ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOÀNG HỮU MỸ
VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN TRONG HOẠT ĐỘNG
XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO BỘ LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2015
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380101.03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN THU HẠNH
Hà nội – 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
HOÀNG HỮU MỸ
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ..................................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ......................................................... 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài ............................................. 5
5. Kết cấu của luận văn ............................................................................... 6
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM
PHÁN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ .................... 7
1.1 Khái niệm Thẩm phán và vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét
xử vụ án hình sự........................................................................................ 7
1.1.1 Khái niệm Thẩm phán ........................................................................ 7
1.1.2 Vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử vụ án hình sự. .............. 9
1.2 Một số nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự liên quan đến vai trò
của Thẩm phán ........................................................................................ 12
1.2.1Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự . 13
1.2.2Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật
.................................................................................................... 15
1.2.3Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án. .............................................. 17
1.2.4Nguyên tắc suy đoán vô tội ................................................................ 19
1.3 Mối quan hệ của Thẩm phán với những người tiến hành tố tụng và
một số người tham gia tố tụng trong xét xử vụ án hình sự ..................... 20
1.3.1. Mối quan hệ giữa Thẩm phán với những người tiến hành tố tụng ........ 20
1.3.2. Mối quan hệ của Thẩm phán với một số người tham gia tố tụng ........ 25
1.4. Lịch sử hình thành và phát triển các quy định pháp luật về vai trò
của Thẩm phán ....................................................................................... 26
1.4.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1988 .............................................. 26
1.4.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 2003 .............................................. 36
1.4.3 Giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2015 ............................................... 40
Kết luận chương 1 .................................................................................... 43
Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
NĂM 2015 VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN
HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN ............................................. 44
2.1. Quy định của BLTTHS năm 2015 về vai trò của Thẩm phán trong
hoạt động xét xử vụ án hình sự ............................................................... 44
2.1.1. Vai trò của Thẩm phán trong quá trình chuẩn bị xét xử..................... 44
2.1.2. Vai trò của Thẩm phán trong quá trình xét xử tại phiên tòa ............... 56
2.2. Thực tiễn và hạn chế về vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử
vụ án hình sự ........................................................................................... 73
2.2.1 Về số lượng biên chế Thẩm phán ....................................................... 73
2.2.2 Kết quả đã đạt được trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của Thẩm
phán......................................................................................................... 74
2.3 Những tồn tại, hạn chế trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự của
Tòa án nhân dân ..................................................................................... 75
2.3.1 Hạn chế chủ quan............................................................................. 76
2.3.2 Hạn chế khách quan ......................................................................... 79
2.4. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong hoạt động xét xử các
vụ án hình sự của Tòa án nhân dân ........................................................ 79
2.4.1 Nguyên nhân khách quan .................................................................. 79
2.4.2 Nguyên nhân chủ quan ..................................................................... 82
Kết luận chương 2 .................................................................................... 84
Chương 3: MỘT SỐYÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ .... 86
3.1. Một số yêu cầu cải cách tư pháp nhằm nâng cao vai trò của Thẩm phán 86
3.1.1 Đối với Tòa án ................................................................................. 87
3.1.2 Đối với Thẩm phán ........................................................................... 88
3.2 Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Thẩm phán trong xét xử
vụ án hình sự........................................................................................... 93
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về vai trò của Thẩm phán trong xét xửvụ án hình
sự ......................................................................................................... 93
3.2.2 Một số giải pháp khác .....................................................................101
Kết luận chương 3 ...................................................................................105
KẾT LUẬN ............................................................................................106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................108
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT Ký hiệu Nguyên nghĩa
BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự 1
2 TTHS Tố tụng hình sự
3 HĐXX Hội đồng xét xử
4 TAND Tòa án nhân dân
5 NXB Nhà xuất bản
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chúng ta đang trong quá trình thực hiện cải cách tư pháp, việc xây dựng,
kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và nâng cao chất lượng cho
đội ngũ Thẩm phán ngành TAND nói riêng là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm. Với việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp theo
các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, đặc biệt là Nghị quyết số 08-NQ/TW và
Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, trong đó yêu cầu đối với công tác
cán bộ là: “Rà soát đội ngũ cán bộ tư pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp
trong sạch, vững mạnh” [1], “Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp,
nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm
pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức,
chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán
bộ” và “Đào tạo đủ số lượng cán bộ tư pháp có trình độ nghiệp vụ và ngoại ngữ
chuyên sâu về lĩnh vực tư pháp quốc tế nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
Nhà nước, tổ chức, công dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và
khu vực”…, ngành Tòa án nhân dân đã rất chú trọng việc kiện toàn và nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận, bản lĩnh chính trị, phẩm chất
đạo đức, lối sống lành mạnh của đội ngũ cán bộ, công chức trong ngành, đặc biệt
là đội ngũ Thẩm phán, do đó đội ngũ Thẩm phán ngành Tòa án nhân dân đã
không ngừng được tăng cường về số lượng và nâng cao về chất lượng. Nhiệm vụ
đó đặt ra yêu cầu phải có chiến lược cán bộ nhất là đội ngũ Thẩm phán của Tòa
án nhân dân, trong tổng thể chiến lược cán bộ của Đảng thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thực tiễn cho thấy, trong những năm qua ngành Tòa án nhân dân đã
1
không ngừng lớn mạnh. Song song với việc triển khai thực hiện tốt các nhiệm
vụ chuyên môn, lãnh đạo ngành Tòa án nhân dân rất chú trọng tới công tác
kiện toàn tổ chức và xây dựng đội ngũ Thẩm phán, đảm bảo về chất lượng
cũng như số lượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của ngành và của các
địa phương. Đội ngũ Thẩm phán của ngành Tòa án nhân dân về cơ bản đã
phát huy và giữ vững được bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống
lành mạnh, gắn bó với nhân dân; đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập kinh tế,
quốc tế; là lực lượng quan trọng góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân làm nên những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Công tác cán bộ và công tác xây dựng đội ngũ Thẩm phán đã
bám sát nhiệm vụ chính trị, thể chế hóa, cụ thể hóa được nhiều chủ trương,
quan điểm, giải pháp lớn đề ra trong chiến lược cán bộ[10].
Tuy nhiên, công tác kiện toàn tổ chức và xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức, đội ngũ Thẩm phán ngành Tòa án nhân dân cho thấy lĩnh vực này hiện
còn một số khó khăn như việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán ngành Tòa án
nhân dân vẫn còn phải nghiên cứu.
Đứng trước yêu cầu “Đổi mới tổ chức Tòa án nhân dân tối cao theo
hướng tinh gọn với đội ngũ thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về
pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành….Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét
xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng
và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ,
nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi
đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp” [2].
Chức năng xét xử của Tòa án được thực hiện thông qua và tập trung vào
hoạt động của Thẩm phán. Theo đó, Thẩm phán giữ vai trò quan trọng trong xét
xử - giai đoạn trung tâm của hoạt động tố tụng nói chung và trong xét xử vụ án
2
hình sự nói riêng. Chính vì vậy, số lượng và chất lượng của đội ngũ Thẩm phán
cũng như cách thức tổ chức, cơ chế vận hành đối với đội ngũ cán bộ này là yếu
tố mang tính quyết định đến hiệu quả quá trình giải quyết vụ án hình sự của các
cơ quan tiến hành tố tụng. Trong những năm vừa qua, đội ngũ Thẩm phán đã
không ngừng được tăng cường về số lượng và nâng cao về chất lượng, góp phần
đáng kể trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của Nhà
nước và xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Có thể nói,
đội ngũ Thẩm phán có ảnh hưởng rất lớn đến nhiệm vụ chính trị của hệ thống
Tòa án nói riêng và của bộ máy nhà nước nói chung.
Chính vì vậy, thông qua việc xét xử các vụ án hình sự và đưa ra những
giải pháp nhằm đánh giá vai trò của Thẩm phán có ý nghĩa cấp thiết trong
công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay và đáp ứng yêu cầu của luận
văn thạc sĩ luật học. Vì vậy, tôi lựa chọn đề tài "Vai trò của Thẩm phán
trong hoạt động xét xử vụ án hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự Việt
Nam năm 2015" làm luận văn thạc sĩ luật học học góp phần làm rõ thêm vai
trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử vụ án hình sự, từ đó đề xuất một số
vấn đề hoàn thiện các quy định của pháp luật về vai trò của Thẩm phán trước
yêu cầu cải cách tư pháp, nhằm nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự
của Tòa án trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xét xử là hoạt động trung tâm của tố tụng hình sự. Vì vậy vai trò của
Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự là một trong những vấn đề được
những người làm công tác nghiên cứu và thực tiễn quan tâm, đã có một số
công trình nghiên cứu liên quan đề đề tài này dưới dạng sách (sách chuyên
khảo, sách tham khảo và giáo trình): GS.TSKH Lê Cảm (2003) “Nguyên tắc
tranh tụng trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự”,
Tạp chí luật học.PGS.TSKH Lê Cảm và TS Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên)
3
(2004), Cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp qu yền,
Nxb ĐHQGHN.Ths. Đinh Văn Quế (2005), Thủ tục xét xử sơ thẩm hình sự
trong luật TTHS Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. PGS. TS Võ
Khánh Vinh (2007), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb Công
an nhân dân. Trường cán bộ Tòa án (2014), Chương trình đào tạo Thẩm phán
phần chung (Tập bài giảng cho Khóa 1). Nxb Văn hóa thông tin. Đặc biệt là
các bài viết khoa học, các công trình nghiên cứu dưới dạng bài viết đăng trên
các tạp chí khoa học có liên quan đến đề tài này, cụ thể: TS. Trần Thu Hạnh,
Một số giải pháp nâng cao vị thế của đội ngũ thẩm phán trong tố tụng hình sự
đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25
(2009) 94-100. GS.TSKH Lê Cảm (2011) “Tòa án là trung tâm – Xét xử là
trọng tâm trong tố tụng hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp”, Tạp chí Tòa
án nhân dân – Tòa án nhân dân Tối cao số 9, tháng 5/2011. GS.TSKH Lê
Cảm (2011) “Hoàn thiện nguyên tắc tranh tụng trong pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam theo tinh thần cải cách tư pháp”, Tạp chí Kiểm sát – Viện kiểm
sát nhân dân Tối cao số 11, tháng 6/2011. Nguyễn Quang Lộc - Nguyên Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao “Kỹ năng viết Bản án hình sự sơ thẩm”. Tạp chí
Tòa án nhân dân – Tòa án nhân dân Tối cao số 17, tháng 9/2014. Bên cạnh
đó, một số công trình dưới dạng luận văn thạc sĩ như: Trương Thị Hạnh
(2009), Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ Luật học.Trịnh Ngọc Thúy (2013), Vị trí vai trò của Thẩm phán
Tòa án nhân dân cấp huyện trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự, Luận
văn thạc sĩLuật học.Hà Anh Tuấn (2014), Vị trí, vai trò của Thẩm phán Tòa
án nhân dân cấp tỉnh trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự, Luận văn thạc
sĩLuật học.Hoàng Thị Thoa (2014), Vai trò của Thẩm phán Tòa án nhân dân
cấp quận, huyện trong xét xử các vụ án hình sự, Luận văn thạc sĩ Luật học.
Các công trình trên đã phần nào đã đề cập đến những khía cạnh nhất
định của chế định Thẩm phán,có một số công trình nghiên cứu được tiến hành
4
cách đây khá lâu, dẫn tới hệ quả là giá trị về mặt lý luận cũng như thực tiễn sẽ
có phần hạn chế màchưa nghiên cứu hoàn thiện những chế định liên quan đến
vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử vụ án hình sự theo BLTTHS
năm 2015.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1.Mục đích
Nghiên cứu góp phần làm rõ vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét
xử các vụ án hình sự.
Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật tố tụng về vai
trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử vụ án hình sự. Từ đó, tác giả của
luận văn đã đưa ra một số quan điểm và một số giải pháp nhằm nâng cao vai
trò của Thẩm phán trong hoạt động giải quyết vụ án hình sự.
3.2 Nhiệm vụ
- Nghiên cứu vai trò của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự theo
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Làm rõ những đặc trưng riêng
của hoạt động xét xử các vụ án hình sự của Thẩm phán hiện nay.
- Đưa ra quan điểm và đề xuất một số giải pháp cơ bản bảo đảm chất
lượng xét xử các vụ án hình sự của Thẩm phán góp phần thực hiện có hiệu
quả công cuộc cải cách tư pháp, nâng cao uy tín của nền tư pháp nước nhà
trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của BLTTHS năm
2015 về vai trò của Thẩm phán Tòa án nhân dân trong hoạt động xét xử các
vụ án hình sự.
4.2.Phạm vi nghiên cứu
5
Trong phạm vi luận văn thạc sĩ luật học thuộc chuyên ngành luật hình sự
và tố tụng hình sự, luận văn bao gồm những nội dung lý luận và thực tiễn có
liên quan đến vấn đề vai trò của Thẩm phán Tòa án nhân dân trong hoạt động
xét xử các vụ án hình sự ở giai đoạn xét xử sơ thẩm và phúc thẩm.
Nghiên cứu thực tiễn xét xử vụ án hình sự và số lượng biên chế Thẩm
phán của toàn ngành Tòa án. Nguyên nhân của những tồn tại và hạn chế;
Những bất cập của các quy định của pháp luật hiện hành, của cơ chế tác động
đến vai trò của Thẩm phán. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về vai trò của Thẩm phán trong hoạt
động xét xử vụ án hình sự.
