4

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ================

PHAN VĂN TÂN

NÂNG CAO VAI TRÒ CHỢ CHUYÊN DOANH LÚA GẠO THỐT NỐT TRONG VIỆC TẠO RA GIÁ TRỊ GIA TĂNG CHO HẠT GẠO

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2009

4

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ================

PHAN VĂN TÂN

NÂNG CAO VAI TRÒ CHỢ CHUYÊN DOANH LÚA GẠO THỐT NỐT TRONG VIỆC TẠO RA GIÁ TRỊ GIA TĂNG CHO GẠO

Chuyên ngành: Quản trị Kinh doanh Mã số : 60.34.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS: Lê Khương Ninh

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2009

- ii -

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi.

Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là hoàn toàn

trung thực.

Phan Văn Tân

- iii -

LÔØI TRI AÂN

Đề tài tốt nghiệp này được hoàn thành là sự nổ lực cố gắng của bản thân

tác giả, và hơn thế nữa, đó là sự đóng góp của biết bao người đã hết lòng nhiệt

tình giúp đỡ, động viên … Tôi thật sự cảm kích và ghi nhớ những điều này.

Trước tiên, tôi xin trân trọng gửi lời cảm tạ đến tất cả giáo sư giảng dạy

chương trình lớp cao học quản trị kinh doanh khóa 15C của hai Trường Đại học

Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh và Trường Đại học Cần Thơ đã truyền đạt những

kiến thức hữu ích cho tôi trong suốt quá trình học tập.

Với lòng kính trọng, tôi chân thành cảm ơn PGS. TS Lê Khương Ninh,

người đã hướng dẫn tôi hoàn thành chuyên đề với tất cả tinh thần trách nhiệm,

trực tiếp theo dõi, đôn đốc , giúp đỡ, chỉ dẫn tôi nhiều điều bổ ích trong suốt quá

trình làm luận văn tốt nghiệp.

Xin chân thành cảm ơn sự quan tâm của Lãnh đạo Công ty Lương thực

Sông Hậu, Lãnh đạo Ban Quản lý Dự án số 3 đã tạo điều kiện cho tôi được tham

gia học tập và dành nhiều thời gian nghiên cứu, cũng như đã ủng hộ cho tôi nhiều

về vật chất lẫn tinh thần giúp tôi có được những kiến thức ngày hôm nay.

Với bạn bè, bạn đồng nghiệp những người đã đóng góp cho tôi nhiều ý

kiến quý báo, động viên tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài. Cho tôi gửi đến tất

cả các bạn lời cảm ơn chân thành nhất.

Phan Văn Tân

- iv -

MỤC LỤC

Trang phụ bìa....................................................................................trang --

Lời cam đoan....................................................................................trang ii

Lời tri ân...........................................................................................trang iii

Mục lục.............................................................................................trang iv

Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt...................................................trang vii

Danh mục các bảng...........................................................................trang viii

Danh mục các hình vẽ, biểu đồ, đồ thị..............................................trang ix

1. Sự cần thiết nghiên cứu....................................................................trang 01

2. Mục tiêu nghiên cứu.........................................................................trang 03

Phần Mở đầu.................................................................................................trang 01

- Mục tiêu chung...............................................................................trang 03

3. Phương pháp nghiên cứu..................................................................trang 03

- Mục tiêu cụ thể...............................................................................trang 03

- Phương pháp thu thập số liệu........................................................trang 03

4. Phạm vi nghiên cứu..........................................................................trang 04

- Phương pháp phân tích .................................................................trang 03

Chương 1: Tổng quan về chuỗi giá trị và giao dịch nông sản...................trang 05

1.1 Các khái niệm chuỗi giá trị và phương pháp tiếp cận ......................trang 05

1.1.1 Định nghĩa...............................................................................trang 05

1.1.2 Các khái niệm chính về chuỗi giá trị........................................trang 06

1.2 Khái niệm, bản chất và nội dung của giao dịch nông sản.................trang 11

1.2.1 Khái niệm thị trường và thị trường nông sản...........................trang 11

1.2.2 Khái niệm giao dịch và giao dịch nông sản..............................trang 12

1.2.3 Một số luận giải về sản xuất theo hợp đồng trong tiêu thụ.......

nông sản.........................................................................................................trang 14

- v -

Chương 2: Phân tích thực trạng chuỗi giá trị lúa gạo và sản xuất theo. .

hợp đồng tại các Chợ Trung tâm nông sản trực thuộc Tổng Công ty......

Lương thực Miền Nam ................................................................................trang 20

2.1 Giới thiệu các Chợ Trung tâm nông sản trực thuộc TCT Lương.....

Thực Miền Nam.............................................................................................trang 20

2.2 Thực trạng chuỗi giá trị lúa gạo tại các Chợ Trung tâm nông sản....trang 25

2.2.1 Phân tích thực trạng chuỗi giá trị lúa gạo....................................trang 25

2.2.1 Sơ đồ chuỗi giá trị....................................................................trang 25

2.2.2 Mối liên kết và lợi ích giữa các bên tham gia chuỗi.................trang 28

2.2.3 Phân tích kinh tế chuỗi giá trị lúa gạo......................................trang 45

2.2.3.1 Giá trị gia tăng chuỗi lúa gạo tiêu thụ nội địa....................trang 45

2.2.3.2 Giá trị gia tăng chuỗi lúa gạo xuất khẩu............................trang 47

2.2.3.3 So sánh GTGT chuỗi lúa gạo tiêu thụ nội địa & xuất khẩu.trang 49

2.2.3.3 Phân tích tổng hợp chuỗi lúa gạo tiêu thụ nội địa và XK....trang 51

2.3 Phân tích lợi thế cạnh tranh ngành hàng lúa gạo .............................trang 52

2.4 Sản xuất theo hợp đồng trong chuỗi giá trị lúa gạo..........................trang 54

2.4.1 Các hình thức hợp đồng trong tiêu thụ lúa..................................trang 55

2.4.2 Tình hình thực hiện hợp đồng.....................................................trang 55

2.4.3 Những vấn đề của sản xuất lúa theo hợp đồng...........................trang 61

2.5 Phân tích điểm mạnh, yếu, cơ hội, đe dọa cho Chợ Chuyên doanh. .

Lúa gạo Thốt Nốt ..........................................................................................trang 64

Chương 3: Giải pháp nâng cao vai trò của Chợ chuyên doanh lúa gạo...

Thốt Nốt trong việc tạo ra giá trị gia tăng cho gạo...................................trang 70

3.1 Giải pháp 1: Hoàn thiện quy chế và mô hình hoạt động của Chợ.....trang 72

3.2 Giải pháp 2: Cần đào tạo một đội ngũ nhà quản lý, nhà chuyên môn

đủ hiểu biết về hoạt động của sàn giao dịch hàng hóa nông sản, Tổ chức......

Trung tâm thông tin và tư vấn khách hàng, giúp nông dân định hướng về.....

sản xuất, tiêu thụ, dự trữ.................................................................................trang 75

3.3 Giải pháp 3: Nâng cao nhận thức cho mọi tầng lớp trong xã hội......

- vi -

về lợi ích hoạt động giao dịch hàng hóa tập trung, từ đó thu hút nông dân,. . .

người sản xuất trực tiếp thương nhân, DN tham gia hoạt động tại Chợ..........trang 76

3.4 Giải pháp 4: Phát phiển cơ sở hạ tầng phục vụ chuỗi giá trị lúa gạo trang 77

3.5 Giải pháp 5: Tổ chức lại hệ thống trung gian và phát triển mở.........

rộng chuỗi ......................................................................................................trang 81

Phần Kết luận và Khuyến nghị....................................................................trang 86

1 Kết luận ..............................................................................................trang 86

2 Kiến nghị ............................................................................................trang 87

Tài liệu tham khảo........................................................................................trang 91

Phụ lục...........................................................................................................trang 92

- vii -

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

=======================

Ký hiệu Ý nghĩa chữ viết tắt

& ĐBSCL DN DNNN GAP Và Đồng bằng sông Cửu Long Doanh nghiệp Doanh nghiệp nhà nước Good Agricultural Practices

GTGT HTX ND PTNT Tập đoàn CP TNHH TP. Cần Thơ TP.HCM UBND (thực hành sản xuất nông nghiệp tốt) Giá trị gia tăng Hợp tác xã Nông dân Phát triển nông thôn Tập đoàn Charoen Pokphand Trách nhiệm hữu hạn Thành phố Cần Thơ Thành phố Hồ Chí Minh Uỷ ban nhân dân

VN Việt Nam

- viii -

DANH MỤC CÁC BẢNG

===================

Số bảng, Tên bảng, biểu

biểu Bảng 2-1 Bảng 2-2 Bảng 2-3 Bảng 2-4 Bảng 2-5 Bảng 2-6 Bảng 2-7 Bảng 2-8 Bảng 2-9 Bảng 2-10 Bảng 2-11 Diện tích, năng suất, sản lượng lúa Việt Nam từ năm 2004-2008 Khối lượng và kim ngạch xuất khẩu của gạo Việt Nam 2004-2008 Giá thành và lợi nhuận của nông dân sản xuất lúa GTGT chuỗi lúa gạo tiêu thụ nội địa (gạo 25% tấm) GTGT chuỗi lúa gạo thơm tiêu thụ nội địa (Jasmin) GTGT chuỗi gạo 25% tấm xuất khẩu (bán FOB) GTGT chuỗi gạo thơm Jasmin xuất khẩu (bán FOB) So sánh GTGT chuỗi lúa gạo tiêu thụ nội địa & xuất khẩu Tình hình sản xuất lúa theo hợp đồng TCT Lương thực Miền Nam Tình hình sản xuất lúa theo hợp đồng ở thành phố Cần Thơ Diện tích và sản lượng ký hợp đồng ở thành phố Cần Thơ

- ix -

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ, ĐỒ THỊ

======================

Số hình vẽ, Tên hình, đồ thị

đồ thị Hình 1-1 Hình 1-2 Chuỗi giá trị của Michael Porter Hệ thống giá trị Chuỗi giá trị lúa gạo tại các Chợ Trung tâm nông sản Hình 2-1

Hình 3-1 Biểu đồ 1 Biểu đồ 2 Biểu đồ 3 Biểu đồ 4 Biểu đồ 5 Biểu đồ 6 Đồ thị 1 thuộc TCT Lương thực Miền Nam Mô hình tổ chức lại hệ thống trung gian Chuỗi giá trị gạo 25% tấm tiêu thụ nội địa Chuỗi giá trị gạo thơm Jasmin tiêu thụ nội địa Chuỗi giá trị gạo 25% tấm xuất khẩu Chuỗi giá trị gạo thơm Jasmin xuất khẩu So sánh lợi ích các bên tham gia chuỗi gạo 25% tấm So sánh lợi ích các bên tham gia chuỗi gạo thơm Jasmin Đồ thị chuỗi giá trị hạt gạo

1

Phần Mở đầu

1. Sự cần thiết nghiên cứu

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vựa lúa của quốc gia và cũng là vùng

sản xuất lúa hàng hóa lớn nhất với chí phí thấp nhất nước. So với cả nước ĐBSCL chỉ

chiếm 12,3% diện tích đất tự nhiên, 27,2% đất nông nghiệp và 51,1% đất trồng lúa

nhưng cung cấp hơn 52,1% sản lượng lúa và khoảng 80-90% sản lượng gạo xuất khẩu

hàng năm của quốc gia.

Từ nhiều năm nay, Việt Nam vẫn là nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 trên thế giới

chỉ sau Thái Lan. Có một thực tế là chúng ta xuất khẩu mỗi năm một tăng và dự kiến

năm 2009 này sẽ đạt mức kỉ lục 6 triệu tấn. Tuy nhiên, khi nhìn lại về giá trị thì hạt

gạo Việt Nam lại thuộc hàng thấp trong các nước xuất khẩu. Nhiều người cho rằng: đã

đến lúc cần tính toán lại, nhằm nâng cao giá trị mặt hàng vốn được xem là lợi thế của

chúng ta.

Số liệu mới đây của Hiệp hội Lương thực Việt Nam cho thấy gạo 5% tấm của

Thái Lan được chào bán 500 USD/tấn, Pakistan chào bán 415 USD/tấn trong khi Việt

Nam chỉ có thể chào bán 400 USD/tấn. Tương tự, gạo 25% tấm của Việt Nam cũng

thấp hơn khoảng 70 USD/tấn so với Thái Lan.

Tình trạng trên đã kéo dài từ nhiều năm nay, qua đó cho thấy mặc dù chúng ta

luôn duy trì vị trí thứ 2 về số lượng gạo xuất khẩu trên thế giới nhưng mức lợi nhuận

thực mang về lại chưa tương xứng. Theo các doanh nghiệp xuất khẩu, gạo Việt Nam

vẫn được bán ra thế giới, nhưng không phải ai cũng biết về chất lượng, về tên gọi của

gạo Việt Nam.

Theo một số nhận định ban đầu, nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do việc quản lý

chuỗi cung ứng gạo từ đầu vào đến đầu ra chưa hiệu quả, quản lý chất lượng từ đầu ra trở về

đầu vào chưa tốt, chưa có phân tích chuỗi giá trị gạo cũng như một số chính sách điều tiết vĩ mô

của chính phủ còn bất cập, chưa kịp thời. Kết quả là giá thành sản xuất và chất lượng hạt gạo

làm ra còn kém sức cạnh tranh, giá bán thấp và chưa có nhãn hiệu cạnh tranh cao như gạo Thái

Lan. Đây chính là thách thức lớn trong sản xuất và xuất khẩu gạo ra nước ngoài cũng như gạo

nước ngoài vào Việt Nam trong bối cảnh hội nhập WTO.

Để nâng cấp chuỗi giá trị lúa gạo, ngoài việc quản lý tốt và hiệu quả chuỗi cung

ứng gạo và quản lý chất lượng trong toàn chuỗi bằng các liên kết dọc (liên kết giữa các tác

2

nhân tham gia chuỗi) và liên kết ngang (các nhà hỗ trợ thúc đẩy chuỗi – chính quyền địa

phương các cấp, các hiệp hội, khuyến nông, …) thì vai trò đầu mối của các Trung tâm

giao dịch (như Chợ Chuyên doanh lúa gạo) là vô cùng quan trọng. Về lâu dài, những

Trung tâm này cần xây dựng những cơ sở thu mua quy mô lớn và kho bảo quản dữ trữ lúa

tập trung của nông dân với qui trình kỹ thuật cao, bảo đảm chất lượng để đáp ứng nhu cầu

xuất khẩu liên tục và ổn định cũng như tránh lúa ứ đọng trong dân làm giảm chất lượng

dẫn đến giá trị hạt gạo thấp là hết sức cần thiết.

Ngoài ra, chuyện giúp nông dân tiêu thụ lúa gạo hàng hóa cũng đang là vấn đề

rất bức xúc. Nhiều doanh nghiệp muốn hợp tác với nông dân theo phương châm “liên

kết bốn nhà”, tạo ra chuỗi giá trị sản xuất từ vùng nguyên liệu đến gạo thành phẩm.

Nhưng trong thực tế, mối liên kết này đang có nhiều rào cản, cả doanh nghiệp và nông

dân vẫn chưa đạt đến niềm tin nhất định.

Dự báo trước thực tế này, kể từ năm 2001 Thủ tướng Chính phủ đã có quyết

định số 223/QĐ-TTg giao nhiệm vụ cho Bộ Nông nghiệp và PTNT chỉ đạo TCT

Lương thực Miền Nam phối hợp cùng UBND các tỉnh xây dựng thí điểm một số chợ

trung tâm nông sản ở các tỉnh ĐBSCL nhằm giúp nông nông giảm bớt khó khăn, khỏi

lâm vào cảnh “trúng mùa nhưng rớt giá”.

Tuy nhiên cho đến nay các mô hình giao dịch lúa gạo theo hình thức “Chợ

chuyên doanh hay chợ đầu mối” cũng chỉ mới là vấn đề khởi sự. Do đó, từ khi UBND

thành phố Cần Thơ đã ban hành Quyết định số số 1308/QĐ-UBND ngày 24/4/2009

chuyển đổi chủ đầu tư dự án Chợ chuyên doanh lúa gạo cấp khu vực tại xã Thới

Thuận, huyện Thốt Nốt (nay là phường Thới Thuận, quận Thốt Nốt), thành phố Cần

Thơ từ Sở Công thương sang Tổng công ty Lương thực Miền Nam. Từ đó, tôi thấy

rằng cần phải nghiên cứu tìm ra mô hình hoạt động chợ hiệu quả nên chọn đề tài

“Nâng cao vai trò chợ chuyên doanh lúa gạo Thốt Nốt trong việc tạo ra giá trị gia

tăng cho hạt gạo” làm luận văn tốt nghiệp của mình.

2. Mục tiêu nghiên cứu • Mục tiêu chung

Phân tích chuỗi giá trị lúa gạo tại các chợ chuyên doanh lúa gạo thuộc TCT

Lương thực Miền Nam và việc thực hiện các hình thức sản xuất theo hợp đồng nhằm

3

tìm ra các giải pháp nâng cao vai trò chợ chuyên doanh lúa gạo Thốt Nốt trong việc

tạo ra giá trị gia tăng cho gạo.

• Mục tiêu cụ thể

Nghiên cứu này sẽ xem xét những yếu tố cấu thành nên chuỗi giá trị sản phẩm

lúa gạo tại các chợ chuyên doanh lúa gạo thuộc TCT Lương thực Miền Nam, những

chính sách chủ yếu hiện hành liên quan đến quá trình phát triển thị trường lúa gạo ở địa

phương, chỉ ra những tác động liên quan đến chuỗi giá trị trong điều kiện hội nhập và

phát triển kinh tế (môi trường, chính sách quy hoạch, pháp luật, ...), đánh giá những

yếu tố không bền vững của chính sách, của phong tục tập quán sản xuất, mua bán sản

phẩm lúa gạo, … và các vấn đề trên gắn với mục tiêu: Bình ổn và phát triển, nâng cao

gia trị gia tăng cho sản phẩm lúa gạo; Phát huy quyền bình đẳng và tự do kinh doanh

của các chủ thể; Chỉ ra những nguyên nhân còn hạn chế của chuỗi giá trị hiện tại; xem

xét các hình thức giao dịch lúa gạo theo hợp đồng, khả năng áp dụng mô hình sản xuất

theo Global GAP đối với ngành lúa gạo để tìm ra các giải pháp nâng cao vai trò chợ

chuyên doanh lúa gạo Thốt Nốt trong việc tạo ra giá trị gia tăng cho gạo.

3. Phương pháp nghiên cứu

• Phương pháp thu thập số liệu

-

Số liệu thứ cấp: Số liệu thứ cấp được thu thập từ các công bố trên các

tạp chí, sách báo, Internet, ... về tình hình sản xuất, mùa vụ, tập quán canh tác. Số liệu

thu thập từ các thông cáo báo chí hàng năm, số liệu trích từ các niên giám thống kê

qua các thời kỳ. Đặc biệt là số liệu từ các báo cáo, tổng hợp của cơ quan quản lý của

các tỉnh, thành phố như: Sở Nông nghiệp và PTNT, Sở Công thương, ... ; số liệu từ dự

án đầu tư đã được phê duyệt và đang triển khai.

-

Số liệu sơ cấp: Thu thập bằng cách sử dụng kết quả của các cuộc điều tra

về các nghiệp vụ có liên quan trong ngành, từ đó trích lọc những chỉ tiêu có liên quan

làm cơ sở phân tích.

+ Phỏng vấn trực tiếp các nhà quản lý, các Sở, ngành có liên quan. .

+ Phỏng vấn trực tiếp người nông dân trồng lúa, các cơ sở sản xuất, xay

xác, chế biến, thương lái, doanh nghiệp, …

4

+ Sử dụng lại có chọn lọc số liệu thống kê từ các cuộc điều tra có liên

quan do các ngành Nông nghiệp và PTNT, Sở Công thương, Hiệp hội Lương thực, …

đã và đang triển khai thực hiện.

• Phương pháp phân tích

Trên cơ sở số liệu thu thập, luận văn tiến hành nghiên cứu tổng quan về ngành

hàng, từ đó vẽ bản đồ chuỗi giá trị ngành hàng, mô tả các bên tham gia, khả năng công

nghệ, năng lực các bên tham gia, tình hình quản trị thị trường (ghi chép, xử lý một

cách có hệ thống các thông tin về chính sách, môi trường đầu tư, môi trường kinh

doanh, …), kết hợp với phương pháp đánh giá nhanh có sự tham gia của nông dân, các

hộ thu gom, các đại lý và thu nhận ý kiến của cán bộ quản lý chính quyền các cấp,

những nhận định của các nhà khoa học về đánh giá kết quả triển khai các giải pháp đã

được áp dụng trong thời gian qua; tổng hợp kết quả triển khai sản xuất lúa gạo theo

hợp đồng theo quyết định 80/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ. Trên cơ sở phân tích

sự phối hợp lợi ích giữa các bên tham gia, phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và

thách thức, … tác giả sử dụng công cụ phần mềm SPSS, Excel hỗ trợ cho việc phân

tích định tính và định lượng.

4. Phạm vi nghiên cứu

Tác giả đã lựa chọn và thực hiện khảo sát nghiên cứu trên ngành hàng lúa gạo,

tại một số tỉnh đã hình thành chợ chuyên doanh lúa gạo như Đồng tháp, Tiền Giang và

Long An với số liệu thu thập từ hộ nông dân trồng lúa, thương lái, cơ sở xay xát lúa

gạo và khảo sát 3 chợ đầu mối chuyên doanh lúa gạo trực thuộc TCT Lương thực

Miền Nam và kết quả phỏng vấn khách hàng tiêu thụ gạo ở địa phương.

5

Chương I:

TỔNG QUAN VỀ CHUỖI GIÁ TRỊ VÀ GIAO DỊCH NÔNG SẢN

1.1 Các khái niệm chuỗi giá trị và phương pháp tiếp cận

1.1.1 Định nghĩa

Chuỗi giá trị nói đến cả loạt những hoạt động cần thiết để biến một sản phẩm

(hoặc một dịch vụ) từ lúc còn là khái niệm, thông qua các giai đoạn sản xuất khác nhau,

đến khi phân phối tới người tiêu dùng cuối cùng và vứt bỏ sau khi đã sử dụng

(Kaplinsky 1999; Kaplinsky và Morris 2001). Tiếp đó, một chuỗi giá trị tồn tại khi tất cả

những người tham gia trong chuỗi hoạt động để tạo ra tối đa giá trị trong toàn chuỗi.

Định nghĩa này có thể giải thích theo nghĩa hẹp hoặc rộng.

Theo nghĩa hẹp, một chuỗi giá trị gồm một loạt các hoạt động thực hiện trong

một công ty để sản xuất ra một sản phẩm nhất định. Các hoạt động này có thể gồm có:

giai đoạn xây dựng khái niệm và thiết kế, quá trình mua vật tư đầu vào, sản xuất, tiếp

thị và phân phối, thực hiện các dịch vụ hậu mãi, … Tất cả những hoạt động này tạo

thành một “chuỗi” kết nối người sản xuất với người tiêu dùng. Mặt khác, mỗi hoạt

động lại bổ sung giá trị cho thành phẩm cuối cùng. Chẳng hạn như khả năng cung cấp

dịch vụ hỗ trợ hậu mãi và sửa chữa cho một công ty điện thoại di động làm tăng giá trị

chung của sản phẩm. Nói cách khác, một khách hàng có thể sẵn sàng trả giá cao hơn

cho một điện thoại di động có dịch vụ hậu mãi tốt. Cũng tương tự như vậy đối với một

thiết kế có tính sáng tạo hoặc một quy trình sản xuất được kiểm tra chặt chẽ. Đối với

các doanh nghiệp nông nghiệp, một hệ thống kho phù hợp cho các nguyên liệu tươi

sống (như trái cây) có ảnh hưởng tốt đến chất lượng của thành phẩm và vì vậy làm

tăng giá trị sản phẩm.

Chuỗi giá trị theo nghĩa rộng là một phức hợp những hoạt động do nhiều người

tham gia khác nhau thực hiện (người sản xuất sơ cấp, người chế biến, thương nhân,

người cung cấp dịch vụ, …) để biến một nguyên liệu thô thành thành phẩm được bán

lẻ. Chuỗi giá trị rộng bắt đầu từ hệ thống sản xuất nguyên liệu thô và chuyển dịch theo

các mối liên kết với các doanh nghiệp khác trong kinh doanh, lắp ráp, chế biến.

Cách tiếp cận theo nghĩa rộng không xem xét các hoạt động do một doanh nghiệp

duy nhất tiến hành mà xem xét cả các mối liên kết ngược và xuôi cho đến khi nguyên

6

liệu thô được sản xuất được kết nối với người tiêu dùng cuối cùng. Trong phần còn lại

của luận văn này, cụm từ chuỗi giá trị sẽ chỉ được dùng để chỉ định nghĩa rộng này.

Khái niệm chuỗi giá trị bao hàm cả các vấn đề về tổ chức và điều phối, các

chiến lược và quan hệ quyền lực của những người tham gia khác nhau trong chuỗi.

Những vấn đề này và những vấn đề có liên quan khác sẽ được thảo luận trong luận văn

này. Khi tiến hành phân tích chuỗi giá trị đòi hỏi phải có một phương pháp tiếp cận

thấu đáo về những gì đang diễn ra giữa những người tham gia trong chuỗi, những gì

liên kết họ với nhau, những thông tin nào được chia sẻ, quan hệ giữa họ hình thành và

phát triển như thế nào, …

Ngoài ra, chuỗi giá trị còn gắn liền với khái niệm về quản trị vô cùng quan

trọng đối với những nhà nghiên cứu quan tâm đến các khía cạnh xã hội và môi trường

trong phân tích chuỗi giá trị. Việc thiết lập (hoặc sự hình thành) các chuỗi giá trị có thể

gây sức ép đến nguồn tài nguyên thiên nhiên (như nước, đất đai), có thể làm thoái hóa

đất, mất đa dạng sinh học hoặc gây ô nhiễm. Thêm vào đó, sự phát triển của chuỗi giá

trị có thể ảnh hưởng đến các mối ràng buộc xã hội và tiêu chuẩn truyền thống, ví dụ

như do quan hệ quyền lực giữa các hộ hoặc cộng đồng thay đổi hoặc những nhóm dân

cư nghèo nhất hoặc dễ bị tổn thương chịu tác động tiêu cực từ hoạt động của những

người tham gia chuỗi giá trị.

Những mối quan ngại này cũng có liên quan đến các chuỗi giá trị nông nghiệp.

Lý do là vì các chuỗi giá trị nông nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào việc sử dụng các

nguồn tài nguyên. Đồng thời, ngành nông nghiệp còn có đặc thù bởi sự phổ biến các

tiêu chuẩn xã hội truyền thống. Cuối cùng là do tỷ lệ nông dân trong ngành nông

nghiệp cao, khung phân tích chuỗi giá trị có thể áp dụng để rút ra kết luận về sự tham

gia của các bên tham gia và các tác động tiềm tàng đến sự phát triển chuỗi.

1..1.2. Các khái niệm chính về Chuỗi Giá trị

Phần này nêu tổng quát về các khái niệm chính của chuỗi giá trị từ quan điểm

học thuật. Trước hết nhằm làm rõ khái niệm, thứ hai là trình bày cô đọng tổng quan tài

liệu để giới thiệu một số vấn đề chính liên quan đến phân tích chuỗi giá trị. Có ba

luồng nghiên cứu chính trong các tài liệu về chuỗi giá trị: (i) phương pháp filière (ii)

khung khái niệm do Porter lập ra (1985) và (iii) phương pháp toàn cầu do Kaplinsky

đề xuất năm 1999, Gereffi (1994; 1999; 2003) và Gereffi và Korzeniewicz (1994).

7

Filière (Chuỗi)

Phương pháp filière (filière nghĩa là chuỗi, mạch) gồm các trường phái tư duy

và truyền thống nghiên cứu khác nhau. Khởi đầu, phương pháp này được dùng để

phân tích hệ thống nông nghiệp của các nước đang phát triển trong hệ thống thuộc địa

của Pháp. Phân tích chủ yếu làm công cụ để nghiên cứu cách thức mà các hệ thống sản

xuất nông nghiệp (đặc biệt là cao su, bông, cà phê và dừa) được tổ chức trong bối cảnh

của các nước đang phát triển. Trong bối cảnh này, khung filière chú trọng đặc biệt đến

cách các hệ thống sản xuất địa phương được kết nối với công nghiệp chế biến, thương

mại, xuất khẩu và khâu tiêu dùng cuối cùng.

Do đó, khái niệm chuỗi (filière) luôn bao hàm nhận thức kinh nghiệm thực tế

được sử dụng để lập sơ đồ dòng chuyển động của hàng hóa và xác định những người

tham gia và các hoạt động. Tính hợp lý của chuỗi (filière) hoàn toàn tương tự như khái

niệm rộng về chuỗi giá trị trình bày ở trên. Tuy nhiên, khái niệm chuỗi chủ yếu tập trung

vào các vấn đề của các mối quan hệ vật chất và kỹ thuật định lượng, được tóm tắt trong

sơ đồ dòng chảy của các hàng hóa và sơ đồ mối quan hệ chuyển đổi.

Phương pháp chuỗi có hai luồng có vài điểm chung với phân tích chuỗi giá trị:

- Việc đánh giá chuỗi về mặt kinh tế và tài chính (được trình bày trong Duruflé,

Fabre và Yung (1988) và được sử dụng trong một số dự án phát triển do Pháp tài trợ

trong thập niên 80 và 90) chú trọng vào vấn đề tạo thu nhập và phân phối trong chuỗi

hàng hóa, và phân tách các chi phí và thu nhập giữa các thành phần được kinh doanh

nội địa và quốc tế để phân tích sự ảnh hưởng của chuỗi đến nền kinh tế quốc dân và sự

đóng góp của nó vào GDP theo “phương pháp ảnh hưởng” (“méthode des effects”).

- Phân tích có tính chất chú trọng vào chiến lược của phương pháp chuỗi, được

sử dụng nhiều nhất ở trường đại học Paris-Nanterre, một số viện nghiên cứu như

CIRAD và INRA và các tổ chức phi chính phủ như IRAM làm về phát triển nông

nghiệp, nghiên cứu một cách có hệ thống sự tác động lẫn nhau của các mục tiêu, các cản

trở và kết quả của mỗi bên có liên quan trong chuỗi; các chiến lược cá nhân và tập thể,

cũng như các hình thái quy định mà Hugon (1985) đã xác định là có bốn loại liên quan

đến chuỗi hàng hóa ở châu Phi được phân tích gồm: quy định trong nước, quy định về

thị trường, quy định của nhà nước và quy định kinh doanh nông nghiệp quốc tế.

8

Moustier và Leplaideur (1989) đã đưa ra một khung phân tích về tổ chức chuỗi

hàng hóa (lập sơ đồ, các chiến lược cá nhân và tập thể, và hiệu suất về mặt giá cả và

tạo thu nhập, có tính đến vấn đề chuyên môn hóa của nông dân và thương nhân ngành

thực phẩm so với chiến lược đa dạng hóa).

Khung phân tích của Porter

Luồng nghiên cứu thứ hai liên quan đến công trình của Porter (1985) về các lợi thế

cạnh tranh. Porter đã dùng khung phân tích chuỗi giá trị để đánh giá xem một công ty nên tự

định vị mình như thế nào trên thị trường và trong mối quan hệ với các nhà cung cấp, khách

hàng và đối thủ cạnh tranh khác. Ý tưởng về lợi thế cạnh tranh của một doanh nghiệp có thể

được tóm tắt như sau: một công ty có thể cung cấp cho khách hàng một mặt hàng (hoặc dịch

vụ) có giá trị tương đương với đối thủ cạnh tranh của mình nhưng với chi phí thấp hơn (chiến

lược giảm chi phí) như thế nào? Cách khác là làm thế nào để một doanh nghiệp có thể sản

xuất một mặt hàng mà khách hàng muốn mua với giá cao hơn (chiến lược tạo sự khác biệt)?

Trong bối cảnh này, khái niệm chuỗi giá trị được sử dụng như một khung khái

niệm mà các doanh nghiệp có thể dùng để tìm ra các nguồn lợi thế cạnh tranh (thực tế và

tiềm tàng) của mình. Đặc biệt, Porter lập luận rằng các nguồn lợi thế cạnh tranh không thể

tìm ra nếu nhìn vào công ty như một tổng thể. Một công ty cần được phân tách thành một

loạt các hoạt động và có thể tìm thấy lợi thế cạnh tranh trong một (hoặc nhiều hơn) những

hoạt động đó. Porter phân biệt giữa các hoạt động sơ cấp, trực tiếp góp phần tăng thêm giá

trị cho sản xuất hàng hóa (hoặc dịch vụ) và các hoạt động hỗ trợ có ảnh hưởng gián tiếp

đến giá trị cuối cùng của sản phẩm.

