1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN XUÂN CƯỜNG TỤC CẤP SẮC CỦA TỘC NGƯỜI SÁN DÌU Ở LỤC NGẠN (BẮC GIANG) LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Thái Nguyên - 2007
2
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN XUÂN CƯỜNG
TỤC CẤP SẮC CỦA TỘC NGƯỜI
SÁN DÌU Ở LỤC NGẠN (BẮC GIANG)
Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam
Mã số
: 60 22 54
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Duy Tiến
Thái Nguyên - 2007
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa được ai công bố.
Tác giả Nguyễn Xuân Cường
4
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tác giả luận văn xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo hướng dẫn
khoa học TS. Nguyễn Duy Tiến, cùng các thầy cô trong khoa Lịch sử, trường Đại học Sư
phạm - Đại học Thái Nguyên đã tận tình chỉ bảo, động viên, khích lệ tác giả trong suốt quá
trình học tập và hoàn thành luận văn.
Tác giả xin trân trọng cảm ơn các cơ quan của tỉnh Bắc Giang: Sở Văn hoá thông
tin tỉnh, Ban Dân tộc tỉnh, Thư viện tỉnh, Bảo tàng tỉnh và các phòng ban của huyện Lục
Ngạn đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi tiếp cận được với những nguồn tài liệu liên quan tới
luận văn.
Tác giả xin trân trọng cảm ơn sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Bắc Giang, trường THPT
Yên Thế đã tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt để tôi yên tâm học tập.
Trong quá trình đi thực tế, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các già
làng, trưởng bản và những người cung cấp thông tin ở nhiều xã trong huyện Lục Ngạn. Tôi
xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó.
Cuối cùng, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã
động viên, giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Tác giả Nguyễn Xuân Cường
5
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Trang
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................................... 3
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ đề tài ................................................................ 5
4. Nguồn tư liệu, phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 5
5. Đóng góp của luận văn ........................................................................................................ 6
6. Bố cục của luận văn ............................................................................................................. 6
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN LỤC NGẠN ...................................................... 7
1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên......................................................................................... 7
1.2. Lịch sử hành chính huyện Lục Ngạn ............................................................................... 9
1.3. Điều kiện xã hội ............................................................................................................. 11
1.4. Vài nét về tộc người Sán Dìu ở huyện Lục Ngạn .......................................................... 13
Chương 2: TỤC CẤP SẮC CỦA TỘC NGƯỜI SÁN DÌU Ở HUYỆN LỤC
NGẠN ......................................................................................................................... 31
2.1. Khái quát về tục cấp sắc ................................................................................................. 31
2.2. Một số quy định trong tục cấp sắc ................................................................................. 38
2.3. Việc chuẩn bị cho lễ cấp sắc .......................................................................................... 42
2.4. Tiến trình lễ cấp sắc ........................................................................................................ 49
6
Chương 3: NHỮNG VẤN ĐỀ RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU TỤC
CẤP SẮC CỦA TỘC NGƯỜI SÁN DÌU Ở HUYỆN LỤC NGẠN .............. 59
3.1. Ý nghĩa và giá trị nghệ thuật .......................................................................................... 59
3.2. Những hạn chế trong tục cấp sắc .................................................................................... 68
3.3. Những biện pháp bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá trong tục cấp sắc ............................ 72
KẾT LUẬN ........................................................................................................................ 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 80
PHỤ LỤC ............................................................................................................................ 87
7
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ban chấp hành Đảng bộ
BCHĐB
:
BDT
:
Ban dân tộc
CTQG
:
Chính trị Quốc gia
KHXH
:
Khoa học xã hội
NXB
:
Nhà xuất bản
TS
:
Tiến sĩ
VHDT
:
Văn hoá dân tộc
VHTT
:
Văn hoá thông tin
8
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Các dân tộc trong huyện Lục Ngạn năm 2004 ...................................................... 11
Bảng 1.2: Người Sán Dìu ở Bắc Giang qua các cuộc tổng điều tra dấn số ........................... 15
Bảng 1.3: Sự phân bố người Sán Dìu ở Bắc Giang năm 2004 .............................................. 16
Bảng 1.4: Người Sán Dìu ở Lục Ngạn năm 2006 ................................................................. 17
Bảng 2.1: So sánh một số nội dung giữa các cấp bậc cấp sắc của người Sán Dìu ở Lục
Ngạn ............................................................................................................................. 37
Bảng 2.2: So sánh lễ cấp sắc Chức sư của người Sán Dìu Lục Ngạn và lễ cấp sắc Thất
tinh của người Dao Tiền ở Ba Bể Bắc Kạn .................................................................. 57
9
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quá trình hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, đặt ra cho mỗi quốc
gia, dân tộc những cơ hội to lớn để phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội. Đồng
thời, nó cũng làm nảy sinh hàng loạt những vấn đề gay gắt cần giải quyết.
Đứng trước những thời cơ và thách thức đó, nhiều quốc gia, dân tộc đã tìm
thấy trong vốn văn hoá truyền thống của mình những sức mạnh tiềm tàng có
thể huy động phục vụ hiệu quả cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội. Nhận
thức được tầm quan trọng của văn hoá trong công cuộc phát triển đất nước,
Đảng ta khẳng định:"Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội - vừa là mục
tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội... Văn hoá phải
thấm sâu vào các lĩnh vực chính trị, kinh tế, an ninh quốc phòng". Những
chính sách văn hoá đúng đắn của Đảng là một trong những nhân tố quan
trọng, góp phần tạo nên những thành quả to lớn trong công cuộc đổi mới đất
nước hơn 20 năm qua.
Hiện nay, đứng trước những biến đổi sâu sắc của tình hình kinh tế xã
hội và sự du nhập của các nền văn hoá ngoại lai, bên cạnh những tác động
tích cực, nhiều giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của các dân tộc bị mai
một, bào mòn. Hơn nữa, các dân tộc đã để lại một di sản văn hoá vô cùng đồ
sộ, mà chúng ta vẫn chưa thể tìm hiểu và khai thác một cách đúng mức. Vì
vậy, nghiên cứu về nền văn hoá các dân tộc trong đó có dân tộc Sán Dìu là
việc làm cần thiết, góp phần thực hiện Nghị quyết Trung ương lần thứ 5 của
Đảng (khoá VIII): "Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc".
Trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, dân tộc Sán Dìu chiếm một tỷ
lệ không lớn. Họ cư trú xen kẽ với các dân tộc khác trên các sườn núi và vùng
đồi thấp thuộc các tỉnh Quảng Ninh, Hải Dương, Bắc Giang, Thái Nguyên,
10
Vĩnh Phúc... Cũng như các dân tộc khác, dân tộc Sán Dìu có quá trình phát
triển lịch sử tộc người lâu dài và có đời sống vật chất, tinh thần phong phú
góp phần tạo nên tính “đa dạng trong thống nhất” của nền văn hoá Việt Nam.
Trong hệ thống các phong tục và nghi lễ của người Sán Dìu, cấp sắc giữ vai
trò đặc biệt quan trọng. Lễ cấp sắc của người Sán Dìu là sinh hoạt văn hoá dân
gian mang tính tổng thể, nguyên hợp bao gồm các hoạt động tín ngưỡng, ca hát,
nghệ thuật, lễ thức dân gian. Đây là nơi phản ánh tâm tư tình cảm của đồng bào
một cách tương đối đầy đủ và trung thực. Lễ cấp sắc còn là nơi phản ánh tình hình
kinh tế, xã hội của người Sán Dìu. Do đó, nghiên cứu về tục cấp sắc không đơn
thuần là tìm hiểu về một tập tục mà còn là một con đường để tiếp cận các khía
cạnh văn hoá khác của người Sán Dìu.
Lục Ngạn là huyện miền núi của tỉnh Bắc Giang, nơi đây tập trung khá
đông đồng bào người Sán Dìu sinh sống. Do đặc điểm kinh tế xã hội của
huyện, người Sán Dìu ở đây vẫn còn lưu giữ được khá đầy đủ những phong
tục, nghi lễ truyền thống của mình. Cũng như ở các địa phương khác, cấp sắc
là một nghi lễ không thể thiếu trong hệ thống phong tục và nghi lễ về chu kì
đời người của người Sán Dìu ở Lục Ngạn. Tuy nhiên, ở mỗi địa phương do
nhiều yếu tố chi phối, tục cấp sắc ở mỗi nơi lại có những nét độc đáo riêng.
Do đó, việc nghiên cứu về tục cấp sắc của người Sán Dìu ở huyện Lục Ngạn
sẽ góp phần làm sáng tỏ những bản sắc văn hóa địa phương trong nền văn hoá
đa dạng của dân tộc.
Nghiên cứu về tục cấp sắc của người Sán Dìu ở Lục Ngạn còn giúp chúng ta
hiểu được những giá trị tốt đẹp cũng như những mặt hạn chế của nó, từ đó có những
biện pháp phù hợp nhằm phát huy mặt tích cực, xoá bỏ những hủ tục lạc hậu, rườm
rà, góp phần xây dựng đời sống văn hoá lành mạnh, văn minh.
Xuất phát từ cơ sở trên, tôi chọn: “Tục cấp sắc của tộc người Sán Dìu ở
huyện Lục Ngạn (Bắc Giang)” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Lịch sử.
11
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cấp sắc là phong tục phổ biến của nhiều tộc người thiểu số ở nước ta
như: Dao, Sán Dìu, Tày... Với tư cách là một trong những phong tục quan
trọng trong đời sống của các dân tộc trên, tục cấp sắc đã được nhiều cơ quan
nghiên cứu và nhiều nhà khoa học xã hội quan tâm.
Tục cấp sắc của người Dao được giới thiệu trong các tác phẩm tiêu biểu:
Cuốn “Người Dao ở Việt Nam” của Bế Viết Đẳng, Nhà xuất bản
KHXH, xuất bản năm 1971 [72].
Cuốn "Lễ cấp sắc của người Dao Lô Giang ở Lạng Sơn" của Phan
Ngọc Khuê, Nhà xuất bản Văn hoá thông tin, xuất bản năm 2003 [38].
Cuốn "Tập tục chu kì đời người của các dân tộc ngôn ngữ Mông - Dao ở
Việt Nam" của Đỗ Đức Lợi, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc, ấn hành năm 2003 [41].
Cuốn "Các nghi lễ chủ yếu trong chu kì đời người của nhóm Dao tiền ở
Ba Bể, Bắc Kạn" của Lý Hành Sơn, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, xuất bản
năm 2003 [53]…
Tục cấp sắc của các dân tộc khác như Tày, Nùng, Sán Chay... chỉ được
đề cập sơ lược trong một số tài liệu, mà chưa có công trình nghiên cứu chuyên
biệt nào.
Hiện nay, số công trình nghiên cứu đề cập đến tục cấp của người Sán
Dìu không nhiều. Vấn đề này chỉ được trình bầy trong các tác phẩm:
Cuốn "Người Sán Dìu ở Việt Nam" của Ma Khánh Bằng, Nhà xuất bản
Khoa học xã hội, xuất bản năm 1983 [18]. Trong tác phẩm này, tác giả đã nêu
được các cấp bậc cấp sắc, một số nghi lễ trong lễ cấp sắc và chỉ ra được một
vài hạn chế của tục cấp sắc.
Cuốn "Văn hoá truyền thống các dân tộc Tày - Dao - Sán Dìu ở
Tuyên Quang" của Nịnh Văn Bộ, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc, xuất bản
năm 2003 [24].
12
Cuốn "Dân tộc Sán Dìu ở Bắc Giang" của Ngô Văn Trụ và Nguyễn
Xuân Cần, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc, xuất bản năm 2003 [65]. Tính đến
nay, đây là công trình nghiên cứu toàn diện và đầy đủ nhất về tộc người Sán
Dìu ở Bắc Giang. Trong công trình này, các tác giả đã trình bầy tương đối chi
tiết về các bước tiến hành một lễ cấp sắc, các cấp bậc cấp sắc, sưu tầm và dịch
một số văn bản trong lễ cấp sắc.
Cuốn "Phong tục và nghi lễ chu kì đời người của người Sán Dìu ở Việt
Nam" của Diệp Trung Bình, xuất bản năm 2005 tại Thái Nguyên [21]. Đây là
công trình nghiên cứu tương đối công phu về người Sán Dìu ở Việt Nam.
Riêng về tục cấp sắc, tác giả đã nói khá rõ về các cấp bậc cấp sắc, nhân sự,
các văn bản trong lễ cấp sắc. Đặc biệt, tác giả đã chỉ ra được một vài sắc thái
văn hoá của người Sán Dìu, được biểu hiện trong tục cấp sắc.
Nhìn chung, những công trình trên không phải chuyên khảo về tục cấp
sắc của người Sán Dìu, nó mới đưa ra một cách khái quát hoặc chỉ đề cập đến
một vài khía cạnh nhỏ của tục cấp sắc. Những vấn đề như: nguồn gốc, nội
dung cụ thể các nghi lễ, các quy định trong tục cấp sắc... chưa được tìm hiểu.
Đặc biệt, thiếu sự đánh giá về tục cấp sắc, có chăng chỉ là sự đánh giá phiến
diện, hoặc chỉ ra mặt hạn chế, hoặc chỉ ra vài sắc thái văn hoá của nó.
Như vậy, những công trình nghiên cứu về người Sán Dìu trước đây đã
ít nhiều đề cập đến tục cấp sắc, nhưng cho đến nay chưa có công trình nào
nghiên cứu riêng về tục cấp sắc của người Sán Dìu ở Việt Nam cũng như ở
Lục Ngạn. Tuy vậy, những công trình trên đây là nguồn tư liệu tham khảo quý
báu, giúp tôi hoàn thành luận văn này.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ đề tài
3.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: tục cấp sắc của người Sán Dìu ở huyện Lục
Ngạn tỉnh Bắc Giang.
13
- Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: tục cấp sắc của người Sán Dìu ở Lục Ngạn, riêng phần
tiến trình lễ cấp sắc, luận văn chỉ tập trung chủ yếu vào lễ cấp sắc bậc Chức
sư (Hoi seo).
Về không gian: do điều kiện chưa cho phép, luận văn chỉ tìm hiểu về
tục cấp sắc của người Sán Dìu trên phạm vi huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang.
3.2. Nhiệm vụ đề tài
Sưu tầm, hệ thống nguồn tư liệu về tục cấp sắc của người Sán Dìu ở
Lục Ngạn Bắc Giang, từ đó có những đánh giá toàn diện về tục cấp sắc ở đây.
Đồng thời, luận văn đưa ra một số biện pháp nhằm bảo tồn và phát huy
những yếu tố tích cực, khắc phục những hạn chế trong tục cấp sắc của người
Sán Dìu ở Lục Ngạn.
4. Nguồn tư liệu, phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng các nguồn tư liệu sau:
- Nguồn tư liệu thành văn: các tác phẩm kinh điển Mác - Lênin, các văn
kiện Đại hội Đảng VII, VIII về vấn đề văn hóa; các báo cáo của Đảng bộ
huyện Lục Ngạn và của tỉnh Bắc Giang liên quan đến người Sán Dìu.
- Nguồn tư liệu khảo sát điền dã: trong quá trình thực hiện đề tài, chúng
tôi đã tiến hành khai thác các nhân chứng, tiếp xúc trực tiếp với các loại tài
liệu, hiện vật liên quan đến tục cấp sắc của người Sán Dìu.
- Các công trình nghiên cứu về người Sán Dìu, về tục cấp sắc của họ,
cũng như của các dân tộc khác đã được công bố.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác -
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng phương pháp luận sử học Mácxít.
Những vấn đề liên quan đến tục cấp sắc của người Sán Dìu được chúng tôi
14
nghiên cứu, đánh giá trên quan điểm biện chứng, lịch sử có tính hệ thống và
đặt những hiện tượng, sự kiện trong mối quan hệ hữu cơ theo quy luật khách
quan của sự vận động và phát triển.
Phương pháp điền dã dân tộc học được đặc biệt chú ý khi thực hiện
công trình này. Chúng tôi đã tiến hành khảo sát thực tế và thực hiện các biện
pháp nghiệp vụ như: quan sát, phỏng vấn, ghi chép lời kể của những nhân
chứng... Bên cạnh đó, chúng tôi còn kết hợp sử dụng các phương pháp thống
kê, hệ thống, đối chiếu, so sánh thông tin tư liệu có liên quan đến đề tài.
5. Đóng góp của luận văn
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu tương đối toàn diện về tục cấp
sắc của người Sán Dìu ở Lục Ngạn. Công trình cung cấp một khối lượng tư
liệu đáng tin cậy và có hệ thống về tục cấp sắc của người Sán Dìu ở đây.
Luận văn cung cấp cơ sở khoa học đáng tin cậy, để các cơ quan chức năng
có kế hoạch bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá tốt đẹp của phong tục đó.
Luận văn cung cấp nguồn tư liệu đáng kể phục vụ cho công tác nghiên
cứu về dân tộc Sán Dìu, cung cấp tài liệu cho việc giáo dục tư tưởng, giảng
dạy, học tập lịch sử địa phương.
6. Bố cục của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu (6 trang), kết luận (3 trang), tài liệu tham
khảo và phụ lục, phần nội dung (73 trang) chia thành 3 chương.
Chương 1: Khái quát về huyện Lục Ngạn (Bắc Giang).
Chương 2: Tục cấp sắc của tộc người Sán Dìu ở huyện Lục Ngạn
(Bắc Giang).
Chương 3: Những vấn đề rút ra từ việc nghiên cứu tục cấp sắc của
tộc người Sán Dìu ở huyện Lục Ngạn (Bắc Giang).
15
BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH HUYỆN LỤC NGẠN
16
Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN LỤC NGẠN (BẮC GIANG)
1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
Lục Ngạn là huyện miền núi, nằm về phía đông bắc tỉnh Bắc Giang,
cách thành phố Bắc Giang 42km. Phía bắc giáp huyện Chi Lăng và huyện
Hữu Lũng (Lạng Sơn); phía đông giáp huyện Sơn Động (Bắc Giang) và
huyện Lộc Bình (Lạng Sơn); phía nam và phía tây giáp huyện Lục Nam (Bắc
Giang). Đây là một địa bàn có vị trí quan trọng về quân sự, kinh tế, chính trị,
là cửa ngõ của vùng chiến lược Đông Bắc rộng lớn.
Lục Ngạn là điểm hội tụ của nhiều tuyến giao thông đường bộ, đó là
những con đường nối với Lạng Sơn qua các cửa ngõ Kiên Lao, Cấm Sơn, Xa
Lý. Ngoài ra còn có con đường bộ cổ men theo dòng sông Lục, nay là quôc lộ
31, qua Sơn Động, nối hai tỉnh Quảng Ninh và Lạng Sơn với Bắc Giang.
Với diện tích tự nhiên 1.012,2km2 [3, tr.9], đất đai Lục Ngạn chia thành
3 vùng:
Vùng núi, phân bổ ở độ cao từ 170m trở lên, chủ yếu là các loại đất
Pheralit, mức độ phong hoá thấp, tầng đất mỏng, chất màu xám. Loại đất này
phù hợp với trồng rừng.
Vùng đồi thấp, có độ chia cắt trung bình, bố trí theo hình lượn sóng. Độ
dốc trung bình của vùng này vào khoảng 8 - 150, hướng dốc không ổn định, có
độ cao trung bình khoảng 80 - 120m, so với mực nước biển. Trong vùng đồi
thấp chủ yếu là ruộng nước ở thung lũng. Đồi tương đối thoải nhưng độ che
phủ không cao, nhiều nơi bị xói mòn. Vùng đồi thấp chiếm khoảng trên 40%
diện tích tự nhiên của huyện. Đây là vùng cư trú chủ yếu của người Sán Dìu.
Vùng đồng bằng và thung lũng, đây là vùng đất bạc màu và tự thoái
hoá dần, đất chua và yếm khí. Loại đất này được sử dụng để trồng các loại
cây lương thực, thực phẩm.
17
Các loại đất này được chia theo tính chất sản xuất: đất lâm nghiệp 58.760
ha, đất trống đồi núi trọc 28.760 ha, đất nông nghiệp 15.080 ha [3, tr.10].
Thuỷ văn, sông ngòi:
Sông Lục Nam là con sông chính, cung cấp nước cho sản xuất và sinh
hoạt của cư dân trong vùng. Bắt nguồn từ vùng đồi An Châu (Sơn Động),
chảy qua Đèo Gia, Mỹ An, Phượng Sơn... (Lục Ngạn), sau đó đổ xuống địa
phận huyện Lục Nam. Đoạn chảy qua Lục Ngạn dài hơn 60km, với lưu lượng
nước khá lớn. Mức nước trung bình trên sông vào mùa lũ khoảng 4,5m. Lưu
lượng nước lớn nhất vào mùa mưa khoảng 1.300 - 1.400m3/s, lưu lượng nước
thấp nhất vào mùa khô khoảng 1m3/s. Sông Lục Nam cùng với hệ thống phụ
lưu chằng chịt của nó vươn tới khắp các xã vùng núi sâu và xa. Đây vừa là
nguồn nước tưới, vừa là hệ thống tiêu nước, đồng thời là mạng lưới giao
thông thuận tiện.
Ngoài nguồn nước sông ngòi, Lục Ngạn còn có hệ thống các hồ, ao,
đập tự tạo, với trữ lượng nước tương đối lớn. Hồ Cấm Sơn có diện tích mặt
nước lên tới 27.000.000m2, hồ Khuôn Thần có diện tích mặt nước
1.400.000m2 [76, tr.29]. Hệ thống hồ đập này hàng năm cung cấp nước tưới
cho hàng ngàn ha cây trồng trong huyện. Ngoài ra, theo một số điểm đã được
thăm dò, Lục Ngạn có nguồn nước ngầm với trữ lượng lớn, chất lượng tốt và
rất thuận tiện trong khai thác, sử dụng.
Chế độ mưa hàng năm ở Lục Ngạn phân thành hai mùa rõ rệt. Mùa mưa
kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10 dương lịch, mùa khô bắt đầu từ tháng 11 kéo
dài đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa trung bình khoảng 1.321mm. Lượng mưa
cao nhất là 1.780mm, tập trung vào các tháng 6,7,8 dương lịch. Lượng mưa
thấp nhất là 912mm, tập trung vào tháng 1 và tháng 12 dương lịch.
Khí hậu Lục Ngạn mang những đặc trưng của vùng khí hậu chuyển
tiếp, vừa có tính nhiệt đới nóng ẩm, vừa có tính chất Á nhiệt đới. Nhiệt độ
18
trung bình hàng năm là 220, độ ẩm trên 80%. Với điều kiện khí hậu khá đặc
biệt này, Lục Ngạn thường được coi là một "tiểu vùng khí hậu".
Đặc điểm đất đai, khí hậu, thuỷ văn ở Lục Ngạn đã tạo cho huyện một
thảm thực vật hết sức phong phú, đa dạng. Ngoài diện tích rừng lớn, Lục
Ngạn có nhiều điều kiện thuận lợi, để phát triển các cây nông nghiệp và các
loại hoa mầu. Đặc biệt, với tính chất tiểu vùng khí hậu cùng với tính chất thổ
nhưỡng phù hợp cho việc trồng nhiều loại cây ăn quả, nhất là vải thiều.
Nguồn khoáng sản chưa được thăm dò, đánh giá đầy đủ. Nhưng thực tế
cho thấy đây là vùng nghèo khoáng sản, phần lớn có qui mô nhỏ, trữ lượng
thấp không có khả năng khai thác bằng công nghệ cao.
1.2. Lịch sử hành chính huyện Lục Ngạn
Trải qua các thời kỳ lịch sử, Lục Ngạn đã từng có nhiều tên gọi và quy
mô địa giới hành chính khác nhau.
Thời Hùng Vương, Lục Ngạn thuộc bộ Kê Từ, đến thời Bắc thuộc nó
trở thành huyện Kê Từ.
Thời Lý, Lục Ngạn có tên là Lục Na thuộc châu Lạng. Thời Trần, Lục
Ngạn thuộc lộ Bắc Giang.
Thời nhà Minh đô hộ, Lục Ngạn được chia thành 2 huyện Na Ngạn và
Lục Na.
Thời Lê, địa bàn Lục Ngạn thuộc về hai huyện Lục Ngạn và Bảo Lộc.
Tên gọi Lục Ngạn xuất hiện từ thời Quang Thuận (1460 - 1469). Dưới
triều vua Lê Chính Hoà (1680 - 1705), huyện lỵ Lục Ngạn đóng tại xã Thủ
Dương (nay là xã Nam Dương). Đến thời Nguyễn, di chuyển về xã Cương
Sơn (nay là xã Cương Sơn huyện Lục Nam). Đầu thế kỷ XIX, Lục Ngạn
thuộc tỉnh Bắc Ninh với 7 tổng (Vô Tranh, Cương Sơn, Kiên Lao, Hả Hộ, Mỹ
Nương, Niêm Sơn, Biển Động), chia làm 44 xã. Giữa triều vua Tự Đức nhập
thêm 4 tổng: Trạm Điền, Đan Hội, Bắc Lũng và Bản Động. Năm Thành Thái
19
nguyên niên (1889), đổi 2 tổng Bản Động và Niêm Sơn về huyện Yên Bác,
tổng Trạm Điền về huyện Chí Linh.
Thời thực dân Pháp đô hộ, địa giới của Lục Ngạn tiếp tục có sự biến
đổi: ngày 5 - 11 - 1889, tỉnh Lục Nam thành lập, Lục Ngạn là huyện thuộc
tỉnh Lục Nam; ngày 8 - 9 - 1891, tỉnh Lục Nam giải thể, Lục Ngạn trở lại tỉnh
Bắc Ninh; ngày 10 - 10 - 1895, tỉnh Bắc Giang thành lập, Lục Ngạn thuộc
tỉnh Bắc Giang, trừ các tổng Trù Hựu, Kiên Lao, Hả Hộ nằm trong đạo quan
binh Yên Thế; tháng 2 năm 1909, các tổng Biển Động, Niêm Sơn, Mỹ
Nương, Kiên Lao, Hả Hộ từ huyện Lục Ngạn về huyện Sơn Động. Trước
cách mạng tháng Tám, Lục Ngạn bao gồm 10 tổng: Bắc Lũng, Chu Điện,
Cương Sơn, Đan Hội, Kiên Lao, Mỹ Nương, Sơn Đình, Tam Dị, Trù Hựu, Vô
Tranh, với tổng số 64 xã.
Sau cách mạng tháng Tám, địa giới Lục Ngạn có nhiều thay đổi. Khi
quân Pháp mở rộng chiếm đóng ra vùng Đông Bắc, đã chia cắt 2 huyện Sơn
Động và Lục Ngạn. Tháng 7 năm 1947, Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên
khu I đã tách các xã phía tây Sơn Động về Lục Ngạn, sáp nhập 10 xã tả ngạn
sông Lục Nam thuộc huyện Lục Ngạn cùng với các xã phía đông huyện Sơn
Động và huyện Hải Chi (tỉnh Hải Ninh) thành châu Lục Sơn Hải thuộc liên
tỉnh Quảng Hồng. Năm 1955, các xã trước đây đã cắt sang châu Lục Sơn Hải
trở về Lục Ngạn. Ngày 21 - 1 - 1957, Thủ tướng Chính phủ ra nghị định số
24/TTg, chia 2 huyện Sơn Động và Lục Ngạn thành 3 huyện Sơn Động, Lục
Ngạn và Lục Nam.