Chương 2: Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về vai
trò của Thẩm phán trong xét xử vụ án hình sự và thực tiễn thực hiện.
Chương 3: Một số yêu cầu và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của
6
Thẩm phán.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA
THẨM PHÁN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1 Khái niệm Thẩm phán và vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét
xử vụ án hình sự
1.1.1 Khái niệm Thẩm phán
Tòa án nhân dân là một trong những cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng có vị trí vai trò quan trọng. Hơn nữa, trong Hiến pháp năm 2013 đã quy
định “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”.
Theo từ điển Luật học và Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
năm 2002 có định nghĩa thì: “Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy
định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những
việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án” [45].
Trong Tòa án, Thẩm phán là người có vai trò then chốt để thực thi nhiệm
vụ tố tụng.Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 đã đưa ra khái niệm
“Thẩm phán là người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của Luật này
được Chủ tịch nước bổ nhiệm để làm nhiệm vụ xét xử” [30, Điều 65]. Các
điều kiện, tiêu chuẩn của Thẩm phán:Là công dân Việt Nam, trung thành với
Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm
chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần dũng cảm và
kiên quyết bảo vệ công lý, liêm khiết và trung thực,có trình độ cử nhân luật
trở lên, đã được đào tạo nghiệp vụ xét xử, có thời gian làm công tác thực tiễn
pháp luật và có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Thẩm phán có các ngạch sau: Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm
7
phán cao cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp [30, Điều 66].
Theo khái niệm này thì “Thẩm phán là người được Chủ tịch nước bổ
nhiệm để nhân danh Nhà nước thực hiện quyền tư pháp. Trọng trách của
Thẩm phán rất nặng nề, sứ mệnh của Thẩm phán rất cao quý. Trong tiến trình
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng, Nhà nước và Nhân
dân yêu cầu các Thẩm phán phải thực hiện nhiệm vụ một cách vô tư, khách
quan, thượng tôn pháp luật; đòi hỏi các Thẩm phán phải trở thành biểu tượng
của đạo đức thanh liêm, tuân thủ những nguyên tắc của Hiến pháp về hoạt
động tư pháp, thực hiện được lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thẩm phán
phải “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” và “Gần dân, hiểu dân, giúp
dân, học dân” [15].
Ngoài ra, Thẩm phán là một nghề vinh quang nhưng phải chịu nhiều áp
lực, khó khăn, vất vả. Với trọng trách của người bảo vệ và thực thi công lý,
Thẩm phán luôn phải đối mặt với những rủi ro, nguy hiểm, cám dỗ, vì mỗi
phán quyết của họ tác động trực tiếp đến tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản
và cả tính mạng con người. Chính vì vậy, hoạt động của Thẩm phán luôn
được đặt dưới sự giám sát nghiêm ngặt của người dân và xã hội. Người dân
đòi hỏi ở Thẩm phán những phẩm chất cao quý với những đánh giá khắt khe:
bên cạnh trình độ chuyên môn giỏi; sự hiểu biết sâu rộng về xã hội, khoa
học…, Thẩm phán phải là người có đạo đức, lòng dũng cảm, dám đấu tranh
không khoan nhượng với tội phạm và vi phạm pháp luật; có tinh thần thượng
tôn pháp luật; luôn tuân theo lẽ công bằng; có trách nhiệm với xã hội và có
tấm lòng nhân hậu. Kiến thức chuyên môn chỉ có thể được phát huy khi người
Thẩm phán có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần trách nhiệm, sự vô
tư, khách quan, đức thanh liêm và trung thực, tính cần mẫn và tận tụy trong
công việc,… Đây là những phẩm chất đạo đức nghề nghiệp để mỗi Thẩm
phán khẳng định chính mình và không bị sa ngã trước những cám dỗ, là một
8
trong những điều kiện tiên quyết để bảo đảm cho người Thẩm phán hoàn
thành một cách trung thực nhiệm vụ được giao, là yếu tố để duy trì niềm tin
của người dân vào công lý, công bằng xã hội. Cho dù hoạt động xét xử được
dựa trên một nền tảng pháp lý vững chắc, được thực hiện bởi những Thẩm
phán có năng lực, trình độ, nhưng nếu kém về phẩm chất đạo đức thì chất
lượng hoạt động xét xử không thể được bảo đảm.
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể rút ra khái niệm Thẩm phán như
sau: “Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm
nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền
của Tòa án”.
1.1.2 Vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử vụ án hình sự.
Theo Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên thì "vai trò"
được hiểu là "Vai trò là chức năng, tác dụng của cái gì, hoặc của ai đó trong
sự vận động, phát triển của nhóm tập thể nói chung". [46] Như vậy nói tới vai
trò là nói tới sự hiện diện của ít nhất hai sự vật hiện tượng, trong đó sự hiện
diện của một hai sự vật hiện tượng này có ý nghĩa nhất định với sự vật hiện
tượng kia, qua mối quan hệ đó, sự vật hiện tượng này thể hiện vai trò của
mình với sự vật hiện tượng kia.
Trong mối quan hệ giữa Thẩm phán với hoạt động xét xử vụ án hình sự,
“vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử vụ án hình sự được hiểu là
tác dụng, ý nghĩa của Thẩm phán đối với hoạt động xét xử vụ án hình sự”.
Đây là vai trò riêng của Thẩm phán đối với hoạt động xét xử vụ án hình sự
trong tổng thể vai trò của Thẩm phán trong hoạt động giải quyết vụ án hình sự
nói chung. Vai trò của Thẩm phán là sự thể hiện quyền hạn, tác dụng, ý nghĩa
của Thẩm phán đối với hoạt động xét xử vụ án hình sự thông qua các quy
định pháp luật về quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán, qua đó góp phần
bảo đảm thực hiện nhiệm vụ của giai đoạn xét xử nói riêng và quá trình giải
9
quyết vụ án hình sự nói chung.
Thẩm phán có vai trò đặc biệt trong xét xử các vụ án hình sự. Thẩm phán
là người điều khiển phiên tòa theo quy định của pháp luật. Lên kế hoạch cho
các phiên tòa như: Những chứng cứ nào sẽ được sử dụng, nhân chứng nào sẽ
được triệu tập, thời gian nào thì sẽ đưa vụ án ra xét xử….và dự liệu được
những vấn đề có thể xảy ra tại phiên tòa. Trong phần thẩm vấn, pháp luật
không quy định phải hỏi ai, hỏi vấn đề gì trước nên gần như quy trình xét hỏi
được quyết định bởi Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và là người điều khiển
phiên tòa, thấy cần hỏi ai trước, cần làm rõ cái gì trước, xem xét và trình bày
cái gì là hợp lý để đảm bảo kết quả, chất lượng xét xử tốt nhất và không làm
cho các sự kiện bị rối lên, đồng thời cũng quyết định luôn tình tiết nội dung
nào cần được hỏi. Mặc dù người hỏi gồm có cả Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm
sát viên và Luật sư nhưng thực tiễn xét xử tại Việt Nam cho thấy việc xét hỏi
được tiến hành chủ yếu bởi Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa, sự tham gia xét hỏi
của Kiểm sát viên và Luật sư trong quá trình xét hỏi không mang tính liên tục,
tất cả những điều đó ảnh hưởng lớn đến chất lượng xét xử. Chất lượng xét xử
có cao hay không phụ thuộc phần lớn vào người Thẩm phán, phụ thuộc vào
chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng điều khiển phiên tòa, kinh nghiệm tích lũy
trong quá trình công tác. Vì sao lại hỏi bị cáo này trước mà không phải là hỏi
bị cáo kia trước (trong vụ án có nhiều bị cáo), vật chứng nào, người làm
chứng nào, những tình tiết nào trong vụ án có ý nghĩa quyết định đến việc bị
cáo có tội hay không có tội, nếu có tội thì được quy định tại điều khoản nào
trong BLHS. Tất cả những vấn đề trên đòi hỏi người Thẩm phán phải có kiến
thức pháp luật sâu rộng, phải có kinh nghiệm tích lũy nhiều năm trong quá
trình xét xử các vụ án thì mới có thể làm tốt vai trò của mình được.
Để đưa ra được một phán quyết thấu tình đạt lý, Thẩm phán phải có sự
am hiểu về pháp luật, sự am hiểu về kiến thức thực tế, phong tục và tập quán,
10
tích lũy kiến thức về xã hội và lương tâm của người Thẩm phán. Cơ sở của
các phán quyết là pháp luật, những kết quả của các phán quyết có công bằng,
vô tư và khách quan hay không đòi hỏi mỗi Thẩm phán phải có cái tâm trong
sáng, chỉ khi nào có sự kết hợp giữa trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đạo
đức nghề nghiệp của Thẩm phán thì lúc đó mới đảm bảo cho phán quyết của
Thẩm phán thấu tình đạt lý. Khi xét xử người Thẩm phán phải có niềm tin nội
tâm, đó là niềm tin vào công lý bởi vì cho dù hệ thống pháp luật có hoàn
chỉnh đầy đủ đến đâu chăng nữa thì cũng sẽ không bao giờ dự liệu hết được
mọi tình huống xảy ra trong thực tế. Thậm chí quy định của pháp luật còn
chồng chéo, không đồng bộ, song khi xét xử người Thẩm phán vẫn phải đảm
bảo nguyên tắc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và đặc biệt là
phải đảm bảo công lý. Trong con mắt người dân, Tòa án không chỉ là bảo vệ
pháp luật mà còn là biểu tượng của công lý, sự công bằng xã hội. Khi phải đối
mặt với quan tòa với công đường người dân chờ đợi sự công minh, sáng suốt.
Tòa án là người đại diện của công lý và quan tòa là người thực thi công lý.
Thẩm phán giữ vai trò chính trong hoạt động xét xử tại Tòa án, nhân
danh Nhà nước công bố một bản án, một quyết định về việc công dân có tội
hay không có tội; hoạt động của Thẩm phán còn góp phần đẩy mạnh cải cách
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; phát huy dân chủ, tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa; giải quyết các tranh chấp và xử lý nghiêm minh
các hành vi vi phạm pháp luật.
Trong quá trình tố tụng, vai trò của người Thẩm phán rất quan trọng và
là một trong các yếu tố quyết định chất lượng của quá trình xét xử tại Tòa án.
Bên cạnh đó, Thẩm phán còn thể hiện vai trò quan trọng trong việc tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân. Thông qua hoạt động xét
xử, Thẩm phán giúp cho những người tham gia tố tụng, những người tham dự
phiên tòa hiểu rõ các quy định của pháp luật, qua đó giúp họ hình thành ý
11
thức pháp luật, tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật; củng cố lòng
tin vào pháp luật, phát huy tác dụng của công tác phòng ngừa, ngăn chặn tội
phạm trong xã hội.
Vai trò của người Thẩm phán thể hiện tập trung trong quan hệ với Tòa
án, những người tham gia tố tụng và những người tiến hành tố tụng.
Chức năng của Tòa án là xét xử và Thẩm phán là người thực hiện chức
năng đó. Chức năng xét xử của Thẩm phán được thực hiện thông qua quyền
hạn, trách nhiệm được pháp luật quy định.
Pháp luật đã quy định quyền hạn và trách nhiệm cho Thẩm phán trong
các văn bản quy phạm như: Luật cán bộ, công chức, Luật tổ chức Tòa án nhân
dân, Bộ luật Tố tụng hình sự và mới đây là Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử của
Thẩm phán…..Các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm
phán là cơ sở pháp lý quan trọng đảm bảo cho Thẩm phán thực hiện tốt chức
năng xét xử của mình. Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ xét xử Thẩm phán
chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình. Thẩm phán
thực hiện quyền lực công, các phán quyết của Thẩm phán nhân danh Nhà
nước, nhân danh công lý, đồng thời các phán quyết đó còn ảnh hưởng đến
sinh mạng chính trị của con người, quyền và lợi ích hợp pháp của từng cá
nhân. Do đó, yêu cầu của hoạt động xét xử là phải đúng người, đúng tội và
đúng pháp luật.
1.2 Một số nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự liên quan đến vai trò
của Thẩm phán
Trong quá trình giải quyết vụ án những người tiến hành tố tụng, các cơ
tiến hành tố tụng phải quán triệt, tuân thủ nghiêm ngặt những nguyên tắc tố
tụng để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ của Bộ luật tố tụng hình sự một cách
công bằng và khách quan nhất; giúp đạt được nhiệm vụ của tố tụng hình sự là
bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm
tội, phòng ngừa, ngăn chặn, giáo dục tội phạm, không để lọt tội phạm và
12
không làm oan người vô tội.
Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành quy định các nguyên tắc tố tụng cơ
bản áp dụng cho các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố
tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trong đó, Thẩm phán phải
nghiêm chỉnh tuân thủ các nguyên tắc sau: Bảo đảm pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong tố tụng hình sự; Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân;Bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật; Bảo
đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể;Bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh
dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân; danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân;
Suy đoán vô tội; Xác định sự thật của vụ án; Bảo đảm quyền bào chữa của
người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự;
Thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia; Thẩm phán và Hội thẩm xét
xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Tòa án xét xử tập thể; Tòa án xét xử kịp
thời, công bằng, công khai; chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo
đảmvà một số nguyên tắc khác.
Trong hàng loạt các nguyên tắc trên thì có ba nguyên tắc được coi là cơ
bản nhất đối với người Thẩm phán khi giải quyết vụ án hình sự mà học viên
lựa chọn để phân tích dưới đây.
