả cho thấy nguyên nhân nằm ngay trong thái độ cam phận, nín nhịn của người

phụ nữ Việt Nam suốt chiều dài đằng đẵng bi kịch họ gánh theo.

1.3. Quan niệm nghệ thuật của Dạ Ngân

1.3.1. Quan niệm về hiện thực và con người

* Quan niệm về hiện thực

Qua tìm hiểu hành trình sáng tác của Dạ Ngân cho thấy bà là một cây bút

đã gặt hái được khá nhiều thành công trong sự nghiệp sáng tác của mình. Cho

đến hiện nay, Dạ Ngân đã có một số lượng tác phẩm khá lớn với nhiều thể loại

khác nhau. Các tác phẩm ấy có một sức hút đáng kể đối với độc giả cũng như

các nhà nghiên cứu phê bình văn học. Một trong những nhân tố làm nên sức hút

ấy trong sáng tác của Dạ Ngân là quan niệm về hiện thực.

Hiện thực trong văn chương là hiện thực về cuộc sống. Tuy nhiên, từ hiện

thực trong cuộc sống đến hiện thực trong tác phẩm có một khoảng cách nhất

định. Chỉ nhà văn mới có thể kéo gần, thu hẹp được khoảng cách đó qua tác

phẩm của mình. Khi đó, tính chân thực ở tác phẩm đó càng đậm nét, càng sâu

sắc.Vì vậy, quan niệm về hiện thực của nhà văn thường được trả lời cho câu hỏi

đó là hiện thực gì, hiện thực đó được nhìn bằng phương pháp sáng tác nào? Dạ

Ngân sáng tác chủ yếu dựa vào trải nghiệm của bản thân. Từng tham gia chiến

đấu trong những tháng năm chống Mĩ ác liệt, hiện thực mà nhà văn chứng kiến

và trải qua trong những năm tháng hào hùng nhưng cũng không kém phần bi

thương ấy đã in sâu trong lòng nhà văn nữ này. Chiến tranh kết thúc nhưng hậu

quả của nó khiến đất nước ta lại trải qua một thời kì khó khăn mới. Dạ Ngân lại

trải nghiệm với cuộc sống đầy khó khăn gian khổ trong những năm bao cấp. Vì

vậy, Dạ Ngân thể hiện sự cảm nhận rất rõ và thấu hiểu sâu sắc hiện thực của đất

nước trong những sáng tác của mình.Trong những sáng tác ấy, Dạ Ngân bổ

sung những mảng hiện thực mới mà văn học trước 1975 còn né tránh như

những mặt trái, mặt tiêu cực của hiện thực, cái xấu, cái ác trong đời sống. Ở đó,

hiện thực được nhìn nhận, phản ánh không giản đơn, xuôi chiều mà được phân

24

tích, mổ xẻ ở một chiều sâu mới. Càng ngày cảm hứng nhìn thẳng vào sự thật

càng phát triển, trở thành dòng chủ đạo của văn xuôi đương đại Việt

Nam. Trong hành trình sáng tác, đề tài chiến tranh, gia đình nổi bật nhất trong

sáng tác của Dạ Ngân bởi nó luôn thể hiện yếu tố hiện thực một cách rõ nét. Đề

tài chiến tranh được Dạ Ngân khai thác ngay từ những tác phẩm đầu tay. Tuy

nhiên, nhà văn không nặng về miêu tả hiện thực chiến tranh với những trận

đánh ác liệt giữa ta với địch, về những chiến thuật dụng trong cuộc chiến này.

Ngòi bút của Dạ Ngân hướng về cuộc sống tình cảm, sinh hoạt của con người

trong hoàn cảnh khốc liệt ấy trong Quãng đời ấm áp, Đường dây một người. Ở

mảng đề tài gia đình, nữ văn sĩ đi vào phản ánh những hiện thực cuộc sống

trong những gia đình. Trong đó, có những người chỉ chạy theo vật chất, danh

vọng mà quên đi những tình cảm thiêng liêng cao đẹp nhất. Đó là những đứa

con hắt hủi khi mẹ già, trong Người của mỗi người. Đó là hiện thực cuộc sống

đầy nước mắt đắng cay của những người phụ nữ phải sống trong cảnh góa bụa

trong Nhà không có đàn ông. Đồng thời, Dạ Ngân cũng đi sâu vào phản ánh

xung đột về tình cảm, đạo đức của vợ chồng. Đến Gia đình bé mọn, Dạ Ngân

đã dũng cảm rọi đèn vào những góc tối, khuất tất của cuộc sống, làm hiện rõ

bức tranh xã hội đầy nhức nhối hiện nay [15, tr.318-319]. Qua đó, Dạ Ngân đặt

ra một vấn đề nóng bỏng về thực trạng của đời sống gia đình thời hậu chiến.

Các tác giả như Dương Hướng với Bến không chồng, Lê Lựu với Thời xa vắng,

Bảo Ninh với Nỗi buồn chiến tranh, Ma Văn Kháng với Mưa mùa hạ, Đám

cưới không có giấy giá thú …là những sáng tác sau năm 1975 đều thể hiện cách

nhìn nhận của tác giả trước thực trạng của xã hội lúc bấy giờ khiến cuộc sống

con người trở nên khốn khó. Nhưng qua hành trình sáng tác của Dạ Ngân cho

thấy, hiện thực đời sống không chỉ thu gọn trong những biến cố lịch sử và đời

sống cộng đồng mà rộng hơn, sâu hơn, thực tế hơn, đó là cái thường nhật với

bao mối quan hệ phức tạp. Và bởi thế, cái nhìn thế sự - đời tư thực sự giữ vai

trò cốt yếu trong cảm quan nghệ thuật của nhà văn.

25

* Quan niệm về con người

Trong văn học nói chung, con người là trung tâm, là đối tượng chủ yếu

mà các nhà văn, nhà thơ tập trung hướng đến. Quan niệm nghệ thuật về con

người là khái niệm cơ bản nhằm thể hiện khả năng khám phá, sáng tạo trong

lĩnh vực miêu tả, thể hiện con người của người nghệ sĩ nói riêng và thời đại văn

học nói chung. Theo Trần Đình Sử thì Quan niệm nghệ thuật về con người là

một cách cắt nghĩa, lí giải tầm hiểu biết, tầm đánh giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn, tầm

cảm của nhà văn về con người được thể hiện trong tác phẩm của mình [27, tr.15].

Nghĩa là, quan niệm nghệ thuật về con người sẽ đi vào phân tích, mổ xẻ đối

tượng con người được thể hiện thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp

trong các tác phẩm văn học, từ đó, thấy được giá trị và chiều sâu triết lí của tác

phẩm. Dạ Ngân cũng như nhiều nhà văn khác sáng tác sau năm 1975, có những

chuyển đổi sâu sắc trong quan niệm nghệ thuật về con người. Đó là từ con

người lịch sử, con người cộng đồng đến con người cá nhân “đầy những nỗi

niềm nguồn cơn”, đầy phức tạp và bí ẩn. Một số truyện ngắn của Dạ Ngân đã

thể hiện quan niệm nghệ thuật mới về con người, từ sau những năm đổi mới,

như Thợ vẽ truyền thần, Trăng về, Một khúc sông, Nhìn từ phía khác, Câu

chuyện nhiều năm, Má con Chị Liệt, Cái ban công trống…Trong đó, Dạ Ngân

viết nhiều về người phụ nữ và đặt vấn đề nữ quyền lên trên hết trong hầu hết

các sáng tác của mình. Ở những hình tượng người phụ nữ đó luôn có những nét

tính cách rất đặc biệt, đó là mạnh mẽ, gan góc không kém phần quyết liệt. Nếu

không là người phụ nữ dám sống vì hạnh phúc cá nhân như Đoan trong Con

chó và vụ li hôn hay Tiệp trong Gia đình bé mọn thì cũng là những người đàn

bà mạnh mẽ, làm chủ gia đình như những người phụ nữ trong Nhà không có

đàn ông. Ngoài ra, vấn đề tình dục và hành trình tìm đến tình yêu đích thực của

người phụ nữ cũng là những vấn đề được đề cập không ít trong các tác phẩm

của Dạ Ngân. Tóm lại, người phụ nữ trong sáng tác của Dạ Ngân hiện lên là

những người phụ nữ hiện đại, đầy bản lĩnh, kiên cường, chủ động vượt qua bao

khó khăn, sóng gió.

26

1.3.2. Quan niệm về văn chương

Dạ Ngân có được một niềm say mê văn học từ sớm và có quan niệm về

văn chương rất nghiêm túc. Tác giả quan niệm Văn chương, đó không chỉ là

nghề như mọi nghề mà còn là con đường khổ ải cho những người đàn bà cầm

bút. Dù vậy, vẫn hơn, vì con đường ấy cho người ta sự cô độc tối cao, niềm tin

dai dẳng và có thể khóc cười thoải mái một mình [39] và Văn chương hoàn

toàn xứng đáng được coi như đạo, vì sứ mệnh giãi bày và cứu rỗi của nó.

Người viết phải chấp nhận cày xới mặt trái của xã hội loài người và mảnh đất

tâm linh của kiếp người. Có lẽ vì vậy mà tôi không dung hòa được với những gì

nhè nhẹ, thoang thoáng, đèm đẹp. Tận cùng, đó là phương châm sống, phương

châm viết của tôi và tôi không lùi bước khi phải trả giá [39]. Như vậy, theo Dạ

Ngân, văn chương có sư mệnh “giãi bày và cứu rỗi”, bởi văn chương giúp con

người được thể hiện sâu sắc nhất những cảm xúc của bản thân và được là chính

mình bởi vì con đường ấy cho người ta sự cô độc tối cao, niềm tin dai dẳng và

có thể khóc cười thoải mái một mình.

Dạ Ngân cũng để cho nhân vật trong tác phẩm của mình phát biểu quan

niệm về văn chương. Chẳng hạn như nhân vật nữ nhà văn Mỹ Tiệp trong Gia

đình bé mọn cũng quan niệm Văn chương với nàng giống một thứ tín ngưỡng

hơn là phương tiện. Qua tìm hiểu hành trình sáng tác của Dạ Ngân càng thấy

rõ quan niệm về văn chương của bà. Dạ Ngân đã nêu lên những vấn đề nóng

bỏng của gia đình và xã hội. Tác giả đã nhìn thẳng vào cuộc sống xã hội để

phân tích những diễn biến tâm lý của con người.

Đồng thời, Dạ Ngân coi tác phẩm văn chương là đứa con thai nghén mà

bà rút ruột đẻ đau Nó giống với khoảnh khắc đứa con trong bụng mình òa ra,

kết thúc tình cảnh mang nặng đẻ đau và mình biết thế là nó đã được sinh

xong và bắt đầu cuộc sống riêng giữa cõi đời này [27]. Vì thế, tác phẩm văn

chương đó càng thể hiện rõ chức năng và sứ mệnh của mình. Theo Dạ Ngân,

người viết văn là kẻ cô đơn giữa bầy đàn của mình. Nhưng chính cuộc sống

27

biết hy sinh vì văn chương ấy đã khiến cho tác giả quan niệm Sống tức là viết

được phân nửa điều mình muốn tuyên ngôn. Nghĩa là phải sống với tất cả các

cung bậc tình cảm, với sự nhạy cảm của từng tế bào nguyên liệu sẽ sinh ra từ

từng giây phút ấy [39].

Như vậy, Dạ Ngân viết văn chủ yếu dựa vào những trải nghiệm của cuộc

đời. Với tình yêu đến mức “tín mộ” văn chương, qua các tác phẩm của bà,

chúng ta thấy được những vấn đề nóng bỏng về thực trạng của đời sống gia

đình, xã hội Việt Nam thời hậu chiến. Đồng thời, nhà văn thể hiện sự cảm

thông chân thành và tình yêu thương sâu sắc với những con người trong cuộc

sống thời hiện đại, nhất là những người phụ nữ.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Tự truyện là những tác phẩm văn học thuộc thể loại tự sự, trong đó tác

giả tự kể lại và miêu tả cuộc đời mình trong tác phẩm. Tâm điểm của tự truyện

là cái tôi người kể chuyện trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách,

trong sự tương tác của nó với thế giới bên ngoài.Trong văn học đương đại, tự

truyện gắn với vấn đề cái tôi tác giả - sự khẳng định cái tôi cá nhân, sự bộc lộ

tình cảm, sự trải nghiệm của bản thân nhà văn, là hành trình đi tìm cái tôi của

cá nhân.

Dạ Ngân là một nhà văn của miệt vườn miền Tây Nam Bộ. Trong hành

trình sáng tác của nữ văn sĩ luôn thể hiện quan điểm nghệ thuật về hiện thực, về

con người và quan niệm về văn chương. Một trong những thành công trong

sáng tác của bà là tiểu thuyết Gia đình bé mọn. Đây là cuốn tiểu thuyết mang

đậm yếu tố tự truyện, qua đó, nhà văn bộc lộ con người cá nhân của mình.

Thông qua đó, tác giả đã đặt ra những vấn đề xã hội sâu sắc: cuộc sống hiện

thực đầy rẫy những khó khăn do hậu quả của chiến tranh, nhưng con người vẫn

ước mong về một cuộc sống được là chính mình, được sống với những khát

vọng chính đáng của bản thân.

28

Chương 2

CÁC PHƯƠNG DIỆN CỦA CÁI TÔI TRONG

GIA ĐÌNH BÉ MỌN CỦA DẠ NGÂN

2.1. Cái tôi trong cuộc sống thường nhật

2.1.1. Cái tôi trong sinh hoạt hằng ngày

Trong sáng tác văn học nói chung và trong tiểu thuyết nói riêng, không

phải ai cũng thể hiện được cái tôi của mình trên trang viết. Cái tôi gắn liền với

cá tính sáng tạo của một người cầm bút. Điều đó đòi hỏi người viết phải thể

hiện được cái riêng có giá trị thẩm mĩ cao, có khả năng đóng góp tích cực cho

nền văn học chung.

Nhắc đến nữ văn sĩ Dạ Ngân và tiểu thuyết Gia đình bé mọn là độc giả

nghĩ đến công cuộc tự cởi trói cam go của chính nhà văn với những giáo điều

của gia đình, thành kiến của xã hội… Nhưng không chỉ có thế! Bởi hành trình

đi tìm tình yêu, mục đích sống của chính mình - một cái bể cảm xúc không khi

nào vơi của Dạ Ngân trong tác phẩm mới tạo nên cái tôi cá nhân đáng trân

trọng! Bà có ý thức cao độ về chất văn và cái tình của bản thân mình. Và bà

hãnh diện, bà thách thức với cuộc đời đầy khó khăn, gian khổ, với người đời

đầy thị phi... Chính sự mãnh liệt khác thường trong cá tính nhân vật đã được

bộc lộ bằng hình thức tự truyện và nhuốm màu “cá nhân hóa”, “tâm lý hóa” cho

tiểu thuyết Gia đình bé mọn giàu không khí thời đại và chất đầy sự kiện. Chính

cái bể cảm xúc đã giúp Dạ Ngân khơi sâu được vào trong những bi kịch của

những nhà văn trong xã hội Việt Nam thời bao cấp - đó là nét đặc trưng và

cũng là đóng góp của Dạ Ngân trong giai đoạn văn học Việt Nam thời hậu

chiến. Cái tôi như là một sự biểu hiện của yếu tố tự truyện trong Gia đình bé

mọn của Dạ Ngân.

Trong Gia đình bé mọn, Dạ Ngân đã mạnh dạn “bóc trần” cả thế giới, từ

đó, hướng về cá nhân, hướng về con người với tất cả niềm say mê tìm tòi,

khám phá, khai thác triệt để nhằm hướng người đọc đến với cái cao cả, cái tốt

29

đẹp. Bối cảnh không gian xã hội Việt Nam những năm sau 1975 giải phóng

hoàn toàn đất nước và nhân dân bước vào một thời kì bao cấp chật vật, đầy rẫy

khó khăn, hà khắc, bủa vây lấy cuộc sống và tinh thần con người chính là bối

cảnh để tác phẩm Gia đình bé mọn xuất xiện. Dạ Ngân là người con của một

gia đình có nhiều thế hệ là hệ quả của chiến tranh. Gia đình sinh ra Mỹ Tiệp,

những người thân yêu ruột thịt trong gia đình Mỹ Tiệp từ cô Ràng, chị Hai

Hoài , đến chị Mỹ Nghĩa và cô em Mỹ Út đều là sản phẩm con người của chiến

tranh, họ đến và đi ra từ chiến tranh vì vậy số phận của một gia đình toàn

những người đàn bà này gắn liền với dấu vết khắc nghiệt của chiến tranh.

Chính vì Dạ Ngân - Mỹ Tiệp am hiểu sâu sắc cuộc sống của những người phụ

nữ giữa cuộc sống thường nhật hàng ngày khi phải đối mặt với nghịch cảnh đời

thường, những người phụ nữ lập tức vấp phải bi kịch cũng khốc liệt chẳng kém sự

nguy nan của chiến tranh chống Mỹ, đó là bi kịch của niềm hạnh phúc nhỏ bé giữa

đời thường. Đó là nỗi đau vì những mất mát và đổ vỡ trong tinh thần không dễ gì

bù đắp và nỗi đau của sự vỡ mộng đang hàng ngày hàng giờ xâm chiếm tâm hồn

của những người phụ nữ miền Tây miệt vườn trong gia đình Mỹ Tiệp.

Mỹ Tiệp - nhân vật nữ chính, là một nhà văn miệt vườn Tây Nam Bộ, cha

nàng là một liệt sĩ Côn Đảo bị địch thủ tiêu, 14 tuổi đã bỏ nhà đi theo anh trai

Năm Trường vào cứ kháng chiến. Cuộc sống giữa cảnh chiến tranh giặc giã và

bom đạn ngặt nghèo hun đúc cho nàng ý chí sắt đá. Nhưng chính cuộc chiến

tranh đó đã đẩy cô vào tình huống bi kịch khi cô không được tự mình lựa chọn

và thu xếp cuộc hôn nhân với nhân vật Hai Tuyên. Sau chiến tranh, hai người

kết hôn nhưng anh là một anh tuyên giáo chỉ chăm chăm tiến thân bằng mọi

cách mà coi vợ con không bằng heo cúi trong nhà. Dưới con mắt của Mỹ Tiệp

thì anh thuộc nhóm máu cá , xa môi trường nước của công sở một lát là anh

không chịu nổi và sự tận tụy tuyệt đối của anh với cương vị Phó phòng tuyên

truyền của Ban là đáng được thông cảm và đề cao[21, tr.51]. Chính chiến tranh

đưa đến cho Mỹ Tiệp - cô thiếu nữ trinh nguyên, phải nếm trải mùi thân xác lần

30

đầu tiên trong cái công sự ấy với anh thanh niên Hai Tuyên đang dũng cảm kéo

cô ra khỏi làn mưa bom bão đạn Tai Tiệp ù đặc , mắt nàng long lanh cảm thán

vì Tuyên đã nắm được tóc nàng kéo lên đúng lúc và đã ấn nàng xuống cái công

sự như cái lỗ huyệt này. Nàng cười sằng sặc rồi nàng mếu máo khóc, bỗng

nàng nín bặt vì nghe thấy có hai bàn tay đang áp vào hàng nút áo bung ra tự

bao giờ, hai trái ngực nàng đang săn lên, run rẩy bởi đôi bàn tay ngốn ngấu

trong thứ nước màu sữa đục, lạ quá, cảm giác được mơn trớn mà cũng được

dầy vò, nâng lên hạ xuống trong mặt nước có mùi âm phủ [21, tr.101].

Giữa ranh giới nhạt nhòa của sự sống và cái chết, Tuyên đã chiếm đoạt

nàng để rồi bắt đầu cho một loạt những bị kịch oái oăm trong đời sống hôn

nhân vợ chồng không có tình yêu mà chính Mỹ Tiệp thậm chí chẳng thể ngờ

rằng nó lại đau đớn, dai dẳng và khốn khổ như vậy. Cuộc hôn nhân trong chiến

tranh ấy của nàng tức khắc đã lên tiếng ngay sau ngày hòa bình lập lại. Lúc

này, nàng thật sự đã nhận ra sau những ngày tháng mơ hồ Hồi mới cưới, con

tim nàng không chịu rung động nó cứ lên tiếng rằng đây không phải là người

đàn ông của đời mình, đây là cuộc xô đẩy của chiến tranh, của bom đạn giặc

giã nước lụt bụi cây sạp xuồng [21, tr.52].