Hiện nay, Lục Ngạn gồm 29 xã và một thị trấn, với 405 thôn bản, trong
đó có 17 xã vùng thấp và 12 xã vùng cao.
Thị trấn: Chũ.
Các xã vùng thấp: Kiên Lao, Kiên Thành, Thanh Hải, Biện Sơn, Tân
Hoa, Quý Sơn, Trù Hựu, Nghĩa Hồ, Hồng Giang, Giáp Sơn, Phì Điền, Biển
Động, Phượng Sơn, Nam Dương, Đồng Cốc, Mỹ An, Tân Quang.
20
Các xã vùng cao: Cấm Sơn, Tân Sơn, Sơn Hải, Hộ Đáp, Phong Vân,
Phong Minh, Xa Lý, Kim Sơn, Tân Lập, Phú Nhuận, Tân Mộc, Đèo Gia.
1.3. Điều kiện xã hội
Ngay từ buổi bình minh của lịch sử, vùng đất Lục Ngạn đã có người
Việt cổ sinh sống. Khảo cổ học đã phát hiện hàng loạt di vật - công cụ lao
động được chế tác bằng đá cuội tại ven bờ sông Lục, với các địa điểm Chũ
phố, Chũ làng... Chủ nhân của những di vật này là con người thuộc văn hoá
Sơn Vi, hậu kì thời đại đồ đá cũ, cách đây gần 2 vạn năm [3, tr.13].
Trải qua các thời kì lịch sử, dân số cũng như thành phần các dân tộc
trong huyện không ngừng tăng lên. Tính đến ngày 31-12-2004, Lục Ngạn có
196.516 người, mật độ: 180 người/km2. Lục Ngạn có 11 dân tộc cùng chung
sống là: Kinh, Nùng, Tày, Cao Lan, Sán Chí, Sán Dìu, Hoa, Dao... [3, tr.13].
Trong đó, dân tộc Kinh chiếm 51% dân số, dân tộc Sán Dìu có số người đông
đứng thứ 3 trong tổng số các dân tộc của huyện, sau dân tộc Kinh và Nùng.
Số lượng và tỷ lệ nhân khẩu các dân tộc được thể hiện trong bảng 1.1.
Bảng 1.1: Các dân tộc trong huyện Lục Ngạn năm 2004
STT Dân tộc Nhân khẩu Tỷ lệ % Ghi chú
Kinh 1 100.735 51,260
Nùng 2 36.215 18,429
Sán Dìu 3 21.424 10,902
Hoa 4 12.816 6,522
Tày 5 11.986 6,099
Sán Chay 6 11.939 6,075 Gồm Cao Lan và Sán Chí
Dao 7 1.319 0,671
8 0,042 Các dân tộc khác 82
100 Tổng cộng 196.516
(Nguồn: Ban Dân tộc tỉnh Bắc Giang 2004)
21
Qua nghiên cứu về tình hình xã hội ở huyện Lục Ngạn, chúng tôi thấy
có một số điểm đáng chú ý sau:
Đại đa số dân cư sống ở khu vực nông thôn miền núi, các dân tộc sống
thành làng bản có tổ chức tương đối hoàn chỉnh, chặt chẽ, mỗi dân tộc có
phong tục, tập quán riêng.
Các dân tộc ở Lục Ngạn thuộc 4 ngữ hệ (Nam Á có người Kinh; Thái -
Ka Đai có người Tày - Nùng - Thái và Sán Chay; ngữ hệ H'Mông - Dao có
người Dao; ngữ hệ Hán - Tạng có người Hoa và Sán Dìu) trên tổng số 5 ngữ
hệ ở Việt Nam (Nam Á, Nam Đảo, Thái - Ka Đai, H'Mông - Dao, Hán Tạng),
nhưng các dân tộc này lại sống xen cư, cận cư với nhau. Tuy là huyện có
thành phần dân tộc phức tạp, song, các dân tộc đều chung sống hoà thuận,
cùng nhau xây dựng quê hương. Tính cộng đồng, tinh thần tương thân, tương
ái không ngừng được củng cố.
Các dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Lục Ngạn đều là cộng đồng
người đã tiến tới một trình độ phát triển khá cao về sản xuất và thang bậc xã
hội như: sử dụng cày bừa, phân bón, sức kéo gia súc, thâm canh lúa nước,
gia đình phụ quyền, tiếp thu tam giáo (Nho, Đạo, Phật), sử dụng Hán tự và
chữ nôm để ghi chép… Những yếu tố tiến bộ này là điều kiện quan trọng để
các dân tộc trong huyện duy trì và phát triển những bản sắc văn hoá riêng
của mình.
Trong những năm gần đây, công tác y tế, giáo dục đào tạo của huyện
cũng có bước chuyển biến tích cực. Tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội
được giữ vững. Phong trào xây dựng gia đình văn hoá, làng bản văn hoá, cơ
quan văn hoá bước đầu được thực hiện và được đông đảo quần chúng nhân
dân hưởng ứng.
Tuy nhiên, hiện nay, tình hình xã hội huyện Lục Ngạn vẫn còn một số
khó khăn nhất định. Tỷ lệ hộ nghèo của huyện vẫn còn cao do nhân dân thiếu
22
đất canh tác, thiếu sự đầu tư khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Đó cũng chính là
nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất học, nhất là đối với con em người dân tộc
thiểu số vùng sâu vùng xa. Các tệ nạn xã hội nảy sinh và có chiều hướng gia tăng.
1.4. Vài nét về tộc người Sán Dìu ở huyện Lục Ngạn
1.4.1. Nguồn gốc, tên gọi, số lượng, địa bàn cư trú
Về nguồn gốc, vấn đề nguồn gốc dân tộc Sán Dìu từ lâu đã được nhiều
nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu. Trong tác phẩm "Kiến văn tiểu lục", Lê
Quý Đôn có nói tới 8 chủng tộc Man sống ở miền Bắc nước ta là: Sơn Trang,
Sơn Tử, Cao Lan, Sơn Man, Sơn Bán, Sơn Miêu, Hán Văn và Bảo Toàn.
Trong đó, tên Sơn Man đáng để chúng ta chú ý. Như ta biết, dưới thời phong
kiến, nhiều dân tộc thiểu số được gọi là Mán, Man. Nhưng có thể khẳng định,
tất cả các nhóm Dao ở nước ta đều được gọi là Man. Như vậy, có thể Man
chính là Dao, Sơn Man tức là Sơn Dao, hay cũng chính là người Sán Dìu. Tác
giả Bùi Đình, trong công trình "Tìm hiểu đồng bào miền núi Việt Nam", cũng
khẳng định: “Quần cộc từ Quảng Đông di cư sang nước ta được độ ba bốn
trăm năm nay, còn có tên là Sơn Dao” [30, tr.78].
Hiện nay, đa số các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng, người Sán Dìu
là một bộ phận của người Dao. Mặc dù có nguồn gốc là người Dao, nhưng do
sống cách biệt với các nhóm Dao khác trong một thời gian dài, người Sán Dìu
đã không còn sử dụng ngôn ngữ Dao mà chuyển sang sử dụng một ngôn ngữ
khác. "Từ xa xưa, người Dao bị bọn phong kiến phương Bắc thống trị đã "bóp
vụn" thành nhiều nhóm nhỏ, khiến cho mỗi nhóm phiêu bạt một nơi. Người
Sán Dìu có thể là một trong những nhóm đó, nhưng đã sống lâu đời bên cạnh
người Hán (phương Nam) nên dần dần quên tiếng mẹ đẻ (tiếng Dao), để tiếp
thu một thổ ngữ Hán Quảng Đông" [21, tr.15].
Trong quá trình khảo sát thực tế tại các xã Quý Sơn, Hồng Giang, Giáp
Sơn huyện Lục Ngạn, chúng tôi thấy, tất cả những văn tự, lời kể của người
23
Sán Dìu khi nói về nguồn gốc của mình đều nhắc tới các địa danh như: Tân
Châu, Quý Châu, Dương Châu, Hồ Nam… thuộc Trung Quốc.
Để giải thích về nguồn gốc của dân tộc mình, người Sán Dìu ở Lục
Ngạn còn lưu truyền một số truyện thơ bằng chữ Hán như: “Vũ Nhi”, “Vua
Cóc”…. Những nhân vật cũng như các địa danh trong những câu chuyện trên
cũng đều xuất phát từ Trung Quốc.
Như vậy, căn cứ vào các tài liệu đã công bố cũng như qua các tài liệu
điền dã dân tộc học, căn cứ vào những câu chuyện kể trong dân gian, cũng
như các ghi chép trong các gia phả, sách cúng hương hoả... có thể khẳng định,
người Sán Dìu là một nhánh của người Dao ở Trung Quốc, do điều kiện chiến
tranh loạn lạc, đã di cư vào Việt Nam cách ngày nay khoảng 300 - 400 năm.
Về tên gọi, mặc dù tộc người Sán Dìu không phân thành nhiều nhóm
nhưng lại có rất nhiều tên gọi khác nhau. Người Sán Dìu tự gọi mình là San
Déo Nhín, theo âm Hán Việt là Sơn Dao Nhân, tức người Dao ở trên núi. Các
dân tộc xung quanh lại gọi họ với nhiều tên khác nhau dựa vào đặc điểm canh
tác, nhà ở, đặc điểm y phục, như: Trại Đất (người Trại ở nhà đất), Trại Ruộng
để phân biệt với người Trại Cao ở nhà sàn - người Cao Lan, Mán Quần Cộc,
Mán Váy Xẻ, Sán Nhiều, Slán Dao… Những tên gọi trên vẫn tồn tại, nhưng
tên chính thức trên các văn bản nhà nước của tộc người này là Sán Dìu.
Về số lượng, ở Việt Nam hiện nay, có khoảng trên 4 vạn người Sán Dìu
sinh sống. Bắc Giang là một trong những tỉnh có người Sán Dìu sinh sống
đông nhất cả nước. Qua các giai đoạn lịch sử, đặc biệt từ sau khi đất nước
thống nhất, số lượng người Sán Dìu ở Bắc Giang tăng lên nhanh chóng. Tính
đến năm 2004, tỉnh Bắc Giang có 26.102 người, trong đó huyện Lục Ngạn có
21.424 người, chiếm 82,07% tổng số người Sán Dìu trong toàn tỉnh. Người
Sán Dìu chiếm 20,4% trong tổng số các dân tộc thiểu số và 10,9% dân số toàn
huyện Lục Ngạn. Số lượng người Sán Dìu ở Bắc Giang qua các thời kì được
nêu trong bảng 1.2.
24
Bảng 1.2. Người Sán Dìu ở Bắc Giang qua các cuộc tổng điều tra dân số
STT Nhân khẩu Tỷ lệ % Ghi chú Năm
1960 1 5.350 1,02
1979 2 11.798 1,17
1989 3 17.053 1,35
1999 4 23.779 1,59
(Nguồn: Ban Dân tộc tỉnh Bắc Giang)
Về địa bàn cư trú, sau khi vào Quảng Ninh, người Sán Dìu toả đi các
nơi. Một bộ phận dọc theo bờ biển đến Đầm Hà, Móng Cái, Hoành Bồ, Mạo
Khê, Đông Triều (Quảng Ninh). Một nhóm sang Chí Linh (Hải Dương), còn
phần lớn theo dãy Yên Tử để vào Lục Ngạn, Lục Nam, Lạng Giang, Yên Thế
(Bắc Giang), rồi từ đó chuyển lên Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, Thái Nguyên.
Hiện nay, các tỉnh Quảng Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, Thái
Nguyên vẫn là địa bàn cư trú chủ yếu của người Sán Dìu. Tại những nơi này,
người Sán Dìu không sống thành những khu biệt lập riêng, họ cư trú rải rác,
xen cài với các dân tộc khác như: Kinh, Dao, Tày...
Qua tìm hiểu chúng tôi nhận thấy, người Sán Dìu thường không sinh
sống ở các vùng núi cao, cũng rất ít cư trú ở vùng đồng bằng. Địa bàn cư trú
chủ yếu của người Sán Dìu là những vùng núi thấp, hoặc trung bình, xen giữa
những vùng đồi rộng lớn. Đây là những vùng tương đối thuận lợi cho trồng
trọt, chăn nuôi, giao thông đi lại. Nhìn chung, địa hình khu vực người
Sán Dìu sinh sống ít hiểm trở hơn so với địa bàn cư trú của một số dân
tộc thiểu số khác.
Ở Bắc Giang, ngươi Sán Dìu sống ở các xã đồi núi thấp thuộc các
huyện Lục Ngạn, Lạng Giang, Yên Thế, Lục Nam, Sơn Động. Người Sán
Dìu ở Bắc Giang phân bố tại các huyện được thể hiện cụ thể trong bảng 1.3.
25
Bảng 1.3. Sự phân bố người Sán Dìu ở Bắc Giang năm 2004
STT Huyện Nhân khẩu Tỷ lệ % Ghi chú
21.424 82,078 1 Lục Ngạn
2.683 10,279 2 Lục Nam
1.235 4,731 3 Lạng Giang
456 1,747 4 Yên Thế
155 0,594 5 Sơn Động
119 0,456 6 Thành phố Bắc Giang
19 0,073 7 Tân Yên
5 0,019 8 Việt Yên
5 0,019 9 Yên Dũng
1 0,003 10 Hiệp Hòa
100 Tổng 26.102
(Nguồn: Ban Dân tộc tỉnh Bắc Giang 2004)
Tại huyện Lục Nam, người Sán Dìu cư trú ở các xã: Đông Hưng, Đông
Phú, Tiên Nha, Tam Ry, Bảo Sơn, Vô Tranh, Trường Sơn.
Tại huyện Sơn Động, ở các xã: Yên Định, Cẩm Đàn, Tuấn Đạo, Hữu
Sản, Dương Hưu.
Huyện Lạng Giang, ở các xã: Yên Mỹ, Hương Lạc, Hương Sơn,
Quang Thịnh.
Huyện Yên Thế, ở xã Đông Sơn.
Tại huyện Lục Ngạn, người Sán Dìu cư trú tại 21 trên tổng số 30 xã và
thị trấn, chủ yếu tại các xã: Quý Sơn, Giáp Sơn, Thanh Hải, Hồng Giang,
Nghĩa Hồ, Tân Lập, Tân Mộc, Nam Dương, Mỹ An, Kiên Thành, Trù Hựu,
Phi Điền, Phượng Sơn, Tân Quang… Địa bàn cư trú và số lượng người Sán
Dìu ở Lục Ngạn được nêu tại bảng 1.4.
26
Bảng 1.4. Người Sán Dìu ở Lục Ngạn năm 2006
STT Xã Nhân khẩu Tỷ lệ % Ghi chú
1 Quý Sơn 5.308 24,58
2 Giáp Sơn 3.317 15,36
3 Thanh Hải 2.363 10,94
4 Nam Dương 2.075 9,61
5 Hồng Giang 1.676 7,76
6 Nghĩa Hồ 1.645 7,62
7 Kiên Thành 1.201 5,56
8 Tân Mộc 1.169 5,41
9 Trù Hựu 827 3,83
10 Phượng Sơn 619 2,87
11 Tân Lập 403 1,87
12 Mỹ An 385 1,78
13 Tân Quang 351 1,63
14 Đồng Cốc 74 0,34
15 Kiên Lao 54 0,25
16 Thị trấn Chũ 47 0,22
17 Biên Sơn 37 0,17
18 Tân Hoa 24 0,11
19 Đèo Gia 9 0,04
20 Kim Sơn 9 0,04
21 Phì Điền 4 0,02
100 Tổng số 21.597
(Nguồn: Ban Dân tộc tỉnh Bắc Giang 2006)
27
1.4.2. Đời sống kinh tế - văn hoá - xã hội
- Đời sống kinh tế
Trong nền kinh tế truyền thống của người Sán Dìu, nông nghiệp đóng
vai trò chủ đạo “Quần cộc chỉ chuyên về nông nghiệp, không có công nghệ gì
khác” [30, tr.78]. Trong quá trình sản xuất, người Sán Dìu ở Lục Ngạn đã đúc
kết được nhiều kinh nghiệm quý báu. Điều này được thể hiện ở chu kỳ sản
xuất hàng năm (tính theo âm lịch), mỗi tháng trong năm họ đều có sự tính
toán trước là sẽ làm gì trên mảnh đất của mình; ở cách phân loại đất, họ phân
đất canh tác thành 5 loại: ruộng lầy thụt, ruộng nước, bãi, ruộng bậc thang và
nương, tuỳ từng loại ruộng mà đồng bào sẽ trồng những cây và có biện pháp
canh tác phù hợp; ngoài ra, họ còn có nhiều kinh nghiệm trong việc chọn
giống, kỹ thuật canh tác…
Ngoài trồng trọt, người Sán Dìu ở Lục Ngạn cũng rất chú ý đến chăn
nuôi. Đối với đồng bào, chăn nuôi chủ yếu là phục vụ trồng trọt (cung cấp sức
kéo và phân), lấy thực phẩm cho cuộc sống hàng ngày và phục vụ các nghi lễ
trong chu kỳ đời người. Trong các loại gia súc như: trâu, bò, ngựa… đồng bào
chủ yếu nuôi trâu vì đây là con vật phàm ăn, khoẻ, và cho nhiều phân, đây
cũng là con vật chủ yếu được sử dụng trong các đám chay - làm lễ cúng cho
người mới chết nhập vào ma của tổ tiên. Ngoài ra, lợn và gà cũng được đồng
bào nuôi nhiều vì đây là những con vật không thể thiếu được trong các đám
ăn hỏi, lễ cấp sắc, cúng mụ, giải hạn, trừ ma…
Ngoài nghề nông, người Sán Dìu cũng làm một số nghề phụ như: đan
lát, kéo sợi, dệt vải, nghề mộc, nghề rèn… Sản phẩm thủ công chủ yếu phục
vụ sinh hoạt va sản xuất của từng gia đình, đôi khi được đem bán hoặc trao
đổi trong vùng. Những lúc nông nhàn, người Sán Dìu còn khai thác lâm thổ
sản như: tre, nứa, mây, gỗ, các loại cây có chất tinh dầu và cây dược liệu.
Đồng bào còn săn bắn vào mùa khô ráo, sau vụ gặt mùa hoặc từ cuối thu sang
xuân vừa để giải trí, vừa để kiếm thức ăn.
28
Như vậy, trong nền kinh tế truyền thống của người Sán Dìu ở Lục
Ngạn, sản xuất nông nghiệp vẫn giữ vai trò chủ đạo. Cây lúa là nguồn lương
thực chủ yếu. Các sản phẩm làm gia chủ yếu là phục vụ cho nhu cầu hàng
ngày của từng gia đình. Với nền kinh tế như vậy, đời sống của đồng bào
tương đối khó khăn. Theo tổng kết của một số người già trong các thôn bản
người Sán Dìu, trước đây, cứ 5 năm thì 4 năm ăn độn từ 2 - 4 tháng, 10 năm
thì có một năm đói to. Nền sản xuất nhỏ, manh mún tự cung, tự cấp này chỉ
dần được xoá bỏ từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần VI (1986). Hiện nay, cơ
cấu cây trồng, vật nuôi của đồng bào Sán Dìu ở Lục Ngạn đã có sự thay đổi
đáng kể. Ngoài những cây, con truyền thống, họ còn trồng và nuôi nhiều loại
cây, con có giá trị kinh tế cao như: vải thiều, nhãn, hồng, ba ba, thỏ… Sản
phẩm làm ra không chỉ để phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày mà còn để trao
đổi và xuất khẩu. Đời sống của đồng bào dân tộc Sán Dìu ở Lục Ngạn hiện
nay, được nâng lên rõ rệt.
- Đời sống văn hóa
Văn hoá vật chất
Cấu trúc làng bản và nhà ở: người Sán Dìu thường cư trú thành chòm,
xóm riêng, mỗi đơn vị như vậy chỉ có khoảng mươi mười năm nóc nhà. Làng
thường được thiết lập dưới những chân núi thấp, trên đồi bằng. Nhà dựa lưng
vào núi (đồi) nhìn ra những cánh đồng hoặc những nơi gần ruộng, gần nguồn
nước thuận tiện sinh hoạt và sản xuất.
Nhà ở của người Sán Dìu ở Lục Ngạn, thường làm theo quy mô nhỏ, bộ
sườn kết cấu đơn giản, vì kèo thường là ba hay năm cột, kèo đơn bằng tre hay
gỗ nhỏ nguyên cây, xà và kèo gác lên ngoạm đầu cột, được buộc lại với nhau
bằng lạt. Mỗi căn nhà thường có 5 gian, 3 gian giữa thụt vào, 2 gian hồi nhô
ra phía trước, một bên là phòng con gái, một bên là phòng chủ nhà hoặc cô
dâu. Hiện nay, nhà của người Sán Dìu ở Lục Ngạn đã có nhiều thay đổi về
29
nguyên vật liệu xây dựng, kiểu dáng thiết kế, nhưng vẫn còn giữ được những
tập quán mang tính tâm linh của riêng mình trong xây dựng, bố trí ăn ở, cũng
như cách thức sử dụng ngôi nhà trong mọi sinh hoạt gia đình và cộng đồng.
Trang phục: theo truyền thống, trang phục của người Sán Dìu có sự
phân biệt giữa ngày thường và ngày lễ. Dịp tết, lễ hội, hoặc đi chơi xa, đàn
ông thường vận một cặp áo dài, áo trong mầu trắng hoặc xanh, áo ngoài mầu
đen, áo năm thân, cao cổ, cài khuy bên phải, ống tay hẹp, áo dài quá gối.
Ngày thường hay khi lao động, người ta mặc áo ngắn và cũng là kiểu áo năm
thân, nhưng mầu nâu, thân cụt, ở bên trong thân phải có may một túi nhỏ.
Đàn ông để tóc dài, búi tó sau gáy, cài trâm bằng xương nai hoặc bằng
bạc. Thường ngày người ta để đầu trần hoặc vấn khăn đầu rìu; khi đi dự đám
cưới hay đi chơi, đội khăn xếp, hoặc vấn khăn nhiễu mầu đen.
Ngày thường đi chân đất hay guốc mộc bằng gỗ, đi hội hè người sang
đi giày da, còn người nghèo đi dép quai ngang, đế bằng da trâu.
Nam giới ít dùng đồ trang sức, chỉ có vài cái nhẫn bằng đồng hoặc bằng
bạc, đôi khi thêm vòng cổ.
Trang phục truyền thống của phụ nữ Sán Dìu gồm có: khăn đội đầu, áo
dài, váy ngắn, yếm, thắt lưng và xà cạp. Áo dài và áo ngắn cắt cùng kiểu, chỉ
khác nhau về độ dài, áo thường mặc thành từng cặp. Riêng áo dài, áo bên
ngoài bao giờ cũng là mầu chàm, còn áo bên trong có thể là mầu trắng, áo dài
được cắt theo kiểu áo tứ thân, cổ cao, nẹp trơn, không đính khuy, bên trong
đáp bằng vải mầu trắng, để khi mặc thì lộn ra ngoài. Cách mặc áo cũng có sự
khác biệt giữa các lứa tuổi. Người già thường mặc áo vạt trái vắt sang bên
phải, còn người trẻ thì ngược lại. Riêng phụ nữ nuôi con nhỏ, thường mặc áo
ngắn cắt theo kiểu áo năm thân, nhưng không có khuy, chỉ đính dải để buộc.
Phụ nữ Sán Dìu trước đây không mặc yếm.
30
Váy người phụ nữ Sán Dìu rất độc đáo. Đó là kiểu váy gồm 2 hoặc 4
mảnh vải đính trên một cặp, mảnh này chờm lên mảnh kia khoảng 15 - 20 cm,
khi mặc một mảnh ở phía trước, một mảnh ở phía sau tạo thành khe hở dọc
hai bên đùi, nếu là 4 mảnh thì 2 mảnh trước, 2 mảnh sau, độ dài thường chỉ
đến đầu gối.
Phụ nữ Sán Dìu vấn tóc và đội khăn vuông màu đen, ở 4 góc khăn có
trang trí hoa văn ghép vải màu và có các tua vải, khi đội người ta buộc 2 tua
vải lên đỉnh đầu.
Phụ nữ Sán Dìu đi giày vải, dép lốp, dép nhựa và các kiểu guốc. Trong
lao động hoặc đi đường phụ nữ Sán Dìu còn cuốn xà cạp bằng vải màu trắng
hoặc màu chàm.
Đồ trang sức của phụ nữ Sán Dìu gồm có: khuyên tai, vòng cổ, vòng tay
và nhẫn, xà tích. Khi nói tới đồ trang sức, có lẽ phải kể đến túi đựng trầu hình
múi bưởi, được may và thêu thùa rất công phu. Túi thêu bằng chỉ mầu, được
luồn từ bốn đến tám sợi dây tết bằng chỉ nhiều màu. Đầu dây tết nút và có tua
dài đeo một chuỗi đồng xu đồng để vắt qua vai sau lưng giữ lấy túi trầu. Bên
cạnh túi trầu phải kể đến con dao cau với cái vỏ gỗ được chạm khắc rất công
phu, thường được chị em phụ nữ Sán Dìu đeo luôn bên thắt lưng vào những dịp
hội hè, tết nhất. Túi trầu là vật làm duyên của người phụ nữ Sán Dìu.
Ăn uống: ngoài gạo tẻ, trong bữa ăn hàng ngày của người Sán Dìu ở Lục
Ngạn thường có thêm các loại rau măng, thịt cá. Trong thói quen ăn uống của
họ có một nét rất độc đáo. Mỗi sáng họ thường nấu một nồi cháo trắng loãng,
nồi cháo này vừa để ăn, vừa để uống thay nước chè, nước trắng hàng ngày.
Văn hoá tinh thần
Tín ngưỡng, phong tục: người Sán Dìu có một thế giới quan phong phú
với quan niệm con người có linh hồn; thế giới có ba tầng là Thiên, Trần và
Âm. Cõi trời là nơi ở của các vị thần cai quản hai cõi dưới. Cõi trần là nơi thử
31
thách con người và cõi âm là nơi linh hồn con người được hưởng những điều
tốt lành hay bị trừng phạt tuỳ theo duyên nghiệp đã tạo ra ở cõi trần. Với
người Sán Dìu, các tập tục thờ cúng đã trở thành một nhu cầu thường xuyên
với các nghi lễ độc đáo.
Cũng như nhiều cư dân khác, người Sán Dìu thờ cúng tổ tiên là chính,
đồng thời cũng thờ Phật giáo, Đạo giáo và Khổng giáo. Họ cũng rất tin ở các
loại thần linh, ma quỷ khác.
Mỗi gia đình người Sán Dìu đều có bàn thờ được đặt sát tường chính
gian giữa, gian trung tâm của ngôi nhà. Trên ban thờ đặt một bát hương tổ
tiên. Có gia đình còn đặt bát hương bên ngoại trên bàn thờ tổ tiên. Thờ cúng
tổ tiên là một nghi lễ được cúng vào các dịp lễ tết, tuần tiết. Lễ cúng có cả lễ
chay, lễ mặn, nước cúng không phải nước trắng mà nước chè. Ở người Sán
Dìu, tuỳ từng dòng họ mà tổ tiên được thờ từ sáu, bẩy đời, cho tới mười đời,
mười hai đời. Nhưng khi cúng bái, cầu khấn sự linh ứng, thì người ta tính đến
đời thứ tư, nếu tính từ đời mình, tức là từ đời cụ của mình. Từ thế hệ thứ tư trở
đi đã coi như ma gia trạch, chỉ cúng vào dịp tết, lễ, chủ yếu là tết Nguyên đán.