Trong khung phân tích của Porter, khái niệm chuỗi giá trị không trùng với ý

tưởng về chuyển đổi vật chất. Porter giới thiệu ý tưởng theo đó tính cạnh tranh của một

công ty không chỉ liên quan đến quy trình sản xuất. Tính cạnh tranh của doanh nghiệp

có thể phân tích bằng cách xem xét chuỗi giá trị bao gồm thiết kế sản phẩm, mua vật

tư đầu vào, hậu cần, hậu cần bên ngoài, tiếp thị, bán hàng, các dịch vụ hậu mãi và dịch

vụ hỗ trợ như lập kế hoạch chiến lược, quản lý nguồn nhân lực, hoạt động nghiên cứu,

9

Hình 1-1: Chuỗi giá trị của Michael Porter

Chuỗi giá trị của Michael Porter Chuỗi giá trị của Michael Porter

Cơ sở hạ tầng của công ty Cơ sở hạ tầng của công ty

Giá trị Giá trị biên tế biên tế

Các hoạt Các hoạt động động hỗ trợ hỗ trợ

Quản trị nguồn nhân lực Quản trị nguồn nhân lực

Phát triển công nghệ Phát triển công nghệ

Mua sắm Mua sắm

Sản xuất Sản xuất

Đầu vào Đầu vào

Đầu ra Đầu ra

Dịch vụ Dịch vụ

Marketing và Marketing và bán hàng bán hàng

Giá trị Giá trị biên tế biên tế

Các hoạt động chính Các hoạt động chính

Do vậy, trong khung phân tích của Porter, khái niệm chuỗi giá trị chỉ áp dụng

trong kinh doanh. Kết quả là phân tích chuỗi giá trị chủ yếu nhằm hỗ trợ các quyết

định quản lý và chiến lược điều hành, ví dụ như một phân tích về chuỗi giá trị của một

siêu thị ở châu Âu có thể chỉ ra lợi thế cạnh tranh của siêu thị đó so với các đối thủ

cạnh tranh là khả năng cung cấp rau quả giống nước ngoài. Tìm ra nguồn lợi thế cạnh

tranh là thông tin có giá trị cho các mục đích kinh doanh. Tiếp theo những kết quả tìm

được đó, doanh nghiệp kinh doanh siêu thị có lẽ sẽ tăng cường, củng cố mối quan hệ

với các nhà sản xuất hoa quả giống ngoại và chiến dịch quảng cáo sẽ chú ý đặc biệt

đến những vấn đề này.

Chuỗi giá trị của công ty

Chuỗi giá trị của người mua

Chuỗi giá trị của nhà cung cấp

Hình 1-2: Hệ thống giá trị

Một cách khác để tìm ra lợi thế cạnh cạnh là dựa vào khái niệm hệ thống giá trị.

Ý chính là: thay vì chỉ phân tích lợi thế cạnh tranh của một công ty duy nhất, có thể

xem các hoạt động của công ty như một phần của một chuỗi các hoạt động rộng hơn

mà Porter gọi là hệ thống giá trị. Một hệ thống giá trị bao gồm các hoạt động do tất cả

10

các công ty tham gia trong việc sản xuất một hàng hóa hoặc dịch vụ thực hiện, bắt đầu

từ nguyên liệu thô đến phân phối đến người tiêu dùng cuối cùng. Vì vậy, khái niệm hệ

thống giá trị rộng hơn so với khái niệm chuỗi giá trị của doanh nghiệp và giống với

khái niệm mà luận văn này nói đến khi phân tích chuỗi giá trị (phương pháp rộng hơn).

Tuy nhiên, cần chỉ ra rằng trong khung phân tích của Porter, khái niệm hệ thống giá trị

chủ yếu là công cụ giúp quản lý điều hành đưa ra các quyết định có tính chất chiến

lược.

Phương pháp tiếp cận toàn cầu

Gần đây nhất, khái niệm các chuỗi giá trị được áp dụng để phân tích toàn cầu

hóa (Gereffi and Korzeniewicz 1994; Kaplinsky 1999). Luận văn này dùng khung

phân tích chuỗi giá trị để tìm hiểu các cách thức mà các công ty và các quốc gia hội

nhập toàn cầu và để đánh giá các yếu tố quyết định đến phân phối thu nhập toàn cầu.

Kaplinsky và Morris (2001) quan sát được rằng trong quá trình toàn cầu hóa

khoảng cách thu nhập trong và giữa các nước tăng lên. Các tác giả này lập luận rằng

phân tích chuỗi giá trị có thể giúp giải thích quá trình này, nhất là trong một viễn cảnh

năng động.

Thứ nhất, bằng cách lập sơ đồ một loạt những hoạt động trong chuỗi, một phân

tích chuỗi giá trị nhất trí phân tích thổng thu nhập của chuỗi giá trị thành những khoản

mà các bên khác nhau trong chuỗi giá trị nhận được. Phương pháp này sẽ được phân

tích trực tiếp trong phần hai của chuyên đề này. Để hiểu được sự phân phối thu nhập,

phân tích chuỗi giá trị là cách duy nhất để có được thông tin đó. Chuỗi giá trị của

Porter xét các hình thái phân phối toàn cầu khác chỉ cho biết một phần về các hiện

tượng này. Ví dụ như các số liệu thống kê thương mại chỉ cung cấp số liệu về doanh

thu gộp chứ không phải là về doanh thu thuần, và các phân tích cụ thể về từng ngành

(nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ) chỉ thể hiện được một phần của cả câu chuyện.

Thứ hai là một phân tích chuỗi giá trị có thể làm sáng tỏ việc các công ty, vùng

và quốc gia được kết nối với nền kinh tế toàn cầu như thế nào. Cách phân tích lồng

ghép này sẽ xác định ở mức độ rộng hơn các kết quả phân phối của các hệ thống sản

xuất toàn cầu và năng suất mà các nhà sản xuất cá thể phải nâng cao hoạt động và do

đó tự đặt mình vào con đường tăng trưởng thu nhập bền vững.

11

Trong khuôn khổ chuỗi giá trị, các mối quan hệ thương mại quốc tế được coi là

một phần của các mạng lưới những nhà sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu và bán lẻ, trong

đó tri thức và quan hệ được phát triển để tiếp cận được các thị trường và các nhà cung

cấp. Trong bối cảnh này, sự thành công của các nước đang phát triển và của những

người tham gia thị trường ở các nước đang phát triển phụ thuộc vào khả năng tiếp cận

các mạng lưới này.

Quan điểm chuỗi giá trị nông sản hiện đại

Sự phát triển của một ngành hàng gắn liền với quá trình tạo ra giá trị mới nhiều

hơn hay còn gọi là giá trị gia tăng. Trong quá trình phát triển của ngành hàng, sự tạo ra

giá trị mới, chia sẻ lợi ích giữa các chủ thể trong ngành hàng sẽ quyết định chất lượng

của mối quan hệ giữa các chủ thể và trình độ phát triển của ngành hàng đó theo hướng

chuỗi giá trị truyền thống hoặc chuỗi giá trị hiện đại.

Trong “chuỗi giá trị nông sản truyền thống” diễn ra sự cạnh tranh mạnh giữa

các chủ thể, thường kết quả là “thắng-thua”, hiện tượng phổ biến là các chủ thể bằng

mọi giá hướng đến mục tiêu mua rẻ nhất và bán đắt nhất. Trong kênh cung ứng này,

người nông dân thường ở vào thế yếu, bị thua thiệt.

Giá trị gia tăng từ sản phẩm cuối cùng không có sự phân bổ công bằng giữa các

chủ thể, những doanh nghiệp xuất khẩu, chế biến - với vị trí áp đảo trong chuỗi giá trị -

sẽ giành lấy lợi ích nhiều nhất.

Đối với “chuỗi giá trị nông sản hiện đại”, các thành quả và lợi ích của việc bán

sản phẩm cuối cùng được chia sẻ một cách hợp lý. Mối quan hệ trong chuỗi được xây

dựng dựa trên các mối quan hệ mật thiết theo dạng đối tác và gắn kết chặt chẽ dựa trên

sự tin tưởng lẫn nhau và “chữ tín”, các chủ thể gắn chặt với lợi ích của toàn bộ chuỗi

nên sẽ gắng hết sức để làm tốt nhất cho mình và đối tác, kết quả là “thắng-thắng”.

1.2 Khái niệm, bản chất và nội dung của giao dịch nông sản

1.2.1 Khái niệm thị trường và thị trường nông sản

Thị trường được hiểu là nơi người mua và người bán (hay người có nhu cầu và

người cung cấp) tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với nhau để trao đổi, mua bán hàng

hóa vật phẩm hay dịch vụ. Với nghĩa hẹp, thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua

và bán một thứ hàng hóa nhất định nào đó như thị trường gạo, thị trường cà phê, thị

12

trường chứng khoán, thị trường vốn. Cũng có một nghĩa hẹp khác, thị trường là một

nơi xác định nào đó, diễn ra các hoạt động mua bán hàng hóa vật phẩm hay dịch vụ

như chợ, siêu thị, trung tâm thương mại hoặc thị trường Thành phố Hồ Chí Minh, thị

trường Hà Nội.

Trong kinh tế học cổ điển và tân cổ điển, khái niệm thị trường được hiểu rộng

hơn là tập hợp các thỏa thuận mà người mua và người bán trao đổi được các hàng hóa

vật phẩm hoặc dịch vụ cho nhau. Các thỏa thuận bao gồm giá cả, số lượng, chất lượng

hàng hóa vật phẩm hay dịch vụ, phương thức thanh toán và giao hàng. Thị trường ra

đời gắn liền với sự ra đời và phát triển sản xuất hàng hóa. Đầu tiên là sự trao đổi hiện

vật, sau này, khi tiền tệ ra đời, tiền tệ giữ chức năng định giá cho mọi hàng hóa vật

phẩm hay dịch vụ trao đổi trên thị trường. Kết thúc mỗi cuộc trao đổi dù bằng hiện vật

hoặc bằng tiền tệ đều là chuyển giao quyền sở hữu từ người chủ này sang người chủ

khác với một giá nhất định.

Nông sản, theo cách hiểu hiện nay, là những sản phẩm trực tiếp do sản xuất

nông nghiệp tạo ra có thể nằm dưới dạng thô chưa qua bất kỳ công đoạn chế biến nào

như rau quả, hoặc chỉ mới qua sơ chế mà tính chất bên trong của sản phẩm chưa thay

đổi như lúa được chế biến thành gạo.

Tóm lại, thị trường nông sản là tập hợp các thỏa thuận, dựa vào đó người

mua và người bán trao đổi được các hàng hóa nông sản.

1.2.2 Khái niệm giao dịch và giao dịch nông sản

Theo Philip Kotler, “giao dịch (transaction) là việc mua bán giữa hai bên liên

quan đến ít nhất là hai thứ có giá trị, những điều kiện được thỏa thuận, thời điểm thỏa

thuận, và nơi chốn thỏa thuận”. Hai thứ có giá trị đó có thể là hai hàng hóa được trao

đổi với nhau, hoặc một bên là hàng hóa và một bên là thước đo giá trị như tiền, vàng,

kim loại quý khác.

Thị trường nông sản cũng là nơi diễn ra hoạt động trao đổi hàng hóa nông sản

giữa tập hợp người bán và tập hợp người mua. Hoạt động trao đổi này được xem là

hoạt động giao dịch nông sản. Theo Hoàng Đức Thân (2006), giao dịch nông sản là

một dạng hành vi kinh tế để chỉ các hành động tiếp xúc, thương lượng, trao đổi một

loại hàng hóa nông sản nào đó về chất lượng, giá cả và các điều kiện thanh toán liên

quan đến việc mua bán nông sản đó.

13

Theo Hoàng Đức Thân (2006) và Bảo trung (2009), bản chất của giao dịch

nông sản được khái quát như sau:

Thứ nhất, chủ thể là các nhà kinh doanh nông sản. Theo Điều 4, Luật doanh

nghiệp năm 2005, “Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các

công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng

dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”. Do đó, chủ thể kinh doanh bao gồm

nông dân mang nông sản hàng hóa bán ra thị trường, các nhà buôn bán nông sản,

người cung ứng dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh nông sản và nhà sản xuất –

chế biến nông sản.

Thứ hai, giao dịch nông sản là một quá trình thương lượng chuyển giao quyền

sở hữu nông sản hàng hóa từ chủ thể này sang chủ thể khác. Quyền sở hữu được hiểu

theo Bộ Luật dân sự ngày 14/6/2005: “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu,

quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp

luật”. Các thành tố trong quá trình thương lượng bao gồm giá cả, số lượng, chất lượng

nông sản, thời điểm và địa điểm thương lượng, thời điểm và địa điểm giao nhận hàng

hóa, thời điểm và điều kiện thanh toán, thương lượng trực tiếp hay qua trung gian, các

điều kiện đảm bảo việc thực hiện hợp đồng.

Thứ ba, giao dịch nông sản phụ thuộc vào điều kiện môi trường nhất định. Môi

trường kinh doanh khác nhau sẽ tác động đến quá trình thương lượng giữa các chủ thể

kinh doanh. Ví dụ, nông dân sản xuất hàng hóa lớn thì thường có xu hướng thực hiện

thương lượng trực tiếp với nhà chế biến mà không cần thiết thương lượng với người

mua buôn.

Như vậy, giao dịch nông sản là quá trình thương lượng giữa các chủ thể

kinh doanh để chuyển giao quyền sở hữu đối với nông sản trong điều kiện nhất

định nhằm thỏa mãn nhu cầu của bên giao và bên nhận quyền sở hữu.

Xuất phát từ khái niệm này, người ta có nhiều cách phân loại các hình thức giao

dịch nông sản khác nhau. Luận văn tập trung vào phân tích các hoạt động giao dịch

nông sản giữa người sản xuất với người mua. Hay nói theo quan điểm của quản trị

chiến lược là cơ chế điều phối theo ngành dọc của người sản xuất với người mua. Đây

là cách phân loại dựa trên bản chất kinh tế - xã hội của hoạt động giao dịch nông sản.

Do đó, luận văn chia các hình thức giao dịch nông sản như sau: giao dịch giao ngay

14

(spot transaction), giao dịch sản xuất theo hợp đồng (contract farming transaction) và

giao dịch giao sau. Những khái niệm này sẽ được làm rõ ở phần sau.

1.2.3 Mốt số luận giải về sản xuất theo hợp đồng trong tiêu thụ nông sản

1.2.1.1 Giới thiệu :

Sản xuất và tiêu thụ nông sản theo hợp đồng ngày càng đóng vai trò quan

trọng trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp - nông thôn nước

ta. Việc sản xuất và tiêu thụ nông sản theo hợp đồng ở nước ta đã được xuất hiện từ

lâu, nhưng chỉ phát triển nhanh chóng kể từ khi Thủ tướng chính phủ đã ban hành

Quyết định 80/2002/QĐ-TTg về “Chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa

thông qua hợp đồng” ngày 24/6/2002. Theo Quyết định này, Việt Nam phấn đấu đến

năm 2005, phương thức ký hợp đồng tiêu thụ nông sản hàng hóa chiếm 30% và năm

2010 là 50% sản lượng hàng hóa của một ngành sản xuất hàng hóa lớn. Bên cạnh

Quyết định 80/2002/QĐ-TTg, các bộ ngành cũng đã có những thông tư hướng dẫn

nhằm đẩy mạnh phương thức này. Nhiều doanh nghiệp muốn hợp tác với nông dân

theo phương châm “liên kết bốn nhà”, tạo ra chuỗi giá trị sản xuất từ vùng nguyên liệu

đến gạo thành phẩm. Nhưng thực tế, mối liên kết này đang có nhiều rào cản. Hiện

tượng phá vỡ hợp đồng hay lạm dụng hợp đồng vẫn xảy ra. Một số doanh nghiệp đỗ

lỗi cho nông dân khi nông dân không thực hiện hợp đồng và ngược lại. Chính vì vậy,

cả nông dân và doanh nghiệp không mặn mà lắm đối với phương thức ký hợp đồng

tiêu thụ nông sản. Nhiều hội nghị, hội thảo cũng đã bàn đến nhiều nguyên nhân dẫn

đến sự thất bại của phương thức ký hợp đồng bao tiêu nông sản. Việc sản xuất và tiêu

thụ nông sản qua hợp đồng là xu hướng tất yếu và là định hướng đúng đắn của Đảng

và Nhà nước ta, nhưng việc tổ chức thực hiện còn nhiều vấn đề bất cập. Chúng ta đang

chạy theo số lượng hợp đồng được ký kết hơn là đi vào chất lượng của việc thực hiện

hợp đồng. Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp Mỹ, tại Mỹ, năm 1969, 12% giá trị nông

sản được sản xuất và tiêu thụ qua hợp đồng; năm 1991 tăng lên 28% và năm 2004 là

36%. Các số liệu, tuy chưa đủ để đánh giá nguyên nhân và đề ra giải pháp để đẩy

nhanh sản xuất và tiêu thụ nông sản qua hợp đồng, nhưng đủ để minh chứng một điều

chúng ta chưa nhận thức đầy đủ luận cứ khoa học về sản xuất và tiêu thụ theo hợp

đồng, mà theo các triết gia cho rằng nếu nắm được luận cứ khoa học thì nhân loại sẽ

tránh được ít nhất một nửa lầm lạc. Một trong những luận cứ khoa học quan trọng mà

15

luận văn này muốn trình bày là chúng ta cần hiểu rõ các khái niệm liên quan đến tổ

chức thị trường tiêu thụ nông sản mà sản xuất và tiêu thụ nông sản theo hợp đồng là

một hình thức. Vì chỉ hiểu rõ các khái niệm này thì chúng ta mới có bước đi phù hợp

để thị trường nông sản vận hành được tốt.

1.2.1.2 Khái niệm và bản chất sản xuất theo hợp đồng

Trong sản xuất nông nghiệp, người nông dân có thể ký kết một số hợp đồng với

người cung cấp để mua các yếu tố đầu vào sản xuất nông nghiệp như phân bón, thuốc

trừ sâu hay nước tưới, … Bên cạnh đó, để tiêu thụ nông sản hàng hóa, người nông dân

có thể ký kết hợp đồng với người mua. Người mua có thể là nhà bán buôn, bán lẻ, nhà

chế biến, … Ngày nay, việc mua và bán của nông dân theo phương thức ký kết hợp

đồng tương đối phổ biến. Tuy nhiên, những hợp đồng mua và bán này không phải tất

cả đều có nghĩa là “Sản xuất theo hợp đồng” (contract farming) hay còn gọi là hợp

đồng sản xuất (production contracts).

Để tiêu thụ nông sản hàng hóa, giữa người nông dân và người mua có 4 phương

thức giao dịch như sau:

Thị trường giao ngay (Spot market)

Thị trường giao ngay là phương thức giao dịch hàng hóa truyền thống. Nông dân

có thể bán nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng với người mua hoặc bán trực tiếp đến

người mua tại chợ hoặc sàn đấu giá. Việc mua bán này được thực hiện ngay tại thời

điểm diễn ra giao dịch, theo giá cả của thị trường hiện tại. Nông dân kiểm soát và quyết

định toàn bộ quá trình sản xuất như sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu như thế nào, cũng

như họ phải tự bỏ vốn đầu tư cho hoạt động của mình. Sau khi thu hoạch thì người nông

dân phải tự tìm kiếm thị trường và thương lượng với người mua để bán nông sản mình

sản xuất ra. Trong trường hợp này nếu giá cả thị trường tại thời điểm giao dịch cao hơn

chi phí mà người nông dân bỏ ra để sản xuất thì nông dân có lời và ngược lại thì nông

dân thua lỗ. Phương thức này tương đối đơn giản vì người mua và người bán nắm được

thông tin về giá cả và chất lượng sản phẩm tại thời điểm giao dịch.

Hợp đồng sản xuất (Production contracts)

“Sản xuất theo hợp đồng” (contract farming) hoặc hợp đồng sản xuất

(production contracts) là hợp đồng giữa nông dân và người mua theo những thoả thuận

triển hạn (forwards agreements). Đây là phương thức giao dịch của thị trường giao sau

16

khác với thị trường giao ngay. Hợp đồng sản xuất được ký kết trước khi người nông

dân tiến hành sản xuất. Hợp đồng này quy định chi tiết về trách nhiệm của nông dân và

người ký kết hợp đồng. Trong loại hợp đồng này, người nông dân ít có quyền quyết

định vấn đề sản xuất mặc dù họ là vẫn là người trực tiếp sản xuất. Người ký kết hợp

đồng với nông dân sẽ quy định cụ thể về các yếu tố đầu vào cần sử dụng và phương

thức canh tác, kể cả người ký hợp đồng chịu trách nhiệm công tác hướng dẫn kỹ thuật

canh tác và thường xuyên kiểm tra thực tế trên đồng ruộng. Hợp đồng sản xuất thường

xuất hiện dưới hai hình thức. Thứ nhất, hợp đồng gia công, điều này có nghĩa người

mua đầu tư toàn bộ từ cơ sở vật chất đến các yếu tố đầu vào và nhận lại toàn bộ sản

phẩm. Trong trường hợp này người nông dân được trả công chăm sóc và một số chi

phí khác được thoả thuận trong hợp đồng. Hình thức hợp đồng này đang được Công ty

CP Việt Nam áp dụng. Thứ hai, người mua đầu tư ứng trước vốn, vật tư, hướng dẫn kỹ

thuật và cũng thu lại toàn bộ sản phẩm theo giá đã được thoả thuận tại thời điểm ký kết

hợp đồng. Hình thức hợp đồng này đang được áp dụng tại Công ty Bông Việt Nam.

Trong hợp đồng sản xuất, thì nông sản do người sản xuất ra thuộc quyền sở hữu của

người đầu tư, là người ký kết hợp đồng với nông dân.

Hợp đồng tiêu thụ (Marketing contracts)

Đây cũng là hình thức hợp đồng triển hạn (forwards contract). Người sản xuất và

người mua đồng ý ký kết hợp đồng mua một số lượng hàng hóa nhất định với giá cả

được quy định trước trong thời gian trước khi nông sản được thu hoạch. Người sản xuất

hoàn toàn kiểm soát vấn đề sản xuất nông sản của mình và phải đảm bảo việc giao hàng

đúng số lượng, chất lượng và giá cả theo hợp đồng. Trong trường hợp đến khi thu

hoạch, do rủi ro về thời tiết hay các yếu tố khác người sản xuất không đủ hàng giao cho

người mua thì họ có trách nhiệm đi thương lượng với nông trại khác để đảm bảo cung

cấp đủ hàng cho người mua. Việc giao dịch này giúp cho người sản xuất định hướng

được thị trường, nắm bắt được giá cả và triển vọng tiêu thụ nông sản. Tuy nhiên, trách

nhiệm cam kết chưa cao, việc chế tài giữa các bên gặp rất nhiều khó khăn. Chính vì vậy,

ở các nước người ta nâng cấp thành hợp đồng kỳ hạn (futures contract) và được giao

dịch thông qua Sở giao dịch hàng hóa, như Sở giao dịch hàng hóa Luân Đôn hoặc New

York. Về sau người ta gọi thị trường tiêu thụ nông sản qua sở giao dịch hàng hóa là thị

trường kỳ hạn. Thị trường kỳ hạn đã giải quyết được vấn để tiêu thụ hàng hóa trước khi

17

thu hoạch một cách ổn định và vững chắc. Tuy nhiên, thị trường nông sản đầy biến

động, rủi ro lớn, nên với các hợp đồng kỳ hạn, giá hàng hóa vẫn còn bấp bênh, chênh

lệch lớn với giá thực tế. Vì vậy xuất hiện một nghiệp vụ thị trường mới là hợp đồng

quyền chọn (options Contract). Hợp đồng quyền chọn trong đó người mua mua của

người bán một cái quyền được mua hay quyền được bán nông sản trong thời gian nhất

định với mức giá thỏa thuận. Người mua phải trả cho người bán một số tiền gọi là phí

hay tiền cược (premium) là giá quyền chọn. Có hai loại quyền là quyền tự chọn mua và

quyền tự chọn bán. Quyền này có thời hạn, nếu hết thời hạn hợp đồng người mua không

tiến hành mua hoặc bán thì quyền tự chọn không còn hiệu lực. Trong thực tế, các nhà

chế biến lo sợ giá cả nguyên liệu tăng nên thường mua quyền chọn mua để bảo hiểm giá

nguyên liệu. Người sản xuất lo sợ giá sản phẩm sẽ giảm mạnh nên mua quyền tự chọn

bán để bảo hiểm cho việc tiêu thụ nông sản. Các hợp đồng quyền chọn, việc mua bán

quyền chọn đều diễn ra tại sàn giao dịch của Sở giao dịch hàng hóa.

Thị trường giao sau lúc đầu chỉ thực hiện giữa người sản xuất và người bán và

hình thành nên thị trường sơ cấp. Sau đó thị trường này trở nên nhộn nhịp khi xuất hiện

hình thức mua đi bán lại các hợp đồng này. Phương thức này đã hình thành thị trường

giao dịch thứ cấp và trở nên phổ biến ngày này. Thị trường kỳ hạn hay thị trường quyền

chọn chỉ được thực hiện tại Sở giao dịch hàng hóa, tuân theo những quy định chặt chẽ

và dưới sự giám sát của Nhà nước.

Hội nhập dọc (Vertical integration)

Hội nhập dọc là hình thức liên kết giữa nông dân và người sử dụng. Người sử

dụng ở đây thường là các nhà máy chế biến. Đối với hình thức này, các nhà máy chế

biến tự đầu tư nguồn cung cấp nguyên liệu cho nhà máy mình thông qua việc mua đất

hoặc thuê đất để tự sản xuất. Người nông dân chỉ là người làm thuê cho nhà máy chế

biến. Một cách khác người chế biến và nông dân cùng tham gia góp vốn dưới dạng cổ

đông để hình thành mối liên kết giữa sản xuất và chế biến. Nông dân có thể góp vốn

vào nhà máy chế biến bằng quyền sử dụng đất của mình và nhà máy chế biến có thể

tham gia góp vốn với nông dân trong đầu tư vùng nguyên liệu. Người nông dân và

người chế biến cùng chia sẻ rủi ro trong sản xuất nguyên liệu và tiêu thụ nông sản đã

qua chế biến. Ngoài ra, trong hội nhập dọc còn có một hình thức khá phổ biến ở Việt

Nam là “Sự tái lập trang trại gia đình trong lòng doanh nghiệp nông nghiệp nhà nước”.

18

Hình thức này có hai chủ thể kinh doanh, người mua nông sản là chủ thể kinh doanh

thứ nhất đồng thời là chủ thể pháp lý; người sản xuất là chủ thể kinh doanh thứ hai,

nông dân nhận khoán đất để tự tổ chức sản xuất và bán lại nông sản cho chủ thể kinh

doanh thứ nhất theo hợp đồng ký kết. Điển hình ở Việt Nam cho phương thức giao

dịch này là “Công ty Nông nghiệp Sông Hậu, Công ty Nông nghiệp Cờ Đỏ” đã và

đang áp dụng hiện nay.

Xuất phát từ khái niệm vừa trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng có sự khác biệt

giữa 4 phương thức giao dịch trong thị trường nông sản hàng hóa. Ngoài phương thức

thứ nhất là thị trường giao ngay, 3 phương thức còn lại chỉ có thể vận hành tốt trong

những điều kiện nhất định. Chính vì vậy, chúng ta cần giải quyết một số vấn đề sau:

- Thứ nhất, các bên tham gia vào thị trường nông sản hàng hóa và Nhà nước cần

phải nhận thức đầy đủ các khái niệm trên để có thể hành xử đúng theo cơ chế thị

trường.

- Thứ hai, đối với thị trường giao ngay thì đây vẫn còn là phương thức hiệu quả

trong quá trình sản xuất và tiêu thụ nông sản vì người mua và người bán có đủ thông

tin thị trường và trên thực tế, người mua như các doanh nghiệp hay thương nhân

thường chỉ muốn hàng có sẵn trên thị trường.

- Thứ ba, sản xuất theo hợp đồng đang có xu hướng phát triển. Tuy nhiên, để

việc sản xuất theo hợp đồng vận hành được tốt đòi hỏi phải có điều kiện tiên quyết là

người mua và nông dân đều nhận thấy có lợi nhuận trong tương lai và mang tính chất

ổn định lâu dài. Ngoài ra, phương thức này đòi hỏi cần phải có sự hỗ trợ của Nhà

nước. Theo một số nhà khoa học thì phương thức này chỉ phát triển trong 4 điều kiện

sau: một là, nhu cầu về sản phẩm riêng biệt đáp ứng nhu cầu của khách hàng cụ thể;

hai là, áp lực của của việc truy xét nguồn gốc (traceability) sản phẩm; ba là, áp lực về

quản lý chặt chẽ hệ thống sản xuất để bảo vệ môi trường; và bốn là, nông trại có quy

mô lớn chiếm tỷ trọng cao.

- Thứ tư, đối với phương thức hợp đồng tiêu thụ, đòi hỏi phải có Sở giao dịch

hàng hóa.

- Thứ năm, đối với phương thức hội nhập dọc, đòi hỏi phải thiết lập mối liên kết chặt

chẽ giữa người mua và người sản xuất trên cơ sở cùng chia sẻ rủi ro trong kinh doanh.

19

Sản xuất theo hợp đồng là phương thức sản xuất tiến tiến nhưng để phương

thức này vận hành được tốt chúng ta cần nghiên cứu tổng kết lý luận và thực tiễn để từ

đó có những bước đi phù hợp trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay.

Tóm lại, chương 1 trình bày tổng quan về chuỗi giá trị và giao dịch nông sản.

Nội dung gồm 2 phần: thứ nhất, các khái niệm và phương pháp tiếp cận chuỗi giá trị;

thứ hai, các khái niệm, bản chất và nội dung của giao dịch nông sản. Trên cơ sở nghiên

cứu lý thuyết kinh tế học, quản trị học, và kết quả các công trình nghiên cứu của các

tác giả trong và ngoài nước, chương này tổng hợp làm rõ cơ sở lý luận và đề xuất

khung phân tích cho toàn bộ luận văn.

20

Chương II:

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG CHUỖI GIÁ TRỊ LÚA GẠO VÀ SẢN XUẤT

THEO HỢP ĐỒNG TẠI CÁC CHỢ TRUNG TÂM NÔNG SẢN TRỰC THUỘC

TCT LƯƠNG THỰC MIỀN NAM

2.1 Giới thiệu các Chợ Trung tâm nông sản trực thuộc TCT Lương thực

Miền Nam

Căn cứ vào đề nghị của TCT Lương thực Miền Nam, ngày 06/3/2001 Thủ

tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 232/QĐ-TTg về việc tiêu thụ lúa gạo ở Đồng

bằng sông Cửu Long, quyết định đã giao nhiệm vụ cụ thể: Bộ Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn chỉ đạo TCT Lương thực miền Nam bàn với Ủy ban nhân dân các tỉnh

xây dựng thí điểm các chợ trung tâm nông sản, trước mắt ở các tỉnh có sản lượng lúa

hàng hoá lớn, để giúp nông dân tiêu thụ lúa, gạo và thực hiện các dịch vụ khác cho sản

xuất nông nghiệp như cung ứng giống, phân bón, vật tư nông nghiệp, dịch vụ tuới tiêu,

tư vấn sản xuất, … (Trích Điều 2 quyết định 232/QĐ-TTg).

Sau thời gian khảo sát lập dự án, tháng 7 năm 2002 Bộ Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn uỷ quyền cho Tổng công ty phê duyệt dự án xây dựng 3 chợ tại các

tỉnh Long An, Tiền Giang và Đồng Tháp và sau đó các dự án bắt đầu triển khai.

2.1.1 Chợ Trung tâm nông sản Hậu Thạnh Đông – Long An

Công ty Lương thực Long An làm chủ đầu tư. Chợ đặt tại xã Hậu Thạnh Đông,

huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An có diện tích khu đất là 38.000m2. Vùng nguyên liệu

trong phạm vi 11 xã lân cận, dự kiến lượng lúa hàng hoá thông qua chợ là 60.000

tấn/năm.

Tổng mức đầu tư 14,9 tỷ đồng. Quá trình xây dựng đã thực hiện: 6.500m2 sân

phơi; 4.950m2 kho chứa; Silo 500 tấn; Chợ có đủ thiết bị sấy, chế biến gạo công suất 5

tấn/giờ. Hệ thống thiết bị của chợ có thể đạt năng suất xuất – nhập từ 500 đến 600 tấn/

ngày. Cùng lúc với việc xây dựng chợ, ngân hàng Nông nghiệp huyện Tân Thạnh đã

xây dựng mới chi nhánh đặt cạnh chợ để phục vụ trực tiếp các nhu cầu giao dịch thanh

toán tại chợ.

Chợ đã khánh thành và chính thức hoạt động trong tháng 4 năm 2005. Chợ Hậu

Thạnh Đông hoạt động kết hợp hai chức năng dịch vụ (phần chợ) và kinh doanh (thực

21

hiện kế hoạch SXKD của Công ty giao như một Xí nghiệp thuộc Công ty Lương thực

Long An).

Hiện tại đã có một số đơn vị tham gia hoạt động tại chợ như: Công ty cổ phần

Bảo vệ Thực vật An Giang; Công ty Xăng dầu Long An; Trung tâm Nghiên cứu thực

nghiệm Nông nghiệp Đồng Tháp Mười. Ngoài việc mở các gian hàng bán sản phẩm,

các đơn vị này đã tham gia vào hoạt động của chợ qua các hình thức như: tư vấn qua

điện thoại, tư vấn trực tiếp với nông dân (cả đi thăm đồng); Tổ chức toạ đàm, hội thảo,

… Các hoạt động này giúp nông dân xác định sâu bệnh, dịch hại và biện pháp phòng

trừ; Tìm hiểu các giống lúa có năng suất và phẩm chất cao; Trao đổi về kỹ thuật canh

tác; Thông tin về giá cả, tính năng, cách sử dụng an toàn các loại nông dược.

Sự ra đời của Chợ Trung tâm nông sản Hậu Thạnh Đông đã góp phần cho

người nông dân sản xuất lúa ở địa phương có thêm một kênh giao dịch mới, giúp giải

bài toán đầu ra cho nông sản. Song do quy mô đầu tư nhỏ, thiết bị xay xát có công suất

thấp (5 tấn/giờ), nên không thấm vào đâu so với vùng nguyên liệu có sản lượng hàng

trăm ngàn tấn ở địa phương, bán kính phục vụ của Chợ cũng chỉ vào khoản 10-15km.