Sau chiến tranh, đời sống hôn nhân của Mỹ Tiệp đáng lẽ phải hạnh phúc

lắm vì cả hai đều đi ra từ chiến tranh. Nhưng không! Mỹ Tiệp càng ngày càng

cay đắng khi phải chung sống dưới một mái nhà với người chồng cằn cỗi, một

người đàn ông suốt đời cung cúc phục vụ công việc trong phác thảo về sự

nghiệp: Phó thì cố mà lên trưởng, là công chức thì phải cố gắng mà phấn đấu vì

sự nghiệp. Vì vậy, anh ta ham mê viết báo cáo để thăng chức hơn là ngắm nhìn

vợ. Không chỉ có thế, trong hai lần vợ sinh con, ông bố này, người chồng này

đã sẵn sàng bỏ mặc vợ sinh nở một mình giữa cơn đau vật vã chỉ để đến công

sở cho kịp giờ làm. Anh lạnh lùng tới tàn nhẫn khi bỏ mặc vợ nằm trong phòng

sản phụ một mình trơ ra như một con mẹ hoang thai dơ dáy. Và rồi, khai sinh

cho đứa con gái đầu lòng cũng sai ngày… Khi đưa vợ đi làm kế hoạch, anh

31

cũng chỉ dừng xe ở cổng bệnh viện rồi ngay lập tức đến cơ quan mặc cho vợ

một mình chiến đấu với mọi công đoạn. Đi làm về, anh ta sộc ngay xuống

chuồng heo như anh ta mong gặp chúng lắm, mong hơn cả gặp vợ con, rồi anh

tắm cho chúng, rồi dọn phân…. Đi công tác về, thay vì ân cần hỏi han vợ con

thì anh tỏ vẻ nhớ con heo lắm, anh biết yêu đàn heo và săm sắm với chúng hơn

là nựng con bởi nó mang lại “niềm vui thực tế. Chưa lần nào Tiệp thấy Tuyên

tung Vĩnh Chuyên lên hay để nó ngồi trên vai như những người đàn ông sung

sướng với con trai [21, tr.72], ít khi đùa giỡn với các con trong khi anh ta suốt

ngày săm sắn với lũ heo.. Chừng ấy chi tiết thôi đã đủ giúp cho ta hình dung

phác họa về một người cán bộ bao cấp mẫu mực, chỉn chu nhưng là người

chồng vô trách nhiệm đến tàn nhẫn khôn cùng.

Ngay từ những chương đầu tiên của cuốn tiểu thuyết này, nhà văn Dạ

Ngân cho người đọc thấy được bi kịch của người đàn bà mang tên Mỹ Tiệp khi

chung sống với người đàn ông ti tiện, cằn cỗi là chồng nàng, Hai Tuyên. Nhưng

Tiệp là một nhà văn. Nàng nhìn thấu nguyên nhân và phân tích đúng thực

trạng! nàng lại là một con người yêu cuộc sống! nàng lại được thừa hưởng gen

sắc sảo, gan góc đến quyết liệt của dòng tộc cách mạng!Thế nên, nỗi đau của

nàng trong bối cảnh ấy dường như đau hơn, dai dẳng hơn và dằn vặt nàng hơn.

Để rồi Mỹ Tiệp dám nói Tôi với anh bị chiến tranh đưa đẩy tôi thấy không nên

kéo dài cuộc hôn nhân không có tình yêu này [21, tr.81]. Ý định này vốn đã

nhen nhóm trong đầu óc người phụ nữ này ngấm ngầm và dai dẳng từ lâu. Đã

bao lần nàng muốn bóc trần vẻ bề ngoài hào nhoáng yên ổn của gia đình và

muốn một cuộc chiến tranh ngay lập tức. Song, người phụ nữ ấy lại đấu tranh,

lại dằn vặt. Sự giằng xé trong Mỹ Tiệp đã âm ỉ và thôi thúc nàng và chỉ trực

trào ra. Hình ảnh Mỹ Tiệp trở thành mẫu người phụ nữ “xã hội” hơn rất nhiều:

Giữa những thập niên 80-90 mà dám đơn phương ly hôn với người chồng giữa

hàng loạt tư tưởng khe khắt của xã hội còn tồn tại nhiều định kiến, giữa hàng

loạt búa rìu dư luận, giữa vòng vây của gia tộc…, dám nói thẳng nói thật về

32

cuộc sống vợ chồng hoàn toàn không bắt nguồn từ chân xác rung động của tình

yêu mà chỉ là sự gán ghép của con tạo. Mỹ Tiệp, nhà văn, nhân vật nữ chính

dám nhìn thẳng vào cuộc hôn nhân của mình và dám nói lên tiếng nói của lòng

mình trong thời kì ấy, quả là dũng cảm!

Người đọc đã bắt gặp hình ảnh người phụ nữ ấy trong truyện ngắn Con

chó và vụ ly hôn (1985) của Dạ Ngân, lần đầu tiên chị đã thẳng thắn đến thành

thật khi bóc trần những chuyện khó nói trong đời sống vợ chồng. Điều đó trở

thành điều luôn trăn trở với Dạ Ngân. Tuy vậy, phải đến tiểu thuyết Gia đình

bé mọn tác giả mới thể hiện năng lực của mình khi dũng cảm soi kĩ vào từng

góc khuất trong đời sống của đôi vợ chồng trẻ với những sóng gió và bão táp

ngấm ngầm, một bên là người vợ - Mỹ Tiệp, xông pha và can trường, còn một

bên là người chồng - Hai Tuyên quá đỗi tiểu nhân, ti tiện và sặc mùi chức

quyền. Bi kịch của Mỹ Tiệp giữa đời thường, khi mà mọi thứ cảm giác rất yên

ổn với cái vỏ bọc của nó thì nàng vẫn cứ chông chênh. Khi những xung đột

giữa hai con người, hai tính cách, hai luồng tư tưởng ngày càng sâu đậm thì nỗi

đau của nàng càng khốc liệt. Chứng kiến cuộc cãi vã bùng nổ giữa hai vợ

chồng khi Tiệp không còn chịu đựng nổi người đàn ông ấy Tiệp đứng chết trân

thấy rõ cuộc chiến tranh này tàn khốc hơn cuộc chiến đã lấy đi tuổi trẻ của

nàng và Tuyên” [21, tr53].

Như vậy, độc giả được gặp một Mỹ Tiệp - phụ nữ hiện đại khi nàng không

còn dấu vết của người đàn bà cam chịu và tự hứng chịu và dầy vò nỗi đau đớn

tinh thần một mình để giữ cho mái ấm bề ngoài yên ổn, mà nàng gan góc, dũng

cảm nói to lên sự thật về mái ấm gia đình đang đổ vỡ. Bởi trong gia đình đó,

nàng một mình xoay xỏa cáng đáng việc lớn việc bé mà không được sự sẻ chia

của chồng. Trong khi đó, anh chồng bàng quan, chỉ mỗi việc nhăm nhe tiến thủ

với học viện, với nếp sống mới con người mới! Ở nơi lắng sâu hơn, người phụ

nữ ấy không được yêu thương trong khi nàng rất ý thức được vấn đề tình yêu

và luôn khao khát yêu thương. Mỹ Tiệp đã chiêm nghiệm, đánh giá lại cuộc

33

sống của mình: cuộc hôn nhân không tình yêu của nàng đặt dưới bàn tay chiến

tranh giàn xếp chuyện lấy chồng giữa bom đặt ngặt nghèo giữa ranh giới mỏng

manh của sự sống và cái chết càng khiến cho cuộc đời và số phận người phụ nữ

thêm sóng gió, truân chuyên. Bước ra từ chiến trường khốc liệt, con người sống

trong cuộc sống hòa bình lại bị thất bại, mà thất bại ngay trong gia đình bé nhỏ

của mình! Đây chẳng phải bi kịch đó sao? Sự mất mát, hụt hẫng và tổn thương

to lớn trong tâm hồn con người càng in hằn một dấu ấn sâu đậm, càng xoáy sâu

vào bi kịch hạnh phúc của con người giữa đời thường, dù không còn tiếng bom

rơi đạn lạc song vẫn chẳng kém phần dữ dội, bi thương.

2.1.2. Cái tôi trong mối quan hệ với chính nó

Bằng việc xây dựng hình tượng nhân vật người phụ nữ trong Gia đình bé

mọn, Dạ Ngân đã cho thấy sự tổn thương của nhân vật trước những đổ vỡ lớn

lao không dễ gì bù đắp của chiến tranh. Chính chiến tranh là nguyên nhân, mà

nạn nhân không chỉ là Mỹ Tiêp mà còn đối với cả gia đình lớn của nàng từ cô

Ràng thủ lĩnh - em ruột của ba Mỹ Tiệp đến chị Hai Hoài, Mỹ Nghĩa và cô em

Mỹ Út. Họ là tập thể những những người phụ nữ bất hạnh đi ra từ chiến tranh,

và tự lo lắng cho nhau khi tất cả đều thiếu vắng người đàn ông. Cái dáng cắm

cúi chật vật đau khổ của Hai Hoài với thâm niên một thập kỉ ở góa, cái sự quả

quyết của thủ lĩnh Tư Ràng một mình chèo lái con thuyền gia tộc giữa cơn

chớp bể với quyền sinh quyền sát thay chỗ cho người đàn ông. Hình tượng

nhân vật cô Tư Ràng vừa khắc họa chân dung của những người phụ nữ miệt

vườn cứng cỏi, quyết đoán, vừa để lại dư vị xót xa cho thân phận con người mà

chồng, con họ mãi mãi nằm lại chiến trường. Trong gia đình ấy, họ - những

người đàn bà can trường vừa thế việc đàn ông, vừa phải hứng chịu cảm giác

mất mát. Họ là những thế hệ đều dính vào bi kịch góa bụa, vì thế họ trở nên cực

đoan trong tâm hồn. Trong tập thể góa bụa ấy, chỉ có Mỹ Tiệp là niềm hy vọng

vì nàng có tấm chồng công chức mẫn cán đàng hoàng. Thế nên sống giữa vòng

vây điệp trùng của các bà góa, cô góa, má góa, chị góa, cô em út cũng góa, tạo

34

nên bốn bức tường gương mà nếu nàng soi vào thì nàng phải lập tức quên tuổi

trẻ và khát vọng của mình đi để nhớ rằng không thể so sánh nỗi bất hạnh nào

với nỗi bất hạnh của những người góa bụa [21, tr.22].

Như vậy, giữa thời bình, cuộc sống đời thường của Mỹ Tiệp lại rất đỗi

chật vật, gieo neo. Không chỉ sáng tạo, ngòi bút Dạ Ngân phải thấm đẫm sự trải

nghiệm của mình mới thấu hiểu và miêu tả được bi kịch của người phụ nữ.

Dạ Ngân cho chúng ta cảm thấu nỗi mất mát tổn thương và sự bất hạnh

của số phận những người phụ nữ mà tác giả là một trường hợp: có gia đình

(thậm chí trong mắt mọi người là gia đình hoàn hảo vì có chồng; vì ông chồng

bề ngoài tử tế). Những xung đột diễn ra bên trong tâm lý người phụ nữ đã được

nhà văn vô cùng tinh tế nhận ra và biểu hiện giữa những lớp sóng tâm trạng

ngổn ngang trên từng khuôn mặt mỗi người trong gia đình. Như vậy, sau chiến

tranh, giữa gia đình, người phụ nữ lại thấy cô đơn và thất bại. Dạ Ngân còn cho

độc giả thấy bi kịch của con người Mỹ Tiệp, nàng biết cảm nhận ý nghĩa cuộc

sống và biết nên sống thế nào nhưng lại không được sống với đúng ý nghĩa của

cuộc sống. Mỹ Tiệp phải làm sao đây? Cố giữ gia đình với vẻ ngoài hào

nhoáng để ghìm nén cái tôi lại hay vạch nó ra, vứt cái vỏ bọc đó đi để sống

thực là mình, sống với tâm hồn khao khát được chia sẻ, khao khát được yêu?

Điều đó trở đi trở lại, day dứt hằng giờ, hằng ngày trong lòng người vợ, người

mẹ, nhà văn Mỹ Tiệp.Thông qua việc cuộc sống và những bi kịch của nhân vật

Mỹ Tiệp - cái gương phản chiếu cuộc đời Dạ Ngân, người đọc có một cái nhìn

đầy đủ, thấu đáo hơn về tâm tư khát vọng chân thực nhất của người phụ nữ

giữa cuộc sống đời thường. Trong cuộc sống dường như rất yên bình đó, nhà

văn luôn tự đấu tranh tự vượt qua chính mình, tự vươn lên sống đúng với khát

khao chính đáng của mình. Không phải văn sĩ nào trong thời kì đổi mới cũng

đưa ra những quan điểm đó về hạnh phúc của người phụ nữ. Như đã nói, giữa

thời kì hậu chiến, người phụ nữ vẫn còn nhiều tư tưởng trong xã hộ cũ về trách

nhiệm về bổn phận với những ràng buộc định kiến. Qua đây, chúng ta cũng ghi

35

nhận thêm đóng góp của Dạ Ngân khi đưa ra cách nhìn tiến bộ về vấn đề hôn

nhân, tình yêu, gia đình của người phụ nữ trong xã hội còn bủa vây nhiều định

kiến (điều này, hiện nay vẫn tồn tại trong suy nghĩ của nhiều phụ nữ Việt

Nam). Dưới ngòi bút của tiểu thuyết, tất cả những cảm xúc của Mỹ Tiệp đều

được hiện ra. Đôi khi có những hư cấu do đặc trưng của thể loại, nhưng người

đọc vẫn dễ dàng nhận ra con người của tác giả.

Trong cuộc sống đời thường, khát vọng bình thường của nữ văn sĩ Mỹ

Tiệp là một cuộc sống giản dị, được yêu và được sáng tác. Nhưng bên cạnh

cuộc sống vợ chồng không dung hòa, Mỹ Tiệp còn phải đối mặt với thực tại xã

hội nghèo nàn lạc hậu thời hậu chiến. Những chất liệu hiện thực sống động về

bức tranh xã hội thời kì hậu chiến, số phận con người dưới sức ép chiến tranh

và những ràng buộc trong mối quan hệ gia tộc - xã hội ... tạo nên chất hiện thực

trong tác phẩm. Phía sau những sáng tác của Dạ Ngân là hình bóng của nhà

văn. Theo bà Nhà văn phải sống trước đã. Sống tức là viết được phân nửa điều

mình muốn tuyên ngôn [29, tr.79]. Là nhà văn trải qua bi kịch của những nỗi

đau mất mát và sự đổ vỡ trong tâm hồn, Dạ Ngân am hiểu sâu sắc những bi

kịch của người Phụ nữ ở Việt Nam trong thời kì hậu chiến. Nữ văn sĩ đã có

những trải nghiệm trong cuộc sống nhiều bất hạnh và cả những chuyện đời mà

chị đã được nghe kể lại đã tạo nên những day dứt không nguôi trong lòng mình.

Dạ Ngân đã cho người đọc được chứng kiến bối cảnh xã hội lúc bấy giờ với tất

cả những gì là hiện thực của thời chiến tranh, của cuộc sống hậu chiến tranh với

những khó khăn thời bao cấp. Chính trong cuộc sống thường nhật của xã hội

Việt Nam thời bao cấp ấy để cho nhân vật nữ chính Mỹ Tiệp - Dạ Ngân được

thể hiện khát vọng sống và sự khẳng định ngọn nguồn cảm xúc của mình.

Bằng cái nhìn trung thực, táo bạo và khách quan, Dạ Ngân đã mạnh dạn

nhìn thẳng vào những “mảnh vỡ”, những bi kịch của người phụ nữ ý thức được

quyền yêu thương của mình để mổ xẻ, để phơi bày nó. Người nữ văn sĩ được

chứng kiến những bi kịch hàng ngày của chính bản thân mình và những thân

36

phận con người, những vấn đề thời sự mang tính bức xúc.Và bà miêu tả chân

thực cuộc sống ấy với tất cả sự nghèo khổ của những con người trí thức. Đây

cũng chính là những trăn trở, đau đớn trong tâm hồn nhà văn. Dạ Ngân cho

người đọc thấy đây là nỗi đau tinh thần khó mà xoa dịu được đối với nhà văn

trước khát khao sáng tạo và khẳng định mình trước cuộc đời. Dạ Ngân đã khai

thác con người tự nhiên trước nhu cầu của hạnh phúc đời thường, của cuộc

sống riêng tư. Nhân vật Mỹ Tiệp trong tác phẩm đã có sự gắn bó giữa con

người cá nhân và con người xã hội, giữa cái lớn lao với cái tầm thường, giữa sự

nghiệp chung với hạnh phúc riêng. Dưới cái nhìn nhân đạo, nhân văn của nữ

văn sĩ, tất cả những vấn đề của cuộc sống thường nhật được khai thác triệt để.

Qua đó, người đọc thấy được yếu tố thế sự đời tư trở thành mối quan tâm hàng

đầu của nhà văn.

Dạ Ngân sáng tác Gia đình bé mọn vào những năm đầu của thế kỉ 21

nhưng có thể khẳng định đây là tác phẩm là không chỉ kể câu chuyện của mình,

mà còn là câu chuyện về mình. Nội dung tự truyện trong Gia đình bé mọn

không phải chỉ là một số chi tiết tiểu sử nhà văn, mà rộng hơn, còn bao gồm cả

kinh nghiệm đời sống, tư tưởng, tình cảm, tâm lí của bản thân tác giả. Đó là nỗi

bàng hoàng, thảng thốt của nhà văn khi chị tái dựng lại một phần hiện thực xã

hội Việt Nam thời kì bao cấp (những năm 80-90 của thế kỉ XX). Dạ Ngân đi

sâu vào bi kịch của nữ văn sĩ trước sự thực của xã hội nhân cách con người

thay đổi. Đó là hình ảnh của những Mỹ Tiệp, những chị Hoài về Tuổi trẻ và

mảnh vườn hương hỏa không còn, tuổi trẻ không còn, niềm hy vọng ngây ngất

sau năm 1975 cũng không còn, thay vào đó là sự chật vật ngơ ngác không hiểu

sao sự tình lại ra nông nỗi [21, tr.22]. Người đọc nhận ra bóng dáng Dạ Ngân

trong Mỹ Tiệp chủ yếu là nhờ nội dung tâm lí xác thực hơn là qua những chi

tiết tiểu sử. Mỹ Tiệp, nữ văn sĩ đã trải qua chiến tranh và loạn li, sống giữa thời

bao cấp, đối mặt với những sự thực nghiệt ngã của đời sống xã hội đã bị dập tắt

những mơ ước về một tương lai sáng lạng mà nàng và bao người trong chiến

37

tranh hàng ao ước. Đầu tiên là sự đối mặt của Mỹ Tiệp trước những đồng chí

của mình hiện tại là những lãnh đạo trong thời kì mới. Đó là những thủ lĩnh

như Hai Khâm tầm thước, uyển chuyển, rạng rỡ như một con báo giữa bầy

gà…; những con người lãnh đạo nhân dân nghe thấy mùi thum thủm rên rỉ

trong mọi xó xỉnh, thứ mùi rất đặc trưng do cuộc sống bệ rạc [21, tr.161-162];

những chú Ba - chủ tịch tỉnh Chú Ba quần đùi áo thun lá tự nhiên trên bộ salon

nệm dày phòng khách, thím Năm hiện thoáng ra chắc để xem con người kiên trì

cầu cạnh kia là cái con nào rồi biến vào với nhà ngang dãy dọc bên trong. Tiệp

nghe rằng chú Ba là người tâm huyết, thấy dân đội đơn đón đầu xe là dừng lại

mở cửa đi bộ tới đỡ lấy đơn về nhà nghiên cứu ngay. Những vợ chủ tịch thì

buôn hột xoàn từ hồi Bảy mươi lăm và giờ thì chuyên buôn thuốc lá lậu đến nỗi

công an đành liệt vào đối tượng bắt cóc bỏ dĩa [21, tr.265]. Đến người lãnh đạo

trực tiếp của Mỹ Tiệp cũng có những hành động Chẳng qua nó cũng là thứ quà

biếu như bao thứ quà biếu của những người khác thôi mà. Chuyện cần phải ra

tay thì người ta ra tay, cái ghế của họ mới lớn chớ ghế của mình thì cũng do họ

bày ra, họ lấy lại cho ai mà chả được, em ?Và Hai Tuyên, người đồng chí của

Mỹ Tiệp giờ là chồng nàng và làm chức Phó phòng tuyên truyền, có thể thao

thao bất tuyệt những bài giảng về thế nào là nếp sống mới con người mới?

[21, tr.51]. Nhưng ứng xử của anh ta trong gia đình với vợ, với con thì vô cùng

lạnh lùng tàn nhẫn: bỏ mặc vợ nằm trong phòng sản phụ một mình trơ ra như

một con mẹ hoang thai dơ dáy [21, tr.50] lý do vì đang trong giờ công sở; lần

nào đưa vợ đi làm kế hoạch, anh cũng chở vợ đến cổng bệnh viện rồi đi làm,

mặc cho vợ một mình chiến đấu với mọi công đoạn.

Qua sự mô tả của Dạ Ngân chúng ta thấy hiện lên hình ảnh của những

người lãnh đạo, những cán bộ quan liêu, làm việc theo kiểu “thuận ta thì sống,

nghịch ta thì chết”, toàn những đồng chí “bị lộ và chưa bị lộ”, nói theo ngôn

ngữ hiện hành. Tiệp trân người chịu đựng, mắt mờ đi vì trò lấy chức đè người

dù họ, kẻ thì vì chức trách, kẻ thì bị Hai Khâm lôi đi, kẻ thì có ác ý sẵn như chú

họ của Tuyên chẳng hạn...[21, tr.191].