1.2.1 Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự
Pháp chế là một nguyên tắc Hiến định, theo đó, “Nhà nước được tổ chức
và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và
pháp luật” (Điều 8 Hiến pháp năm 2013) [3, tr.58]
Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự thể
hiện định hướng tổ chức, hoạt động tố tụng đối với quá trình giải quyết vụ án
hình sự. Nguyên tắc này đòi hỏi phải thực hiện các bảo đảm để tăng cường
pháp chế khi tiến hành các hoạt động tố tụng hướng tới mục đích xác định sự
thật khách quan vụ án; tôn trọng, bảo vệ quyền con người; bảo vệ trật tự pháp
13
luật; bảo vệ quyền lợi ích của thể nhân, pháp nhân, nhà nước và xã hội.
Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa được thể hóa tại Điều 7
BLTTHS năm 2015, như sau: “Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được thực
hiện theo quy định của Bộ luật này. Không được giải quyết nguồn tin về tội
phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục
do Bộ luật này quy định”[25, Điều 7]. Theo nguyên tắc này thì khi giải quyết
vụ án hình sự, các hoạt động tố tụng; trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án hình sự; chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ
giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của
những người tham gia tố tụng và của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và
công dân phải được quy định trong luật TTHS.
Do đó, đòi hỏi việc thực hiện pháp luật nghiên chỉnh, tự giác, đầy đủ
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự của các chủ thể TTHS, mà trước hết
là cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Mục đích giải quyết vụ án
theo hướng phát hiện nhanh chóng, xử lí công minh, kịp thời mọi hành vi
phạm tội, không đểlọt tội phạm và không làm oan người vô tội chỉ có thể đạt
được khi có sự chấp hành một cách tự nguyện, triệt để pháp luật TTHS của
các chủ thể. Nhiệm vụ tuân thủ pháp luật tố tụng hình sự trước hết thuộc về
các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng vì mọi hoạt
động của họ đều đại diện cho Nhà nước và có ảnh hưởng nghiêm trọng tới
việc giải quyết vụ án cũng như đến các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Việc triệt để tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng là cơ sở để
các cơ quan tiến hành tố tụng bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ
đồng thời đó cũng là nghĩa vụ mà họ phải tuân theo. Đồng thời, cũng đòi hỏi
cơ chế thực thi pháp luật đồng bộ, có hiệu quả bảo đảm các cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng không những thực hiện tốt các chức năng tố tụng của
mình mà còn có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan đó hướng tới mục
14
tiêu chung của công cuộc đấu tranh phòng ngừa tội phạm[12].
Nếu Thẩm phán không tuân theo nguyên tắc pháp chế sẽ dẫn đến việc
xét xử oan sai, vi phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, làm tổn
hại uy tín của hoạt động tư pháp, làm giảm lòng tin của nhân dân vào hiệu lực
và sự công minh của pháp luật.
1.2.2 Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật
Nguyên tắc là cơ sở pháp lý để Thẩm phán và Hội thẩm tiến hành hoạt
động xét xử được khách quan, đúng pháp luật. Đây cũng là cơ sở đảm bảo
Hiến pháp và pháp luật được thực thi một cách nghiêm túc bởi những người
thi hành pháp luật và những người xét xử hành vi vi phạm pháp luật. Nói cách
khác, pháp luật chỉ có ý nghĩa và có tác dụng khi nguyên tắc "độc lập xét xử"
được tuân thủ một cách triệt để. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử
vừa là quyền, đồng thời đó cũng là nghĩa vụ của Thẩm phán và Hội thẩm[19].
Độc lập xét xử không có nghĩa là xét xử tùy tiện mà độc lập trong khuôn
khổ pháp luật không được tách rời đường lối chính sách của Đảng. Thẩm
phán và Hội thẩm không được xa rời pháp luật, không có bất kỳ một sự lẩn
tránh nào đối với pháp luật, không tha thứ cho bất kỳ hành vi vi phạm pháp
luật nào.
Các cá nhân, cơ quan, tổ chức không được can thiệp, tác động tới các
thành viên của Hội đồng xét xử để buộc họ phải xét xử theo ý chí của mình.
Mọi hành vi can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án đều bị coi là vi phạm
pháp luật và ảnh hưởng tới tính khách quan của hoạt động xét xử.
Tuy nhiên trong quá trình xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm có thể tham
khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn, nắm bắt dư luận xã hội nhưng khi
ra quyết định về vụ án, Thẩm phán và Hội thẩm phải thể hiện bản lĩnh nghề
nghiệp của mình, xem xét các vấn đề của vụ án một cách độc lập, khách quan,
15
không bị ảnh hưởng, bị ràng buộc bởi các quan điểm, ý kiến bên ngoài của vụ
án. Hội đồng xét xử (HĐXX) phải xem xét, thẩm tra, đánh giá chứng cứ và
các tình tiết khác của vụ án một cách thận trọng, khoa học, toàn diện các
chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa. Quyết định của Tòa án chỉ
được căn cứ vào những chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa.
Khi xét xử, Thẩm phán độc lập với Hội thẩm trong việc xem xét và đánh
giá chứng cứ để đưa ra các kết luận của mình mà không lệ thuộc vào quan
điểm, chính kiến của các thành viên khác trong HĐXX. Đối với Hội thẩm,
không một yêu cầu hay đề nghị nào của những người khác có thể làm ảnh
hưởng tới việc Hội thẩm áp dụng đúng pháp luật, theo đúng nội dung và tinh
thần của điều luật đối với các tình tiết của vụ án cụ thể. Về nguyên tắc,
Thẩm phán không được áp đặt ý kiến đối với Hội thẩm khi xét xử. Chỉ có
thành viên HĐXX mới được tham gia nghị án, khi nghị án, Hội thẩm biểu
quyết trước, Thẩm phán là người biểu quyết sau cùng. Các vấn đề của vụ án
đều phải được giải quyết bằng biểu quyết và quyết định theo đa số. Người có
ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được
lưu trong hồ sơ vụ án [13].
Khi nghiên cứu hồ sơ, quá trình xét xử tại phiên tòa và khi nghị án,
Thẩm phán và Hội thẩm phải căn cứ vào các quy định của pháp luật để giải
quyết vụ án, không được tùy tiện, áp đặt ý chí chủ quan trong việc áp dụng
pháp luật. Khi thực hiện hoạt động xét xử, hoạt động gắn liền với việc củng
cố pháp chế và trật tự pháp luật thì Thẩm phán và Hội thẩm càng phải
nghiêm chỉnh tuân theo pháp luật. Khi xét xử các vụ án hình sự, pháp luật
hình sự và pháp luật tố tụng hình sự là những chuẩn mực, căn cứ để Thẩm
phán và Hội thẩm xem xét, đối chiếu với sự việc xảy ra, với hành vi được
đưa ra xét xử và trên cơ sở các quy định của pháp luật, HĐXX đưa ra các
phán quyết về hành vi phạm tội của bị cáo, về tội danh và hình phạt được
áp dụng đối với bị cáo một cách khách quan, chính xác phù hợp với diễn
16
biến thực tế của vụ án.
Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là hai mặt thống nhất của một nguyên
tắc cơ bản trong tố tụng. Độc lập tức là tuân theo pháp luật và tuân theo pháp
luật để được độc lập. Nếu chỉ tuân theo pháp luật mà không có sự độc lập thì
chỉ là sự tuân theo một cách hình thức, không có hiệu quả. Điều đó thể hiện là
các phán quyết trong bản án, quyết định của hội đồng xét xử phải phù hợp với
mọi tình tiết khách quan của vụ án, việc xét xử phải đảm bảo đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, bảo đảm quyền con người, quyền công dân…;
không được kết luận dựa trên ý chí chủ quan, cảm tính của cá nhân mỗi thành
viên của HĐXX [13].
1.2.3 Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án.
Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng trong quá trình giải quyết
vụán hình sự, cần được quan tâm và làm rõ. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
quy định về nguyên tắc xác định sự thật của vụán như sau “Trách nhiệm
chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô
tội.Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ
án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có
tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của người bị buộc tội.”
Sự thật của vụ án đó chính là diễn biến của sự việc phạm tội, hành vi
phạm tội có xảy ra hay không nếu có đã xảy ra như thế nào, ai là người tham
gia và toàn bộ các vấn đề khác liên quan đến vụ án. Theo luật tố tụng hình sự,
xác định sự thật của vụ án thuộc trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố
tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án). Để chứng minh tội phạm, cơ
quan có thẩm quyền tiến hành hoạt động thu tập chứng cứ theo quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ,
17
tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án.
Sự thật của vụ án phải được xem xét một cách toàn diện, tức là phải xem
xét hành vi phạm tội trên các mặt cấu thành tội phạm, không tách rời nhau.
Những vấn đề mà khi điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng phải chứng minh là: Có hành vi phạm tội xảy ra hay không,
thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; Ai là
người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô
ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;
Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo
và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; Tính chất và mức độ thiệt hại
do hành vi phạm tội gây ra; Nguyên nhân và điều kiện phạm tội; Những
tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách
nhiệm hình sự, miễn hình phạt.
Chung quy lại mọi hoạt động tố tụng áp dụng biện pháp tố tụng của các
cơ quan điều tra khi giải quyết vụ án hình sự đều nhằm mục tiêu tìm ra sự thật
khách quan của vụ án từ đó để truy tố, xét xử đối với người có tội làm sao cho
đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Đối với Thẩm phán khi được giao
nhiệm vụ giải quyết một vụ án cụ thể, đáp số cuối cùng, mục tiêu cuối cùng
mà người thẩm phán phải tìm ra đó là sự thật khách quan của vụ án. Nếu
người Thẩm phán không tìm được sự thật khách quan của vụ án mà cố tình
đưa vụ án đó ra xét xử hoặc đình chỉ vụ án thì cả một hệ lụy kéo theo rất nặng
nề: người không có tội thì bị xét xử và phải chịu hình phạt, người có tội thì lại
nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật.
Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh mình vô
tội. Điều này có nghĩa là các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không
thể căn cứ việc người bị buộc tội không chứng minh được mình vô tội (Ví dụ:
người bị buộc tội không đưa ra được chứng cứ chứng minh là mình không thể
18
có mặt tại hiện trường vào thời điểm xảy ra vụ án) để suy diễn, quy kết là
người đó thực hiện hành vi phạm tội. Ngay cả trong trường hợp về khách
quan, một người là người đã thực hiện tội phạm nhưng cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng không thể làm sáng tỏ việc người đó phạm tội, mặc
dù đã áp dụng các biện pháp cần thiết do Bộ luật tố tụng hình sự, thì cũng
không thể tiến hành truy tố, xét xử, kết tội người đó.
1.2.4 Nguyên tắc suy đoán vô tội
BLTTHS năm 2015 quy định về nguyên tắc suy đoán vô tội như sau
“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh
theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật.
Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo
trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.”.
Đây là nguyên tắc hoàn toàn mới, lần đầu tiên nguyên tắc suy đoán vô
tội được chính thức quy định trong BLTTHS 2015. Đây là một quy định tiến
bộ là sự cụ thể hóa tinh thần của khoản 1 Điều 31 Hiến pháp 2013 là “Người
bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình
tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật”. Nguyên
tắc suy đoán vô tội không chỉ phù hợp với tình hình phát triển kinh tế của đất
nước mà còn chứng tỏ quyền con người ngày càng được pháp luật tôn trọng
và bảo vệ.
BLTTHS 2015 rất tiến bộ khi quy định cơ quan buộc tội không chứng
minh được tội phạm của bị cáo thì đồng nghĩa với sự vô tội của bị cáo đã
được chứng minh và tòa phải tuyên bị cáo không có tội. Suy đoán vô tội được
thừa nhận cho đến khi bản án kết tội của tòa có hiệu lực.
Nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội, không cho phép các cơ quan
19
điều tra, truy tố, xét xử nhìn nhận bị can, bị cáo như là người đã được coi là
phạm tội, dù lỗi của họ chưa được chứng min. Trong tâm lý học, thì sự nhìn
nhận sai lầm trên được gọi là khuynh hướng buộc tội, còn trong luật học thì
gọi đó là “suy đoán vô tội”. Thực tiễn đã chứng minh tất cả các vụ án oan sai
trong tố tụng hình sự, trong thời gian qua chính là xuất phát từ “suy đoán có
tội” của các cơ quan tiến hành tố tụng và của những người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng [ 38, tr.381-383]
1.3 Mối quan hệ của Thẩm phán với những người tiến hành tố tụng và
một số người tham gia tố tụng trong xét xử vụ án hình sự
1.3.1. Mối quan hệ giữa Thẩm phán với những người tiến hành tố tụng
Thẩm phán có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống Tòa án,
cũng như trong hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, nếu chỉ một
mình Thẩm phán thì không thể tiến hành tố tụng, mà việc tiến hành tố tụng của
Thẩm phán phải đặt trong mối quan hệ với những người tiến hành tố tụng khác
và một số người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự, thông qua các mối quan
hệ đó sẽ cho chúng ta cái nhìn tổng quan hơn về vai trò của Thẩm phán.
Mối quan hệ giữa Thẩm phán với những người tiến hành tố tụng bao
gồm: Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên và Thư ký Tòa án.