Đây là một trong những nguyên nhân làm cho người nông dân không bán lúa trực tiếp

cho chợ trung tâm nông sản mà phải qua trung gian là thương lái bên ngoài. Sản lượng

giao dịch khoản 40.000 tấn/năm, trong đó gạo vẫn là nguyên liệu được mua nhiều nhất

(hơn 94%), việc mua lúa chủ yếu phục vụ tiêu thụ nội địa. Tỷ lệ nông dân đến giao

dịch tại đây rất thấp(chưa tới 20%). Ngoài ra do tổ chức quản lý chợ hiện nay với vai

trò như xí nghiệp trực thuộc công ty, thực hiện chức năng kinh doanh lúa gạo là chính,

nên các dịch vụ hỗ trợ cho nông dân như cung cấp thông tin thị trường, hỗ trợ vốn,

giống, phân bón,…rất hạn chế. Đến nay điểm nổi bậc nhất trong dịch vụ này chỉ dừng

lại ở việc cho dân mượn sân phơi lúa và kho để trữ lúa, gạo.

2.1.2 Chợ Trung tâm nông sản Phú Cường – Tiền Giang

Công ty Lương thực Tiền Giang làm chủ đầu tư. Chợ đặt tại xã phú Cường

huyện Cai Lậy tỉnh Tiền Giang. Diện tích khu đất 39.000m2, dự kiến lượng lúa hàng

hoá thông qua chợ là 75.000 tấn/năm.

Tổng mức đầu tư 17,483 tỷ. Các hạng mục chính của chợ gồm: sân phơi

23.000m2; 2.400m2 nhà kho; 1.300m2 nhà lồng chợ và khu dịch vụ; 451m bờ kè; thiết

bị sấy, chế biến gạo công suất 5 tấn/giờ; băng tải xuất nhập lúa 50tấn/giờ; 2 trạm xăng

22

dầu với 6 cột bơm. Các hạng mục xây dựng hoàn thiện và khánh thành đi hoạt động

cuối tháng 3 năm 2005. Các gian hàng bán vật tư, thiết bị nông nghiệp, phân bón, giao

dịch ngân hàng, tư vấn kỹ thuật được các đơn vị đăng ký và đi dần vào hoạt động.

Cũng như Chợ Trung tâm nông sản Hậu Thạnh Đông, song do quy mô đầu tư

lớn hơn chút ít nên các giao dịch thực hiện có khá hơn. Năm 2007, chợ có mười gian

hàng kinh doanh giống lúa, phụ tùng xay xát gạo, thuốc bảo vệ thực vật. Công ty

lương thực Tiền Giang, đơn vị quản lý chợ, cho biết: Hiện các chủ gian hàng kinh

doanh trong chợ không phải đóng tiền thuê mặt bằng, do kinh doanh chưa hiệu quả,

các hoạt động dịch vụ trong chợ còn thiếu đa dạng. Sản lượng giao dịch mua bán qua

chợ chỉ khoảng 48.000 tấn (trong đó lúa nguyên liệu chiếm 4%).

2.1.3 Chợ Trung tâm nông sản Thanh Bình – Đồng Tháp

Công ty XNK lương thực và vật tư nông nghiệp Đồng Tháp làm chủ đầu tư.

Chợ đặt tại ấp Tân Đông A, thị trấn Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp. Diện tích khu đất

77.430m2 , dự kiến lượng lúa hàng hoá thông qua chợ là 114.000 tấn/năm.

Tổng mức đầu tư 31,6 tỷ đồng. Các hạng mục chính của chợ gồm: Sân phơi

14.000m2; 12.000m2 nhà kho; 1.300m2 nhà lồng chợ và khu dịch vụ; 235m bờ kè;

Thiết bị sấy, chế biến gạo công suất 5 tấn/giờ; Băng tải xuất nhập lúa 50tấn/ giờ.

Từ vụ Đông - Xuân năm 2005 Chợ đã chính thức đi vào hoạt động. So với 2

Chợ Trung tâm nông sản Phú Cường và Hậu Thạnh đông, Chợ Thanh bình có quy mô

lớn hơn về diện tích, năng lực chế biến. Song do các kho chưa được xây dựng hoàn

chỉnh nên bình quân Chợ trung tâm nông sản Thanh Bình chỉ thu mua được 70.000 tấn

lúa gạo nguyên liệu/năm. Trong số này, tỷ lệ gạo chiếm đa số (91%, chủ yếu thu mua

qua thương lái), số lượng lúa rất khiêm tốn (9%). Tỷ lệ 9% này cũng là giao dịch trực

tiếp của Chợ với nông dân trong tổng sản lượng giao dịch của Chợ/năm.

2.1.4 Mục tiêu chung về hoạt động của 3 chợ trung tâm nông sản:

Việc xây dựng thí điểm 3 chợ trung tâm nông sản thuộc TCT Lương thực Miền

Nam nhằm các mục tiêu:

- Là nơi tập hợp, phân loại định hướng cho nhu cầu mua bán hàng hóa từ gốc.

Thông qua chợ người nông dân biết được nhu cầu để chủ động sản xuất, lựa chọn và

mua giống, vật tư nông nghiệp được đảm bảo chất lượng với giá cả hợp lý từ các

doanh nghiệp sản xuất, biết được hướng tiêu thụ sản phẩm của mình. Thông qua các

23

hoạt động này năng suất, chất lượng của lúa gạo được đảm bảo, đồng chuẩn hơn. Chi

phí đầu vào cho sản xuất nông nghiệp giảm do không phải mua bán qua trung gian.

- Chợ có chức năng như một trung tâm thông tin, cả người mua và người bán

đều nắm rõ chất lượng, giá cả của hàng hóa, dịch vụ. Hoạt động tư vấn, khuyến nông

được đẩy mạnh đem lại lợi ích thiết thực nhiều hơn cho người nông dân.

- Khi đi vào hoạt động ổn định chợ sẽ như một sàn giao dịch qua đó những

khối lượng hàng hóa lớn được mua bán với phương thức đấu giá, phát huy được cả thế

mạnh của những người mua bán trung gian. Các giao dịch quan hệ tài chính như thế

chấp, thu tiền, thanh toán được đảm bảo nhằm làm cho người nông dân yên tâm khi ký

gởi hàng, thuận tiện khi mua bán.

Việc bước đầu xây dựng thí điểm một số chợ nhằm thực hiện và bổ sung các

mục tiêu nêu trên; tìm ra mô hình hoạt động phù hợp và cơ chế quản lý điều hành thích

hợp trước khi phát triển rộng vì việc hình thành chợ nói chung phụ thuộc rất nhiều vào

tâm lý, tập quán, sự thuận tiện về địa điểm và hình thức quản lý.

Với những mục tiêu nêu trên, về mặt lý thuyết thì “chợ trung tâm nông sản” là

mô hình liên kết 4 nhà nhắm tới những mục tiêu tốt đẹp, đồng bộ với Quyết định 80 về

tiêu thụ nông sản, giải quyết căn cơ đầu ra cho lúa gạo, tạo điều kiện để người dân tiếp

cận với cách mua bán hiện đại, góp phần ổn định thị trường lúa gạo, đưa người nông dân

tham gia vào thị trường, xoá bớt đầu mối trung gian, liên kết chặt chẽ các chuỗi giá trị

trên cơ sở lợi ích hài hòa giữa người sản xuất, làm dịch vụ và tiêu thụ, xuất khẩu, tạo

điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia mạnh mạnh mẽ.

2.1.5 Dự án Chợ đầu mối chuyên doanh lúa gạo Thốt Nốt

- Tên dự án:

Chợ đầu mối chuyên doanh lúa gạo Thốt Nốt – thành phố Cần Thơ.

- Vị trí địa lý: Chợ tọa lạc tại phường Thới Thuận, quận Thốt Nốt, thành

phố Cần Thơ. Đây là chợ chuyên doanh lúa gạo được quy hoạch tập trung với qui mô

lớn của thành phố Cần Thơ và các tỉnh ĐBSCL.

Địa bàn chợ là nơi hoạt động lý tưởng cho việc kinh doanh lúa gạo - nằm ở

vị trí tiếp giáp giữa thành phố Cần Thơ với các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh

Long. Chợ nằm cách trung tâm TP. Cần Thơ khoảng 60 km về hướng Tây-Bắc;

đường thủy Chợ là nơi gặp nhau giữa kinh Cái Sắn và trên trục giao thông đường thủy

24

(Sông Hậu), đường bộ có Quốc lộ 91 là tuyến giao thông huyết mạch nối TP Cần Thơ

với các tỉnh An Giang, Kiên Giang và quốc lộ 1A, thuận lợi cho giao thương mua bán

hàng hóa nội địa cũng như xuất khẩu.

Dự án này do địa phương đầu tư (không nằm trong hệ thống các Chợ thuộc

Tổng Công ty Lương thực Miền Nam Lương thực Miền Nam) nhưng được triển khai

cùng thời điểm với các Chợ của Tổng Công ty Lương thực Miền Nam, trong quá trình

thực hiện, do nhiều lý do khác nhau nên mãi đến cuối năm 2008, dự án này chỉ mới cơ

bản xong khâu giải phóng mặt bằng.

Trước thực trạng đó, theo đề nghị của Tổng Công ty Lương thực Miền Nam

và ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, ngày 24/4/2009 UBND thành phố Cần

Thơ đã ban hành Quyết định số số 1308/QĐ-UBND “chuyển đổi chủ đầu tư dự án Chợ

chuyên doanh lúa gạo cấp khu vực tại xã Thới Thuận, huyện Thốt Nốt (nay là phường

Thới Thuận, quận Thốt Nốt), thành phố Cần Thơ từ Sở Công thương sang Tổng công

ty Lương thực Miền Nam” tiếp tục triển khai thực hiện.

Sau khi tiếp nhận, Tổng Công ty Lương thực Miền Nam đã tiến hành lập dự

án điều chỉnh nâng tổng mức vốn đầu tư lên 600 tỷ đồng. Dự kiến thời gian thi công

xây dựng từ nay đến hết năm 2011 là sẽ đi vào hoạt động.

So với 3 Chợ Trung tâm nông sản hiện tại, mục tiêu của dự án vẫn không có

gì thay đổi, song dự án Chợ chuyên doanh lúa gạo Thốt Nốt có quy mô lớn hơn về

diện tích, vốn đầu tư. Tổng diện tích dự án 22 ha, vốn đầu tư 600 tỷ đồng, gồm những

hạng mục đầu tư chính như: khu quản lý dịch vụ (1.500 m2), khu giao dịch (1.800 m2),

sân phơi lúa (10.778 m2), kho lúa dân gởi (39.250 m2), khu sấy (1.500 m2), kho chứa

trấu (5.200 m2), khu xay xát (1.500 m2), kho gạo thành phẩm (11.900 m2), kho vật tư

nông nghiệp & phân bón (8.200 m2), kho lạnh (17.700 m2), khu vệ sinh công cộng

(1.562 m2), trạm cấp nước (660 m2), sân bãi (12.228 m2), khu xử lý nước thải (2.590

m2), trạm cân xe + bảo vệ (100 m2), trạm biến thế (360 m2), bãi xe tải (3.525 m2), cầu

cảng + bến phao.

25

2.2 Thực trạng chuỗi giá trị lúa gạo tại các Chợ Trung tâm nông sản trực

thuộc TCT Lương thực Miền Nam

2.2.1 Phân tích thực trạng chuỗi giá trị lúa gạo

2.2.1.1 Sơ đồ chuỗi giá trị

Hình 2-1: Chuỗi giá trị lúa gạo tại các Chợ Trung tâm nông sản

thuộc TCT Lương thực Miền Nam

Nhận xét chung:

• Các chức năng cơ bản trong chuỗi giá trị

Qua khảo sát và mô tả chuỗi giá trị trong hình 2-1, chuỗi giá trị lúa gạo tại

các Chợ nông sản gồm có các chức năng cơ bản sau:

Chức năng đầu vào: gồm việc cung cấp lúa giống, phân bón, thuốc bảo vệ

thực vật, nhiên liệu, công cụ lao động cho nông dân.

26

Chức năng sản xuất: chủ yếu do nông dân đảm nhận, bao gồm các hoạt

động từ khâu làm đất, gieo mạ, chăm sóc, thu hoạch, phơi sấy, làm sạch.

Chức năng mua gom: Chủ yếu tập trung vào đầu mối là thương lái. Đây là

chức năng trung gian nhằm mục đích tiêu thụ lúa do nông dân làm ra và trung chuyển

đến các cơ sở xay xát, chế biến, các công ty kinh doanh lương thực.

Chức năng thương mại: là các hoạt động chế biến, phân phối sĩ và lẻ cho

xuất khẩu và nội địa.

Chức năng tiêu dùng: các hoạt động thuộc người tiêu dùng gạo nội địa và

xuất khẩu.

• Các tác nhân tham gia chuỗi:

Chuỗi cung ứng 1: tạm gọi là chuỗi cung ứng nội địa:

Lúa được cung ứng chủ yếu theo con đường truyền thống: Nông dân→

Thương lái → Cở sở xay xát → Chợ Trung tâm nông sản/Doanh nghiệp chế biến →

Người bán lẻ → Người tiêu dùng nội địa.

Chuỗi cung ứng 2: tạm gọi là chuỗi cung ứng xuất khẩu

Lúa cũng được cung ứng theo con đường phổ biến: Nông dân → Thương lái

→ Cở sở xay xát → Chợ Trung tâm nông sản/Doanh nghiệp chế biến →Trung gian

nhập khẩu → Doanh nghiệp nhập khẩu → Người bán sỉ/siêu thị → Người tiêu dùng.

Do điều kiện địa lý, cơ sở vật chất còn hạn chế nên ngay sau khi thu hoạch

người dân thường bán ngay một phần lúa tại ruộng để có tiền chi trả công thu hoạch,

tiền đã vay để sản xuất và chuẩn bị vật tư cho vụ sau. Số lúa còn lại tự phơi sấy, bảo

quản bằng nhiều biện pháp thủ công để tạm trữ chờ khi có giá cao hơn mới bán.

Phương thức này đã tồn tại từ lâu như một tập quán trong sản xuất nông nghiệp ở

Đồng bằng sông Cửu Long. Khi lúa của vụ trước còn chưa bán hết, vụ sau bắt đầu thu

hoạch nhưng giá mua thấp, người dân đang cần tiền để trả chi phí sản xuất là khi nhu

cầu bán hết lúa trở nên cấp bách. Các công ty lương thực không thể thu mua hết lúa tại

ruộng mà thường thu mua gạo nguyên liệu thông qua trung gian là tư nhân mua gom

lúa của nông dân để bán lại và các nhà máy xay xát nhỏ để tái chế thành gạo tiêu thụ

nội địa.

Trong chuỗi giá trị này thương lái cũng là người rất năng động đóng vai trò

chính để thu gom cho đủ số lượng đáp ứng nhu cầu chế biến với khối lượng lớn của

27

các doanh nghiệp, theo chỉ tiêu xuất khẩu, và nhu cầu mua tạm trữ của các doanh

nghiệp.

Doanh nghiệp tham gia trong chuỗi giá trị này chủ yếu là doanh nghiệp nhà

nước, doanh nghiệp có cổ phần nhà nước. Hầu hết các doanh nghiệp chế biến trong

chuỗi giá trị này chỉ giao dịch thông qua các trung gian nhập khẩu mà không hề biết cụ

thể về doanh nghiệp nhập khẩu, cũng như các hệ thống phân phối và người tiêu dùng

cuối cùng của nước nhập khẩu. Các doanh nghiệp tư nhân trong chuỗi giá trị này đóng

vai trò là thương lái lớn.

Như vậy, ở cả hai con đường, thương lái đóng một vai trò hết sức quan

trọng trong việc tiêu thụ lúa nội địa và xuất khẩu.

• Các tổ chức hỗ trợ và thúc đẩy chuỗi giá trị lúa gạo

- Các cơ sở cung cấp giống lúa, các nhà cung cấp phân bón, thuốc bảo vệ

thực vật, … Bên cạnh việc cung cấp nguyên liệu đầu vào cho nông dân sản xuất, họ

còn có thể hướng dẫn, tư vấn cho nông dân về kỹ thuật gieo trồng, sử dụng phân bón,

thuốc bảo vệ thực vật sao cho hiệu quả.

- Mạng lưới khuyến nông, các chi cục bảo vệ thực vật hỗ trợ cho nông dân

về kỹ thuật canh tác, hướng dẫn các biện pháp phòng trừ tổng hợp sâu bệnh phá hại lúa

(IPM), phổ biến các biện pháp tiết kiệm giảm chi phi đầu vào, tăng lợi nhuận, tăng

chất lượng sản phẩm (3 giảm, 3 tăng) đồng thời đưa ra những khuyến cáo giúp bà con

nông dân phòng tránh những rủi ro trong sản xuất và tiêu thụ.

- Các Phòng Nông nghiệp và PTNT và Sở Nông nghiệp và PTNT các địa

phương hỗ trợ về chính sách thủy lợi đảm bảo nguồn nước tưới tiêu, hỗ trợ quy hoạch

và định hướng sản xuất.

- Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA) hỗ trợ cho hoạt động điều tiết

thương mại, tư vấn về chính sách xuất khẩu, can thiệp với các bộ, ngành liên quan và

Chính phủ để bảo vệ lợi ích chính đáng cho các thành viên của Hiệp hội.

- Các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng là người hỗ trợ về mặt tài

chính cho các chủ thể từ nhà cung cấp đầu vào, sản xuất cho đến thương mại.

- Viện lúa ĐBSCL và Trường Đại học Cần Thơ là nơi nghiên cứu, ứng dụng

chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật cho nông dân, cho các cơ sở cung cấp giống

28

lúa, đào tạo nguồn nhân lực quản lý và kỹ thuật cho cả nông dân và doanh nghiệp xuất

khẩu.

- Chính quyến các cấp (TW và địa phương) đóng vai trò ban hành và triển

khai các chính sách liên quan đến phát triển ngành hàng lúa gạo.

Sau đây, chúng ta sẽ đi sâu vào phân tích chi tiết vai trò của mỗi thành viên

cấu thành chuỗi giá trị của lúa gạo tại các chợ chuyên doanh lúa gạo thuộc TCT Lương

thực Miền Nam.

2.2.2 Mối liên kết và lợi ích giữa các bên tham gia chuỗi

2.2.2.1 Nông dân

 Đặc điểm

Sau khi thu hoạch, thông thường người nông dân bán lúa thẳng cho thương

lái (lớn, hoặc nhỏ), hoặc thông qua HTX để tiêu thụ sản phẩm.

Công đoạn sau thu hoạch do người nông dân đảm nhiệm có thể tóm tắt

như sau:

a. Vận chuyển đến thương lái lớn/ HTX/cơ sở xay xát hoặc:

b. Phơi /sấy => Dự trữ => vận chuyển đến thương lái lớn/ HTX/cơ sở xay xát

Hai hình thức trên phụ thuộc nhiều vào quy mô của mỗi hộ nông dân, như

sau:

Nông dân nhỏ: Theo thống kê, khoảng 97% nông dân sản xuất nhỏ khoảng

5 ha trở lại, hộ trồng thấp nhất cũng được từ 1 – 2 công. Đây là những nông dân không

có khả năng ‘làm lớn’, chịu ảnh hưởng nhiều bởi thương lái, hoặc HTX về giá cả, và

phương thức vận chuyển, thu hoạch, … Họ không có điểm sơ chế, nếu không tại điểm

tập kết của thương lái, họ tự thu hoạch sản phẩm bằng những ghe, xuồng nhỏ tự tìm

các điểm phơi, sấy sau đó chuyển về nhà dự trữ, chờ giá cả phù hợp để gọi thương lái

đến bán.

Nông dân lớn: Số này chiếm khoảng 3% nông dân trồng lúa, diện tích từ 5

ha trở lên. Những nông dân lớn thường không chỉ sản xuất, mà còn chủ động vận

chuyển đi xay xát, bán sản phẩm của họ cho các doanh nghiệp chế biến với vai trò như

một thương lái (xem thêm phần thương lái).

 Hao hụt và bảo quản:

29

Theo thống kê của Tiểu hợp phần xử lý sau thu hoạch: tỷ lệ thất thoát lúa

sau thu hoạch (STH) ở Đồng Bằng Sông Cửu Long (năm 2009) từ 11 – 12%, thất thoát

phân bổ ở các vụ Hè Thu là 14%, vụ Thu Đông là 10%, vụ Đông Xuân là 9%. Trong

hao hụt 12%, phân bổ ở một số khâu sau đây: Cắt bó: 2,87%; Tuốt lúa: 1,9%; Làm

khô: 2,42%; Làm sạch: 0,5%; Bảo quản, tồn trữ: 2,1%; Xay xát: 2,47%.

Như vậy, nếu người nông dân không thực hiện xay xát, thì tổng tỷ lệ hao

hụt trong quá trình thu hoạch, bảo quản của nông dân là: 9,79%.

Ngoài ra, xử lý sau thu hoạch của người nông dân còn có vai trò quyết

định tới tỷ lệ hao hụt trong quá trình xay xát, chế biến sau này. Hạt lúa khi thu hoạch

có ẩm độ thông thường khoảng 20% trọng lượng hạt. Trong khi yêu cầu ẩm độ để hạt

có thể tồn trữ an toàn là phải dưới 14%. Theo Huey (1977), việc phơi sấy cần phải tiến

hành ngay sau khi thu hoạch, không nên để trễ quá 24h, vì ẩm độ cao sẽ làm hạt mất

phẩm chất rất nhanh. Ngoài ra, có sự khác biệt về tỉ lệ gạo nguyên giữa 2 phương pháp

phơi và sấy, trong đó sấy đúng phương pháp làm tăng tỉ lệ gạo nguyên khi xay xát.

Trong bảo quản, nông dân ít quan tâm việc tồn trữ an toàn, cũng như

phương pháp phơi sấy tốt, làm tăng tỷ lệ gạo nguyên khi xay xát, từ đó làm gia tăng

chất lượng hạt hạo. Tuy nhiên, nếu như sấy lúa đạt độ ẩm thay vì phơi ngoài đồng thì

giá cả thương lái mua cũng không cao hơn bao nhiêu. Chính điều này Việt Nam sản

xuất hàng chất lượng cao gặp nhiều khó khăn. Ngoại trừ các hao hụt nêu trên. Còn lại

phần lớn thương lái là người phải chịu các hao hụt, do qua nhiều khâu bốc dỡ, vận

chuyển, … và hao hụt do giảm phẩm cấp gạo trong thời gian chờ đợi gom hàng.

 Giá thành sản xuất và lợi nhuận

Dựa trên cơ sở báo cáo kết quả thực hiện khảo sát điều tra giá thành sản

xuất lúa vụ Đông xuân năm 2009 của các địa phương thuộc khu vực Đồng bằng Sông

Cửu Long công bố với mức giá chung vào khoảng 2.012 – 3.190 đồng/kg lúa. Kết quả

khảo sát của tác giả cũng cho thấy giá thành sản xuất lúa của nông dân bình quân là

2.534đồng/kg đối với lúa thơm (Jasmine) và 2.156 đồng/kg đối với lúa thường làm

nguyên liệu sản xuất gạo 25% tấm.

Do các Chợ chủ yếu là mua lúa gạo nhằm cung ứng cho Tổng Công ty

Lương thực Miền Nam theo chỉ tiêu, nên giá mua thường thống nhất giữa các đơn vị

trong cùng thời điểm. Trên cơ sở các số liệu điều tra tại các địa phương trong phạm vi

30

khảo sát, nếu gia đình hộ nông dân trồng lúa có diện tích bình quân 1,0ha/hộ, ta tính

được giá thành và lợi nhuận của nông dân sản xuất lúa như sau:

Bảng 2-3: Giá thành và lợi nhuận của nông dân sản xuất lúa

Chỉ tiêu Lúa thường Lúa thơm

Năng suất lúa bình quân Giá lúa thương lái mua Giá thành sản xuất Thu nhập của nông dân Lãi gộp Tỉ lệ lãi trong d.thu 6.000,00 2.803 2.133 16.818,00 4.020,00 23,90 ĐVT 6.000 kg/ha 3.295 1000đ/kg 2.524 1000đ/kg 19.770,00 1000đ/ha 4.626,00 1000đ/ha 23,40 % Nguồn:Thu thập và tính toán của tác giả

Nếu người nông dân xử lý sau thu hoạch tốt, có thể giảm ½ tỷ lệ hao hụt

thì giá trị tăng thêm của nông dân (9,79%)/2 x 6.000kg/ha x 2.803đồng= 823.241đồng/

ha (tính bình quân 1ha/hộ).

 Nhãn hàng

Do người nông dân thường sản xuất manh mún, sau đó bán trực tiếp cho

thương lái, nên họ không quan tâm đến nhãn mác của sản phẩm. Riêng đối với nông

dân lớn thường kiêm vai trò như thương lái nên có quan tâm để phân loại nhằm bán

được giá cao hơn.

 Khó khăn và yêu cầu hỗ trợ cho người nông dân trồng lúa

Người nông dân trồng lúa gặp một số khó khăn trong quá trình trồng trọt

và tiêu thụ lúa, được tóm tắt sau đây:

- Ruộng đất ít, tập quán sản suất manh mún: hiện chưa có số liệu thống kê

về diện tích bình quân trên hộ trồng lúa, nhưng nếu tính theo diện tích bình quân trên

số hộ làm nông nghiệp thì bình quân diện tích chỉ có 0,5ha/hộ, nếu một hộ trồng lúa cố

gắng để sản xuất 3 vụ lúa/năm, thì sản lượng làm ra/hộ cũng chỉ giới hạn 9-10tấn

lúa/năm. Nếu may mắn không bị thiên tai, dịch bệnh thì mỗi hộ chỉ có khoản lợi nhuận

từ lúa là 13 đến 14 triệu đồng/năm, rõ ràng thu của gia đình trồng lúa chưa đủ bù cho

sinh hoạt trong hộ.

- Người trồng lúa còn hạn chế về tư liệu sản xuất, trình độ sản xuất chưa

cao, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, sự liên kết giữa các hộ nông dân trồng lúa chưa tốt,

31

chưa có định hướng rõ ràng cho sản xuất, còn chạy theo năng suất, chưa chú ý sản xuất

ra sản phẩm có chất lượng cao, sản phẩm người tiêu dùng cần, …

- Nông dân còn lệ thuộc nhiều vào thương lái do không có đầu ra riêng, do

thiếu thông tin thị trường. Một số nông dân muốn chủ động tìm đầu ra cho sản phẩm

của mình nhưng chưa có những mô hình liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp với nông

dân, cũng như của các tổ chức hỗ trợ người nông dân và chính quyền.

- Hình thức buôn bán của nông dân không thông qua 1 hợp đồng chính

thức nào nên nông dân phải chịu một số thiệt thòi như bị ép giá, không có cơ sở đảm

bảo quyền lợi hay trách nhiệm của người bán và người mua.

Tóm lại, trong chuỗi giá trị, người nông dân đóng một vai trò quan trọng quyết

định sản phẩm và sản lượng lúa. Cho đến nay, việc thu hoạch lúa khá đơn giản và có

thể kiêm thêm việc sơ chế đơn giản đó là làm sạch và phơi sấy.

Hầu như chưa có nông dân nào có ý thức tự phân loại chất lượng, đóng gói, tồn

trữ và chủ động tìm đầu ra cho sản phẩm của mình. Hình thức này không những giúp

cho nông dân thoát khỏi sự phụ thuộc một cách thụ động vào thương lái mà còn rút

ngắn được các công đoạn vận chuyển lúa. Tuy nhiên, trong chuỗi giá trị lúa, hình thức

này đòi hỏi có phương tiện và sản lượng lớn, nên mới chỉ tập trung vào một số ít hộ.

Thu nhập do hạt lúa mang lại cho nông dân tuy có ổn định, lợi nhuận khá,

nhưng do quy mô sản xuất nhỏ, lẻ nên thu nhập chưa đảm bảo cho sinh hoạt của hộ.

Đó cũng chính là lý do hiện nay Nhà nước và các tổ chức trong, ngoài nước luôn có

những chính sách giúp đỡ người trồng lúa.

2.2.2.2 Thương lái và cơ sở xay xát

 Đặc điểm

Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp nước ta là phần lớn sản phẩm được

sản xuất ở quy mô nhỏ, đơn lẻ, dựa trên mô hình kinh tế hộ gia đình là chủ yếu, vì vậy

số lượng sản phẩm thường không lớn và không có sự đồng nhất về chất lượng. Để có

được nguyên liệu cho sản xuất, hầu hết các doanh nghiệp chế biến lúa gạo hiện nay

phải đều cố gắng tổ chức các hình thức thu mua. Doanh nghiệp nào tổ chức công tác

thu mua tốt thì có nguồn nguyên liệu ổn định, đảm bảo cho sản xuất không bị gián

đoạn, có thể nói công tác thu mua cũng là một trong những nguyên nhân quyết định sự

thành bại của doanh nghiệp trên thương trường. Trong nền kinh tế nước ta hiện nay có

32

rất nhiều chủ thể tham gia vào quá trình kinh doanh lúa gạo. Trong đó thương lái mua

khoảng 80% sản lượng lúa từ nông dân.

Thương lái sử dụng kiến thức hiểu biết của mình về ngành hàng, cùng với

vốn để tổ chức mua gom lúa từ các hộ sản xuất đơn lẻ, sau đó đem bán lại cho doanh

nghiệp chế biến hoặc các cơ sở xay xát chế biến nhỏ của tư nhân trong vùng. Căn cứ

tình hình diễn biến của thị trường, các doanh nghiệp cung ứng gạo xuất khẩu/doanh

nghiệp xuất khẩu gạo xây dựng và công bố đơn giá cho nguyên liệu chuẩn, đơn giá

này thường không cố định mà thay đổi theo thị trường. Khi thương lái mang nguyên

liệu đến chào bán, doanh nghiệp sẽ căn cứ vào đơn giá chuẩn và chất lượng nguyên

liệu của thương lái để cùng đàm phán thương thảo giá mua cụ thể cho từng loại

nguyên liệu.

Thường thương lái thông báo cho nông dân giá mà họ có thể mua. Giá bán

của thương lái phụ thuộc nhiều vào thị trường. Thông thường giá bán nội địa từ

thương lái đến nhà bán sỉ cao hơn khoảng 15 – 20% so với giá mua gốc từ nông dân.

Tuy nhiên, vì giá cả lên xuống thất thường và theo mùa nên nên con số này không tính

được chính xác.

Cơ sở xay xát ngoài việc làm dịch vụ gia công xay xát còn làm chức năng

mua gom như thương lái sau đó bán lại cho các doanh nghiệp chế biến. Chỉ có điểm

khác biệt so với thương lái là các cơ sở xay xát thực hiện việc mua lúa và bán gạo

nguyên liệu tại cơ sở của mình, còn thương lái phải đi mua gom đến tận ruộng và bán

tại doanh nghiệp chế biến.

 Qui trình sau thu hoạch

Sau mua gom lúa từ nông dân, thương lái sẽ thực hiện các bước sơ chế bao

gồm: làm sạch (giê lúa), phơi/sấy, chuyển đến cơ sở xay xát (để bán hoặc thuê gia

công xay xát), sau đó chuyển đến bán cho các doanh nghiệp chế biến.

- Thương lái nhận biết được giá trị của chất lượng cao, tuy nhiên không

phải lúc nào cũng cố làm điều này, họ thường nói là muốn mua lúa sạch và khô, họ

mua tất cả các loại lúa ở các độ ẩm khác nhau, trộn lẫn lại để bán, vì khi bán độ ẩm

được đo và tính bình quân cho cả ghe, thuyền. Chỉ có một số ít thương lái có phân loại

lúa, gạo theo tiêu chuẩn hạt dài và hạt ngắn, còn lại là không phân loại, ngoại trừ lúa

thơm.

33

Những lý do của thương lái cho rằng vì thiếu vốn theo nhiều cách khác

nhau làm cho họ phải trộn các loại gạo. Một số thuyền của thương lái quá nhỏ để chứa

từng loại gạo riêng biệt, tuy nhiên họ không có tiền để mua thuyền mới to hơn. Có

thương lái không có bao tải và vì vậy phải đổ tất cả các loại gạo vào trong thuyền của

mình. Người khác thì nói rằng vì thiếu vốn nên phải mua gạo khi có vốn và không thể

có thời gian để chỉ mua một loại gạo. Một số khác cũng cho biết nếu phân loại thì

công ty cũng không biết sự khác biệt.

 Đóng gói, dán nhãn

Tùy theo khả năng và điều kiện bốc dỡ trong mối quan hệ mua bán của

thương lái mà họ quyết định hình thức đóng gói bằng bao hoặc đổ xá xuống ghe, hầu

như không có sự phân biệt nhằm xác định nguồn gốc.

 Bảo quản, tồn trữ

Thương lái với vai trò mua gom nên việc thực hiện tồn trữ chủ yếu tại nhà

và chính bằng phương tiện mua gom của mình trong điều kiện nhiệt độ bình thường.

Do mua lúa, gạo có ẩm độ cao nên thương lái cố gắng vận chuyển đến các doanh

nghiệp chế biến càng sớm càng tốt để giảm thiểu hao hụt và thiệt hại, đồng thời cũng

giúp quay vòng vốn nhanh.

 Vận chuyển và hao hụt

Do đặc điểm mua lúa của thương lái nên lúa thường có độ ẩm cao, điều

kiện cất trữ chưa đảm bảo và phải qua nhiều khâu vận chuyển, bốc dỡ, nên quá trình

này thường phát sinh hao hụt về lượng và hao hụt do giảm phẩm cấp gạo.

Vận chuyển chủ yếu lúa từ nông dân là bằng đường thủy, chỉ có một số ít

là vận chuyển bằng đường bộ ở khâu sau khi chế biến, cung ứng tiêu thụ nội địa.