38

Những người đứng đầu như thế khiến cho cuộc sống của nhân dân cùng

cực, khốn khổ. Những người ở cấp lãnh đạo đều ý thức tối đa cái quyền của

mình.Vì thế, những người công chức, nhân viên dưới quyền cũng tỏ rõ uy

quyền của mình với người dân. Đó sự đanh đá hách dịch, vô cảm của những bà

bưu vụ mà Mỹ Tiệp gọi là “bưu vụ cảnh sát”, những bà bán vé ở bến xe…

Những cán bộ văn hóa miền Nam đã áp vô gốc cây dùng kéo sởn một nhát

nhanh như AQ bị người ta cách mạng cái đuôi sam đi khi thấy Đính xuất hiện

với tóc muối tiêu để dài ngổ ngáo, áo bludông màu kem sờn sờn, quần phăng

suông sẩm màu, dép nhựa lào thịnh hành và túi giả da vàng vàng đeo vai hư

khóa thò từ trong ra ống thuốc lào như một họng súng [21, tr.33]. Đây là chi

tiết vừa bi vừa hài mà theo đánh giá của nhân vật thì anh không còn biết đây là

trần gian hay địa ngục nữa ở dưới địa ngục người ta cũng không đối xử với tóc

dài với quần loe như mấy ông văn hóa thông tin xứ nầy.

Chính những quan niệm, những thái độ của một người đã khiến cho cuộc

sống xã hội trở nên bức bối. Cuộc sống của nhân dân miền Nam với những cán

bộ viên chức đến cơ quan mang theo mùi chuồng trại trên quần áo; Ở bệnh

viện, Mỗi sản phụ đến bệnh viện nạo hút thai phải nộp một chai nước tiểu loại

750 đầy bảo là để thử nhưng không phải để thử mà để nước tiểu bán cho dân

trồng rau còn chai thì bán lại cho bọn sản xuất rượu lậu [21, tr.243]. Ở bến xe

việc xếp hàng mua vé “xếp hàng mọi nơi mọi chốn, xếp hàng từ giữa khuya

nên gạch vỡ, rổ rách, nón mê, thậm chí một cái nùi giẻ cũng là vật hình thay

cho con người !”. Ở miền Bắc trong thời kì đó thì càng lạc hậu. Lần đầu tiên

Mỹ Tiệp ra Bắc “một công đôi việc”, ngay trên tàu, gã nhà tàu tiết kiệm đến

từng miếng giấy đi vệ sinh của hành khách lại đã ởm ờ và có một ý đồ gì đó mà

Tiệp lờ mờ hiểu được. Ra đến Hà Nội, khi được Đính mời ăn phở, cô không

khỏi ngạc nhiên khi người ta đục lỗ vào thìa ăn phở để tránh mất cắp những cái

muỗng gọi là thìa ấy bị đục một cái lỗ tròn nhỏ ở chỗ đáng ra nó phải rất

nguyên, rất lành để làm một cách trọn vẹn và tốt đẹp chức năng giúp cho người

39

ta húp được nước phở. Tiệp múc thử nước phở lên, để cho chúng chảy hết qua

cái lỗ ấy và lại múc [21, tr.142]. Khi Đính và Tiệp đi chơi, ngoài việc xe đạp

có biển đăng kí đã làm Tiệp thấy lạ thì bọn trẻ con phá phách đã ném cát vào

người Tiệp và Đính trong lúc đang chạy xe trên đường được người ta gọi quân

mất dạy là cái lũ chết tiệt.Trong khu tập thể, khi Tiệp và Đính đến nhà bạn ở

nhờ, Tiệp phát hoảng khi bật diêm soi thấy trong bể nước công cộng lềnh bềnh

cục phân trẻ nhỏ khi đã tìm thấy một cái gáo gò bằng tôn trên mép bể, chiếc bể

hình chữ nhật dùng cho ngăn tắm và ngăn xổm bệt bên kia thì nàng bỗng phát

hiện một cục phân nho nhỏ vàng vàng đang ngao du lều bều trên mặt nước

[21, tr.151]. Hình ảnh này trở thành nỗi ám ảnh trong Tiệp. Tất cả những hình

ảnh đó Tiệp được chứng kiến, Tiệp được trải qua và cô không khỏi suy nghĩ về

những kiếp người (trong đó có cô) ở xã hội nghèo khó và lạc hậu. Trong xã hội

ấy, với những con người từ lãnh đạo đến nhân viên, từ người tiểu thương đến

người trí thức liệu có được an yên. Ngay cả khi ân ái với Đính, hình ảnh thực tế

ám ảnh cô, khiến cô không thấy hạnh phúc trọn vẹn.

Như vậy, có thể thấy, phác họa một lát cắt của cuộc sống hiện thực xã hội

thời kì bao cấp khốn khó xập xệ , nhà văn Dạ Ngân đã trải lòng cùng trang giấy

về những năm tháng bản thân đã kinh qua, tác giả cho ta một cái nhìn đầy đủ

hơn về hình hài của hạnh phúc khi liên tiếp bị va đập bởi hiện thực chua xót,

một cái nhìn kinh ngạc và đau đớn hơn khi hạnh phúc luôn bị dập tắt bởi vật

chất tầm thường. Dạ Ngân phô bày sâu sắc hiện thực đã tước đi ý nghĩa sự sống

chân chính thật sự xứng đáng với con người. Có thể nói, qua miêu tả hiện thực

đời sống, Dạ Ngân đã làm nổi bật tư tưởng của tác phẩm: Nỗi đau xót trước bi

kịch về vật chất và bi kịch tinh thần của con người trong xã hội bao cấp. Đó là

tấn bi kịch dai dẳng, thầm lặng và đau đớn của những người ý thức rõ giá trị sự

sống và nhân phẩm chứ chưa nói đến việc con người ta có thể thực hiện được

ước mơ, nhất là ước mớ sáng tạo nghệ thuật trong xã hội ấy.

40

Mỹ Tiệp ước mơ của nhà văn là được sống với chính bản thân mình nàng

lúc nào cũng sách vở bút mực, xê dịch và ham muốn.Thế nhưng, ước mơ của

nàng trải qua nhiều cung bậc. Đã có lúc, trong khi cô đơn, áp lực Tiệp thấy

công việc viết lách của mình thật dị thường, những suy nghiệm của mình thật

phù phiếm, những việc khiến mình đau khổ hoặc khát thèm thật vô bổ. Nhưng

nhờ vào sự quyết tâm theo đuổi đến cùng thứ bệnh mãn tính ấy, bởi văn

chương với nàng giống một thứ tín ngưỡng hơn là thứ phương tiện, Mỹ Tiệp lại

tiếp tục sáng tác, tiếp tục thực hiện ước mơ. Mặc dù công việc ấy luôn bị đe

dọa bởi những thứ vật chất tầm thường: Sau một ngày vét cám ở kho, nhịn đói

nhịn khát Nàng để nguyên bao cám và con gái và xe đạp lên xe lôi nghễu nghện

về trong nỗi mừng ngất ngây trời đất (…) nó mừng bao cám mới còn hơn mừng

ba đi vắng về, cũng như ba nó thường xuyên quí heo hơn quí nó [21, tr.74]. Để

thực hiện ước mơ, Mỹ Tiệp vượt lên trên những khó khăn của cuộc sống

thường nhật khi nàng viết mà không mua nổi cho con chiếc xe đạp, ước mơ của

Thu Thi, con gái nàng. Và Mỹ Tiệp luôn mặc cảm rằng cuộc đời đổ vỡ của

mình mà ảnh hưởng đến các con. Không có gì đau đớn hơn khi vẫn nhận ra

được điều đó mà không thể làm gì được Tiền không là gì cả trong quan niệm

của Tiệp nhưng tiền lúc đó là lương tâm của người mẹ, một người mẹ âm

thầm biết lỗi vì cái đời đổ vỡ của mình đã làm liên lụy suốt cả cuộc đời các

con [21, tr.202].Với những năm tháng bản thân đã kinh qua, Dạ Ngân cho thấy

hạnh phúc và mơ ước của nhà văn khó lòng có thể thực hiện được khi cuộc

sống luôn bị những vật chất tầm thường kéo xuống. Nỗi bần cùng nghèo khó

thể hiện ngay ở việc Mỹ Tiệp không đủ chia kem đánh răng chia cho em khi ra

Hà Nội. Hiện thực nghèo khó đẩy con người ta vào nghịch cảnh bi thảm không

cho con người ta sống một cuộc sống bình thường. Qua tác phẩm, Dạ Ngân cho

người đọc thấy hình bóng của mình trong Mỹ Tiệp, chân thực và phản ánh vấn

đề xã hội.

41

Những ám ảnh thực tại phũ phàng cứ len lỏi đến từng ngõ ngách trong sâu

thẳm tình yêu hạnh phúc của người đàn bà, nó khiến cho nàng phải quyết tâm

đấu tranh dứt bỏ những mảng mầu tối trong cuộc sống khốn khó chỉ để sống

trọn vẹn với tình yêu vốn nồng nàn hương thơm mật ngọt. Nhưng càng cố gắng

gạt đi ám ảnh trần trụi của hiện thực, người phụ nữ ấy lại càng bị cuốn vào

dòng bi kịch vốn đeo đẳng khó lòng từ bỏ, bi kịch của những mất mát do hạnh

phúc không trọn vẹn, hạnh phúc đổ vỡ do vây quanh toàn những mảnh vụn

hiện thực phũ phàng.

Dạ Ngân đã đi sâu vào bi kịch dai dẳng, khốc liệt nằm trong góc khuất của

tâm hồn người đàn bà giữa hạnh phúc đời thường thông qua việc xây dựng

chân dung nhà văn Mỹ Tiệp và những người phụ nữ trong gia đình cô. Yếu tố

tự truyên trong tiểu thuyết đã giúp cho nhà văn vừa bày tỏ niềm cảm thông

chân thành sâu sắc đối với những đau khổ bất hạnh của người phụ nữ đến và đi

ra từ chiến tranh trong cảnh góa bụa, vừa chỉ ra nguyên nhân sâu xa của thảm

kịch bất hạnh mà người phụ nữ hứng chịu. Dư chấn của chiến tranh cộng với

căn bệnh “ảo tưởng” và tự thỏa hiệp với hạnh phúc với cuộc đời. Thông qua đó,

thông qua hình tượng Mỹ Tiệp : Người phụ nữ quyết liệt phải dám đi đến tận

cùng khao khát của trái tim, phải gan lì dám đương đầu để dành giật hạnh phúc,

phải chấp nhận trả giá để sống đẹp và thành thật với chính bản thân mình, Dạ

Ngân đưa vào tác phẩm một tư tưởng rất mới, rất thời đại.

2.2. Cái tôi trong tình yêu và hạnh phúc gia đình

2.2.1. Cái tôi trong quan hệ với gia đình riêng

Dạ Ngân sáng tác từ năm 1978 và thành công từ tác phẩm đầu tay.Trước

đó, bà công tác ở bộ phận làm tin thuộc Sở văn hoá thông tin tỉnh Hậu Giang.

Dạ Ngân xây dựng gia đình mà theo bà, đó là cuộc hôn nhân do chiến tranh thu

xếp. Cũng từ khi được chuyển sang Hội văn nghệ tỉnh sau tác phẩm đầu tay,

Dạ Ngân biết mình gắn bó với nghiệp văn và dần nhận ra hố sâu ngăn cách

giữa bà với chồng.Với sự thành công của truyện ngắn thứ 2, đầu năm 1982, bà

42

được mời đi dự Trại sáng tác của hội ở Vũng Tàu. Tại đây, bà đã “bước xuống

một con đò khác” cùng nhà văn Nguyễn Quang Thân. Trải qua 11 năm bà ở

Nam và nhà Văn Nguyễn Quang Thân ở Bắc, hai người đã đến với nhau như

một kết thúc có hậu cho tình yêu đầy chông gai, sóng gió. Bà sáng tác với sự

tham gia nhiều của yếu tố đời tư. Thông qua những hư cấu của tư duy tiểu

thuyết, Dạ Ngân đã thể hiện lại trong Gia đình bé mọn. Dạ Ngân đã mượn nhân

vật Mỹ Tiệp trong tác phẩm để kể về mình, nhân vật Đính để nói về chồng

mình - nhà văn Nguyễn Quang Thân, nhân vật Tuyên - người chồng do chiến

tranh xô đẩy, nhân vật Thu Thi và Vĩnh Chuyên, 2 con của Mỹ Tiệp để nói về

hai con của mình.

Trong tác phẩm, do hoàn cảnh chiến tranh xô đẩy, cuộc hôn nhân không

tình yêu với Tuyên khiến cho Tiệp dần cảm thấy ngột ngạt, không chịu đựng

nổi. Sự xuất hiện của người đàn ông là anh nhà báo cỡ bự trong hoàn cảnh đó

đã khiến Tiệp tưởng gặp được người trong mộng để hy sinh một cách u mê như

thần dân với vị vua của mình. Để rồi cô thất bại với không ít tai tiếng và những

vết nứt đầu tiên cho gia đình.

Tiệp đã cố làm lành với chồng do sức ép của dòng họ, nhất là sự uy nghi

của cô Tư Ràng nhưng cuộc sống hôn nhân vẫn không thể cứu vãn được. Và sự

xuất hiện của anh chàng nhà văn lãng tử của xứ Nghệ tên Đính đã làm thay đổi

hoàn toàn cuộc đời Tiệp, đánh thức mọi phương diện trong con người Tiệp. Để

được sống với người mình yêu, hai người trải qua mười một năm sau nhiều

phen sóng gió. Hai người quyết định đến với nhau, Mỹ Tiệp luôn được sự ủng

hộ của hai con, nhất là cô con gái già dặn, trở thành bạn của mẹ. Tuy vậy, Mỹ

Tiệp luôn day dứt với hai con của mình. Vì vậy, Mỹ Tiệp luôn có cảm giác

giằng xé đến nát lòng khi liên tục bị dày vò bởi hai thứ tình yêu và tình mẫu tử

chẳng thể hòa hợp… Khi đưa hai con ra sống tạm trong trụ sở cơ quan mẹ, hai

chị em Thu Thi và Vĩnh Chuyên thiếu thốn mọi thứ, từ nước sinh hoạt đến

chiếc giường ngủ ọp ẹp… Thu Thi lúc này mới 9 tuổi đã biết thay mẹ quán

43

xuyến mọi việc trong nhà, biết xin vỏ bưởi về phơi dành đun muỗi cho mẹ

những hôm thức khuya viết bài, biết xin vỏ dừa tươi đem phơi làm chất đốt,…

Dạ Ngân như hóa thân vào nhân vật, thậm chí, bà lấy bản thân mình làm “vật

liệu” để xây dựng tác phẩm. Có lẽ vì thế mà bà mới viết nên những dòng tâm

sự đầy thống thiết khi phải hứng chịu mối bi kịch của nghịch lý lựa chọn giữa

một bên là người yêu dấu với một bên là hai đứa con thơ. Dù có can trường đến

mấy thì người phụ nữ ấy chắc chắn vẫn sẽ rơi vào bi kịch. Và quả đúng là “lựa

chọn là mất mát”, Mỹ Tiệp luôn có trạng thái giằng xé tâm can khi nghĩ đến các

con mình cần mẹ, nhưng lại cồn cào nhớ người tình ? Và thế là, người đàn bà

nhỏ bé ấy ki cóp tằn tiện để mỗi năm ra Bắc vào Nam để gặp Đính, vừa gồng

mình lên làm chỗ dựa cho các con. Vậy mà, khi có được danh chính với người

tình, trên con đường ra Bắc, Tiệp vẫn không thoát khỏi tâm trạng giằng xé : Ở

bên Đính thì cồn cào nhớ con đến nghẹn lòng, nhưng về Nam với con thì hình

ảnh Đính lại mụ mị cả đầu óc. Trong hành trình khổ ải có nước mắt mặn chát

và niềm vui sướng khôn tả lúc được sống với người yêu, những tưởng sau tất cả

sóng gió, Tiệp sẽ hạnh phúc viên mãn bên Đính, nhưng cuối cùng người đàn bà

ấy vẫn không thoát khỏi sự ân hận, mặc cảm xé lòng vì chưa tròn nghĩa mẫu tử

Nàng nghẹt thở bên Đính không phải vì tâm trạng của một nàng dâu, một

người vợ chính danh mà vì nàng là một người mẹ đã bỏ vãi các con ở xa mình

hàng nghìn cây số để đi lấy chồng, ý nghĩ ấy càng lúc càng cộm lên như giữa

nàng và Đính đang có một cái dằm …Nàng đứng yên và bỗng dưng ôm bụng

đổ ập xuống, nàng đổ xuống một cách thê thảm, quằn quại như một cái cây

trong bão , nàng muốn được gào khóc , được đào bới, nàng muốn vạch đất xé

trời để được thấy các con, giá có thể chạy bổ mà trở về được, giá có thể thấy

chúng một lần nữa …Để được sống với người mình yêu cũng có nghĩa là phải

thường xuyên gào khóc với lương tâm làm mẹ vầy sao, cái giá này nàng đã ước

lượng hết chưa và phải trả đến bao giờ … Nàng khóc rỉ rả trong tay Đính và

lại nghĩ như muôn ngàn lần trong mười mấy năm qua, rằng nếu có kiếp sau,

nàng sẽ chọn gì, tình yêu hay tình mẫu tử? Phải nếu có kiếp sau ấy nàng sẽ

44

chọn sao cho hai thứ tình ấy có trong nhau, sinh ra cho nhau và vì nhau mãi

mãi suốt đời [21, tr.279.280].

Mặc dù Mỹ Tiệp mạnh mẽ khi tự quyết định con đường hạnh phúc, quyết

định lựa chọn một cách đầy quyết đoán nhưng khi kết thúc cũng không thoát

khỏi mối giằng xé bi thương giữa làm mẹ và vai trò của một người tình bền bỉ,

kiên trung. Ở cuối tác phẩm, khi đang sống với Đính ở Hà Nội, Mỹ Tiệp nhận

được bức thư ngắn của con gái Thu Thi đang nức nở nghẹn ngào Mẹ ơi con cần

mẹ, con khổ quá. Chồng con ảnh có người khác (…) phải chi hồi đó con theo

mẹ con nghe lời mẹ, nhưng mà con cần mẹ, lúc nào con cũng cần mẹ mẹ ơi !

[21, tr.292.293] thì lòng cô chồng chất thêm biết bao nỗi đau đớn, cắn rứt vì

mặc cảm mẫu tử chưa và sẽ chẳng bao giờ tha thứ cho cô; để rồi mãi mãi ám

ảnh Tình duyên lận đận, học hành dở ương, con cái nhỏ dạ , cái vòng tròn của

nàng chưa khép lại mà vòng tròn của con gái nàng đã chồng lên, cái bóng của

nàng, cái bi kịch của nàng, và đó cũng là cái phần thiếu hụt mà nàng luôn cảm

thấy khi đi còn chưa hết con đường mẫu tử của mình [21, tr.295]. Tiếng lòng

của Mỹ Tiệp đau đớn theo nàng đi suốt hành trình tìm hạnh phúc, nhưng trên

hành trình ấy, càng về cuối càng day dứt, lúc tìm đến hạnh phúc riêng tư tưởng

trọn vẹn thì cũng là lúc vấp phải tình mẫu tử trồi lên mãnh liệt nhất. Bi kịch ấy

của người đàn bà trong tiểu thuyết này đại diện cho số kiếp người phụ nữ trong

cõi đời nói chung, trong hoàn cảnh ấy, khó lòng mà thoát ra tấn bi kịch ấy.

Trong tác phẩm, đời sống vợ chồng và cuộc ly hôn của Tiệp và Tuyên

phần nào miêu tả cuộc sống của chính nhà văn Dạ Ngân. Hôn nhân của nàng đổ

vỡ là do hôn nhân của họ không xuất phát từ tình yêu, giữa họ không có sự hiểu

nhau, mà theo bà, cuộc hôn nhân này là do chiến tranh sắp xếp. Trong khi ranh

giới giữa sự sống và cái chết rất mỏng manh, lúc tai Tiệp ù đặc, mắt nàng long

lanh cảm thán vì Tuyên đã nắm được tóc nàng kéo lên đúng lúc và đã ấn nàng

xuống cái công sự như cái lỗ huyệt này. Nàng cười sằng sặc rồi nàng mếu máo

khóc, bỗng nàng nín bặt vì nghe thấy có hai bàn tay đang áp vào hàng nút áo

45

bung ra tự bao giờ, hai trái ngực nàng đang săn lên, run rẩy bởi đôi bàn tay

ngốn ngấu trong thứ nước màu sữa đục, lạ quá, cảm giác được mơn trớn mà

cũng được dầy vò, nâng lên hạ xuống trong mặt nước có mùi âm phủ [21, tr.101].

Chính trong lúc ấy, và rồi sau những lần gần gũi khi ở cứ, Mỹ Tiệp vẫn không

cảm nhận được tình yêu. Theo nàng, nó đơn thuần chỉ là sự gần gũi về xác thịt.