- Mối quan hệ của Thẩm phán với Thẩm phán. Mối quan hệ này phát
sinh trong hoạt động xét xử và trong hoạt động bình thường của một cơ quan
với nhau. Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử những vụ án hình
sự về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tức là những vụ án về những tội
phạm mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt từ trên
15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. nên HĐXX gồm hai
Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân. Khi đó Thẩm phán tham gia cũng phải
nghiên cứu hồ sơ, xem xét các vật chứng (nếu có), lên kế hoạch xét hỏi. Tóm
lại cũng giống như Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa, nhưng chỉ khác không giữ
20
vai trò điều khiển phiên tòa và giữ kỷ luật tại phiên tòa.
Ngoài mối quan hệ này ra, còn mối quan hệ giữa Thẩm phán Chủ tọa
phiên tòa với Thẩm phán dự khuyết: Theo quy định của pháp luật thì Thẩm
phán muốn được trở thành Thẩm phán dự khuyết phải được ghi tên ngay
trong quyết định đưa vụ án ra xét xử. Thẩm phán dự khuyết phải có mặt tại
phiên tòa kể từ khi phiên tòa bắt đầu xét xử thì mới có thể thay thế Thẩm phán
Chủ tọa phiên tòa. Điều 288 BLTTHS năm 2015 quy định thay thế thành viên
của Hội đồng xét xử như sau:
“1. Phiên tòa chỉ được tiến hành khi có đủ thành viên Hội đồng xét xử và
Thư ký Tòa án. Các thành viên Hội đồng xét xử phải xét xử vụ án từ khi bắt
đầu cho đến khi kết thúc.
2. Trường hợp có Thẩm phán, Hội thẩm không tiếp tục tham gia xét xử
vụ án nhưng có Thẩm phán, Hội thẩm dự khuyết tham gia phiên tòa từ đầu thì
những người này được thay thế làm thành viên Hội đồng xét xử. Trường hợp
Hội đồng xét xử có hai Thẩm phán mà Thẩm phán chủ tọa phiên tòa không
tiếp tục tham gia xét xử được thì Thẩm phán là thành viên Hội đồng xét xử
làm chủ toạ phiên tòa và Thẩm phán dự khuyết được bổ sung làm thành viên
Hội đồng xét xử.”
Mặc dù luật không quy định cụ thể về việc Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa
phải giao hồ sơ cho Thẩm phán dự khuyết nghiên cứu như thế nào, tuy nhiên
trên thực tế Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa phải giao hồ sơ cho Thẩm phán dự
khuyết nghiên cứu để đảm bảo sao cho Thẩm phán dự khuyết hiểu rõ hồ sơ vụ
án để có thể thay thế Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa trong trường hợp cần thiết.
- Mối quan hệ của Thẩm phán với Hội thẩm: Hội thẩm là người đại diện
cho người dân tham gia vào công tác xét xử, giám sát hoạt động của Tòa án
góp phần làm cho hoạt động xét xử đúng pháp luật, công bằng và bảo đảm
pháp chế. Hội thẩm nhân dân là người được bầu và được cử theo quy định của
21
pháp luật để cùng Tòa án thực hiện nhiệm vụ xét xử. Hiến pháp năm 2013 và
Luật tổ chức Tòa án nhân nhân năm 2014 đều quy định: Việc xét xử của Tòa
án có Hội thẩm nhân dân, Tòa án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia
theo quy định của pháp luật. Như vậy, thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm
gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm. Trường hợp vụ án có tính chất nghiêm
trọng, phức tạp thì Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba
Hội thẩm. Đối với vụ án có bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao
nhất của khung hình phạt là tù chung thân, tử hình thì Hội đồng xét xử sơ
thẩm gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm [Điều 254,27]; đối với trường hợp
xét xử người dưới 18 tuổi phạm tội thì thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm
vụ án phải có một Hội thẩm là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên hoặc
người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi [Điều 423, 27]; đối
với các vụ án xét xử theo trình tự phúc thẩm thì Hội đồng xét xử gồm ba
Thẩm [Điều 254,27].
Thẩm phán và Hội thẩm thảo luận và thông qua các vấn đề liên quan đến
vụ án, giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình xét xử. Nhưng khi quyết
định bản án Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán, để cùng với Thẩm phán
đưa ra một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Mối quan hệ giữa
Thẩm phán và Hội thẩm là mối quan hệ độc lập, độc lập với chính những
thành viên trong HĐXX. Mặc dù vậy, trong hoạt động xét xử vị trí của Thẩm
phán vẫn là trung tâm, điều này thể hiện trong toàn bộ quá trình xét xử Thẩm
phán luôn giữ vai trò điều khiển phiên tòa từ phần tuyên bố khai mạc phiên
tòa đến phần tuyên bố kết thúc phiên tòa. Trong quá trình nghị án, Hội thẩm
là người nêu ý kiến trước về việc giải quyết vụ án và biểu quyết giữa ba thành
viên HĐXX về từng vấn đề cụ thể trong vụ án. Mối quan hệ của Thẩm phán
và Hội thẩm nhân dân chỉ phát sinh khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến
22
khi kết thúc phiên tòa.
- Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Thư ký Tòa án: Thẩm phán và Thư ký
Tòa án đều là những người tiến hành tố tụng nên mối quan hệ giữa Thẩm
phán và Thư ký là mối quan hệ được điều chỉnh bằng pháp luật tố tụng và nó
chỉ phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Thẩm phán không phải
là thủ trưởng của Thư ký Tòa án và Thư ký Tòa án cũng không phải là Thư ký
riêng của Thẩm phán. Tuy nhiên, Thư ký là người giúp việc cho Thẩm phán
để thực hiện những tác nghiệp trong quá trình giải quyết vụ án do đó Thư ký
phải chịu sự giám sát, kiểm tra, đôn đốc hướng dẫn của Thẩm phán nhằm
thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử,
Thư ký phải giúp Thẩm phán thực hiện một số tác nghiệp như: Triệu tập
những người tham gia tố tụng đến phiên tòa, giao lệnh trích xuất cho Công an
thực hiện việc trích xuất, tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử cho bị cáo,
liên hệ với Viện kiểm sát hoặc cơ quan điều tra để lấy vật chứng, chuẩn bị hội
trường xét xử, giao và tống đạt bản án, các quyết định khác của Tòa án….Đối
với một số vụ án lớn hoặc xét xử lưu động Thư ký còn giúp Thẩm phán tổ
chức họp với các nghành liên quan, chuẩn bị địa điểm xét xử để đảm bảo cho
phiên tòa đạt kết quả tốt. Trong những trường hợp cần phải có giám định viên,
người phiên dịch, tại phiên tòa thì Thư ký phải liên hệ với các cơ quan tổ chức
này để mời giám định viên, người phiên dịch tham gia phiên tòa theo đúng
quy định của pháp luật.
Nhiệm vụ chính và quan trọng nhất được thể hiện tại phiên tòa đối với
Thư ký Tòa án đó là ghi biên bản phiên tòa. Bên cạnh đó, tại phiên tòa Thư ký
phải phổ biến nội quy phiên tòa, sắp xếp chỗ ngồi cho đương sự, kiểm tra sự
có mặt, vắng mặt của những người tham gia tố tụng và báo cáo trước HĐXX
để quyết định có phải hoãn phiên tòa hay không. Thư ký còn giúp Thẩm
23
phán ra một số quyết định tại phiên tòa như: Quyết định hoãn phiên tòa,
quyết định bắt tạm giam, quyết định trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa,
quyết định tạm giam… Có thể nói, với nhiệm vụ ghi biên bản phiên tòa
được Thư ký thực hiện một cách cần thận, chính xác, phản ánh trung thực,
đầy đủ diễn biến của vụ án tại phiên tòa là điều vô cùng quan trọng. Đó là
cơ sở pháp lý là tài liệu nghiên cứu hồ sơ theo trình tự phúc thẩm, giám đốc
thẩm, tái thẩm nếu bản án bị kháng cáo, kháng nghị hoặc khiếu nại. Thư ký
và Thẩm phán phối hợp chặt chẽ với nhau sẽ tránh được tình trạng phải
hoãn phiên tòa do lỗi chủ quan của Tòa án, đảm bảo vụ án được xét xử theo
đúng thời hạn quy định của pháp luật.
- Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Kiểm sát viên: Theo Điều 107 Hiến
pháp năm 2013 và Điều 2 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014,
Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa, có nhiệm vụ tiến hành các
hoạt động kiểm sát xét xử, giám sát HĐXX trong việc thực hiện các nguyên
tắc và trình tự tố tụng theo quy định pháp luật. Căn cứ vào kết quả điều tra,
Kiểm sát viên có quyền lập bản cáo trạng và tham gia phiên tòa sơ thẩm, phúc
thẩm để buộc tội bị cáo, có quyền xét hỏi, tranh luận, rút một phần hoặc toàn
bộ quyết định truy tố tại phiên tòa. Sự thật khách quan của vụ án có làm rõ
được hay không, điều đó phục thuộc rất nhiều vào Thẩm phán và Kiểm sát
viên khi đưa các tài liệu, chứng cứ để kiểm tra tại phiên tòa. Kiểm sát viên khi
đưa các tài liệu, chứng cứ để kiểm tra tại phiên tòa. Kiểm sát viên tham gia
vào quá trình thẩm vấn, tranh luận tại phiên tòa phải nghiên cứu, xem xét hỏi
vấn đề gì, hỏi ai để làm sáng tỏ vụ án và đưa ra kết luận giải quyết vụ án. Tại
phiên tòa Kiểm sát viên phải tuân theo sự điều khiển của Chủ tọa phiên tòa về
24
mặt trình tự tố tụng.
1.3.2. Mối quan hệ của Thẩm phán với một số người tham gia tố tụng
Hoạt động xét xử vụ án hình sự của Thẩm phán không chỉ bó hẹp trong
mối quan hệ với những người tiến hành tố tụng mà cần phải duy trì mối quan
hệ với các chủ thể khác.
- Mối quan hệ của Thẩm phán với người bào chữa, người bảo vệ quyền
lợi của đương sự: Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về sự tham gia
của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự trong quá
trình Tòa án giải quyết vụ án, thì họ là người góp phần vào việc tìm ra sự thật
khách quan của vụ án, họ được quyền tham gia vào quá trình tố tụng để giúp
thân chủ của họ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp; Họ có quyền nghiên cứu hồ
sơ vụ án, sao chép các tài liệu cần thiết trong hồ sơ vụ án, được biết về thời
gian địa điểm mở phiên tòa. Bởi vậy, trong quá trình tác nghiệp của Luật sư
tại phiên tòa thì Thẩm phán phải tạo điều kiện để họ thực hiện những quyền
và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa Luật sư có quyền tham
gia xét hỏi và tranh luận. Thẩm phán đảm bảo về mặt thời gian, tạo điều kiện
để luật sư thực hiện quyền của mình tại phiên tòa.
- Mối quan hệ của Thẩm phán với bị cáo, bị hại và các đương sự
khác:Đây là mối quan hệ tố tụng chỉ phát sinh khi giải quyết vụ án hình sự,
quyền và nghĩa vụ của bị cáo, bị hại và các đương sự khác đã được quy định
rất cụ thể trong BLTTHS ví dụ như: Bị cáo được quyền nhận quyết định đưa
vụ án ra xét xử, quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn
chặn; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án; các quyết
định tố tụng khác; có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người
giám định, người phiên dịch, có quyền đưa ra ý kiến, tranh luận tại phiên tòa
và nói lời sau cùng trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án…
Trước pháp luật họ đều được đối xử một cách bình đẳng, Thẩm phán
phải xử sự đúng mức, tôn trọng ý kiến của bị hại, đương sự. Không áp đặt
25
chủ quan những mặc cảm ban đầu có thể dẫn đến định kiến làm sai lệch vụ
án. Tại phiên tòa các đương sự phải tuân thủ theo sự điều khiển của Chủ
tọa phiên tòa.
- Mối quan hệ của Thẩm phán với người giám định, người phiên dịch:
Khi thấy cần thiết phải trưng cầu giám định về một vấn đề nào đó trong vụ án,
Thẩm phán hướng dẫn Thư ký hoặc chủ động liên hệ với cơ quan tổ chức
giám định để họ cử Giám định viên thực hiện theo yêu cầu giám định. Thẩm
phán phải đưa ra quyết định trưng cầu giám định, người giám định có quyền
tìm hiểu tài liệu vụ án có liên quan đến đối tượng giám định, yêu cầu Thẩm
phán cung cấp tài liệu cần thiết, tham gia vào việc xét hỏi và đặt câu hỏi liên
quan đến đối tượng giám định tại phiên tòa.
Trong trường hợp người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt
thì Thẩm phán phải mời người phiên dịch cho họ (nếu như họ không thỏa
thuận được về việc lựa chọn người phiên dịch) hoặc đương sự là người câm
điếc. Thẩm phán có trách nhiệm giải thích thêm về những vấn đề cần phiên
dịch khi người phiên dịch yêu cầu. Mặc dù luật tố tụng không quy định người
phiên dịch có quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án nhưng trên thực tế khi cần tìm
hiểu về những vấn đề chuyên môn, những thuật ngữ pháp lý, những lĩnh vực
mới hoặc những cử chỉ cần diễn đạt để hiểu về một khái niệm, một từ nào đó
thì Thẩm phán có thể cung cấp cho họ những tài liệu cần thiết hoặc có thể cho
họ nghiên cứu hồ sơ vụ án trong phạm vi nhất định.