Bên cạnh việc thờ cúng tổ tiên, người Sán Dìu ở Lục Ngạn còn thờ mụ, thờ thổ
thần, thờ Thành Hoàng làng, Táo quân, thần cửa và nhiều loại ma khác.
Quan niệm về ma của người Sán Dìu ở Lục Ngạn là sự bình đẳng giữa
thần, thánh, ma quỷ trong thế giới thần linh. Ma bao hàm một nghĩa rộng, nhằm
chỉ tất cả thần thánh, ma quỷ có mặt trên đời, trên mặt đất hay dưới nước.
Ma trời, ma đất, ma nước, ma nhà, ma tổ, ma rừng, ma cây cối, ma súc
vật… Tất cả các lực lượng siêu linh được đồng bào phân thành hai loại: ma
tốt và ma xấu. Ma tốt thường bảo vệ con người, mùa màng, vật nuôi, giúp con
người chống đỡ lại các loại ma xấu. Đôi khi ma lành cũng trừng phạt con
người, nếu những người thờ phụng thiếu chu đáo. Ngay cả những con ma là
người thân thuộc nhất trong gia đình nhiều khi cũng giận hờn, quở trách con
32
cháu, gây ra ốm, tai nạn… Ma dữ là ma rừng, ma sấm sét, ma những người
chết bất đắc kỳ tử. Bất cứ sự việc gì xảy ra, nếu không giải thích được thì họ
đều cho là do ma làm. Ma lành được thờ ở trong nhà, các ma khác chỉ cúng
mà không thờ. Người Sán Dìu ở Lục Ngạn còn rất tin vào ma thuật (ma thuật
làm hại và ma thuật chữa bệnh).
Người làm thầy cúng thờ Thái Thượng Lão Quân và thờ Tam Thanh
(Thượng Thanh, Thái Thanh và Ngọc Thanh). Họ thờ cả Phật Bà Quan Âm ở
tại nhà, coi Phật cũng là một thứ ma rất linh thiêng, có nhiều phép thần thông,
có lòng độ lượng từ bi cao cả, luôn cứu vớt giúp đỡ những người gặp hoạn
nạn khó khăn nơi trần thế. Bàn thờ Phật Bà Quan Âm được đặt ở một nơi
riêng biệt, trang nghiêm, bên trên có một bát hương. Những người thờ Phật
Bà Quan Âm kiêng ăn thịt trâu, thịt chó và hạn chế sát sinh. Người làm thầy
cúng còn thờ tổ sư, đó là thờ ông tổ làm nghề cúng bái. Ban thờ này thường
được làm đơn giản, đặt ở tường hồi nhà. Trước khi đi cúng người thầy phải
thắp hương xin phép tổ sư và khi về cũng phải thắp hương để báo cáo công
việc của mình.
Ngoài ra, các phong tục trong sinh đẻ, cưới xin, tang ma của người Sán
Dìu ở Lục Ngạn cũng có nhiều nét đặc sắc khác với các dân tộc khác. Hàng
năm, người Sán Dìu thường tổ chức các nghi lễ sau:
Lễ tạ mộ: được làm để cầu yên cho ngôi mộ và linh hồn của tổ tiên. Khi
gia đình gặp chuyện bất trắc, người chủ gia đình đi mời thầy cúng xem rõ
nguyên nhân. Nếu nguyên nhân là do mộ tổ tiên của gia đình đó bất yên thì
gia chủ sẽ tiến hành lễ tạ mộ. Theo quan niệm của người Sán Dìu ở Lục
Ngạn, mồ mả là ngôi nhà cho các linh hồn trú ẩn, bởi vậy khi mồ mả bị dẫm
đạp, trâu bò phá… sẽ làm cho linh hồn nổi giận về quấy quả con cháu. Do đó,
người ta làm lễ tạ mộ để cầu mong cho linh hồn người chết được yên lành
không về bắt tội con cháu.
33
Lễ trấn trạch đuổi ma: khi gia chủ thấy nhà mình không được yên ổn,
các thành viên trong gia đình hay ốm đau… họ sẽ mời thầy cúng về làm lễ
trấn trạch nhằm xua đuổi các loại ma tà ra khỏi nhà.
Lễ kỳ yên nhà: đây là nghi lễ phổ biến trong cuộc sống của người Sán
Dìu ở Lục Ngạn. Trong truyền thống, lễ kỳ yên nhà được các gia đình người
Sán Dìu tiến hành khá đều đặn mỗi năm một lần vào dịp đầu xuân năm mới, để cầu
mong cho nhà cửa được bình an, mọi người khoẻ mạnh làm ăn may mắn.
Lễ kỳ yên làng: nghi lễ này mạng tính cộng đồng cao và tương đối phức
tạp. Nó thường được tiến hành vào những năm mất mùa, bệnh dịch… nhằm
xua đuổi tà mà, đem lại cuộc sống thanh bình, sức khỏe cho tất cả dân làng.
Tất cả các nghi lễ trên đều được tiến hành dưới sự chủ trì của thầy
cúng, do đó người thầy cúng có vai trò rất quan trọng trong đời sống của
người Sán Dìu, có nhiều thanh niên Sán Dìu muốn theo học và xin cấp sắc để
trở thành thầy cúng, thế hệ sau tiếp nghề từ thế hệ trước. Nhờ đó, tục thờ cúng
của đồng bào không khi nào bị mai một, đồng thời, tục cấp sắc cũng được duy
trì với tư cách là một trong những phong tục quan trọng nhất của người Sán Dìu ở
Lục Ngạn.
Văn hoá và nghệ thuật dân gian
Ngôn ngữ - văn tự: người Sán Dìu có ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Hán -
Tạng. Các âm phát ra của tiếng Sán Dìu cũng có các âm như: âm môi, âm
lưỡi, âm tắc, âm bật hơi… những âm này nhìn chung đều có những nét giống
với âm của tiếng Bắc Kinh. Khi chưa có chữ viết, người Sán Dìu đã mượn
chữ Hán để ký âm cho tiếng của tộc mình, nhưng lại đọc theo âm Sán Dìu.
Theo các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, người Sán Dìu dùng khoảng 95% chữ
Hán đọc theo âm Sán Dìu (Hán - Sán Dìu), còn lại là chữ tạo theo chữ Hán
nhưng âm nghĩa thay đổi hoặc chữ mới âm nghĩa mới, có thể coi là chữ Nôm
- Sán Dìu. Cho nên, nếu ai biết chữ Hán, không biết tiếng Sán Dìu vẫn có thể
34
đọc được văn tự Sán Dìu. Hiện nay, người Sán Dìu dùng hệ thống chữ cái
Latinh để ghi lại âm đọc của dân tộc mình.
Văn nghệ dân gian: người Sán Dìu có vốn văn nghệ dân gian lâu đời và
khá phong phú về nội dung cũng như thể loại, mang sắc thái riêng của dân tộc
mình. Trong cuộc sống hàng ngày, văn nghệ trở thành thói quen, thành món
ăn tinh thần không thể thiếu của đồng bào.
Dân ca Sán Dìu (Soọng cô) là tiếng nói của nhân dân lao động sáng tạo
nên trong quá trình sản xuất và chiến đấu phục vụ cuộc sống. Dân ca Sán Dìu
mang đậm chất lãng mạn, lạc quan, yêu đời, phóng khoáng và giàu chất trữ
tình. Soọng cô, về hình thức diễn xướng cũng tương tự như sli, slượn của
người Tày, Nùng; quan họ, hát ghẹo, hát xoan của người Kinh. Với thể thơ
năm hoặc bẩy chữ, lời soọng cô nhằm mục đích ca ngợi cảnh đẹp thiên nhiên,
tình yêu quê hương đất nước, tình yêu đôi lứa, đức tính cần cù, dũng cảm của
người lao động, đả kích thói hư tật xấu. Đồng thời, nói lên ước mơ của con
người muốn vượt qua mọi khó khăn gian khổ để xây dựng cho mình một cuộc
sống ấm no, hạnh phúc.
Những dịp hội đầu xuân, ngày tết, ngày cưới trai gái Sán Dìu ở Lục
Ngạn thường tổ chức đi hát soọng cô. Trai làng này đến hát với gái làng kia
và ngược lại. Mỗi tốp năm bẩy người, có khi tới mười người. Gia đình nào
được chọn tổ chức hát tại nhà thì coi đây là một vinh dự lớn, họ tiếp đãi rất
niềm nở và hào phóng. Trai gái hát thâu đêm, suốt sáng, ngày nghỉ, đêm lại
hát, càng hát càng say, có khi kéo dài hàng tuần. Vào những ngày hội, ngày
tết, phiên chợ, các chàng trai, cô gái tụm năm, tụm ba tổ chức hát soọng cô,
trước là để làm quen, sau là để thổ lộ tình yêu.
Về dân vũ, có một số điệu nhảy, chủ yếu dành cho tang ma, lễ cấp
sắc, cúng bái như: múa gậy, múa dâng đèn, múa hành quân tiếp thánh, múa
chạy đàn…
35
Về hội hoạ, có một số người hành nghề vẽ, chủ yếu là sao chép các bức
tranh thờ hoặc khắc con dấu, in ấn của thầy cúng.
Về thơ ca, đối với người Sán Dìu ở Lục Ngạn, thơ và ca chỉ là một,
người ta làm thơ để ca hát, và vì yêu thích ca hát mà làm thơ, chủ đề chính là
ca ngợi tình yêu, quê hương đất nước, sức sáng tạo của người lao động; lên
án, tố cáo sự gian ác, ách áp bức bóc lột…
Ngoài ra, người Sán Dìu ở Lục Ngạn còn lưu giữ được khá nhiều
chuyện kể, chủ yếu là truyện cổ, truyện thơ khuyết danh, như: Vua Cóc,
truyện Vũ Nhi, Slún Nghi, Món lống… Nội dung các câu chuyện chủ yếu phản
ánh cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa tốt và xấu. Kết thúc câu
chuyện thường nói lên nguyện vọng của quần chúng nhân dân, đó là người
nghèo, cái thiện và cái tốt bao giờ cũng chiến thắng. Những câu chuyện đó
còn là những bài học đạo đức nhẹ nhàng, nhưng thâm thuý, có tính giáo dục
cao đối với các thế hệ người Sán Dìu.
- Đời sống xã hội
Quan hệ gia đình: người Sán Dìu theo chế độ phụ quyền, đàn ông đứng
đầu và có trách nhiệm điều hành mọi công việc quan trọng. Người phụ nữ lo
toan công việc sinh con đẻ cái, nội trợ, giúp việc cho chồng. Trong một gia
đình thường gồm nhiều thế hệ, quan hệ giữa mọi thành viên đoàn kết hoà hợp,
trong đó nam giới, người già rất được coi trọng. Người con trai trưởng được
tôn trọng gần ngang với bố. Chỉ có con trai mới được thừa hưởng tài sản của
cha mẹ. Ngược lại, con gái thường có địa vị thấp kém trong gia đình, họ
không được bàn bạc những công việc quan trọng, không được thừa kế tài sản.
Quan hệ dòng họ: vấn đề dòng họ rất được đồng bào coi trọng. Do điều
kiện sinh sống lưu tán, người Sán Dìu thường tìm cách liên hệ với những
người có cùng huyết thống đang sinh sống tại các địa phương khác. Trong
dòng họ có sự phân định ngôi thứ rõ ràng, người Sán Dìu thường dựa vào tên
36
đệm để xác định ngôi thứ của mình. Tuy nhiên, cách xưng hô với người
trong họ không theo ngôi thứ mà tuỳ theo tuổi tác. Những người cùng thế
hệ thì ai lớn tuổi hơn là anh, chị, ít tuổi hơn là em không phân biệt con chú,
con bác. Tộc trưởng không có quyền uy lớn trong dòng họ như một số dân
tộc khác, nhưng rất được kính trọng và thường được mời đến chủ trì các
nghi lễ trong tang ma, cưới xin hoặc chứng kiến việc chia tài sản cho con
cái của các gia đình.
Quan hệ xã hội: trong một làng bản người Sán Dìu, thường có nhiều
dòng họ cùng sinh sống. Mọi người trong làng bản có quan hệ đoàn kết gắn
bó chặt chẽ, giúp đỡ nhau trong cuộc sống hàng ngày. Tính cộng đồng của họ
được thể hiện rất rõ trong các ngày lễ hội, trong việc tổ chức xây dựng,
quản lý và khai thác các công trình chung của làng. Đây là những đặc
điểm ưu việt cần được gìn giữ và phát huy trong công cuộc xây dựng
cuộc sống mới hiện nay.
1.4.3. Vai trò của thầy cúng trong đời sống của người Sán Dìu ở Lục Ngạn
Trong đời sống của người Sán Dìu ở Lục Ngạn, đăc biệt là trong lĩnh
vực tinh thần, người thầy cúng có vai trò đặc biệt quan trọng. Thầy cúng
không chỉ là người chăm sóc đời sống tinh thần cho mọi người trong cộng
đồng, mà họ cũng chính là những người góp phần chủ yếu trong việc lưu giữ
những nét văn hoá độc đáo của dân tộc mình.
Cũng như đa số các dân tộc khác, người Sán Dìu tin vào số mệnh, thần
linh, ma quỷ... Theo đồng bào, những thế lực siêu nhiên này, dù lành hay dữ
đều có ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Do đó, để cho cuộc sống hàng ngày
bình an vô sự, cần một đội ngũ những người làm thầy cúng đảm đương nhiệm
vụ liên hệ với những thế lực đó, để truyền đạt những tin tức cần trao đổi giữa
thế giới thần linh và thế giới trần tục. Những người thầy cúng được coi (tự
cho mình hay được quần chúng chấp nhận) là người đóng vai trò trung gian
37
giữa những con người trần tục với thế giới siêu nhiên. Để có được khả năng
này, những người đó phải trải qua các lễ cấp sắc với các cấp bậc cao thấp
khác nhau. Sau khi đã được cấp sắc và trở thành thầy cúng, tiếng nói của họ
chính là tiếng nói của phần âm - tiếng nói của thần linh, họ nói điều gì thì đó
là mệnh lệnh của thần linh, mọi người có nhiệm vụ phải thực hiện. Với vai trò
là người chăm sóc tinh thần cho cả cộng đồng, thầy cúng người Sán Dìu tham
gia vào mọi hoạt động mang tính chất tâm linh. Họ là người trừ tà ma quỷ dữ
cho các gia đình và cho cả cộng đồng, là người cầu cho mưa thuận gió hoà,
cây con phát triển, chủ trì các đám ma, chay... Tuy rằng, trên thực tế thầy
cúng không thể cầu thần linh phù hộ, cũng như trừ ma tà quỷ dữ, nhưng
những hoạt động đó cũng có mặt tích cực của nó là làm cho mọi người cảm
thấy thanh thản, an tâm sinh sống.
Trước đây, khi giáo dục và y tế chưa phát triển, thầy cúng còn kiêm vai
trò thầy giáo và thầy thuốc. Thầy cúng được coi là người có chữ nghĩa, hiểu
biết nhiều lĩnh vực. Do đó, nhiều gia đình gửi con cái của mình theo những
thầy cao tay, có uy tín để học. Một số thầy cúng đã đứng ra mở "lớp" dạy cho
những thanh niên muốn theo học nghề cúng bái. Trong các lớp học, người học
phải học chữ Hán, học đạo lý làm người, học các phong tục, các nghi lễ cúng
bái... Nhờ những lớp học này, nhiều người Sán Dìu đã biết đọc, biết viết chữ
Hán, có điều kiện mở mang đầu óc. Ngoài ra, các thầy cúng còn dùng các bài
thuốc dân gian, các mẹo chữa bệnh cho người và vật nuôi trong cộng đồng.
Ngoài ra, đội ngũ thầy cúng chính là những người đi đầu trong việc duy
trì những nét văn hoá độc đáo của người Sán Dìu. Đa số các câu truyện cổ dân
gian, các câu tục ngữ, bài đố chữ, bài thuốc, bài cúng, văn than, các làn điệu
dân ca, các nghi lễ cúng bái... mà chúng ta biết hiện nay là do các thầy cúng
ghi lại trong các sách của mình.
38
Như vậy, thầy cúng là người "có uy tín ở địa phương, am hiểu phong
tục, có trình độ học vấn đựơc hiểu theo quan niệm xưa, là người hướng dẫn
các hình thức văn nghệ, đồng thời lại là thầy thuốc. Họ như các thầy đồ xưa
dưới xuôi, vừa dạy học, vừa bói toán vừa chữa bệnh" [14, tr.51].
Tiểu kết chương 1
Điều kiện tự nhiên của Lục Ngạn, bên cạnh những mặt thuận lợi,
cũng chứa đựng không ít khó khăn, tác động mạnh mẽ đến đời sống vật
chất, tinh thần của người Sán Dìu. Chính điều kiện tự nhiên đó đã góp phần
hình thành và duy trì những sắc thái riêng biệt trong ứng xử với thiên nhiên
của người Sán Dìu. Trải qua nhiều thế hệ, để tồn tại và phát triển, họ đã
tích luỹ được một kho tàng tri thức địa phương và tập quán tộc người rất
phong phú, đa dạng.
Không chỉ giữ chân được người Sán Dìu, Lục Ngạn còn là nơi hội tụ
của nhiều dân tộc thiểu số khác. Với trên 10 dân tộc thiểu số cùng nhau sinh
sống, mỗi dân tộc có sắc thái văn hoá riêng, khiến Lục Ngạn trở thành nơi có
nền văn hoá đa dạng nhất của tỉnh Bắc Giang. Sinh sống trong môi trường xã
hội như vậy, nhưng dân tộc Sán Dìu cũng như các dân tộc khác vẫn luôn gìn
giữ được những nét bản sắc riêng của mình. Tuy nhiên, do có nhiều dân tộc,
lại sống xen kẽ với nhau, nên sự giao lưu về văn hoá giữa các dân tộc là điều
không thể tránh khỏi.
Là một trong những thành phần dân tộc chủ yếu của Lục Ngạn, người
Sán Dìu có một đời sống văn hoá vật chất, tinh thần phong phú. Cho dù đời
sống kinh tế của người Sán Dìu đã có những thay đổi nhất định, nhưng những
phong tục, lễ nghi vẫn được bảo tồn tương đối đầy đủ với những nét đặc trưng
của nó. Các lễ thức dân gian gắn với chu kỳ đời người (sinh đẻ, cưới xin, tang
ma, cấp sắc), những phong tục thờ cúng (lễ tạ mộ, lễ kỳ yên, thờ cúng tổ
39
tiên...), được đồng bào ý thức duy trì theo đúng phong tục cổ truyền. Những
giá trị văn hoá đó tồn tại cho đến ngày nay là do ý thức của cả cộng đồng
người Sán Dìu, trong đó, tầng lớp thầy cúng - những người được cấp sắc đóng
vai trò đặc biệt quan trọng.
Bên cạnh những giá trị văn hoá tốt đẹp vẫn còn tồn tại những yếu tố lạc
hậu, cổ hủ ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của cộng đồng. Ngoài ra, do sự
phát triển kinh tế, văn hoá và mở rộng giao lưu, nhiều giá trị văn hóa tốt đẹp
của người Sán Dìu đã dần bị phai nhạt, lãng quên.
40
Chương 2 TỤC CẤP SẮC CỦA TỘC NGƯỜI SÁN DÌU Ở HUYỆN LỤC NGẠN (BẮC GIANG)
2.1. Khái quát về tục cấp sắc
Ở nước ta, nhiều dân tộc có tục cấp sắc như Dao, Sán Dìu, Tày… Mỗi
dân tộc lại có cách gọi riêng của mình về tập tục này. Người Dao gọi lễ cấp
sắc là quá tăng, lập tịch, lập tịnh, cấp tinh, cấp tính... những tên gọi này tuỳ
thuộc vào từng nhóm Dao của từng địa phương cũng như từng cấp bậc của lễ
cấp sắc. Người Sán Dìu gọi lễ cấp sắc là Hoi Séo, mỗi bậc lại có tên gọi riêng:
Lộc Sô, Hoi Seo, Chổng Sọn.
Điểm chung nhất trong tục cấp sắc của các dân tộc Dao, Sán Dìu, Tày,
Nùng: Đây là nghi lễ đánh dấu việc gia nhập của một thành viên mới vào một
tầng lớp, đội ngũ nào đó trong xã hội. Tục cấp sắc của Dao, Sán Dìu, Nùng
còn có điểm chung là đều phân thành 2 loại: Cấp sắc cho những thiếu niên (lễ
trưởng thành) và cấp sắc cho thầy cúng. Lễ cấp sắc của người Tày chỉ có một
loại là cấp sắc cho thầy cúng.
2.1.1. Nguồn gốc
Cấp sắc là tên gọi của các nhà khoa học, vì lễ cấp sắc phải trải qua một
nghi lễ quan trọng là thầy cúng cấp cho người thụ lễ một bản đạo sắc ghi lai
lịch của người thụ lễ, nguyên do thụ lễ và các bằng chứng để người thụ lễ
được phép thực hiện các nghi lễ cúng bái.
Theo các nhà khoa học, tục cấp sắc có nguồn gốc từ lễ thành đinh của
con người trong xã hội thị tộc. Tuy nhiên, tục cấp sắc của người Sán Dìu hiện
nay không phải là bản sao nguyên vẹn của lễ thành đinh, mà nó đã nhuốm
mầu sa man giáo và hướng tới mục tiêu đào luyện những thanh niên trở thành
các thầy sa man.
41
Như ta biết, lễ thành đinh là một hiện tượng của giai đoạn bộ lạc sơ kỳ,
nhà bác học X.A.Tôcarev gọi đó là "sự thờ cúng ở bộ lạc sơ kỳ" [79, tr.249],
nhằm củng cố khối thống nhất của bộ lạc, biểu thị sự phân công lao động theo
giới tính và lứa tuổi. Lễ thành đinh là sự thử thách cho việc gia nhập của một
thành viên mới vào một đơn vị, một tầng lớp nào đó trong xã hội. Tuỳ theo sự
phát triển về mặt sinh lí, trong khoảng mấy năm liên tục những thanh niên,
thiếu niên phải trải qua hàng loạt các thử thách. Phải đưa thanh niên đang lớn
vào phép tắc của sinh hoạt bộ lạc; các nam thanh niên được giáo dục những kĩ
năng săn bắt, sự phục tùng các bô lão, những quy chế hôn nhân. Nữ giới thì
được giáo dục những cách thức sinh hoạt hôn nhân gia đình. Tất cả những cái
đó tạo thành những phong tục được truyền thống bảo vệ, những phong tục
mang hình thức đặc biệt trang trọng. Các lễ thành đinh là sự đánh dấu rõ rệt
quá trình một thiếu niên chuyển sang hàng ngũ người lớn.
Xét về nội dung và nghi thức tổ chức, lễ cấp sắc có nhiều điểm giống
với lễ thành đinh xa xưa như: cần có thời gian chuẩn bị lâu dài, người thụ lễ
phải tuân thủ nhiều kiêng kỵ trong ăn uống và quan hệ nam nữ. Người thụ lễ
phải trải qua những thử thách gian khổ. Trong lễ cấp sắc của người Sán Dìu,
người ta phải đi qua bãi than, chèo thang dao... Còn lễ thành đinh nguyên thủy
cũng phải trải qua những thử thách không kém như xông hơi, bẻ răng, xăm
mình, bôi mỡ phơi nắng... Một điểm quan trọng nữa là những người trải qua
lễ thành đinh và lễ cấp sắc, mới được coi là thành viên chính thức của bộ lạc
hay tộc người. Trong khi hành lễ, người thụ lễ được khuyên răn phải tuân
theo những tập quán, những lời dạy bảo, nhất là cách đối xử trong gia đình,
trong dòng họ và cộng đồng.
Bắt nguồn từ lễ thành đinh, tục cấp sắc trải qua hai giai đoạn, giai đoạn
thành đinh đơn thuần và giai đoạn nhuốm mầu sắc Đạo giáo, cụ thể là phần
Đạo giáo có tính sa man (phù thuỷ, lên đồng). Trong giai đoạn đầu, lễ cấp sắc
của người Sán Dìu là lễ thành đinh thông thường và có sự tham gia của nữ
42
giới. Tất nhiên, lễ thành đinh của nữ giới trong giai đoạn này cũng có sự khác
biệt với nam giới. Sang giai đoạn sau, giai đoạn có sự thâm nhập của Đạo
giáo cùng với sự tác động của chế độ phụ quyền, lễ thành đinh của nam giới
gắn liền với lễ cấp sắc, do đó bắt buộc phải thụ lễ cấp sắc bởi việc kế thừa
thần quyền, tức là liên quan đến việc hành nghề cúng bái. Đồng thời theo sự
quy định của chế độ phụ quyền, người phụ nữ phụ thuộc vào chức sắc của
chồng. Do đó người ta không làm lễ cấp sắc cho nữ giới.
2.1.2. Các cấp bậc cấp sắc của người Sán Dìu ở Lục Ngạn
Lễ cấp sắc của người Sán Dìu ở Lục Ngạn có 3 bậc là Pháp sư (Lộc Sô),
Chức sư (Hoi Seo) và Thứ gia Tổng Xuyến (Chổng Sọn). Mỗi bậc đều có ý
nghĩa về tôn giáo và xã hội riêng.
Những người muốn được làm lễ cấp sắc, trước tiên phải trải qua lễ Đại
phan. Đây là điều kiện bắt buộc đối với bất cứ ai muốn được cấp sắc. Buổi lễ
này có ý nghĩa như một buổi “trình làng” của những người muốn tham gia
vào hàng ngũ thầy cúng. Ngoài mục đích trên, lễ Đại phan còn nhằm duy trì
sự cúng bái và mọi thủ tục hành lễ của tầng lớp thầy cúng, vì trong buổi lễ
này, người ta thường kết hợp nhiều hoạt động như trừ ma tà, qủy ác, giải
hạn… cho mọi người trong cộng đồng.
Lễ Đại phan thường được tổ chức ở một khu đất cao ráo, bằng phẳng,
sạch sẽ trong thôn. Những người muốn được cấp sắc đến đó ghi tên và mua sớ
điệp, họ có thể trực tiếp tham gia vào buổi lễ nhưng cũng có thể vắng mặt. Số
lượng người mua sớ điệp sẽ quyết định thời gian làm lễ Đại phan dài hay ngắn.
Để điều hành công việc trong lễ Đại phan, người ta lập ra một ban tổ
chức gồm khoảng 15 người (thầy cúng), do một thầy cao tay đứng đầu. Sau
khi chọn được ngày tốt và lập ra ban tổ chức, mọi người bắt tay vào công việc
chuẩn bị. Các thầy trong ban tổ chức phải viết sớ điệp, lo hậu cần bếp núc…
43
Những người khác làm lều lán, dựng một cây phướn bằng tre, bên trên buộc
một tấm vải dài, trên tấm vải đề hàng chữ Hán với nội dung diệt trừ ma quỷ.