Hồi mới cưới,con tim nàng không chịu rung động nó cứ lên tiếng rằng đây

không phải là người đàn ông của đời mình, đây là cuộc xô đẩy của chiến

tranh, của bom đạn giặc giã nước lụt bụi cây sạp xuồng [21, tr.52]. Mỹ

Tiệp dám mổ xẻ những cảm xúc của mình đối với chồng, ngay từ lần đầu tiên

cho đến cuộc sống vợ chồng trong thời bình. Dạ Ngân thật với chính những xúc

cảm của nhân vật. Đó là những cảm xúc chân thành, cởi mở tận sâu cõi lòng về

những ẩn ức đời sống tình dục của người phụ nữ dám sống thật với mình. Qua

đó, người đọc thấy ánh lên cái nhìn nhân văn và độc giả không khỏi xúc động,

bởi điều đó có thể đã và đang diễn ra trong góc khuất của bất kì một người phụ

nữ trong xã hội (kể cả thời đại ngày hôm nay), nhưng không phải ai cũng có đủ

cam đẩm để mổ xẻ nó, để đối diện với chính nó. Vì vậy, Mỹ Tiệp không chỉ là

nhân vật của tác phẩm mà nàng đã trở thành nhân vật của xã hội.

Nhưng nếu chồng Dạ Ngân (cũng như Tuyên) quan tâm, lo lắng, yêu

thương chăm sóc nàng (cũng như Tuyên quan tâm chia sẻ với Mỹ Tiệp) thì có

lẽ cuộc sống của họ đã khác. Hơn nữa, Hai Tuyên là con người trọng quyền

lực, theo đuổi sự thăng quan tiến chức đã dần tạo nên sự vô tâm, thờ ơ, tẻ nhạt

trong cách cư xử với vợ con. Vì thế, Mỹ Tiệp, vốn là một con người Tiệp tung

tăng…Tiệp bay nhảy…Tiệp lai láng…Tiệp thích chỗ đông người [21, tr.94]

khiến Tiệp thấy giữa hai vợ chồng nàng là hai cách sống đối lập, và giữa nó có

một hố sâu ngăn cách. Điều đó khiến nàng cảm thấy nhàm chán chồng và nhàm

chán cuộc hôn nhân của mình. Xã hội lúc đó là một trong những nguyên nhân

là làm Tuyên thêm bộc lộc tính cách và càng đẩy hai người về hai phía đối

lập nhau. Để rồi mỹ Tiệp dám thẳng thắn với chồng Tôi với anh bị chiến

46

tranh đưa đẩy tôi thấy không nên kéo dài cuộc hôn nhân không có tình yêu

này [21, tr.81]. Dám tuyên bố với chồng như vậy là Mỹ Tiệp dám sống với

khát vọng bản năng chân chính. Và để thực hiện được điều đó, nàng phải chịu

giằng xé đau đớn với nghĩa vụ đối với gia đình,với họ tộc, bởi lý thuyết “chính

danh”, “đàng hoàng”. Như đã biết, cô Tư Ràng của Mỹ Tiệp (cũng là cô Tư của

Dạ Ngân) đã gieo rắc và hằn sau vào đầu óc nằng rằng Danh dự là đàng hoàng,

mà đàng hoàng là thể diện, thể diện là tốt khoe xấu che. Nhưng nàng không thể

cùng lúc lên giường với Tuyên mà vẫn thậm thụt đi dâng hiến cho người khác,

đó là sự rạch ròi tối thiểu của một người đàn bà tự trọng, mà tự trọng là đàng

hoàng. Vậy thì nàng sẽ bảo toàn lòng tự trọng đó và danh sự cũng từ tự trọng

mà ra [21, tr.79].

Như vậy, rõ ràng người phụ nữ ấy đã nhận thức sâu sắc bi kịch mình đang

lựa chọn. Đã có những lúc người đàn bà ấy đã chịu đựng, đã nén lòng mình nỗi

thất vọng về tính cách và tâm hồn và cả trữ lượng nhân tính ít ỏi của chồng

khiến nàng mặc cho Tuyên cư xử một cách đại khái với mình, thậm chí nàng

luôn luôn bằng lòng để Tuyên chỉ cởi bỏ mảnh dưới của mình theo thói quen y

nguyên của thời chiến, lúc cả hai còn sợ bị chết trần chết truồng. Tuyên không

có nhu cầu ngắm vuốt nàng, không cảm thấy vướng víu khi giữa da thịt hai

người là chiếc áo của nàng, mãi mãi như thế, nàng chưa bao giờ là Eva trước

mặt chồng, mãi mãi một cảm giác chán chường, rất nhanh nhưng rất chán khi

chính nàng cũng đê mê cao trào như cảm xúc bi dốc ngược ra để ai đó thu hồi

lại ngay cái nàng vừa có, nàng hiểu ra nhiều lần đó là do cảm giác do không

có tình yêu với Tuyên, trái tim chưa được yêu của mình đã phá hỏng ngay cảm

giác của nhục thể [21, tr.155].

Không dấu giếm những suy nghĩ từ tận đáy lòng như thế Dạ Ngân đã để

cho nhân vật nói lên mặt trái của đời sống vợ chồng hiện đại trong xã hội ngày

nay:Tình yêu chân chính phải là khát vọng được chung sống với nhau, còn

ngược lại như Tiệp và Hai Tuyên mãi mãi sẽ làm thiêu rụi cảm xúc thăng hoa

47

đẹp đẽ của tình dục khi hôn nhân không có tình yêu. Và cũng vì xác định sự

đàng hoàng với lòng mình, không muốn sống theo cách phải dối lòng mình mà

nàng quyết định đối mặt với chồng và đối diện với chính lòng mình. Như đã

biết, Mỹ Tiệp trong tiểu thuyết này vốn là con người có khao khát sống mãnh

liệt và thành thật vì vậy nàng đã quyết tâm từ bỏ người chồng cằn cỗi ấy, vì trái

tim của nàng đã tự thú Tuyên đã đi tắt vào đời con gái của mình Tuyên đã dùng

lợi thế ở Cứ, Tuyên đã quỵ lụy Tuyên đã bủa vây lòng thương hại của mình, vậy là

đã đến lúc Tuyên phải trả giá cho cuộc hôn nhân lấy được nầy, mình chư

từng yêu Tuyên, trái tim mình nhất thiết phải biết một tình yêu đích thực là

như thế nào[21, tr.69]. Đây có thể coi là lời lý giải chân thật của con tim khao

khát tình yêu của Mỹ Tiệp. Điều đó chẳng phải là chính đáng lắm sao?

Người đọc thấy một Mỹ Tiệp khác hẳn khi cô gặp và yêu Đính, một nhà

văn gốc xứ Nghệ và đang sống ở Hà Nội. Mỹ Tiệp đã được yêu theo đúng

nghĩa của nó và bởi tình yêu của Đính đã đánh thức con người tràn trề sức sống

như cô Những câu chuyện thì thầm cùng với da thịt nguyên sơ. Lần đầu tiên

nàng cảm nhận thấy trong bàn tay tinh nghịch của mình một sinh vật cừ khôi -

trước đây với Tuyên nàng không có nhu cầu đùa giỡn với nó, chắc chắn vì

nàng không khao khát nó. Nàng trôi trên người Đính như ban nãy Đính đã

cẩn trọng với từng xentimet thịt da nàng. Tiệp thấy mình bạo dạn và lão

luyện, sự nhịp nhàng của thịt da đằm thắm ngọt ngào. Từ thể thủ nàng đã ào

sang thế chủ, một cực khác với lần đầu, nàng bốc cháy từ gót chân tới đỉnh

đầu và thật sự không biết mình đang bồng bềnh ở đâu, chính danh hay

không chính danh, tà dâm hay không tà dâm, chỉ thấy mình đúng là mình

trong tưởng tượng [21, tr.157].

Đặt bối cảnh thời gian của tác phẩm với những câu văn trải lòng đến chân

thật như vậy, người đọc không khỏi ngỡ ngàng. Không những khát khao sống

thành thật với bản năng mà Mỹ Tiệp còn dám vượt qua để mạnh mẽ và chủ

động trong quan hệ này. Người phự nữ đã mang trong mình suy nghĩ hiện đại

48

về vấn đề tình dục trong tình yêu. Đây không phải là vấn đề dễ viết và được

độc giả dễ chấp nhận. Nhưng ngược lại với điều đó! Những trang văn của Dạ

Ngân tuôn trào như tình yêu của mỹ Tiệp với Đính. Như mạch ngầm được khơi

dòng, những trang viết thấm đẫm tính nhân văn bởi khát khao được khám phá

chính bản thân mình của một nữ văn sĩ ham sống. Chính điều đó khiến độc giả

yêu mến văn của Dạ Ngân. Bà dám nói thẳng thắn, chân thật về điều tưởng

chừng rất khó nói. Hơn nữa, điều đó lại phù hợp với diễn biến tình cảm của

nhân vật Mỹ Tiệp. Để rồi trong Mỹ Tiệp khát vọng về tình yêu càng bùng cháy

thì bi kịch của gia đình nàng lại càng lún sâu.

Nhưng Mỹ Tiệp đâu phải chỉ đối diện với chồng mà nghĩa vụ của một

người con đối với gia đình có truyền thống cách mạng, của những rào cản

tưởng như vĩnh cửu của cô Tư Ràng để giữ gìn danh dự của gia tộc. Kể cả khi

Mỹ Tiệp đã hoá giải cuộc hôn nhân với người chồng cũ, những tưởng nàng sẽ

được thanh thản và an tâm hơn với hạnh phúc của mình, nhưng không! Người

đàn bà ấy vẫn thấy mình lơ lửng trên án treo còn nặng nề hơn, đó hơn cả tà

dâm, ngoại tình, giựt chồng, đánh cắp hạnh phúc người khác… cái tội bị cô

Ràng xử trảm, cái tội bị gia tộc ruồng bỏ, mà không có gia tộc thì không người

Việt Nam nào yên ổn với lương tâm cả [21, tr.194]. Chỉ bằng đây chi tiết thôi

người đọc đã phần nào thấy được sự vật lộn, giằng xé ghê gớm trong tâm hồn

người phụ nữ giữa khát vọng yêu sống mãnh liệt với sức ép dòng tộc và mối

tình thân ruột rà. Vượt được qua nó, chiến thắng được cảm giác đó quả thật là

điều không đơn giản. Phải am hiểu, phải trải nghiệm với những cung bậc cảm

xúc đó thì Dạ Ngân mới bày tỏ tiếng nói đồng cảm với số phận người đàn bà

trong xã hội hiện đại một cách sâu sắc đến thế! Qua ngòi bút của bà, những

cung bậc thầm kín trong khát vọng riêng tư của Mỹ Tiệp luôn được người đọc

cảm nhận và thấu hiểu. Có thể nói, Dạ Ngân đã xây dựng thành công một bức

chân dung phụ nữ đẹp vẹn toàn với vẻ ngoài mềm yếu, nhẹ nhàng của một vóc

dáng 38kg nhưng mang trong mình một tinh thần gan góc, thậm chí dám đấu

49

tranh dữ dội để vươn lên sống thành thật với khát vọng chính đáng của bản

thân. Mỹ Tiệp trở thành mẫu người phụ nữ xã hội hiện đại mà Dạ Ngân xây

dựng. Đó là một người phụ nữ có tri thức và ý thức được những phẩm hạnh

cũng như giá trị của mình. Hành động liều lĩnh nhưng dũng cảm của Tiệp dám

thách thức cả gia tộc, cả một xã hội còn nặng nề lạc hậu về tư tưởng. Hành

trình đấu tranh tìm kiếm hạnh phúc của Mỹ Tiệp như một hồi chuông báo hiệu

sự trỗi dậy mạnh mẽ quyền tự quyết của người phụ nữ, mặc dù để thực hiện

được nó, lòng người phụ nữ phải trải qua nhiều bão táp, phong ba.

2.2.2. Cái tôi trong quan hệ với những người thân trong gia đình

Có thể nói, Dạ Ngân đã ghi lại những hồi ức trong hành trình đi tìm chính

mình và tìm hạnh phúc cho mình sau chiến tranh. Trong hành trình đó, luôn có

sự xuất hiện của những người thân trong gia đình, nơi miệt vườn miền Tây. Đó

là cô Tư Ràng, má, chị Hoài, chị Mỹ Nghĩa, em Mỹ Út - những người phụ nữ

góa bụa là kết quả của cuộc chiến tranh.

Trong tác phẩm, Mỹ Tiệp là một nhà văn miệt vườn Tây Nam Bộ vốn là

con một liệt sĩ Côn Đảo bị địch thủ tiêu, 14 tuổi đã bỏ nhà đi theo anh trai Năm

Trường vào Cứ kháng chiến. Trong những hồi ức về những gì tuổi thơ, Tám

Tiệp lớn lên đã chứng kiến, hình ảnh về bà cô thủ lĩnh Tư Ràng với những bài

học về con gái phải làm từ tấm bé và những bài học về sự đàng hoàng từ việc

sáng ra việc đầu tiên là nhớ cầm lược chải gõ đàng hoàng, người lớn có gọi bảo

phải dạ thưa đàng hoàng, khi trả lời phải đứng ngay ngắn đàng hoàng; ăn uống

phải ngồi ngay ngắn, phải cầm đũa chén cho đàng hoàng; đến việc không chây

lười, không dối trá, không thất tín,…Chính bà cố là người giữ lửa cho gia đình

Mỹ Tiệp, bà cô cùng mẹ Mỹ Tiệp nuôi dạy các anh chị em nàng và chèo lái con

thuyền gia đình thiếu vắng đàn ông. Ở họ toát lên đức hy sinh cũng như việc

bảo vệ danh dự gia tộc.Với gia đình ấy, tất thảy mọi người đều hiểu hạnh phúc

là phải sống cho người khác, là phải biết hy sinh cho đại gia đình mà nàng, dù

bé tí, cũng phải cảm thấy tự hào mà vun vén…,còn phải luôn luôn một trật tự

trên nói dưới nghe quấn quýt chan hoà…[21, tr.88]. Chính sự dạy bảo của bà

50

cô đã tạo nên nề nếp gia phong ấy và vì thế, họ gắn bó với nhau, biết giúp đỡ

nhau, trên bảo dưới nghe.

Như đã biết, trong gia đình toàn phụ nữ góa bụa ấy, chỉ có Mỹ Tiệp là

niềm hy vọng. Bởi Tiệp hơn họ vì có tấm chồng, mà theo đánh giá của cả gia

đình, thì chồng nàng rất đáng trân quý, bởi người ta kiếm tấm chồng hổng ra,

mầy có, mầy còn yêu sách gì nữa!.Theo đó, nề nếp gia đình khiến nàng đã quỵ

xuống và đây là ý nguyện của gia tộc [21, tr.51]. Tất nhiên, họ ra sức hàn gắn

Tiệp với chồng nàng, vì danh tiếng gia tộc, cho dù cuộc hôn nhân ấy không

hạnh phúc. Gia tộc nàng một gia tộc lấy sự trong trẻo giản đơn, sự hiếu thuận

phẳng lặng và thứ văn hoá thuần tuý ứng xử và tôn ti trật tự truyền thống làm

nền [21, tr.165] nhiều lúc đã khiến nàng muốn buông xuôi trong khi đấu tranh

để đến với tình yêu. Bởi nàng đã làm tổn hại cái danh dự từ nhiều đời của dòng

họ, đã làm cho hai đứa trẻ phải chịu khổ cực, đã làm cho người thân phải bị vạ

lây, phải mang tiếng xấu với người ta,… Nếu Mỹ Tiệp dằn được lòng mình

xuống với những quy định của xã hội, với quy ước của gia tộc mà nàng cứ

muốn nhốm chạy thì nó kéo lại, thít chặt vào hơn [21, tr. 28] thì có lẽ nàng đã

cứu vãn được cuộc hôn nhân đang bên bờ tan vỡ. Trong con mắt của Tiệp, sự

ràng buộc của nề nếp gia phong thật nặng nề đối với những người phụ nữ. Trong

hoàn cảnh này, Mỹ Tiệp trở nên nhỏ nhoi trước cuộc đời. Hình ảnh sợi dây thòng

lọng, hình ảnh của những trói buộc, càng vùng vẫy, càng bị thít chặt, càng khó

trốn chạy hơn là cái vòng cương tỏa của chính gia tộc nàng, một tường thành vững

chắc mà nàng không thể đơn thương độc mã vượt qua được.

Thế nhưng, những tưởng trước sức ép của gia tộc Mỹ Tiệp đã buông xuôi.

Tiệp đã chọn lựa chọn đưa con ra cơ quan ở, để lại tất cả sau lưng mọi thứ bắt

đầu một cuộc sống mới Quần áo của hai mẹ con, tủ sách, vài cái soong vài cái

thau, mớ gia dụng lèo tèo trông buồn thê thảm, đáng giá nhất là chiếc tủ lạnh

để làm đá nuôi con gái,…[21, tr.137]. Lúc này, Tiệp mất tất cả những chỗ dựa

tinh thần bỏ rơi, ruồng bỏ mẹ con nàng. Cả gia đình không có một ai chấp nhận

51

nàng.Có thể nói đây chính là đòn chí mạng khiến Tiệp không còn sức lực nào

nữa.Tuy vậy, sống trong căn phòng vốn là phòng làm việc, cả ba mẹ con phải

vất vả rất nhiều trong sự thiếu nước, chật chội, khốn khổ. Hàng xóm, láng

giềng xa lánh, miệt thị. Đồng lương phải chắt chiu từng thứ, mua cá ươn vào

buổi chiều. Hình ảnh Mỹ Tiệp lúc này khiến độc giả không khỏi xót xa, thương

cảm. Liệu nàng có gục ngã? Nhưng không! Mỹ Tiệp vẫn dám khẳng định bản

thân mình bởi nàng nhận rõ trách nhiệm với bản thân và gia đình mình chưa

từng yêu Tuyên, trái tim mình nhất thiết phải được biết một tình yêu đích thực

là như thế nào [21, tr.69]. Và nàng vẫn nhất quyết đi tìm một tình yêu mà mình

đang khao khát nàng mặc kệ tất cả, mặc kệ đất trời và bão tố, mặc kệ lồng sắt

và dư luận, bất chấp sự phản đối quyết liệt của mọi người nàng vẫn từ bỏ cuộc

sống hôn nhân không có tình yêu ấy. Ngòi bút Dạ Ngân xoáy sâu vào nhân vật

Tiệp, với những xung đột mội tâm sâu sắc. Nàng dám sống thật đúng với

những cảm xúc chân thật của lòng mình, cho những khát khao cháy bỏng. Nàng

đã quyết tâm ly hôn với người chồng khô khan cứng nhắc, kết thúc cuộc hôn

nhân không tình yêu!

Nhưng để làm được điều ấy đâu phải dễ! Đối diện với cô Tư Ràng, là hiện

thân của một người giữ nề nếp gia phong của gia tộc nàng, liệu nàng còn dám

tiếp tục yêu Đính. Tiệp dằn vặt, Tiệp đau khổ khi nghĩ đến cô sống gương mẫu

trong nề nếp, cô dạy cháu con theo nề nếp. Và cô không thể chấp nhận trong

gia tộc mình, có người cháu đi ngược lại với nề nếp ấy. Chính Tiệp là hiện thân

của sự thất bại trong cách giáo dục về nề nếp và gia phong của cô Tư Ràng. Vì

thế, Tiệp cảm thấy mình có tội Đó là tội danh có thể làm nàng đau đớn, xấu hổ

nhất, hơn là tà dâm, ngoại tình, giựt chồng, đánh cắp hạnh phúc người khác…

cái tội bị cô Ràng xử trảm, cái tội bị gia tộc ruồng bỏ, mà không có gia tộc thì

không người Việt Nam nào yên ổn với lương tâm cả [21, 194]. Bị “xử trảm” là

bị gia tộc ruồng bỏ, là cái án cao nhất mà Tiệp cảm thấy sợ nhất khi phải đón

nhận. Kể cả khi thủ tục li hôn đã hoàn tất, đến với Đính, nàng vẫn sợ bức tường

52

rào ấy đó là cô Ràng, nàng vẫn còn lãng tránh bức tường đó vì nàng cần một

sự chính danh với Đính [21, tr. 237]. Nhưng chính sự nỗ lực của cả hai phía,

Tiệp đã vượt qua bức tường đó bằng sự chính danh sau 11 năm vào Nam ra

Bắc với Đính. Sự “chiến đấu” bền bỉ của một người phụ nữ cho tình yêu đã

chiến thắng tất cả, cho dù bức tường ngăn cản của gia tộc nàng có lớn đến đâu.

Sự khẳng định cái tôi không hề vì hiếu thắng mà vì chính tiếng lòng của mình,

điều đó ở Mỹ Tiệp thật đáng khâm phục và trân trọng. Có thể khẳng định, trong

quan hệ với người thân trong gia đình, Dạ Ngân lúc nào cũng khẳng định được

quan niệm của mình về tình yêu của mình bằng cảm xúc chân thực và xúc động.

2.3. Cái tôi với những dư chấn của chiến tranh

2.3.1. Dư chấn của chiến tranh đối với cuộc sống của con người

Trong tiểu thuyết Gia đình bé mọn, Dạ Ngân đã lấy những chất liệu hiện

thực sống động về bức tranh xã hội thời kì hậu chiến, số phận con người dưới

sức ép chiến tranh và những ràng buộc trong mối quan hệ gia tộc - xã hội. Điều

đó cho thấy dư chấn của chiến tranh còn ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống của

người dân sau khi chiến tranh kết thúc.