1.4. Lịch sử hình thành và phát triển các quy định pháp luật về vai trò
của Thẩm phán
1.4.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1988
Cách mạng tháng Tám thành công, bộ máy chế độ thực dân phong kiến
bị đập tan, trong khi chờ có Hiến pháp được ban hành, chủ tịch Hồ Chí Minh
đã ký một sắc lệnh thành lập Tòa án cách mạng thay thế cho các Tòa án của
chế độ cũ: Tòa án quân sự (Sắc lệnh số 33C ngày 13/9/1945), Tòa án đặc biệt
(Sắc lệnh số 64 ngày 23/11/1945), Tòa án binh và Tòa án thường (Sắc lệnh số
26
13 ngày 24/01/1946). Sắc lệnh số 33C quy định một cách rất cụ thể về tiêu
chuẩn Thẩm phán, cách tuyển chọn, đối tượng tuyển chọn, quyền và nghĩa vụ
của Thẩm phán, kỷ luật Thẩm phán, y phục Thẩm phán. Theo sắc lệnh này,
HĐXX của Tòa án quân sự gồm 1 Chánh án và 2 Hội thẩm. Chánh án và Hội
thẩm thứ nhất do ủy viên quân sự và một ủy viên chính trị đảm nhiệm, Hội
thẩm thứ hai do một Thẩm phán chuyên môn của tư pháp đảm nhiệm, sắc
lệnh sốc 13 đã thiết lập hệ thống Tòa án gồm có: Tòa án sơ cấp (ở cấp quận,
huyện, châu), Tòa án đệ nhị cấp (ở cấp tỉnh) và Tòa án thượng thẩm (ở ba
miền Bắc – Trung – Nam). Các tòa án tư pháp này đều trực thuộc Bộ Tư pháp
quản lý và độc lập với các cơ quan hành chính, thẩm quyền của các Tòa án sơ
cấp Thẩm phán xử một mình, ở Tòa án đệ nhị cấp việc xét xử được phân ra
thành tiểu hình, đại hình. Tiểu hình ngoài Chánh án còn có 2 Phụ thẩm nhân
dân. Các Phụ thẩm nhân dân không được nghiên cứu hồ sơ trước khi mở
phiên tòa nhưng có quyền góp ý kiến về tội trạng và hình phạt. Chánh án
(Chủ tọa phiên tòa) có quyền quyết định về tội trạng, hình phạt và các thủ tục
khác. Thẩm phán Tòa án sơ cấp có thể xét xử các việc đại hình ở Tòa án đệ
nhị cấp với tư cách là Phụ thẩm chuyên môn. Thẩm phán Tòa án tư pháp được
chia thành 2 ngạch: ngạch sơ cấp, ngạch đệ nhị cấp. Thẩm phán sơ cấp làm
việc ở Tòa sơ cấp, Thẩm phán đệ nhị cấp làm việc ở Tòa đệ nhị cấp và Tòa
thượng thẩm. Các Thẩm phán đệ nhị cấp lại chia thành 2 chức vụ: Thẩm phán
xử án do ông Chánh án nhất Tòa thượng thẩm đứng đầu và Thẩm phán buộc
tội (Thẩm phán của công tố viên) do ông Chưởng lý đứng đầu. Thẩm phán xử
án cũng có thể được chuyển sang làm Thẩm phán buộc tội và ngược lại (do
Bộ trưởng Bộ tư pháp quyết định). Tại Sắc lệnh số 13 quy định để trở thành
Thẩm phán cần có các điều kiện sau:
- Có quốc tịch Việt Nam, không phân biệt đàn ông, đàn bà.
- Hạnh kiểm tốt.
27
- Chưa can án bao giờ.
Ngạch Thẩm phán sơ cấp (có 5 hạng) ít nhất phải 21 tuổi, có bằng tú tài
và phải thi trúng tuyển. Ngạch Thẩm phán đệ nhị cấp (có 7 hạng) ít nhất cũng
phải 24 tuổi, có bằng khoa luật cử nhân và trúng tuyển kỳ thi. Việc xét hạnh
kiểm và năng lực của người xin làm Thẩm phán do một Hội đồng Thẩm phán
đảm nhiệm. Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán đệ nhị cấp bằng một sắc
lệnh. Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm Thẩm phán sơ cấp bằng một nghị định.
Trong thời kỳ này cũng quy định Thẩm phán không được kiêm nhiệm một
nghề nào khác trừ chức giáo sư đại học, nếu Thẩm phán được bầu vào ủy ban
hành chính thì phải từ chối hoặc từ chức Thẩm phán, về quy tắc xét xử Thẩm
phán sẽ chỉ “trọng pháp luật và công lý. Các cơ quan khác không được can
thiệp vào việc Tư pháp” (Điều 47), “mỗi Thẩm phán xử án quyết định theo
pháp luật và lương tâm của mình. Không quyền lực nào được can thiệp trực
tiếp hay gián tiếp vào công việc xử án” (Điều 50). Đây là những quy định hết
sức tiến bộ, là điều kiện đảm bảo tính khách quan, độc lập trong các phán
quyết của Tòa án. Sắc lệnh số 13 còn quy định các Thẩm phán không thể lấy
cớ gì để từ chối việc xét xử, trừ trường hợp cáo tị và hồi tị (Điều 80); Các
Thẩm phán phải làm đầy đủ bổn phận, dự đều các phiên tòa, xét xử thật nhanh
chóng và thật công minh, thanh liêm, phải cư xử đúng mực, biết tự trọng để
giữ thanh danh và phẩm chất của một vị quan tòa. Qua đây có thể thấy vai trò
của mỗi Thẩm phán đã được đánh giá và coi trọng rất cao, là nhân tố chủ yếu
khi xử án, chính vì vậy mà yếu tố đạo đức được đề cao. Điều này vẫn được
coi là một đức tính thiêng liêng của Thẩm phán Việt Nam hiện nay và để đảm
bảo cho việc xét xử được đúng pháp luật khách quan, Sắc lệnh còn quy định
Thẩm phán không được tự đặt ra luật lệ mà xử đoán, các Thẩm phán không
thể bào chữa các việc bằng miệng hay bằng giấy nếu không phải việc của
28
mình, việc của vợ, con hay thân thuộc, thích thuộc trực hệ của mình, hay của
một đứa trẻ vị thành niên mà mình giám hộ. Đây được xác định là nghĩa vụ
của Thẩm phán phải tuân thủ nghiêm ngặt. Mặc dù giai đoạn này, văn bản
pháp luật vẫn bị ảnh hưởng bởi pháp luật của thực dân Pháp nhưng Sắc lệnh
số 13 được coi là văn bản đầu tiên quy định khá cụ thể đầy đủ và rất tiến bộ
về tổ chức Tòa án cũng như tiêu chuẩn, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm
của các ngạch Thẩm phán, sắc lệnh này đánh dấu bước đầu hoàn thiện hệ
thống cơ quan xét xử ở Việt Nam.
Sau Cách mạng tháng Tám, do tình hình lúc đó đất nước mới được thành
lập còn rất nhiều khó khăn nên chưa thể xây dựng được ngay hệ thống luật lệ
mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh vào ngày 10/10/1945 cho phép tạm
thời sử dụng một số luật lệ của chế độ cũ với nguyên tắc “những luật lệ ấy
không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể cộng hòa”.
Đồng thời, nhà nước dân chủ nhân dân cũng tiến hành thủ tục tố tụng như các
sắc lệnh về tổ chức Tòa án sắc lệnh về thể thức thi hành án.
Bản Hiến pháp đầu tiên của nhà nước dân chủ nhân dân được Quốc hội
thông qua ngày 09/11/1946. Các quy định về Thẩm phán tại sắc lệnh số 13
được cụ thể hóa trong bản Hiến pháp 1946 và được nâng lên thành chế định
Thẩm phán. Theo Điều 60 của Hiến pháp 1946, hệ thống Tòa án nước ta được
thiết lập như sau:
- Tòa án tối cao;
- Các Tòa án phúc thẩm;
- Các Tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp.
Điều 64 của Hiến pháp 1946 quy định “các viên Thẩm phán do Chính
phủ bổ nhiệm”. Theo sắc lệnh số 13 và Hiến pháp 1946 thì “Tòa án được coi
là cơ quan tư pháp, giữ một vị trí độc lập trong tổ chức bộ máy nhà nước, là
cơ quan vừa thực hiện quyền xét xử đồng thời thực hiện cả quyền công tố
29
nhưng có sự phân công rõ ràng giữa Thẩm phán xét xử và Thẩm phán công
tố”. Trong Hiến pháp cũng đưa ra một số nguyên tắc cơ bản có tính hiến định
về tổ chức và hoạt động của Tòa án trong đó có nguyên tắc: Trong khi xét xử,
các viên Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật các cơ quan khác không được can
thiệp (Điều 69) nguyên tắc này được kế thừa từ sắc lệnh số 13.
Đến năm 1950, nhà nước ta thực hiện cuộc cải cách tư pháp đầu tiên
được đánh dấu bằng sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950. Tại sắc lệnh này đã
đổi tên Tòa án sơ cấp thành Tòa án nhân dân huyện hoặc châu ở cấp huyện và
châu, Tòa án đệ nhị cấp thành Tòa án nhân dân tỉnh hoặc thành phố ở cấp tỉnh
và thành phố lớn (Hà Nội. Hải Phòng, Sài Gòn, Chợ Lớn), Tòa án thượng
thẩm thành Tòa án nhân dân liên khu. Hội đồng phúc án được gọi là Tòa phúc
thẩm, Phụ thẩm nhân dân được gọi là Hội thẩm nhân dân. Tòa án nhân dân
huyện và Tòa án nhân dân tỉnh gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân
dân, Tòa án nhân dân phúc thẩm khu hoặc thành phố gồm hai Thẩm phán và
ba Hội thẩm nhân dân. Hội thẩm nhân dân tham gia cả việc hộ và việc hình,
được quyền xem hồ sơ và biểu quyết khi xét xử, ngang quyền với Thẩm
phán. Thẩm phán huyện có nhiệm vụ chấp hành các án về khoản bồi thường
hay bồi hoàn là chính Tòa án đó hay Tòa án cấp trên tuyên và chịu sự kiểm
soát của Biện lý. Trong thời kỳ này, Ban Tư pháp xã cũng được giao thẩm
quyền xử chung thân những vụ vi cảnh phạt bạc từ 5 đồng đến 30 đồng.
Trong giai đoạn này Tòa án nhân dân vẫn chịu sự giám sát của ủy ban kháng
chiến hành chính.
Có thể nói cuộc cải cách tư pháp này có giá trị lịch sử rất lớn nhằm mục
tiêu dân chủ hóa bộ máy tư pháp và hoạt động xét xử như thành phần nhân
nhân (Hội thẩm nhân dân) trong xét xử chiếm đa số; thành lập Hội đồng hòa
giải nội huyện, ngoài luật sư bào chữa còn có bào chữa viên nhân dân.
Mặc dù chế độ bổ nhiệm Thẩm phán không có gì thay đổi, với việc ban
30
hành Sắc lệnh số 85 đã mở đầu cho cuộc cải cách hệ thống Tòa án ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay, mục đích và nhiệm vụ của cuộc cải cách này là tổ
chức lại hệ thống Tòa án nhân dân theo yêu cầu gọn nhẹ, thống nhất, hoạt
động có hiệu quả, đảm bảo nguyên tắc dân chủ trong tổ chức và hoạt động
của Tòa án, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử và
giám sát hoạt động xét xử của Tòa án.
Sắc lệnh số 156 ngày 22/10/1950 giao cho Tòa án nhân dân khu thẩm
quyền xét xử những tội phản cách mạng thay thế cho các Tòa án quân sự với
mục đích tạo điều kiện linh hoạt cho hoạt động xét xử trong thời kỳ này.
Đồng thời để phục vụ cho hoạt động xét xử. Tại sắc lệnh số 158 ngày
17/11/1950 quy định về việc bổ dụng cán bộ công nông vào ngạch Thẩm phán
và thăng bổ các Thẩm phán huyện. Theo đó những cán bộ công nông có thành
tích, kinh nghiệp có thể được bổ dụng vào một ngạch Thẩm phán thích đáng
theo đề nghị của Hội đồng tuyển trạch (Điều 1); các Thẩm phán Tòa án nhân
dân huyện nếu có năng lực và tinh thần phục vụ có thể được thăng bổ lên
ngạch Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh theo đề nghị của Hội đồng tuyển
trạch (Điều 2).