Sau đó, người ta dựng một chiếc thang bằng tre có 12 bậc bằng dao sắc để
người thầy cúng bước lên đọc thần chú và làm bùa phép. Dưới đất dải một
hàng than củi dài được đốt cháy nhằm tảy rửa linh hồn cho người chết oan,
chết không nơi thờ cúng. Những người tham gia buổi lễ cũng lội qua bãi than
để xua đuổi tà ma, ám khí ra khỏi người mình. Trước khi tiến hành những
nghi lễ chính thức, các thầy cúng làm bùa phép nhốt giữ tất cả ma tà ở địa
phương lại, không cho chúng làm ảnh hưởng đến buổi lễ.
Các lễ nghi chính thức được tiến hành trong lán. Họ thắp hương, thắp
đèn dầu, bày lễ vật. Các thầy đọc sớ điệp, tụng kinh, thổi tù và, nhẩy múa liên
tục. Tiến hành xong các nghi lễ, người ta mổ trâu để làm lễ phát sinh và lấy
tiết để trừ ma tà. Sau đó, ban tổ chức đưa cho những người đã ghi tên mua sớ
điệp mỗi người 4 tờ điệp, mỗi tờ có kích thước dài 20cm, rộng 5cm. Nội dung
tờ điệp ghi những điều cụ thể về việc tổ chức lễ Đại phan và những điều cần
thiết cho người muốn làm thầy cúng. Tất cả những tờ điệp đều được đóng dấu
giáp lai (dấu hợp đồng). Nửa âm được đem đốt đi, nửa dương người đó giữ
lại. Cũng trong buổi lễ này, người ta tiến hành cấp âm binh (số âm binh này
chính là những ma tà, quỷ dữ đã bị các thầy cúng dùng phép nhốt lại) cho
những người tham gia. Số lượng âm binh nhiều hay ít phụ thuộc vào năm sinh
của người được cấp; quân khoẻ hay yếu phụ thuộc vào việc người này bốc
được quân tả hay quân hữu (tả khoẻ hơn hữu). Mặc dù đã có âm binh nhưng
những người được cấp chưa thể điều khiển được chúng. Muốn điều khiển
được âm binh của mình, họ phải được cấp sắc ở một trong ba bậc Pháp sư,
Chức sư hoặc Thứ gia Tổng xuyến.
44
Cấp Pháp sư: đây là thang bậc đầu tiên trong hệ thống các cấp bậc của
thầy cúng người Sán Dìu ở Lục Ngạn. Những người ở cấp này mới có ít phép,
chưa đủ sức mạnh để tiến hành những nghi lễ cúng bái phức tạp, chủ yếu chỉ
cầu khấn, trả lễ thông thường như: cúng giải hạn, kỳ yên nhà, làm ma cho
những chết bình thường, không được làm ma cho những người thầy ở cấp cao
hơn mình. Người cấp sắc được thay tên đệm, gọi theo tên mới, tên gọi này là
pháp danh, nó chỉ được sử dụng khi hành nghề cúng bái. Ví dụ: Leo Văn
Thông, sau khi cấp sắc đổi thành Leo Pháp Thông. Người ở cấp Pháp sư vẫn
phải đi giúp việc cho các thầy cấp cao hơn để tiếp tục học hỏi thêm.
Lễ cấp sắc bậc này được tiến hành trong khoảng 1 ngày 1 đêm tại nhà
người xin cấp sắc. Để tiến hành các công việc cần có 3 thầy cúng cấp Chức sư
trở lên điều hành công việc. Thủ tục sớ điệp gồm một tờ điệp dương, một tờ
điệp âm, một lá sơ. Tờ điệp âm dương được đóng dấu hợp đồng. Sau khi đóng
dấu xong, tờ âm được hoá ngay, tờ dương được cấp cho người xin cấp sắc. Lễ
vật chính trong buổi lễ này là 5 con vật (thường là 5 con gà), hoa quả, bánh
kẹo, xôi oản… Tiến trình lễ cấp sắc cũng diễn ra đầy đủ các bước như tạo cầu
đón thánh, đại kết giới, lễ truyền phép, lễ tạ thánh… Nhưng thủ tục đơn giản
hơn lễ cấp sắc chức Chức sư.
Trong trường hợp người được cấp sắc lần thứ nhất (Pháp sư), nếu cha
truyền cho con hay anh truyền cho em, mà người được cấp cấp sắc vẫn sống
chung trong một nhà thì không phải lập bát hương thờ bản sư, mà chỉ làm
thêm một ấn phật đặt ngang hàng với bát hương tổ tiên.
Trường hợp người cấp sắc đã ra ở riêng hay không phải gia truyền, mà
đi học của dòng họ khác thì sau khi cấp sắc được lập bát hương thờ thầy cả,
bát hương này đặt ở bên trái và ngang hàng với bát hương tổ tiên. Người được
45
cấp sắc lần đầu được cấp dấu Thái Thượng Lão quân, dấu phật, thanh la, mão
bạt, tù và...
Cấp Chức sư: những người sau khi được cấp chức Pháp sư nếu muốn
có thêm phép thuật và có đủ điều kiện kinh tế họ sẽ tiến hành lễ cấp sắc Chức
sư. Những người ở cấp này đã có nhiều phép thuật hơn, họ được thay ấn,
được cấp lệnh bài, cờ lệnh… Mặc dù chưa được truyền tất cả các phép thuật
nhưng những người ở cấp Chức sư đã có đủ khả năng để tiến hành một số
nghi lễ phức tạp cho cộng đồng. Họ cũng có thể tiến hành cấp sắc cho những
người muốn được cấp sắc chức Pháp sư. Để đạt được cấp này, cần có một
buổi lễ với đầy đủ thủ tục. Người được cấp sắc ở bậc này cũng được cấp ấn
Chức sư và được khắc họ tên pháp danh của thầy vào ấn. Đồng thời, tên pháp
danh của người này cũng thay đổi, ví dụ: cấp sắc lần thứ nhất tên pháp danh là
Leo Pháp Thông thì sau khi cấp sắc lần hai đổi thành Leo Thông Nhất Lang
(Leo là họ, Thông là tên, Nhất là thứ tự người cấp sắc trong gia đình, Lang là
pháp danh). Những nội dung chính trong lễ cấp sắc bậc này sẽ được trình bầy
cụ thể trong mục 2.4.
Cấp Thứ gia Tổng xuyến: để có thể đứng ra tổ chức lễ cấp sắc bậc này,
thầy cấp sắc phải ở chức Thứ gia Tổng xuyến. Sau lễ cấp sắc, người xin cấp
sắc được thay ấn (ấn to hơn ấn được cấp ở bậc Chức sư), được thầy truyền
cho tất cả phép thuật. Người đạt đến cấp này là những người đã rất thông thạo
về các mặt như: trừ ma quỷ, chữa bệnh, giúp cộng đồng trong lúc hoạn nạn...
Họ thường là người đại diện cho cộng đồng; lo toan đời sống tâm linh cho các
gia đình.
Lễ cấp sắc bậc này thường diễn ra đơn giản hơn 2 bậc trên. Lễ vật
chính gồm 1 con lợn khoảng 50 kg, từ 3 đến 5 con gà và chỉ cần tiến hành
trong một buổi tối. Số thầy tham gia gồm 1 thầy chính ở cấp Thứ gia Tổng
46
xuyến và một số thầy giúp việc. Khi tiến hành cũng cần có sớ và điệp âm
dương được đóng dấu hợp đồng. Người thầy cũng tiến hành truyền phép, cấp
ấn… cho người thụ lễ, nhưng số lượng các bước ít và tương đối đơn giản.
Một số điểm khác biệt cơ bản giữa ba bậc trên được nêu trong bảng 2.1.
Bảng 2.1: So sánh một số nội dung giữa các cấp bậc cấp sắc của
người Sán Dìu ở Lục Ngạn
Nội dung
Pháp sư
Chức sư
Đối tượng thụ lễ
Con trai đã trải qua lễ Đại phan
thầy cúng
- Con trai đã lập gia đình và đã qua lễ cấp sắc Pháp sư - Vợ chức Chức sư
Thứ gia Tổng xuyến - Con trai trên 50 tuổi, đã lập gia đình và đã trải lễ cấp sắc qua Chức sư - Vợ thầy cúng gia chức Thứ Tổng xuyến
1 con lợn 50 kg
Lễ vật chính
5 con gà
thầy
cúng
3 con lợn khoảng 40 - 50 kg 8 thầy cúng từ cấp Chức sư trở lên
Số chính
3 thầy cúng từ cấp Chức sư trở lên
Thời gian hành lễ
1 ngày 1 đêm
2 ngày 1 đêm
Địa điểm tổ chức
1 thầy chức Thứ gia Tổng xuyến 1 ngày hoặc 1 đêm Tại nhà người thụ lễ
Tại nhà người thụ lễ
Tại nhà người thụ lễ
Dụng cụ được cấp trong lễ cấp sắc
1 ấn gỗ khắc pháp danh.
1 ấn gỗ khắc pháp danh, 1 lệnh bài, cờ lệnh.
1 ấn Thái thượng lão quân, 1 ấn phật, một pho tượng thích ca, một con rồng gỗ, hai vỏ hến xin âm dương…
lực
của
tôn thầy
Quyền giáo cúng
Quyền lực mạnh, có thể làm được tất cả các nghi lễ quan trọng
Phép thuật còn ít, chưa đủ làm các nghi lễ phức tạp, chủ yếu cúng cho gia đình
Có khả năng tiến hành một số nghi lễ phức tạp cho cộng đồng như: kỳ yên, làm lễ cấp sắc chức Pháp sư cho người khác…
47
2.2. Một số quy định trong tục cấp sắc
2.2.1. Quy định đối với người được cấp sắc
Về giới tính, do gia đình người Sán Dìu là gia đình phụ quyền, người
con trai có trách nhiệm điều hành mọi công việc trong gia đình. Tư tưởng
trọng nam khinh nữ vẫn còn phổ biến, người phụ nữ Sán Dìu trước đây
thường không được học hành, không được tham gia các hoạt động mang tính
linh thiêng như cúng bái, tế lễ, mà những hoạt động này đều do người đàn ông
đảm nhiệm. Vì vậy, người ta không làm lễ cấp sắc cho phụ nữ mà chỉ cấp sắc
cho nam giới. Có một số trường hợp phụ nữ cũng được làm lễ cấp sắc, nhưng
đó phải là vợ của những thầy đã được cấp sắc chức Chức sư, Thứ gia Tổng
xuyến hoặc những người phụ nữ không có con. Theo quan niệm của đồng
bào, người phụ nữ được cấp sắc nhằm mục đích khi chết không phải phá
ngục, các con không phải ăn huyết mẹ, linh hồn không phải qua 18 ngục mà
được đi trên cầu, được phong tước "tương nữ", làm quan ở Thiên Đình; linh
hồn vợ chồng luôn ở bên nhau và được thần thánh công nhận. Những người
phụ nữ không có con có nhu cầu được cấp sắc để sống nhờ lộc thánh. Thông
thường, người chồng tự cấp sắc cho vợ mình, lễ cấp sắc cho người vợ chỉ
mang tính hình thức nhưng vẫn có đầy đủ các thủ tục nghi lễ. Sau khi được
cấp sắc, người phụ nữ có cấp bậc ngang người chồng và cũng có thể đi cúng
cho mọi người. Nhưng do đa số họ không biết chữ Hán và không thông thuộc
các nghi lễ nên họ thường không hành nghề.
Đối với đa số các ngành Dao, chỉ người con trai nào đã được cấp sắc
mới được coi là thành viên chính thức trong cộng đồng, mới được tham gia
vào những công việc quan trọng của cộng đồng và được mọi người tôn trọng.
Vì vậy, việc làm lễ cấp sắc như là điều kiện bắt buộc đối với họ. Ngược lại,
đối với người Sán Dìu ở Lục Ngạn hiện nay, việc làm lễ cấp sắc xuất phát từ
sở thích của mỗi người và được cả dòng họ khuyến khích. Hiện nay, đa số
48
thanh niên Sán Dìu ở Lục Ngạn không được cấp sắc, nhưng không vì thế mà
họ bị cộng đồng khinh rẻ. Họ vẫn là thành viên của cộng đồng, vẫn tham gia
các hoạt động chung của cộng đồng. Sự tôn trọng của mọi người trong cộng
đồng dành cho họ phụ thuộc vào tài năng, đức độ của họ chứ không căn cứ
vào họ có được cấp sắc hay không. Như vậy, việc làm lễ cấp sắc không phải
việc làm bắt buộc đối với mọi người con trai Sán Dìu ở Lục Ngạn.
Về độ tuổi, trong tục cấp sắc của người Sán Dìu, không có sự qui định
chặt chẽ về tuổi tác. Đối với cấp Pháp sư, từ tuổi 13, 14 người con trai đã có
thể được làm lễ cấp sắc. Từ cấp Chức sư trở lên, phải là người đã lập gia đình.
Riêng cấp Thứ gia Tổng xuyến, người được cấp sắc phải là những người đã
trên 50 tuổi. Mặc dù việc làm lễ cấp sắc cho người con trai Sán Dìu không
quy định cụ thể về tuổi tác cho từng bậc, nhưng những người trẻ quá cũng
không thể được cấp sắc. Khác với người Dao ở một số nơi, cấp sắc cho cả
những người con trai chưa đến 10 tuổi, với người Sán Dìu ở Lục Ngạn chưa
có trường hợp nào như vậy. Theo đồng bào, những người trẻ quá chưa đủ thời
gian để học chữ Hán, chưa có thực tiễn đi theo thầy để học các lễ nghi, thủ tục
cần thiết, họ cũng chưa đủ sự chín chắn để có thể trở thành một người thầy
cúng thực thụ.
Về trình độ học vấn và đạo đức, đối với người Sán Dìu, để được cấp
sắc, điều kiện bắt buộc là phải biết đọc và viết chữ Hán. Để biết được chữ
Hán, người học phải đến đăng kí theo thầy để học. Quá trình học chữ cũng
đồng thời là quá trình học kiến thức. Theo người Sán Dìu, thầy cúng còn là
thầy dạy học (thầy dạy chữ), thầy thuốc. Do đó, để trở thành người thầy cúng
thực sự, người thầy phải thông thạo nhiều lĩnh vực. Họ học bằng cách đọc
thuộc lòng các sách và tập viết lại những chữ trong sách đó. Ban đầu, họ học
các sách như: Sơ khai cửu kinh thư, thượng bản học cầu tự, Vũ Nhi cộng
đồng thiềm Thừ vương… Đây là các sách viết ở thể bốn chữ, năm chữ dễ đọc,
49
dễ thuộc. Sau đó, họ nâng dần lên học các sách khó hơn như sách bảy chữ,
văn xuôi. Nội dung các sách rất phong phú: sách dạy luân thường đạo lý, sách
nói về nguồn gốc người Sán Dìu, các loại sách cúng (kỳ yên, cúng đám ma,
cúng tạ mộ…), sách xem tướng số, xem ngày, xem tuổi, sách xem nhà cửa,
sách chữa bệnh (từng loại bệnh cho từng lứa tuổi), sách dạy tiến hành một lễ
cấp sắc, sách dạy viết các sớ điệp, bảo cáo trong lễ cấp sắc… (xem ảnh 1)
Người học có thể học mọi lúc, mọi nơi, chủ yếu là đi theo thầy để cúng cho
các đám ma, viết sớ cho lễ kỳ yên, lễ cấp sắc… Trong quá trình đó, họ vừa
đọc các bài cúng, viết những chữ mình đã học và trau dồi thêm những kiến
thức mới.
Sau một quá trình học, khoảng từ 5 đến 7 năm, người học đã biết đọc,
biết viết và thuần thục một số nghi lễ cúng bái thì được làm lễ cấp sắc Pháp
sư. Sau lần cấp sắc thứ nhất, họ vẫn tiếp tục phải học đọc, học viết theo các
sách khó hơn và đi theo thầy cấp cao hơn để học cách tổ chức các nghi lễ
cúng bái, cho thêm thuần thục. Để được cấp sắc chức Chức sư và Thứ gia
Tổng xuyến, họ cần có thời gian học rất lâu dài, đòi hỏi sự kiên trì, siêng
năng. Do đó, nhiều người học đến già nhưng vẫn chưa đủ khả năng để được
cấp sắc lần hai, lần ba.
Ngoài những hiểu biết như trên, người được cấp sắc còn phải là người
đức độ, nhân hậu, hiền lành, được mọi người yêu quý và tôn trọng. Gia đình
những người này phải là gia đình nề nếp, gia phong, sống có uy tín trong cộng
đồng. Thường những người muốn học nghề thầy cúng và tiến tới phong chức
cấp sắc đều là những người có đời ông, cha đã làm thầy cúng hoặc trong dòng
họ có người làm nghề thầy cúng (nghề thầy cúng ở người Sán Dìu là nghề
mang tính gia truyền). Về mặt tâm linh, những người muốn theo nghề phải có
niềm tin vào đấng Ngọc Hoàng, thần linh, tin vào sức mạnh siêu nhiên, thần
thánh; họ phải tin vào lời dạy của thầy, vào phép thuật của chính mình và vào
các loại sách cúng.
50
Kiêng kỵ, những người được cấp sắc phải tuân theo nhiều quy định về
kiêng kỵ, những quy định này cũng có sự khác nhau giữ các cấp bậc. Những
người được cấp sắc không được dùng phép thuật làm hại người khác, không
được lấy nhiều vợ; thấy người bị hại phải tìm mọi cách để giúp đỡ cho dù khó
khăn đến mấy; không được ăn thịt chó, rùa, ba ba, tê tê, hổ, rắn…; không
được sát sinh, không săn bắn chim muông, thú rừng, không đơm đó, chài
lưới… Khi gặp người bẫy được chim, thú, đơm cá phải mua lại những con vật
đó rồi thả ra. Khi thấy đơm đó, lờ,… phải nhấc lên đặt ngược lại. Ngoài ra,
những người được cấp sắc còn phải hạn chế quan hệ vợ chồng.
2.2.2. Quy định về trình tự phong chức cấp sắc
Lễ cấp sắc của người Sán Dìu ở Lục Ngạn tuân thủ nghiêm ngặt theo
trình tự từ thấp tới cao, với 3 bậc: Pháp sư, Chức sư, Thứ gia Tổng xuyến.
Muốn được làm lễ cấp sắc thì trước tiên phải trải qua lễ Đại phan, đây là điều
kiện bắt buộc đối với những người muốn được cấp sắc. Việc thăng chức phải
theo trình tự: Pháp sư Chức sư Thứ gia Tổng xuyến, tuyệt đối không
được làm lễ cấp sắc vượt cấp.
Trong tục cấp sắc của người Sán Dìu Lục Ngạn quy định: những người
cùng cấp không được cấp sắc cho nhau. Người cấp sắc phải ở cấp cao hơn
người muốn được cấp sắc và những người này phải cùng một thầy tổ.
Trong một buổi lễ cấp sắc của người Sán Dìu ở Lục Ngạn, chỉ tiến hành
làm lễ cho một người, không tiến hành cho nhiều người cùng một lúc, cũng
không tiến hành kết hợp làm lễ cấp sắc nhiều bậc. Tuy nhiên, hiện nay do
điều kiện kinh tế, lễ cấp sắc Pháp sư có thể tiến hành cho một số người trong
một lần, riêng lễ cấp sắc Chức sư và Thứ gia Tổng xuyến thì vẫn chỉ tiến hành
cho một người một lần.
Về trình tự, tục cấp sắc của người Sán Dìu có một số điểm khác với
người Dao. Đối với người Dao, anh làm lễ cấp sắc trước rồi mới đến em. Nếu
51
gia đình có người chết mà chưa được cấp sắc thì con cháu phải làm lễ cấp sắc
cho người chết rồi mới làm lễ cho những người sống, thậm chí ở một số nơi
còn làm lễ thăng chức cho người quá cố. Đối với người Sán Dìu ở Lục Ngạn
thì không cần tuân theo những quy định như vậy, người ta không làm lễ cho
người chết và cũng không bắt buộc phải làm lễ cấp sắc theo trình tự từ anh rồi
mới đến em. Việc làm lễ cấp sắc là nhu cầu cá nhân của từng người, trong
mỗi gia đình, thậm chí cả một dòng họ chỉ cần một người được cấp sắc, người
này sẽ đảm nhiệm công việc cúng bái cho cả dòng họ.
2.3. Việc chuẩn bị cho lễ cấp sắc
Để tổ chức lễ cấp sắc đúng theo phong tục truyền thống, cần thời gian
chuẩn bị lâu dài và tốn kém. Thời gian chuẩn bị dài hay ngắn phụ thuộc vào
điều kiện kinh tế của gia đình và từng bậc cấp sắc. Ngoài chi phí để may quần
áo, thuê vẽ tranh, mua mực, giấy, dầu, nhạc cụ, tiền công cho các thầy... gia
đình người xin cấp sắc còn phải chuẩn bị đầy đủ lương thực, thực phẩm cho
khoảng 30 người ăn trong những ngày diễn ra lễ cấp sắc. Vì vậy, dù lễ cấp sắc
chỉ diễn ra từ 1 đến 2 ngày, nhưng công việc chuẩn bị của người xin cấp sắc
thường được tiến hành trước đó hàng năm.
Khi đã có đủ khả năng về kinh tế, người xin cấp sắc đến nhờ thầy cúng
xem ngày và đứng ra tổ chức lễ cấp sắc cho mình. Thầy cúng được nhờ phải
là người cao tay, có cấp bậc cao hơn người xin cấp sắc. Thầy này có thể là
người cùng họ hoặc khác họ với người xin cấp sắc. Ngày được chọn làm lễ
cấp sắc phải là ngày tốt, ngày đó không được phạm vào những ngày kiêng kị
của những thầy trong ban tổ chức, cũng như của những người trong gia đình
người xin cấp sắc. Ngày đó cũng phải được dự tính sẽ không có tang ma, sinh
đẻ trong thôn bản của người xin cấp sắc cư trú. Sau khi nhận lời làm lễ cấp
sắc, người thầy cúng được mời sẽ mời thêm một số thầy nữa để lập ra một
ban tổ chức. Số thầy trong ban tổ chức nhiều hay ít tuỳ thuộc vào cấp bậc của
52
lễ cấp sắc sẽ tiến hành. Nếu là lễ cấp sắc Pháp sư thì ban tổ chức gồm có 3
thầy chính, cấp Chức sư có 8 thầy chính, riêng cấp Thứ gia Tổng xuyến chỉ
cần 1 thầy chính. Tất cả các thầy trong ban tổ chức đều phải có cấp bậc cao
hơn người xin cấp sắc và phải cùng một thầy tổ. Những thầy này được phân
công công việc rõ ràng, mỗi thầy phụ trách một việc nhất định. Ban tổ chức lễ
cấp sắc Chức sư gồm 8 thầy chính, công việc của mỗi thầy như sau:
- Thầy truyền: đây là thầy đã dạy người xin được cấp sắc. Nếu thầy
truyền là người ngoài dòng họ thì gọi là thầy pháp truyền, nếu là ông, cha thì
gọi là thầy bản truyền. Thầy truyền có trách nhiệm điều hành chung mọi công
việc trong lễ cấp sắc và cấp pháp cho đệ tử.
- Thầy gia bổ: là thầy đã tham gia vào lễ Đại phan của người xin cấp
sắc. Thầy này có nhiệm vụ chứng minh người xin cấp sắc đã qua lễ Đại phan
và đứng ra cấp văn bằng chứng chỉ cho họ.
- Thầy chứng minh: có nhiệm vụ phải xem xét các văn bản, thủ tục nghi
lễ, nếu thấy thiếu hoặc sai sót thì báo gia chủ và thầy chủ trì sửa và bổ sung.
- Thầy bảo cử: là thầy bảo đảm nghi lễ cấp sắc làm theo đúng nghi thức
của Đạo giáo.
- Thầy dẫn đàn: dẫn chương trình, chịu trách nhiệm điều phối các bước,
các nghi lễ cho đúng theo trình tự.
- Thầy truyền phép: có nhiệm vụ truyền phép cho người được cấp sắc,
bắt quyết, yểm bùa... Đệ tử muốn được truyền bao nhiêu phép tuỳ thuộc vào
cấp bậc cấp sắc và phải được sự đồng ý của thầy truyền và thầy gia bổ.
- Thầy kết quy: có nhiệm vụ lập ngai rùa và thỉnh kim quy về đàn.
- Thầy đinh tẩu: có trách nhiệm bảo vệ 4 phương của đàn, bảo vệ người
xin cấp sắc khỏi ma tà, quỷ dữ làm hại.
Sau khi đã mời thầy cúng và chọn được ngày chính thức, gia đình có
người cấp sắc phải tiến hành những công việc sau:
53
Chuẩn bị gạo, đây là thứ không thể thiếu trong lễ cấp sắc của người Sán
Dìu ở Lục Ngạn. Trong lễ cấp sắc người ta cần có 2 loại gạo là gạo tẻ và gạo
nếp. Ngoài để phục vụ mọi người ăn uống trong những ngày làm lễ cấp sắc,
gạo còn được dùng làm xôi, oản, nấu rượu, kết quy...
Nấu rượu, lễ cấp sắc của người Sán Dìu ở Lục Ngạn sử dụng rất nhiều
rượu. Trong lễ cấp sắc Chức sư cho ông Bành Văn Thông, thôn Nhập Thành,
xã Nghĩa Hồ, huyện Lục Ngạn, gia đình ông đã phải chuẩn bị 180 lít rượu.
Một phần nhỏ số rượu này dùng để làm lễ (tất cả các nghi lễ trong lễ cấp sắc
đều sử dụng rượu), đa phần còn lại để mọi người đến tham dự uống trong
những ngày tổ chức lễ cấp sắc. Rượu dùng trong lễ cấp sắc phải do đàn ông
hoặc người phụ nữ đã hết tuổi sinh đẻ nấu để tránh sự uế tạp khi dâng lên tổ
tiên và các vị thần thánh.
Thuê vẽ tranh, tranh được sử dụng trong lễ cấp sắc của người Sán Dìu ở
Lục Ngạn gồm tranh phật và tranh thánh. Số tranh này được gia chủ thuê vẽ,
cũng có khi do thầy làm lễ cấp sắc mang tới. Khi đi thuê vẽ, gia chủ phải nhờ
thầy xem ngày giờ. Khi đem về phải cúng tổ tiên, thần thánh thì mới được
dùng để làm lễ cấp sắc. Một số tranh chính dùng trong lễ cấp sắc của người
Sán Dìu ở Lục Ngạn là: Tam Thanh, tranh Ngọc Hoàng thượng đế, Lý
Nguyên Sư, Triệu Nguyên Sư, Thiên Phủ, Địa Phủ Công Tào, Thập Điện
Diên Vương, Trương Thiên Sư, Đặng Nguyên Sư, Dương Phủ và Thuỷ Phủ
Công Tào, Thích Ca Mâu Ni...
May trang phục, trang phục của người xin cấp sắc chủ yếu là áo, mũ.