Đầu tiên, với nhân dân, kết thúc chiến tranh đồng nghĩa với việc chấm dứt

khổ đau và chết chóc, người dân được sống ấm no, hạnh phúc. Nhưng không!

Những con người trong thời kì ấy mang dáng vẻ ngơ ngác, bần thần trước thực

tế xã hội sau chiến tranh với cái thời một ống chỉ cỏn con cũng chờ tới lượt

phân phối [21, tr.6]. Lúc này, những thứ nhu yếu phẩm hàng ngày phải chờ tới

lượt phân phối nhưng lại kém chất lượng gạo thì thường là vón cục và nát bét

trong vụ hè thu [21, tr.37]. Như vậy, sự chật vật, thiếu thốn mọi thứ đến khiến

cuộc sống của người dân tù túng, ngột ngạt. Ở miền Nam, cảnh bến xe được Dạ

Ngân đã tái hiện với những thứ tồi tàn, xập xệ và khó chịu cảnh nhà chờ

trống rỗng, lộn xộn, vô tổ chức [17, tr.35], người dân xếp hàng để chờ mua

vé trong mọi sự nhẫn nại, trong đủ thứ mùi mùi nước đái, mùi rác rến lưu

cữu [21, tr.30]. Bến xe cũng không niêm yết cả giờ xe và giá vé xe. Bằng sự

53

trải nghiệm thực tế, Dạ Ngân thấu hiểu và mô tả những ngày tháng khó khăn

của cả dân tộc mà nguyên nhân chính là do hậu quả của chiến tranh. Ở Hà Nội,

người dân đi ăn phải xếp hàng đi ăn mà phải trì vai, áp lưng, giơ phiếu như thị

trường chứng khoán [21, tr.141]. Những khu nhà tập thể nặng những thứ mùi

thum thủm rên rỉ trong mọi “xó xỉnh” của cuộc sống bệ rạc đón khách là mùi

nhà cầu, kiểu thiết kế cho xong, dân chúng sống sao mặc [21, tr.162]. Và Hành

lang nhiều dây phơi, quần lót phụ nữ tự may lấy, những cái khăn made quốc

doanh thô nhám vàng khè, bếp lò để ngoài cửa, chuồng sắt để trồng mấy thứ

rau gia vị… [21, tr.162]. Như vậy, cuộc sống vật chất của nhân dân vô cùng

thiếu thốn và lạc hậu.

Trong cuộc sống chật chội, khổ cực, thiếu thốn đó, nhiều người đã bị tha

hóa về đạo đức. Đó là cảnh người mình cứ nhâng nháo và văng tục ở mọi nơi,

mọi chỗ để bày tỏ thái độ [21, tr.126]. Những chiếc thìa trong cửa hàng ăn phải

đục lỗ để phòng ăn cắp, mà nói như Đính Chỉ có những kẻ ăn cắp thánh thần

mới nghĩ ra cách chống ăn cắp độc chiêu như thế [21, tr.142]. Bệnh viện phụ

sản có những quy định khác thường, mỗi sản phụ đến nạo hút phải nộp một

chai nước tiểu loại 750ml đầy. Để rồi mọi người mới vỡ lẽ ra rằng nước

tiểu thì bán cho dân trồng rau còn chai thì bán lại cho bọn sản xuất rượu

lậu [21, tr.243]. Nhân viên làm việc thì hầu như là những người hống hách và

vô cảm. Như bà bưu vụ làm việc thì chểnh mảng, mụ nhân viên nhà vé thì Thôi

không dài dòng, ông anh nhà khách quầy tôi thì chờ, đây ăn trưa đã, còn dân

trơn, xin mời xếp hàng đằng kia [21, tr.35]. Và vì thế nhiều thứ có vấn đề về

lịch sự, về sự thấp kém trong nhân cách, về sự ứng xử vô văn hóa. Đây chẳng

phải là hệ lụy của chiến tranh hay sao?

Sự tha hóa biến chất của những người dân trong hoàn cảnh đó cũng là dễ

hiểu bởi nguyên do của nó khá rõ ràng. Và sự thoái hóa của những người lãnh

đạo cũng diễn biến không kém. Một vài cuộc họp mang tính chất “đại khái”,

tuần nào cũng tiến độ cày cấy, xuống giống, thủy lợi, tuyển quan, thu mua lấy

54

từ báo cáo của mấy thằng cha bàn giấy của các ngành [21, tr.66]. Và trong khi

họp, nhiều người lại hiện lên là những người có thể lôi kiếng ra tự nhổ tóc sâu

như mấy cô mấy thím đi từ chiến hào ra hay vén quần lên gãi sồn sột như mấy

chú bác hở ra là tán chuyện heo cúi và lương tháng [21, tr.68]. Có thể nói họ

có thái độ làm việc hời hợt, qua loa, vô trách nhiệm, cốt làm đến tháng lãnh

lương, tư lợi cá nhân. Ngòi bút Dạ Ngân nhẹ nhàng len lỏi vào từng ngõ ngách

của xã hội, nhẹ nhàng mổ xẻ, nhẹ nhàng phản ánh khiến cho người đọc từng

bước cảm nhận thực tế xã hội thời kì hậu chiến.

Sau chiến tranh, con người phải sống chung với nỗi khó khăn, nghèo đói.

Qua tác phẩm, nhà văn tái hiện lại bức tranh xã hội bằng những cảm nhận chân

thật nhất của một thời đã kinh qua.

2.3.2. Dư chấn của chiến tranh đối với cuộc sống gia đình

Trong phạm vi lớn, tác phẩm như một tấm gương tái hiện lại xã hội thời kì

bao cấp. Trong phạm vi nhỏ là gia đình, dư chấn chiến tranh để lại không ít hậu

quả. Như đã trình bày, gia đình lớn của mỹ Tiệp ở quê là hệ quả trực tiếp dễ

nhìn thấy nhất của chiến tranh. Gia đình ấy đều là sản phẩm con người của

chiến tranh, họ đến và đi ra từ chiến tranh vì vậy số phận của những người đàn

bà này gắn liền với dấu vết khắc nghiệt của chiến tranh khi trong nhà. Mỗi

thành viên trong gia đình đều có số phận gắn liền với những gì khắc nghiệt nhất

mà chiến tranh mang lại: kẻ đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh, vợ mất chồng, con mất

cha, mẹ mất con, em mất anh. Kết quả một gia đình toàn là những bà góa với

cuộc sống cắm mặt xuống miếng vườn đầy rắn rết, hố bom, hố pháo và chất nổ

[21, tr.95]. Không chỉ có thế, những người đàn bà góa ấy còn phải đối mặt với

cuộc sống đầy khó khăn, tổn thất mà đáng lí ra họ xứng đáng nhận được khi hi

sinh người thân của mình cho Tổ quốc.Với thân phận góa bụa, họ phải một

mình chống đỡ giữa cuộc sống đầy chật vật. Những tưởng sau chiến tranh, họ

được sống hạnh phúc bình yên, nhưng không! họ phải gồng mình lên để thay

thế cho người đàn ông giờ không còn là trụ cột nữa. Vì thế, họ còm cõm, già

55

nua theo năm tháng mà không hít được bầu không khí mới mẻ nào của thời hậu

chiến. Họ là những bà, những mẹ là nạn nhân của chiến tranh đau thương và

tang tóc. Chất hiện thực trong những trang viết của Dạ Ngân khiến cho người

đọc không khỏi xót xa đau đớn trước thân phận của những người phụ nữ Việt

Nam sau chiến tranh. Đây là hình ảnh chị Hoài với cái dáng cắm cúi chật vật

đầy đau khổ gập xuống như có một cú đòn vào giữa xương sống khi người ta

đẩy thằng con chị từ phòng mổ với cái chân một chân rưỡi và đoạn chân bị cắt

lìa… [21, tr.237]. Cô Tư Ràng cũng có một gia đình, một đứa con gái, nhưng

chiến tranh đã cướp mất đi mái ấm hạnh phúc của cô, và chồng cô đã hy sinh

trong chiến tranh… Chính việc phải trải qua những gian khổ nên cô Tư Ràng

mới khuyên Mỹ Tiệp cam chịu, nhẫn nhịn Nhà nầy một lô một lũ con mồ

côi còn chưa dủ sao còn muốn bỏ nhau để con nó khổ nữa, trời ? và: Làm

đàn bà con gái là phải chịu khổ, ráng khổ chút nữa rồi cũng hết đời thôi,

con! [21, tr.94].

Tiệp bỏ nhà đi theo anh Năm Trường vào căn cứ kháng chiến từ mười bốn

tuổi.Và chiến tranh đã cướp đi tuổi thanh xuân tươi đẹp của một người con gái,

đồng thời, đã đẩy cô đến với người chồng Hai Tuyên.Trong khoảnh khắc cái

chết chỉ tính bằng giây giữa làn mưa bom bão đạn đẩy Tiệp vào bi kịch không

thể tự mình lựa chọn một cuộc hôn viên mãn với tình yêu đích thực. Để rồi, sau

chiến tranh, hai con người ấy kết hôn nhưng tâm hồn Mỹ Tiệp luôn bị đè nặng

bởi cảm giác Hồi mới cưới, con tim nàng không chịu rung động, nó cứ lên tiếng

rằng đây không phải người đàn ông của mình, đây là cuộc xô đẩy của chiến

tranh, của bom đạn giặc giã nước lụt bụi cây sạp xuồng [21, tr.52]. Sống cùng

chồng nhưng Mỹ Tiệp luôn cho rằng đây là cuộc hôn nhân do chiến tranh xô

đẩy.Tuyên không là một cán bộ tuyên huấn của thời bao cấp. Nhưng trong cuộc

sống gia đình, anh lại có thái độ hờ hững, ít quan tâm đến vợ con. Điều đó

không hẳn chỉ là do bản tính mà còn có thể do giáo dục, do hoàn cảnh công tác,

do lòng ham muốn quyền lực, nhất là sự ham muốn quyền lực này lại từ

56

nguyên tắc “xin - cho” tạo nên. Chính điều này càng làm cho khoảng cách giữa

hai vợ chồng Tuyên ngày càng xa nhau hơn. Trong khi đó, vợ anh, Mỹ Tiệp lại

luôn khát khao cuộc sống gia đình có tình yêu, mong muốn có sự yêu thương,

chia sẻ, đồng cảm, che chở của người đàn ông trong gia đình.Và rồi nàng lâm

vào một loạt bi kịch dai dẳng, đớn đau trong đời sống vợ chồng không có tình

yêu.Tiệp đã lên tiếng Tôi với anh bị chiến tranh đưa đẩy, tôi thấy không nên

kéo dài cuộc hôn nhân không có tình yêu này! [21, tr.81]. Nàng đã phân tích để

nhận ra mình và chồng chỉ là nạn nhân của chiến tranh, bị chiến tranh đưa đẩy.

Đó là cách nhìn nhận thấu đáo và dũng cảm của Mỹ Tiệp.

Như vậy, với Gia đình bé mọn, Dạ Ngân đã rất thành công khi xây dựng

hình tượng những con người trong xã hội mới khi chiến tranh kết thúc. Theo

đó, những người vì cuộc sống chật vật bám ghì với cuộc sống nghèo túng, cùng

quẫn, một số trở nên thoái hóa. Bên cạnh đó là những người chịu quá nhiều bất

hạnh thì phần lớn là cam chịu số phận (những người đàn bà góa trong gia đình

Mỹ Tiệp).Trong đó, Mỹ Tiệp là một phụ nữ bản lĩnh, không bị cuốn theo guồng

xoáy chung của xã hội, giữa thập niên 80 - 90 của thế kỉ XX, trong cuộc sống,

nàng làm việc theo mong muốn của mình (được cử đi học lớp đào tạo cán bộ

nguồn nhưng nàng từ chối, vì nàng yêu văn chương). Đồng thời, Mỹ Tiệp dám

đối mặt và phân tích cảm xúc của chính bản thân mình để nhận ra chính bản

thân mình để rồi nàng chủ động đơn phương li hôn với người chồng của mình

để sống một cuộc sống khác và mưu cầu hạnh phúc.

Có thể kết luận rằng dư chấn của chiến tranh khiến cho cuộc sống của

nhân dân gặp phải nhiều khốn khó do hoàn cảnh lịch sử, nhưng cũng giúp cho

con người nhìn nhận, khám phá chính bản thân mình.

57

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Hai mươi chương của tiểu thuyết Gia đình bé mọn của nữ văn sĩ Dạ

Ngân là tiếng nói chân thành của cái tôi cá nhân trong cuộc sống đời thường,

trong cuộc sống gia đình và trước dư chấn của chiến tranh.

Trong cuộc sống đời thường, nhân vật Mỹ Tiệp phải đối mặt với bi kịch của

sự vỡ mộng trước cuộc sống thực tại của gia đình và xã hội. Gia đình nhỏ bé của

nàng là gia đình không trọn vẹn và hoàn hảo như người ta vẫn nghĩ.Vì thế, nàng

lâm vào bi kịch của những thất vọng về cuộc sống. Nhưng nàng đã thực hiện

nghĩa vụ sống thật với bản thân, sống thật với những gì mình mong muốn.

Trong cuộc sống gia đình, bi kịch mà nhân vật Mỹ Tiệp vướng phải một

phần là do dư chấn của chiến tranh. Chiến tranh đã khắc dấu ấn của nó lên đời

sống xã hội, lên đời sống gia đình, lên nhân tính, lên tình yêu của một thời kỳ

sau chiến tranh. Khát vọng của người phụ nữ với tâm hồn đa cảm giàu lòng yêu

thương, bước ra từ chiến tranh luôn ý thức được ý nghĩa và giá trị cuộc sống.

Bằng sự trải nghiệm chân thật của bản thân, bằng những nhạy cảm, tác giả đã

gửi gắm những tâm sự chân thật của chính mình, giúp người đọc càng có cơ hội

đến gần hơn với đời người và đời văn Dạ Ngân.

58

Chương 3

PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN CÁI TÔI TRONG

GIA ĐÌNH BÉ MỌN CỦA DẠ NGÂN

3.1. Người kể chuyện

Trong thể loại tự truyện, nhân vật người kể chuyện là nhân vật trung tâm

của tác phẩm, đồng thời là nhân vật mang hình bóng của tác giả với những chi

tiết có thật về cuộc đời, số phận, tính cách. Vì vậy, nghiên cứu nhân vật người

kể chuyện trong tự truyện, vừa giúp người đọc hiểu được nghệ thuật tự sự của

tác giả, vừa giúp tái hiện lại chân dung người viết. Qua đó, người đọc không

chỉ thấy những sự thật “sự kiện” mà còn là những “sự thật nội tâm”, cảm xúc,

suy nghĩ, cách đánh giá của người kể chuyện về chính mình, về con người và

cuộc đời. Đây là một nhân tố quan trọng giúp độc giả có thể giải mã con người

của tác giả.

Thuật ngữ “narrator” (người kể chuyện) là một thuật ngữ công cụ của

tự sự học, được xem là khái niệm trung tâm nhất trong phân tích trần thuật. Đã

có rất nhiều quan điểm khác nhau xung quanh khái niệm này. Nhưng chúng tôi

theo quan điểm của tác giả Trần Đình Sử khi ông cho rằng Người trần thuật

trong văn bản văn học là một hình tượng nghệ thuật phức tạp, mà ngôi kể chỉ

hình thức biểu hiện ước lệ. Người trần thuật vốn không có gì là ngôi kể, mà chỉ

là chủ thể kể. Sự khác biệt của “ngôi thứ nhất”, “ngôi kể thứ ba” chỉ là khác

nhau về mức độ bộc lộ và ẩn giấu của người trần thuật mà thôi. Sự ẩn giấu của

ngôi kể thứ ba làm cho nó gần như vô nhân xưng. Ngôi kể là yếu tố tạo thành

tiếng nói, giọng điệu. Điều quan trọng nữa là kể theo điểm nhìn nào. Đây là

vấn đề tiêu cự trần thuật, là vấn đề phân biệt các hình thức tự sự khác nhau

[30, tr.17]. Như vậy theo Trần Đình Sử, hình tượng người kể chuyện liên

quan đến ngôi kể, điểm nhìn, ngôn ngữ, giọng điệu trong tác phẩm văn

học. Đây chính là những yếu tố nghệ thuật mà thông qua đó, tác giả thể hiện

cái tôi cá nhân.

59

Gia đình bé mọn là cuốn tiểu thuyết thể hiện những bi kịch giằng xé về

hạnh phúc gia đình tình yêu của người phụ nữ. Tác phẩm viết về bi kịch hạnh

phúc đời tư, những trăn trở về tình yêu, hôn nhân, gia đình được thể hiện dưới

hình thức loại thể tiểu thuyết nên việc biểu đạt những ngòi bút của nhà văn vừa

phải sáng tạo nhưng vừa phải thấm đẫm chất trải nghiệm để đủ sức theo đuổi

hành trình dai dẳng bền bỉ của nhân vật trong cuộc khám phá bản thân và kiếm

tìm hạnh phúc sau chiến tranh. Chất trải nghiệm của nhà văn thể hiện qua hình

thức tự truyện giúp người đọc hiểu được một cách thấu đáo hơn nhân vật.

Mặc dù trong tiểu thuyết nói chung, người kể chuyện thường ở ngôi thứ ba

nhưng thông qua điểm nhìn nữ giới kết hợp với phương thức tự thuật, Dạ Ngân

đã đưa những câu chuyện của cuộc đời mình, của giới mình vào trong tiểu

thuyết một cách vừa sâu sắc, vừa kín đáo, tế nhị. Tuy tính chất tự thuật không

trực tiếp lộ diện như mô hình trần thuật ngôi thứ nhất nhưng hình thức kể

chuyện ngôi thứ ba này cũng thể hiện khá sâu sắc những vấn đề liên quan đến

quyền lợi của người phụ nữ. Người đọc cảm nhận được những vấn đề đó một

cách khách quan.

Người kể chuyện với cách kể tự thuật như một phương thức khẳng định

cái tôi cá nhân.Việc đưa những yếu tố có thực trong cuộc đời nhà văn vào trong

tiểu thuyết gắn liền với vấn đề cái tôi tác giả cũng như nhu cầu khẳng định cái

tôi cá nhân ngày càng mạnh mẽ của Dạ Ngân. Có thể nói, chưa bao giờ bi kịch

của một nhà văn nữ có đời sống nội tâm phức tạp ở thời kì hậu chiến lại được

Dạ Ngân miêu tả chân thực đến thế. Trong tâm hồn người phụ nữ ấy luôn có

những cuộc vật lộn, giằng co, đấu tranh đau đớn.Tất cả những cung bậc cảm

xúc của nhân vật nữ chính là một nhà văn được phơi bày đầy đủ, toàn diện.

Nhờ có phương thức trần thuật khách quan ấy, những bi kịch của Mỹ Tiệp

được khắc hoạ đậm nét, giàu sức ám ảnh. Dạ Ngân đúng ở ngôi thứ ba, vì vậy,

nhân vật của bà xuất hiện dưới ngòi bút của bà một cách khách quan. Bà quan

sát những diễn biến tâm lý của nhân vật một cách tỉnh táo, nhìn thẳng vào bản

60

chất của hiện thực để mổ xẻ và phân tích. Có vẻ như nhà văn kể chuyện một

cách lạnh lùng về những bi kịch của con người trong thời kì hậu chiến, với

những dư chấn của chiến tranh. Nhưng không! Chính cách kể chuyện như vậy

người đọc mới thấy hết sự cảm thông thương xót của nhà văn đối với nhân vật.

Phải trải lòng mình với nhân vật, phải thương xót nhân vật của mình biết bao

thì nhà văn mới miêu tả được những ngóc ngách sâu kín trong tâm hồn người

phụ nữ một cách tài tình như thế. Và trên hết, là kể những câu chuyện về mình

như là một một sự tự thú, Dạ Ngân khiến người đọc tự liên hệ, tự cảm nhận

những bi kịch mà bà phải trải qua để chia sẻ, cảm thông. Dạ Ngân dùng tự thuật

như là một cách thức để đưa hiện thực đời sống cá nhân mình vào trong tác

phẩm, để trải lòng mình, để tự thú, để sám hối.

Như vậy, đứng ở ngôi thứ ba, Dạ Ngân kể với giọng điệu trung tính, dửng

dưng, không thể hiện thái độ, cảm xúc. Người kể chuyện kể một cách tĩnh tại

theo lối của máy quay phim để tái hiện cuộc sống, hành động, sự việc từ bên

ngoài. Người kể chuyện thường không dùng những từ mang sắc thái biểu cảm.