Năm 1952, thẩm quyền của Tòa án được thay đổi cho phù hợp với tình
hình của đất nước. Tại Nghị định 32-NĐ ngày 06/4/1952 của Bộ Tư pháp quy
định Tòa án nhân dân huyện có thẩm quyền xử cả sơ thẩm và chung thẩm tất
cả các vụ phạm pháp vi cảnh hoặc tái phạm vi cảnh, dù là phạt bạc từ 1 đến
5kg gạo, hoặc phạt giam từ 1 đến 5 ngày; những việc bồi thường hoặc bồi
hoàn cho người thiệt hại trong vụ vi cảnh thỉnh cầu. Tòa án nhân dân tỉnh xét
xử sơ thẩm những việc tiểu hình hay đại hình. Đến năm 1957 Tòa án nhân
dân khu, Tòa án nhân dân thành phố đều được đổi tên thành Tòa án nhân dân
phúc thẩm, Tòa án nhân dân sơ thẩm thành phố được đổi tên thành Tòa án
nhân dân thành phố. Mô hình tổ chức và hoạt động của Tòa án Cộng hòa
31
Pháp cho nên bên cạnh nhiều quy định hiện đại thì cũng bộc lộ những vấn đề
chưa phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước ta, chẳng hạn việc quy định
nhiều loại Tòa án (Tòa án thường, Tòa án quân sự, Tòa án binh, Tòa án đặc
biệt) trên cùng một khu vực lãnh thổ dẫn đến sự chồng chéo về thẩm quyền
xét xử giữa các Tòa án; các Tòa án quân sự, Tòa án binh chỉ có một cấp xét
xử nên khó đảm bảo xét xử một cách khách quan. Hơn nữa, trong Tòa án vừa
có Thẩm phán thực hiện quyền công tố vừa có Thẩm phán thực hiện quyền
xét xử các Thẩm phán các Thẩm phán này có thể đổ lỗi cho nhau, vì thế việc
kiểm tra giám sát công việc xét xử rất khó khăn. Trên thực tế ở nhiều địa
phương không có đủ số lượng Thẩm phán để thực hiện từng khâu điều tra,
truy tố, xét xử theo luật định; thậm chí có Tòa án chỉ có một Thẩm phán vừa
đảm đương nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét xử. Một số địa phương khác chưa
có điều kiện thành lập Tòa án thì ủy ban hành chính kiêm luôn cả chức năng
xét xử của Tòa án. Tòa án xét xử không được nhiều và chủ yếu chỉ tập trung
vào những vụ án lớn. Do Thẩm phán phải đảm đương từ khâu đầu (điều tra)
cho đến khâu cuối (xét xử), nên dễ có những sai sót mà không biết, dẫn đến
có nhiều vụ đã bị xử oan sai. Hơn nữa, tình hình lịch sử lúc đó có nhiều thay
đổi, miền Bắc hoàn toàn độc lập thoát khỏi ách thống trị của chế độ thực dân
Pháp, miền Nam vẫn đang phải chịu sự thống trị của đế quốc thực dân và bè
lũ tay sai nên đòi hỏi bộ máy nhà nước nói chung hệ thống cơ quan xét xử nói
riêng cần phải có sự thay đổi đáng kể cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ.
Từ việc nhận thức được những thực trạng trên, Hiến pháp năm 1959 ra đời
thay thế Hiến pháp năm 1946, cơ quan xét xử được quy định một cách hệ
thống hơn ở tầm văn bản luật, pháp lệnh đó là Luật tổ chức Tòa án nhân dân
được Quốc hội thông qua ngày 14/7/1960. Sau khi hoàn thành xứ mệnh lịch
sử, một số loại Tòa án được thành lập ngay thời kỳ kháng chiến chống thực
dân Pháp như các Tòa án binh mặt trận, các Tòa án nhân dân vùng tạm bị
32
chiếm đóng, các Tòa án đặc biệt trong cải cách ruộng đất được giải thể.
Hiến pháp năm 1959 đã khẳng định Tòa án nhân dân tối cao nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa, các Tòa án nhân dân địa phương, cac Tòa án quân sự
các cấp là những cơ quan xét xử của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Các
Tòa án nhân dân địa phương ở đây bao gồm Tòa án tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương (gọi tắt là Tòa án tỉnh), Tòa án nhân dân huyện, thị xã thành phố
trực thuộc tỉnh (gọi tắt là Tòa án cấp huyện) và Tòa án nhân dân khu tự trị.
Trong những trường hợp đặc biệt Quốc hội có thể thành lập Tòa án đặc biệt, ở
Tòa án nhân dân cấp huyện có Chánh án và các Thẩm phán, nếu cần thì có
thêm Phó chánh án; Tòa án nhân dân cấp tỉnh gồm có Chánh án, một hoặc
nhiều Phó chánh án và các Thẩm phán; Tòa án nhân dân tối cao gồm có Chánh
án, một hoặc nhiều Phó chánh án, các Thẩm phán và Thẩm phán dự khuyết.
Có thể nói, sau khi Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Tòa án nhân
dân năm 1960 ra đời đã có sự thay đổi đáng kể về cơ cấu tổ chức, hoạt động
của hệ thống Tòa án cũng như các quy định liên quan đến đội ngủ Thẩm phán
so với giai đoạn 1954-1959. Theo Hiến pháp 1959, Bộ Tư pháp bị giải thể,
chức năng của Bộ Tư pháp được giao cho Tòa án nhân dân tối cao, Bộ nội vụ.
Hoạt động công tố trước đây được giao cho Tòa án nay được tách ra và giao
cho Viện kiểm sát nhân dân. Tòa án nhân dân tối cao có chức năng quản lý
các Tòa án địa phương về chuyên môn, nghiệp vụ, quản lý đội ngũ Thẩm
phán về mặt tổ chức. Tòa án thực hiện chết độ hai cấp xét xử là sơ thẩm và
phúc thẩm. Ngày 10/7/1959, Tòa án nhân dân tối cao ra chỉ thị đình chỉ việc
áp dụng luật lệ cũ của chế độ thực dân – phong kiến trước đây. Về thẩm
quyền xét xử: Tòa án cấp huyện xét xử sơ thểm, Tòa án cấp tỉnh xét xử phúc
thẩm, Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm án của Tòa án nhân dân
địa phương, Tòa án quân sự và Tòa án đặc biệt, bên cạnh đó còn có quyền xét
xử cả sơ thẩm và phúc thẩm.
Về nguyên tắc tổ chức và hoạt động: Nếu như trong giai đoạn từ năm
1945 đến trước khi có Hiến pháp năm 1959 Thẩm phán thực hiện theo chế độ
33
bổ nhiệm thì trong giai đoạn này thực hiện theo chế độ bầy theo quy định của
pháp luật. Khắc phục những tồn tại trong tổ chức và hoạt động xét xử trước
đây thì theo quan điểm chỉ đạo ở giai đoạn này phải đảm bảo sự tham gia rộng
rãi của nhân dân vào hoạt động xét xử và thực hiện nguyên tắc xét xử Tòa án
xét xử tập thể; việc xét xử tại các Tòa án đều công khai trừ những trường hợp
đặc biệt do luật định; Hội thẩm tham gia vào việc xét xử và khi xét xử Hội
thẩm ngang quyền với Thẩm phán. Trong giai đoạn này vẫn đề cao nguyên
tắc khi xét xử Tòa án có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 thì Thẩm phán có quyền
bầu cử và ứng cử. Các điều kiện để trở thành Thẩm phán gồm có: phải từ 23
tuổi trở lên, có lập trường cách mạng vững vàng và nắm vững chính sách của
Đảng và Nhà nước, có tinh thần công tác và tư tưởng đạo đức tốt, có quan hệ
tốt với quần chúng nhân dân. Qua đây có thể thấy yếu tố về phẩm chất chính
trị, trung thành với Tổ quốc với nhân dân luôn được đặt lên hàng đầu yếu tố
về chuyên môn nghiệp vụ không phải là yếu tố bắt buộc đối với Thẩm phán.
Điều đó cũng dễ lý giải, vì trong giai đoạn này đất nước vẫn chưa hoàn toàn
được độc lập, miền Nam vẫn đang phải tiến hành cuộc chiến tranh chống đế
quốc, miền Bắc tuy được độc lập nhưng vẫn phải chi viện cho miền Nam nên
chưa cho phép chúng ta đào tạo Thẩm phán một cách bài bản.
Nói chung, từ khi có Hiến pháp 1959 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân
năm 1960 ra đời thì hệ thống Tòa án bước đầu được xây dựng theo hướng
chính quy và đầy đủ hơn. Đó là hệ thống Tòa án nhân dân được thành lập ở
các cấp, còn có các Tòa án quân sự và trong trường hợp đặc biệt có thể thành
lập Tòa án đặc biệt. Hệ thống Tòa án được tổ chức và hoạt động trên cơ sở
một hệ thống các nguyên tắc tương đối toàn diện hơn thời kỳ kháng chiến
chống thực dân pháp. Cơ sở pháp lý của tổ chức và hoạt động của hệ thống
Tòa án ngoài Hiến pháp 1959, một luật và một pháp lệnh tổ chức Tòa án, còn
34
có rất nhiều thông tư hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao mà đáng ra trong
đó phải có nhiều vấn đề do luật định. Trong thời kỳ này chưa có các Bộ luật
trọng yếu như Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự,
Bộ luật dân sự để làm cơ sở pháp lý căn bản cho tổ chức và hoạt động của hệ
thống Tòa án. Song thực tế hoạt động, nhằm phục vụ kịp thời yêu cầu cấp
thiết của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trọng tâm xét xử của Tòa án
vẫn là án hình sự và án dân sự thường là một số án ly hôn.
Theo đó, các quy định về Thẩm phán như về thẩm quyền, nhiệm vụ….
được quy định đầy đủ và hoàn thiện hơn nhưng cũng chỉ được quy định trong
Hiến pháp 1959 một luật và một pháp lệnh tổ chức Tòa án mà thôi. Nếu như
trong giai đoạn từ 1945 – 1959 Thẩm phán có thẩm quyền xét xử và thẩm
quyền buộc tội thì cũng có Thẩm phán xét xử Thẩm phán buộc tội nhưng từ
khi có Hiến pháp 1959 đến nay, Thẩm phán chỉ còn thẩm quyền xét xử. Đây
là thẩm quyền duy nhất của Thẩm phán. Điều này không có nghĩa là thu hẹp
bớt phạm vi quyền hạn của Thẩm phán mà ngược lại đấy là cải cách tư pháp
tiến bộ thẩm quyền công tố được giao cho Viện kiểm sát để đảm bảo tính
khách quan, tăng cường hiệu quả giám sát trong xét xử và đảm bảo tính
chuyên môn cao.
Trên cơ sở thực tiễn thi hành Hiến pháp 1959 và đúc kết kinh nghiệm
trên những năm đầu sau ngày cả nước Việt Nam được thống nhất, Quốc hội
thông qua bản Hiến pháp 1980 – Hiến pháp của thời kỳ cả nước thống nhất,
hòa bình và tái thiết đất nước. Theo đó Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc
hội đã thông qua một loạt văn bản luật về hệ thống tư pháp dưới dạng Luật,
Pháp lệnh như: Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981, Luật Tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 1981, Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự năm 1985,
Pháp lệnh về việc xin ân giảm án tử hình và xét duyệt án tử hình năm 1978.
Theo Hiến pháp 1980 và những luật, pháp lệnh trên thì hệ thống Tòa án vẫn
gồm các Tòa án nhân dân ở 3 cấp:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Các Tòa án nhân dân ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
35
- Các Tòa án nhân dân ở huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
- Các Tòa án quân sự.
1.4.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 2003
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng,
toàn Đảng toàn dân ta tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện khắc phục
những sai lầm khuyết điểm trước đay để mở ra những hướng mới nhằm thoát
khỏi cuộc khủng hoảng về kinh tế - xã hội và để thực hiện nhiệm vụ chiến
lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam thúc đẩy sự
nghiệp đổi mới đất nước thì hoàn thiện hệ thống pháp luật được xác định là
nhu cầu cấp thiết. Pháp luật tố tụng hình sự trước năm 1988 chưa được pháp
điển hóa việc áp dụng đều được tiến hành trên cơ sở những quy định của các
văn bẳn pháp luật đơn hành. Để đáp ứng yêu cầu này, trên tinh thần kế thừa
và phát triển những thành tựu của pháp luật tố tụng hình sự trong những văn
bản tố tụng đơn lẻ, với tinh thần đổi mới trên mọi mặt của đời sống kinh tế
ngày 28/6/1988 tại kỳ họp thứ 3, Quộc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa VIII, đã thông qua BLTTHS (BLTTHS 1988) và có hiệu lực
từ ngày 01/01/1989. Đây là BLTTHS đầu tiên của nước ta quy định quyền
hạn và trách nhiệm của người tiến hành tố tụng trong đó có Thẩm phán. So
với các văn bản hình sự trước đây, Bộ luật đã quy định rõ chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, quyền và
nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, đề cao vai trò của tổ chức xã hội và công
dân trong việc tham gia tố tụng nhằm phát hiện chính xác nhanh chóng kịp
thời mọi hành vi phạm tội không để lọt tội phạm và không làm oan người vô
tội. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa là người điều khiển phiên tòa và là người xét
hỏi chính, Thẩm phán là thành viên Hội đồng xét xử tham gia xét hỏi sau Chủ
36
tọa. Về quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán được quy định tại các
chương về thủ tục xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm, tái thẩm. Tại
khoản 1 Điều 51 của BLTTHS 1988 quy định nhiệm vụ của Thẩm phán như
sau “Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công Chủ tọa phiên tòa
có nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ; giải quyết các khiếu nại và yêu cầu của những
người tham gia tố tụng và tiến hành những công việc khác cần thiết cho việc
mở phiên tòa”
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử được quy định tại khoản 2 Điều
151Thẩm phán có quyền và nghĩa vụ phải ra một trong các quyết định sau
đây: Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
Quyết định tạm đình chỉ vụ án hoặc đình chỉ vụ án. Trong quá trình nghiên
cứu hồ sơ nếu thấy cần thiết Thẩm phán có quyền áp dụng, thay đổi hoặc hủy
bỏ biện pháp ngăn chăn, vấn đề này do Chánh án, Phó Chánh án quyết định.