Trước đây, việc chuẩn bị áo cho người được cấp sắc tốn rất nhiều thời gian và
công sức. Áo được làm từ vải chàm được khâu và thêu rất công phu. Áo dài
khoảng 1,2m, được khâu bằng tay. Phía trước để mở ở giữa bụng, không có
cúc, thân sau khâu liền, không có ống tay. Nẹp áo là một miếng vải trắng rộng
1,5cm dài từ vai xuống gấu. Áo có hai dây buộc ở hai bên vạt trước. Cả thân
54
trước và sau đều được thêu thùa dầy đặc những chữ Hán cổ và các hoạ tiết
hình người cưỡi chim, người cưỡi chó, cưỡi ngựa, các vì sao, các tiết âm
dương, ngũ hành, tên các nước Trung Quốc thời cổ đại như Tống, Tề, Triệu,
Sở, Ngô, Yên, Tấn và các quẻ trong kinh dịch.
Hiện nay, việc may áo cho người được cấp sắc đơn giản hơn rất nhiều,
áo thầy cúng thường được cắt may bằng vải lụa mầu xanh nước biển theo kiểu
áo năm thân, cao cổ, cài khuy bên phải, ống tay rộng, áo dài quá gối. Mặt
trước thêu hình 2 con rồng, phía sau thêu một con rồng màu vàng. Cầu vai
mỗi bên thêu hình một đầu rồng. Tay áo và vạt áo thêu hình sóng nước.
Người xin cấp sắc còn phải thuê làm mũ, mua săm các dụng cụ phục vụ
cho lễ cấp sắc, như: tù và, thanh la, kiếm, lệnh bài, ấn, trống, kèn, cờ, túi đựng
đồ cúng, ô, cung nỏ, đèn dầu, mực, giấy để viết sớ điệp... (xem ảnh 2).
Cách ngày làm lễ chính thức vài hôm, các thầy cúng trong ban tổ chức
và anh em họ hàng của người xin cấp sắc đến để cùng gia đình chuẩn bị
những công việc cần thiết cuối cùng.
Trong khoảng thời gian này, công việc chính của các thầy cúng là viết
các loại sớ điệp cho lễ cấp sắc. Các thầy phải viết 24 tờ điệp của thầy gia bổ,
22 tờ điệp của thầy truyền và nhiều loại giấy tờ khác. Các sớ điệp này đều
được viết bằng chữ Hán, trên giấy dó, mực đen.
Điệp của thầy gia bổ:
1. Lang vị bảo cáo 7. Lão quan bảo cáo
2. Tin sư bảo cáo 8. Cân tiên bảo cáo
3. Ngọc Hoàng bảo cáo 9. Hợp đồng bảo cáo
4. Tam Thanh bảo cáo 10. Hộ thân pháp phán
5. Cửu long bảo cáo 11. Ngũ lôi bảo cáo
6. Thỉnh quân công điệp 12. Bổ quỷ công báo
55
13. Phục ma bảo cáo 19. Phổ am hương hoả
14. Cửu ngưu phá ngục 20. Phổ am kim luân
15. Tổng phù công báo 21. Chính thiên khu bảo cáo
16. Tư Chức bảo cáo 22. Kim tư thập nhiệm
17. Khu tả bảo cáo 23. Cửu phẩm bảo cáo
18. Thuỷ hoả phong luân 24. Gia phong văn bảng.
Điệp của thầy truyền:
1. Hương hoả công điệp 12. Ngũ lôi công điệp
2. Phổ yên công điệp 13. Thái công văn điệp
3. Thỉnh quân công điệp 14. Ngân đài chức cáo
4. Bàn cổ nhục tinh công điệp 15. Xuất thân công điệp
5. Tổng phù công điệp 16. Hành cung trảm quỷý
6. Xuất thân công điệp 17. Trường sinh công điệp
7. Quản binh công điệp 18. Phục yêm công điệp
8. Tiểu truyền công điệp 19. Chiêu quân văn bảng
9. Bổ chức công điệp 20. Mao sơn công điệp
10. Minh uy ngộ giới 21. Đồng Vương pháp cáo
11. Cửu phượng phá uế 22. Hạ phúc hợp đồng vĩ
Công việc chuẩn bị quan trọng tiếp theo là lập đàn (xem hình 1). Đàn là
nơi tiến hành các nghi lễ chính thức của lễ cấp sắc. Đàn do anh em họ hàng
của gia chủ lập dưới sự hướng dẫn của các thầy. Đàn có thể được lập ngoài
sân hay trong nhà, với các bộ phận chính như sau:
Cổng đàn: được dựng ở trước cửa nhà, sát thềm dưới sân, khung cổng
làm bằng tre, nứa hoặc vầu và được dán giấy mầu (xanh, đỏ, tím, vàng, trắng).
Trên cổng đề bốn chữ Hán: Tống, Chân, Nha, Môn. Hai bên cột cổng (hình
vuông) là một câu đối viết bằng chữ Hán. Cổng cao 1,8m, rộng 2m.
56
Bàn đặt sớ điệp: trên bàn để sớ điệp, bày hai đĩa lễ vật, đặt ba lọ hương:
lọ ở giữa là của người được cấp sắc, lọ bên trái của thầy truyền, lọ bên phải
của thầy gia bổ. Ngoài ra còn bày 5 chén rượu, hai chén nước, hai đĩa oản
bằng gạo nếp (mỗi đĩa năm oản), hai bát canh thịt.
Ban chính: được thiết kế như một khám thờ, khung làm bằng tre, ba
mặt đều được dán giấy ngũ sắc. Phía trước có bốn cột và viết hai đôi câu đối,
bên trên viết một hàng chữ Hán có tám chữ, bên trong treo ba bức tranh chân
dung Tam Thanh. Trên mặt ban đặt năm lọ hương, hai đĩa xôi, một đĩa hoa quả,
hai chén nước, năm chén rượu. Phía trước ban có nhốt hai con gà trống còn
sống, với mục đích là hai con gà này làm nhiệm vụ giữ đàn lễ. Bên cạnh đó có
để một lọ gạo cắm bốn lá cờ chiêu binh (bốn lá cờ hình chữ nhật có kích thước
40 x 25 cm, trên mặt đề chữ Hán: Mệnh lệnh, Chức lệnh, và họ tên người được
3
2
5
4
Chú thích:
1
1. Cổng 2. Bàn đặt sớ điệp 3. Ban chính 4. Ban thờ bên tả 5. Ban thờ bên hữu
cấp sắc), năm lá cờ trấn trạch, chiêu binh giữ nhà hình đuôi nheo.
Hình 1. Mô hình đàn
57
Ban thờ bên tả: được làm bằng tre, bên ngoài có sáu cột vuông đều
được viết chữ Hán, bên trên có hai rồng chầu âm dương. Bên trong treo tám
bức tranh âm binh thần tướng, trên mặt đặt sáu lọ hương, sáu chén rượu, sáu
chén nước, hai đĩa bánh, hai đĩa chuối, hai đĩa oản.
Ban thờ bên hữu: làm giống ban thờ bên tả, nhưng bên trong chỉ treo
bảy bức tranh chân dung của thánh. Về câu đối thì phải ghép cột bên hữu đối
xứng với cột bên tả để thành một câu đối.
Ngoài ra, gia chủ phải chuẩn bị những lễ vật cần thiết để tiến hành các
nghi lễ, lễ vật phải chuẩn bị phụ thuộc vào cấp bậc cấp sắc. Những lễ vật
chính trong lễ cấp sắc ở tất cả các bậc thường là lợn, gà, gạo nếp. Trong lễ cấp
sắc Pháp sư, lễ vật chính nhất thiết phải có 5 con vật, thường là 5 con gà; lễ
cấp sắc Chức sư cần 3 con lợn, gà; Thứ gia Tổng xuyến cần có 1 lợn, gà. Gạo
được đem nấu thành xôi, oản; gà, lợn sống hoặc nấu chín.
Trước và trong thời gian hành lễ, những người trực tiếp tham gia nghi
lễ (các thầy cúng và người xin cấp sắc), cũng như những người đến dự phải
tuân theo những kiêng kỵ sau:
Kể từ khi người xin cấp sắc đi nhờ thầy cúng xem ngày tiến hành lễ cấp
sắc, tất cả những thầy cúng trong ban cấp sắc và người xin cấp sắc đều không
được sinh hoạt tình dục. Trong thời kỳ trai giới đó, người xin cấp sắc phải hạn
chế đụng chạm vào người người khác giới (kể cả người nhà), hạn chế nói
chuyện, cấm nói tục chửi bậy.
Trước khi làm lễ cấp sắc chính thức, người thụ lễ và vợ phải tắm rửa
sạch sẽ, mặc quần áo mới. Trong những ngày hành lễ, mọi người từ chủ đến
những người tham dự không được nói tục, nói to, đánh đấm, chửi mắng nhau.
Tất cả những điều chay tịnh và cấm kỵ đó có mục đích là làm cho các
thầy và người được làm lễ cấp sắc giữ gìn được nguyên khí, nguyên thần của
bản thể, có đủ sức mạnh để khống chế được sức mạnh của các thế lực ma quỷ
58
xấu xa, vô hình trong vũ trụ thâm nhập vào cơ thể của mình, bảo vệ dẫn dắt
và hướng dẫn con người đi vào cõi thần thánh thiêng liêng, thu nạp được pháp
thuật của thần thánh trao cho.
2.4. Tiến trình lễ cấp sắc
Lễ cấp sắc của người Sán Dìu ở Lục Ngạn có 3 cấp bậc là Pháp sư,
Chức sư và Thứ gia Tổng xuyến, nhưng các bước tiến hành của các cấp bậc
về cơ bản là giống nhau. Sau đây là tiến trình lễ cấp sắc bậc Chức sư (Hoi
seo) của người Sán Dìu ở Lục Ngạn.
- Bước 1: Thỉnh thánh
Bước này gồm một thầy truyền, thầy phong chức cấp sắc và sáu người
giúp việc khác tiến hành.
Đầu tiên, các thầy nhảy múa và thổi tù và liên tục để thông báo cho tổ
tiên người thụ lễ và các thần thánh biết lễ cấp sắc đã bắt đầu. Sau đó, ba thầy
chính ngồi trước đàn, mặt hướng ra phía cổng đàn khấn vái, trình sớ để chiêu
binh thiên thánh, tức mời các thánh về chứng kiến lễ cấp sắc. Sau khi thỉnh
thánh kết thúc, hai thầy giúp việc cầm lệnh bài và ấn Ngọc Hoàng từ tay thầy
cấp sắc trao cho người được cấp sắc đang quỳ trước cổng đàn.
Lệnh bài có kích thước chiều dài 15cm, rộng 5cm, dày 1,5cm. Mặt
trước khắc hình rồng leo, mặt sau khắc các chữ Hán ghi cách tính sao tốt, xấu
trong năm và khắc tên thầy truyền. Cạnh của lệnh bài khắc tên thập nhị bát tú.
Ấn Ngọc Hoàng (xem ảnh 3) hình chữ nhật có chiều dài 8cm, rộng 7cm, cao
6cm. Giữa khắc chữ "Chức", hai bên khắc chữ "Tâm tướng" và "Hộ tướng".
Lệnh bài, ấn Ngọc Hoàng là những vật dụng quan trọng nhất của người thầy
cúng Sán Dìu. Chúng luôn được cất ở nơi trang trọng nhất (ban thờ) và là
những vật dụng không thể thiếu khi các thầy đi cúng.
Lễ vật trong bước này gồm 1 con lợn đã được thịt, để sống, mổ phanh
đôi đặt nằm úp trên bàn giữa, đầu quay về hướng bàn thờ chính nơi thờ 3 bức
59
tranh Tam Thanh, bốn chân lợn duỗi thẳng, mỗi chân kẹp một tờ giấy vàng.
Lá mỡ lợn được dàn mỏng căng úp lên mặt lợn, gáy cắm một con dao dựa
thẳng, gần đuôi đặt một con dao nhỏ. Xung quanh lợn bày rượu, gạo, cờ. Lễ
vật này để tỏ lòng thành của gia chủ đối với các thần thánh về dự lễ cấp sắc.
Những con dao cắm trên mình lợn để khẳng định chủ của nó, nhằm ngăn cấm
không cho ma tà quỷ dữ xâm phạm tới. Bước này được tiến hành trong thời
gian khoảng ba tiếng.
- Bước 2: Dâng sớ chính
Bước này có ba thầy điều khiển hành lễ, các thầy dâng sớ chính để báo
cáo toàn bộ công việc sẽ tiến hành trong lễ cấp sắc cho các thánh. Sau khi báo
cáo xong, các thầy tiến hành nhảy múa. Các thầy cầm cờ, tù và tiến hành múa
phất cờ, tấu nhạc, sắp xếp đội ngũ âm binh, quân binh, thánh binh để chuẩn bị
xuất trận tuần ải ngũ phương.
- Bước 3: Đại kết giới
Bước này được tiến hành nhằm đưa âm binh ra chào ngũ phương để đi
tuần ải. Các thầy trong ban lễ và thầy được cấp sắc đều phải mặc áo theo quy
định. Sau đó mọi người đi ra cổng, vừa đi vừa múa, một thầy cầm kiếm đi
trước, hai thầy chiêu binh đi sau, tiếp đến là hai thầy múa tù và xung quanh.
Người được cấp sắc mặc áo thầy cúng, đầu đội mũ phật, cầm lệnh bài, ấn và
một thủ hương nhảy múa ở giữa, các thầy khác nhảy múa vòng tròn xung
quanh. Các thầy lộn đi lộn lại hai vòng, lộn qua quỷ môn, mở đường cho ông
thầy được cấp sắc đi nhận chức. Qua bốn cửa, mỗi cửa lộn một lần, một thầy
cầm kiếm giữ cửa để trảm quỷ dữ.
- Bước 4: Tạo cầu đón thánh
Cầu dài khoảng 2m, rộng 30 cm, được làm bằng giấy, trên có hình ảnh
thiên binh vạn mã, các vị thần linh, cầu được đặt trên một tấm vải đỏ hoặc
60
trắng. Đi tiếp thánh có ông trình sớ, cùng thiên binh vạn mã bao quanh hầu
hạ. Người thụ lễ đặt một gói gạo bọc giấy đỏ để lấy phép, đồng thời có hai
người múa hát liên tục. Sau đó đưa ấn lên bàn trên, bỏ cầu và thầy thỉnh để
kết thúc bước này.
Các thánh được mời về dự lễ cấp sắc:
1. Tam Thiên Pháp Chủ Cửu 15. Hồng sơn tam thánh thập vị
Hoàng Thượng Đế. công vương.
2. Tam Thanh Thượng Thánh Thập 16. Tam tra thái tử trị bệnh công tào.
Cửu cao chân. 17. Man sư pháp chủ phan đàn
3. Tam Thiên Du Gia Chư Phật ngũ lang.
Như Lai. 18. Tam đài sơn thượng cung lưu
4. Tam đàn tôn thánh lục bộ từ chân. dương tam thánh.
5. Tam thân hoá Phật tứ chi năng chân. 19. Tuyết sơn tiêu xà nhị viên
6. Tam thiên phù giáo đại pháp quan tướng.
thiền sư. 20. Thiên cung ngọc phong dương
7. Tứ kinh đại đế lục hợp vạn linh. Lâm, Lý Thái Công.
8. Thái thanh vương mẫu liệt vị 21. Tam vị thái công, tam vị
quân tiên. nương nương.
9. Trần, Lâm, Lý nãi tam vị phu nhân. 22. Lôi công nguyên soái thập
10. Pháp chủ tiên cô khương tam vị xá nhân.
thập lục nương. 23. Khai thiên lập địa bàn thánh đế.
11. Lữ sơn Tam án tiên quan cửu lang. 24. Phủ châu đăng đàn tam lão
12. Giáo chủ trương triệu nhị lang. tiên sư.
13. Bắc cực đế chủ thập động 25. Xa công địa tướng ngũ nhạc
man vương. đại vương.
14. Bình sơn hán đế thất thái 26. Tuyết đình địa chi chư viên
linh vương. thiên tướng.
61
27. Tiền truyền hậu giáo tổ bàn 33. Công đức chư quan đại quyền
tông sư. chân án.
28. Đăng phủ châu huyện thành 34. Kim cang đại tuế trí tôn thần.
hoàng chủ thế. 35. Quá vọng hư không vô biên
29. Bản phường đức đạo hầu vương thánh chúng.
36. Thăng chức hôi thượng thiên đại vương.
30. Bản phường tế bái xã lệnh thánh vạn hiền.
37. Cấp lộc dao chung kiến vân châu quan.
31. Bản âm dương hảo chu thị đẳng chúng.
môn chung.
32. Đông tây nam bắc chủ tiên
binh chung.
- Bước 5: Trình hợp đồng - trình sớ
Sớ được để vào hai sàng, một sàng để sớ vàng của thầy truyền và một để
sớ trắng của người thụ lễ (xem ảnh 4). Sớ âm đọc trước, sau đó hoá ngay, người
thụ lễ phải giữ lại những sớ dương cho đến lúc mất. Giữa sớ âm và sớ dương
phải dóng dấu giáp lai, mỗi sớ có hình nửa dấu để sau khi người được cấp sắc
chết sẽ xuống âm phủ ghép lại đối chiếu. Trong lễ cấp sắc này của người Sán
Dìu ở Lục Ngạn có 24 tờ sớ điệp của thầy truyền và 22 tờ sớ điệp của thầy gia
bổ. Tên những tờ sớ đã được trình bày ở phần 2.3. Chúng tôi đã lược dịch 2 tờ
điệp, một tờ của thầy truyền và một tờ của thầy gia bổ (xem phụ lục 1).
- Bước 6: Dâng khăn hồng
Khăn hồng là tấm vải đỏ dài 1,8m, rộng 20cm, được gia đình người xin
cấp sắc và con cháu đến dự chuẩn bị từ trước. Trước tiên, người được cấp sắc
dâng khăn hồng cho cho các thầy, đầu tiên là thầy truyền, lần lượt tiếp theo là
các thầy gia bổ, thầy chứng minh, thầy bảo cử, thầy dẫn đàn, thầy truyền
phép, thầy kết quy, thầy đinh tẩu. Dâng khăn hồng cho các thầy thể hiện lòng
62
cảm ơn của người được cấp sắc đối với các thầy đã ban cấp pháp cho mình.
Khi dâng khăn hồng, người được cấp sắc phải quỳ lạy ba lần để nghe lời
truyền dạy về đạo làm thầy sao cho xứng danh. Người thụ lễ không tặng vải
đỏ cho người già trong nhà, mà chỉ quỳ lạy một lần để nghe lời chúc mừng.
Tiếp theo, các con cháu, các em đến dâng khăn hồng chúc mừng cho
người được cấp sắc. Những người dâng khăn hồng đem một tấm khăn đến và
quàng qua vai người được cấp sắc rồi quỳ lạy hai vái trước mặt. Người được
cấp sắc cảm ơn và hứa sẽ phù hộ những người dâng khăn hồng cho mình.
- Bước 7: Xin nước về làm lễ cấp sắc
Đoàn đi ra sông lấy nước gồm có: thầy gia bổ, người được cấp sắc, hai
người nam giới cầm ô che cho hai thầy, hai người giúp việc. Các thầy vừa đi
vừa đọc bài cúng qua đường, xong một bài lại đóng ba đoạn nứa hoặc tre, bên
cạnh cắm một cành lá bạch đàn, tượng trưng cho ban thờ và buộc mọi người
phải đi vòng qua. Trong ba đoạn nứa đó, đoạn ở giữa cắm ba nén hương, hai
đoạn còn lại đựng rượu và nước. Khi ra tới bờ sông ông thầy gia bổ đọc bài
cúng trình thánh và tiến hành tế trình thủy thần ngay tại bến sông trước khi lấy
nước thánh (xem ảnh 5, 6). Lễ vật gồm một con gà trống luộc, ba bát xôi, năm
chén rượu cùng vàng mã và thắp ba nén hương. Sau đó, thầy làm các phép
thuật rồi lấy siêu nhôm múc nước từ sông lên. Trong quá trình mang nước từ
sông về, đoàn người phải đi đúng đường cũ, đến những ban thờ tượng trưng
bằng nứa phải đi vòng quanh khấn vái rồi đạp đổ. Sau khi nước được rước về,
họ đặt trên ban thờ thánh Tam Thanh và tiến hành thủ tục truyền phép.
Bước 8: Truyền phép
Để thực hiện bước này, người ta làm một mô hình ngai rùa ở trước bàn
thờ Tam Thanh. Đầu tiên, người ta bắc một tấm vải trắng từ bàn thờ Tam Thanh
xuống, sau đó trải một chiếc chiếu lên tấm vải đó, giữa chiếu có hình con rùa
được xếp bằng gạo tẻ, đầu quay về hướng bàn thờ Tam Thanh (xem hình 2).
1
2
3
5
1. Ban thờ Tam Thanh 2. Vải
6
4
3. Cọc 4. Vải quây đứng xung quanh
5. Chiếu
6. Quy
63
Hình 2. Mô hình ngai rùa
Người được cấp sắc ngồi trên lưng rùa, mặc áo thầy cúng, quàng khăn
hồng, đầu đội mũ phật, phía sau cài một lá cờ đỏ cỡ 40 x 20cm, giữa lá cờ đề
chữ "Sắc lệnh" và hai dòng chữ Hán nhỏ ghi niên hiệu, tên, địa chỉ của người
được cấp sắc. Xung quanh người được cấp sắc đặt các loại sách cúng, ấn, lệnh
bài, bút, kiếm, súc sắc, tù và, nước, bát đũa và một bát hương ở giữa. Thầy
truyền phép mặc áo cà sa, đầu đội mũ phật. Hai thầy ngồi đối diện, tay lồng
vào nhau, thầy truyền hỏi, người xin cấp sắc đáp.
Hỏi: "đến đây làm gì? hỏi gì?".
Đáp: "con đến xin được truyền phép để đi cứu nhân độ thế. Xin thầy
truyền cho đi làm thầy, xin cho âm dương thỉnh thánh".
Hỏi: "xin truyền những phép gì?"
Đáp: "xin thầy truyền từ phép từ nhỏ tới lớn, truyền cho đạo pháp,
phật pháp".
Sau đó, thầy truyền lấy ba nén hương đang cháy đặt vào quyển sách
cúng, cuộn tròn lại rồi thổi phép về phía người được cấp sắc, gọi là "Hàm
64
hương quá khứ". Hương khói là tượng trưng cho phép của thầy truyền cho đệ
tử. Sau khi đã truyền phép xong, thầy truyền thả một tấm bùa xuống cho
người được phong chức tượng trưng cho việc thánh đã chấp nhận việc thăng
chức. Tiếp đó, thầy truyền xin âm dương, nếu xin được thầy sẽ cấp cho người
xin cấp sắc các đồ vật như: lệnh bài, ấn Ngọc Hoàng, kiếm, sách cúng, tù và,
thanh la, trống kèn, phi long, phi hổ... Cuối cùng, các thầy tiến hành chiêu
quân cho người mới được cấp sắc dưới sự giám sát của hội đồng cấp binh.
Trong quá trình hành lễ, các thầy giúp việc khác nhảy múa liên tục các vũ
điệu Hoàng mẫu xay thóc giã gạo, sàng gạo, thủy ngư vong nguyệt... xung
quanh thầy truyền và người được cấp sắc.
- Bước 9: Lễ cúng cờ
Lễ vật gồm bốn lá cờ bằng giấy màu đỏ, cờ trấn trạch hình đuôi nheo
cắt giữa, cờ chiêu binh, cờ trình thánh, trình phép hình chữ nhật, tất cả được
cắm vào một chậu gạo; một mâm bày năm bát thịt lợn luộc có muối trắng để
cạnh và năm chén rượu. Lễ này do 2 người giúp việc đảm nhận, họ mặc quần
áo hàng ngày, ngồi xổm và cúng tế. Đây là lễ của người được phong chức cấp
sắc trả nghĩa cho các thầy.
- Bước 10: Lễ tạ thánh
Lễ vật gồm hai mâm, mỗi mâm bầy một con lợn khoảng 50 kg đã luộc
chín, đầu cắt làm bốn mảnh, để cả lòng ruột, trên con lợn đặt một con gà luộc
có đủ lòng mề, xung quanh đặt cơm, rượu, muối trắng. Chuẩn bị lễ vật xong,
các thầy nhảy múa, cúng tế rồi hóa vàng. Bước này nhằm cảm tạ các thánh
thần, tổ tiên đã về dự và chứng giám cho lễ cấp sắc. Tạ thánh xong người ta
chuyển sang lễ trấn trạch. Các thầy nhảy múa mang cờ trấn trạch vào trong
nhà cắm cờ ở bốn hướng và ở giữa. Người ta quan niệm rằng, khi tiến hành
làm lễ cấp sắc thì long mạch trong nhà sẽ bị động, nên sau khi cấp sắc xong
phải trấn trạch để trở lại bình thường như cũ.
65
Sau khi kết thúc các bước trên, toàn bộ câu đối và giấy tranh trí trong lễ
cấp sắc đều đem hóa hết. Hoa quả, gạo, bánh kẹo… được phân phát cho mọi
người đến dự lễ cấp sắc để lấy may.
Trước khi ra về, gia đình tổ chức một bữa cơm thịnh soạn mời các thầy
và tất cả mọi người đến dự lễ. Gia chủ đáp lễ cho thầy truyền và thầy gia bổ
mỗi vị 1 thủ lợn, 1 vai lợn và 1 con gà kèm theo một khăn thầy (bát gạo và
tiền). Tiền lệ phí khoảng trên dưới 300.000đ, khi nhận số tiền này ông thầy
thường bớt lại cho gia đình một ít để lấy may. Những thầy giúp việc khác
cũng được nhận lễ vật và tiền thù lao nhưng ít hơn của thầy truyền và thầy gia
bổ. Mức phí này không có quy định sẵn, mà tuỳ theo hoàn cảnh và thành tâm
của gia chủ.
Trên đây là toàn bộ tiến trình một buổi lễ cấp sắc chức Chức sư (Hoi
seo) của người Sán Dìu ở Lục Ngạn Bắc Giang. Lễ cấp sắc của các bậc khác
(Pháp sư và Thứ gia Tổng xuyến) về cơ bản cũng tiến hành theo trình tự trên,
nhưng trong mỗi bước cũng có những chi tiết khác biệt. Ví dụ: trong lễ cấp
sắc chức Thứ gia Tổng xuyến không có chi tiết "Hàm hương quá khứ"; các
thầy Bản sư, Bảo quý, Chứng minh chỉ đến dự mà không cần có văn bản tấu...
Lễ cấp sắc bậc Chức sư của người Sán Dìu ở Lục Ngạn có cấp bậc
tương đương với lễ cấp sắc Thất tinh (bẩy đèn) của người Dao tiền ở Ba Bể
Bắc Kạn. Cả hai đều là lễ cấp sắc lần hai, nhằm nâng bậc cho những người
thầy cúng, với thời gian chuẩn bị lâu dài, tốn kém và chứa đựng nhiều nghi lễ
tôn giáo phức tạp. Tuy nhiên, hai lễ cấp sắc này lại có những nét rất khác
nhau, nhất là về tiến trình cấp sắc. Những nét khác biệt này được thể hiện
trong bảng 2.2.