Không hề có điểm nhìn bên trong mà chỉ đơn thuần trình bày sự việc từ bên

ngoài, theo kiểu ống kính máy quay. Qua đó, Dạ Ngân giúp người đọc theo dõi

tác phẩm như đang xem một thước phim quay chậm mà từng sự vật hiện lên

như hữu hình, không hề có cảm xúc.Ví dụ, đây là lời cô Tư Ràng của Tiệp khi

bà lên gia đình Tiệp để dàn xếp chuyện trục trặc của vợ chồng nàng Khỏe, khỏe

hết! Nghe chuyện của bây rồi không ai còn dám bịnh hoạn gì nữa. Thôi, đem

hai đứa nhỏ đi đi! [21, tr.89]. Người kể khiến người đọc nhận ra sự giận dỗi

của bà cô. Giọng của Tiệp nói với chồng mình khi quyết định đi Đồng Đưng

tìm cảm hứng sáng tác (khi hai người đã trục trặc) Ngày mai tôi đi công tác

Đồng Đưng mấy ngày. Trưa anh phải về lo cơm cho hai đứa nhỏ với lo heo

cúi [21, tr.107], Ta cảm giác lời nói chỉ có tính chất thông báo mà không hề có

cảm xúc. Hoặc Cũng như mọi khi, quay mặt vào hội trường, Tiệp lại bắt gặp

Tuyên trong góc trên của gian phòng, chỗ chiếc bàn thứ hai sau lưng vị trí cố

61

định dành cho Hai Khâm. Công việc hàng tuần của chồng nàng là chạy sang

mấy cái ngành lính-lúa-lương để lấy số liệu gọi là tiến độ trong tuần để công

bố - có so sánh và nhận xét - cho cuộc họp báo bắt buộc vào mỗi sáng thứ

Hai…[21, tr.63]. Người kể chuyện không hề bày tỏ thái độ gì, cũng giống như

sự dửng dưng của Mỹ Tiệp khi bắt gặp hình ảnh Hai Tuyên, chồng nàng trong

buổi họp. Qua giọng điệu của người kể chuyện, cho ta thấy được tính cách,

hành động, thái độ sự phân hóa trong tâm lí của các nhân vật.

Như đã biết, khuynh hướng tự truyện trong tiểu thuyết giúp người đọc

không chỉ giải mã con người tác giả và thời đại qua những chi tiết gắn với tiểu

sử, cuộc đời thật mà còn qua những kinh nghiệm sống phong phú và quý

báu.Tiểu thuyết lấy chất liệu từ bản thân cuộc đời riêng tư của tác giả, những

chi tiết mang tính tiểu sử của chính nhà văn, bộc lộ cái tôi cá nhân rõ nét. Tuy

vậy, với vai trò của người kể chuyện, người đọc nhận ra bóng dáng Dạ Ngân

trong Mỹ Tiệp chủ yếu là nhờ nội dung tâm lí xác thực hơn là qua những chi

tiết tiểu sử. Cái tôi mang màu sắc tự thuật đã trở thành một vật liệu, một thủ

pháp. Dạ Ngân biến mình thành nhân vật trong cuốn tiểu thuyết không chỉ để

“khám phá mình” mà còn tạo hiệu ứng, tạo cảm giác giả - thật lẫn lộn. Dạ Ngân

sử dụng cái tôi như một yếu tố kỹ thuật nhằm mục đích đổi mới nghệ thuật viết.

3.2. Ngôn ngữ

Ngôn từ văn học thể hiện đặc điểm tư duy nghệ thuật và phong cách nghệ

thuật của nhà văn. Trong tác phẩm Gia đình bé mọn, Dạ Ngân- một nhà văn

đến từ miệt vườn Nam Bộ nên ngôn ngữ trong tác phẩm là lớp từ ngữ mang

đậm chất Nam Bộ.

Từ địa phương là những từ ngữ được người dân bản ngữ ở một vùng nào

đó sử dụng.Vì vậy, từ toàn dân có tác dụng nhấn mạnh tính chất riêng biệt về

khu vực, địa bàn của hiện tượng hoặc nhân vật được miêu tả. Ngôn ngữ không

chỉ là chất liệu quan trọng làm nên tác phẩm nghệ thuật mà nó còn góp phần

thể hiện phong cách nghệ thuật của một tác giả văn học. Ngôn ngữ trong tác

62

phẩm Gia đình bé mọn đã phần nào mang nét đặc trưng riêng của vùng đất

Nam Bộ thể hiện tình yêu quê hương sâu sắc của Dạ Ngân. Bằng nghệ thuật sử

dụng ngôn ngữ của mình, Dạ Ngân đã cho người đọc thấy được bức tranh hiện

thực đời sống cũng như văn hóa sinh hoạt của người Nam Bộ.

Trước hết, đó là văn tả cảnh thiên nhiên, tả cảnh cuộc sống sinh hoạt của

người dân Nam Bộ. Dạ Ngân là một nhà văn nữ miệt vườn Nam Bộ, chính vì

thế không lạ gì khi bắt gặp một khối lượng tương đối lớn tả cảnh Nam Bộ.

Cảnh sông quê hương Mỹ Tiệp hiền hòa Tiếng lục bình rì rầm trên sông Cái,

tiếng mái chèo ao đó lướt đi mơ hồ, tiếng biền lá dừa nước bên kia thở dài,

tiếng ký ức của mương của liếp run rẩy... mọi thứ hoà quyện một cách buồn

rầu mà vẫn vô cùng dễ chịu [21, tr.15]. Cảnh rạch cái Bần một bãi cỏ bên con

rạch Cái Bần gần nhà, dưới bóng một cây ô môi đang thai nghén những chùm

hoa lụa là sẽ nở bừng sau Tết âm lịch. Vựa củi đước gần đó bốc lên mùi vỏ cây

mục thấm nước, bên nầy là cái quán giải khát cất chồm ra kênh, nơi sáng nào

nàng cũng ghé qua thả túi đá cục xuống và nhận về mấy trăm đồng tiền kẽm.

Mặt nước tôi tối buồn buồn, mấy chiếc ghe chèo yên lặng lướt qua, nhánh sông

nhỏ chỉ thiếu bần và đom đóm nữa là quay về đúng cái thời nó có tên là Cái

Bần [21, tr.78]. Cảnh sông nước Đồng Đưng, nơi Mỹ Tiệp và Đính gặp nhau

lần thứ hai Chiếc đò thật ngon đà giữa dòng kênh xương sống ít bị lục bình

quấy nhiễu như những con kinh nhánh Tiệp đi ban sáng, nga ngễ và rau dừa

rau ngổ hoang hai bên bờ được khai thông khiến mặt kênh rộng như gấp ba lần

hồi xưa. Vẻ háo hức trai trẻ của Đính với những mét kênh, những cái cây,

những nếp nhà, những ngã ba ngã tư liên tiếp của mạng nhện kênh rạch Đồng

Đưng [21, tr.124]. Nam Bộ là vùng đất có nhiều kênh rạch cho nên có nhiều từ

ngữ chỉ những sự vật, hiện tượng liên quan đến sông nước rất đặc trưng: xuồng,

tam bản, ghe, chèo, máy mui vuông, vỏ lãi, mui bạt, mui ván, chân vịt, tàu

đò, con rạch, mương, vàm kênh, con đập… những sự vật, hiện tượng này gắn

bó, quen thuộc với cuộc sống hàng ngày của con người vùng sông nước lắm

kênh, nhiều rạch.

63

Những từ ngữ chỉ tên những đồ dùng, vật dụng gắn bó với đời sống hàng

ngày của con người Nam Bộ cũng được khai thác triệt để và vận dụng khá

thành công như: chuối dà, tro trấu, võng, cái máng xối, mùng, khăn rằn, củi

dừa, chiếu cói, lồng bàn, cái gáo nhôm, cây ô môi, củi đước,chiếc Kole Bốn…

Đây là những từ ngữ được tác giả sử dụng một cách tự nhiên tạo nên sự gần

gũi, tất cả đều gợi lên dáng hình thiên nhiên, con người xứ sở miền Nam. Đặc

biệt thú vị hơn với chi tiết nền đất nhiều vẩy rồng (Nhiều nền nhà ở Nam Bộ là

nền đất, nông dân vùng sông nước chủ yếu là đi chân đất, vì thế vào mùa mưa

nếu đi ra đi vào nhiều sẽ tạo nên nhiều mô đất nho nhỏ, nhìn từ xa giống như

vẩy rồng). Phải là người xuất thân ở miệt vườn Nam Bộ mới hiểu điều đó.

Những từ xưng hô mang đậm chất đồng bằng sông Cửu Long:“tui”, “tư”,

“bả”, “ông”,…thể hiện chất dân dã nơi thôn quê của con người nơi đây. Cách

xưng gọi, dùng từ xưng gọi trong gia đình theo thứ tự: “cô Tư”,“chú Tư”,“chị

Ba”, “cô Tám”, chị Hai, … ; từ xưng gọi họ hàng như:“dì Út”, “dì Mỹ

Nghĩa”, “cậu Năm Trường”, “mợ Năm Trường”,… tạo dấu ấn riêng, ấn tượng

trong hệ thống từ ngữ xưng gọi của phương ngữ Nam Bộ.

Hệ thống từ ngữ thể hiện sắc thái biểu cảm được Dạ Ngân sử dụng mang

đậm chất Nam Bộ như cuối câu cảm thán hay câu nghi vấn “chớ”,“chớ

gì”,“quá chừng”,“hả”,“ghê”,”trời”, “nghen”,”làm chi”,“há”,…nhằm thể

hiện tính cách vui tươi, hài hước của quê hương. Dạ Ngân còn sử dụng những

từ ngữ giàu hình ảnh giàu yếu tố cụ thể, cách diễn đạt không cầu kì, gọt giũa

mà dễ tiếp nhận do lối liên tưởng, so sánh dễ hiểu như: cuống nhau gia tộc lắm

lúc giống như sợi thòng lọng dai dẳng…; tàu mui ván lừ đừ như một căn nhà đi

máy giữa…; hành khách quá lèo tèo như những con muỗi…; ống điếu thuốc

lào như một họng súng…; bước đi như thể đang có duyệt binh…; bầu trời tối

sầm như sắp chạng vạng…; cổ họng khát khô như chạy giữa sa mạc một

mình…; xuồng ghe như một đàn kiến…;,…Chính những yếu tố này tạo nên chất

văn rất riêng của nhà văn Nam Bộ, chỉ nhà văn nam bộ mới có.

64

Đồng thời, các địa danh Nam Bộ gắn liền với những gì quen thuộc,

gần gũi như: kinh Xáng Chủ, sông Cái, rạch Cái Bần, U Minh, sông Hậu,

sông Tiền, thị trấn Cầu Quay, ngã ba Cây Gòn, kinh Cạn, kênh Cây Gáo,

Kinh Đứng, Hóc Môn, Bà Điểm…Qua các địa danh Nam Bộ, người đọc

thấy được cách định danh hòa thuận với tự nhiên của con người vùng đồng

bằng sông nước.

Bên cạnh đó, Dạ Ngân dùng khá nhiều lớp từ láy đặc sệt chất Nam Bộ

trong Gia đình bé mọn, như: ngon ngót, lạt xạt, sứt sẹo, chạng vạng, lọm cọm,

ngúc ngoắc, nhẹ nhõm, chói lói, bùng nhùng, khách khứa, dai dẳng, nhanh

nhẩu, giờ giấc, ngán ngẩm, le lói, luộm thuộm, hôi hám, xình xịch, nhấp nhổm,

kèo nhèo, vơ vẩn, lúp xúp, nhớn nhác, chần chừ, gốc gác, quăn queo, sồn sột,

phập phồng, thênh thang, rỗi rãi, ngóp, lừng khừng, ngờ ngợ, tập tọng, dong

dãi, xởi lởi, hào hển, lăng xăng, lẩy bẩy, suôn sẻ, rình rập, lụp cụp, rục rịch, ra

rả,… Những từ láy rất Nam Bộ này được dùng một cách tự nhiên cho thấy sự

gần gũi với nếp sống, nếp nghĩ trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của con người

Nam Bộ. Chúng không chỉ gợi hình, tượng thanh mà còn có giá trị gợi tả. Mặt

khác, sử dụng từ láy còn thể hiện rõ ràng, cụ thể đối tượng được nói tới một

cách sinh động và hấp dẫn, ví dụ như khi miêu tả cái nắng của mùa mưa, nhà

văn đã dùng từ le lói Nhà chờ mái tôn thấp tè hầm hập khá sớm dưới ánh nắng

le lói mà gay gắt của mùa mưa [21, tr.30]. Chỉ một câu văn thôi, Dạ Ngân đã

diễn tả được cái nắng đặc trưng của vùng sông nước. Đó là xu hướng thể hiện

cái sinh động, linh hoạt của người dân miệt vườn. Nó còn thể hiện tính chất

phóng khoáng của con người miệt vườn Nam Bộ.

Dạ Ngân dùng nhiều những cụm từ cố định cho lời nói của nhân vật thêm

sinh động như: xuôi chèo mát mái, cơm lành canh ngọt, trống đánh xuôi kèn

thổi ngược, tránh voi chả xấu mặt nào, khỉ ho cò gáy, mẹ tròn con vuông, đỏ

mặt tía tai, tốt khoe xấu che,…Những cụm từ số định này góp phần làm cho

câu văn gợi hình gợi cảm, vì thế, thêm phần hấp dẫn, thú vị.

65

Do không gian nghệ thuật của tiểu thuyết Gia đình bé mọn trải dài từ Nam

ra Bắc theo hành trình kiếm tìm hạnh phúc của nhân vật, vì thế, Dạ Ngân luân

phiên sử dụng vốn ngôn ngữ ba miền theo từng hoàn cảnh diễn ra trong cốt

truyện. Chất dân dã, mộc mạc trong lời ăn tiếng nói của người dân Nam Bộ: Tư

chẳng thích ăn gì. Tư chỉ muốn tụi con đầm ấm, lúc đó húp nước mắm suông

Tư cũng thấy ngon.! [21, tr.88], chất đặc trưng, nền nã, ngọt ngào của người

dân nơi chó ăn đá, gà ăn sỏi - miền Trung Anh gọi thì tôi có máy mô? Chị ơi,

mệ tui ngoài nớ ốm nặng tui muốn biết cụ thể để còn thu xếp! [21, tr.12], và

chất cổ kính, dân tộc, chuẩn của người dân Bắc Bộ Bà nội bảo lát nữa cô Tiệp

đến chỗ cô Hòa để gặp anh Hoàng. Bà nói anh Bảo đèo cô, bố đừng có mà đèo

nhá [21, tr.235], được sử dụng đan xen, lồng ghép vào nhau tạo nên sự mới lạ,

hấp dẫn trên từng trang viết, đã tạo nên một dấu ấn đậm nét trong trang văn

Dạ Ngân.

3.3. Giọng điệu

Giọng điệu cũng là một yếu tố quan trọng để nhà văn bày tỏ quan điểm,

thái độ của mình về nhân vật. Giọng điệu (tiếng Anh: tone) là thái độ, tình cảm,

lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn với hiện tượng được miêu tả thể hiện

trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách

cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm,…”

[49]. “Giọng điệu là một yếu tố đặc trưng của hình tượng tác giả trong tác

phẩm. Nếu như trong đời sống, ta thường chỉ nghe giọng nói nhận ra con

người thì trong văn học, giọng điệu giúp chúng ta nhận ra tác giả. Người đọc

có thể nhận thấy tất cả chiều sâu tư tưởng thái độ, vị thế, phong cách, tài năng

cũng như sở trường ngôn ngữ, cảm hứng sáng tạo của người nghệ sĩ thông qua

giọng điệu. Nền tảng của giọng điệu là cảm hứng chủ đạo của nhà văn. Các nhà

văn nói chung thường sử dụng một giọng điệu chủ đạo phù hợp với thái độ

nghệ thuật của mình. Nếu như Đỗ Hoàng Diệu thường có giọng văn lạnh lùng,

Phan Thị Vàng Anh giọng điệu sâu cay, Nguyễn Ngọc Tư là giọng điệu dân dã

66

mộc mạc thì Với Dạ Ngân, trong Gia đình bé mọn có giọng điệu đặc trưng của

một nhà văn miệt vườn và giọng điệu đa thanh. Khi thì tiểu thuyết mang giọng

dửng dưng của người trần thuật, lúc thì có giọng triết lý, khi lại là giọng châm

biếm nhẹ nhàng…

Giọng điệu trần thuật, với vai trò của người kể chuyện, tác giả sử dụng

những câu văn ngắn gọn, thường chỉ gồm chủ ngữ và vị ngữ, thậm chí chủ ngữ

cũng bị lược bỏ. Chính vì vậy, các câu văn chỉ có nội dung thông báo, không hề

có lời bình luận thậm chí không hề có sắc thái biểu cảm. Với giọng kể trần

thuật này sẽ giúp cho nhân vật tự nói về cuộc đời mình và câu chuyện về đời

mình ấy sẽ hiện lên một cách chân thực nhất.

Giọng điệu triết lí là giọng được thể hiện qua tính chất khẳng định hay

phủ định nhằm nhấn mạnh những vấn đề mà nhà văn cần thông điệp, triết luận

cho người đọc [8, tr.5].Trong Gia đình bé mọn, Dạ Ngân dùng giọng điệu triết

lí sâu sắc trong những đoạn thể hiện quan niệm về văn chương của Tiệp. Chẳng

hạn Văn chương với nàng giống một thứ tín ngưỡng hơn là thứ phương tiện

[21, tr.196]. Như vậy, đối với Tiệp, văn chương là thứ nàng tôn kính, ái mộ và

nguyện hết mình vì nó. Tuy vậy, trong những hoàn cảnh nhất định nhất là khi

đối diện với cô Tư và các chị em trong nhà để giải quyết chuyện vợ chồng Tiệp

thì văn chương đối với nàng thật dị thường và phù phiếm vì nó đi khác với

những quan niệm truyền thống của gia đình: Quả tình, giữa nàng và những

người thân là hai thế giới, phía kia không có tầng đầu địa ngục, không có Sông

Đông êm đềm, không có Người Tình, không có cả Rôbinxơn và Những người

khốn khổ còn nàng thì lúc nào cũng sách vở bút mực, xê dịch và ham muốn.

Những lúc như lúc nầy Tiệp thấy công việc viết lách của mình thật dị thường,

những suy nghiệm của mình thật phù phiếm, những việc khiến mình đau khổ

hoặc khát thèm thật vô bổ (…) Những bài báo của nàng còn có thể hiểu được,

thứ văn chương mà nàng lọm cọm hàng đêm kia thì thật đáng hoài nghi vì nó

không có hình thù, không có quyền lợi, suy ra nó hư vô và không quan trọng

67

[21, tr.18,19]. Hay giọng triết lí về danh dự, lẽ sống Danh dự là đàng hoàng,

mà đàng hoàng là thể diện, thể diện là tốt khoe xấu che [21, tr.79]. Đó là thứ lý

thuyết truyền thống gia đình, là tôn ti là quy tắc mà từ bé Tiệp đã được cô Tư

Ràng dạy dỗ về sự “đàng hoàng”. Nàng hồ nghi, nàng mổ xẻ tâm trạng của

chính mình. Phải chăng một người như nàng dám ngoi lên, dám sống thật với

mình, không chấp nhận cam chịu số phận mà vùng vẫy để thoát khỏi sự ràng

buộc đau khổ đó lại không đàng hoàng? Vì thế nàng luôn dằn vặt và bị ám ảnh

vì đạo lí đó, và hơn hết nàng cũng không muốn mình là nguyên nhân làm sụp

đổ đi nguyên tắc sống mà bấy lâu gia tộc nàng luôn gìn giữ. Giọng triết lí về

“sự đời”…khi người ta nhân danh đạo đức để ném đá một người đàn bà thì

Chúa cũng không cứu vớt nổi linh hồn họ [21, tr.182]. Theo Mỹ Tiệp, cái vỏ

của nhân danh đạo đức kia không thể thế là “khuôn vàng, thước ngọc” mà xã

hội ấy quy định để áp dụng đối với một người đàn bà là nàng. Và đây là triết lí

về nghĩa vụ của một người mẹ: Tiền không là gì cả trong quan niệm của Tiệp

nhưng tiền lúc đó là lương tâm của người mẹ, một người mẹ âm thầm biết lỗi vì

cái đời đổ vỡ của mình đã làm liên lụy suốt cả cuộc đời các con [21, tr.202].

Tiệp tự vấn lương tâm bởi nàng thấy mình là người gieo rắc những bất hạnh

cho các con.Và rồi nàng lâm vào bi kịch tưởng chừng khó lòng mà thoát ra

được vì mâu thuẫn giữa lương tâm của một người mẹ với khát vọng chính đáng

của bản thân về hạnh phúc.

Như vậy, bằng giọng điệu triết lý, Dạ Ngân cho độc giả thấy được những

suy nghĩ của một nhà văn về những gì xảy ra và liên quan đến cuộc đời nhân

vật. Dạ Ngân muốn để cho nhân vật của mình nói lên những suy nghĩ, tư tưởng,

trạng thái diễn biến bên trong nhân vật. Những độc thoại nội tâm của nhân vật

cho thấy sự đấu tranh giữa bổn phận, trách nhiệm của bản thân Mỹ Tiệp với

chính mình và với các con. Qua đó thấy được bi kịch dai dẳng, khốc liệt nằm

trong góc khuất của tâm hồn người đàn bà giữa hạnh phúc đời thường.