Căn cứ vào kết quả nghiên cứu hồ sơ nếu thấy đủ căn cứ để xét xử Thẩm phán
ra quyết định đưa vụ án ra xét xử và trên cơ sở đó Thẩm phán có quyền triệu
tập những người cần xét hỏi đến phiên tòa (Điều 158). Theo BLTTHS 1988
thì chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia và ngang quyền với Thẩm
phán vẫn được duy trì. Sự tham gia xét xử của Hội thẩm nhân dân nhằm góp
phần tăng cường quan hệ giữa Tòa án và nhân dân, đảm bảo công tác xét xử
được chính xác. Mội nguyên tắc quan trọng bậc nhất để đảm bảo cho việc xét
xử được đúng người, đúng tội, tại Hiến pháp 1980 ghi nhận “Khi xét xử,
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
BLTTHS đã ghi nhận lại nguyên tắc này tại Điều 17 và coi đây là một trong
những nguyên tắc quan trọng nhất của hoạt động tố tụng hình sự. Thẩm phán
và Hội thẩm nhân dân độc lập trong phán quyết của mình không bị phụ thuộc
bởi bất kỳ sự can thiệp của cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước vào việc xét
37
xử vụ án kể cả cơ quan cấp trên của mình. Hội đồng xét xử sơ thẩm gồ có một
thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân, trong trường hợp có tình chất nghiêm
trọng, phức tạp thì Hội đồng xét xử có thêm một Thẩm phán và ba Hội thẩm.
Hội đồng xét xử phúc thẩm có ba Thẩm phán, Hội đồng giám đốc thẩm Tòa
hình sự Tòa án nhân dân tối cao hoặc Tòa quân sự trung ương gồm có ba
Thẩm phán. Thẩm phán ở Tòa án cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực có
thẩm quyền xét xử những tội phạm hình sự có hình phạt từ 07 năm tù trở
xuống trừ một số loại tội được quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 145 của
BLHS. Tòa án cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử sơ thẩm những
vụ án hình sự về những tội phạm không thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp
huyện và Tòa án quân sự khu vực hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền cấp
dưới mà Tòa án cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu lấy lên xét xử (Điều
145). So với Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 thì thẩm quyền và
nhiệm vụ của của Thẩm phán cũng phải cao hơn. Các vụ án hình sự khi đã
đưa ra xét xử thì đều phải tiến hành giải quyết bằng phiên tòa, điều này khác
biệt so với Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, phân xử những việc nhỏ
không phải mở phiên tòa. Ở Tòa án cấp tỉnh Thẩm phán có thẩm quyền xét xử
theo trình tự sơ thẩm và trình tự phúc thẩm. Hội đồng xét xử phúc thẩm có ba
Thẩm phán. Ở Tòa án nhân dân tối cao Thẩm phán có quyền xét xử theo cả ba
trình tự sơ thẩm, phúc thẩm và xét lại bản án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ
tục giám đốc thẩm.
Bộ luật này đã nhiều lần được sửa đổi: Lần thứ nhất vào ngày 30/6/1990,
bổ sung Điều luật về thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm đồng thời là chung
thẩm có ba Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân, Thẩm phán Chủ tọa phiên
tòa điều khiển và giữ kỷ luật tại phiên tòa. Mặc dù vậy qua hai lần sửa đổi, bổ
sung BLTTHS 1988 vẫn chưa đáp ứng được tình hình mới nên đến ngày
38
21/12/1999 Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung lần ba và có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/7/2000. Lần sửa đổi, bổ sung này đã bỏ Điều 16 về thành phần Hội
đồng thẩm phán sơ thẩm đồng thời là chung thẩm. Từ năm 1960 đến năm
1992, nhà nước ta thực hiện chế độ bầy cử đối với Thẩm phán nhân dân điều
ngày đã góp phần vào việc mở rộng nền dân chủ nhân dân. Tuy nhiên, do điều
kiện kinh tế, xã hội và trình độ ý thức pháp luật còn thấp, việc thực hiện chế
độ bầu cử khó tránh khỏi những nhược điểm, hạn chế. Chất lượng đội ngũ
Thẩm phán các cấp nhìn chung rất thấp. Để dẫn đến những hạn chế đó một
phần là do hoàn cảnh lịch sử sau chiến tranh, nguồn chủ yếu là từ cán bộ
chính trị ở các cơ quan Đảng, chính quyền và quân đội chuyển sang, mặt khác
việc đào tạo Thẩm phán chưa được quan tâm đúng mức. Chính vì vậy, chất
lượng xét xử không mang kết quả cao, hoạt động xét xử mang nặng tính chất
chủ nghĩa kinh nghiệm. Chế độ bầu cử Thẩm phán còn mang một cơ chế cục
bộ “khép kín”. Hội đồng nhân dân cấp nào bầu ra Thẩm phán Tòa án nhân
dân cấp đó nên Thẩm phán được bầu ở địa phương này không được điều động
sang địa phương khác để xét xử được vì Thẩm phán phải chịu trách nhiệm và
báo cáo trước Hội đồng nhân dân địa phương bầu ra Thẩm phán đó và điều
ngày thể hiện nguyên tắc độc lập xét xử không được thực hiện một cách
nghiêm minh.
Xuất phát từ những yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết trên, Hiến pháp 1992 ra đời
thay thế Hiến pháp năm 1980 cùng với hàng loạt các đạo luật khác như Luật
Tổ chức Tòa án nhân dân 1992, Pháp lệnh về thẩm phán và Hội thẩm nhân
dân, Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự 1993.
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 đánh dấu một bước cải cách tư
pháp lớn đối với ngành Tòa án nhân dân. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm
2002 quy định bổ sung về sự giám sát của nhân dân đối với Thẩm phán, quy
định về mối quan hệ giữa Thẩm phán với các cơ quan, tổ chức và công dân.
Khi thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình Thẩm phán có quyền liên hệ với
39
các cơ quan nhà nước, ủy ban Mặt trận tổ quốc và các thành viên của Mặt
trận, các tổ chức xã hội khác.
Vai trò của Thẩm phán trong việc xét xử vụ án hình sự ở giai đoạn này
đã đạt được những thành công nhất định, đáp ứng được nhu cầu đề ra và đã
xây dựng được hình ảnh về đội ngũ cán bộ nhà nước nói chung và cán bộ tư
pháp nói riêng trong sạch, liêm khiết, tận tâm với nghề được quần chúng nhân
dân tin yêu.
1.4.3 Giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2015
Với mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng
sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là
hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao. Hiến pháp 2013
và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 ra đời đánh dấu một bước cải
cách tư pháp lớn đối với ngành Tòa án nhân dân. Luật Tổ chức Tòa án nhân
dân năm 2014 quy định bổ sung về sự giám sát của nhân dân đối với Thẩm
phán, quy định về mối quan hệ giữa Thẩm phán với các cơ quan, tổ chức và
công dân. Khi thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình Thẩm phán có quyền
liên hệ với các cơ quan nhà nước, ủy ban Mặt trận tổ quốc và các thành viên
của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác.
Ngày 01/8/2018, Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 do Quốc
Hội ban hành ngày 27/11/2015 (BLTTHS 2015) đã chính thức có hiệu lực thi
hành. Cùng với những điểm mới trong Bộ luật Hình sự 2015, đặc biệt là chế
định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại, BLTTHS 2015 đã cho
thấy một bước phát triển mới trong hoạt động lập pháp và các chính sách hình
sự của Việt Nam so với quy định của BLTTHS năm 2003.BLTTHS 2015 đã
tăng cho Thẩm phán các thẩm quyền: Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy
bỏ biện pháp cưỡng chế (trừ biện pháp tạm giam); Quyết định trưng cầu giám
40
định, giám định bổ sung hoặc giám định lại, thực nghiệm điều tra; thay đổi
hoặc yêu cầu thay đổi người giám định; yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu thay
đổi người định giá tài sản; Yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa;
thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội; Yêu cầu cử, thay đổi
người phiên dịch, người dịch thuật; Quyết định việc thu thập, bổ sung chứng
cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, ngoài ra còn được thực hiệnthực hiện
nhiệm vụ, quyền hạntố tụng khác thuộc thẩm quyền của Toà án theo sự phân
công của Chánh án Toà án theo quy định của luật này [Điều 45, 27].
Trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự: Thẩm phán chủ tọa tiếp nhận chứng
cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án khi cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp
chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, sau đó chuyển cho Viên kiểm sát
cùng cấp, sau 3 ngày kể từ ngày nhận được chứng cứ, tài liệu, đồ vật, Viện kiểm
sát phải xem xét và chuyển lại cho Tòa án để đưa vào hồ sơ vụ án [Điều 253, 27].
Bổ sung quy định về sửa chữa, bổ sung bản án,Thẩm phán chủ tọa phiên
tòa đã ra bản án, quyết định chỉ được sửa chữa, bổ sung bản án trong trường
hợp phát hiện có lỗi rõ ràng về chính tả, số liệu do nhầm lẫn hoặc do tính toán
sai; không được làm thay đổi bản chất vụ án hoặc bất lợi cho bị cáo, những
người tham gia tố tụng khác. Trường hợp Thẩm phán chủ tọa phiên tòa không
thể thực hiện được thì việc sửa chữa, bổ sung bản án do Chánh án Tòa án đã
xét xử vụ án đó thực hiện [Điều 261, 27].
Trường hợp trước khi mở phiên tòa, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải
giải quyết các yêu cầu, đề nghị: (1) Yêu cầu của Kiểm sát viên, người tham
gia tố tụng về việc cung cấp, bổ sung chứng cứ; triệu tập người làm chứng,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác đến
phiên tòa; về việc thay đổi thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án; (2) Đề
nghị của bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa về việc thay
đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; (3) Đề nghị của Kiểm
sát viên, người tham gia tố tụng về việc xét xử theo thủ tục rút gọn, xét xử
41
công khai hoặc xét xử kín; (4) Đề nghị của người tham gia tố tụng về việc
vắng mặt tại phiên tòa. Nếu có căn cứ thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa giải
quyết theo thẩm quyền hoặc thông báo cho người có thẩm quyền giải quyết
theo quy định của Bộ luật này và thông báo cho người đã yêu cầu, đề nghị
biết; nếu không chấp nhận thì thông báo cho họ bằng văn bản nêu rõ lý do
[Điều 279, 27]. Nhằm đáp ứng yêu cầu tranh tụng và giải quyết những yêu
cầu chính đáng của các chủ thể tố tụng.
Quy định về yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ,bảo đảm
tính linh hoạt trong thực tiễn, không nhất thiết mọi trường hợp phải trả hồ sơ
cho Viện kiểm sát; Tòa án vẫn giữ hồ sơ nhưng vẫn có thể yêu cầu Viện kiểm
sát bổ sung chứng cứ, tài liệu. Điều 284 Yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài
liệu, chứng cứ: Khi xét thấy cần bổ sung tài liệu, chứng cứ cần thiết cho việc
giải quyết vụ án mà không phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Thẩm phán
chủ toạ phiên tòa yêu cầu Viện kiểm sát bổ sungbằng văn bản và gửi cho Viện
kiểm sát cùng cấptrong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra văn bản yêu cầu.Trong
thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của Tòa án, Viện kiểm sát gửi
cho Tòa án tài liệu, chứng cứ được yêu cầu bổ sung. Trường hợp Viện kiểm
sát không bổ sung được tài liệu, chứng cứ thì Tòa án tiến hành xét xử vụ án.
Đổi mới trình tự và trách nhiệm xét hỏiđể thực hiện nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử được bảo đảm cũng như tăng sự chủ động của Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa tại Điều 307 quy định Chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định
người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý. Chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó
quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi. Người định giá tài
sản được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc định giá tài sản.
Có thể nói, giai đoạn này các văn bản pháp luật tố tụng hình sự đã được
pháp điển hóa một cách có hệ thống tạo ra hành lang pháp lý, cơ sở pháp lý
cho hoạt động tố tụng cũng như việc thực hiện các quyền hạn và trách nhiệm
42
của Thẩm phán trong việc thi hành các nhiệm vụ được giao
Kết luận chương 1
Thẩm phán là một chức danh tư pháp có vai trò rất quan trọng trong việc
giải quyết vụ án hình sự. Thẩm phán lao động bằng cả trí não với sự giám sát
nghiêm ngặt của xã hội, của công dân. Thẩm phán hoạt động trên cơ sở pháp
luật và những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự.
Tố tụng hình sự bao gồm tổng thể các quy định về thẩm quyền, chức
năng, nhiệm vụ của từng cơ quan tố tụng, của từng chủ thể tiến hành tố tụng.
Thẩm phán là một trong các chủ thể tiến hành tố tụng trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự.Tuy nhiên, qua phân tích trên chúng ta có thể thấy vai trò
trung tâm của Thẩm phán trong hoạt động xét xử vụ án hình sự. Chương 2
chúng ta sẽ tìm hiểu về các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
43
về vai trò của Thẩm phán trong xét xử vụ án hình sự và thực tiễn thực hiện.
Chương 2
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015
VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
2.1. Quy định của BLTTHS năm 2015 về vai trò của Thẩm phán trong
hoạt động xét xử vụ án hình sự
2.1.1. Vai trò của Thẩm phán trong quá trình chuẩn bị xét xử
Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án kèm theo bản cáo trạng thì Tòa án
phải thụ lý vụ án. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án
Tòa án phải phân công Thẩm phán chủ tọa phiên tòa giải quyết vụ án. Thẩm
phán chủ tọa phiên tòa cần đối chiếu các quy định của pháp luật về thẩm
quyền xét xử, để xem vụ án có thuộc thẩm quyền xét xử của cấp mình hay
không, tránh việc xét xử sai thẩm quyền dẫn đến vụ án bị hủy. Trong trường
hợp xét thấy vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của mình thì Tòa án trả hồ
sơ vụ án cho Viện kiểm sát đã truy tố để chuyển đến Viện kiểm sát có thẩm
quyền truy tố.