66
Lễ cấp sắc của người Sán Dìu ở Lục Ngạn Nội dung so sánh
Bảng 2.2: So sánh một số chi tiết trong lễ cấp sắc Chức sư của người Sán Dìu Lục Ngạn và lễ cấp sắc Thất tinh của người Dao tiền ở Ba Bể Bắc Kạn Lễ cấp sắc của người Dao Tiền ở Ba Bể Bắc Kạn Thất tinh, Tẩu sai Tên gọi
Đối tượng thụ lễ Con trai đã lập gia đình đã trải qua lễ cấp sắc 3 đèn Hoi seo - Con trai đã lập gia đình và đã trải qua lễ cấp sắc Pháp sư - Vợ thầy cúng chức Chức sư
1 người Từ 1 đến 3 người (số lẻ)
Tại nhà người thụ lễ 3 con lợn khoảng 40 - 50 kg
Số người thụ lễ trong một lần Nơi làm lễ Lễ vật chính Thời gian hành lễ 2 ngày 1 đêm
Số thầy chính 8 thầy cúng đã qua lễ cấp sắc Chức sư
Nhạc cụ chính Tù và, chũm, choẹ
Áo, mũ thầy cúng Y phục của người thụ lễ
Tại nhà ông trưởng họ 2 con lợn khoảng 30 - 40 kg Từ 5 đến 7 ngày đêm 7 thầy cúng đã qua lễ cấp sắc 7 đèn Trống, chiêng, chuông nhạc, tù và Bộ tôm lui và áo, váy, mũ thầy cúng - Lễ thụ đèn:
+ lễ lên đèn
+ lễ cấp cầu và cấp âm binh
+ lễ cấp mũ và áo tế
Các bước chính - Lễ cúng bàn Vương
- Thỉnh thánh - Dâng sớ chính - Đại kết giới - Tạo cầu đón thánh - Trình hợp đồng - Tặng khăn đỏ - Xin nước - Truyền phép - Cúng cờ - Tạ thánh + Cúng ma Bàn Vương và các thần linh khác đến dự + Lễ ngâm thơ và hát cho ma Bàn Vương
Tiểu kết chương 2
Tuy là một bộ phận nằm trong hệ thống phong tục và nghi lễ đánh dấu
sự trưởng thành của người Sán Dìu, nhưng tục cấp sắc của người Sán Dìu ở
67
Lục Ngạn hiện nay, không còn tồn tại với ý nghĩa là một lễ thành đinh thông
thường. Mục đích chính của lễ cấp sắc hiện nay là đào luyện những thanh
niên trở thành thầy cúng theo nghi lễ của dòng Đạo giáo bùa chú. Do đó,
khác với dân tộc Dao, coi việc tiến hành cấp sắc như là điều kiện bắt buộc
đối với mọi thành viên nam, người Sán Dìu chỉ tiến hành cấp sắc cho những
người có mong muốn đi theo con đường làm thầy cúng, mà không mang tính
chất bắt buộc.
Hiện nay, cấp sắc vẫn là một phong tục quan trọng không thể thiếu của
người Sán Dìu ở Lục Ngạn. Lễ là phần cơ bản trong tục cấp sắc, lễ cấp sắc
của người Sán Dìu ở Lục Ngạn gồm có ba bậc: Pháp sư (Lộc sô), Chức sư
(Hoi seo) và Thứ gia Tổng xuyến (Chổng sọn), mỗi lần nâng bậc là một mốc
đánh dấu sự tăng quyền lực và địa vị xã hội của người được cấp sắc. Để nâng
bậc, cần một quá trình phấn đấu toàn diện, lâu dài của người xin cấp sắc. Một
buổi lễ cấp sắc thường tiến hành trong khoảng hai ngày một đêm, nhưng cần
thời gian chuẩn bị lâu dài và tốn kém. Những người tham gia hành lễ phải tiến
hành rất nhiều các nghi lễ (10 bước) phức tạp mang tính thần bí. Người ta
cũng phải tuân theo nhiều quy định, trong đó có những quy định "cứng" và
quy định "mềm". Quy định cứng là những quy định bắt buộc phải tuân theo
một cách máy móc như quy định về giới tính, trình độ hiểu biết, tư cách đạo
đức, trình tự phong chức, những kiêng kỵ... Quy định mềm là những quy định
có thể thay đổi ít nhiều trong quá trình thực hiện như độ tuổi, số lượng người
xin cấp sắc trong một lần, thời gian tổ chức, các lễ vật...
Cấp sắc là việc riêng của từng cá nhân, nhưng lại mang tính cộng đồng
rất cao. Mỗi lần tổ chức lễ cấp sắc người ta thường tiến hành trừ ma tà ác quỷ
trong khu vực để đảm bảo sự thanh khiết của làng trong những ngày làm lễ và
những ngày sau đó. Hơn nữa, khi có một người được cấp sắc nghĩa là có thêm
một người bảo vệ cuộc sống bình yên cho làng. Do vậy, đồng bào Sán Dìu coi
lễ cấp sắc của một ai đó trong làng là vinh dự và là công việc hệ trọng của
chính mình, mọi người trông đợi và tự nguyện ủng hộ một cách nhiệt tình.
68
Chương 3 NHỮNG VẤN ĐỀ RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU TỤC CẤP SẮC CỦA TỘC NGƯỜI SÁN DÌU Ở HUYỆN LỤC NGẠN (B ẮC GIANG)
3.1. Ý nghĩa và giá trị nghệ thuật
Tín ngưỡng - tôn giáo là một bộ phận cấu thành của văn hoá dân gian,
mà văn hoá dân gian lại là bộ phận cốt lõi của văn hoá dân tộc, nó được hình
thành rất sớm trong lịch sử, có sức mạnh dẻo dai và mãnh liệt, đồng thời là
yếu tố cực kỳ quan trọng tạo nên bản sắc, bản lĩnh văn hoá dân tộc. Tín
ngưỡng - tôn giáo là yếu tố truyền thống giữ cho văn hoá dân tộc khỏi bị biến
dị, lai căng; nó là cái nền cho dân tộc tiếp thu có chọn lọc các yếu tố văn hóa
bên ngoài để làm giàu cho văn hóa dân tộc.
Tục cấp sắc là một bộ phận đặc biệt quan trọng, trong hệ thống tín
ngưỡng - tôn giáo của người Sán Dìu nói chung và của người Sán Dìu ở Lục
Ngạn nói riêng. Ở đó các yếu tố tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán,
sinh hoạt văn hoá nghệ thuật, hoà quyện vào nhau tạo nên sắc thái văn hoá
đậm đà bản sắc dân tộc. Thông qua tục cấp sắc, người ta có thể nhận diện
được bản sắc văn hoá dân tộc, góp phần hình thành và gìn giữ những bản sắc
ấy, củng cố thắt chặt khối cộng đồng dân tộc
3.1.1. Ý nghĩa tín ngưỡng, tôn giáo
Như đã nói, người Sán Dìu có thế giới quan hết sức phong phú, họ
thường tin vào thần linh, ma quỷ và cho rằng các đối tượng này thường xuyên
tác động tốt hoặc xấu đến đời sống của mình. Do đó, muốn đảm bảo sự yên
lành cho cuộc sống, con người phải biết thờ cúng, biết tiến hành các nghi lễ
để cầu mong các loại thần linh và ma lành phù hộ, dùng các thủ thuật phòng
trừ các loại ma làm hại. Song, người nào muốn làm được việc đó thì phải trải
qua lễ cấp sắc. Chỉ những người đã trải qua lễ cấp sắc thì mới được các thần
69
linh và tổ tiên công nhận là con cháu và được phép tiến hành cúng bái. Bởi
lẽ, theo nhận thức của đồng bào Sán Dìu, trong lễ cấp sắc người ta treo nhiều
bức tranh vẽ các vị thần linh khác nhau, rồi thỉnh cẩu các thần linh đó đến dự,
chứng kiến và công nhận các tình tiết diễn ra trong nghi lễ. Đồng thời, trong
lễ cấp sắc, sau khi đã được đặt pháp danh, người thụ lễ được cấp các dụng cụ
dùng trong cúng bái và các thủ thuật cần thiết để thỉnh cầu các vị thần linh và
ma lành phù hộ, người thụ lễ cũng được cấp một số âm binh để bảo vệ mình
khi thực hiện các nghi lễ cúng bái hoặc làm các thủ thuật phòng trừ ma ác.
Người Sán Dìu ở Lục Ngạn cho rằng, chỉ những người đã qua lễ cấp
sắc thì mới được công nhận là thành viên chính thức của cộng đồng và chỉ
những người đó mới được tiến hành những công việc liên quan đến phong tục
tập quán như thắp hương lên bàn thờ, xem sách chọn ngày tháng tốt cho
những công việc hệ trọng, được đại diện gia đình trong mọi công việc quan
trọng... Họ có thể đi làm lễ cấp sắc cho người khác, làm thầy khi chôn cất
người chết hoặc làm ma khô... Đồng bào cũng tin rằng, chỉ những người đó
mới có tâm đức để phân biệt phải trái, mới thấu hiểu được phong tục tập quán
của cồng đồng.
Theo quan niệm của người Sán Dìu, người được cấp sắc luôn được tổ
tiên cùng với các thần linh phù hộ, không những không sợ ma quỷ làm hại mà
còn có khả năng bảo vệ mọi người trước ma quỷ, chữa bệnh, bảo vệ đồng
bào trong những lúc khó khăn hoạn nạn. Người được cấp sắc sau khi chết
linh hồn được đưa qua 12 cửa cầu lên với Ngọc Hoàng ở trên Thiên đình,
tên tuổi người được cấp sắc mãi mãi được các đệ tử thờ phụng đời này qua
đời khác. Gia đình có người được cấp sắc sẽ được các âm binh phù hộ độ
trì, không cho ma quỷ, tà thần đến quấy nhiễu, mọi người khoẻ mạnh, làm
ăn gặp nhiều may mắn.
Như vậy, tục cấp sắc đã góp phần củng cố lòng tin của đồng bào Sán
Dìu vào cuộc sống tốt đẹp hơn ở hiện tại và tương lai. Niềm tin này là điều
70
kiện quan trọng để đồng bào an tâm lao động sản xuất, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần, củng cố tình đoàn kết trong cộng đồng.
3.1.2. Ý nghĩa giáo dục
Tục cấp sắc có ý nghĩa giáo dục tích cực đến người Sán Dìu, đặc biệt là
đối với những thanh niên nam giới. Nội dung các điều cấm kỵ, các bằng sắc,
chứa đựng những giá trị đạo đức mà bất cứ người nào cũng phải giữ gìn, phấn
đấu đạt tới. Suy cho cùng, nội dung các điều cấm kỵ, các bằng sắc đều hướng
tới cái chân, cái thiện đó là sự tôn kính các thầy, biết ơn cha mẹ, tình thuỷ
chung vợ chồng, bạn bè, có lòng vị tha và dũng cảm, sống thành thật không
lừa lọc, không dâm đãng... "Phải chịu đựng mọi gian khổ, phải thực hiện
thuốc tra ma cầu, không phân biệt giàu nghèo, không được dùng phép thuật
làm hại người khác". Tục cấp sắc cũng khuyên dạy con người biết tôn trọng
và chấp hành các luật lệ, phong tục tập quán của tộc người.
Tính giáo dục của tục cấp sắc, còn được thể hiện qua các bức tranh thờ
treo trong quá trình tiến hành lễ cấp sắc. Các bức tranh như Tứ Trực Công
Tào, Tứ Phủ Công Đồng, Thập Điện Diêm Vương... thể hiện hình ảnh các vị
thần linh luôn luôn hiện diện ở bên cạnh người được cấp sắc trong suốt cuộc
đời anh ta để chứng kiến những hành vi thiện ác từ đó giáng phúc hay trừng
phạt anh ta. Bởi vậy, người được thụ lễ cấp sắc luôn tự nguyện trong việc tu
dưỡng những đức tính tốt, làm việc thiện, tránh gây ra tội ác.
Có thể nói, với truyền thống giáo dục mang tính tộc người, trong đó có
một phần tham gia của tục cấp sắc, đã tạo lên phong cách đằm thắm, thận
trọng, kín đáo của người Sán Dìu. Nhờ môi trường giáo dục đó, thanh niên
người Sán Dìu luôn là những người lễ độ, ngoan ngoãn, sống lương thiện, hoà
hợp, biết tôn trọng tập tục và tập quán tộc người.
Những yếu tố tích cực này, nếu được khai thác một cách hợp lý sẽ góp
phần không nhỏ vào việc giáo dục tư tưởng đạo đức, tinh thần cách mạng, ý
71
thức chấp hành pháp luật cũng như thực hiện những chính sách của Đảng và
Nhà nước cho đồng bào.
3.1.3. Tục cấp sắc đối với nghiên cứu khoa học
Các bộ tranh thờ và hệ thống thần linh cùng với các tập tục, cũng như
các tình tiết diễn ra trong lễ cấp sắc rất có giá trị trong việc nghiên cứu các sắc
thái tín ngưỡng tôn giáo của người Sán Dìu ở Lục Ngạn nói riêng và của
người Sán Dìu nói chung. Qua tục cấp sắc ta thấy, người Sán Dìu chịu ảnh
hưởng của nhiều sắc thái tôn giáo. Trước hết là Đạo giáo, yếu tố Đạo giáo
được thể hiện ở sự hiện diện của các bức tranh thờ, việc thổi sừng trâu gọi
Ngọc Hoàng, Thái Thượng Lão Quân và một số thần linh khác ở trên trời, đặc
biệt là việc các thầy cúng sử dụng các bùa phép, ma thuật của Đạo giáo để tẩy
uế, khai đàn, đặt pháp danh, cấp các dụng cụ cúng bái và âm binh cho người
thụ lễ... Hầu hết các bức tranh treo trong lễ cấp sắc đều thể hiện quan niệm
của Đạo giáo về vũ trụ xung quanh con người.
Cùng với Đạo giáo cũng thấy xuất hiện các yếu tố của Phật giáo, đó là
việc ăn chay, cấm phá giới, cấm những người hành lễ và những người thụ lễ
sát sinh. Các thầy cúng và những người trải qua lễ cấp sắc đều chịu ảnh
hưởng bởi thuyết luân hồi, định mệnh của Phật giáo. Họ cho rằng mỗi người
đều có một số mệnh riêng của mình, ai cũng bị chi phối bởi thuyết nhân quả
và kiếp luân hồi. Trong thời gian làm lễ cấp sắc, người ta cấm nam nữ nô đùa,
các thầy cúng và người xin cấp sắc phải chay tịch, không được sát sinh, không
được quan hệ vợ chồng trước và trong thời gian hành lễ...
Yếu tố Nho giáo cũng được phản ánh tương đối đậm nét trong tục cấp
sắc của người Sán Dìu. Nó được thể hiện thông qua các mối quan hệ giữa cha
con, vợ chồng, giữa thầy dạy và người học, quan hệ giữa các chức sắc, giữa
những người cùng làm thầy... Các mối quan hệ này được mọi người tuân thủ
một cách nghiêm ngặt. Chẳng hạn, tên thầy truyền, thầy gia bổ và công trạng
72
của họ được ghi vào trong sớ điệp của người thụ lễ và luôn luôn được người
xin cấp sắc nhắc đến khi hành nghề cúng bái.
Hình thái thờ cúng tổ tiên được xuất hiện khá đậm nét trong tiến trình
hành lễ cấp sắc. Hầu hết các khâu từ tiếp đón thầy cúng đến hành lễ, khai
đàn... cho đến kết thúc hành lễ, tiễn đưa thầy cúng ra về đều thấy gọi đến các
bậc tổ tiên dòng họ của người thụ lễ. Ngoài ra, yếu tố linh vật giáo cũng xuất
hiện trong lễ cấp sắc, đó là việc cầu khấn và cúng các thần chăn nuôi, thần lúa
gạo, thần thổ địa, thổ công... Như vậy, chỉ thông qua lễ cấp sắc có thể nhận
diện đặc điểm tính ngưỡng, tôn giáo truyền thống của người Sán Dìu có sự
ảnh hưởng từ nhiều hình thái tín ngưỡng tôn giáo khác nhau.
Ngoài ra, những câu chuyện, những bài ca trong lễ cấp sắc là những gợi
mở quan trọng để các nhà nghiên cứu tìm hiểu về nguồn gốc, quá trình di cư
của người Sán Dìu từ Trung Quốc vào Việt Nam…
Nhiều yếu tố khác như lễ phục, các điệu múa, âm nhạc, tranh thờ
cúng, lễ vật trong lễ cấp sắc... còn có giá trị đối với công tác nghiên cứu về
các đặc điểm văn hoá vật chất, văn hoá ẩm thực, văn hoá nghệ thuật và mỹ
thuật dân gian của người Sán Dìu ở Lục Ngạn cũng như người Sán Dìu ở
những nơi khác.
3.1.4. Giá trị nghệ thuật
Giá trị nghệ thuật trong tục cấp sắc được thể hiện chủ yếu ở các bức
tranh thờ, nghệ thuật múa dân gian, y phục của thầy cúng và người thụ lễ.
Trong lễ cấp sắc người ta treo rất nhiều bức tranh thờ có giá trị nghệ
thuật và mỹ thuật dân gian (xem ảnh 7). Chủ đề của tranh đều nằm trong
phạm trù tư duy triết học, tôn giáo, huyền thoại và dã sử. Để vẽ được những
bức tranh như vậy, người xưa đã quan sát, khám phà và hiểu biết về tự nhiên
một cách sâu sắc trên cơ sở thành tựu của các nghành khoa học cổ đại như
chiêm tinh học, khí tượng học... Từ đó rút ra được các hiện tượng tự nhiên
73
điển hình, cấu tạo nên những hình tượng nghệ thuật có sức khái quát cao về
bản chất của vũ trụ. Những hình tượng nghệ thuật đó, biểu hiện rõ nét sáng
tạo nghệ thuật sâu sắc, hồn nhiên đầy tính lãng mạn. Thông qua hình vẽ của
các bức tranh thờ này chúng ta nhận thấy các nhân vật trong tranh đầy vẻ
sống động, đượm tính dân tộc, giàu bản sắc văn hoá và gắn bó với lịch sử xã
hội của dân tộc Sán Dìu.
Bộ tranh dùng trong lễ cấp sắc của người Sán Dìu ở Lục Ngạn mang
tính nhân văn cao, đồng thời cũng mang tính hiện thực sâu sắc. Khi xem
tranh, chúng ta thấy hình hài kết cấu của các hình tượng đều không khác gì
cuộc sống của con người đang sống và đang nghĩ. Trong bộ tranh cấp sắc có
nhiều bức, mỗi bức lại có những nội dung khác nhau, nhưng trong nghệ thuật
tranh, ta có thể nhận thấy một số điểm cơ bản sau:
Về bố cục: đây là phần cơ bản tạo cho tranh có những tính cách riêng.
Bố cục của tranh thường đậm đặc. Những tranh đông người thường được chia
thành các ô, được người vẽ thể hiện một cách cân xứng. Các nhân vật trong
tranh được bố trí theo đẳng cấp, nhân vật có quyền uy nhất thì được bố trí ở
cao nhất và được vẽ to nhất, cứ như vậy thấp dần xuống cho đến những nhân
vật có địa vị thấp kém nhất trong xã hội. Tuy trong bộ tranh cấp sắc vẫn có
chỗ bố cục còn tuỳ tiện, nhưng chính điều đó lại tạo lên tính thống nhất mang
tính dân gian của đồng bào Sán Dìu, đó là khi vẽ không cần để ý đến chi tiết,
không cần phải lấp chỗ trống một cách chủ động, tạo cho tranh có vẻ tuỳ
hứng, ngẫu nhiên, mạnh bạo khác với tranh chuyên nghiệp.
Về màu sắc: trước đây người Sán Dìu thường lấy màu trong tự nhiên từ
cỏ cây, hoa lá, đất đá... để vẽ tranh, cụ thể như cây rành rành, đất đỏ, than
tre... Hiện nay, họ đã biết dùng phẩm màu, bột màu để vẽ, bởi vậy, bảng màu
có phong phú hơn. Màu sắc được kết hợp với nhau một cách linh hoạt, uyển
chuyển. Những gam màu mạnh, đối lập nhau thường được đặt gần nhau, để
74
tạo ra những bước tranh mang tính thiêng liêng huyền bí. Ngược lại, để tạo ra
những bức tranh mang tính đời thường người ta lại sử dụng các gam màu nhẹ
nhàng, tươi sáng.
Trong lễ cấp sắc của người Sán Dìu ở Lục Ngạn thường sử dụng các bộ
tranh sau:
Bộ tranh Tam Thanh Cung, đây là bộ tranh quý nhất của người Sán Dìu
vẽ về các vị thần linh ở cõi thượng nguyên. Tam Thanh Cung có nghĩa là ba
cung của thần linh ở cõi Thanh hư, cõi hư vô thanh khiết, được tưởng tượng là
ở ngoài bầu trời không còn vướng "bụi trần gian". Bộ tranh này gồm ba bức,
treo ở chính giữa đàn lễ. Bức thứ nhất treo ở giữa và cao hơn là Nguyên thuỷ
thiên tôn - Ngôi vị cao nhất ở Ngọc Thanh cung, tượng trưng cho nguồn gốc,
khởi điểm của vũ trụ, là đầu mối cho sự tự phân hoá và sự hoà điệu của hai
nguyên lý âm - dương. Đó là thái cực bao hàm cả âm và dương. Hai bức
tranh hai bên là Linh Bảo Thiên Tôn ở Thượng Thanh Cung nằm về bên tả
tượng trưng cho nguyên lý dương và Đạo Đức Thiên Tôn ở Thái Thanh cung
nằm ở bên hữu tượng trưng cho nguyên lý âm. Hai bức tranh này tượng trưng
cho sự hoà hợp của hai nguyên lý âm dương.
Ba bức tranh này không bao giờ tách rời nhau. Quan niệm về vũ trụ của
người Phương đông không bao giờ tách rời cái thái cực với âm dương. Sự tự
phân hoá và hoà điệu của thái cực với âm dương là khởi điểm cho cho sự tồn
tại cũng như mọi sự sinh sinh hoá hoá, hoà điệu, vô thuỷ vô chung, luân
chuyển không cùng, liên tục không nghỉ của muôn loài muôn vật, của khí và
thể trong vũ trụ.
Bộ tranh Ngọc Hoàng Thượng Đế được Đạo giáo coi là bậc Đại Thiên
Tôn. Đó là vị cai quản triều đình nhà trời về mặt quản lý hành chính: thăng,
giáng chức, bổ nhiệm, thưởng phạt toàn bộ các bậc thần tiên, thiên tướng và
thánh thần trong toàn vũ trụ. Phía dưới Ngọc Hoàng Thượng Đế là các bậc
tinh quân, thiên vương, thiên tướng sẵn sàng nhận lệnh của Ngọc Hoàng để
đem phúc hay giáng hoạ cho người đời.
75
Bộ tranh tứ trực công tào vẽ chung trong một bức, vẽ về 4 vị thần linh
tượng trưng cho sự tuần hoàn không ngừng, không nghỉ của thời gian vô thuỷ
vô chung. Trong bất cứ khoảng thời gian nào cũng có một vị thần hiện diện để
chứng kiến những việc làm thiện ác của đời người.
Bộ tranh tứ phủ công đồng vẽ về 3 cõi: thượng nguyên, trung nguyên
và hạ nguyên. Bộ tranh này gồm hai bức. Bức thứ nhất vẽ thiên phủ và địa
phủ. Bức thứ hai vẽ dương phủ và thoải phủ. Bốn vị thần linh này là toà án
tối cao của nhà trời, có nhiệm vụ trị tội những người có hành vi gây ác ở
trần gian.
Bộ Thập Điện Diêm Vương, vẽ khu vực các thần ở cõi Hạ nguyên
(thuỷ, địa), tức các thần cai quản cõi địa ngục nơi giam giữ các vong hồn. Bộ
này vẽ 10 vị thần linh, đề theo vương hiệu của từng vị như: Đệ nhất Tần quản
vương, Đệ thập điện chuyển minh vương... chứ không vẽ chi tiết các quan,
quỷ sứ và tội nhân.
Tranh cầu, gồm cầu ngắn và cầu dài. Bộ cầu dài có kích cỡ khoảng
2,5m x 30cm. Nội dung thể hiện cảnh "Cung nghênh thánh giá" gồm ba cảnh.
Cảnh thứ nhất gồm 6 đồng tử cầm cờ ngũ hành rước thánh giá với bốn
chữ "Cung nghênh thánh giá" ở trung tâm.
Cảnh thứ hai gồm 2 vị lực sỹ cởi trần đóng khố, tay cầm thẻ bài đi
trước. Một vị quan viên phi ngựa theo sau.
Cảnh thứ ba gồm 28 quan viên mặc áo đội mũ chỉnh tề cưỡi ngựa hộ
giá, trên tay phải mỗi người cầm một thứ vũ khí tùy tùng.
Bộ cầu ngắn có kích cỡ 1,5m x 30cm. Nội dung thể hiện cảnh lên thiên
đình với 28 cảnh khác nhau, như: cảnh ngồi trong cung, cảnh cưỡi nhau, cảnh
gặp quỷ sứ, chơi hoa, cảnh lên tiên, đi thuyền…
Một khía cạnh khác của lễ cấp sắc, liên quan đến văn hoá nghệ thuật của
người Sán Dìu là đặc điểm các bộ y phục của thầy cúng và người thụ lễ (xem ảnh 8).
76
Đây là những bộ lễ phục được thêu thùa và trang trí khá công phu, thường
được coi là bộ cổ truyền, may theo nguyên mẫu từ đời này qua đời khác.
Trước đây người ta quan niệm rằng, nếu làm không đúng theo hình mẫu của
ông cho thì sẽ bị các bậc tổ tiên và các thần linh trừng phạt, con cháu sẽ gặp
tai hoạ, làm ăn không phát đạt... Trên bộ áo thầy cúng cổ của người Sán Dìu,
thường thêu thùa dày đặc cả trước và sau thân áo. Những chi tiết thêu trên áo
thường là các hoạ tiết người cưỡi chim, cưỡi chó, cưỡi ngựa, các hình tượng
về vũ trụ, các vì sao, các tiết âm dương, ngũ hành, tên các nước Trung Quốc
thời cổ đại...
Yếu tố khác của bản sắc văn hoá người Sán Dìu, được thể hiện trong lễ
cấp sắc là nghệ thuật múa dân gian. Hầu như trong suốt quá trình diễn biến
của lễ cấp sắc đều có các tiết mục múa cổ truyền, với nhiều hình thức múa
khác nhau rất hấp dẫn. Qua nghiên cứu, có thể chia làm hai loại múa: múa có
hát và múa không có hát. Múa có hát là loại múa được biểu diễn theo những
bài hát hoặc thơ cúng. Những người tham gia múa đều phải hát theo tiếng
những nhạc cụ như trống, chiêng, chũm choẹ hoặc quẻ đập âm dương. Còn
múa không lời hát là loại múa chỉ có đệm nhạc mà không có lời. Các điệu
múa tiêu biểu trong lễ cấp sắc của người Sán Dìu là múa Hành quang, nghênh
tiếp thần và tống thần… Các điệu múa vừa có những nét nghiêm nghị, oai
nghiêm như khi tiếp thần hay tống thần, vừa có thể hiện những nét vui vẻ như
các điệu Hoàng mẫu giã gạo, xay thóc, trồng cây, chải đầu và thuỷ ngưu vong
nguyệt, Hoàng mẫu xây đập, đào kênh...