68

Cùng với giọng điệu triết lý, bằng ngòi bút hiện thực, tiểu thuyết Gia đình

bé mọn còn mang giọng điệu châm biếm, giễu nhại nhẹ nhàng nhưng sâu cay

để nói lên bối cảnh thời kì bao cấp, một thời kì hậu chiến với nhiều khó khăn,

bất cập. Qua đó, Dạ Ngân đã tái hiện lại thực trạng cuộc sống, con người thời

kì bao cấp đầy khó khăn: Sau khi đi chè chén gì đó bên chợ về, đôi vợ chồng

nhà tàu lục cục ban sáng ngạc nhiên nhìn thấy trong tàu của mình một đám

hành khách ngồi sẵn như thể đang làm reo với họ. Bà chủ khoảng năm mươi

tuổi, da rất hồng và tóc rất mượt, kiểu đàn bà má đỏ và gàu sòng trong câu ca

dao cổ cười hăng hắc phô cả hai hàm răng vàng choé [21, tr.12]; Tiệp cứ phải

ngoái cổ ra nhìn một đám đông kẻ đứng người ngồi như họp chợ trên một đoạn

viả hè vung vãi rác que kem, một ngài đại uý quân phục quân hàm hẳn hoi đi

từ trong chỗ xếp hàng ra vừa đi vừa mút một cách rất là nhịp nhàng cả hai que

kem trên tay [21, tr.126]; Hà Nội đã cơ bản hoàn thành xong quá trình luộm

thuộm, cũng như mấy ông Lâm nghiệp đã cơ bản phá xong rừng ! Người ta làm

thế để chống ăn cắp. Chỉ có những kẻ ăn cắp thành thần thì mới nghĩ ra cách

chống ăn cắp độc chiêu thế này [21, tr.142],… tất cả bằng một giọng điệu châm

biếm, giễu nhại nhẹ nhàng pha chút hóm hỉnh nhằm làm bật lên thái độ dửng

dưng nhưng xót xa trước thực trạng đời sống đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ.

Đó là thực trạng cuộc sống thời bao cấp, con người vừa là nạn nhân của chiến

tranh vừa là “sản phẩm” của đời sống mới. Hiệu quả thẩm mỹ của giọng điệu

giễu nhại trong Gia đình bé mọn đem đến cho người đọc nhiều thông tin vừa

mang tính tự nhiên, hiện thực vừa bất ngờ, thú vị.

3.4. Không gian và thời gian nghệ thuật

3.4.1. Không gian nghệ thuật

3.4.1.1. Khái niệm không gian nghệ thuật

Theo cuốn 150 thuật ngữ văn học của Lại Nguyên Ân: Không gian nghệ

thuật là hình thức bên trong của hiện tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể

của nó. Sự miêu tả, trần thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một

69

điểm nhìn, diễn ra trong một trường nhìn nhất định, qua đó thế giới nghệ thuật

cụ thể, cảm tính bộc lộ toàn bộ quảng tính của nó: cái này bên cạnh cái kia,

liên tục, cách quãng, tiếp nối, cao, thấp, xa, gần, rộng, dài, tạo thành viễn cảnh

nghệ thuật [3, tr. 160].

Còn trong giáo trình Một số vấn đề Thi pháp học hiện đại, Gs Trần

Đình Sử có nói: Không gian nghệ thuật là phạm trù của hình thức nghệ

thuật là phương thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật. Nếu thế

giới nghệ thuật là thế giới của cái nhìn và mang ý nghĩa thì không gian

nghệ thuật là trường nhìn mở ra từ trường nhìn, cách nhìn. Không gian ấy

có thể rất mênh mang, có thể rất eo hẹp. Không gian này cũng có viễn

cảnh, giá trị tình cảm. Tình cảm có thể làm cho không gian bao la thêm hay

gò bó chật chội thêm [26, tr.42].

Như vậy, không gian nghệ thuật là một trong những yếu tố quan trọng làm

nên giá trị, ý nghĩa của tác phẩm văn học. Không gian trong tác phẩm được tác

giả lựa chọn và sắp xếp để đưa người đọc vào một thế giới riêng mà trong đó

cuộc sống thực tại đã được thu nhỏ lại và thể hiện theo một nội dung nhất định.

Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật. Đó là không

gian tồn tại, sinh hoạt của nhân vật, là bối cảnh để nhân vật thể hiện tính cách,

suy nghĩ, hành động. Không gian nghệ thuật vừa mô tả hiện thực, có dáng dấp

của hiện thực đời sống, vừa mang hình tượng, là phương tiện nghệ thuật.

Không gian nghệ thuật gắn liền với điểm nhìn của tác giả.Thông qua không

gian nghệ thuật, độc giả hiểu được suy nghĩ, tình cảm, quan điểm của tác giả

đối với nhân vật, đối với các sự việc.

3.4.1.2. Không gian nghệ thuật trong Gia đình bé mọn

* Không gian xã hội

Không gian nghệ thuật trong Gia đình bé mọn chủ yếu là không gian thực,

không gian của bối cảnh xã hội thời kì bao cấp. Lấy bối cảnh là không gian xã

hội thời bao cấp với cuộc sống hiện lên đầy khó khăn, đói khổ, Dạ Ngân thể

70

hiện những hệ quả của chiến tranh đối với đời sống vật chất và tình thần của xã

hội. Đồng thời, với trật tự thời gian đan xen, xáo trộn Dạ Ngân đã kết hợp tài

tình ba tuyến không gian chủ đạo trong tác phẩm: không gian chiến tranh thông

qua hồi ức của nhân vật, không gian hiện tại đang xảy ra gắn với những tình

huống, sự kiện ở miền Nam và không gian miền Bắc với thời kì bao cấp. Qua

đó góp phần tạo nên mạch hấp dẫn, sinh động cho câu chuyện.

Không gian hồi tưởng chiến tranh: Sự kiện hồi tưởng hiện ra trong kí ức

của Tiệp khi cô Tư Ràng lên giàn xếp chuyện vợ chồng nàng là không gian của

cái chết đang đến gần khi cùng Tuyên trú trong công sự ngập nước (chương 8):

Giữa lục bình ở một ngã ba toạ độ chết của vùng căn cứ Đồng Đưng (…) Tiệp

nhảy ùm xuống kênh, không biết bơi (…) Từ đằng lái Tuyên bò lom khom trong

tiếng nổ nắm tóc Tiệp kéo lên “Cầm dầm bơi ngược lại sau lên bờ kênh may ra

có công sự. Quả nhiên, cả hai tìm thấy một cái công sự không nắp dài dài như

cái lỗ huyệt dưới một gốc trâm bầu, nước ngập tới cổ . Tuyên lấy mất

sự trinh tiết của Tiệp để rồi có ân tình, có kỷ niệm sống chết và có cả chữ tín

trong sự trao gửi tiết trinh. Kí ức chiến tranh còn thể hiện qua dòng kỉ niệm

xúc động với chú Tư Thọ, người cha thứ hai của Tiệp đã chia sẻ với nhau từng

thước đường kênh rạch, chia nhau từng đêm trăng sao, chia nhau từng bài hát,

từng bài thơ trên đài qua cái radio Nhật nhỏ như quyển vở để trên sạp xuồng,

chia nhau cả những lần hụt chết, như cha con, như thầy trò, như bạn bè, như

mọi người tri kỷ yêu dấu nhau [23, tr.113]. Không gian hồi ức gợi lại những kỉ

niệm về chiến tranh thật tàn nhẫn và ác liệt.

Không gian hiện tại trong Gia đình bé mọn gắn với thời kì bao cấp sau

chiến tranh, có không gian xã hội và không gian gia đình. Trong đó, có sự đan

xen không gian giữa miền Nam và miền Bắc với những sự kiện xoay quanh

cuộc đời Mỹ Tiệp.

Trước tiên, đó là không gian xã hội miền Nam và miền Bắc sau chiến

tranh. Qua ngòi bút của Dạ Ngân, không gian miền Nam là hình ảnh miệt vườn

71

sông nước quê hương Mỹ Tiệp với những dòng sông nặng phù sa, những con

kênh, mương, ao tù. Trong không gian ấy, cảnh vật hiện lên rất đặc trưng, gần

gũi và giản dị nhưng cũng rất lộn xộn: xuồng và tam bản đi chèo, thỉnh thoảng

một chiếc tàu máy mui vuông thành viên của hệ thống chuyên chở quốc doanh

từ vàm sông đi vào mang than củi, lúa gạo và chuối dà U Minh lên thị xã hoặc

đi xa hơn nữa (…). Bến tàu đò nằm tách biệt với bãi chợ, những chiếc vỏ lãi

mui bạt dùng làm đò dọc đường gần bập bềnh đeo biển số hợp doanh thả

khách từ sớm và đang nằm không để chờ khách lượt về, cỏ và rơm rác còn bám

trong chân vịt máy đuôi tôm như một sự buông xuôi, cẩu thả [21, tr.28].

Bên cạnh đó, không gian miền Bắc hiện lên với Hà Nội nhìn chạm mặt lại

giống một người già chậm chạp, rách rưới nhưng chắc chắn là rất kiêu hãnh vì

vẻ rêu phong đặc sắc của mình” và với “những cuốc xe buýt sệt không khí dẫm

đạp thô lỗ, với mùi thum thủm rên rỉ trong mọi xó xỉnh [21, tr.160-161], với

những khu chung cư là những ngôi nhà tầng lắp ghép đơn điệu sơ sài, với

những dãy xếp hàng nào là nón mê, gạch vỡ,…. Không gian ấy cho người đọc

cảm nhận được một cuộc sống bệ rạc, nghèo nàn của con người Hà Nội sau sự

tàn phá của chiến tranh.

* Không gian gia đình

Không gian gia đình hiện lên khá dày đặc trong tác phẩm. Đó là gia đình

của Mỹ Tiệp ở quê với các thế hệ đàn bà góa, gia đình của Tiệp với Tuyên, gia

đình của Tiệp với Đính ở Hà Nội.

Không gian gia đình truyền thống với cô Tư Ràng, má Tiệp, chị gái và em

gái Tiệp, tất cả đều góa chồng do nguyên nhân chiến tranh. Tuy vậy, hiện lên

trong không gian này là một gia đình nền nếp, gia giáo với thủ lĩnh cô Tư Ràng

của Mỹ Tiệp. Trong không gian ấy là Những người đàn bà rất biết tận dụng sự

chi phối ấy chỉ quan tâm đến tôn ti và trật tự, đến công dung và ngôn hạnh cổ

truyền, đến yên ổn và sung túc, ai là cán bộ thì phải làm rạng danh thân tộc

bằng cương vị ngày một cao hơn, ai là nông dân thì phải chăm chỉ và giỏi

72

nhang đèn. Những tôn ti, phép tắc trong gia đình được Dạ Ngân tái hiện lên

góp phần là bật nổi cái khuôn khổ gia đình truyền thống với giáo điều danh dự

là nền tảng.Và những người đi ngược lại những chuẩn mực được đề ra ấy sẽ

phải bị băm vằm nhiều lần vì đã làm lung lay sợi dây bện bằng nhiều sự hi sinh

của nhiều người trong suốt nửa thế kỉ qua… [23, tr.24]. Trong không gian ấy,

mọi thành viên đừng phải hành động theo khuôn phép. Vậy mà Tiệp đã phá vỡ

khuôn phép ấy để rồi Tiệp ngồi lúc lắc hết nhìn ngọn đèn ống khói tới nhìn bà

cô và nhìn bà chị cả, ánh mắt ngao ngán cùng cực.Vòng vây của nàng là những

bà goá, cô goá, má goá, chị goá, cô em út cũng goá, bốn bức tường gương mà

nếu nàng soi vào thì nàng phải lập tức quên tuổi trẻ và khát vọng của mình đi

để nhớ rằng không thể so sánh nỗi bất hạnh nào với nỗi bất hạnh của những

người goá bụa [21, tr.22].

Không gian gia đình của Tiệp với chồng là Hai Tuyên mà theo cô Tư

Ràng thì giờ củi nỏ hay củi mục gì thì cũng phải vì danh dự gia đình mà ráng

chớ !.Trong gia đình ấy, Mỹ Tiệp là người trụ cột, bởi Tuyên không đóng ngọt

một cây đinh hay chống được một chỗ dột trên mái trong khi tiếng khen về anh

luôn dội đến tai vợ: Tay nầy chịu khó, tận tâm, vững vàng, tương lai lắm!

[23, tr.75]. Không gian gia đình lần đầu dọn đến căn nhà, Tiệp đã cảm thấy

thất vọng ghê bởi Trong khi nàng đi dọc căn nhà hình ống, tần ngần với chiếc

mùng vải xập xệ trên chiếc giường sắt trong bếp (…) trong lúc nàng còn bận

tẩn mẩn với trái tim thương vay khóc mướn mà Hai Tuyên không đánh giá cao

thì từ gian trên có tiếng đổ vỡ ầm ầm. Thì ra Tuyên đã gạt đổ bát lư hương

bằng gốm trên tủ thờ nhà họ, gạt luôn giá ảnh Thích ca trên cao - trong nhà

của một cán bộ tương lai đầu tỉnh dĩ nhiên sẽ không có nhang khói và phật

phiếc gì cả [21, tr.110]. Chỉ một đoạn văn ngắn miêu tả không gian gia đình,

tác giả đã phần nào cho thấy sự khuôn mẫu trong cách sống của gia chủ bởi

Tuyên xác định sẽ là một cán bộ tương lai đầu tỉnh. Đây cũng chính là lẽ sống,

là mục đích suốt đời của Tuyên, chứ không phải là gia đình, vợ con.Vì thế, anh

73

để vợ sinh con 1 mình trong cả hai lần sinh. Trong những lần kế hoạch, anh để

vợ mình phải chịu đựng nỗi đau thể xác và tinh thần trong những lần nạo phá

một mình mà không có chồng đi cùng để động viên, chăm sóc. Không thế sống

mãi với không gian tù túng chật hẹp ấy, Tiệp đã lên tiếng từ bỏ nó bằng một

thái độ dứt khoát mạnh mẽ để đi tìm hạnh phúc đích thực.Và hành trình ấy phải

trả nhiều cái giá rất đắt mới có thể đến được.

Không gian gia đình bé mọn của Tiệp với Viết Đính ở Hà Nội sau 11 năm

người Nam kẻ Bắc, với những dằn dặt, day dứt mà vì nó, Tiệp đã bị gia đình

ruồng bỏ, và chấp nhận xa hai con: Căn hộ độc một phòng, vuông sân cơi nới

hùn với dưới chưa có tiền láng xi măng trông lỗ chỗ nghèo khó, bàn làm việc

kê sát với chiếc giường thước hai, chiếc bàn thờ gá vào vách tường, nơi từ nay

nàng sẽ chính danh ôm hương khói cùng với Đính [23, tr.278]. Gia đình bé

mọn ấy đúng với cả nghĩa đen và nghĩa bóng.Trong gia đình ấy, mặc dù hành

trình tìm hạnh phúc của chủ nhân đã đến đích, nhưng tâm trạng của nàng luôn

mâu thuẫn giằng xé khôn nguôi.

Như vậy, không gian trong tiểu thuyết Gia đình bé mọn được Dạ Ngân sắp

xếp với sự chuyển động nhanh theo dòng cảm xúc của nhân vật. Mỗi không

gian hiện lên là gắn liền với một sự kiện, một lát cắt cuộc đời nhân vật mà

không một không gian nào là thừa thãi, là dư thừa. Đặc biệt, không gian ấy

giúp cho người đọc cảm nhận về thời kì bao cấp đầy chật vật của cả dân tộc sau

chiến tranh.

3.4.2. Thời gian nghệ thuật

3.4.2.1. Khái niệm thời gian nghệ thuật

Theo cuốn 150 thuật ngữ văn học của lại Nguyên Ân: Thời gian nghệ

thuật là hình thức nội tại của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của

nó. Cũng như không gian nghệ thuật, sự miêu tả trần thuật trong văn học nghệ

thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn nhất định trong thế giới. Và cái

được trần thuật bao giờ cũng diễn ra trong thời gian, được biết qua thời gian

74

trần thuật. Sự phối hợp hai yếu thời gian này tạo thành thời gian nghệ thuật,

một hiện tượng ước lệ chỉ có trong thế giới nghệ thuật [3, tr.322].

Giáo trình Một số vấn đề Thi pháp học hiện đại của Trần Đình Sử cho

rằng: Cũng như không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật là phạm trù của

hình thức nghệ thuật, thể hiện phương thức tồn tại và triển khai của thế giới

nghệ thuật. Nếu thế giới thực tại chỉ tồn tại trong không gian và thời gian, thì

cũng như thế, thế giới nghệ thuật chỉ tồn tại trong không gian và thời gian nghệ

thuật. Thời gian nghệ thuật là cái thời gian được cảm nhận bằng tâm lý, qua

chuỗi liên tục các biến đổi (biến cố) có ý nghĩa thẩm mỹ xảy ra trong thế giới

nghệ thuật. Là thời gian được cảm nhận bằng tâm lý và mang ý nghĩa thẩm mỹ

nên thời gian nghệ thuật khác với thời gian khách quan đo bằng lịch và đồng

hồ, nó có thể đảo ngược, từ hiện tại hồi tưởng lại quá khứ [26, tr.62]

Theo từ điển thuật ngữ văn học: Sự miêu tả trần thuật trong văn học nghệ

thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn nhất định trong thời gian. Và

cái được trần thuật bao giờ cũng diễn ra trong thời gian, được biết qua thời

gian trần thuật [12, tr.322]. Trong văn học, thời gian được trần thuật là thời

gian nghệ thuật thể hiện dụng ý của tác giả khi sáng tạo nghệ thuật được xây

dựng trong tác phẩm Thời gian được trần thuật là thời gian của sự kiện được

phản ánh, tái hiện trong tác phẩm. Thời gian được trần thuật bao gồm thời

gian sự kiện và thời gian nhân vật. Thời gian này thể hiện tính nghệ thuật cao

và sự sáng tạo độc đáo của nhà văn trong quá trình sáng tác.

Như vậy, thời gian nghệ thuật là cái khung chứa các quá trình đời sống mà

là một nhân tố độc lập tham gia vào hành động nghệ thuật, là một trong những

phương tiện hữu hiệu để tổ chức nội dung nghệ thuật. Thời gian nghệ thuật

cũng giống với thời gian trong hiện thực khách quan ở chỗ nó có các bình diện

quá khứ, hiện tại, tương lai, nhưng vì là thời gian được cảm nhận bằng tâm lí và

mang ý nghĩa thẩm mĩ nên thời gian nghệ thuật có thể đảo lộn các chiều, có thể

kéo dãn hoặc dồn nén.

75

3.4.2.2. Thời gian nghệ thuật trong Gia đình bé mọn

Trong tác phẩm Gia đình bé mọn thời gian trần thuật được xây dựng khá

đậm nét. Có cả thời gian đơn tuyến lẫn thời gian đa tuyến. Tháng hai âm lịch

giỗ ông nội … giỗ ba vào dịp tháng Bảy; Giỗ ba năm ngoái, … là thời gian vận

động theo dòng vận động tuyến tính một chiều. Đây là những khoảng thời gian

gia đình Tiệp họp mặt làm mâm cơm cúng và tưởng nhớ đến người đã mất.

Hay thời gian Tiệp sinh Thu Thi khi chưa giải phóng đến lúc thu Thi chín tuổi,

Tiệp đã yêu Đính khi Thu Thi trưởng thành thì Tiệp ra Bắc sống với Đính. Sự

trưởng thành của con gái theo thời gian tuyến tính như nhân chứng cho mối

tình của Tiệp với Đính lâu dài. Và đặc biệt, mối tình của Tiệp với Đính diễn ra

trong khoảng thời gian mười một năm, gian nan và bền bỉ.Trong khoảng thời

gian ấy, Tiệp đã trải qua nhiều biến cố của cuộc đời để vững bước trên hành

trình kiếm tìm hạnh phúc của mình. Nhiều lúc, độc giả nín thở để theo dõi hành

trình đi đến với hạnh phúc của Tiệp, nhưng bằng sức mạnh ý chí, sức mạnh của

con tim khát khao hạnh phúc, Tiệp đã được đền đáp xứng đáng với những gì

mình hi sinh để nhận được.

Bên cạnh thời gian tuyến tính, thời gian đảo tuyến là thời gian đặc sắc nhất

trong tác phẩm. Đó là thời gian lồng ghép, đan xem giữa hiện tại, quá khứ,

tương lai xoay quanh những sự kiện quan trọng trong cuộc đời của nữ nhà văn

Mỹ Tiệp. Mở đầu tác phẩm, chương một là hiện tại cuộc đời của Tiệp thì

những chương sau có sự đan xen giữa quá khứ với hiện tại, hiện tại trong quá

khứ. Chương một bắt đầu từ khoảnh khắc gió bão bùng và bối cảnh Tiệp sửa

soạn đi đến bưu điện tỉnh để nói chuyện điện thoại với người tình -Viết Đính

Đây chính là lúc Tiệp và Đính đã gặp gỡ ở Đồng Đưng và đã yêu thương nhau

Và Tiệp đã trở thành nỗi xấu hổ của dòng họ. Lồng vào đó là thời gian hồi

tưởng của nhân vật thông qua chiếc áo mưa của chị Mỹ Nghĩa, về cái ngày

nhận được thư báo của Đính mời nàng nghe điện thoại và cô bạn Hiếu Trinh

chớp mắt cười tủm ái tình nữa rồi, chưa tởn ái tình sao ? Hả ?. Tất cả diễn ra

76

có sự đan xen, lồng ghép các sự kiện nhưng chúng lại có mối liên hệ khắng khít

nhau đến từng chi tiết. Điều này không khiến người đọc lúng túng, khó hiểu mà

ngược lại giúp người đọc hiểu rõ hơn từng vấn đề được nhắc đến. Chương hai

không tiếp nối chuỗi sự kiện đang diễn ra ở chương một mà hướng đến khung

cảnh quê nhà của Tiệp và cuộc trò chuyện, tranh cãi từ chuyện xấu hổ của Tiệp.