Với những đặc điểm của lúa gạo và đặc điểm mua gom, hao hụt mà

thương lái phải chịu bao gồm: Mua gom từ nông dân đến điểm phơi sấy (2,5%); hao

hụt trong quá trình xay xát (2,47%); hao hụt do vận chuyển lên xuống ghe, tàu (tùy

vào khoảng cách và thời gian vận chuyển). Tổng hao hụt có thể có trong mắc xích

thương lái là: 3% - 5%.

Ngoài ra, nếu mua phải những loại lúa mà khâu xử lý sau thu hoạch của

nông dân không tốt, thì tỷ lệ thu hồi thành phẩm khi chế biến thấp do: làm giảm tỷ lệ

hạt nguyên, gạo bị ẩm vàng, …

34

 Hợp đồng

Với nông dân, khi thương lái mua gom trực tiếp từ nông dân, giữa họ chỉ

có thỏa thuận miệng. Thanh toán cho nông dân chủ yếu bằng tiền mặt. Nếu có quan hệ

tốt với nông dân, thương lái có thể trả sau 3 hoặc 4 ngày. Hai yếu tố cần thiết được đề

cập trong thỏa thuận là giá cả và chất lượng. Ngoài hai yếu tố trên, còn có yếu tố thời

gian, thanh toán, …

Một vài thương lái còn đầu tư một số vốn nhất định để trợ giúp nông dân

trong quá trình canh tác giống, bón phân, … Để đáp lại, nông dân sẽ bán lúa cho

thương lái khi đến mùa. Thông thường, thương lái chọn những nông dân giỏi hoặc

người thân quen để làm việc này.

Đối với doanh nghiệp, khi tiếp xúc về chủ đề hợp đồng, thương lái và các

cơ sở xay xát đều tỏ ra quan tâm đến hợp đồng với công ty hơn là với nông dân. Trong

khi thương lái và các cơ sở xay xát nói rằng hợp đồng với công ty sẽ làm thị trường

bình ổn hơn, thì dường như nó cũng có thể cải thiện quản lý chất lượng.

Thương lái nói rằng nếu ký hợp đồng trước năm ngày với tiền ứng trước,

họ có thể đảm bảo cung cấp gạo đúng thời gian mà công ty cần. Đối với họ, phương

pháp này đảm bảo lợi nhuận, đó là một lợi thế. Thương lái trong trường hợp này đã có

hợp đồng với một công ty và họ là đại diện của công ty đó để mua và xay xát gạo cho

công ty với tiền của công ty. Tất cả yêu cầu chất lượng của thương lái đều theo yêu

cầu của công ty.

Phỏng vấn thương lái và cơ sở xay xát cho thấy có một số biện pháp khác

để cải thiện quản lý chất lượng chuỗi cung cấp. Thương lái và cơ sở xay xát thường

nhận ra rằng có thể sẽ có lợi từ chất lượng lúa tốt hơn qua yêu cầu chất lượng gạo mua

và phân loại chặt chẽ hơn, đặc biệt là đối với thương lái, thường gặp khó khăn với chất

lượng gạo vì thiếu vốn. Nhiều thương lái và cơ sở xay xát được phỏng vấn quan tâm

đến hình thức hợp đồng giữa họ và công ty, có thể sẽ đem lại động lực rõ ràng hơn và

khả năng quản lý tiêu chuẩn chất lượng chặt chẽ hơn.

Riêng cơ sở xay xát thường có yêu cầu chất lượng cao hơn như có yêu

cầu tỷ lệ độ ẩm chặt chẽ, sẽ trả tiền ít hơn nếu độ ẩm cao hơn cho phép. Chỉ có một số

ít cơ sở không quan tâm đến độ ẩm. Các cơ sở cũng thuận lợi hơn trong việc phân loại

do có kho bãi rộng. Đa số cơ sở hiểu rằng nếu phân loại thì giá của từng loại gạo sẽ

35

cao hơn và vì vậy lãi hơn. Một số khác nói rằng họ phân loại để đáp ứng yêu cầu của

khách hàng.

Qua kết quả nghiên cứu cho thấy việc khuyến khích sử dụng hợp đồng

trong chuỗi cung cấp gạo với cơ sở xay xát có thể là bước trung gian cần thiết để tăng

cường quan hệ trong chuỗi giá trị gạo và khuyến khích cải thiện chất lượng gạo. Hiện

nay, sự bất ổn của thị trường gạo và khó khăn trong việc tìm vốn lưu động làm cho

việc mua gạo chất lượng cao trở nên khó khăn. Nếu hợp đồng với trung gian, cơ sở

xay xát và công ty có thể tạo ra thị trường ổn định và động cơ đảm bảo để chỉ mua gạo

chất lượng cao hoặc một loại gạo riêng biệt.

Tuy nhiên, mặt trái của phương thức này là nó hầu như không có tác

động trực tiếp nào đối với thu nhập của nông dân. Và việc quản lý chất lượng trong

trường hợp này đòi hỏi doanh nghiệp phải chặt chẽ hơn, phải có người của doanh

nghiệp thường xuyên có mặt tại cơ sở xay xát theo dõi chất lượng, nếu không tổ chức

được như thế, thì ít có doanh nghiệp chấp nhận vì cho rằng như thế là mạo hiểm.

 Lợi nhuận

Tính trong vụ đông xuân năm 2009, qua kết quả phỏng vấn nông dân

bán lúa giá thời điểm vụ đông xuân 2009 là 3.295đồng/kg đối với lúa thơm Jasmine và

2.803đồng/kg đối với lúa thường, quy ra gạo là 5.250đồng/kg đối với gạo thơm

Jasmine và 3.800đồng/kg đối với gạo thường,

Thương lái sau khi mua gom, xay xát, vận chuyển về bán nguyên liệu

gạo lứt cho các doanh nghiệp chế biến 6.970đồng/kg đối với gạo thơm Jasmine và

5.150đồng/kg đối với gạo thường.

Như vậy, nếu lấy giá mua của các doanh nghiệp chế biến trừ đi giá bán

bình quân của nông dân, thì phần giá trị dành cho thương lái là 1.720đồng/kg đối với

gạo thơm Jasmine và 1.350đồng/kg đối với gạo thường. Trong đó, chi phí của thương

lái từ 1.135 - 1500 đồng/kg lúa và lợi nhuận từ 215 - 220 đồng/kg gạo nguyên liệu.

Nhìn chung nếu sau khi lấy giá mua của doanh nghiệp trừ đi chi phí, nếu

ước lợi nhuận của thương lái đạt được từ 10 đến 15% giá trị lúa là thương lái có thể

chấp nhận mua lúa của nông dân.

 Những khó khăn của thương lái

36

Thương lái là khâu quan trọng trong chuỗi giá trị trong lĩnh vực thu mua,

chế biến và tiêu thụ lúa gạo. Họ là người mua gom lúa, gạo từ nông dân, nhà sản xuất

và bán lại cho doanh nghiệp chế biến với tư cách là nhà bán buôn. Thương lái là người

trung gian kết nối thị trường lúa gạo từ người nông dân đến doanh nghiệp chế biến,

giúp cho đầu ra của người nông dân ổn định, và cũng là người áp đặt giá cho lúa gạo

trên thị trường nội địa. Tuy vậy, bản thân thương lái cũng gặp không ít khó khăn, được

tóm tắt sau đây:

- Vốn: Thương lái cần vốn để trang bị cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện

đại nhưng việc tiếp cận vốn vay vẫn còn hạn chế, khó khăn.

- Giao dịch: Mối quan hệ buôn bán giữa nông dân và thương lái không

bền vững. Chỉ có một ít thương lái có quan hệ buôn bán tốt với nông dân từ năm này

qua năm khác.

- Xử lý sau thu hoạch: Rất ít thương lái có đủ cơ sở vật chất cũng như

kiến thức về công nghệ sau thu hoạch hiện đại. Một số thương lái cũng không muốn

thực hiện điều này.

- Hành vi ứng xử của thương lái hoàn toàn theo tín hiệu của thị trường

nên dẫn đến tình trạng “được mùa mất giá và mất mùa được giá”.

- Một số thương lái xuất thân từ nông dân nên việc kinh doanh chưa

mang tính chất chuyên nghiệp và rủi ro cao. Thậm chí một số thương lái không cạnh

tranh được trên thị trường làm ăn thua lỗ và họ chuyển rủi ro này cho người nông dân

hoặc doanh nghiệp phải gánh chịu.

- Nhiều thương lái không quan tâm đến chất lượng hàng hóa nên mua tất

cả dù chất lượng tốt hay xấu. Điều này dẫn đến chất lượng nguyên liệu đầu vào của

doanh nghiệp chế biến không đảm bảo, khó có thể tạo ra sản phẩm đạt chất lượng cao.

Tóm lại, qua khảo sát hoạt động của thương lái tại các chợ lúa gạo,

chúng ta có thể nhận thấy rằng thương lái chiếm vị trí rất quan trọng trong chuỗi ngành

hàng từ người trồng lúa đến doanh nghiệp chế biến. Nếu không có lực lượng thương

lái đi thu gom hàng hóa từ nông dân thì hàng hóa khó lưu thông được hoặc nếu được

thì chi phí giao dịch cao hơn. Việc nông dân bán hàng hóa chủ yếu cho thương lái phù

hợp với điều kiện và tập quán sản xuất và kinh doanh lúa gạo ở nước ta hiện nay.

2.2.2.3 Chợ Trung tâm nông sản/Doanh nghiệp chế biến

37

Hoạt động của 3 chợ Trung tâm nông sản (gọi chung là chợ lúa gạo) thuộc

Tổng Công ty Lương thực Miền Nam hiện nay ngoài chức năng như một Ban quản lý

chợ có nhiệm cung cấp các dịch vụ đảm bảo chợ hoạt động, còn đóng vai trò như là

một xí nghiệp trực thuộc Công ty lương thực trong hệ thống Tổng Công ty Lương thực

 Với vai trò là Ban Quản lý Chợ: Chợ là một cụm dịch vụ tổng hợp với

Miền Nam đặt tại địa phương.

các chức năng dịch vụ sau:

Dịch vụ đối với người nông dân (người bán)

- Là nơi mua bán lúa, gạo, vật tư nông nghiệp (giống, phân bón, thuốc

bảo vệ thực vật, …)

- Mua lúa cho nông dân hoặc nhận ký gởi bảo quản cho dân. Xác nhận

số lượng lúa ký gửi để ngân hàng có cơ sở cho nông dân vay tiền. Nông dân có thể lấy

lúa ký gởi ra bán trực tiếp hoặc nhờ chợ bán hộ và thanh toán lại các chi phí phát sinh

theo biểu giá dịch vụ.

- Nhận phơi sấy, bảo quản, theo yêu cầu, nhận thanh toán hộ cho người

mua, bán hàng khi có nhu cầu, tổ chức các cửa hàng để các doanh nghiệp ký gởi hoặc

bán trực tiếp các loại vật tư nông nghiệp cho nông dân.

Dịch vụ đối với các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu gạo

- Các doanh nghiêp chế biến, xuất khẩu gạo có thể đăng ký nhu cầu về

chủng loại, chất lượng gạo, số lượng để có thể đến mua trực tiếp tại chợ hoặc ủy quyền

cho Ban quản lý chợ mua hộ và chịu chi phí theo thỏa thuận.

- Cung cấp dịch vụ gởi hàng, bảo quản, thanh toán khi có nhu cầu; cung

cấp thông tin thị trường cho các doanh nghiệp.

Dịch vụ thanh toán

Kết nối giữa ngân hàng với nông dân, với các doanh nghiệp thông qua

việc: Xác nhận lượng lúa gạo của dân gởi vào kho làm căn cứ cho ngân hàng cho dân

vay tiền với giấy xác nhận là vật thế chấp; Nhận thanh toán tiền múa bán hàng cho

dân, cho các doanh nghiệp và cho ngân hàng.

Dịch vụ thông tin

Ngoài việc thông tin giá cả, nhu cầu qua niêm yết phục vụ cho việc mua

bán, chợ là một trong những điểm cung cấp thông tin giá cả thị trường cho các cơ quan

38

quản lý Nhà nước. Giá bình quân mua bán tại chợ trong ngày sẽ được thông báo và coi

đây là giá bán buôn trên từng thị trường vào các thời điểm nhất định.

Sau hơn 4 năm hoạt động, 3 Chợ Trung tâm Nông sản Thanh Bình

(Đồng Tháp), Phú Cường (Tiền Giang), Hậu Thạnh Đông (Long An) hầu như hoạt

động đạt sản lượng hàng hóa qua chợ/năm theo như thiết kế. Tuy nhiên, trong số này,

tỷ lệ giao dịch gạo vẫn chiếm đa số (hơn 90% - chủ yếu thu mua qua thương lái), số

lượng lúa, gạo mua trực tiếp của nông dân chiếm gần 10%. Nhìn chung hoạt động

chính của các chợ trung tâm nông sản tới thời điểm này vẫn là thu mua gạo nguyên

liệu, lau bóng cung cấp cho công ty lương thực địa phương (đơn vị chủ quản) xuất

khẩu. Các hoạt động khác như: tư vấn, hướng dẫn kỹ thuật về giống, phân bón thuốc

trừ sâu, hỗ trợ vốn ngân hàng, … theo như mục tiêu ban đầu vẫn chưa phát huy tác

dụng. Nguyên nhân của hiện tượng này một phần do năng lực chế biến, năng lực dự

trữ của các chợ chưa đáp ứng nhu cầu so với sản lượng lúa hàng hóa tiêu thụ của nông

dân, mô hình họat động của chợ chưa thuyết phục được nông dân và các doanh nghiệp,

một phần là do thói quen mua bán thông qua thương lái, nông dân chưa thấy được lợi

 Với vai trò là Xí nghiệp trực thuộc công ty

ích của việc giao dịch tại chợ mà cho rằng như vậy làm phát sinh thêm chi phí,….

Chợ thực hiện việc quản lý, điều hành sản xuất, bảo quản, dự trữ, cung

ứng hàng hóa như doanh nghiệp.

Công tác bảo quản, dự trữ

Đối với lúa: thông qua việc phơi thủ công, từ nguồn nhiệt ánh nắng mặt

trời hoặc sấy bằng biện pháp đưa vào máy sấy công nghiệp để sấy nhằm giảm ẩm độ

lúa xuống dưới 15,5o để nhập kho dự trữ. Lúa được đóng vào bao PP với trọng lượng

tịnh là 50kg và được chất thành lô từ 300 tấn đến 500 tấn để bảo quản.

Đối với gạo, tùy theo loại nguyên liệu sẽ thực hiện qui trình xử lý sau:

+ Nguyên liệu là gạo lứt: gạo được xay xát trắng 1 và xát trắng 2 sau đó

qua bóng 1 lần (gạo 1 pass) nếu ẩm độ chưa đạt đến 14,5o thì gạo sẽ được sấy trên dây

chuyền sản xuất để đạt độ ẩm và được đóng gói chất thành lô để bảo quản theo từng

loại.

+ Nguyên liệu là gạo trắng khi nhập kho sẽ phân loại theo độ ẩm để pha

trộn hoặc qua máy khi có nhu cầu xuất.

39

Tuy nhiên, do nguyên liệu đầu vào là gạo lứt, gạo sau khi được chế biến,

đưa vào dữ trữ đến khi xuất thường phải qua máy lần 2 để tái chế, làm tăng chi phí chế

biến gạo và giảm hiệu quả hoạt động.

Thị trường tiêu thụ

o Tiêu thụ gạo nội địa

Các doanh nghiệp (trong hệ thống TCT Lương thực Miền Nam) tại các tỉnh

đã và đang mở hệ thống các cửa hàng bán lẻ gạo với các hình thức kinh doanh phổ biến

như: Bán lẻ qua hệ thống cửa hàng; bán cho các khách hàng trọng điểm (như quán cơm,

nhà hàng, căn-tin, bệnh viện, trường học cơ quan, …); Ngoài ra còn được tiêu thụ tại các

siêu thị lớn tại TP. Hồ Chí Minh, các tỉnh miền Tây, Miền Đông và Miền Bắc.

Sản phẩm đưa ra thị trường chủ yếu là các loại gạo thơm được đóng túi

2kg, 5kg, 10kg, 25kg, … Tuy nhiên, hệ thống các cửa hàng hiện tại chủ yếu là thực

hiện nhiệm vụ tham gia bình ổn thị trường, hiệu quả đầu tư hệ thống bán lẻ nội địa

chưa cao, thậm chí còn bị lỗ, nên số lượng bán rất hạn chế, hành năm chỉ khoảng dưới

5-8% khối lượng bán ra của doanh nghiệp. Nguyên nhân là doanh nghiệp không thể

cạnh tranh với những điểm bán gạo lẻ của tư nhân, do khi bán doanh nghiệp phải chịu

thuế VAT 5% (không được khấu trừ), trong khi các điểm bán gạo tư nhân chỉ đóng

thuế khoán hàng tháng với mức 500.000 đồng đến 1.500.000 đồng/tháng. Đó cũng là

lý do doanh nghiệp Việt Nam ít quan tâm đến thị trường này.

o Cung ứng gạo xuất khẩu

Doanh nghiệp thuộc Tổng Công ty Lương thực Miền Nam chủ yếu cung

ứng gạo cho Tổng công ty với số lượng khoản 60% nhằm thực hiện các hợp đồng

Chính phủ. Còn lại 25-35% là xuất khẩu trực tiếp, ủy thác xuất khẩu hoặc cung ứng

cho các doanh nghiệp khác có hợp đồng xuất khẩu trực tiếp.

Thương hiệu và nhãn hàng

Các công ty quản lý Chợ lúa gạo hiện nay đều có sản phẩm được đăng

ký nhãn hiệu như: Gạo Hồng Hạc, Chín Con Rồng Vàng, Hương Việt, Hoa Mai

Vàng, Bông Sen Vàng, Con Trâu Vàng, Thiên Nga, Hương Lài, Việt Đài, Việt Mỹ,

Tài nguyên Long An, …

40

Song các nhãn hiệu này chỉ có tác dụng nhằm giới thiệu sản phẩm đến

tay người tiêu dùng thông qua hệ thống cửa hàng bán lẻ trực thuộc Công ty và hệ

thống siêu thị trong nước. Chưa có thương hiệu được nước ngoài biết đến.

Chi phí sản xuất và lợi nhuận

Trong chế biến và tiêu thụ lúa gạo, đối với các doanh nghiệp chế biến

thường phát sinh các khoản chi phí sau: chi phí nguyên liệu, chi phí lưu kho, chi phí

bao bì, chi phí bốc dỡ, chi phí vận chuyển, chi phí điện năng, chi phí lãi vay ngân

hàng, … Riêng đối với kênh xuất khẩu, ngoài những chi phí trên doanh nghiệp thường

phải mua bảo hiểm trong quá trình dự trữ, vận chuyển để tránh rủi ro.

Việc kinh doanh của các doanh nghiệp thường được xác định hiệu quả

theo năm, trong khi chi phí và lợi nhuận của doanh nghiệp trong chuỗi giá trị này chỉ

được tính bình quân trong vụ Đông xuân 2009, do vậy phần nào chưa phản ảnh hết chi

phí và lợi nhuận chung của doanh nghiệp.

Cụ thể chi phí tăng thêm đối với chuỗi lúa gạo tiêu thụ nội địa là

500đồng/kg, còn lợi nhuận là 400 đồng/kg; Chi phí tăng thêm 1.220 đồng/kg và lợi

nhuận là 310 đồng/kg đối với gạo thơm Jasmine.

Đối với chuỗi lúa gạo xuất khẩu thì có chi phí tăng thêm là 500đồng/kg,

còn lợi nhuận là 598 đồng/kg; Chi phí tăng thêm 1.220 đồng/kg và lợi nhuận là 557

đồng/kg đối với gạo thơm Jasmine.

 Những khó khăn của Chợ Trung tâm Nông sản/DN chế biến

- Doanh nghiệp khó có khả năng mua lúa trực tiếp với nông dân do 3

nguyên nhân chính: Không đủ nhân lực triển khai thu mua, thiếu phương tiện luồn lách

vào vùng sâu và thiếu kho dự trữ. Do đó các doanh nghiệp chỉ mua gạo nguyên liệu để

chế biến.

- Doanh nghiệp lớn hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh lúa gạo chủ yếu

đặt trọng tâm vào thị trường xuất khẩu. Một số doanh nghiệp cũng có kinh doanh gạo ở

thị trường nội địa. Tuy nhiên, chỉ làm gạo bịch (dạng 5 - 10 kg/bịch). Đây chủ yếu là

loại gạo thơm, đặc sản được xem là “cao cấp”, bày bán ở các siêu thị lớn (giá 10.000 –

17.000 đồng/kg). Tuy nhiên, số lượng gạo dạng này vẫn hạn chế - do nhu cầu ít. Ngoài

ra, cũng còn có lý do khác là doanh nghiệp khi kinh doanh gạo nội địa phải chịu thuế

VAT 5% nên việc cạnh tranh với các vựa gạo điểm bán lẻ tư nhân rất khó khăn.

41

- Xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp chủ yếu là gạo thô, không có

thương hiệu, tất cả đều phụ thuộc vào thương hiệu nước ngoài nên giá thường thấp hơn

gạo cùng loại so với các nước khác.

- Chưa có tài liệu chứng minh chất lượng sản phẩm và quy trình thực hành

sản xuất nông nghiệp tốt (như Global GAP), chất lượng sản phẩm làm ra chưa đáp ứng

được yêu cầu những thị trường khó tính như Châu âu, Nhật Bản, … cũng như có thể

truy nguyên được nguồn gốc. Từ đó, sản phẩm làm ra chủ yếu để xuất khẩu sang các

nước có nhu cầu bức xúc về an ninh lương thực như: Châu Phi, Philipin, Indonesia,

Irắc, Cuba, …

- Các nhãn hiệu gạo đang được bày bán chưa quan tâm ghi rõ về chỉ tiêu

chất lượng hạt gạo, gạo đó khi nấu sẽ như thế nào, ... bằng cách này thay vì phải khẳng

định bằng lời nói với khách hàng về chất lượng gạo ta sẽ khẳng định bằng tên tuổi,

bằng tiêu chuẩn như thế sẽ tạo được lòng tin của khách hàng nhiều hơn và có được chỗ

đứng trong tâm trí của khách hàng.

2.2.2.4 Người bán lẻ/siêu thị

 Đặc điểm

Người bán lẻ thường chủ động đến doanh nghiệp chế biến để mua gạo.

Một vài người bán lẻ có quan hệ tốt với doanh nghiệp, họ có thể kiểm tra giá và đặt

mua hàng, cũng như được chuyên chở tận nơi. Do vậy, quan hệ giữa người bán lẻ và

doanh nghiệp là quan hệ hai chiều.

Người bán lẻ cũng có quan hệ qua lại với một số khách hàng đặc biệt như

nhà hàng, khách sạn (đặc biệt các siêu thị). Họ thường phải chọn đúng sản phẩm đủ

tiêu chuẩn chất lượng để cung cấp cho những khách hàng này. Đổi lại họ bán với giá

 Qui trình sau thu hoạch

cao hơn hoặc/và số lượng nhiều hơn.

o Đóng gói và dán nhãn

Do đặc điểm của khách hàng nội địa ít có thói quen cảm nhận chất lượng

qua thương hiệu, mà chủ yếu là cảm nhận qua dùng thử, cũng như chữ tín của điểm

bán lẻ qua nhiều lần mua hàng, nên họ rất ít quan tâm đến đóng gói và dán nhãn. Việc

vận chuyển gạo thông thường được cho vào bao (nếu khối lượng trên 20kg) hoặc cho

vào túi nilon có quay xách.

42

Nếu mua với khối lượng từ 20kg trở lên, thông thường người bán lẻ sẽ

giao hàng đến tận nhà trong phạm vi nội ô của thành phố (thị xã/hay thị trấn) mà không

tính thêm khoản chi phí nào. Đây cũng là một trong những cách mà người bán lẻ cạnh

tranh để thu hút khách hàng, qua đó có thể tiết kiệm một phần chi phí và nâng cao giá

trị cho khách hàng.

Tùy theo thị hiếu và yêu cầu của khách hàng mà người bán lẻ có thể tự

đấu trộn các loại gạo với nhau theo một tỷ lệ nào đó nhằm tạo ra sản phẩm mới cung

cấp cho khách hàng.

Đối với người bán lẻ là siêu thị: thông thường khâu đóng gói và dán

nhãn, cam kết về chất lượng, vận chuyển đến siêu thị là do doanh nghiệp chế biến đảm

nhận toàn bộ, siêu thị bán gạo với tư cách là đại lý cho các doanh nghiệp chế biến. Tuy

nhiên, doanh nghiệp không can thiệp vào mức giá bán ra của siêu thị, mà siêu thị có

thể tự định giá thông qua giá trị mà siêu thị có thể mang đến cho khách hàng.

o Tồn trữ, bảo quản

Có thể nói người bán lẻ là người cố gắng nhất để duy trì chất lượng hạt

gạo càng lâu càng tốt, không để cho sản phẩm bị ẩm mốc, sâu, mọt, … vì điều đó ảnh

hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của họ. Họ phải đảm bảo môi trường thông thoáng và

thường xuyên kiểm tra xử lý sâu, mọt, ẩm, mốc, … khi trưng bày sản phẩm cũng như

trước khi giao hàng.

o Hao hụt

Hao hụt cho vận chuyển từ người bán sỉ đến người bán lẻ không được

chú ý tính toán bởi cũng không đáng kể do khoảng cách vận chuyển ngắn. Họ chỉ ước

chừng hao hụt trong tồn trữ trong khi buôn bán biến động đến 1%.

 Hợp đồng và thanh toán

Thỏa thuận chính đề cập đến tiêu chuẩn hạt gạo là chủng loại, tỷ lệ tấm

và giá cả. Sự thay đổi về giá cả có thể được cập nhật trong một khoảng thời gian được

thỏa thuận. Thông thường nhà hàng, khách sạn, siêu thị thanh toán trong vòng một

tháng và thường bằng tín dụng. Người bán lẻ khác chỉ thanh toán bằng tiền mặt.

 Lợi nhuận

Người bán lẻ cần phân loại lại chất lượng sau khi mua từ doanh nghiệp

chế biến, vì vậy giá bán cũng khác nhau tùy theo chất lượng được phân loại.

43

Nếu bán cho người tiêu dùng, lợi nhuận mà người bán lẻ đạt được có thể

từ 4% đến 6%, tương đương với 300-600 đồng/kg gạo. Nếu cung cấp sản phẩm cho

nhà hàng, khách sạn thì lợi nhuận có thể cao hơn; Nếu người bán là các cửa hàng hoặc

siêu thị thì lợi nhuận thường thấp hơn, do các cơ sở này phải chịu thêm thuế VAT 5%,

trong khi các điểm bán lẻ khác chỉ nộp thuế khoán hàng năm từ khoản 500.000 đến

1.000.000 đồng/năm.

 Những khó khăn của người bán lẻ

- Chất lượng sản phẩm không ổn định. Họ cho rằng cùng một sản phẩm

nhưng chất lượng các đợt giao hàng đều khác nhau. Đây là điều tất yếu, là kết quả của

quá trình sản xuất manh mún của nông dân và mua gom hàng hóa của thương lái.

- Tồn trữ, bảo quản: Người bán lẻ là người gặp khó khăn nhất trong khâu

tồn trữ và bảo quản gạo vì thông thường một cơ sở bán lẻ có rất nhiều loại gạo khác

nhau, diện tích kho bãi chật hẹp, thường kho cũng chính là nhà của họ, giao dịch bán

gạo phải thường xuyên chất xếp, khuân vác, … nên cũng cần sử dụng một lực lượng

lao động nhất định; hơn nữa họ cũng không có phương tiện và điều kiện để tái chế.

- Tiếp nhận thông tin phản hồi: Người bán lẻ giao dịch trực tiếp với

người tiêu dùng và nhận được thông tin phản hồi trực tiếp. Tuy nhiên, hiện việc tiếp

nhận cũng như truyền tải những thông tin phản hồi đến doanh nghiệp chế biến cũng

như thương lái và người trồng lúa còn rất hạn chế. Hiện nay, chỉ có các siêu thị hoặc

Metro đã làm tốt việc này.

2.2.2.5 Người tiêu dùng

 Quan niệm về gạo an toàn

Người tiêu dùng trong nước chưa có quan niệm rõ ràng về gạo an toàn,

những yếu tố mà người tiêu dùng quan tâm chỉ dừng lại ở mức là độ sạch, không tập

chất (bông cỏ, sạn, …)

 Cảm nhận về chất lượng gạo

Khi 154 người tiêu dùng được hỏi (theo kết quả điều tra khách hàng của

Công ty Lương thực Sông Hậu năm 2008) về so sánh các chỉ tiêu: chất lượng tốt, giá cả

hợp lý, uy tín thương hiệu và cách phục vụ trước khi quyết định mua gạo. Thì có 82

người cho rằng chất lượng tốt là quan trọng nhất, 61 người trả lời giá cả hợp lý, chỉ có

44

6 người quan tâm đến cách phục vụ và 5 người quan tâm uy tín thương hiệu. Như vậy,

kết quả khảo sát cho thấy người tiêu dùng rất quan tâm đến chất lượng gạo. Tuy nhiên,

khi tìm hiểu kỹ khách hàng thì thấy rằng người tiêu dùng chỉ cảm nhận thông qua chất

lượng ở dạng cảm giác (thơm, mềm, dẻo, xốp, …), nhìn mặt gạo bên ngoài. Khi đi mua

gạo người tiêu dùng thường chủ yếu là nghe qua những lời quảng cáo của cở sở bán lẻ/

cửa hàng, và thường chủ yếu là dựa vào sự tin tưởng lẫn nhau.

Người tiêu dùng nước ngoài cảm nhận thông qua thương hiệu (do đó sản xuất

đòi hỏi phải truy nguyên được nguồn gốc, …) Họ sẵn sàng trả giá cao hơn nếu sản phẩm

gạo được sản xuất theo đúng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt toàn cầu (Global

GAP). Ví dụ như gạo Basmati (Ấn Độ), Khawdak Mali (Thái Lan), … nếu bán trên thị

trường Mỹ hay Nhật giá thông thường từ 700-800USD/tấn, cao hơn 1,5 lần đối với sản

phẩm gạo thơm của Việt Nam bán trên thị trường nước ngoài (mặt dù không thua kém về

chất lượng như Nàng Thơm Chợ Đào, Tám Xoan Nam Định).

Khi được hỏi về chất lượng hạt gạo Việt Nam, đa số doanh nghiệp nước ngoài

đều cho rằng “Chất lượng gạo của Việt Nam thường không ổn định, cùng một loại gạo đặc

sản, nhưng độ đồng đều của hạt gạo không có, chất lượng thì vụ đông xuân khác vụ hè thu.

Điều này làm cho giá trị hạt gạo Việt Nam thua kém so với Thái Lan”.

 Những vấn đề của người tiêu dùng

- Người tiêu dùng trong nước

+ Hầu hết người tiêu dùng chưa quan tâm đến gạo an toàn mà chỉ quan

tâm đến gạo ngon.

+ Không thích gạo đóng gói vì cho rằng như thế họ phải trả thêm chi phí.

+ Không biết đang ăn gạo Việt mang hồn ngoại;

+ Thông thường khi quyết định mua gạo người tiêu dùng chỉ nhớ tên của

– Người tiêu dùng ở các nước nhập khẩu (nhất là các nước phát triển)

loại gạo mà ít nhớ đến thương hiệu hoặc tên doanh nghiệp chế biến.

luôn đòi hỏi khắt khe về chất lượng, cần phải truy nguyên được nguồn gốc, sản

phẩm phải được sản xuất và chế biến theo quy trình chặt chẽ, …

45

2.2.3 Phân tích kinh tế chuỗi giá trị lúa gạo

2.2.3.1 Giá trị gia tăng (GTGT) chuỗi lúa gạo tiêu thụ nội địa

Đơn vị tính: đồng/kg

Chỉ tiêu giá trị

ĐVT

Thương lái

DN chế biến

Tổng cộng

Người trồng lúa 2.804 3.800 2.923 877 0

5.150 4.935 1.350 1.135

6.050 5.650 900 500

CH bán lẻ/Siêu thị 6.550 6.200 500 150

3.627 1.785

877

215

400

350

1.842

47,61

11,67

21,72

19,00

100,00

đ/kg Giá bán lúa đ/kg Giá bán quy gạo đ/kg Tổng chi phí đ/kg Giá trị gia tăng Chi phí tăng thêm đ/kg Lợi nhuận (GTGT thuần) % lợi nhuận

đồng %

Nguồn: Điều tra của tác giả tính theo giá bình quân từ tháng 1 đến tháng 6/2009

Bảng 2-4 : GTGT chuỗi lúa gạo tiêu thụ nội địa (25% tấm)

Biểu đồ 1: Chuỗi giá trị gạo 25% tấm tiêu thụ nội địa

100%

90%

350 150 400

5,34 2,29 6,11

80%

500 215

7,63 3,28

Lợi nhuận của CH/SThị/nhà nhập khẩu Chi phí GT của CH/SThị/nhà nhập khẩu Lợi nhuận của doanh nghiệp

70%

1.135

17,33

60%

Chi phí GT của doanh nghiệp

877

13,39

50%

Lợi nhuận của thương lái

40%

Chi phí GT của thương lái

30%

2.923

44,63

Lợi nhuận của nông dân

20%

10%

Giá thành sản xuất của nông dân

0%

Số tiền (đồng)

Tỷ trọng %

46

Đơn vị tính: đồng/kg

Chỉ tiêu giá trị

ĐVT

Thương lái

DN chế biến

CH bán lẻ/ Siêu thị

Tổng cộng

Người trồng lúa 3.954 5.250 4.375 875 0

6.970 6.750 1.720 1.500

8.500 8.190 1.530 1.220

9.500 8.914 1.000 414

5.125 3.134

875

220

310

586

1.991

43,95

11,05

15,57

29,43

100,00

đ/kg Giá bán lúa đ/kg Giá bán quy gạo đ/kg Tổng chi phí Giá trị gia tăng đ/kg Chi phí tăng thêm đ/kg Lợi nhuận (GTGT thuần) % lợi nhuận

đồng %

Nguồn: Điều tra của tác giả tính theo giá bình quân từ tháng 1 đến tháng 6/2009

Bảng 2-5 : GTGT chuỗi lúa gạo thơm tiêu thụ nội địa (Jasmine)

Biểu đồ 2: Chuỗi giá trị gạo thơm Jasmin tiêu thụ nội địa

100%

90%

586 414 310

6,17 4,36 3,26

80%

1.220

12,84

220

2,32

70%

Lợi nhuận của CH/SThị/nhà nhập khẩu Chi phí GT của CH/SThị/nhà nhập khẩu Lợi nhuận của doanh nghiệp

1.500

15,79

60%

Chi phí GT của doanh nghiệp

875

9,21

50%

Lợi nhuận của thương lái

40%

Chi phí GT của thương lái

30%

Lợi nhuận của nông dân

4.375

46,05

20%

Giá thành sản xuất của nông dân

10%

0%

Số tiền (đồng)

Tỷ trọng %

Qua phân tích GTGT của 2 chuỗi gạo thông dụng 25% tấm và chuỗi giá trị

gạo thơm tiêu thụ nội địa, ta thấy chi phí sản xuất của nông dân chiếm tỷ trọng từ

44-46% trong tổng giá trị của chuỗi lúa gạo, còn lại 56-54% bao gồm chi phí tăng thêm

và lợi nhuận của tất cả các bên tham gia chuỗi, trong đó:

- Nếu với giá bán lẻ của gạo thông dụng 25% tấm là 6.550 đồng/kg, sau khi

trừ đi chi phí sản xuất 2.923 đồng/kg, và chi phí gia tăng trong toàn chuỗi

1.875đồng/kg, phần lợi nhuận của toàn chuỗi là 1.842 đồng/kg. Phần lợi nhuận này

phân phối cho nông dân sản xuất lúa là 877 đồng/kg (chiếm 47,61%), thương lái là 215

đồng/kg (chiếm 11,67%), doanh nghiệp chế biến là 400đồng/kg (chiếm 21,72%) và hệ

thống bán lẻ là 350đồng/kg (chiếm 19%). (xem bảng 2-4, biểu đồ 1).