Như vậy, trong một buổi lễ cấp sắc, âm nhạc, tụng ca, thánh ca, diễn
xướng (bao gồm nhảy múa, trình tự trình diễn lễ nghi của các thầy cúng, các
phụ lễ, các đệ tử) đều hoà quyện vào nhau, nâng đỡ cho nhau tạo không khí
đêm lễ trang nghiêm, lúc thần bí, lúc rộn ràng... đổi thay rất phong phú, đa
dạng và hấp dẫn trong hàng loạt lễ thức khác nhau được tiếp diễn một cách
77
chủ động, nhằm làm sáng tỏ nội dung, yêu cầu mục đích trong từng chi tiết
cho tới toàn cục.
Tóm lại, lễ cấp sắc của người Sán Dìu ở Lục Ngạn như một bữa tiệc
nghệ thuật thịnh soạn. Ở đó, người xem được thưởng thức đầy đủ những nét
nghệ thuật độc đáo và đặc sắc của tộc người Sán Dìu. Sự kết hợp nhuần
nhuyễn và uyển chuyển giữa kiến trúc, mỹ thuật, âm nhạc đã tạo lên sức hấp
dẫn lạ kỳ của lễ cấp sắc của người Sán Dìu ở Lục Ngạn.
3.2. Những hạn chế trong tục cấp sắc
3.2.1. Tốn kém về kinh tế
Bên cạnh những mặt tích cực đã nêu, lễ cấp sắc của người Sán Dìu ở
Lục Ngạn còn chứa đựng nhiều mặt hạn chế. Trước hết là sự tốn kém về kinh
tế và thời gian. Thông thường một đám cấp sắc cần có ít nhất 2 con lợn, vài
chục con gà, hàng trăm lít rượu, 1 đến 2 tạ gạo tẻ và nếp. Số lương thực thực
phẩm này không chỉ để làm đồ tế lễ, mà còn để cho mọi người (từ 25 đến 30
người) ăn uống trong suốt quá trình chuẩn bị và những ngày làm lễ cấp sắc.
Ngoài chi phí về lương thực thực phẩm như trên, gia đình có người làm lễ cấp
sắc còn sắm sửa giấy, mực, trang phục, thuê vẽ tranh, trả thù lao cho những
thầy đến làm lễ... Theo thống kê của một số gia đình đã làm lễ cấp sắc, tổng
chi phí cho một lần cấp sắc trên dưới 10 triệu đồng. Để có đủ số tiền trên, các
gia đình phải chăm lo sản xuất trước đó nhiều năm, thậm chí có gia đình còn
phải đi vay lãi ngân hàng. Nhiều gia đình không dám mua sắm đồ dùng,
không cho con đi học để dành tiền làm lễ cấp sắc. Người nào muốn phong đến
bậc cao nhất (Thứ gia Tổng xuyến) có khi cả đời chỉ lo tiền làm cấp sắc.
Mặt hạn chế này không chỉ được thể hiện thông qua các buổi tổ chức lễ
cấp sắc mà còn được phản ánh trong đời sống kinh tế của những thầy cúng đã
qua lễ cấp sắc. Qua khảo sát ở một số xã như Quý Sơn, Giáp Sơn, Nghĩa Hồ...
của huyện Lục Ngạn, chúng tôi nhận thấy: nền kinh tế của đa số các gia đình
78
có người làm thầy cúng không phát triển. Tìm hiểu về tình trạng này, chúng
tôi được biết: sau khi được cấp sắc trở thành thầy cúng, những người này rất
ít có thời gian ở nhà, chăm lo phát triển kinh tế gia đình. Mọi công việc
đồng áng lúc này do người phụ nữ và con cái đảm nhận. Theo lời kể của
một số thầy cúng, không tháng nào họ không đi cúng, thậm chí có tháng
phải đi trên 20 ngày. Thù lao cho mỗi lần đi cúng không đáng kể, tuỳ thuộc
vào thành tâm của gia chủ, thường mỗi lần thầy cúng nhận được vài chục
nghìn và ít đồ lễ (con gà, thịt vai lợn, oản, xôi...), nó chỉ vừa đủ cho chi phí
đi lại, ăn uống của thầy.
Ngoài ra, những người được cấp sắc phải tuân thủ nghiêm ngặt những
điều kiêng kỵ, nhất là đối với những người được phong chức Thứ gia Tổng
xuyến. Những kiêng kị như cấm săn bắt, đánh cá, cấm sát sinh…, cũng ảnh
hưởng lớn đến khả năng làm kinh tế của những người được cấp sắc.
3.2.2. Chứa đựng những yếu tố mê tín dị đoan
Qua tìm hiểu tục cấp sắc ta thấy, một bộ phận đồng bào người Sán
Dìu ở Lục Ngạn còn có niềm tin mù quáng vào những điều quái lạ, thần
bí, huyễn hoặc. Người ta tin vào thần linh, ma quỷ, tin rằng thầy cúng là
người có khả năng giao tiếp được với thần linh cũng như có thể dùng bùa
phép để diệt trừ ma tà, quỷ dữ. Trong khi tiến hành lễ cấp sắc, những
thầy tham gia nhiều khi sống trong trạng thái bất bình thường. Bản thân
họ đã mất hết khả năng tự chủ, họ bị sai khiến bởi một ma lực huyền bí
nào đó. Khi ma lực ấy dựa vào họ, liền lạm dụng các danh hiệu thánh,
những bậc vĩ nhân của thủa xưa dùng mạo xưng để lừa bịp mọi người.
Những người xin cấp sắc khi nghe xưng danh hiệu Phật, Bồ Tát hay
những vị thánh tiên liền khiếp đảm, kính tin. Họ không dám phê phán đó
là tà hay chính. Thế rồi, họ một mực quỳ mọp để được phong chức, hoặc
nhận phép lành. Họ bị gạt bằng những danh hão trong cõi vô hình, hoặc
79
bằng những bùa phép lạ, những huyễn hoặc về quá khứ vị lai. Những
nghi lễ mang tính chất ma thuật, phù phép, yểm bùa... không chỉ mê hoặc
được những người trực tiếp tham gia vào lễ cấp sắc, mà còn gây lòng tin
mê hoặc trong nhân dân. Cũng do có niềm tin mù quáng vào sức mạnh
thần thánh, trong lễ cấp sắc còn nhiều nghi lễ ảnh hưởng không nhỏ đến
sức khoẻ của những người tham gia như leo thang dao, lội qua bãi than...
Hiện nay ở Lục Ngạn, vẫn còn một bộ phận không nhỏ người Sán
Dìu, thậm chí cả những người cán bộ nhà nước tin vào những điều huyễn
hoặc, nhảm nhí trong tục cấp sắc. Xuất phát từ thực tế trên, đã có nhiều
đối tượng phản động, lợi dụng lòng tin này của đồng bào để phục vụ cho
lợi ích không chính đáng của mình, gây chia rẽ khối đoàn kết dân tộc,
ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình an ninh trật tự địa phương. Điều đó,
đã tạo ra những cản trở lớn trong quá trình nhận thức khoa học của đồng
bào Sán Dìu, cũng như việc tuyên truyền những chính sách mới của
Đảng và nhà nước.
3.2.3. Tạo ra sự phân hoá xã hội
Tục cấp sắc thể hiện khá rõ nét sự phân hoá xã hội Sán Dìu về chức sắc
tôn giáo, đồng thời cũng có sự phân hoá ít nhiều về vị thế xã hội trong cộng
đồng. Người được cấp sắc tuy không mưu cầu quyền hành để cai trị hay bóc
lột người khác, nhưng lại mưu cầu sự bình yên cho anh em họ hàng và những
người cần đến sự giúp đỡ về mặt tinh thần. Những người được cấp sắc, có
điều kiện làm thầy cúng giỏi thì được họ hàng bầu làm trưởng họ, được thay
mặt dân làng làm lễ cúng thần làng, cúng các nghi lễ nông nghiệp và có uy tín
giúp giải quyết các vụ việc mâu thuẫn, xích mích trong làng bản. Do đó,
những người này, có một vị thế nhất định so với những người khác đã hoặc
chưa được làm lễ cấp sắc. Theo tập quán cổ truyền của người Sán Dìu, những
người chưa được cấp sắc thì không được tham dự những công việc quan trọng
80
của dòng họ, làng xóm, nhà nào có con trai mà không được làm lễ cấp sắc thì
bị chê cười là nghèo khó, bố mẹ không quan tâm đúng mức đến vị thế tương
lai của con cái. Sự khác biệt giữa những người được cấp sắc và chưa cấp sắc
còn được thể hiện rất rõ nét trong các đám tang. Những người bình thường,
khi chết chỉ cần một thầy cúng bình thường đến làm lễ với các nghi lễ rất đơn
giản. Ngược lại, đối với những thầy cúng có chức sắc cao, khi chết không
phải ai cũng có thể đứng ra làm ma được. Trong đám ma của những người có
chức sắc cao cần rất nhiều thủ tục phức tạp, người đứng ra tổ chức phải là
người có cùng chức sắc với người chết. Sự khác biệt này dẫn tới tình trạng
nhiều thầy cúng cao tay khi mất gia đình phải để hàng tuần mới chôn cất được
vì phải đi nơi khác tìm người có cùng chức sắc về làm ma. Rõ ràng, tục cấp
sắc đẫ tạo điều kiện cho sự phân hoá ít nhiều về vị thế xã hội trong cộng đồng
Sán Dìu.
Ngoài ra, tục cấp sắc cũng có sự ảnh hưởng nhất định đến vị thế của
người phụ nữ Sán Dìu. Người ta quan niệm rằng người chồng được làm cấp
sắc (từ chức Chức sư trở lên) thì người vợ cũng được cấp sắc, nếu người
chồng chưa được cấp sắc thì người vợ cũng không được tham gia vào các
công việc hệ trọng trong dòng họ và cộng đồng, không được chôn cất giống
người phụ nữ được cấp sắc. Như vậy, lễ cấp sắc đã tạo ra sự nhìn nhận và
đánh giá sai lệch về vị trí của người phụ nữ so với người đàn ông, giữa người
phụ nữ được cấp sắc với người không được cấp sắc.
Bên cạnh đó, tục cấp sắc của người Sán Dìu ở Lục Ngạn còn có những
hạn chế khác như: tạo ra ý thức dân tộc hẹp hòi, nhiều lúc còn có tư tưởng coi
thường những dân tộc không có tục cấp sắc, trong những ngày tổ chức lễ cấp
sắc, còn tồn tại tình trạng mất vệ sinh, tổ chức ăn uống linh đình ảnh hưởng
đến an ninh trận tự địa phương...
81
3.3. Những biện pháp bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá trong tục
cấp sắc
Như trên đã trình bày, tục cấp sắc là một trong những nghi lễ
quan trọng của người Sán Dìu ở Lục Ngạn. Ngoài những mặt hạn chế
cần khắc phục, tục cấp sắc chứa đựng nhiều yếu tố văn hoá tích cực,
cần được bảo tồn và phát huy.
Đây là một trong những nghi lễ quan trọng, đã ăn sâu vào tiềm thức của
nhiều thế hệ người Sán Dìu, nó đã trở thành một hiện tượng mang tính phổ
biến, trong đời sống xã hội của đồng bào. Hơn nữa, tục cấp sắc lại liên quan
đến nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế - văn hoá - xã hội. Do đó,
việc giải quyết những vấn đề liên quan đến tục cấp sắc, là một quá trình lâu
dài, mang tính đồng bộ và có sự phối hợp chặt chẽ của các ngành, cơ quan và
các đoàn thể.
Trước hết, cần có kế hoạch xoá bỏ từng bước những mặt hạn chế của
tục cấp sắc, trước tiên là đối với những yếu tố mê tín, dị đoan, những chi tiết
rườm rà, tốn kém, với phương châm giúp đỡ, giáo dục và thuyết phục là
chính. Tuyệt đối không được giải quyết cứng nhắc, mệnh lệnh, cưỡng bức, vì
tuyên chiến với tôn giáo là tự sát. Riêng đối với các phần tử cố tình lợi dụng
tục cấp sắc để phục vụ cho mục đích kinh tế, chính trị không chính đáng của
mình, cần có biện pháp xử lý cứng rắn theo pháp luật.
Để từng bước xoá bỏ những hạn chế trong tục cấp sắc của người Sán
Dìu, tránh sự hụt hẫng về tư tưởng, cần phải có sự cải tiến một phần nội dung
cho phù hợp với tình hình kinh tế của đồng bào. Trước tiên, cần phải giảm tới
mức tối đa những chi phí vật chất không cần thiết trong những ngày hành lễ.
Cần tránh tổ chức ăn uống linh đình trong nhiều ngày, hạn chế số người tham
gia, hạn chế số lượng lễ vật cúng bái, rút ngắn thời gian hành lễ; thứ hai, cần
lược bớt các nghi lễ tôn giáo mang tính ma thuật, phù phép, yểm bùa; đồng
82
thời, bãi bỏ hoặc đơn giản hoá những nghi lễ thử thách mang tính tôn giáo (đi
qua bãi than hồng, trèo thang dao...) để bảo vệ sức khoẻ của người được cấp
sắc... Muốn làm được những điều trên, chúng ta phải vận dụng những chính
sách của Đảng và nhà nước đã ban hành để phân tích, tách bạch rõ đâu là
thuần phong mỹ tục, đâu là hủ tục không còn phù hợp với điều kiện hiện nay
cho đồng bào hiểu. Theo chúng tôi, đối tượng cần được tác động mạnh nhất
và trước nhất là tầng lớp thầy cúng, vì đây là những người có uy tín và vị thế
nhất định trong cộng đồng tộc người Sán Dìu, tiếng nói của họ dễ dàng được
mọi người tin và làm theo. Một khi tầng lớp này được giác ngộ, hiểu ra những
mặt hạn chế cần phải xoá bỏ của tục cấp sắc thì sẽ nhanh chóng lôi kéo được
đông đảo đồng bào nghe theo. Đối với tầng lớp này, ngoài việc tuyên truyền
giáo dục trên tinh thần tôn trọng họ, chúng ta cũng cần có những chính sách
đãi ngộ thích hợp với những người có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục, tập
quán tốt đẹp của dân tộc mình. Sự đãi ngộ đó, vừa khích lệ họ thực hiện theo
chính sách của Đảng và nhà nước, vừa giúp chúng ta trong công tác nghiên
cứu để bảo tồn và phát huy được những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp
của người Sán Dìu.
Bên cạnh những biện pháp trên, chúng ta cần có sự đầu tư thích đáng
về kinh phí để đẩy mạnh sản xuất, phát triển giáo dục, y tế và văn hoá cho
đồng bào người Sán Dìu. Đây là biện pháp cơ bản nhằm đẩy lùi và đi đến xoá
bỏ các hủ tục lạc hậu khỏi đời sống của đồng bào. Cụ thể, cần đưa khoa học
kỹ thuật, giống cây trồng, vật nuôi có hiệu quả kinh tế cao, phù hợp với điều
kiện tự nhiên cũng như kinh nghiệm canh tác của đồng bào. Đào tạo đội ngũ
giáo viên, bác sĩ, ý tá người Sán Dìu để họ trực tiếp giảng dạy, khám chữa
bệnh cho con em mình ngay tại làng bản. Đào tạo đội ngũ cán bộ văn hoá giỏi
chuyên môn, để hướng dẫn đồng bào thực hiện theo những chính sách văn
hoá của Đảng và nhà nước. Tăng cường hệ thống đài truyền thanh truyền
83
hình, phát triển thông tin liên lạc, đưa những nhận thức mới vào đời sống tinh
thần của đồng bào...
Ngoài việc khắc phục những hạn chế, chúng ta cần tuyên truyền sâu
rộng những nội dung tích cực của tục cấp sắc, nhất là những nội dung có ý
nghĩa giáo dục đạo đức, tình cảm tốt đẹp, sống thuỷ chung, nhân ái, kính thầy,
sống hết mình vì mọi người mà các thầy đã dạy người thụ lễ trong lễ cấp sắc.
Chúng ta có thể và cần phải sử dụng những yếu tố tích cực này để vận động
đồng bào chấp hành đường lối chính sách, xây dựng nếp sống văn minh,
chống tệ nạn xã hội, chống những phần tử lợi dụng tục cấp sắc vào mục đích
kinh tế, chính trị không chính đáng. Việc tuyên truyền những mặt tích cực của
tục cấp sắc có thể thực hiện bằng nhiều cách, như tiến hành lồng ghép các
chương trình hoạt động thông tin, tuyên truyền trong làng xã, đưa tin, phát
sóng những nội dung tích cực đó trên đài phát thanh truyền hình tỉnh, huyện,
khai thác có hiệu quả các điệu múa, lời ca tiếng hát trong lễ cấp sắc.
Đối với công tác bảo tồn, bảo tàng văn hóa dân tộc, cần sớm có kế
hoạch nghiên cứu, sưu tầm những tài liệu, hiện vật phản ánh đặc trưng nhất
của tục cấp sắc. Đặc biệt, trú trọng đến những bức tranh thờ có giá trị nghệ
thuật và khoa học cao, các bộ tranh phục thầy cúng, các nhạc cụ tiêu biểu, các
loại sách cúng có nội dung liên quan đến tục cấp sắc của người Sán Dìu, các
điệu múa đẹp, các bài hát hay... Quan sát, nghi chép thu thập các tài liệu liên
quan đến bối cảnh không gian và thời gian tiến hành nghi lễ. Để tiến hành thu
thập các thông tin, tài liệu hiện vật theo định hướng trên cần áp dụng phương
thức tổng hợp trong nghiên cứu, sưu tầm với các loại phương tiện kỹ thuật
hiện đại như: quay phim, chụp ảnh, ghi âm...
Trên cơ sở những tài liệu sưu tầm được, cần có biện pháp trưng bày
đảm bảo tính khoa học, thẩm mỹ, hấp dẫn trong bảo tàng, nhằm tái tạo lại một
cách đầy đủ nhất về tục cấp sắc của người Sán Dìu. Theo chúng tôi, biện pháp
84
trưng bày tốt nhất là tái tạo lại tổ hợp trưng bày đệ tử ngồi trong đàn. Đây là
một nghi lễ điển hình trong lễ cấp sắc của người Sán Dìu ở Lục Ngạn. Tổ hợp
này được thể hiện như sau: Đàn chính treo tranh Tam Thanh, bàn thờ Tam
Thanh, đàn bên trái và đàn bên phải treo tranh binh mã, đàn đệ tử ngồi được
lập ở giữa nhà đàn. Đàn hình chữ nhật, khung bằng cây chuối, quây vải xung
quanh, bên ngoài khung chuối được đắp đất. Tổ hợp này cần 5 tượng ma nơ
canh, 4 tượng mặc trang phục thầy cúng tay cầm tù và, linh đao đứng ở 4 góc
đàn, tư thế múa ma, một tượng là đệ tử (người được cấp sắc), mặc trang phục
thầy cúng, trên người được cuốn nhiều lớp khăn hồng, tư thế ngồi trong đàn,
hai tay giơ lệnh bài, xung quanh trưng bày các tài liệu hiện vật liên quan đến
nghi lễ cấp sắc. Ý nghĩa của đàn: đệ tử ngồi trong đàn thì linh hồn thời thơ ấu
và kiếp trước mới được siêu thoát, cắt đứt mọi tội lỗi ở kiếp trước. Đồng thời
đệ tử nghe những điều cấm, những điều răn dạy của thầy cả. Biện pháp trưng
bày như trên cùng với hệ thống ánh sáng, màu sắc, âm thanh, băng từ, băng
hình, hình ảnh minh hoạ... sẽ đưa lại hiệu quả cao trong công tác tuyên truyền,
giáo dục khách tham quan.
Tiểu kết chương 3
Trong tục cấp sắc của người Sán Dìu ở Lục Ngạn hiện nay, tồn tại đan
xen giữa những yếu tố tích cực và hạn chế.
Tục cấp sắc là nơi lưu giữ nhiều giá trị văn hoá đặc sắc của người Sán
Dìu. Những tư tưởng đạo đức trong tục cấp sắc là những bài học mang tính
giáo dục cao. Nó là những chân lý mà bất kỳ ai cũng phải phấn đấu đạt tới.
Ngoài ra, tục cấp sắc còn thể hiện những quan niệm hết sức độc đáo về vũ trụ
và con người của đồng bào Sán Dìu. Nó cũng là một kho tàng nghệ thuật đặc
sắc với sự kết hợp của nhiều lĩnh vực, kiến trúc, hội hoạ, âm nhạc, thơ ca...
Bên cạnh những mặt tích cực, tục cấp sắc của người Sán Dìu ở Lục
Ngạn Bắc Giang còn có những hạn chế nhất định. Những yếu tố tiêu cực
85
trong tục cấp sắc, không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế mà còn cản
trở quá trình nhận thức khoa học của đồng bào, gây khó khăn cho việc phát
triển kinh tế - văn hoá - xã hội của địa phương.
Thực tế đó, yêu cầu phải có những biện pháp giải quyết lâu dài vừa
cứng rắn, vừa mềm dẻo, đòi hỏi sự tham gia của nhiều ngành, nhiều cấp.
Những biện pháp đưa ra phải căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội của địa
phương, căn cứ vào tâm tư, nguyện vọng của đồng bào người Sán Dìu, trên cơ
sở những hiểu biết đầy đủ về mặt tích cực và hạn chế của tục cấp sắc.
Trong những năm vừa qua, huyện Lục Ngạn đã có nhiều chính sách
khuyến khích phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
đồng bào các dân tộc thiểu số, trong đó có người Sán Dìu. Do đó, niềm tin
của đồng bào vào những điều thần bí, huyễn hoặc trong tục cấp sắc giảm đi.
Từ đó, số lượng lễ cấp sắc, các lễ vật trong lễ cấp sắc, thời gian tổ chức, số
người tham gia... cũng có xu hướng giảm dần. Ngày nay, người Sán Dìu đã
biết vận dụng khoa học vào sản xuất, đến trạm xá, bệnh viện để khám chữa
bệnh, cho con em học hành trong các trường của nhà nước.
86
KẾT LUẬN
Lục Ngạn là huyện miền núi của tỉnh Bắc Giang, nơi có đông đồng bào
các dân tộc thiểu số sinh sống, trong đó, người Sán Dìu chiếm trên 10% dân
số của huyện. Sinh sống trong môi trường đa tộc người, với các điều kiện
chính trị, kinh tế, văn hoá tương đối đồng nhất và thuận lợi, người Sán Dìu đã
trải qua hàng trăm năm giao tiếp văn hoá bình đẳng với các dân tộc anh em
khác. Điều đó không làm mất đi, mà ngược lại đã làm giàu và phong phú
thêm văn hoá của họ. Ngoài yếu tố văn hoá đan xen, người Sán Dìu có bản
sắc văn hoá riêng, khó hoà trộn với văn hóa của các tộc người khác. Có thể
nói, người Sán Dìu đã góp phần làm giàu thêm bản sắc văn hoá đa dân tộc của
Lục Ngạn.
Trong các tập tục của người Sán Dìu nói chung và của người Sán Dìu ở
Lục Ngạn nói riêng, tục cấp sắc giữ vai trò quan trọng. Tục cấp sắc đã trở
thành một hiện tượng mang tính xã hội và tôn giáo trong cộng đồng người
Sán Dìu, có sức mạnh chi phối lớn trong đời sống tinh thần của đồng bào. Đa
số đông bào đều ủng hộ và quan tâm đến lễ cấp sắc vì theo họ, mỗi khi tiến
hành lễ cấp sắc là một dịp để các thầy cúng trừ ma, diệt quỷ để đem lại sự an
bình cho đời sống của đồng bào.
Trước đây, lễ cấp sắc của người Sán Dìu là một nghi lễ nhằm công
nhận những thành viên đã đến tuổi trưởng thành (lễ thành đinh). Trải qua quá
trình phát triển lâu dài với sự thâm nhập của các tôn giáo, nhất là phần Đạo
giáo bùa chú, lễ cấp sắc hiện nay không còn ý nghĩa là một lễ thành đinh, nó
chỉ được tiến hành cho những người con trai muốn làm thầy cúng và nâng bậc
thầy cúng.
Để tiến hành một lễ cấp sắc, cần có sự chuẩn bị lâu dài về mọi mặt, đặc
biệt là về mặt kinh tế. Người xin cấp sắc phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện về
87
kinh tế, trình độ học vấn, tư cách đạo đức và phải có niềm tin mãnh liệt vào
đấng thần linh, vào sức mạnh của các lực lượng siêu nhiên. Lễ cấp sắc của
người Sán Dìu ở Lục Ngạn có ba bậc là Pháp sư, Chức sư và Thứ gia Tổng
xuyến. Mỗi bậc là một nấc thang, đánh dấu sự tăng quyền lực tôn giáo của
người được cấp sắc. Tuy là những thang bậc khác nhau nhưng các bước tiến
hành một buổi lễ cấp sắc cho các bậc là tương đối giống nhau. Một buổi lễ
cấp sắc của người Sán Dìu ở Lục Ngạn, thường phải tiến hành lần lượt theo
các bước: lễ thỉnh thánh, lễ dâng sớ chính, lễ đại kết giới, lễ tạo cầu đón
thánh, lễ trình hợp đồng, lễ tặng khăn đỏ, lễ lấy nước, lễ truyền phép, lễ cúng
cờ, lễ tạ thánh.
Qua nghiên cứu, ta thấy sắc thái văn hoá của tục cấp sắc được biểu hiện
dưới các khía cạnh sau: người được cấp sắc bao giờ cũng tuân thủ một quy
định chung là thứ tự các cấp bậc từ thấp tới cao: Lộc sô, Hoi seo, Chổng sọn.
Mỗi thang bậc có lễ vật và nghi lễ khác nhau; cấp sắc mang tính dòng họ, bí
truyền từ đời này sang đời kia; chồng được cấp sắc thì vợ cũng được cấp sắc
với cấp bậc tương tự, nhưng chủ yếu là để lấy danh, để khi chết con không
phải ăn huyết mẹ; thầy cả có nhiều đệ tử thờ cúng, mỗi lần hành nghề, thầy
cúng lại khấn đến tên tuổi các thầy cả.
Tục cấp sắc của người Sán Dìu chứa đựng nhiều giá trị văn hóa tốt đẹp,
quan trọng nhất là ý nghĩa giáo dục của nó đối với tầng lớp thanh niên. Những
quy định, nội dung các tờ sớ điệp, các nghi thức… đều nhằm mục đích hướng
thiện, đều muốn người được cấp sắc sẽ trở thành những người có đủ đức độ
và tài trí để bảo vệ cuộc sống của dân làng. Bên cạnh đó là những giá trị nghệ
thuật đặc sắc thể hiện trình độ thẩm mỹ của người Sán Dìu thông qua các bức
tranh thờ, các điệu múa, bài hát, trang phục... được sử dụng trong lễ cấp sắc.
Ngoài ra, tục cấp sắc cũng mang lại nhiều thông tin trong lĩnh vực khoa học
xã hội và nhân văn: quá trình giao thoa văn hoá, triết lý về con người và vũ
trụ, mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng và trách nhiệm của cộng đồng
88
với từng cá nhân... Đây là những vấn đề cơ bản cần khai thác, bảo tồn, phát
huy trước ngưỡng cửa của một nền văn minh công nghệ cao.