Và cứ thế theo dòng cảm xúc của nhân vật, thứ tự các chương không phải là

thứ tự theo thời gian tuyến tính mà là thời gian của những sự kiện diễn ra trong

cuộc đời nhân vật Mỹ Tiệp được đảo lộn theo dòng cảm xúc của nhân vật.

Cũng vì về quê lên, ở bến xe, Tiệp đã gặp Đính lần đầu và đồng thời với nó là

sự kiện Tiệp bị xảy thai. Trong cơn đau đớn, kí ức về những lần sảy thai trước

của Tiệp ồ ạt chảy về. Nàng không khỏi uất ức khi nhớ về những lần vỡ kế

hoạch đầu tiên của hai vợ chồng với sự thờ ơ, lãnh đạm của Tuyên, chồng

nàng. Và lại một mình nàng phải chống chọi với cơn đau vật vã, một mình đối

diện với cơn khát, cơn đói. Những dòng hồi tưởng ấy của Tiệp giúp người đọc

hình dung và hiểu rõ con người Tuyên, đó là một người chồng vô tâm, máu

lạnh. Thời gian quá khứ hiện tại đan xen, mà hiện tại đau đớn, quá khứ cũng

không hơn gì, hiện tại là vắng mặt chồng do Mỹ Tiệp về quê, quá khứ là do

chính chồng đưa nàng đi làm kế hoạch nhưng lại chủ động bỏ rơi nàng. Nỗi đau

thể xác và sự tủi thân của một người vợ càng đẩy hố sâu ngăn cách giữa hai vợ

chồng sâu hơn, rộng hơn, để rồi nàng có những quyết định táo bạo cho cuộc

hôn nhân của mình ở những chương tiếp theo của tiểu thuyết.

Quả đúng như vậy, Tiệp đã quyết định nói lời li hôn chồng. Và vì danh dự

gia tộc, cô Tư Ràng lên gặp vợ chồng nàng để giàn xếp. Thời gian lồng ghép

giữa quá khứ với hiện tại khi hai cô cháu đang lặng lẽ ôm nhau khóc vì cái cuộc

đời khổ sở của người đàn bà.Tiệp nhớ về quá khứ, quá khứ lúc nàng còn là một

cô gái xuân xanh trong cái công sự ngoi ngóp đang đối diện với cái chết cùng

Tuyên. Lúc đó Tuyên đã cướp đi đời con gái của Tiệp, rồi đến những cảm giác

da thịt lần đầu tiên nếm trải. Tất cả cho ta thấy được cuộc đời Tiệp rẽ sang

77

trang mới với nhiều niềm đau chứ không hề hạnh phúc. Sự lồng ghép về mặt

thời gian thông qua những cung bật cảm xúc của Tiệp được Dạ Ngân tái hiện

hết sức khéo léo và linh hoạt, cứ như nhà văn là hiện thân của nhân vật để diễn

tả tinh tế từng cảm xúc Nàng đổ dài xuống, như lúc nầy, lắng nghe nhiều hơn

là cộng tác, thấy lại hình ảnh Tuyên và nàng trong cái công sự ngoi ngóp trong

buổi sáng chết chóc thê lương năm nào…. [23, tr.154].

Kể cả khi gặp Đính ở Hà Nội, trong căn phòng chật hẹp của nhà bạn Đính,

hai người ân ái sau bao tháng ngày xa cách nhớ nhung nhưng Tiệp miên man

nghĩ về Tuyên và đời sống vợ chồng của mình. Đó là thứ ái ân không có sự hòa

hợp thiêng liêng, Tuyên chỉ thực hiện như một bản năng và nó nhanh chóng

làm Tiệp chán nản. Rồi Tiệp nghĩ đến người ấy, tay nhà báo ban đầu, mối tình

đơn phương dịu ngọt của Tiệp. Thời gian hồi tưởng đó giúp Mỹ Tiệp đủ để

nhận ra cảm giác của mình, của tình yêu với Đính là chân thật và vì nó, Tiệp sẽ

cố gắng vượt qua những khó khăn của cuộc sống, của rào cản. Cũng trong đêm

bên Đính, khi bên nhau, Tiệp nhớ lại hình ảnh trước khi hai người vào nhà bạn,

Tiệp định đi vệ sinh cơ thể thì soi diêm thấy cục phân vàng nổi lềnh bềnh trong

bể nước công cộng, để rồi hình ảnh đó ám ảnh trong tâm trí Tiệp Tại sao lại cứ

hình ảnh cục phân vàng vàng trong bể nước, tại sao vẫn cứ cái hình thù của

tấm ri-đô và những tấm cót ép chung quanh, tại sao vẫn bị chi phối bởi người

đàn ông chủ nhà đang nín thở trên giường và đứa bé tim tím vì mồ côi mẹ và

thiếu đói ? Tại sao da thịt và mùi vị của Đính không thân thuộc dễ dàng mà xa

lạ, xa lạ còn hơn hồi ở Đồng Đưng lần đầu ? [21, tr.154]. Điều đó cho thấy,

hiện thực cuộc sống khó khăn đeo bám con người ta, thậm chí, còn len lỏi vào

cả cuộc ái ân của đôi tình nhân sau thời gian xa xôi đằng đẵng.

Trong Gia đình bé mọn, thời gian tiểu sử của nhân vật Tiệp liên quan đến

những biến cố của cuộc đời cô, khiến cuộc đời cô có nhiều lần phải rẽ. Đấy là

thời gian được tính từ thời điểm cô bé Mỹ Tiệp mới mười bốn tuổi lên cứ tham

gia kháng chiến, rồi đến độ tuổi xuân xanh tươi mới nhất, mười chín tuổi, Tiệp

78

đã phải nếm mùi thân xác trong ranh giới sống chết tính bằng gang tất. Sau đó

Tiệp kết hôn với Hai Tuyên, sống cuộc sống vợ chồng trong suốt thời chiến đến

cả thời bình. Hòa bình, Tiệp thấy mình và Tuyên có nhiều điểm khập khiễng,

không ăn khớp và không thể hòa hợp, Tiệp quyết định chấm dứt nó và đi tìm

một hạnh phúc thực sự. Hành trình hơn mười năm ròng rã đi đến xây dựng mái

ấm bé mọn là cả một chặng đường dài gian khổ mà nhân vật phải trải qua một

cách chua xót, đau đớn. Như vậy đồng hành với thời gian tiểu sử là thời gian

được nếm trải qua tâm hồn nhân vật lại chính là thời gian nghệ thuật đắc sắc

tạo dấu ấn ngòi bút Dạ Ngân. Trong khoảng thời gian đó, nhân vật chính Mỹ

Tiệp không ngừng suy tư, trăn trở. Đồng thời, nàng phải trải qua những bi kịch,

những giằng xe nội tâm giữa việc giữ danh dự gia tộc với hạnh phúc cá nhân,

giữa tình mẫu tử và tình cảm với người tình. Thời gian luôn đảo lộn trong dòng

tâm tưởng của nhân vật, với những sự kiện, những biến cố liên quan đến cuộc

đời Mỹ Tiệp.

Có thể nói, thời gian trong Gia đình bé mọn được Dạ Ngân xây dựng hết

sức đặc sắc. Đó không phải chỉ là thời gian tuyến tính mà là thời gian đan xen

hiện tại, quá khứ và phù hợp với những diễn biến tâm lý của nhân vật. Theo đó,

từng sự kiện tuy diễn ra không cùng thời điểm nhưng lại gắn bó khắng khít, tạo

nên một hệ thống sự kiện lô gic với nhau tạo nên một mạch truyện đan cài, lồng

ghép đầy thú vị, thời gian có thể đồng hiện,…theo ý đồ nghệ thuật của tác giả.

79

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Quá trình tìm hiểu, phân tích cái tôi cá nhân trong tiểu thuyết Gia đình bé

mọn của tác giả Dạ Ngân không chỉ thấy bóng dáng tác giả với những bi kịch

vật chất và tinh thần của người trí thức, trong cuộc sống đời thường và trong

các mối quan hệ với gia đình mà còn cho thấy phong cách nghệ thuật trên từng

con chữ của nhà văn Dạ Ngân, mà trên hết là việc sử dụng nghệ thuật để bộc lộ

cái tôi cá nhân.

Dạ Ngân thật tài tình trong việc sử dụng vai người kể truyện là ngôi thứ ba

với phương thức trần thuật khách quan, việc tổ chức và sắp xếp các kiểu thời

gian và không gian nghệ thuật, ngôn ngữ đa thanh giản dị mà linh hoạt. Qua đó,

người đọc thấy được đời sống tâm hồn với những trăn trở bên trong, bóc tách

được những tầng địa tâm lí ẩn sâu của nhân vật... Có thể nói, Dạ Ngân đã rất

thành công khi thể hiện yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết này.

Dạ Ngân sử dụng ngôi kể thứ ba với ngôn ngữ trần thuật, thời gian và

không gian nghệ thuật được sử dụng không tuần tự, thuần nhất mà chủ yếu là

đan xen, lồng ghep với nhau theo những diễn biến sự kiện, biến cố trong cuộc

đời nhân vật. Vì thế, nhân vật hiện ra khi thì theo con mắt của người kể chuyện,

khi thì theo cảm nghĩ của nhân vật, khi thì là một chân dung, khi thì bộc lộ

những biểu hiện tâm lý.Qua đó, người đọc có cơ hội khám phá những góc

khuất trong chiều sâu tâm hồn nhân vật, để cảm thông, thương xót cho nhân vật

trước những bi kịch mà họ phải trải qua trong thời kì hậu chiến. Và trên tất cả,

Gia đình bé mọn là cuốn tiểu thuyết mà Dạ Ngân - Lê Thị Hồng Nga tâm sự

với bạn đọc về cuộc đời riêng của chính mình nhưng cũng là cuộc đời chung

của người phụ nữ tri thức trong những năm sau chiến tranh đầy gian khó.

80

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu tiểu thuyết Gia đình bé mọn của Dạ Ngân ở phương diện

tự truyện cho phép chúng tôi có những kết luận như sau:

1. Tự truyện đã có từ lâu trên thế giới và có nhiều tác giả thành công ở

nước Pháp, Anh…. Ở Việt Nam, tác phẩm tự truyện thường có thiên hướng lí

giải cuộc sống đã qua của tác giả như một chỉnh thể, tạo nên những đường nét

mạch lạc cho cuộc sống kinh nghiệm của mình. Trong đó, tác giả có thể viết tự

truyện có khi vận dụng hư cấu, thêm thắt hoặc sắp xếp lại các chi tiết của cuộc

đời mình. Tác phẩm tự truyện thường được hoàn thành khi tác giả đã trải qua

phần lớn các chặng đường trong cuộc đời mình và có thời gian chiêm nghiệm

lại những gì đã qua. Đó là cơ sở lý thuyết quan trọng để chúng tôi tiến hành

nghiên cứu tiểu thuyết Gia đình bé mọn của Dạ Ngân ở phương diện tự truyện.

2. Dạ Ngân là một trong số không nhiều cây bút văn xuôi đến từ miền

Tây Nam Bộ, trưởng thành trong đội ngũ các tác giả xuất hiện sau năm 1975.

Gia đình bé mọn là cuốn tiểu thuyết được xem là tác phẩm thành công nhất của

bà cho tới thời điểm này với những giải thưởng vinh dự. Tác phẩm tái hiện

không gian xã hội thời kì hậu chiến với những dấu vết không thể phải mờ trong

tâm trí con người là nạn nhân của chiến tranh và sản phẩm của xã hội bao

cấp.Trong cuộc sống xã hội đầy khó khăn do hậu quả chiến tranh, Dạ Ngân gửi

đến người đọc những kí ức, những trải nghiệm về một thời đã qua mà bản thân

mình như là một người trong cuộc: nhân vật nữ chính, nhà văn Mỹ Tiệp là con

người dám sống và hi sinh vì hạnh phúc đích thực trước những khó khăn của

thời hậu chiến, trước những ràng buộc, định kiến của xã hội. Tác phẩm cho

người đọc thấy hành trình tìm kiếm hạnh phúc của người phụ nữ trong xã hội

bao cấp với những bi kịch trong gia đình, trong xã hội. Vượt qua những bi kịch

đó là sự tự ý thức, tự khẳng định bản thân mình trước cuộc sống và dám sống vì

lí tưởng cao đẹp. Nhân vật nữ nhà văn Mỹ Tiệp tiêu biểu cho kiểu phụ nữ mới,

81

tân thời, trí thức, luôn luôn tự ý thức về vấn đề bình đẳng giới. Dám làm và

dám chịu trách nhiệm trước những việc làm của mình.

3. Trong Gia đình bé mọn, Dạ Ngân đã thành công khi sử dụng những

phương tiện nghệ thuật thể hiện cái tôi cá nhân. Bằng ngôi thứ ba, người kể

truyện với giọng điệu khi thì trần thuật, khi châm biếm, lúc lại triết lý. Chính

giọng điệu linh hoạt đó đã cho độc giả được trải nghiệm với những cảm xúc

chân thành của nhân vật Mỹ Tiệp - hình bóng của nhà văn Dạ Ngân trước cuộc

sống xã hội trong những năm bao cấp và trước cuộc sống hôn nhân, gia đình

của chính bản thân mình. Không gian và thời gian nghệ thuật đan xen, lồng

ghép với nhau như những sự kiện xảy ra với cuộc đời nhân vật, không có sự

sắp xếp sẵn có của tạo hóa. Với chất liệu ngôn từ đậm chất Nam Bộ và việc sử

dụng tinh tế vốn ngôn ngữ dân tộc, Dạ Ngân khẳng định mình trong việc miêu

tả thành công chiều sâu phản ánh hiện thực, khả năng miêu tả tinh tế và sâu sắc

đời sống nội tâm của con người. Qua đó, có thể khẳng định tiểu thuyết Gia đình

bé mọn đã mang đến một âm điệu mới, đặc trưng góp phần hòa quyện vào

mạch chảy của nền tiểu thuyết đương đại.

82

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt:

1. Trần Thúy An (2007), Người phụ nữ hiện đại qua cái nhìn của một số nhà

văn nữ, (Luận văn thạc sĩ), ĐHSP Thành phố HCM.

2. Lê Tú Anh (2006), “Tự truyện và tiểu thuyết trong Gia đình bé mọn”, Báo

Văn nghệ, số 15.

3. Lại Nguyên Ân (204),150 Thuật ngữ Văn học, NXB Đại học Quốc gia.

4. Hoàng Thị Kim Cúc (2008), Phong cách truyện ngắn Dạ Ngân, Luận văn

Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Vinh, Nghệ An;

5. Đặng Thị Cúc (2014), Thế giới nghệ thuật truyện ngắn Dạ Ngân, Luận văn

thạc sĩ, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn.

6. Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, NXB Khoa

học xã hội, HàNội.

7. Nguyễn Thị Đô (2016), Yếu tố tự truyện trong truyện ngắn Thạch Lam và

Thanh Tịnh, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Đà Nẵng.

8. Hà Minh Đức (1998), Nhà văn nói về tác phẩm, NXB Văn Học.

9. Hà Minh Đức (1998), Văn học Việt Nam hiện đại, NXBTN.

10. Hà Minh Đức (2003), Lí luận văn học, NXBGD.

11. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1997), Từ điển thuật ngữ văn

học, Hà Nội. NXB Đại học quốc gia Hà Nội.

12. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2007), Từ điển 150 Thuật

ngữ văn học, NXB Giáo Dục.

13. Đặng Thị Hạnh (1998), “Tự thuật và tiểu thuyết Pháp thế kỉ XXI”, Tạp chí

văn học số 5.

14. Đỗ Đức Hiểu - chủ biên (2006), Từ điển văn học, NXB Thế giới.

15. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Hà Nội. NXB Hội nhà văn.

16. Tô Hoài (2000), Tự truyện, NXB Hội Nhà văn Hà Nội.

83

17. Trần Thị Xuân Hợp (2006),Yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết Nguyễn Khải

thời kì đổi mới, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ Văn, Đại học Khoa học Xã

hội và Nhân văn.

18. Phạm Ngọc Lan (2006), Tự truyện trong Văn học Việt Nam hiện đại, (Luận

văn), ĐHSP Thành phố HCM.

19. Nguyễn Đăng Mạnh (2003) Nhà văn Việt Nam hiện đại, chân dung và

phong cách, NXB Văn học, HàNội

20. Bùi Thị Mát (2013), Yếu tố tự truyện một mình một ngựa của Ma Văn

Kháng, Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam, Đại học Sư

phạm Hà Nội 2.

21. Dạ Ngân (2010), Gia đình bé mọn, Nxb Phụ nữ.

22. Đỗ Hải Ninh (2012), Khuynh hướng tự truyện trong tiểu thuyết Việt Nam

đương đại, Luận án Tiến sĩ, Viện Văn học.

23. Phạm Thị Hà Ninh (2017), Yếu tố Tự truyện trong Sống mòn của Nam

Cao,Luận văn thạc sĩ, Đại học khoa học Thái Nguyên.

24. Nhiều tác giả (2002), Đổi mới tư duy Tiểu thuyết, NXB Hội Nhà văn Hà Nội.

25. Hoàng Phê (chủ biên, 1997), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng.

26. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáodục Hà Nội.

27. Trần Đình Sử (2002), Lí luận văn học tập 2, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.

28. Trần Đình Sử (2003), Lý luận và phê bình văn học, NXB Giáo dục Hà Nội.

29. Quách Thanh Tạng (2011), Đặc điểm truyện của Dạ Ngân, Luận văn thạc

sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Cần Thơ.

30. Đoàn Cầm Thi (2008), Tương lại tự truyện Việt Nam,

http://demo.trieuxuan.info/the-loai/ly-luan-phe-binh-van-hoc/tuong-lai-tu-

truyen-viet-nam-492.html, ngày 23/10/2008.

31. Nguyễn Thành Thi (2010), Văn học thế giới mở, NXB Trẻ Thành phố Hồ

Chí Minh.

32. Bích Thu, (2006), “Một cách tiếp cận tiểu thuyết thời kỳ đổi mới”, Tạp chí

Nghiên cứu văn học.

84

33. Nguyễn Thị Minh Thu, (2011), Tiểu thuyết tự truyện trong văn học Việt

Nam đương đại từ góc nhìn thể loại, Luận văn Thạc sĩ khoa họcNgữ Văn,

Đại học Sư phạm Hà Nội.

34. Bùi Thị Thu (2014), Yếu tố tự truyện trong văn xuôi Đoàn Lê, Luận văn

Thạc sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam, Đại học Sư phạm Hà Nội 2.

35. Dương Thế Thuật (2011), Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Dạ Ngân( luận

văn), ĐHSP Thành phố HCM.

36. Lê Ngọc Trà (2007), Văn chương, thẩm mỹ và văn hoá, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

37. Nguyễn Thị Ái Vân (2011), Đặc điểm nghệ thuật tự truyện và hồi ký của

Tô Hoài,(Luận văn), ĐHSP Thành phố HCM.

38. Triệu Xuân (2008), Tự truyện không hẳn là văn học,

http://demo.trieuxuan.info/the-loai/ly-luan-phe-binh-van-hoc/tu-truyen-

khong-han-la-van-hoc-412.html, ngày 16/10/2008.

Tài liệu webside:

39. Doan.edu.vn/ đề tài Bi kịch hạnh phúc của người phụ nữ giữa đời thường.

40. Giáo án. Violet.vn: Dạ Ngân và tiểu thuyết Gia đình bé mọn.

41. http://luanvan.co/luan-van/de-tai-gia-dinh-trong-van-hoc-viet-nam-sau-

1975-49805/

42. http : //tài liệu điện tử.Irc.tnu.edu.vn/ chi tiết/ Tô Hoài với hai thể văn chân

dung và tự truyện. 649.html.

43. http : //sites.google.com/dangannga/Tiểu thuyết Gia đình bé mọn của Dạ Ngân.

44. http : //text.123 doc.org/document/307 2329 Gía trị tiểu thuyết Gia đình bé

mọn của Dạ Ngân.htm.

45. http://Vi.wikipedie.org/

46. Nguồn: Tiền phong (2005), ‘Gia đình bé mọn’- ‘bản dập’ cuộc đời Dạ Ngân.

47. https://sites.google.com/site/vanhocfamily/bai-gioi-thieu-tieu-thuyet-gia-

dhinh-be-mon-cua-wayne-karlin

48. https: //dutule.com/le-tu-anh-tu-truyen-nhu-mot-the-loai-van-hoc.

49. https://tudienwiki/giọng- điệu/

85