47

- Với giá bán lẻ của gạo thơm Jasmine là 9.500 đồng/kg, sau khi trừ đi chi phí

sản xuất 4.375 đồng/kg, và chi phí gia tăng trong toàn chuỗi 3.134đồng/kg, phần lợi

nhuận của toàn chuỗi là 1.991 đồng/kg. Phần lợi nhuận này phân phối cho nông dân

sản xuất lúa là 875 đồng/kg (chiếm 43,95%), thương lái là 220 đồng/kg (chiếm

11,05%), doanh nghiệp chế biến là 310 đồng/kg (chiếm 15,57%), và hệ thống bán lẻ là

586 đồng/kg (chiếm 29,34%). (xem bảng 2-5, biểu đồ 2).

2.2.3.2 Giá trị gia tăng (GTGT) chuỗi lúa gạo xuất khẩu

Đơn vị tính: đồng/kg

Chỉ tiêu giá trị

ĐVT

Thương lái

DN chế biến

DN Nhập khẩu

Tổng cộng

Người trồng lúa 2.804 3.800 2.923 877 0

5.150 4.935 215 1.135

6.248 5.650 598 500

6.694 6.350 344 102

1.689 1.635

đồng

344

2.033

877

215

598

43,13

10,57

29,39

16,91

100,00

Giá bán lúa đ/kg Giá bán quy gạo đ/kg Tổng chi phí đ/kg đ/kg Giá trị gia tăng Chi phí tăng thêm đ/kg Lợi nhuận (GTGT thuần) % lợi nhuận

%

Nguồn: Điều tra của tác giả tính theo giá bình quân từ tháng 1 đến tháng 6/2009

Bảng 2-6 : GTGT chuỗi gạo 25% tấm xuất khẩu (bán FOB)

Biểu đồ 3: Chuỗi giá trị gạo 25% tấm xuất khẩu

100%

90%

344 102 598

5,14 1,53 8,93

80%

500 215

7,47 3,21

70%

Lợi nhuận của CH/SThị/nhà nhập khẩu Chi phí GT của CH/SThị/nhà nhập khẩu Lợi nhuận của doanh nghiệp

1.135

16,96

60%

Chi phí GT của doanh nghiệp

877

13,10

50%

Lợi nhuận của thương lái

40%

Chi phí GT của thương lái

30%

2.923

43,67

20%

Lợi nhuận của nông dân

10%

0%

Giá thành sản xuất của nông dân

Số tiền (đồng)

Tỷ trọng %

48

Tương tự, của 2 chuỗi gạo thông dụng 25% tấm và chuỗi giá trị gạo thơm tiêu

thụ nội địa. Chuỗi gạo thông dụng 25% tấm và chuỗi giá trị gạo thơm xuất khẩu cho

thấy, chi phí sản xuất của nông dân chiếm tỷ trọng từ 43-47% trong tổng giá trị của

chuỗi lúa gạo, còn lại 57-53% bao gồm chi phí tăng thêm và lợi nhuận của tất cả các

bên tham gia chuỗi, trong đó:

- Với giá bán lẻ của gạo thông dụng 25% tấm là 6.694 đồng/kg, sau khi trừ đi chi

phí sản xuất 2.923 đồng/kg, và chi phí gia tăng trong toàn chuỗi 1.635đồng/kg, phần lợi

nhuận của toàn chuỗi là 2.033 đồng/kg. Phần lợi nhuận này phân phối cho nông dân sản

xuất lúa là 877 đồng/kg (chiếm 43,13%), thương lái là 215 đồng/kg (chiếm 10,57%),

doanh nghiệp chế biến là 598 đồng/kg (chiếm 29,39%), và doanh nghiệp nhập khẩu là 344

đồng/kg (chiếm 16,91%). (xem bảng 2-6, biểu đồ 3).

Đơn vị tính: đồng/kg

Chỉ tiêu giá trị

ĐVT

Thương lái

DN chế biến

DN Nhập khẩu

Tổng cộng

Người trồng lúa 3.954 5.250 4.375 875 0

6.970 6.750 1.720 1.500

8.747 8.190 1.777 1.220

9.282 8.914 536 168

4.907 2.888

875

220

557

368

2.020

43,33

10,89

27,56

18,22

100,00

đ/kg Giá bán lúa đ/kg Giá bán quy gạo đ/kg Tổng chi phí Giá trị gia tăng đ/kg Chi phí tăng thêm đ/kg Lợi nhuận (GTGT thuần) % lợi nhuận

đồng %

Nguồn: Điều tra của tác giả tính theo giá bình quân từ tháng 1 đến tháng 6/2009

Bảng 2-7 : GTGT chuỗi gạo thơm Jasmine xuất khẩu (bán FOB)

Biểu đồ 4: Chuỗi giá trị gạo thơm Jasmin xuất khẩu

100%

368 168 557

3,96 1,80 6,00

90%

1.220

13,14

80%

220

2,37

70%

Lợi nhuận của CH/SThị/nhà nhập khẩu Chi phí GT của CH/SThị/nhà nhập khẩu Lợi nhuận của doanh nghiệp

1.500

16,16

60%

Chi phí GT của doanh nghiệp

875

9,43

50%

Lợi nhuận của thương lái

40%

Chi phí GT của thương lái

30%

Lợi nhuận của nông dân

4.375

47,13

20%

Giá thành sản xuất của nông dân

10%

0%

Số tiền (đồng)

Tỷ trọng %

49

- Với giá bán lẻ của gạo thơm Jasmine là 9.282 đồng/kg, sau khi trừ đi chi phí

sản xuất 4.375 đồng/kg, và chi phí gia tăng trong toàn chuỗi 2.888đồng/kg, phần lợi

nhuận của toàn chuỗi là 2.020 đồng/kg. Phần lợi nhuận này phân phối cho nông dân

sản xuất lúa là 875 đồng/kg (chiếm 43,33%), thương lái là 220 đồng/kg (chiếm

10,89%), doanh nghiệp chế biến là 557 đồng/kg (chiếm 27,56%), và doanh nghiệp

nhập khẩu là 568 đồng/kg (chiếm 18,22%). (xem bảng 2-7, biểu đồ 4).

Ở đây đối với kênh xuất khẩu, chuỗi chỉ được phân tích tới doanh nghiệp nhập

khẩu (chủ yếu là trung gian nhập khẩu thông qua văn phòng đại diện tại Việt Nam),

chưa xác định được giá trị chuỗi đến người tiêu dùng cuối cùng ở nước nhập khẩu.

Ngoài ra, xuất khẩu của các doanh nghiệp chủ yếu là giá FOB (TPHCM), do đó phần

giá trị tăng thêm ở khâu này được hiểu là giá trị của các trung gian nhập khẩu. Nếu so

với giá bán lẻ gạo cho người tiêu dùng ở nước nhập khẩu thì giá xuất khẩu của các

doanh nghiệp Việt Nam còn chênh lệch khá lớn (chỉ bằng 2/3 giá bán lẻ).

2.2.3.3 So sánh GTGT chuỗi lúa gạo tiêu thụ nội địa và xuất khẩu

So sánh chuỗi giá trị tiêu thụ nội địa và xuất khẩu(xem bảng 2-8, biểu đồ 5,

6), ta thấy: vì gạo Việt Nam chủ yếu xuất khẩu theo giá FOB và qua trung gian. Do

vậy, trong chuỗi giá trị gạo xuất khẩu chưa tính giá trị đến người tiêu dùng cuối cùng ở

nước nhập khẩu, phần giá trị gia tăng của nông dân, thương lái và doanh nghiệp chế

biến trong chuỗi xuất khẩu cũng không có sự chênh lệch nhiều so với chuỗi nội địa.

Đối với gạo 25% tấm: Tổng GTGT toàn chuỗi là 1.842 đồng/kg đối với chuỗi

nội địa và 2.034 đồng đối với xuất khẩu. Ở 2 chuỗi này, GTGT của nông dân là cao

nhất (47,61 & 43,12%), kế đến là GTGT của doanh nghiệp (21,72% & 29,40%), tiếp

theo là GTGT của hệ thống bán lẻ/trung gia nhập khẩu ( 19% & 16,91%), sau cùng là

thương lái (11,67% & 10,57%). Do có tác nhân bán lẻ nên chi phí trong kênh tiêu thụ

nội địa cao hơn so với xuất khẩu là : 4.708 – 4.660 = 48 đồng/kg, kéo theo GTGT của

chuỗi xuất khẩu cao hơn nội địa là : 2.034 – 1.842 = 192 đồng/kg. Phần GTGT này

phần lớn do doanh nghiệp hưởng (vì tỷ trọng GTGT của doanh nghiệp tăng lên từ

21,72% khi tiêu thụ nội địa lên 29,40% khi xuất khẩu).

50

Xuất khẩu

Chỉ tiêu

STT

Số tiền (đồng)

Tỷ trọng theo nhóm

Tỷ trọng theo nhóm

Số tiền (đồng)

Bảng 2-8 : So sánh GTGT chuỗi lúa gạo tiêu thụ nội địa & xuất khẩu Tiệu thụ nội địa Tỷ lệ % trong chuỗi

Tỷ lệ % trong chuỗi

100

100

I/.

6.550 1.842

28,12

100%

30,38

100%

6.694 2.034

19,00% 21,72% 11,67% 47,61%

1 2 3 4

350 400 215 877 4.708

5,34 6,11 3,28 13,39 71,88

344 598 215 877 100% 4.660

5,14 8,93 3,21 13,1 69,63

16,91% 29,40% 10,57% 43,12% 100%

150

2,29

3,19%

102

1,53

5

Giá bán gạo 25% Tổng lợi nhuận Lợi nhuận của hệ thống bán lẻ/Trung gian nhập khẩu Lợi nhuận của doanh nghiệp Lợi nhuận của thương lái Lợi nhuận của nông dân Tổng chi phí Chi phí của hệ thống bán lẻ/Trung gian nhập khẩu

500

7,63

10,61%

500

7,47

6

Chi phí của doanh nghiệp

Chi phí của thương lái

1.135

17,33

24,11%

1.135

16,96

7

8 II/.

2.923 9.500 1.991

44,63 100% 20,96

62,09% 100%

2.923 9.282 2.020

43,67 100% 21,76

2,19% 490,20 % 227,00 % 257,53 % 100%

1 2 3 4

586 310 220 875 7509

6,17 3,26 2,32 9,21 79,04

29,44% 15,55% 11,07% 43,94% 100%

368 557 220 875 7263

3,96 6 2,37 9,43 78,23

18,20% 27,57% 10,89% 43,34% 100%

5 6 7 8

Giá thành sản xuất của Ndân Giá bán gạo thơm Jasmine Tổng lợi nhuận Lợi nhuận của hệ thống bán lẻ/Trung gian nhập khẩu Lợi nhuận của doanh nghiệp Lợi nhuận của thương lái Lợi nhuận của nông dân Tổng chi phí Chi phí của hệ thống bán lẻ/Trung gian nhập khẩu Chi phí của doanh nghiệp Chi phí của thương lái Giá thành sản xuất của Ndân

5,52% 16,24% 19,98% 58,26%

414 1.220 1.500 4.375

168 1.220 1.500 4.375

1,8 13,14 16,16 47,13

4,36 2,30% 12,84 16,80% 15,79 20,66% 46,05 60,25% Nguồn: Điều tra của tác giả tính theo giá bình quân từ tháng 1 đến tháng 6/2009

Biểu đồ 5: So sánh lợi ích các bên tham gia chuỗi gạo 25% tấm

120%

100%

100%

Giá bán gạo 25%

100%

80%

Lợi nhuận của CH/SThị/nhà nhập khẩu

60%

Lợi nhuận của doanh nghiệp

48%

43%

Lợi nhuận của thương lái

40%

29%

22%

19%

17%

Lợi nhuận của nông dân

20%

12%

11%

0%

Tiêu thụ Nội địa

Xuất khẩu

51

Biểu đồ 6: So sánh lợi ích các bên tham gia chuỗi gạo thơm Jasmin

120%

100%

100%

Giá bán gạo thơm Jasmine

100%

80%

Lợi nhuận của CH/SThị/nhà nhập khẩu

Lợi nhuận của doanh nghiệp

60%

44%

43%

Lợi nhuận của thương lái

40%

29%

28%

18%

Lợi nhuận của nông dân

16%

20%

11%

11%

0%

Tiêu thụ Nội địa

Xuất khẩu

Đối với gạo thơm Jasmine: Tổng GTGT toàn chuỗi là 1.991 đồng/kg đối với

chuỗi nội địa và 2.020 đồng đối với xuất khẩu. Ở 2 chuỗi này GTGT của nông dân là

cao nhất (43,94 & 43,34%), kế đến là GTGT của doanh nghiệp (15,55% & 27,57%),

tiếp theo là GTGT của hệ thống bán lẻ/trung gia nhập khẩu ( 29,44% & 18,20%), sau

cùng là thương lái (11,07 & 10,89%). Do có tác nhân bán lẻ nên chi phí trong kênh

tiêu thụ nội địa cao hơn so với xuất khẩu là : 7.509 – 7.263 = 246 đồng/kg, kéo theo

GTGT của chuỗi xuất khẩu cao hơn nội địa là : 2.020 – 1.991= 29 đồng/kg. Phần

GTGT này phần lớn do doanh nghiệp hưởng (vì tỷ trọng GTGT của doanh nghiệp tăng

lên từ 15,55% khi tiêu thụ nội địa lên 27,57% khi xuất khẩu).

2.2.3.4 Phân tích tổng hợp chuỗi lúa gạo tiêu thụ nội địa và xuất khẩu

Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong điều kiện sản xuất bình thường (không

bị lũ lụt, thiên tai, dịch bệnh phá hoại), thị trường gạo trong nước và trên thế giới

không có những biến động lớn (có liên quan đến an ninh lương thực các quốc gia), thì

dù là chuỗi gạo thường hay gạo thơm, tiêu thụ nội địa hay xuất khẩu, phần GTGT của

người trồng lúa vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất, kế đến là doanh nghiệp chế biến, tiếp theo là

hệ thống bán lẻ/trung gian nhập khẩu và sau cùng là thương lái.

Đối với nông dân trồng lúa, lợi nhuận trong các chuỗi giá trị luôn đạt từ

43-48%, tương đương với 875-877 đồng/kg gạo cao nhất trong các tác nhân tham gia

chuỗi. Vậy thì tại sao đời sống của nông dân trồng lúa luôn gặp khó khăn?

52

Như phần phân tích mối liên kết và lợi ích của nông dân trong chuỗi cho

thấy, nếu một hộ gia đình trồng lúa có 1ha đất canh tác, 4 nhân khẩu/hộ, sản xuất 2 vụ

trên năm, thu nhập bình quân 17 triệu đồng/vụ. Thì thu nhập của hộ gia đình trên năm

là 34 triệu đồng/hộ hay 8,5 triệu đồng/người/năm, chỉ bằng gần một nửa so với mức

thu nhập bình quân chung đầu người ở Cần Thơ năm 2007 (18.190.000 đồng hay

1.124USD/người). Rõ ràng, thu nhập của người trồng lúa không thể bù đắp cho chi phí

sinh hoạt trong hộ. Nguyên nhân của tình trạng này ngoài việc quản lý chuỗi cung ứng

hiện nay chưa hiệu quả, nên chất lượng hạt gạo thấp, dẫn đến giá bán thấp, còn có yếu

tố về hạn điền, tập quán sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, thiếu sự liên kết giữa người trồng

lúa để tạo ra vùng nguyên liệu lúa có chất lượng cao, thiếu thông tin và dự báo thông

tin, … dẫn dến chất lượng sản phẩm làm ra chưa đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng.

Đối với doanh nghiệp, phân tích sâu trong chuỗi giá trị cho thấy, dù là chế

biến và tiêu thụ gạo thường hay gạo thơm, thì khi xuất khẩu vẫn cho lợi nhuận cao hơn

so với tiêu thụ nội địa từ 7-12%. Điều này giải thích tại sao đa số các doanh nghiệp chế

biến chỉ quan tâm đến thị trường xuất khẩu mà ít chú ý đến thị trường nội địa, nếu có

cũng chỉ là thực hiện nhiệm vụ chính trị là đảm bảo an ninh lương thực trong nước.

Đối với thương lái, trong các chuỗi phân tích dù cho lợi nhuận của doanh

nghiệp, và hệ thống phân phối có nhiều thay đổi, nhưng đối với thương lái vẫn giữ

mức từ 10-12%. Là người có tỷ lệ GTGT thấp nhất trong chuỗi nên họ thường phải cố

gắng nâng cao giá trị tăng thêm cho mình. Và vì đầu ra của họ phụ thuộc hoàn toàn vào

các doanh nghiệp chế biến nên cách duy nhất mà họ có thể thực hiện là tìm giá trị từ

nông dân trồng lúa, làm cho đời sống nông dân càng thêm khó khăn.

2.3 Phân tích lợi thế cạnh tranh ngành hàng lúa gạo

Theo phân tích của Vụ Xuất nhập khẩu (Bộ Thương mại), mặt hàng gạo Việt

Nam đang có nguy cơ giảm dần các lợi thế cạnh tranh do tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch

cao, công nghệ chế biến thấp, đồng thời chưa xây dựng được thương hiệu xứng tầm.

Các chuyên gia thuộc Vụ Xuất nhập khẩu đã chỉ ra rằng, tỷ lệ tổn thất sau thu

hoạch cao cũng như chưa có một ngành công nghiệp chế biến sau gạo phát triển, chính

là lý do khiến gạo Việt Nam mất dần lợi thế cạnh tranh.

Phẩm cấp thấp và sự kém đa dạng về chủng loại cũng là một bất lợi lớn của gạo

Việt Nam. Trong khi gạo chất lượng cao (5-10% tấm) của Việt Nam được đánh giá là

53

đã tăng đáng kể từ 14,2% năm 1990 lên hơn 40% vào năm 2000 thì ở Thái Lan, tỷ lệ

này thường xuyên chiếm trên 70% tổng lượng xuất khẩu và tiếp tục tăng do các nhà

sản xuất nước này đang nghiên cứu để cho ra đời những giống mới có chất lượng cao

hơn.

Ở Thái Lan, tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch chỉ khoảng 7-10%. Còn ở Việt Nam, tỷ

lệ này chiếm tới 13-16%. Còn về công nghệ chế biến, mặc dù các nhà máy chế biến

gạo xuất khẩu của Việt Nam có công nghệ và thiết bị ở trình độ tương đương với Thái

Lan, song 80% lượng thóc của Việt Nam lại được xay xát và chế biến tại các cơ sở nhỏ

và các hộ nông dân không được trang bị đồng bộ về phơi sấy và kho chứa nên chất

lượng gạo chế biến giảm đi rất nhiều.

Công nghệ chế biến tại các Chợ lúa gạo mặt dù đã được đầu tư mới, hệ thống

kho bãi dữ trự lúa gạo đạt chuẩn Việt Nam, ngoài hệ thống kho, silô chứa lúa, … tại

các chợ còn có hệ thống sấy, xay xát, lau bóng, tách màu, đóng gói liên hoàn với nhau

để xuất khẩu, … Tuy nhiên, việc khai thác sử dụng hệ thống thiết bị này còn hạn chế.

Gần 80% giao dịch lúa gạo tại Chợ vẫn là nguyên liệu gạo lứt đã qua xay xát từ các cở

sở xay xát nhỏ, công nghệ lạc hậu nên chất lượng gạo chế biến mặt dù có tăng hơn so

với các doanh nghiệp khác nhưng chưa đáng kể.

Ngoài ra các sản phẩn chế biến từ gạo chưa phong phú, đa dạng, phụ phẩm

(trấu, cám, …) vẫn chưa được các doanh nghiệp khai thác một cách hiệu quả hơn. (Ví

dụ: trấu có thể nén thành viên để làm chất đốt không thua kém so với than bùn, cám

tươi ngoài việc cung cấp cho các doanh nghiệp chế biến thức ăn gia súc còn có thể

cung cấp cho các nhà máy chế sản xuất dầu ăn, …)

Để thấy rõ lợi thế cạnh tranh của ngành hàng lúa gạo và khả năng đảm bảo sản

xuất trong nước tại các địa phương khảo sát, qua số liệu tổng hợp chi phí và giá bán

nội địa cũng như xuất khẩu, ta tính được hệ số bảo toàn hiệu quả ngành hàng lúa gạo

như sau:

Giá nội địa – Chi phí đầu vào nội địa EPC = %

Giá xuất khẩu - Chi phí đầu vào xuất khẩu Giá trị tăng thêm ở mức giá nội địa Hoặc EPC = % Giá trị tăng thêm ở mức giá xuất khẩu

54

Theo cách tính này hệ số bảo toàn hiệu quả ngành hàng lúa gạo tại các địa

phương khảo sát là 90,56% đối với gạo 25% tấm và 98,56% đối với gạo thơm. Ở 2

chuỗi gạo thường và gạo thơm đều có hệ số bảo toàn hiệu quả < 1, điều này chứng tỏ

sản phẩm gạo tại các địa phương khảo sát có lợi thế cạnh tranh và khả năng đảm bảo

sản xuất là có hiệu quả. Tuy nhiên, hệ số này chưa cao, đối với gạo thơm giá trị gia

tăng tính theo giá xuất khẩu chỉ cao hơn tiêu thụ nội địa là 1,44%, còn đối với gạo

thường 25% tấm giá trị gia tăng tính theo giá xuất khẩu cao hơn tiêu thụ nội địa được

9,44%.

Điều này lý giải tại sao các doanh nghiệp chúng ta chỉ tham gia vào phân khúc

thị trường gạo cấp thấp. So sánh với Thái Lan thì cơ cấu xuất khẩu của họ gần như

ngược lại với Việt Nam. Trong cơ cấu gạo xuất khẩu của Thái Lan diện gạo thơm và

gạo cao cấp đã chiếm tới 45%, còn trong 55% gạo còn lại phần lớn là gạo 100% B và

gạo 5% tấm. Do cơ cấu hàng hóa xuất khẩu như vậy, thực trạng đáng buồn là, mỗi khi

khách hàng chọn đối tác để ký hợp đồng, nếu là gạo cao cấp và cao giá thì họ chọn

Thái Lan, còn gạo thấp cấp và giá rẻ thì họ đến với chúng ta. Và do vậy giá xuất khẩu

trung bình một tấn gạo của Việt Nam luôn thấp. Nếu tính theo giá bình quân mỗi tấn

gạo xuất khẩu thì Thái Lan thường cao hơn của chúng ta từ 10-20% (xem phụ lục).

2.4 Sản xuất theo hợp đồng trong chuỗi giá trị lúa gạo

Việt Nam đã đạt được những bước tiến đầy ấn tượng trong việc sản xuất gạo

cũng như sản lượng gạo xuất khẩu trong 20 năm qua. Tuy nhiên, thu nhập của nông

dân và giá trị gạo xuất khẩu vẫn còn thấp. Trong những năm gần đây, các cơ quan

Chính phủ và nhiều nhà tài trợ địa phương đã hợp tác giải quyết những vấn đề này

bằng việc cải thiện chất lượng gạo và ổn định giá gạo, hình thức hợp đồng được

khuyến khích sử dụng như là một chiến lược để nâng cao quản lý chất lượng trong

chuỗi cung cấp và ổn định thu nhập cho nông dân.

Quyết định 80/QĐ-TTg của Chính phủ đã ra đời trong hoàn cảnh đó, theo đó đã

có nhiều hợp đồng được ký giữa nông dân và các công ty. Ngoài ra, Ngày 5-2-2008,

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định 26/2008/QĐ/TTG quy định một số cơ

chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội đối với các tỉnh, thành ĐBSCL đến

năm 2010. Trong đó, nêu rõ mục tiêu, chỉ tiêu phát triển đối với lĩnh vực thương mại –

dịch vụ đến năm 2010: Mở rộng mạng lưới thương mại để tiêu thụ hàng hóa nông sản.

55

Phát triển các chợ đầu mối, chợ đường biên với Campuchia. Đến năm 2010, có trên

60% số hộ nông dân được sản xuất và tiêu thụ hàng hóa theo hợp đồng, có địa chỉ rõ

ràng. Điều này cho thấy, vai trò của nông dân – người trực tiếp sản xuất ra hàng hóa

rất quan trọng trong mối quan hệ tương tác với các chợ.

2.4.1 Các hình thức hợp đồng trong tiêu thụ lúa

Trên ngành hàng lúa gạo tại các địa phương khảo sát điều tra có 4 hình thức

giao dịch mua bán phổ biến, đó là:

(1) Mua bán tự do thông qua mạng lưới thương nhân nhỏ (người thu gom,

thương lái);

(2) Mua bán theo hình thức ký kết hợp đồng giữa doanh nghiệp với hộ nông

dân;

(3) Mua bán thông qua hợp đồng giữa doanh nghiệp với các hợp tác xã, tổ,

nhóm, chủ hợp đồng là tổ chức và cá nhân đại diện cho nông dân;

(4) Mua bán giao dịch tại các chợ trung tâm nông sản.

Ngoài ra còn có một số hình thức khác như: Một số doanh nghiệp, Công ty,

Hiệp hội đã xây dựng hệ thống liên kết từ người sản xuất, người mua gom và các tác

nhân khác trong hệ thống phân phối; Nông dân ký gửi lúa gạo tại các doanh nghiệp,

ứng tiền trước và thanh toán trừ dần.

2.4.2 Tình hình thực hiện hợp đồng

theo hình thức tự do Mua bán 2.4.2.1 không có hợp đồng được đánh giá là có

nhiều điểm mạnh, phù hợp với thói quen và tập quán mua bán truyền thống của nông

dân, nên nó được áp dụng phổ biến hiện nay.

Thông thường thỏa thuận miệng được áp dụng giữa nông dân và thương lái

cho các phương thức buôn bán sau:

Định giá tại ruộng lúa: Trước khi lúa chín, thương lái định giá cho lúa tươi tại

ruộng. Giá cả vẫn không thay đổi ngay cả khi giá cả thị trường dao động. Phương pháp

này thường được áp dụng cho những mãnh ruộng lớn. Ở hình thức này không có sự

phơi, sấy và làm sạch lúa sau thu hoạch, mua bán bằng tiền mặt. Giá cả thỏa thuận bởi

nông dân và thương lái.

Thông thường trong trường hợp này thời điểm mua bán thường vào đầu vụ,

khi thị trường đang hút hàng nên được giá hơn so với chính vụ.

56

Định giá tại cơ sở xay xát: Khi thương lái mua trong ngày, họ thường chọn

những cơ sở xay xát để chọn mua gạo nguyên liệu (sau khi được phơi sấy và xay xát).

Thương lái trong trường hợp này đóng vay trò là người mua gom từ những nông dân

có quy mô canh tác nhỏ, sau khi tập kết đầy phương tiện vận chuyển, sẽ chuyển ngay

đến bán cho các doanh nghiệp chế biến hoặc doanh nghiệp xuất khẩu.

Tuy nhiên giao dịch mua bán theo hình thức này có một số điểm hạn chế: Phân

tích sâu theo chuỗi giá trị, hình thức giao dịch này chứa đựng một số khâu trung gian

không làm thay đổi hình thái hiện vật, không nâng cao chất lượng sản phẩm, nhưng

vẫn gia tăng giá chủ yếu do để đảm bảo lợi nhuận của các nhóm tác nhân trung gian.

Giao dịch theo hình thức này người sản xuất chưa tiếp cận sát với nhà chế biến, nhà

xuất khẩu. Các nhà chế biến, xuất khẩu không quản lý được chất lượng sản phẩm, nên

thông thường sản phẩm làm ra có chất lượng không cao.

dịch theo hình thức hợp đồng bằng văn bản Giao 2.4.2.2 (kể cả hợp đồng trực

tiếp giữa doanh nghiệp với từng hộ (2) và hợp đồng với HTX, tổ nhóm hộ nông dân

(3)) có nhiều ưu thế, có thể khái quát trên “4 ổn định”: ổn định vùng nguyên liệu; ổn

định và đồng đều về chất lượng sản phẩm; ổn định khách hàng; từ đó tạo điều kiện cho

doanh nghiệp ổn định và phát triển sản xuất - kinh doanh.

Quyết định 80/2002/QĐ-TTg về khuyến khích tiêu thụ nông sản thông qua hợp

đồng, đặt mục tiêu là đến năm 2005 ít nhất 30% và đến năm 2010 có trên 50% sản

lượng nông sản hàng hóa của một số ngành sản xuất hàng hóa lớn được tiêu thụ thông

qua hợp đồng. Kể từ đó xuất hiện phong trào sản xuất theo hợp đồng và liên kết 4 nhà.

Nhiều doanh nghiệp trên địa bàn đã tích cực triển khai và đã đạt kết quả tốt, một số

doanh nghiệp đã thực hiện thành công việc ký kết hợp đồng tiêu thụ nông sản với nông

dân như Công ty nông nghiệp Sông Hậu, Công ty nông nghiệp Cờ Đỏ, Công ty

MeKong. Ngoài ra, các doanh nghiệp trong hệ thống TCT Lương thực Miền Nam ở

các địa phương khác cũng có các doanh nghiệp tổ chức thực hiện như Công ty lương

thực Tiền Giang, Công ty Lương thực Long An, Công ty Lương thực Đồng Tháp,

Công ty Lương thực An Giang, Công ty Lương thực Sông Hậu.

Việc tổ chức sản xuất theo hợp đồng đối với các doanh nghiệp thuộc TCT

Lương thực Miền Nam diễn ra không thường xuyên, chủ yếu tập trung vào những

vùng, địa phương có điều kiện sản xuất lúa hàng hóa có chất lượng cao như Tiền

57

Giang, An Giang, … Hai năm 2002 và 2005 là những năm các doanh nghiệp thuộc

TCT Lương thực Miền Nam có khối lượng đạt kết quả cao nhất. Kết quả cho thấy quy

mô diện tích thực hiện sản xuất theo hợp đồng năm 2005 giảm so với 2002, nhưng sản

lượng ký kết, sản lượng thực hiện cũng như tỷ lệ đảm bảo thực hiện hợp đồng năm

2005 tăng hơn so với 2002. Điều này cho thấy các doanh nghiệp thuộc TCT đã triển

khai thực hiện sản xuất theo hợp đồng theo hướng có lựa chọn như chỉ ký hợp đồng ở

những vùng, HTX và hộ nông dân sản xuất lúa chất lượng cao cũng như tỷ lệ bảo đảm

hợp đồng tốt. Không thực hiện đại trà như triển khai trong những năm đầu.