Tuy nhiên, tục cấp sắc của người Sán Dìu ở Lục Ngạn còn tồn tại nhiều
hạn chế. Trước tiên là sự tốn kém về mặt vật chất để tiến hành nghi lễ này, để
tiến hành một lễ cấp sắc, đòi hỏi phải có sự chuẩn bị về rất nhiều mặt trong
một thời gian lâu dài. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình kinh tế của
đồng bào, trong khi cuộc sống của họ vẫn còn rất nhiều khó khăn, thiếu thốn.
Tục cấp sắc còn chứa đựng nhiều yếu tố lạc hậu, điều này được thể hiện rõ
trong nội dung các nghi lễ, với những quan niệm về sức mạnh to lớn của các
lực lượng siêu tự nhiên, tin vào sức mạnh của thầy cúng… Những hạn chế
trên, đã ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống của người Sán Dìu, đăc biệt là việc
cản trở nhận thức của đồng bào trong việc tiếp thu tri thức khoa học.
Do đó, chúng ta cần tìm hiểu để thấy rõ được những giá trị, những yếu
tố tích cực trong tục cấp sắc để tiếp tục duy trì, phát huy, khai thác một cách
hợp lý trong công cuộc phát triển kinh tế và xây dựng đời sống văn minh hiện
nay. Đồng thời, phát hiện ra những hạn chế của tục cấp sắc để xóa bỏ.
Để thực hiện được những yêu cầu trên, cần có những giải pháp mang
tính tổng hợp, lâu dài, đòi hỏi sự hợp tác của nhiều cơ quan, ban ngành. Trước
tiên chúng ta cần có những biện pháp truyên truyền, để đồng bào có những
nhận thức đầy đủ nhất về lễ cấp sắc, từ đó dần dần đi đến xóa bỏ những mặt
hạn chế mà trước tiên là hạn chế sự tốn kém về mặt kinh tế, hạn chế sự tin
tưởng quá mức vào những hiện tượng mê tín, dị đoan.
Tiếp đó cần có chủ trương, đường lối chính sách ưu tiên đầu tư phát triển
kinh tế xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có dân tộc
Sán Dìu nhằm từng bước giúp cho đồng bào giảm bớt khó khăn, có vốn đầu tư
phát triển sản xuất, từng bước xoá đói giảm nghèo, nâng cao trình độ nhận thức.
Đây là điều kiện cơ bản nhất để đồng bào từng bước hạn chế và đi đến loại bỏ
hoàn toàn những hủ tục lạc hậu ra khỏi đời sống hàng ngày của mình.
89
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Văn Ái (2002), Các nghi lễ chủ yếu trong chu trình vòng đời của
người Sán Chỉ ở tỉnh Thái Nguyên, Thái Nguyên.
2. Đào Duy Anh (2000), Việt Nam Văn hoá sử cương, NXB VHTT, Hà Nội.
3. BCHĐB huyện Lục Ngạn (2005), Lịch sử Đảng bộ huyện Lục Ngạn,
NXB CTQG, Hà Nội.
4. BCHĐB tỉnh Bắc Giang (2003), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Giang, tập I,
NXB CTQG, Hà Nội.
5. BCHĐB tỉnh Bắc Giang (2005), Bắc Giang những chặng đường lịch sử,
NXB CTQG, Hà Nội.
6. BCHĐB tỉnh Thái Nguyên (2003), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, tập
I (1936 - 1965), Thái Nguyên.
7. Ban Chấp hành Trung ương (1989), Nghị quyết Bộ Chính trị về một số
chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi, NXB
Sự thật, Hà Nội.
8. BDT tỉnh Bắc Giang (2004), Số liệu dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh
Bắc Giang.
9. BDT tỉnh Bắc Giang (2006), Số liệu tổng hợp tình hình dân số và dân tộc
trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
10. BDT Trung ương (1994), Giáo trình lý luận tôn giáo, Hà Nội.
11. Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương (2001), Vấn đề dân tộc và chính sách
dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
12. Bảo tàng Bắc Giang (2005), Di sản văn hoá Bắc Giang - Bước đầu tìm
hiểu truyền thống Văn hoá các dân tộc.
13. Bảo tàng Bắc Giang (2006), Di sản văn hoá Bắc Giang về Văn hóa phi vật thể.
14. Bộ Văn hoá thông tin (1997), Một số vấn đề về xây dựng làng - ấp văn hóa
hiện nay, NXB Hà Nội.
90
15. Bộ Văn hoá thông tin (1998), Tín ngưỡng - mê tín, NXB Thanh niên, Hà Nội.
16. Ma Khánh Bằng (1973), Vài nét về dân tộc Sán Dìu, Thông báo dân tộc
học, số 3, tr.99 - 102.
17. Ma Khánh Bằng (1975), Vị trí nương đồi, soi, bãi trong đời sống của
người Sán Dìu, Tạp chí Dân tộc học, số2, tr.76 - 80.
18. Ma Khánh Bằng (1983), Người Sán Dìu ở Việt Nam, NXB KHXH, Hà Nội.
19. Diệp Trung Bình (1987), Dân ca Sán Dìu, NXB VHDT, Hà Nội.
20. Diệp Trung Bình (2002), Lễ hội cổ truyền các dân tộc Hoa, Sán Dìu ở
Việt Nam, NXB VHDT, Hà Nội.
21. Diệp Trung Bình (2005), Phong tục và nghi lễ chu kì đời người của người
Sán Dìu ở Việt Nam, Thái Nguyên.
22. Phan Kế Bính (1999), Việt Nam phong tục, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
23. Trần Văn Bính (chủ biên) (2006), Đời sống văn hoá các dân tộc thiểu số
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, NXB Lýý luận chính
trị, Hà Nội.
24. Nịnh Văn Bộ (2003), Văn hoá truyền thống các dân tộc Tày - Dao - Sán
Dìu ở Tuyên Quang, NXB VHDT, Hà Nội.
25. Đoàn Văn Chúc (2004), Văn hoá học, NXB Lao động, Hà Nội.
26. Phan Hữu Dật, Ngô Đức Thịnh, Lê Ngọc Thắng, Nguyễn Xuân Độ
(1998), Sắc thái địa phương và tộc người trong chiến lược phát triển
đất nước, NXB KHXH, Hà Nội.
27. Phan Hữu Dật (1998), Một số vấn đề dân tộc học Việt Nam, NXB Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
28. Nguyễn Duy Đam (1999), Tìm hiểu thơ ca đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh
Bắc Giang, Báo cáo tại tại Hội thảo về văn hoá truyền thống các dân
tộc thiểu số ở Bắc Giang.
91
29. Nguyễn Bá Đạt (1999), Vấn đề bảo tồn và phát triển văn hoá truyền thống
các dân tộc ở huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang, Báo cáo tại tại Hội
thảo về văn hoá truyền thống các dân tộc thiểu số ở Bắc Giang.
30. Bùi Đình (1950), Tìm hiểu đồng bào miền núi Việt Nam, NXB Tiếng
Việt, Hà Nội.
31. Lê Sỹ Giáo (1995), Tập tục cấp sắc của người Dao và tính giáo dục của nó,
Báo cáo trong hội thảo quốc tế về người Dao tại Bảo tàng Thái Nguyên.
32. Lê Sỹ Giáo (chủ biên) (1995), Dân tộc học đại cương, NXB Giáo dục, Hà Nội.
33. Học viện Chính trị Quốc gia (1996), Văn hoá dân tộc trong quá trình mở
cửa ở nước ta hiện nay, NXB CTQG, Hà Nội.
34. Hội đồng lịch sử Hà Bắc (1986), Lịch sử Hà Bắc, tập I, NXB Hà Bắc.
35. Nguyễn Quốc Hùng (1999), Phương hướng nhiệm vụ bảo tồn di sản văn hoá
truyền thống các dân tộc ở Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay, Báo cáo tại
tại Hội thảo về văn hoá truyền thống các dân tộc thiểu số ở Bắc Giang.
36. Đỗ Quang Hưng (chủ biên)(2003), Bước đầu tìm hiểu về mối quan hệ
giữa Nhà nước và Giáo hội, NXB Tôn giáo, Hà Nội.
37. Vũ Ngọc Khánh (1995), Từ vựng thuật ngữ Folklore Việt Nam, NXB
VHTT, Hà Nội.
38. Phan Ngọc Khuê (2003), Lễ cấp sắc của người Dao lô giang ở Lạng Sơn,
NXB VHTT, Hà Nội.
39. Trần Văn Lạng (1999), Truyền thống văn hoá tốt đẹp của các dân tộc
thiểu số ở Bắc Giang, Báo cáo tại tại Hội thảo về văn hoá truyền
thống các dân tộc thiểu số ở Bắc Giang.
40. Lênin (1965), Chủ nghĩa xã hội và tôn giáo, NXB Sự thật, Hà Nội.
41. Đỗ Đức Lợi (2003), Tập tục chu kì đời người của nhóm ngôn ngữ Mông -
Dao ở Việt Nam, NXB VHDT, Hà Nội.
42. Đặng Văn Lung (1999), Phong tục tập quán các dân tộc Việt Nam, NXB
VHDT, Hà Nội
92
43. Ma Kiều Ly (2000), Lễ cấp sắc của người Dao quần chẹt ở Tuyên Quang,
Khoá luận tốt nghiệp chuyên ngành Văn hoá quần chúng, Trường Đại
học Văn hoá, Hà Nội.
44. Xuân Mai (1995), Múa nghi lễ trong tập tục cấp sắc của người dân tộc Dao.
Báo cáo trong hội thảo quốc tế về người Dao tại Bảo tàng Thái Nguyên.
45. Đoàn Ngọc Minh, Trần Chúc Anh (1995), Hỏi đáp nghi lễ phong tục dân
gian, NXB VHTT, Hà Nội.
46. Hoàng Nam (1997), Dân tộc học đại cương tập I, NXB VHTT, Hà Nội.
47. Hoàng Nam (1998), Bước đầu tìm hiểu văn hoá tộc người văn hóa Việt
Nam, NXB VHDT, Hà Nội.
48. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB VHTT, Hà Nội.
49. Nhiều tác giả (1998), Hỏi và đáp về văn hoá Việt Nam, NXB VHDT, Hà Nội.
50. Lý Thị Hồng Phiên (2001), Bước đầu tìm hiểu về tập tục cưới xin của người
Sán Dìu ở xã Bình Dân, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, Luận văn tốt
nghiệp chuyên ngành Quản lý văn hoá, Trường Đại học Văn hóa, Hà Nội.
51. Nguyễn Minh San (1998), Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam, NXB
VHDT, Hà Nội.
52. Sở Văn hóa thông tin Bắc Giang (2006), Địa chí Bắc Giang - Lịch sử và
văn hoá, Bắc Giang.
53. Lý Hành Sơn (2003), Các nghi lễ chủ yếu trong chu kì đời người của các
nhóm Dao tiền ở Ba Bể, Bắc Kạn, NXB KHXH, Hà Nội.
54. Phạm Công Sơn (2002), Văn hoá phong tục Việt Nam ABC, NXB VHDT,
Hà Nội.
55. Stalin (1957), Chủ nghĩa Mác và vấn đề dân tộc, NXB Sự thật, Hà Nội.
56. Phạm Minh Thảo (2000), Lệ tục vòng đời, NXB VHDT, Hà Nội.
57. Lý Văn Thân (2007), Thầy tào (thầy cúng) trong tín ngưỡng dân tộc Sán
Dìu, Tạp chí Bản tin tôn giáo Bắc Giang, số 3, tr.22.
93
58. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hoá Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
59. Bùi Thiết (1999), 54 dân tộc ở Việt Nam và các tên gọi khác, NXB Thanh Niên.
60. Phạm Hùng Thoan (1999), Vấn đề bảo tồn - phát huy các giá trị văn hoá phi
vật thể của các dân tộc thiểu số ở Bắc Giang, Báo cáo tại tại Hội thảo về
văn hoá truyền thống các dân tộc thiểu số ở Bắc Giang.
61. Nguyễn Minh Thu (1999), Tìm hiểu trang phục phụ nữ các dân tộc thiểu số ở
Bắc Giang, Báo cáo tại tại Hội thảo về văn hoá truyền thống các dân tộc
thiểu số ở Bắc Giang.
62. Hoàng Hoa Toàn (2000), Nguồn gốc lịch sử tộc người vùng biên giới phía
bắc, NXB VHDT, Hà Nội.
63. Tổng cục Thống kê - Cục Thống kê tỉnh Bắc Giang (2006), Niên giám
thống kê tỉnh Bắc Giang 2005, NXB Thống kê, Hà Nội.
64. Nguyễn Tiến Tốt (1999), Chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước
trong sự nghiệp bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc ít người
ở Bắc Giang, Báo cáo tại tại Hội thảo về văn hoá truyền thống các dân tộc
thiểu số ở Bắc Giang.
65. Ngô Văn Trụ, Nguyễn Xuân Cần (2003), Dân tộc Sán Dìu ở Bắc Giang,
NXB VHDT, Hà Nội.
66. Nguyễn Khắc Tụng, Ngô Vĩnh Bình (1981), Đại gia đình các dân tộc Việt
Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
67. Nguyễn Hữu Tự (1999), Làng bản, nhà cửa của người Sán Dìu ở Bắc
Giang, Báo cáo tại tại Hội thảo về văn hoá truyền thống các dân tộc
thiểu số ở Bắc Giang.
68. Thích Thanh Từ (2007), Mê tín - chánh tín, Tạp chí Tư tưởng văn hoá,
số 3, tr.56 - 61.
69. Đàm Thị Uyên, Nguyễn Thị Hải (2006), Tín ngưỡng cư trú của người Sán
Dìu ở Thái Nguyên, Tạp chí Dân tộc và thời đại, số 89, tr.5 - 7.
94
70. Đặng Nghiêm Vạn (2001), Dân tộc - văn hoá tôn - giáo, NXB KHXH,
Hà Nội.
71. Phù Vân (2002), Lễ thụ phong thầy cúng của người Cao Lan, Tạp chí Dân
tộc và thời đại, số 43, tr.15 - 17.
72. Viện dân tộc học (1971), Người Dao ở Việt Nam, NXB KHXH, Hà nội.
73. Viện Dân tộc học (1975), Về vấn đề xác định thành phần dân tộc các dân
tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam, NXB KHXH, Hà Nội.
74. Viện Dân tộc học (1978), Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía bắc),
NXB KHXH, Hà Nội.
75. Viện Dân tộc học (1980), Góp phần nghiên cứu bản lĩnh bản sắc các dân
tộc Việt Nam, NXB KHXH, Hà Nội.
76. Viện Dân tộc học (2003), Dân tộc Sán Chay ở Việt Nam, NXB VHDT, Hà Nội.
77. Viện Nghiên cứu văn hoá (2005), Thông báo văn hoá dân gian 2004,
NXB KHXH, Hà Nội.
79. X.A.ToGaRep (1994), Các hình thức tôn giáo sơ khai và sự phát triển của
78. Lê Trung Vũ (1999), Tục lệ vòng đời, NXB VHDT, Hà Nội.
chúng, NXB CTQG, Hà Nội.
95
DANH SÁCH NHÂN CHỨNG CUNG CẤP THÔNG TIN, TÀI LIỆU ĐIỀN DÃ DÂN TỘC HỌC
Số
Họ và tên
Tuổi Giới Cấp bậc cấp sắc
Địa chỉ
TT
1 Bành Văn Thông
Chức sư
Nghĩa Hồ - Lục Ngạn
55
nam
2 Hoàng Văn Dậu
Chức sư
Quý Sơn - Lục Ngạn
54
nam
3 Leo Văn Thông
nam Thứ gia Tổng xuyến Quý Sơn - Lục Ngạn
55
82
nam
4 Leo Văn Vinh
Chức sư
Quý Sơn - Lục Ngạn
60
nam
5 Phạm Văn Tiến
Chức sư
Quý Sơn - Lục Ngạn
65
nam
6 Ân Ngọc Lý
Chức sư
Quý Sơn - Lục Ngạn
7 Bành Văn Phương 58
nam
Chức sư
Quý Sơn - Lục Ngạn
70
nam
8 Trần Văn Xương
Chức sư
Thanh Hải - Lục Ngạn
69
nam
9 Lý Văn Xướng
Chức sư
Kiên Thành - Lục Ngạn
75
nam
10 Vi Văn Thành
Chức sư
Giáp Sơn - Lục Ngạn
73
nam
11 Hoàng Sinh
Chức sư
Phượng Sơn - Lục Ngạn
96
PHỤ LỤC
Phụ lục 1. Nội dung sớ điệp của thầy truyền và thầy gia bổ
Điệp của thầy truyền
Gia bổ điệp cách: Cáo ở ngôi quý của chàng
Thái thượng, Tam Thanh, Ngọc Hoàng đại đế, đại vệ cấp ra để ban
phong chuyển xuống ngôi chàng, cao quý một bệ:
Kệ viết rằng:
Văn thiêng của Ngọc Hoàng là để cứu độ cho người. Đó là phép huyền
diệu lưu truyền trong thiên hạ. Cấp ra chuyển xuống ngôi của chức vị. Ngày
nào đó chuyển tên qua ở kinh huyền. Ty Dương bình căn cứ vậy. Đại nam
quốc…cư trú phụng thừa. Đạo đầu nhập vào phan. Gia bổ thâm để tiến chức
cho đệ tử là …..tư mệnh là……năm……….tháng………ngày…….giờ sinh ra
vào canh (thập kỷ …..nào). Tuổi thụ theo cha mẹ sinh ra để đến sinh nhiều tai
bệnh, trăm thứ án vướng vào thân. Lại thấy thân mình còn chưa chính pháp,
ra vào ẩn hiện phá quỷ xâm dối nghĩ là vô độ thoát sinh nay thường nghe:
Cửu phép thái thượng là giáo điển độ tế cho người, khu trừ tà ác, bảo giữ
mệnh văn linh, nếu không qui y đầu nhập.
Dưới cửa ba trời gia bổ thêm chức cho thầy là……….dưới đàn xin
hành gia bổ thêm cho tiến chức chuyển xuống ngôi vị của đệ tử. Được thế có
đơn này tấu rõ.
Các vị Tam Thanh, tam tôn, cảnh thiên tôn ngự ở phía trước cảm được
mà ban cho thông tri. Cúi mong đấng Thái Thượng Lão Quân ngự ở phía
trước, xin các đấng ban phong cho đệ tử là …………phép đầu nhập phan
chuyển xuống vào ngôi của đệ tử. Tấu danh là…………phẩm chức quan ban,
gia bổ giáng xuống xét soi, cúi phục nhất thiết đấng pháp môn là phép quảng
đại. Sinh linh đồng đều, lập đệ tử ở ngôi. Trong biểu cung kính đối ngôi của
97
đệ tử, cáo quý nay ở trước chỗ tôn sư đại đào ngũ tiền cho kết lập nửa ấn,
khám hợp là chiếu cho âm hoá dương thu văn khai rõ hành trang. Nay ở vệ,
lửa hoá, trước rõ ràng với Tam Thanh, tam cảnh thiên tôn ngự ở trước, sân
khấn kho vàng thu giữ bài cáo dưới trấn tổn lưu cấp giao phó cho đệ tử
là……thân sống bái lạy xin thụ thu lấy cầm giữ mãi trăm năm. Thuận ở đời
và đối với việc đó mời lĩnh lấy công năng, phong quang thụ chức. Dương thu,
âm hoá mãi mãi làm căn cứ chung để uỷ nhiệm nối theo.
Hương hoả của pháp môn đều không lùi và không có tư tình riêng để
trở về phụng từ thờ thánh trên cao chấn. Quý ở sự có công quả mà vô tư,
không tà khúc theo công pháp mà làm.
Trong sổ Nam tào, xít trong nội biểu chân giảng nghĩa hợp với việc làm
cấp ra sắc phong ngôi thứ cho đệ tử. Văn cáo qúy sung cho làm tử kim quang
lộc đại phu khu viện chử, được quản quỷ thần tam giới. Việc công làm theo
chức, tự nhiên có mãnh thú theo bên mình tuỳ thân, làm gió mạnh sóng lớn;
sấm chớp vang trời. Đất yên tĩnh thì nước biển không có sóng, hợp rõ ràng
như mô đất của đạo có thể giết mà nhồi kiếp, nước mắt một thuyền, chính đạo
thì thân quay về mãi với ngũ phúc, cảm động tới chín tổ đã thăng hoa lên tiên,
uy chẳng hề tiêu tán, mà vẫn du hành.
Thiên hạ giúp nước cứu dân theo văn chương đẹp, gần trên gấm vóc
cho tăng thân vẻ hoa nguyệt mà đến giữa trời vạn lý cùng gió bay đi mà trên
lưng sáng láng sự kỳ diệu của châu sinh ra.
Biển xanh nhận nước của trăm sông, vạn nước êm lắng trong lành. Thu
cầm văn cáo, mãi mãi vì phúc mà chuẩn tấu.
Sắc thái thượng phát binh tướng cầm phép tư, vật đều bày ở sau:
- Cấp ngự ấn một quả, kính khu tử kim ngư một chiếc.
- Cấp mỗi tháng cầm tiền 30 quan.
- Cấp mỗi tháng gạo bổng 30 thạch.
98
- Cấp quân tướng âm binh đi theo gồm 300 lính.
Phía phải các hạng tước, các vật đều ngưỡng tựu (ngưỡng theo mà tề tựu).
Trong kho khổ của trời cứ y số ấy mà truy cấp cho đệ tử là……….sắc
phong ban cho phúc mãi mãi mà hưởng cho đến tuổi già. Ngày nào khác xin
ban cho.
Chuẩn chiếu
Nay phục ngôi văn cao quy kết lập nửa ấn, khám hợp lâm chiếu xét. Lại
có cáo cấp già bổ thêm cho đệ tử là …….thân sống bái lạy nhận lấy sự chuẩn
y này.
Đại tuế…………ngày………….thượng thư chân nhân, cấp để: Hoàng
mông nhị án chân nhân rõ.
Hiến sơn sát phỏng chân nhân rõ
Chính nhất huyền đàn chân nhân rõ
Ngũ phủ bốn hướng chân nhân rõ
Thánh tổ bảo trường sinh địa đế rõ
Bắc cựu tử vị đại đế rõ
Nam nhạc ty thư rõ
Dưới cửa ba trời gia bổ thêm chức sư cho ……khâm phụng.
Hạo thiên kim khuyết, Ngọc Hoàng đại đế sắc hôn nguyên giáo chủ
Đạo Đức ThiênTôn. Sắc Tam Thanh tam cảnh thiên tôn – sắc.
Điệp của thầy gia bổ
Tam Thiên dương bình đại vệ ban cấp bổ chức công điệp một đạo. bản
đàm chiếu cứ.
Nước Đại Nam….ở thôn…………tục phung.
Đạo đàu phan truyền độ cho đệ tử được nối phép thầy……pháp bản
mệnh……lúc giáng sinh vào năm ………theo cha mẹ sinh ra mình, sống ở
đời đến nay đã sinh ra lắm tai hoạ, bệnh tật, bách ác quanh thân, suy nghĩ
99
không theo chính pháp, thường bị nô quỷ xâm lấn, dối lừa, ức hiếp. Vả lại con
người ta sống ở trần thế nhiễm lắm tội khiên, suy nghĩ vô độ, thuyết sinh
phương thường nghe thấy:
Thái thượng pháp môn có đức hiếu sinh phải cần trọng ở những năm
xưa lập sớ bái đầu.
Đại đông pháp chủ bản sư…….quan lang lập đàm hạ truyền thụ luyện
tập đọc linh văn, phù thư, pháp thuật lược sảo tinh thông, không bị che lấp
truyền thụ cho đến ngày nay, được gặp nhiều may mắn.
Thế là kiến lập. Tham thiên dương bình pháp viên thông thiên phổ độ
đạo tràng ba ngày ba đêm có ghi chúc văn.
Đương kim hoàng đế thánh thọ vạn an hạ kỳ sĩ thứ rộng truyền thập
phương các điệp để lưu thông hương hoả, biến phúc cho mọi người cùng
hưởng mà không tích tụ nó lại ở một nơi, khiến cho già trẻ, nam, nữ, hiền, ngu
đều được mong độ dẫn cho đệ tử……suy nghĩ về phép tắc thì đắc đạo tràng,
gian nan gặp được khuân phép đúng mực, khó gặp thì khó tránh khỏi phát
tâm, tất cả đều được lập vào năm Giáp.
Đại đồng pháp chủ bản sư…..quan lang lập đàn hạ khất hành đi xin
nhập, truyền độ ghi vào điệp văn.
Đại đao tông sư chứng minh phong bổ chức vị, nhiệm vụ làm thầy tư từ
đó, lời thầy xướng lên nội sự bổ chức đệ tử……khuôn phép là vì để cho
nhân tâm được ngay thẳng chân thực, đức tính thuần lương phép thời cũng
được kim kham (thi hành bổ chức được đầy đủ)
Thái Thượng Lão Quân vâng mệnh thi hành
Đi đến cực bắc khu tà viên cán
Ngọc đế hưng hành cung, tróc quỷ đại sư….phép chức nhiệm viện phủ
sự, vi nhiệm bổ văn điệp.
Kết lập nửa ấn
100
Hợp lại làm chiếu
Hữu điệp phó cấp
Đệ tử được nối phép thầy
Giấy phép trông trời thì được thiên binh (binh nhà trời) hộ giúp cho,
giấy phép trông đất thì địa binh phù giúp.
Trời đất mà che chở bao trùm, xem xét thống lĩnh khắp châu xuyên thì
quỷ thần bị chém giết.
Gia phong: nhất điểu, có thể định được cả long mã, kim án ngọc loan
đều nhất loạt được tề tâm.
Gia phong dù chỉ một người, khiến cho ma, cướp, cờ, súng vật dụng
sáng cả quân thân.
Chiến tranh tàn phá gọi lũ thục hạ, bách diện cùng đI theo binh sĩ
không dời thân. Hai mươi lăm người bị chém khiên cho muôn dặm non sông
tựa trường bình như gặp ngày hoạn nạn của trăm năm.
Nhất ngưỡng đương hứa làng xóm, xã thôn đứng đầu nguyệt giáp
dấy lên tình người tu chỉnh kiều lương đạo lộ chuẩn bị leo núi. Tiền lương
hơn vạn vạn quan quỷ thần không theo pháp luật chuẩn phụng sắc chỉ
ngưỡng đệ tử.
Pháp tiên trảm, sau mới tâu thi hành sở hữu bổ công chức công điệp, tu
đến chỗ được xuất, cấp.
Thái tuế……ngày………..điểm quan……….
Cấp:
Lục sự lưu án động
Thần:
Y tiên lục tào danh
Y dương bình phụ lão tôn lục sư liễu
Thiên tôn: Bắc.
101
Phụ lục 2. Một số hình ảnh về tục cấp sắc
Ảnh 1. Sách cúng trong lễ cấp sắc
Ảnh 2. Đồ dùng trong lễ cấp sắc
102
Ảnh 3. Ấn của thầy cúng [65]
Ảnh 4. Sớ điệp
103
Ảnh 5. Cúng trước khi đi xin nước [65]
Ảnh 6. Lễ trình thuỷ thần [65]
104
Ảnh 7a. Tranh Thánh trong lễ cấp sắc
Ảnh 7b. Tranh Phật trong lễ cấp sắc
Ảnh 7c. Tranh cầu dài trong lễ cấp sắc
Ảnh 7d. Tranh cầu ngắn trong lễ cấp sắc
105