Bảng 2-9: Tình hình sản xuất lúa theo hợp đồng TCT Lương thực Miền Nam

Diện tích ký Sản lượng ký Sản lượng Năm % thực hiện

2002 hợp đồng 15.000 ha Hợp đồng 46.000 Thực hiện 7.335 15,9%

trồng lúa thơm tấn lúa tấn, trên hợp đồng

----- ----- ----- -----

Trên 29.000 ha 145.000 tấn 8.979 6,1%

trồng lúa IR 64 lúa tấn

Nguồn: Vinafood2.

trên hợp đồng 32,0% 2005 10.606 ha 54.727 tấn 17.510 tấn Trên hợp đồng

Kết quả thực hiện năm

Chỉ tiêu

ĐVT

2003

2004

2005

2006

2007

6.219

7.819

Ước T.hiện 2008 4.60 0

hộ

14.166

17.456

ha

128.698

149.378

- 57.00 0

Số hộ, nhóm hộ tham gia ký kết hợp đồng Tổng diện tích ký hợp đồng Sản lượng ký hợp đồng

tấn

5.26 5 12.95 7 120.63 0 55.51 4

7.51 9 16.98 1 137.94 6 58.71 1

7.28 3 20.70 1 156.12 2 71.30 7

61.117

79.815

-

tr.đồng

89%

94%

92%

86%

83%

-

%

88%

93%

87%

93%

88%

-

%

86%

81%

81%

85%

80%

Vốn đầu tư ứng trước Tỷ lệ thu hồi theo số hộ Tỷ lệ thu hồi theo diện tích Tỷ lệ thu hồi theo sản lượng

%

87% Nguồn: Sở Nông nghiệp và PTNT TP. Cần Thơ

Bảng 2-10: Tình hình sản xuất lúa theo hợp đồng ở thành phố Cần Thơ

58

Thông thường các doanh nghiệp thường đầu tư qua hình thức cung ứng giống

xác nhận, vật tư, và một phần tiền vốn, … để phục vụ cho sản xuất; Trong năm 2007

Nông trường Cờ Đỏ có mức đầu tư 10 triệu đồng/ha, Cty Mekong năm 2007 đầu tư

khoảng 3 triệu đồng/ha, …)

Tỷ lệ thu hồi theo số hộ và sản lượng trung bình đạt trên 84%, những năm gần

đây tỷ lệ thu hồi theo sản lượng có giảm (năm 2006 và 2007 đạt 81%) do tình hình

dịch bệnh rầy nâu, bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá phần nào ảnh hưởng đến năng suất của

một số hộ tham gia ký kết hợp đồng. Bên cạnh đó, giá lúa thị trường thường tăng vào

thời điểm thu hoạch, trong khi các Công ty không điều chỉnh kịp thời giá thu mua, dẫn

đến một số hộ dân không thực hiện đúng hợp đồng đã ký kết.

Năm 2007, mặc dù quy mô số hộ, nhóm tham gia ký kết hợp đồng với các

doanh nghiệp giảm 536 hộ so với năm 2005 (năm 2005 có 7.819 hộ, năm 2007 có

7.283 hộ), nhưng diện tích ký kết hợp đồng tăng 3.245 ha so với năm 2005. Do ngành

nông nghiệp đã hình thành vùng sản xuất hàng hóa có chất lượng, vùng sản xuất theo

nhóm nông dân, cánh đồng một loại giống, … tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh

nghiệp ký kết hợp đồng với quy mô lớn (ký kết hợp đồng với tổ liên kết sản xuất, tổ

hợp tác, HTX.NN tăng) và sản phẩm đồng nhất.

Bảng 2- 11 cho thấy tỷ lệ diện tích lúa tham gia ký hợp đồng có tăng qua các

năm, song còn khá thấp, chưa đến 10% diện tích lúa trên địa bàn. Tỷ lệ về sản lượng

lúa ký kết hợp đồng cũng tăng qua các năm, nhưng tỷ lệ tăng không nhiều, một phần

tăng là do năng suất tăng. Sản lượng ký hợp đồng cao nhất năm 2007 cũng chỉ ở mức

13,56%. Nếu so với mục tiêu đề ra theo quyết định 80/2002/QĐ-TTg và quyết định

26/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ đến năm 2010 đạt từ 50 đến 60% sản

lượng hàng hóa tiêu thụ qua hợp đồng quả là còn khá xa vời.

Bên cạnh những thành tựu ở 2 Công ty Nông nghiệp Cờ Đỏ và Công ty Nông

nghiệp Sông Hậu (do đặc thù riêng ở 2 Công ty này là đất có nguồn gốc từ Nông

trường) có sản lượng cũng như tỷ lệ ký hợp đồng thành công khá cao (trên 80%), còn

lại nhiều doanh nghiệp đã thất bại trong quan hệ hợp đồng với nông dân, không mua

được nông sản do nông dân làm ra, hoặc không thu hồi được vốn đã ứng trước cho

nông dân, tình trạng vi phạm hợp đồng xảy ra khắp nơi. Nông dân đổ lỗi cho doanh

nghiệp và ngược lại. Năm 2005, Tổng công ty lương thực Miền Nam ký hợp đồng tiêu

59

thụ lúa cho nông dân trên diện tích 10.606 ha, với sản lượng là 54.727 tấn, nhưng chỉ

mua được 17.510 tấn, đạt 32,0% hợp đồng đã ký kết (Vinafood, 2006). Nhiều doanh

nghiệp khác cũng chỉ thực hiện mua được theo hợp đồng đã ký dưới 10% , tỷ lệ nợ

khó thu hồi vốn ứng trước gia tăng.

Bảng 2-11: Diện tích và sản lượng ký hợp đồng ở thành phố Cần Thơ

Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Ước 2008

226.213

229.971

231.951

222.795

207.887

-

1. Diện tích (ha)

12.957

14.166

17.456

16.981

20.701

-

Diện tích lúa cả năm

5,73

6,16

7,5

7,62

9,96

-

Diện tích lúa ký hợp đồng

Tỷ lệ (%)

1.155.575

1.194.764

1.233.705

1.153.001

1.151.000

-

2. Sản lượng (tấn)

120.630

128.698

149.378

137.946

156.122

57.000

lượng Sản lúa cả năm

Sản lượng lúa ký hợp đồng

Nguồn: Sở Nông nghiệp và PTNT TP. Cần Thơ.

- Tỷ lệ (%) 10,44 10,77 12,11 12 13,56

Sản xuất theo hợp đồng theo Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng

Chính phủ được xem một trong hình thức giao dịch nông sản tiên tiến, nhưng tại sao

lại khó hoặc không thành công trên thực tiễn?

Một trong những lý do là, đa số doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo chưa

quan tâm đến hợp đồng bao tiêu, hay chưa thấy cần thiết phải xây dựng vùng nguyên

liệu cho riêng mình. Bởi vì các doanh nghiệp vẫn còn xuất khẩu gạo theo hợp đồng ngắn

hạn và đa số vẫn xuất loại gạo thường (không phải đặc sản), gạo không thương hiệu.

Tình hình này sẽ khác đi nếu các doanh nghiệp mở rộng được thị trường tiêu thụ và ổn

định thị trường tiêu thụ gạo, có nhiều hợp đồng dài hạn, có thị trường ổn định cho gạo

thơm đặc sản. Tỷ lệ thực hiện hợp đồng thấp cũng là do áp lực thị trường chưa thật đủ

mạnh để ép cả hai bên liên kết với nhau, nên giá theo thời điểm và giá sàn là hai phương

60

thức được chọn phổ biến cho các hợp đồng bao tiêu lúa gạo hiện nay. Vì vậy, hiện tượng

cứ giá lên thì nông dân “không cần” doanh nghiệp, còn giá xuống thì doanh nghiệp

“quay lưng” với nông dân vẫn tiếp tục lặp đi lặp lại nhiều lần nhiều năm.

Ngoài ra, nhìn từ lý thuyết sản xuất theo hợp đồng trong nông nghiệp như phần

cơ sở lý luận đã trình bày, sản xuất theo hợp đồng đưa ra những luật lệ cho việc giao

dịch nông sản qua việc phân bổ thật rõ ba yếu tố chính: lợi ích, rủi ro và quyền quyết

định. Điều này có nghĩa giá cả phản ánh lợi ích, rủi ro và quyền quyết định của người

mua và người bán, phải đảm bảo người bán thu được lợi ích nhất định và người mua có

thể mua hàng với mức giá có thể chấp nhận được, cho dù vào thời điểm giao hàng, giá

thị trường có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá thỏa thuận. Nhưng Quyết định 80/QĐ-TTg

lại quy định giá sàn trong quan hệ mua bán giữa nhà nông và doanh nghiệp. Từ đó dẫn

đến khi giá cả xuống dưới “giá sàn” thì nông dân bán lúa cho doanh nghiệp, nhưng khi

giá nông sản tăng cao thì vì lợi ích trước mắt nông dân lại bán cho bất kỳ ai theo giá thị

trường, bản thân doanh nghiệp cũng không thể mua theo giá này (do đã bỏ vốn đầu tư,

cũng như đã hợp đồng đầu ra sản phẩm từ trước), nếu tăng giá đầu vào doanh nghiệp sẽ

bị lỗ. Thế là cả doanh nghiệp và nông dân đều không muốn thực hiện hợp đồng.

2.4.2.3 Giao dịch mua bán tại các chợ trung tâm nông sản bước đầu hình

thành, một số chợ lúa gạo đã phát huy tác dụng của một trung tâm thương mại, giao

dịch ở chợ trung tâm nông sản có nhiều lợi thế. Tuy nhiên hiện nay, các chợ trung tâm

nông sản mới xây dựng, hoạt động giao dịch chỉ giới hạn mua bán buôn giữa các

doanh nghiệp và thương gia trong nước, giao dịch theo hình thức giao ngay, chưa có

giao dịch thứ cấp và thị trường giao sau. Các hoạt động giao dịch mua bán hàng hóa

đều do thương nhân đảm nhận. Các Chợ Trung tâm nông sản chưa tham gia giao dịch

theo hợp đồng, chỉ thực hiện một số hoạt động dịch vụ như cho thuê mặt bằng, bốc dỡ

hàng hóa, bảo vệ an ninh và các hoạt động giao dịch, chế biến với vai trò như xí

nghiệp trực thuộc công ty.

2.4.3 Những vấn đề của sản xuất lúa theo hợp đồng

Hệ quả

Những khó khăn 1. Trình độ nhận thức, kiến thức  Điều này cũng thể hiện tính thiếu

về thị trường, về pháp luật của các chuyên nghiệp trong kinh doanh đối với

nông dân còn thấp. Nông dân xem khách hàng nước ngoài. Việc truy xét

61

hợp đồng bằng văn bản là không nguồn gốc gặp nhiều khó khăn do không

đáng tin cậy, là không tin tưởng đủ tài liệu chứng minh. Điều này làm

nhau. cho khách hàng không tin tưởng vào

doanh nghiệp.

2. Quan hệ hợp đồng không bình  Thiếu tính bền vững vì doanh nghiệp là

đẳng và cơ chế phân bổ lợi ích, rủi ro một đơn vị sản xuất kinh doanh, không

và quyền quyết định giữa các chủ thể có chức năng bảo hộ cho nông dân. Điều

chưa được xác lập rõ ràng. Cơ chế này có thể lý giải được vì sao tình trạng

giá linh hoạt theo Quyết định 80 phá vỡ hợp đồng diễn ra khắp nơi, cả

nhằm bảo vệ cho người nông dân, rũi nông dân và doanh nghiệp đều cùng

nhau bội tín.

ro nếu có do doanh nghiệp gánh chịu. 3. Áp lực thị trường chưa đủ để  Chỉ có thể cung cấp cho những thị

doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ thể truờng cấp thấp, cung cấp đảm bảo an

hiện vai trò hạt nhân trong các mô ninh lương thực các quốc gia. Chưa có

hình sản xuất theo hợp đồng như sản phẩm làm ra đáp ứng yêu cầu của

quan tâm đến chất lượng sản phẩm, người tiêu dùng cấp cao, đặt biệt là đối

chất lượng vệ sinh an toàn thực với các thị trường tiệu thụ khó tính như:

Châu Âu, Nhật, …

phẩm, … 4. Chưa có những mô hình sản  Nông dân chưa tin tưởng vào tính thực

xuất theo hợp đồng mang lại lợi ích thi của hợp đồng.

thiết thực, thật sự thu hút. 4. Điều kiện vật chất chưa đảm  Nếu bình quân một hộ nông dân sản

bảo cho việc thực hiện sản xuất theo xuất 10 tấn lúa/vụ. Để đảm bảo có

hợp đồng do sản xuất của nông dân nguồn nguyên liệu 100.000 tấn/vụ,

manh mún, phân tán. Doanh nghiệp cần ký hợp đồng với ít

nhất 10.000 hộ. Điều này đã làm tăng

5. Nông dân chưa quen với những chi phí giao dịch cho doanh nghiệp.  Cùng một chủng loại và chất lượng

quy trình kỹ thuật và một số tiêu chuẩn nhưng khi doanh nghiệp bán hàng vào

kỹ thuật khá khắc khe của lúa thơm những đợt khác nhau, vụ mùa khác nhau

đặc sản, lúa chất lượng cao. Phần lớn thì chất lượng hoàn toàn khác -> doanh

sản phẩm làm ra có chất lượng chưa nghiệp không thể xây dựng thương hiệu

đồng đều (ẩm độ, tạp chất). - > giá mua của doanh nghiệp thấp.

62

6. Thương lái không quan tâm  Hợp đồng với thương lái cũng không

nhiều đến chất lượng sản phẩm và bền vững và tính mạo hiểm là rất cao.

mối quan hệ giữa thương lái với nông Hơn nữa cơ chế quản lý về tài chánh của

dân rất lỏng lẻo, không có gì đảm bảo các doanh nghiệp nhà nước hiện nay

chắc chắn họ sẽ tiêu thụ hết sản phẩm cũng không cho phép.

cho nông dân. 7. Chủ thể trung gian chủ yếu là  Hợp đồng của doanh nghiệp với HTX

HTX nhưng các HTX vẫn chưa đủ có thực hiện nhưng còn rất hạn chế.

khả năng thực hiện vai trò của mình, Phần lớn HTX chưa thực sự là cầu nối

bản thân nông dân cũng chưa thấy giữa doanh nghiệp và nông dân.

được lợi ích thật sự của việc tham gia

vào các HTX. 8. Các HTX chưa quen với quy  HTX do thiếu phương tiện và không đủ

trình sản xuất theo ISO của các doanh vốn để thu mua lúa kịp thời cho xã viên

nghiệp, các thủ tục ứng vốn, thanh ký nên việc mua lúa từ nông dân còn

hạn chế.

toán tiền hàng thực hiện chậm. 9. Vai trò của Nhà nước, Hội  Nông dân chưa nhận thức được đầy đủ

Nông dân, các hiệp hội tham gia, các lợi ích cũng như việc giải quyết các vấn

nhà khoa học trong quá trình thực đề phát sinh trong quá trình thực hiện

hiện ký kết và triển khai hợp đồng hợp đồng. Những khó khăn, vướng mắc

tiêu thụ nông sản hàng hóa còn mờ giải quyết sẽ mất rất nhiều thời gian và

nhạt. chi phí.

Tóm lại, Hợp đồng bao tiêu lúa hàng hóa có tiềm năng mang lại lợi ích cho nông

dân, hợp tác xã và doanh nghiệp và gia tăng lợi ích cho toàn xã hội. Đây là bước phát

triển ban đầu để chuyển sang giai đoạn nông dân sản xuất theo đơn đặt hàng của thị

trường thông qua các doanh nghiệp. Các tổ chức liên kết của nông dân như: câu lạc bộ,

tổ liên kết sản xuất, hợp tác xã và hiệp hội ngành nghề có vai trò tích cực, không thể

thiếu trong chuỗi sản xuất nông nghiệp theo hợp đồng tiêu thụ của các doanh nghiệp.

Đối với doanh nghiệp, thông qua hợp đồng có thể có được nguồn lúa nguyên

liệu có phẩm chất ổn định và tương đối đồng nhất về chất lượng; Đảm bảo tính chủ

động trong kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp; Khắc phục khó khăn trong khâu

63

thu gom như: nhân sự không đủ, khó khăn trong việc kiểm soát mạng lưới thu mua,

thiếu phương tiện vận chuyển, … có điều kiện thuận lợi để phát triển thương hiệu, tạo

vị thế cạnh tranh cho doanh nghiệp.

Đối với cộng đồng nông thôn có thể đánh giá qua tác động trên chuyển biến ý

thức của người sản xuất, cần có sự hợp tác sản xuất hàng hóa trong nền kinh tế thị

trường, phát triển hợp tác xã, tổ liên kết sản xuất, câu lạc bộ, hiệp hội ngành nghề; thay

đổi dần dần tập quán sản xuất nhỏ và manh mún; nông dân tham gia sản xuất có việc

làm ổn định và có cơ hội nâng cao trình độ kỹ thuật sản xuất như: được tập huấn kỹ

thuật trồng lúa, cách bón phân, bảo vệ thực vật; Có được đầu ra tương đối ổn định với

giá bán cao hơn giá thị trường; Đối với các HTX khi ký kết hợp đồng tiêu thụ sản

phẩm với doanh nghiệp thì các hoạt động của HTX trở nên phong phú và đa dạng hơn;

uy tín của HTX tăng lên đáng kể qua những hợp đồng tiêu thụ.

Một số khó khăn tồn tại trong việc ứng dụng phổ biến sản xuất hợp đồng như số

lượng ký hợp đồng còn quá thấp so với năng lực sản xuất của nông dân, bên bán còn

khó khăn để tìm bên mua, chưa có quan hệ “bình đẳng”, chưa đủ sức ép từ thị trường

để doanh nghiệp phải tạo được vùng nguyên liệu riêng để cạnh tranh. Nhà nước vẫn

tiếp tục đóng vai trò thúc đẩy tạo điều kiện để doanh nghiệp và nông dân hợp tác chặt

chẽ với nhau hơn, tuy nhiên sẽ theo hướng tăng chất lượng thực hiện hợp đồng, với

mong muốn hợp đồng sẽ mang lại lợi ích thực sự hơn cho các bên tham gia. Tuy vậy,

những khó khăn trong thời gian tới vẫn chưa có giải pháp hiệu quả là động lực thúc

đẩy theo thị trường vẫn chưa đủ mạnh để tác động các bên thật sự muốn liên kết với

nhau.

Như vậy, cần một môi trường kinh doanh thuận lợi hơn để khuyến khích nhiều

doanh nghiệp đầu tư áp dụng phương thức sản xuất theo hợp đồng - quy luật sản xuất -

đang là xu thế chung của thế giới, giúp nông dân có thể đi xa hơn và vững chắc hơn.

Cần tiếp tục hỗ trợ các tổ chức liên kết của nông dân được phát triển, tạo thuận lợi cho

những liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân trong tương lai để doanh nghiệp và tổ

chức hợp tác xã của nông dân liên kết nâng cao chất lượng sản phẩm, tiến đến xây

dựng thương hiệu, nâng cao giá trị gia tăng cho hạt gạo.

64

2.5 Phân tích điểm mạnh, yếu, cơ hội, đe dọa cho Chợ Chuyên doanh lúa gạo

Thốt Nốt

Trong các phần nêu trên tác giả đã tập trung vào đánh giá các khó khăn của từng

mắt xích trong chuỗi giá trị lúa gạo. Phần này, tác giả muốn tổng kết lại tình hình

chung cả chuỗi giá trị lúa gạo, việc sản xuất theo hợp đồng tại các địa phương trong

phạm vi nghiên cứu (bao gồm từ sản xuất, thu gom, chế biến và tiêu thụ trên thị

trường), đặt trong bối cảnh chung của tình hình lúa gạo Việt Nam, những điểm mạnh,

yếu trong chuỗi giá trị lúa gạo; cơ hội và thách thức của Chợ chuyên doanh lúa gạo

Thốt Nốt trong tương lai sau khi hoàn thành xây dựng xong đưa vào hoạt động. Trên

cơ sở đó đề ra những giải pháp nhằm nâng cao vai trò hoạt động của Chợ nhằm tạo ra

giá trị gia tăng cho hạt gạo và hiệu quả của doanh nghiệp.

2.5.1 Điểm mạnh, điểm yếu trong chuỗi giá trị lúa gạo

 Điểm mạnh

- Về giống lúa: Hiện địa phương có rất nhiều chủng loại giống, đặc biệt là

các loại giống cho năng suất cao; Nhà nước và các tổ chức kinh tế luôn quan tâm, giúp

đỡ để nông dân có thể tiếp cận với nguồn giống tốt, cho hiệu quả kinh tế cao.

- Đất đai: Điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu ở thành phố Cần Thơ và các tỉnh

lân cận rất thích hợp cho trồng lúa chất lượng cao; đã có quy hoạch đất đai và những

quy định chặt chẽ trong việc bảo vệ quỹ đất trồng lúa trong quá trình đô thị hóa.

- Chất lượng sản phẩm: Có thể trồng được nhiều loại lúa gạo chất lượng

cao như Jasmine, KDM, OM 4900, OM 6162, OM 3536; ST3, ST5, VNĐ 95-20; MTL

250, MTL 233, … phù hợp với yêu cầu tiêu thụ nội địa và xuất khẩu ở nhiều thị

trường khác nhau.

- Giá thấp: Có khả năng cạnh tranh mạnh trên thị trường thế giới ở phân

khúc thị trường cấp thấp so với các nước xuất khẩu gạo và đảm bảo lợi nhuận; Có thể

cạnh tranh trên thị trường nội địa trong quá trình gia nhập WTO và hội nhập với thế

giới.

- Sản lượng và xuất khẩu: Cho tới nay hoạt động trồng lúa đã đạt được

những thành tựu đáng kể, cụ thể là mặt dù diện tích sản xuất có xu hướng giảm qua

các năm do quá trình đô thị hóa nhưng năng suất và sản lượng vẫn tăng; Lúa gạo Việt

65

nam có mặt trên thị trường của 128 quốc gia/vùng lãnh thổ trên thế giới, là nước có thị

phần xuất khẩu cao đứng thứ 2 thế giới, được nhiều nước biết đến và học tập.

- Các quan hệ trong chuỗi giá trị: Nông dân năng động và khá sáng tạo,

tạo nên một vài điển hình tiên tiến, biết khép kín từ khâu trồng trọt đến tiêu dùng và

xuất khẩu, bao gồm cả gây dựng thương hiệu cho hạt gạo (HTX Mỹ Thành, huyện Cai

Lậy, Tiền Giang); Hệ thống mua gom lúa cho đến nay dựa trên uy tín và thỏa thuận

miệng, điều này cũng có mặt mạnh giúp cho các ‘hợp đồng’ thường được thực hiện

đơn giản, nhanh, gọn; Quan hệ tốt với các cở sở xay xát giúp doanh nghiệp ổn định

nguồn nguyên liệu phục vụ chế biến, phù hợp với khả năng quản lý, điều hành, bộ máy

tinh gọn, quản lý tốt hao hụt trong khâu mua gom.

- Lực lượng thương lái hiện tại: Là lược lượng rất cơ động, có thể len lõi

vào các vùng sâu, phù hợp với tập quán sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, manh mún của nông

dân; Nguyên liệu mua của lực lượng thương lái nhìn chung rất đa dạng, nhiều phẩm

cấp, một phần đáp ứng được nhu cầu đa dạng về sản phẩm của khách hàng; Phương

thức mua gom thân thiện, gần gũi với nông dân, giá cả thu mua linh hoạt, giúp làm

giảm chi phí giao dịch so với các hệ thống thu mua khác nên thường giá do thương lái

cung ứng rẻ hơn; Là lực lượng nhà cung cấp chính, có vai trò khá quan trọng, là cầu

nối giữa người sản xuất và doanh nghiệp chế biến trong giai đọan hiện nay.

- Sự quan tâm của nhà nước và các tổ chức: Các địa phương cũng bắt đầu

quam tâm hơn đến thương hiệu và có những dự án mang tính đột phá để xây dựng

thương hiệu cho hạt gạo (Dự án xây dựng chất lượng và thương hiệu gạo An Giang).

- Hơn 80% nguyên liệu đầu vào của doanh nghiệp chế biến là gạo lứt:

Điều này cho phép tận dụng được năng lực sản xuất của các cơ sở xay xát nhỏ, lẻ phân

tán trên địa bàn nông thôn; Doanh nghiệp không phải lo vấn đề xử lý môi trường trong

quá trình xay xát; Phù hợp với hiện trạng đầu tư về kho bãi, và trang thiết bị hiện tại

của các doanh nghiệp. Tiết kiệm đầu tư kho bãi so với chứa lúa.

 Điểm yếu

- Về giống lúa: Mức độ sử dụng giống lúa xác nhận còn thấp, hơn 70% nguồn

giống là do nông dân tự sản xuất hoặc trao đổi giữa các hộ nông dân với nhau, thậm chí

nhiều người còn dùng lúa ăn để làm giống. Vì vậy, hậu quả giống bị lẫn tạp, thoái hóa đã

66

ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng lúa gạo. Nghiên cứu nhân giống có phát triển nhưng

chưa sâu, nghiên cứu lai tạo giống lúa bằng công nghệ biến đổi Gen chưa phát triển.

- Đầu tư cơ sở hạ tầng: Từ lâu do tập quán canh tác nhỏ lẻ nên việc đầu tư

xây dựng cơ sở hạ tầng cho sản xuất lúa gặp nhiều khó khăn.

- Chất lượng sản phẩm: Chất lượng không đồng đều do ý thức tuân thủ

quy định trồng trọt của người dân chưa cao; Vấn đề vệ sinh và an toàn cho hạt gạo vẫn

chưa được đảm bảo rộng khắp (mức độ dư lượng thuốc trừ sâu còn cao); Chất lượng

sản phẩm, nhìn chung chưa đạt được những tiêu chuẩn của các thị trường khó tính như

Châu Âu, Mỹ, Nhật Bản, …

- Giá cả: Giá thị trường không ổn định, trong điều kiện sản xuất manh

mún nên thu nhập của người nông dân trồng lúa không đảm bảo cho cuộc sống của họ.

- Sản lượng và xuất khẩu: Hiệu quả hoạt động xuất khẩu gạo chưa tương xứng

với kết quả sản xuất, mặc dù sản lượng xuất khẩu tăng qua các năm nhưng giá trị không tăng.

- Công nghệ sau thu hoạch: Tỷ lệ hao hụt sau thu hoạch đứng hàng cao

nhất so với thế giới, trong khi một số nước có công nghệ sau thu hoạch phát triển có tỷ

lệ hao hụt từ 3-5%, Thái Lan từ 8-10%, thì Việt Nam tỷ lệ này lên đến 13-16%; Công

nghệ phơi, sấy, xay xát còn lạc hậu, chủ yếu do các DN tư nhân đảm nhận; Hệ thống

kho dự trữ thiếu, các kho hiện tại chỉ phục vụ cho dự trữ gạo, chưa có hệ thống kho trữ

lúa đạt chuẩn cũng như phục vụ nhu cầu trữ lúa của nông dân.

- Các quan hệ trong chuỗi giá trị: Nông dân chưa san sẻ kinh nghiệm với

nhau, vẫn còn có tính cá thể, thiếu tính tập thể, thiếu mô hình HTX, ý thức và nhận

thức còn rất hạn chế nên việc thực thi quy trình sản xuất an toàn vẫn chưa được triển

khai phổ biến; Quan hệ 2 chiều của nông dân và thương lái chưa được xây dựng trên

nền tảng pháp lý nên chưa đảm bảo nguồn cung ứng và chất lượng như mong đợi; Sự

liên kết, hợp tác thật sự giữa các doanh nghiệp xuất khẩu, các đầu mối tiêu thụ và

người trồng lúa tham gia chưa chặt chẽ, hạn chế hoạt động chung của sản xuất lúa;

Thiếu sự phản hồi từ người tiêu dùng đến các khâu kinh doanh và trồng trọt, thiếu các

luồng thông tin hai chiều và thông tin tới các nhà chức trách; doanh nghiệp hiểu biết

rất ít về thị trường tiêu thụ sản phẩm của mình, không có được thông tin về yêu cầu

của người tiêu dùng cuối cùng. Nói cách khác là chưa thể vươn xa đến những công

đoạn sau của chuỗi giá trị, mà chỉ dừng lại ở khâu sản xuất gia công.

67

- Lực lượng thương lái hiện tại: Hành vi ứng xử của thương lái hoàn toàn

theo tín hiệu của thị trường nên dẫn đến tình trạng “được mùa mất giá và mất mùa

được giá”; Một số thương lái xuất thân từ nông dân nên việc kinh doanh chưa mang

tính chất chuyên nghiệp và rủi ro cao. Do đó phương thức giao dịch chủ yếu được áp

dụng là giao dịch giao ngay, việc tổ chức các hình thức giao dịch giao sau với thương

lái tỏ ra không khả thi và tính mạo hiểm sẽ rất cao; Chất lượng nguyên liệu không

đồng đều, cái mà họ quan tâm nhiều là tìm mua được nguyên liệu từ người sản xuất

với giá rẻ và bán có lợi nhuận cao.

- Sự quan tâm của nhà nước và các tổ chức: Việc quan tâm chưa thành hệ

thống và vào khâu sau thu hoạch (chỉ tập trung vào khâu sản xuất); Thiếu quan tâm đúng

mức và tập hợp thương lái, chưa coi thương lái là chủ thể chính trong các hợp đồng giao

dịch; Công tác nghiên cứu thị trường, xúc tiến thương mại trên lĩnh vực này còn hạn chế,

chưa xâm nhập mạnh mẽ được vào các thị trường tiềm năng như Châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật

Bản mặc dù nhu cầu nhập khẩu của các nước này rất cao; Chưa tạo được môi trường kinh

doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp khi tham gia vào kinh doanh ở thị trường nội địa (do

DN phải chịu 5% thuế VAT, nên DN ít quan tâm đến thị trường này).

- Việc sử dụng gạo lứt làm nguyên liệu đầu vào của doanh nghiệp chế biến:

trong điều kiện Công nghệ xay xát còn lạch hậu, tỷ lệ hao hụt còn cao, dẫn đến tỷ lệ gạo đạt

tiêu chuẩn 5% còn thấp, nguyên liệu chế biến chủ yếu là gạo 25%; Không khai thác được

các phụ phẩm trong quá trình xay xát, chế biến (trấu, cám, ...) một cách tốt nhất. Nếu xay

xát tập trung, nguồn nguyên liệu trấu, cám, … sẽ được sử dụng có giá trị cao hơn.

2.5.2 Cơ hội và thách thức của Chợ chuyên doanh lúa gạo Thốt nốt

 Cơ hội - Được Trung ương cho phép vay vốn ưu đãi lãi suất để đầu tư xây dựng.

Chính quyền địa phương ủng hộ và tạo điều kiện.

- Nông dân trồng lúa rất mong muốn có chợ lúa gạo để nâng cao giá trị

cho hạt gạo.

- Nằm ở trung tâm vùng nguyên liệu lúa, có thể tạo ra giá trị hàng hóa

lớn, chất lượng cao; Vị trí thuận lợi cho vận chuyển lúa gạo cả về đường thủy, đường

bộ cũng như xuất khẩu, giúp tiết kiệm chi phí.

- Trang bị mới công nghệ, tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt.

68

- Doanh nghiệp có thể mua lúa tồn đọng trong dân để dự trữ, hoặc giúp

nông dân giải quyết những khâu xử lý sau thu hoạch cũng như dự trữ.

- Mô hình hoạt động của chợ hay sàn giao dịch nông sản phù hợp với xu

thế phát triển chung của thế giới.

- Giúp gắn kết thông tin thị trường với các sàn giao dịch nông sản trên

thế giới, giúp nông dân cũng như doanh nghiệp tiếp cận nhanh với thị trường, khả

năng tìm đầu ra cho sản phẩm cũng như giá cả giao dịch tốt hơn.

- Yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường và xuất khẩu là cơ hội giúp:

Nông dân nếu muốn tồn tại và phát triển phải thay đổi thói quen sản suất nhỏ lẻ, manh

mún, phân tán, chạy theo năng suất, … sang hợp tác với doanh nghiệp để tạo ra sản

phẩm có chất lượng tốt, thông qua áp dụng rộng rãi các hình thức sản xuất theo hợp

đồng và Global GAP. Từ đó cải thiện các mối liên kết hiện tại, ổn định sản xuất;

Doanh nghiệp phải xây dựng chiến lược về xuất khẩu gạo, nâng cao vai trò quản lý

chuỗi giá trị của doanh nghiệp trong việc tạo ra giá trị gia tăng cho các tác nhân tham

gia chuỗi cũng như hiệu quả của doanh nghiệp.

- Sự cạnh tranh lành mạnh cũng là cơ hội cho lúa gạo Việt Nam tự khẳng

định và hoàn thiện hơn trên thương trường (đạt các chứng chỉ cần thiết, đảm bảo chất

lượng ổn định, …) phát huy lợi thế về trang thiết bị được đầu tư hiện đại giúp hạt gạo

có thương hiệu tốt trên thị trường.

 Đe dọa - Mô hình hoạt động mới, chưa đánh giá hết những phát sinh có thể xãy

ra trong quá trình hoạt động theo mô hình chợ.

- Chưa có khung pháp lý hoạt động của chợ và sàn giao dịch lúa gạo để

giải quyết các vướng mắc phát sinh trong quá trình hoạt động.

- Mặc dù có đến 80% nguồn vốn đầu tư là vốn vay từ quỹ đầu tư phát

triển, song vẫn tạo áp lực trả lãi vay là rất lớn; Việc thu hồi vốn chậm, do ngoài chức

năng kinh doanh, chợ còn có chức năng cung cấp các dịch vụ miễn phí cho nông dân

như: phơi, gửi kho, cung cấp thông tin,….

- Không thu hút được các đối tác tham gia giao dịch: Khả năng tiếp cận

của các doanh nghiệp; Khả năng tác động làm thay đổi thói quen sản xuất, tiêu thụ

của nông dân; Khả năng tác động nhằm thay đổi hệ thống cung ứng gạo nguyên liệu

thông qua thương lái.

69

- Xã hội càng phát triển thì yêu cầu thị trường về chất lượng sản phẩm

cũng không dừng lại, mà đòi hỏi ngày càng khắt khe hơn; Việc không đáp ứng yêu cầu

về chất lượng đã và đang làm giảm thị phần của lúa gạo Việt Nam hiện nay trên

trường châu Âu, Nhật Bản và nguy cơ mất thị phần tại thị trường ngay tại châu Á.

Việc lớn mạnh của lúa gạo Thái Lan với chất lượng ổn định và đa dạng hơn ta, cũng là

một trở ngại cho việc xuất khẩu sang các nước châu Á quen thuộc.

- Khó kết nối hoạt động trong chuỗi cung ứng như nhà cung ứng đầu

vào, người sản xuất, chế biến, phân phối, tiếp thị và tiêu dùng gắn kết với nhau để xây

dựng thương hiệu, tạo ra sản phẩm chất lượng ổn định, uy tín trên thị trường.

- Địa bàn hoạt động cũng là nơi các doanh nghiệp trong ngành hoạt động

khá đông. Sẽ có sự canh tranh gay gắt hơn giữa các đơn vị trong ngành; Sự gia nhập

AFTA, nhất là WTO sẽ khiến cho sự cạnh tranh hết sức gay gắt và khốc liệt cho chính

sản phẩm lúa gạo Việt Nam trên sân nhà trực tiếp, hoặc gián tiếp khi việc không đánh

thuế cho các sản phẩm gạo Thái Lan tràn vào thị trường.

Tóm lại, theo đánh giá chung của tác giả, nếu ĐBSCL chưa có mô hình hoạt

động nhằm mang tính bứt phá, cải thiện các mối quan hệ của các bên tham gia trong chuỗi

giá trị lúa gạo tại các chợ được khảo sát, chưa có sự thay đổi và thống nhất giữa các mấu

chốt (hàng ngang), đặc biệt mối quan hệ nông dân - thương lái - doanh nghiệp, chưa có sự

quản lý từ trên xuống các cấp lãnh đạo và bộ phận thực hiện (hàng dọc) thì sẽ gặp rất

nhiều khó khăn ngay cả khi Việt Nam dẫn đầu về sản lượng xuất khẩu.

Trong khuôn khổ của nghiên cứu này, tác giả xin đưa ra một số giải pháp mang tính

định hướng cho hoạt động Chợ chuyên doanh lúa gạo tại Thốt Nốt – TP. Cần Thơ để có thể

góp phần cho kỳ vọng của những nhà làm chính sách là thông qua hệ thống Chợ chuyên

doanh lúa gạo này sẽ là bước khởi đầu giúp giải quyết được phần nào bài toán đặt ra là làm

sao nâng cao được chuỗi giá trị và tạo ra ngày càng nhiều hơn giá trị gia tăng cho hạt gạo.

70

ương III: Ch

GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA CHỢ CHUYÊN DOANH LÚA GẠO

THỐT NỐT TRONG VIỆC TẠO RA GIÁ TRỊ GIA TĂNG CHO GẠO.

Chợ chuyên doanh lúa gạo là một cụm dịch vụ tổng hợp với chức năng làm

dịch vụ cho người mua và người bán. Chợ sẽ cung cấp dịch vụ phơi, xay xát, chế biến

và bảo quản nông sản cho nông dân, thương lái hoặc các tổ chức có nhu cầu. Cá nhân

và tổ chức có nhu cầu mua bán lúa gạo có thể đăng ký nhu cầu về chủng loại, chất

lượng, số lượng lúa gạo cần mua bán tại chợ. Ngoài ra, chợ còn cung cấp dịch vụ

thông tin giá cả và dịch vụ thanh toán giữa người mua và người bán. Nhiệm vụ của

chợ là hợp tác với nhà nước giữ và ổn định giá cả, tổ chức mua bán công khai bằng

đấu giá hay thỏa thuận và thông báo giá mua, giá bán trong ngày.

Với chức năng và nhiệm vụ được nêu trên, 3 chợ chuyên doanh lúa gạo (Trung

tâm nông sản Thanh Bình; Trung tâm nông sản Hậu Thạnh Đông; Trung tâm nông sản

Phú Cường) ở Đồng bằng sông Cửu Long có thể được xem là sàn giao dịch hàng hóa

tập trung mặc dù còn rất sơ khai. Để chợ chuyên doanh lúa gạo vận hành một cách có

hiệu quả và sôi động, theo TS. Bảo Trung, đòi hỏi phải có đầy đủ thành tố cấu tạo nên

thị trường – đó là hàng hóa, cung, cầu, giá cả và phương thức giao dịch. Một trong 5

yếu tố này không đúng và đủ điều kiện thì mô hình chợ sẽ thất bại.

Chính vì vậy, để cho các thành phần tham gia vào thị trường đúng và đủ điều

kiện thì hoạt động của chợ phải đảm bảo các nguyên tắc sau:

1. Nguyên tắc trung gian: Việc mua bán hàng hóa phải thông qua trung gian nhà

môi giới. Các sàn giao dịch hàng hóa chỉ hoạt động sôi nổi và hiệu quả khi có sự tham

gia tích cực của thành phần môi giới, điều này đã thể hiện rất rõ khi người ta vận dụng

vào hoạt động của thị trường chứng khoán.

2. Nguyên tắc công khai hóa thông tin: Việc mua bán tại chợ đòi hỏi phải được

công khai hóa. Chợ có nghĩa vụ công khai số cung, số cầu từng loại hàng hóa; công

khai về giá đặt mua, giá chào bán; công khai cuộc đấu giá hình thành giá cả trong từng

phiên giao dịch; trang bị các thiết bị thông tin và tổ chức công bố thông tin rộng rãi.

71

3. Nguyên tắc đấu giá: Giá cả hàng hóa tại chợ phải được hình thành thông qua

đấu giá công khai, hoàn toàn tùy thuộc vào cung cầu, không ai quyết định giá hay can

thiệp vào việc hình thành giá.

Các nguyên tắc trên là nguyên tắc căn bản phải được thể hiện bằng văn bản

pháp luật từ cấp cao như luật thương mại, nghị định, thông tư đến cấp thấp như điều lệ,

quy chế và quy tắc hoạt động của chợ.

Bên cạnh những nguyên tắc chung cho hoạt động của chợ, chúng ta cũng cần có

nguyên tắc riêng cho hoạt động giao dịch như:

1. Đăng ký hàng hóa: Hàng hóa để có thể mua bán tại chợ cần phải có đăng ký

tại bộ phận đăng ký hàng hóa. Các chỉ tiêu cần kê khai như số lượng, chất lượng,

chủng loại, nguồn gốc, thời gian giao hàng, phương thức thanh toán, giao nhận, …

2. Giám định hàng hóa: Cần phải có cơ quan giám định độc lập nằm ngoài chợ,

nhưng có đăng ký thành lập văn phòng tại chợ. Họ là người chịu trách nhiệm trước

pháp luật, trước người mua, người bán hàng hóa do họ giám định.

3. Đăng ký bán - đấu giá bán và đăng ký mua - đấu giá mua: Chợ trung tâm

nông sản phải là chợ sỉ, hàng hóa phải được bán theo lô với số lượng lớn. Người mua

và người bán sẽ phải đăng ký và tham dự các phiên đấu giá để quyết định có mua hay

không.

4. Giao kết hợp đồng: Khi các thỏa thuận mua bán đã được thu xếp xong sau

phiên giao dịch, thì bước tiếp theo là những giao kết này phải thể hiện trên hợp đồng.

Những hợp đồng này có thể là hợp đồng giao ngay (spot contract), hợp đồng tương lai

(futures contract) hay hợp đồng quyền chọn (options contract).

5. Thanh toán và giám sát thực hiện hợp đồng: Những hợp đồng trên sau khi ký

kết sẽ được thực hiện theo đúng như hợp đồng. Tuy nhiên, đối với hợp đồng giao sau

(hợp đồng tương lai, kỳ hạn và quyền chọn) thì đòi hỏi phải được giám sát từ khâu ký

kết hợp đồng cho đến khi thực hiện hợp đồng. Hợp đồng giao sau là phương thức giao

dịch kỳ hạn rất phổ biến trên thế giới. Tuy nhiên, việc phát triển và ứng dụng thành

công giao dịch kỳ hạn như là công cụ bảo hiểm giá, phòng ngừa rủi ro là quá trình

phức tạp. Khi người mua và người bán thỏa thuận trao đổi hàng hóa trong tương lai

với giá nhất định, sẽ có nhiều rủi ro. Người mua và người bán có thể hối tiếc, có gắng

từ chối thực hiện hợp đồng, hoặc họ không có khả năng tài chính để thực hiện hợp

72

đồng. Để tránh tình trạng trên, việc mua bán các hợp đồng giao sau phải thực hiện qua

cơ quan thanh toán bù trừ và người mua và người bán phải ký quỹ ban đầu.

Từ kinh nghiệm hoạt động thí điểm của 3 Chợ Nông sản trong phạm vi nghiên

cứu và các nguyên tắc cho hoạt động của chợ, để Chợ chuyên doanh lúa gạo Thốt Nốt

– thành phố Cần Thơ sau khi hòan thành xây dựng và đi vào hoạt động có có hiệu quả

và phát huy được vai trò của mình trong việc tạo ra giá trị gia tăng cho hạt gạo trong

vùng, tác giả xin đề xuất một số giải pháp sau:

3.1 Giải pháp 1: Hoàn thiện quy chế và mô hình hoạt động của chợ • Về mục tiêu của Chợ phải đảm bảo những chức năng cơ bản sau:

- Phải là nơi tập hợp, phân loại, định hướng cho nhu cầu mua lúa hàng hóa từ

gốc bán tận ngọn. Qua chợ người nông dân biết được nhu cầu để chủ động sản xuất,

biết được hướng tiêu thụ sản phẩm của mình thông qua những mô hình sản xuất theo

hợp đồng và Global GAP được khuyến nghị sản xuất.

- Phải làm thay đổi một cách căn cơ phương thức tiêu thụ lúa gạo, từ đó đưa ra

mức tiêu chuẩn cao hơn, đồng đều hơn cho lúa hàng hóa góp phần nâng cao chất lượng

hạt gạo.

- Tạo sự an tâm của người nông dân ở khâu tiêu thụ, từ đó khuyến khích họ

mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, áp dụng tiến bộ khoa học, quy trình sản

xuất theo hợp đồng và Global GAP nhằm tạo ra những hàng hóa mà thị trường cần,

tăng giá trị sản phẩm cuối cùng và lợi ích của các bên liên kết trong chuỗi giá trị hạt

gạo.

- Các hạng mục đầu tư xây dựng phải nhằm tới mục đích là đáp ứng được yêu

cầu nâng cao giá trị của chuỗi và lợi ích của các tác nhân tham gia chuỗi.

• Mô hình hoạt động

- Chợ đầu mối chuyên doanh lúa gạo là nơi giao dịch tập trung mua buôn,

bán buôn không chỉ cho thương nhân trong nước mà cả thương nhân nước ngoài.

- Chợ là nơi gặp gỡ trực tiếp giữa người sản xuất (trồng lúa) người chế biến và thương nhân mua bán lúa gạo. Chợ có chức năng là người trung gian tổ chức các cuộc gặp gỡ, trao đổi, mua bán này, kể cả việc tổ chức đấu giá khi cần thiết. Chợ là nơi nắm bắt mọi yêu cầu của 2 bên mua bán để tổ chức việc mua bán thuận lợi, nhanh chóng.

73

- Cơ chế hoạt động của Chợ phải đơn giản, linh hoạt và thông thoáng. Mọi thành phần kinh tế đều có thể kinh doanh mua bán tại Chợ và sẽ được tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để đạt được mục đích cuối cùng là có thể tiêu thụ hết lượng lúa hàng hóa trong dân, đảm bảo người dân bán được lúa với giá cả hợp lý nhất, nâng cao mức sống cho người nông dân, đồng thời đáp ứng các yêu cầu về chất lượng, chủng loại và giá cả đối với người mua.

- Người sản xuất, người chế biến, thương nhân, … có thể đem lúa gạo đến phơi sấy, sơ chế, gửi lại kho của chợ khi bị rớt giá hoặc thiên tai mưa lũ mà vẫn có thể nhận được tiền để tái đầu tư.

- Thông tin quảng cáo với những chính sách ưu đãi thu hút nông dân mang lúa đến bán, đồng thời giới thiệu nhiều thương nhân đến mua lúa để có sự cạnh tranh về giá cả nhằm có lợi cho người nông dân (thông tin qua điện thoại, các phương tiện thông tin đại chúng, qua mạng Internet, …)

- Bố trí mặt bằng thuận lợi để lên xuống lúa từ các phương tiện vận chuyển,

bố trí khu vực phơi, sấy để bảo quản tốt chất lượng lúa gạo.

- Nhận làm thủ tục và thanh toán tiền bán lúa cho nông dân. - Nhận ký gởi lúa hàng hóa để nông dân vay tiền ngân hàng. - Tạo điều kiện thuận lợi, công bằng cho hai bên mua bán. - Giá cả tại Chợ được cung cấp kịp thời, chính xác, công khai theo giá thị

trường trong từng thời điểm.

- Ngoài ra, để tạo điều kiện cho những doanh nghiệp ở các tỉnh khác không có điều kiện đến chợ hoặc những doanh nghiệp ở nước ngoài mua lúa gạo của chợ, việc ứng dụng thương mại điện tử, tham gia sàn giao dịch là hết sức cần thiết.

- Giải pháp cung cấp thông tin thị trường giá cả cho các đối tượng tham gia vào chợ là xây dựng trung tâm thông tin cho chợ: Chợ hoạt động có sự hỗ trợ đắc lực của Trung tâm thông tin, vừa thu thập xử lý vừa thông báo kịp thời về tình hình thị trường giá cả lúa gạo trong nước và trên thế giới, cùng những dự báo khoa học như thông tin giá cả các thị trường trong nước và quốc tế, dùng máy tính kết nối Internet để thu thập thông tin hàng ngày; đưa thông tin giá cả lên bảng điện tử khổ lớn đặt tại cổng hoặc trung tâm của chợ hoặc các hình thức thông tin khác để nông dân, doanh nghiệp, hộ kinh doanh không có điều kiện và năng lực ứng dụng công nghệ thông tin, thương mại điện tử vẫn có thể biết được tình hình giá cả lên xuống hàng ngày và tham khảo thông tin về mặt hàng thóc gạo một cách dễ dàng.

• Quy chế hoạt động phải khắc phục được các hạn chế của các Chợ đang

hoạt động:

74

Để cho chợ hoạt động bền vững, góp phần ổn định thị trường nông sản, điều

quan trọng là hoạt động của chợ phải tuân thủ các nguyên tắc theo thông lệ quốc tế.

Chợ trung tâm nông sản được hình thành không chỉ vì mục tiêu đưa người nông dân

tham gia vào thị trường, xóa bỏ bớt đầu mối trung gian mà hoạt động của chợ còn phải

vì mục tiêu của những thành phần khác tham gia vào thị trường. Đây là mấu chốt quan

trọng đảm bảo cho chợ trung tâm nông sản hoạt động.

- Thứ nhất, theo quy chế tạm thời hoạt động tại các chợ trong phạm vi khảo sát

đã phản ánh được hai nguyên tắc chung của hoạt động chợ là công khai thông tin và

đấu giá. Để 2 nguyên tắc này được thực hiện trong thực tế, Công ty quản lý chợ cần

phải trang bị thiết bị thông tin điện tử để giúp người mua và người bán có thể theo dõi

được tình hình thị trường. Riêng nguyên tắc trung gian chưa được phản ánh trong quy

chế hoạt động. Đặc điểm quan trọng của sàn giao dịch hàng hóa là vai trò của người

môi giới. Vấn đề đưa ra vai trò người môi giới kề cận nhà sản xuất và thương nhân

nhằm phối hợp đáp ứng những cung - cầu theo trật tự nhất định trên nguyên tắc bình

đẳng, đôi bên cùng có lợi, giảm thiểu đến thấp nhất rủi ro trong kinh doanh. Chính vì

vậy, công ty quản lý chợ cần nghiên cứu xây dựng quy chế hoạt động của nhà môi giới

trung gian.

- Thứ hai, đối với hoạt động giao dịch, trong quy chế tạm thời hoạt động của

chợ đã đề cập đến các vấn đề như đăng ký hàng hóa, nộp tiền ký quỹ, đăng ký đấu giá

bán, giá mua và kiểm tra chất lượng lúa gạo. Tuy nhiên, các quy định này chưa phản

ánh được đầy đủ 5 nguyên tắc riêng của hoạt động giao dịch được nêu trên, đặc biệt là

nguyên tắc “giao kết hợp đồng” và nguyên tắc “thanh toán và giám sát thực hiện hợp

đồng”. Để hoạt động của chợ trung tâm nông sản hoạt động đúng theo các nguyên tắc

giao dịch của sàn giao dịch hàng hóa tập trung, chúng ta cần phải bổ sung và điều

chỉnh một số nội dung sau:

+ Bộ phận giám định hàng hóa phải là một tổ chức giám định bên ngoài như

SGS, FCC, Vinacontrol, … Công ty quản lý chợ cần thu hút các tổ chức giám định này

đến lập văn phòng tại chợ.

+ Công ty quản lý chợ cần xây dựng quy chế về giao kết hợp đồng, đặc biệt là

các hợp đồng giao sau. Hiện nay, trong quy chế mới đề cập đến giao dịch giao ngay:

75

người mua và người bán tham gia đấu giá, thực hiện giao hàng và thanh toán tiền

ngay. Điều này chưa tạo sự hấp dẫn cho các nhà đầu tư.

+ Xây dựng quy chế cụ thể để giám sát việc thực hiện hợp đồng và thanh toán.

Mặc dù trong quy chế có đề cập đến vấn đề ký quỹ nhưng chưa đủ cho việc đảm bảo

cho hợp đồng.

• Chủng loại hàng hóa thực hiện giao dịch tại chợ

- Lúa, gạo, trong đó:

+ Đầu vào: Khuyến khích giao dịch lúa là nguyên liệu chính.

+ Đầu ra: Gạo từng bước phấn đấu để có thương hiệu, nhãn mác,

ít nhất là đối với thị trường nội địa, tiến tới hình thành những sản phẩm sạch, có chất

lượng cao và có thể truy nguyên nguồn gốc.

- Vật tư nông nghiệp, phân bón, thuốc trừ sâu, cây giống, hạt giống, các cơ sở sản xuất, kinh doanh sẽ đến chào bán các mặt hàng phục vụ sản xuất nông nghiệp cho người dân. Các mặt hàng qua Chợ phải đạt tiêu chuẩn chất lượng, giá cả ổn định và phù hợp.

- Dịch vụ tư vấn khách hàng: chợ là trung tâm tư vấn cho người nông dân các vấn đề liên quan đến giống cây trồng, chăm sóc bảo quản, sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu, … đảm bảo cho nông dân hoạt động sản xuất đạt hiệu quả cao nhất.

• Tổ chức bộ máy Chợ chuyên doanh lúa gạo Thốt Nốt phải là có pháp

nhân là một Công ty Cổ phẩn (có thể trong giai đọan đầu Nhà nước

chiếm cổ phần chi phối) :

Thực tiễn của 3 Chợ Nông sản trong phạm vi nghiên cứu, chỉ hoạt động

với tư cách là 3 đơn vị trực thuộc Công ty, nên đã làm hạn chế rất nhiều vai trò hoạt

động của Chợ: Thiếu sự linh động trong giao dịch, ký kết hợp đồng; Việc tổ chức Chợ

trực thuộc 1 Công ty kinh doanh Lương thực đã làm mất đi vai trò làm trung gian mua

bán tại chợ, cũng như ý nghĩa của một sàn giao dịch.

3.2 Giải pháp 2: Cần đào tạo một đội ngũ nhà quản lý, nhà chuyên môn đủ hiểu biết về hoạt động của sàn giao dịch hàng hóa nông sản. Tổ chức Trung tâm thông tin và tư vấn khách hàng, giúp nông dân định hướng về sản xuất, tiêu thụ, dự trữ, …

Để thực hiện tốt giải pháp này đòi hỏi phải có sự phối hợp tốt giữa nhà nước,

doanh nghiệp với các tổ chưc của nông dân, các nhà khoa học.

76

- Đối với các nhà quản lý: Khác với sàn giao dịch chứng khoán, đội ngũ quản lý

sàn giao dịch nông sản ngoài những kiến thức chuyên môn nhất định như một sàn giao

dịch chứng khoán, còn đỏi hỏi am hiểu về tính đặc thù của hàng hóa nông sản.

- Đối với Trung tâm khuyến nông địa phương: Cần tăng cường mở các lớp đào

tạo cho các cán bộ khuyến nông về hội nhập, từ đó giúp các Trung tâm khuyến nông

thực hiện tốt nhiệm vụ thông tin tuyên truyền cho nông dân về đường lối phát triển

nông nghiệp nông thôn của nhà nước, chuyển tải những tiến bộ kỷ thuật nông nghiệp,

những điển hình trong sản xuất đến người nông dân; giúp cập nhật kiến thức cho đội

ngũ giảng viên và tiếp tục xuống với nông dân để nông dân có thể cập nhật được

những kiến thức khoa học một cách kịp thời và đầy đủ.

- Trung tâm thông tin thuộc Chợ: cần có sự phối hợp tốt với các nhà khoa học,

các nhà tài trợ thường xuyên tổ chức các hội thảo chuyên đề mang đến cho nông dân

những kiến thức sát thực với đời sống như: Vai trò, thực trạng lợi ích dồn điền, đổi

thửa, khó khăn, thuận lợi; Xu hướng tích tụ ruộng đất, quy trình thủ tục chuyển

nhượng dồn ghép; chính sách và cách thức tiếp cận chính sách giống cây trồng, vật

nuôi, lập khu sản xuất tập trung xây dựng vùng sản xuất hàng hóa, ... ; quá trình, thủ

tục, tư duy về hoạch toán kinh tế, tư duy về lập phương án sản xuất kinh doanh,

phương án huy động vốn, cách tiếp cận với các nguồn vốn; giới thiệu các câu hỏi để

trao đổi thảo luận; thực trạng lao động và việc làm trong nông nghiệp và nông thôn

hiện nay; xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động; giới thiệu các địa chỉ đào tạo nghề;

trung tâm giới thiệu việc làm; phương thức thực hiện giao dịch hàng hóa tại chợ và sàn

giao dịch, ...

Từ đó giúp cho nông dân chuyển biến về nhận thức, tìm được cho mình mô

hình sản xuất phù phù hợp với điều kiện cụ thể của gia đình, tiếp cận được với các

hình thức mua bán hiện đại, mang lại hiệu quả kinh tế cao.

3. 3 Giải pháp 3: Nâng cao nhận thức cho mọi tầng lớp trong xã hội về lợi ích

hoạt động giao dịch hàng hóa tập trung, từ đó thu hút nông dân, người sản xuất trực

tiếp thương nhân, doanh nghiệp tham gia hoạt động tại Chợ.

- Có sự phân biệt giữa các đối tượng tham gia hoạt động tại chợ để có chính

sách thu hút cho phù hợp.

+ Về giá thu dịch vụ: phơi sấy, bốc xếp, … + Về giá thuê kho, thuê phương tiện, …

77

- Ngân hàng phối hợp với chợ tổ chức đưa ra thể thức cho vay vốn ưu đãi, thuận

tiện cho nông dân, người sản xuất và các doanh nghiệp tại chợ.

- Sau năm 2011, khi chợ xây dựng xong cũng là lúc các doanh nghiệp Nhà

Nước phải thực hiện cổ phần hóa xong (Luật doanh nghiệp 2005), Nhà nước cần

hướng dẫn, tạo điều kiện và có chính sách ưu tiên cho các nhóm hộ nông dân hoặc hợp

tác xã nông nghiệp trong vùng được mua cổ phần tại Chợ chuyên doanh lúa gạo nhằm

gắn kết nông dân với chợ.

3. 4 Giải pháp 4 : Phát phiển cơ sở hạ tầng phục vụ chuỗi giá trị lúa gạo

Cần định hướng ưu tiên trong đầu tư xây dựng với mục tiêu phải nhằm nâng

• Xây dựng hệ thống dự trữ lúa, có khả năng phân loại để tạo ra những sản

cao giá trị gia tăng cho hạt gạo mà các nhóm giải pháp khác đã đề ra:

phẩm đồng nhất, có chất lượng, có xuất xứ:

- Sau khâu chế biến, khâu bảo quản những năm qua gây tỷ lệ tổn thất lớn thứ

hai, với mức 2,1%. Những giải pháp chủ yếu theo khuyến cáo của các nhà khoa học

cho khâu này cần theo hướng sau: Áp dụng công nghệ và thiết bị bảo quản kín, chân

không các loại gạo xát trắng bằng cách sử dụng màng PVC trong môi trường khí CO2

hoặc khí N2 ở các kho dự trữ; Áp dụng một số chế phẩm vi sinh, các chế phẩm từ thực

vật có tác dụng diệt côn trùng, nhưng không gây độc hại cho người và gia súc, cũng

như gây nhiễm bẩn môi trường bảo quản thóc gạo ở các kho; Áp dụng công nghệ bảo

quản mát thóc gạo ở một số cụm dự trữ có thời gian dài (nhiệt độ duy trì 150C).

- Bao bì đóng gói không chỉ đơn thuần mang ý nghĩa là để bảo vệ hàng hoá mà

còn là nhãn hiệu để quảng cáo hàng hoá, hướng dẫn tiêu dùng. Nhiều khi chính bao bì

đóng gói mang lại hiệu quả hơn cả chính sản phẩm bên trong. Việc gạo xuất khẩu Việt

Nam bị bán thấp hơn và kém cạnh tranh hơn gạo Thái Lan cùng cấp một phần cũng do

bao bì đóng gói và công tác ghi nhãn mác kém. Ngoài ra, chính bao bì đóng gói giữ

toàn vẹn chất lượng cho sản phẩm trong quá trình vận chuyển. Nhiều trường hợp hàng

nông sản Việt Nam do bao gói không tốt, nên khi huy động ra tới cảng lại phải mang

về do mất mùi thơm.

Vậy giải pháp cho vấn này là gì? Trước hết là bao bì đóng gói phải làm bằng

những chất liệu bền, tốt, phù hợp với từng chủng loại sản phẩm. Thứ đến là làm tốt

công tác ghi nhãn mác trên bao bì sản phẩm vừa để tránh làm hàng giả vừa để quảng

78

cáo sản phẩm của mình và đáp ứng nhu cầu tìm hiểu của người tiêu dùng. Cụ thể là ghi

đầy đủ các thông tin cần thiết liên quan đến sản phẩm, đó là, tên hàng hoá; tên nước

sản xuất; địa chỉ; định lượng; thành phần cấu tạo; các chỉ tiêu chất lượng; hướng dẫn

sử dụng, bảo quản; ngày, tháng, năm sản xuất, hạn sử dụng; xuất xứ hàng hoá. Tiếp

đến là xuất khẩu gạo sang nước nào thì nên ghi nhãn bằng chính tiếng nước đó, hoặc

bằng tiếng Anh. Tóm lại, nâng cao chất lượng bao bì, bao gói và làm tốt công tác ghi

nhãn trên bao bì vừa nâng cao chất lượng sản phẩm vừa nâng cao năng lực cạnh tranh

của mặt hàng gạo Việt Nam trên thị trường thế giới.

- Đầu tư hệ thống nhập xuất, tự động, công nghệ chế biến tiên tiến nhất

để sản xuất ra những sản phẩm gạo mới với chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu ngày

càng khắt khe của người tiêu dùng, nhất là cho xuất khẩu: Trên thực tế chi phí sản xuất

của Việt Nam là thấp hơn của các nước khác, nhưng chi phí chế biến là cao hơn họ.

Nguyên nhân chủ chủ yếu do khâu chế biến là khâu tổn thất nhiều 2,47%, đứng thứ 2

sau khâu “cắt bó” (2,87%) trong tất cả các khâu sau thu hoạch, làm tăng giá thành xuất

khẩu gạo. Những giải pháp chủ yếu cho khâu này là: ngoài việc đầu tư hệ thống xay

xát, cần chọn lọc liên kết những cơ sở xay xát tốt hiện có trong vùng có khả năng tạo ra

sản phẩm chất lượng tốt, tránh tình trạng vừa thừa lại vừa thiếu dẫn đến đầu tư kém

hiệu quả trong thời gian đầu, tiến tới hiện đại hóa dần toàn bộ từ khâu sản xuất, chế

biến và thị trường phải gắn liền nhau.

- Phải có bến sông giúp ghe lúa của nông dân cũng như thương lái nhập

xuất hàng hóa dễ dàng: tập quán mua bán lúa của nông dân là sử dụng phương tiện

ghe, thuyền, salan, … Để thu hút nông dân vào chợ giao dịch mua bán, cần đầu tư xây

dựng bến sông quanh khu vực Chợ, các phương tiện cần thiết trong vận chuyển, bóc dỡ

hàng hóa thuận lợi, nhanh chóng.

- Phải có cảng biển để các doanh nghiệp ĐBSCL có thể xuất khẩu thông

qua Cảng này thay vì vận chuyển đến các Cảng ở TP. HCM: Đầu tư vào phát triển cơ

sở hạ tầng như cảng biển, hệ thống thông tin, ... phục vụ hoạt động xuất khẩu nhằm

giảm chi phí vận chuyển, chi phí lưu thông gạo, góp phần hạ giá thành xuất khẩu. Về

cảng xuất khẩu yêu cầu cơ bản là phải có cảng chuyên dùng cho hoạt động xuất khẩu

gạo với trang thiết bị hiện đại, có thể bốc xếp cả hàng rời và hàng đóng bao, năng lực

bốc dỡ cao (từ 2000 tấn/ngày trở lên); khả năng tiếp nhận tàu lớn (tải trọng từ 10.000);

79

và phải có hệ thống trung chuyển quy mô lớn, kỹ thuật bảo quản hiện đại và đóng gói

ngay tại kho cảng trước khi giao hàng lên tàu. Trên thực tế, chúng ta chưa có cảng

chuyên dùng xuất khẩu gạo.

Các năm qua, phần lớn gạo xuất khẩu (khoảng 80%) đều thông qua các cảng

Sài Gòn, Đồng Nai, những cảng xuất nhập hàng hoá tổng hợp, có năng lực thông quan

hàng hoá hiện nay của cảng hơn 14 triệu tấn/năm. Trong đó, riêng mặt hàng gạo xuất

khẩu chiếm hơn 30%. Tuy nhiên, năng suất bốc xếp gạo của cảng chỉ đạt bình quân

800 – 1000 tấn/ngày. Trong những năm gần đây, ngành giao thông Vận tải cũng đã cố

gắng rất nhiều để đưa thêm cảng Cần Thơ, Cảng Trà nóc vào hoạt động xuất khẩu gạo,

nhưng khả năng của cảng Cần Thơ, Cảng Trà nóc chỉ tiếp nhận an toàn các tàu tải

trọng từ 3000 – 5000 tấn (đối với tàu cỡ 10.000 tấn cập cảng không an toàn). Điều này

chưa phù hợp với tính hiệu quả trong vận tải hàng hải, nên cảng này mới đang trong

giai đoạn thử nghiệm.

Vị thế ĐBSCL là vùng trọng điểm xuất khẩu nông, thủy sản, … đây là vùng

đóng góp 50% sản lượng lương thực, 90% sản lượng gạo xuất khẩu, 70% sản lượng

trái cây, 52% sản lượng thủy sản và chiếm 20% GDP của cả nước. Nhưng do tàu

trọng tải lớn không thể cập các cảng trong khu vực, nên nhiều năm qua các tỉnh trong

vùng phải vận chuyển tập trung xuất khẩu tại các cảng ở TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai,

Bà Rịa-Vũng Tàu. Ngược lại, khi vùng ĐBSCL cần nhập khẩu phân bón, vật tư thiết

bị kỹ thuật phục vụ cho sản xuất vẫn phải nhập khẩu vào các cảng này, sau đó trung

chuyển về các tỉnh, thành trong khu vực ĐBSCL. Xuất, nhập khẩu với khối lượng

hàng hóa lớn qua các cảng trung gian đã gây tốn kém rất lớn về chi phí vận chuyển,

thời gian, giảm sức cạnh tranh và làm gia tăng áp lực vận tải đường bộ, áp lực bốc dỡ

cho các cảng đầu mối. Thực tế xuất khẩu gạo cho thấy, nếu xuất khẩu trực tiếp gạo từ

Cảng Cần Thơ đến Cảng Singapore sẽ rút ngắn khoảng cách vận chuyển hàng trăm

hải lý, tiết kiệm được khoảng 8-10 USD/tấn hàng so với xuất khẩu tại Cảng Sài Gòn.

Xuất khẩu sang nhiều nước trong khu vực châu Á khác cũng chịu thêm khoản phí như

vậy. Nếu tính mỗi năm xuất nhập khẩu khoảng 5 triệu tấn gạo trực tiếp tại Cảng Cần

Thơ, sẽ tiết kiệm được hàng chục triệu USD.

Ngoài ra, chi phí trong các khâu dịch vụ xuất khẩu gạo còn cao, chi phí bốc

dỡ, xếp hàng và các chi phí khác liên quan tại cảng Sài Gòn khoảng 4 - 5 USD/tấn,

80

chiếm tới 1,4% giá xuất khẩu gạo. Trong khi đó chi phí này tại Băng Cốc chỉ từ 2 -

2,5USD. Ngoài chi phí cảng, tốc độ bốc dỡ rất chậm, so với Băng Cốc ta chậm lại 6

lần, nghĩa là tại Sài Gòn bốc được 1 ngàn tấn/ngày, thì ở Băng Cốc đã bốc được 6

ngàn tấn/ngày. Độ chậm trễ này tuy do nhiều nguyên nhân, song làm tốn thêm 6 ngàn

USD/ngày. Do vậy, dù chi phí sản xuất lúa thấp, nhưng đã làm cho giá thành gạo xuất

khẩu tăng lên, giảm sức cạnh tranh (nhiều chuyên gia cho rằng một trong những

nguyên nhân dẫn đến kém hiệu quả và giảm sức cạnh tranh của gạo Việt Nam là dù

chi phí sản xuất trước thu hoạch thấp nhất thế giới, nhưng chi phí sau thu hoạch đến

gạo xuất khẩu thì cao nhất thế giới).

Do vậy nếu giải quyết tốt các hoạt động phụ trợ nêu trên sẽ góp phần đáng kể

chi phí trung gian. Qua đó nâng cao hiệu quả và thu nhập ngoại tệ trong kinh doanh

• Thay đổi phương thức dự trữ và chế biến

xuất khẩu gạo.

Phần lớn các doanh nghiệp chế biến hiện nay đang áp dụng quy trình ngược

trong chế biến và dự trữ lúa gạo: thay vì phải sấy lúa đạt độ ẩm cho phép <15% trước

khi xay xát, thì các doanh nghiệp chỉ mua nguyên liệu gạo lứt được thương lái xay xát

từ lúa có độ ẩm 16-19%, sau đó mới tiến hành sấy, chế biến và dự trữ. Nếu xay xát

đúng 14% ẩm độ thì thu hồi 68% gạo nguyên và tấm, trong đó 52-54% gạo nguyên,

nhưng với qui trình ngược thì chỉ đạt 60-66%, trong đó gạo nguyên chỉ đạt 40-48%.

Ngoài ra, khi sử dụng gạo lứt làm nguyên liệu đầu vào, quá trình dữ trữ loại

nguyên liệu này dễ dẫn đến ẩm, mốc, … do đó khi có hợp đồng xuất khẩu, để đảm bảo

yêu cầu của khách hàng, các doanh nghiệp chế biến đều phải qua khâu tái chế, có khi

không phải 1 lần. Khi có điều kiện mua gom lúa trực tiếp từ nông dân, thì thay vì trữ

gạo, doanh nghiệp có thể trữ lúa, từ đó giúp tạo điều kiện phân loại dễ dàng, giảm chi

phí tái chế. Theo kinh nghiệm thực tế các doanh nghiệp và định mức cho phép trong

ngành chi phí có thể tiết kiệm từ 1 lần tái chế bình quân là 150-200đồng/kg gạo nguyên

liệu 25% tấm và từ 250 đến 320 đồng/kg đối với gạo 5% tấm.

Việc thay thế sử dụng gạo lứt bằng nguyên liệu lúa còn giúp: hạn chế được các

điểm yếu so với sử dụng nguyên liệu gạo lứt; giữ được hương vị của gạo, nhất là đối

với gạo thơm, ổn định chất lượng gạo; dự trữ lâu hơn so với gạo; thuận lợi hơn trong

81

khâu mua, do có thể mua trực tiếp từ nông dân, có thể phân loại, để tạo ra sảm phẩm

đồng nhất, làm cơ sở để xây dựng thương hiệu.

3.5 Giải pháp 5: Tổ chức lại hệ thống trung gian và phát triển mở rộng chuỗi • Tổ chức thương lái thành lực lượng mua gom hàng cho Chợ Khi nào sản xuất của nông dân còn mang tính tự phát, manh mún thì thương lái

vẫn đóng vai trò quan trọng trong quá trình thu mua hàng nông sản. Để phát huy tính

tích cực và hạn chế tính tiêu cực của thương lái thì việc tổ chức lại hoạt động của

thương lái sẽ giúp ổn định thị trường nông sản. Thương lái phải là chủ thể tham gia

vào chuỗi cung cấp hàng hóa cho doanh nghiệp. Sở dĩ như vậy là vì thương lái có khả

năng len lõi vào vùng sâu, vùng xa giúp cho doanh nghiệp giảm bớt chi phí giao dịch.

Tổ chức thương lái thành lực lượng gom hàng cho doanh nghiệp là giải pháp tốt trong

trường hợp này.

- Doanh nghiệp cần xây dựng những đòn bẩy kích thích tập hợp thương lái trở

thành các vệ tinh mua gom hàng theo yêu cầu của doanh nghiệp.

- Nên tăng cường việc giao dịch trên thị trường cho tất cả nông dân và thương

lái. Thông qua hệ thống chợ lúa gạo, tạo kênh thông tin cân xứng giúp cải thiện mối

quan hệ nông dân-thương lái.

- Xây dựng quy trình mua gom lúa gạo, quy định về cụ thể về chất lượng theo

yêu cầu của từng thị trường xuất khẩu. Doanh nghiệp có cơ chế giá phân biệt đối với

thương lái thực hiện đúng quy trình.

• Phát triển hình thức doanh nghiệp ký hợp đồng sản xuất với nông dân thông

qua mô hình trung gian:

- Mô hình doanh nghiệp ký hợp đồng mua sản phẩm của nông dân thông qua

các đầu mối trung gian như HTX, tổ hợp tác, nhóm nông dân hoặc người đại diện cho

một số hộ nông dân. Đặc điểm của mô hình này là doanh nghiệp không ký kết hợp

đồng trực tiếp với nông dân mà thay vào đó doanh nghiệp thuê các tổ chức trung gian

thực hiện vai trò của mình(xem sơ đồ 3-1).

Mỗi cá nhân hoặc tổ chức trung gian này có trách nhiệm kiểm soát và giám sát

hoạt động sản xuất của nông dân và chịu trách nhiệm toàn bộ hoạt động trong quá

trình sản xuất của nông dân từ gieo hạt đến thu hoạch theo quy định của doanh nghiệp

và họ được hưởng hoa hồng cho việc kiểm soát và giám sát.

82

Trong điều kiện nền sản xuất nông nghiệp còn manh mún và phân tán. Doanh

nghiệp chế biến, tiêu thụ nông sản khó thực hiện việc ký hợp đồng cung cấp vật tư,

hướng dẫn kỹ thuật cho hàng ngàn, hàng vạn nông dân sản xuất nhỏ vì chi phí giao

dịch tăng cao và bản thân họ không đủ năng lực kiểm soát trực tiếp quá trình sản xuất

của từng hộ nông dân. Mô hình này góp phần làm giảm chi phí giao dịch nhờ đầu mối

hợp đồng giảm đi và việc kiểm soát sản xuất và chất lượng sản phẩm của doanh

nghiệp cũng dễ dàng hơn. Người trung gian đóng vai trò cho đại diện cho nông dân,

tạo nên sức mạnh tập thể để thương lượng với doanh nghiệp.

• Mở rộng chuỗi về phía trước Như chương 2 đã phân tích, trong 3 tác nhân chính tham gia trong chuỗi là nông dân trồng lúa, thương lái và doanh nghiệp thì phần giá trị gia tăng của nông dân là lớn nhất, kế đến là doanh nghiệp và cuối cùng là thương lái.

Trong đó, phần doanh nghiệp với chức năng kinh doanh thì tính rủi ro cũng rất lớn, thương lái thì đảm bảo chức năng khá quan trọng trong chuỗi nhưng giá trị giá tăng thấp nhất, và cũng không kém phần rủi ro. Hơn nữa, do có sự xung đột lợi ích giữa các tác nhân nên việc trông chờ để 2 tác nhân doanh nghiệp và thương lái chia sẽ phần giá trị gia tăng cho nông dân trồng lúa là rất khó.

Cách duy nhất để có thể làm gia tăng giá trị cho sản phẩm lúa của nông dân chính là: đầu tư vào lãnh vực nghiên cứu phát triển nhằm tạo ra những cây giống có chất lượng, thực hành sản xuất theo mô hình Global GAP để tạo ra những sản phẩm sạch, có thể truy nguyên nguồn gốc đáp ứng nhu cầu đòi hỏi ngày càng khắt khe của

83

người tiêu dùng, nhất là người tiêu dùng cấp cao. Ngoài ra, cần có sự hỗ trợ cho nông dân đầu tư trang thiết bị nhằm giảm tổn thất do hao hụt trong và sau quá trình thu hoạch.

Để làm được điều đó thì ngay từ bây giờ cần thay đổi suy nghĩ, tạo cho người nông dân hiểu được đã đến lúc phải làm ra gạo có chất lượng cho người tiêu dùng khó tính. Không chỉ thế giới mà ở Việt Nam cũng đã phát triển xu hướng ăn gạo ít hơn, nhưng chất lượng phải ngon. Những loại gạo xốp, nở bán giá thấp nên hạn chế và dần dần thay thế bằng những loại gạo dẻo, thơm. Thuyết phục nông dân trồng đúng phương pháp. Có thể bắt đầu bằng cách các công ty kinh doanh tham gia vào việc hợp tác, hỗ trợ nông dân xây dựng những chuỗi nông trường, chọn đất tốt, chọn giống, canh tác, kỹ thuật, … làm ra những loại gạo ngon tiêu biểu. Xây dựng thương hiệu riêng và đưa ra bán ở các vùng đô thị trong và ngoài nước. Từ đó khuyến khích phát triển nông nghiệp theo hướng chất lượng, tạo dựng thương hiệu uy tín từ chất lượng để nâng thu nhập trồng lúa lên cao hơn. Làm ít mà vẫn có nhiều tiền hơn.

Do vậy, một trong những giải pháp hàng đầu nhằm nâng cao năng lực cạnh

tranh xuất khẩu gạo của Việt Nam phải kể đến là nâng cao chất lượng gạo trong thời

gian tới. Giải pháp này cũng phù hợp với xu hướng ngày càng tiêu dùng nhiều những

hàng hoá chất lượng cao. Tuy nhiên, làm thế nào để nâng cao chất lượng gạo không

phải dễ dàng? Nó đòi hỏi phải thực hiện hàng loạt các biện pháp đồng bộ từ khâu chọn

giống, chăm sóc, tưới tiêu, thu hoạch, chế biến, vận chuyển và bảo quản.

- Giải pháp về giống lúa: Một là, ưu tiên hàng đầu cho việc tuyển các giống lúa

chất lượng tốt, chú trọng các giống lúa đặc sản truyền thống của địa phương, từ đó

hình thành quỹ gen về giống lúa chất lượng cao cho xuất khẩu, thoả mãn nhu cầu

những thị trường khó tính; Hai là, hình thành hệ thống nhân giống lúa thích hợp, đảm

bảo giống tốt, giống thuần, khắc phục tình trạng giống lai tạp, xuống cấp; Ba là, rút

ngắn hơn nữa thời gian nghiên cứu, thực nghiệm đến áp dụng đại trà, đẩy mạnh hoạt

động khuyến khích nông dân để nhanh chóng chuyển giao công nghệ cho nông dân;

Bốn là, mỗi tỉnh, huyện, cần xác định cơ cấu giống tối ưu, đáp ứng nhu cầu thị trường

nước ngoài và phù hợp với lợi thế về thổ nhưỡng, khí hậu cụ thể của mình.

- Giải pháp về quy hoạch vùng sản xuất lúa xuất khẩu: Quy hoạch vùng chuyên

canh lúa gạo xuất khẩu là đòi hỏi khách quan đáp ứng nhanh chóng nhu cầu của thị

trường thế giới về số lượng và đặc biệt là chất lượng, chủng loại và cấp loại gạo, tránh

tình trạng thiếu hoặc thừa một loại gạo nào đó so với nhu cầu. Không nắm được chính

84

xác thông tin thị trường trong bước quy hoạch tổng thể hoặc sản xuất theo lối tự phát,

nghĩa là nhà xuất khẩu gạo chỉ bán cái mà mình có sẵn, chứ không phải cái mà thị

trường cần, đi ngược với marketing hiện đại; Quy hoạch vùng chuyên canh lúa gạo

xuất khẩu còn là căn cứ để Nhà nước đầu tư có hiệu quả cho từng vùng, từng doanh

nghiệp trọng điểm, tránh sự đầu tư tràn lan, lãng phí và kém hiệu quả. Ngoài ra, nó cho

phép sự phối hợp đồng bộ các hoạt động từ sản xuất đến xuất khẩu nhằm nâng cao

chất lượng, giảm chi phí và nâng cao năng lực cạnh tranh tổng hợp trên thương trường

quốc tế. Tuy nhiên, việc quy hoạch trước hết phải đảm bảo được lợi ích thoả đáng cho

người nông dân. Nếu không đáp ứng được yêu cầu này, việc quy hoạch sẽ không trở

thành hiện thực. Do vậy, nội dung quy hoạch vùng chuyên canh cần phải tính toán

đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng theo quy hoạch 7 khâu liên hoàn, đó là Canh tác – Thu

hoạch – Chế biến - Đóng gói – Bảo quản – Vận chuyển – Cảng khẩu, ở ngay vùng

xuất khẩu trọng điểm này.

• Mở rộng chuỗi về phía sau Trong xuất khẩu của các doanh nghiệp hiện nay, hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào đặt hàng từ nước ngoài hoặc trung gian nhập khẩu từ quy cách, chất lượng, và thậm chí là nhãn mác trên bao bì. Vì vậy, người nước ngoài khi ăn gạo của Việt Nam nhưng chỉ biết với một tên khác, một nhãn hiệu khác. Một số doanh nghiệp đàm phán tốt thì được ghi một vài ký hiệu tắt nhỏ phía dưới bao bì để phân biệt như là: LTSH, LTBL, LTST, LTLA, … những ký hiệu mà người Việt Nam nếu không phải trong ngành lương thực cũng khó nhận ra. Đối với thị trường nội địa, người tiêu dùng Việt Nam cũng thường ngộ nhận khi ăn gạo do Việt Nam sản xuất bằng những cái tên mang “hồn” nước ngoài như: gạo thơm Mỹ, thơm Đài Loan, thơm Thái, …

Nếu làm được như thế, sản phẩm làm ra của người nông dân trồng lúa sẽ được các doanh nghiệp mua với giá cao hơn so với sản phẩm cùng loại trên thị trường không chỉ là 1,2 lần mà có thể là 1,5 lần như giá hiện thời của các sản phẩm gạo nổi tiếng trên thế giới (Basmati (Ấn độ), Khawdak Mali (Thái lan),…), đồng thời còn tiết giảm được chi phí.

Đứng về phía doanh nghiệp, để nâng cao chuỗi giá trị, ngoài việc cố gắng

chuyển đổi phương thức chế biến từ sử dụng gạo nguyên liệu sang sử dụng lúa sẽ giúp

doanh nghiệp tiết kiệm một tỷ lệ nhất định và một số khỏan tiết kiệm từ cải tiến quy

trình, công nghệ như đã phân tích trong chương 2. Muốn nâng cao hơn nữa chuỗi giá

trị hạt gạo, không còn cách nào khác là trên cơ sở liên kết sản xuất theo hợp đồng với

85

người nông dân trồng lúa để tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, doanh nghiệp phải

tăng cường mở rộng chuỗi về phía sau. Cụ thể là xây dựng cho bằng được thương hiệu

cho hạt gạo, xúc tiến mở rộng kênh phân phối đến tay người tiêu dùng trong nước cũng

như người tiêu dùng ở nước nhập khẩu, cụ thể là:

- Đối với thị trường trong nước: Các phương tiện thông tin đại chúng nên giúp

đỡ người tiêu dùng phân biệt và nhận biết sản phẩm gạo an toàn, thông qua nhãn mác

khi đóng gói, sẽ phần nào giúp người tiêu dùng an tâm hơn về chất lượng sản phẩm;

doanh nghiệp cần mở rộng mạng lưới phân phối và định hướng cho người tiêu dùng sử

dụng những sản phẩm sạch, có chất lượng cao.

- Đối với thị trường ước ngoài: trước mắt là chuyển từ hình thức bán theo giá

FOB sang bán theo giá CIF, phần này sẽ giúp cho doanh nghiệp tạo thêm phần giá trị

gia tăng cho mình. Sau đó là mở các văn phòng đại diện sang các nước nhập khẩu để

từng bước thâm nhập sâu vào thị trường các nước này.

- Về xây dựng thương hiệu: chúng ta cần quan tâm hơn nữa để tạo ra một

thương hiệu tương xứng cho mặt hàng gạo Việt Nam, nghĩa là có chiến lược và bước

đi để xây dựng uy tín của mặt hàng gạo Việt Nam nhằm cải thiện hình ảnh và vị thế

cho mặt hàng gạo Việt Nam trên thị trường thế giới. Các doanh nghiệp chế biến gạo

Việt Nam hiện nay chỉ quam tâm xây dựng rất nhiều thương hiệu cho riêng doanh

nghiệp mình (cùng một loại gạo thơm như KDM hay Jasmine, sản xuất trong cùng một

vùng nhưng với doanh nghiệp khác nhau thì sẽ được đóng gói với nhiều nhãn hiệu

khác nhau). Đã đến lúc các doanh nghiệp cần tiến đến chuẩn thống nhất để xây dựng

thương hiệu chung cho gạo Việt, sau đó đăng ký bảo hộ trên phạm vi cả ở trong và

ngoài nước, để tránh bị thua thiệt nhiều so với các đối thủ khác. Ngày nay người ta

quan niệm rằng “Thương hiệu không chỉ là tài sản mà còn là bản sắc và văn hoá của

mỗi quốc gia”. Hy vọng tương lai không xa, mỗi lần người ta nghĩ đến Việt Nam là

mỗi lần thương hiệu gạo Việt Nam được nhắc đến.

86

Phần Kết luận và Kiến nghị

1 Kết luận

Trong cơ chế thị trường người sản xuất luôn luôn lựa chọn sản xuất ra mặt

hàng nào mang lại nhiều lợi nhuận nhất. Nông dân cũng là người sản xuất nên họ sẽ

chọn cây trồng, vật nuôi nào mang lại lợi ích lớn nhất cho họ. Tuy nhiên, trong điều

kiện thông tin bất cân xứng thì dễ dẫn đến tình trạng “lúc trồng, lúc chặt” gây nên tổn

thất lớn cho bản thân nông dân, cũng như cho xã hội. Việc gắn kết nông dân với các

doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ thông qua các chợ trung tâm nông sản là xu hướng tất

yếu khách quan trong nền nông nghiệp hiện đại. Sản xuất hợp đồng và GlobalGAP

trong tiêu thụ nông sản là một trong những hình thức giao dịch nông sản, góp phần gắn

kết nông dân với doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ.

Để giải quyết các vấn đề trên, luận văn “Nâng cao vai trò của chợ chuyên

doanh lúa gạo Thốt Nốt trong việc tạo ra giá trị gia tăng cho hạt gạo” tác giả đã thực

hiện và giải quyết một số nội dung chính sau:

- Khái quát, hệ thống lại cơ sở lý thuyết về chuỗi giá trị và sản xuất nông

nghiệp theo hợp đồng có thể tham khảo để áp dụng cho thị trường nông sản nước ta

nói chung, và ngành hàng lúa gạo nói riêng.

- Vận dụng cơ sở lý thuyết nghiên cứu vào phân tích chuỗi giá trị lúa gạo và

sản xuất theo hợp đồng tại các Chợ trung tâm nông sản trong hệ thống Tổng Công ty

Lương thực Miền Nam từ đó rút ra những nguyên nhân cơ bản tác động đến chuỗi giá

trị lúa gạo hiện tại, đến thị trường giao dịch lúa gạo (thông qua giao dịch tại chợ và sản

xuất theo hợp đồng), chỉ ra những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và đe dọa đối với dự

án Chợ chuyên doanh lúa gạo Thốt Nốt đã và đang triển khai đầu tư xây dựng tại thành

phố Cần Thơ.

- Qua đó, tác giả đã đề xuất một số định hướng nhằm nâng cao vai trò của

Chợ chuyên doanh lúa gạo Thốt Nốt trong chuỗi giá trị lúa gạo khi dự án này được đầu

tư xây dựng xong và đi vào hoạt động, từ đó đề ra 9 nhóm giải pháp để phát triển

chuỗi giá trị lúa gạo và sản xuất theo hợp đồng nhằm tạo ra giá trị gia tăng cho hạt gạo.

Chợ Chuyên doanh lúa gạo Thốt Nốt tuy có nhiều tiềm năng, lợi thế và sức cạnh

tranh cao về sản xuất - xuất khẩu lúa gạo, song để phát huy hết tiềm năng và đem lại

hiệu quả cao đòi hỏi phải áp dụng đồng bộ các giải pháp kinh tế - tổ chức - kỹ thuật và

87

công nghệ. Ngoài sự nỗ lực của Chợ, doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ trong vai trò

quản trị chuỗi giá trị lúa gạo; vai trò hạt nhân quyết định sự thành công của hình thức

sản xuất theo hợp đồng. Các nhóm giải pháp của tác giả rất cần có sự quan tâm, tham

gia của Nhà nước, các nhà khoa học từ khâu sản xuất, chế biến, tiêu thụ, tạo lập môi

trường sản xuất kinh doanh thuận lợi nhằm nâng cao vị thế và hiệu quả của mô hình

hoạt động Chợ Trung tâm nông sản nói riêng và của ngành sản xuất lúa gạo Việt Nam

nói chung trong thời gian tới.

2 Kiến nghị

Nhà nước cần hoàn thiện khung pháp lý về sản xuất theo hợp đồng, về chợ và

sàn giao dịch lúa gạo.

• Khung pháp lý về sản xuất theo hợp đồng Sản xuất theo hợp đồng là một chủ trương đúng của chính phủ, phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới. Song trong quá trình thực hiện, khung pháp lý hiện tại chưa tạo ra được những chế tài chặt chẽ giữa các bên nên cả doanh nghiệp và hộ nông dân chưa yên tâm. Nội dung của nó chủ yếu mới dừng lại ở mức “khuyến khích”, chưa có tính pháp lý cao, chưa có hướng dẫn của các bộ, ngành chức năng về quy trình thực hiện, quy chế thưởng phạt đối với các bên chủ thể tham gia ký kết hợp đồng. Để tăng cường hơn nữa việc sản xuất lúa theo hợp đồng, việc hoàn thiện khung pháp lý là hết sức cần thiết, trong đó:

- Quan hệ hợp đồng phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và đôi

bên cùng có lợi. Trong giao dịch nông sản thông qua hình thức sản xuất theo hợp

đồng, các bên phải xác lập được cơ chế phân bổ lợi ích, rủi ro và quyền quyết định

giữa người mua và người bán. Về mặt lợi ích, người mua và người bán cùng chia sẻ

trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. Đó là người sản xuất đảm bảo lúa hàng hóa sản xuất ra

có nơi tiêu thụ với một mức thu nhập kỳ vọng; người mua (doanh nghiệp chế biến, tiêu

thụ) đảm bảo mua được hàng với số lượng, chất lượng và giá cả biết trước. Về mặt rủi

ro, người mua sẽ chịu rủi ro về thị trường và người bán (nông dân) sẽ chịu rủi ro về

sản xuất. Tuy nhiên, trong trường hợp rủi ro bất khả kháng của bất cứ bên nào cũng có

một cơ chế chia sẻ để đảm bảo mối quan hệ phát triển bền vững. Về quyền quyết định,

sản xuất theo hợp đồng có nhiều dạng khác nhau nên các chủ thể sẽ chia sẻ quyền

quyết định tùy thuộc vào lợi ích và rủi ro được phân bổ.

88

Tuy nhiên, do nông dân là đối tượng dễ bị tổn thương nhất trong chuỗi giá

trị lúa gạo, nên để hạn chế rũi ro gây ra khi thực hiện theo cơ chế này, nhà nước cần

lập ra quỹ bảo hiểm rủi ro (hoặc quỹ bình ổn giá). Khi giá cả thị trường quá thấp làm

cho nông dân lỗ vốn, hoặc không đảm bảo lợi nhuận tối thiểu, nhà nước dùng quỹ này

cho một số doanh nghiệp mua lúa của nông dân theo giá sàn, đảm bảo lợi ích hợp lý

của nông dân.

- Xây dựng quy trình thực hiện, quy chế thưởng phạt song song với đẩy

mạnh các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho nông dân và các bên liên quan trong việc ký

kết, thực hiện hợp đồng tiêu thụ nông sản; tăng cường sự chỉ đạo của chính quyền các

cấp, các cơ quan liên quan trong việc hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp, các HTX, tổ hợp

tác xây dựng và thực hiện các hợp đồng tiêu thụ nông sản; giải quyết các vướng mắc

phát sinh trong việc thực hiện các cam kết trong hợp đồng tiêu thụ nông sản đã ký kết

giữa nông dân với doanh nghiệp và các bên liên quan.

- Khi mà chính sách hạn điền chưa cho phép tích tụ ruộng đất đến một mức

nhất định, Nhà nước và các tổ chức nghề nghiệp cần truyên truyền vận động triển khai

mô hình mẫu khuyến khích phát triển HTX để liên kết nông dân lại với nhau.

• Khung pháp lý về Chợ và sàn giao dịch lúa gạo Kinh tế VN đang hội nhập nhanh với thế giới. Những phương thức mua bán

hiện đại đã, đang và sẽ du nhập mạnh vào nước ta. Những sản phẩm như: cà phê, đậu

tương, cao su, … đã được giao dịch tại các sàn của nhiều nước trên thế giới và hy vọng

trong tương lại không xa gạo Việt Nam cũng sẽ được mua bán trên thị trường tương lai

tại các sàn giao dịch.

Nhân dịp lễ hội Festival lúa gạo Việt Nam lần thứ I, tổ chức tại Hậu Giang

vào cuối tháng 11 đầu tháng 12/2009. Theo kế hoạch, một sàn giao dịch lúa gạo sơ

khai đầu tiên cũng đã ra đời. Tuy nhiên, cũng như những sàn giao dịch khác để sàn

giao dịch hoạt động thì những vấn đề cơ bản cần giải quyết trước mắt là phải xây

dựng: Khung pháp lý, Quy chế giao dịch, Hạ tầng kỹ thuật, Cơ cấu tổ chức, Hình thức

sở hữu, ... Việc thiếu các khung pháp lý sẽ làm doanh nghiệp ít mạnh dạn bước vào

giao dịch theo phương thức mới nên sẽ hội nhập chậm với thế giới, như vậy càng làm

cho năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam ngày càng tụt hậu xa hơn so với

đối tác nước ngoài.

89

Tuy nhiên, quá trình xây dựng khung pháp lý chúng ta cần phải phân biệt rằng

thị trường chứng khoán và thị trường hàng hóa vật phẩm (bao gồm nông sản, khoáng

sản) là hai thị trường có các nghiệp vụ giao dịch có giống nhau nhưng bản chất khác

nhau. Giao dịch hàng hóa nông sản trên thị trường giao sau chủ yếu là công cụ phòng

chống rủi ro, còn giao dịch chứng khoán chủ yếu là hoạt động đầu tư. Vì vậy, việc xây

dựng khung pháp lý về Chợ và sàn giao dịch hàng hóa nông sản cần có sự phân biệt

giữa giao dịch hàng hóa nông sản và giao dịch chứng khoán. • Những chính sách ưu tiên cần thiết Nhằm thu hút các thành phần kinh tế tham gia giao dịch hàng hóa tại chợ, các cơ quan quản lý Nhà nước có khung chính sách riêng cho các hoạt động tại chợ, trong đó định hướng ưu tiên như:

- Có chế độ miễn giảm thuế cho những hoạt động có thu của chợ áp dụng

cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng chợ.

- Miễn giảm thuế cho các mặt hàng tiêu dùng, phục vụ nông nghiệp khi bán tại chợ để nông dân được hưởng lợi nhiều hơn, bù vào chi phí vận chuyển khi phải mang lúa đến chợ để bán (thay vì bán tại ruộng như trước).

- Nhà nước ưu tiên trước hết cho chợ đầu mối kinh doanh lúa gạo được mua

lúa tạm trữ, gửi lúa tạm trữ tại chợ.

- Ưu tiên cho chợ được thực hiện hợp đồng xuất khẩu gạo theo hiệp định

của Chính phủ.

- Chính sách khuyến khích, hỗ trợ các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp trên địa

bàn các vùng phụ cận chợ phối hợp cùng Công ty quản lý Chợ ký kết thực hiện sản xuất

nông nghiệp theo hợp đồng và theo Global GAP tạo ra sản phẩm có chất lượng, có khả

năng cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường quốc tế.

- Điều chỉnh mức thuế VAT tiêu thụ gạo nội địa từ 5% xuống còn 0% (như thuế suất áp dụng đối với gạo xuất khẩu là 0%) cho các doanh nghiệp để tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cho các giao dịch tại chợ.

Khi các doanh nghiệp Việt Nam tiến sâu vào hội nhập quốc tế, cùng với tiến

trình hội nhập của đất nước thì việc doanh nghiệp xác định họ đang ở bậc thang nào

trong chuỗi giá trị toàn cầu mà họ sẽ tham gia. Vì vậy, việc nâng cao vị thế của Việt

Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu trở thành một vấn đề trọng đại đối với các doanh

nghiệp Việt Nam, cũng như nền kinh tế Việt Nam khi đã gia nhập thị trường thế giới.

Và doanh nghiệp rất cần vươn lên để phát triển khâu đầu cũng như là khâu cuối trong

90

chuỗi giá trị này, nghĩa là tham gia vào lĩnh vực nghiên cứu và phát triển - sở hữu trí

tuệ, thương hiệu và thương mại. Đó cũng chính là sự lựa chọn tất yếu để thoát khỏi tụt

hậu và lệ thuộc, là sứ mạng mà Chợ Đầu mối chuyên doanh lúa gạo Thốt Nốt và các

doanh nghiệp trong ngành cần vươn tới. Tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu chính là

quy luật tất yếu của thời hội nhập.

Trong chuỗi giá trị hạt gạo (xem đồ thị 1), các doanh nghiệp Việt Nam chỉ tham

gia được ở phân khúc thấp, sản xuất và tiêu thụ nguyên liệu thô là chủ yếu. Do đó, để

nâng cao hơn nữa chuỗi giá trị cho hạt gạo Việt Nam, rất cần thiết có nghiên cứu phát

triển và phân tích xây dựng thương hiệu nhằm: mở rộng chuỗi về phía trước để đưa

các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong công tác nghiên cứu phát triển đến tay người sản

xuất, chế biến; mở rộng chuỗi về phía sau đối với hoạt động xuất khẩu để đưa sản

phẩm gạo đến tay người tiêu dùng cuối cùng ở nước nhập khẩu, khai thác các giá trị

cho quốc gia (Nông dân, thương nhân, doanh nghiệp, nhà nước,…)./.

91

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hồ Tiến Dũng (2005), Nâng cao kỹ năng điều hành sản xuất, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Nguyễn Ngọc Đệ, Giáo trình cây lúa, Viện Nghiên cứu phát triển ĐBSCL, Đại học Cần Thơ.

3. Eaton, C. and A. W. Shepherd (2001). Contract Farming: Partnerships for Growth. A Guide. FAO Agricultural Services Bulletin No. 145. Rome, Food and Agriculture Organization of the United Nations.

4. Gereffi, G. and M. Korzeniewicz, Eds. (1994). Commodity Chains and Global Capitalism. London, Praeger.

5. Hồ Đức Hùng (2004) Bài giảng và giáo trình môn Quản trị maketing.

6. Vũ Trọng Khải, Bài giảng Chiến lược phát triển nông ngiệp và nông thôn.

7. Võ Thị Thanh Lộc (2009), Sinh kế và lợi ích của người trồng lúa trong chuỗi

giá trị gạo ở ĐBSCL, Viện Nghiên cứu phát triển ĐBSCL, Đại học Cần Thơ.

8. Bảo Trung (2009), Tổng quan về thế chế giao dịch nông sản

9. Dự án nâng cao hiệu quả thị trường cho người nghèo (M4P), Sổ tay thực hành phân tích chuỗi giá trị.

10. Hiệp hội Lương thực Việt Nam (2009) Báo cáo tình hình xuất khẩu gạo 6 tháng đầu năm 2009.

11. Sở Thương mại Cần Thơ(2002), Dự án đầu tư Chợ chuyên doanh lúa gạo cấp khu vực tại Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ.

12. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Cần Thơ, Báo cáo sơ kết 05 năm thực hiện quyết định 80/2002/QĐ-TTg, của Thủ tướng chính phủ về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng.

13. Trung tâm thông tin phát triển nông nghiệp nông thôn (2008) Báo cáo thường niên ngành hàng lúa gạo Việt Nam 2007 và triển vọng.

14. Tổng Công ty Lương thực Miền Nam (2008) Báo cáo tổng kết tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2008.

15. Tổng Công ty Lương thực Miền Nam(2002), Dự án đầu tư Chợ Trung tâm nông sản Thanh Bình, Chợ Trung tâm nông sản Hậu Thạnh Đông, Chợ Trung tâm nông sản Phú Cường.

; www.agroviet.gov.vn

; xttm.agroviet.gov.vn;

www.gso.gov.vn

16. www.markets4poor.org

; baotrung44.blogspot.com

92

PHỤ LỤC

So sánh giá xuất khẩu mặt hàng gạo thường 25% tấm của

Việt Nam và Thái Lan

Gạo 25% tấm Chênh lệch Tháng/năm

Nguồn: Thu thập của tác giả từ dữ liệu thị trường nông sản AGRODATA, Trung tâm Thông tin PTNNNT, Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT, www.agro.gov.vn

Thái Lan 289 291 295 292 289 296 301 299 301 312 326 353 369 360 434 530 785 910 - - - 650 520 - - 430 470 470 450 450 - 01/2007 02/2007 03/2007 04/2007 05/2007 06/2007 07/2007 08/2007 09/2007 10/2007 11/2007 12/2007 01/2008 02/2008 03/2008 04/2008 05/2008 05/2008 06/2008 07/2008 08/2008 09/2008 10/2008 11/2008 12/2008 01/2009 02/2009 03/2009 04/2009 05/2009 06/2009 Việt Nam 268 278 286 288 287 286 288 297 299 300 312 328 341 419 513 673 948 - - - 530 520 410 360 310 353 392 405 400 400 340 Giá trị 21 13 9 4 2 10 13 2 2 12 14 25 28 -59 -79 -143 -163 - - - - 120 110 - - 77 78 65 50 50 - % 108% 105% 103% 101% 101% 103% 105% 101% 101% 104% 104% 108% 108% 86% 85% 79% 83% - - - - 123% 127% - - 122% 120% 116% 113% 113% -