Thẩm phán được phân công xét xử vụ án hình sự cần phải kiểm tra xem
hồ sơ đã bảo đảm về thủ tục tố tụng và đủ số lượng bút lục theo danh mục
thống kê tài liệu có trong hồ sơ không, nếu phát hiện thiếu tài liệu nào thì cần
phải kiểm tra để giải quyết ngay.
Khi nghiên cứu bất kỳ tài liệu, chứng cứ nào có trong hồ sơ cũng phải
kiểm tra để đánh giá về tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp của
chúng. Về mặt lý luận, chúng ta đều biết để được coi là chứng cứ của vụ án
hình sự thì chứng cứ đó phải thỏa mãn ba thuộc tính của chứng cứ đó là “chứng
44
cứ phải là những gì có thật, tồn tại khách quan và có liên quan đến vụ án”.
Chuẩn bị xét xử là bước cần thiết của giai đoạn xét xử. Chuẩn bị xét xử
vụ án hình sự nhằm đưa ra những điều kiện đảm bảo cho việc xét xử tại phiên
tòa được diễn ra thuận lợi, đúng quy định của pháp luật. Quá trình này cũng
quyết định rất nhiều đến chất lượng xét xử tại phiên tòa.
Đối với việc chuẩn bị cho xét xử sơ thẩm vụ án hình sự: Chuẩn bị cho
việc xét xử vụ án hình sự nhằm đưa ra phiên tòa những việc chưa được điều tra
đầy đủ hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Chuẩn bị xét xử được bắt đầu từ khi
Tòa án nhận hồ sơ vụ án cùng bản cáo trạng của Viện kiểm sát chuyển sang.
Thẩm phán được phân công giải quyết, xét xử vụ án hình sự có nhiệm vụ
nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa và quyết định một loạt các công
việc về thủ tục cũng như nội dung để chuẩn bị tiến tới mở phiên tòa xét xử.
Khoản 1 Điều 45 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “Thẩm phán được
phân công giải quyết, xét xử vụ án hình sự có những nhiệm vụ, quyền hạn sau
đây: Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa; Tiến hành xét xử vụ án;
Tiến hành hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền
của Hội đồng xét xử; Tiến hành hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của
Tòa án theo sự phân công của Chánh án Tòa án. Ngoài những nhiệm vụ,
quyền hạn trên thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có những nhiệm vụ, quyền
hạn khác như: Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn,
biện pháp cưỡng chế, trừ biện pháp tạm giam; Quyết định trả hồ sơ để điều tra
bổ sung; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình
chỉ vụ án; Điều hành việc xét xử vụ án, tranh tụng tại phiên tòa; Quyết định
trưng cầu giám định, giám định bổ sung hoặc giám định lại, thực nghiệm điều
tra; thay đổi hoặc yêu cầu thay đổi người giám định; yêu cầu định giá tài sản,
yêu cầu thay đổi người định giá tài sản; Yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi
người bào chữa; thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội; yêu cầu
cử, thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật; Quyết định triệu tập những
45
người cần xét hỏi đến phiên tòa; Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng khác
thuộc thẩm quyền của Tòa án theo sự phân công của Chánh án Tòa án theo
quy định của Bộ luật này và Thẩm phán phải chịu trách nhiệm trước pháp luật
về hành vi, quyết định của mình.
So với quy định tại Điều 39 BLTTHS 2003 thì tại Điều 45 BLTTHS
2015 đã có những bổ sung thêm về thẩm quyền cho Thẩm phán là:
“...d. Điều hành việc xét xử vụ án, tranh tụng tại phiên tòa;
đ.Quyết định trưng cầu giám định, giám định bổ sung hoặc giám định
lại, thực nghiệm điều tra; thay đổi hoặc yêu cầu thay đổi người giám định; yêu
cầu định giá tài sản, yêu cầu thay đổi người định giá tài sản;
e.Yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa; thay đổi người
giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội; yêu cầu cử, thay đổi người phiên dịch,
người dịch thuật”.
Đây là những bổ sung cần thiết, tăng thẩm quyền và tính chủ động, độc
lập của Tòa án, phù hợp với thẩm quyền thu thập, bổ sung chứng cứ của Tòa án
mà trước đây chỉ có Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát mới có quyền thực hiện.
Những quy định trên nhằm tăng thẩm quyền của Thẩm phán được
phân công làm Chủ tọa phiên tòa xét xử sơ thẩm, phúc thẩm các vụ án hình
sự. Với tư cách là người cầm cân nảy mực, làm rõ sự thật vụ án dựa trên hồ
sơ, chứng cứ được cung cấp bởi các cơ quan tiến hành tố tụng khác và quá
trình xét xử để đưa ra phán quyết, Thẩm phán phải chịu hoàn toàn trách
nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình. Do vậy, đòi hỏi
mọi hoạt động của Thẩm phán nói riêng và những người tiến hành tố tụng
nói chung trong quá trình giải quyết vụ án phải được tiến hành hết sức
minh bạch, công khai và hết sức cẩn trọng, đảm bảo các nguyên tắc tố tụng
46
theo quy định của BLTTHS [38, tr.24-25].
Để nghiên cứu vụ án hình sự, bảo đảm cho việc xét xử thì Thẩm phán
phải căn cứ vào nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình để nghiên cứu
hồ sơ vụ án hình sự theo một trình tự hợp lý.
Điều 277 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định :”Trong thời hạn 30 ngày đối
với tội phạm ít nghiêm trọng, 45 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, 02
tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, 03 tháng đối với tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải ra
một trong các quyết định:
- Đưa vụ án ra xét xử;
- Trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung;
- Tạm đình chỉ vụ án hoặc đình chỉ vụ án.
Đối với vụ án phức tạp, Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời
hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 15 ngày đối với tội phạm ít nghiêm
trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm rất
nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Việc gia hạn thời hạn chuẩn
bị xét xử phải thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Như vậy, theo quy định tại Điều 277 BLTTHS về thời hạn chuẩn bị xét
xử, thì thời hạn chuẩn bị xét xử được tính từ ngày Tòa án thụ lý vụ án hình sự.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán được phân công xét xử vụ án hình sự
phải có nhiệm vụ giải quyết các khiếu nại và yêu cầu của những người tham
gia tố tụng như yêu cầu được mời luật sư, từ chố luật sư chỉ định, các yêu cầu
được ủy quyền, tiếp nhận các chứng cứ, đề nghị thay đổi Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân, các khiếu nại về kết luận giám định, các yêu cầu về giám định
bổ sung, giám định lại theo quy định tại các Điều 210 và 211 BLTTHS. Hoặc
xem xét xem trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát đã giải
quyết khiếu nại của bị can và gia đình họ hay chưa. Những khiếu nại trong
47
giai đoạn điều tra, truy tố thường gặp là những khiếu nại về khám nghiệm
hiện trường, kết luận giám định, thủ tục khám xét, thay đổi Điều tra viên, Kiểm
sát viên… xác định thời hạn chuẩn bị xét xử hoặc gia hạn thời hạn chuẩn bị xét
xử và phải ra các quyết định cần thiết cho việc mở phiên tòa hoặc quyết định trả
hồ sơ để điều tra bổ sung, quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án theo quy
định tại khoản 1 Điều 277 BLTTHS. Về vấn đề thời hạn chuẩn bị xét xử, chúng
ta cần nghiên cứu và áp dụng theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 04 ngày
05/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao [38, tr.68].
Hơn nữa, trong quá trình chuẩn bị xét xử thì việc nghiên cứu hồ sơ vụ án
hình sự là một giai đoạn rất quan trọng. Nghiên cứu hồ sơ giúp cho Thẩm
phán chủ tọa phiên tòa nắm vững được nội dung vụ án, để từ đó có hướng giải
quyết vụ án hình sự một cách đúng đắn và chính xác nhất, trong đó Thẩm
phán phải xác định được:
- Vụ án đã đủ điều kiện để đưa ra xét xử hay chưa;
- Có đúng thẩm quyền xét xử không;
- Có cần phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung hay không;
- Có căn cứ để áp dụng, thay đổi biện pháp ngăn chặn hay không;
- Có căn cứ để ra quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án hay không?
- Có cần phải trưng cầu giám định, giám định bổ sung hoặc giám định
lại, thực nghiệm điều tra; thay đổi người giám định; yêu cầu định giá tài sản,
yêu cầu thay đổi người định giá tài sản hay không;
- Có căn cứ yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa; thay đổi
người giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội; yêu cầu cử, thay đổi người phiên
dịch, người dịch thuật hay không;
- Cần phải triệu tập những người nào cần xét hỏi đến phiên tòa.
Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự cũng là cơ sở để Thẩm phán lên kế
hoạch xét hỏi một cách chủ động nhất, chủ động giải quyết các tình huống có
thể xảy ra tại phiên tòa, định hình được nội dung của bản án cũng như làm các
48
công việc khác cần thiết cho việc mở phiên tòa.
Trong hoạt động tố tụng hình sự thì các tình tiết trong vụ án luôn có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Vì vậy, để nắm được nội dung vụ án một cách
chắc chắn cũng như chủ động trong quá trình xét hỏi đòi hỏi Thẩm phán chủ
tọa phiên tòa phải nghiên cứu một cách kỹ lưỡng, có hệ thống và khoa học
nhất toàn bộ các tài liệu, chứng cứ được thu thập trong quá trình điều tra đã có
trong hồ sơ. Trước hết, Thẩm phán cần nghiên cứu từng tài liệu riêng lẻ kết
hợp so sánh với các tài liệu, chứng cứ khác để tìm ra mối liên hệ giữa chúng.
Từ đó, tổng hợp lại để phát hiện sự hợp lý hoặc những điểm mâu thuẫn giữa
các tài liệu, chứng cứ nhằm đánh giá sự tin cậy của các tài liệu, chứng cứ đã
được thu thập. Đây chính là cơ sở để Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có thể ra
một trong các quyết định được quy định tại khoản 1 Điều 277 BLTTHS
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải
căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án phải làm sáng tỏ những
vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự như quy định tại Điều 85
BLTTHS như sau:
“1.Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những
tình tiết khác của hành vi phạm tội;
2.Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố
ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ
phạm tội;
3.Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị
cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;
4.Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra;
5.Nguyên nhân và điều kiện phạm tội;
6.Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự,
miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt”.
Đối chiếu với các quy định trên, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cũng cần
49
phải xem xét những vấn đề như:
- Các thủ tục trong điều tra, truy tố đã bảo đảm đúng và đầy đủ theo quy
định của pháp luật hay không;
- Hành vi của bị cáo có đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm hay không; tội
danh và điều khoản mà VKS truy tố có phù hợp không;
- Có cần xử lý vật chứng hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm việc bồi
thường thiệt hại trước khi xét xử không;
- Có căn cứ để đưa vụ án ra xét xử; trả hồ sơ để điều tra bổ sung; tạm
đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án không [38, tr.29-30].
Theo tinh thần của cải cách tư pháp được quy định tại Nghị Quyết số 08-
NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị thì phán quyết của Tòa án chủ yếu
dựa vào kết quả thẩm vấn công khai tại phiên tòa trên cơ sở nghiên cứu các tài
liệu, kết quả thu thập chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, nghiên cứu kỹ
hồ sơ vụ án lại là yếu tố quan trọng để Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, góp phần
nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa. Trong thực tiễn xét xử, quá trình
thẩm vấn công khai và kết quả của việc tranh tụng tại phiên tòa cho thấy, có
nhiều tình tiết của vụ án cũng như các chứng cứ được điều tra, bổ sung tại
phiên tòa khác với kết quả điều tra đồng thời đã làm sáng tỏ thêm nhiều vấn
đề cần được chứng minh trong vụ án, dẫn đến việc phán quyết của Tòa án có
sự khác biệt hoặc khác biệt lớn với kết quả điều tra thu thập chứng cứ của Cơ
quan điều tra có trong hồ sơ vụ án là tương đối nhiều dẫn đến việc phán quyết
của Hội đồng xét xử khác với kết luận điều tra hoặc Cáo trạng của Viện kiểm
sát, nhiều vụ án thông qua hoạt động xét xử kiểm tra, đánh giá chứng cứ tại
phiên tòa đã phát hiện những tình tiết, chứng cứ mới dẫn đến việc Hội đồng
xét xử phải hoãn phiên tòa để yêu cầu điều tra bổ sung thêm [38, tr.30].
Nếu trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án, thấy rằng cần phải xem xét
thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại
50
phiên tòa được, hoặc thấy rằng bị cáo phạm tội khác hoặc có đồng phạm khác,
hoặc phát hiện có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, Thẩm phán ra
Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, quyết định này được gửi cho Viện
kiểm sát. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận lại hồ sơ, Thẩm phán chủ
tọa phiên tòa phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trường hợp phục hồi vụ
án thì thời hạn chuẩn bị xét xử theo thủ tục chung quy định tại Bộ luật này kể
từ ngày Tòa án ra quyết định phục hồi vụ án.
Nếu qua nghiên cứu hồ sơ vụ án mà thấy rằng vụ án đủ chứng cứ chứng
minh tội phạm thì Thẩm phán được phân công Chủ tọa phiên tòa quyết định đưa
vụ án ra xét xử. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra
xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa; trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở
ngại khách quan thì Tòa án có thể mở phiên tòa trong thời hạn 30 ngày.
Nếu trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, thấy có các căn cứ quy định tại
Điều 229 BLTTHS: Khi có kết luận giám định tư pháp xác định bị can bị bệnh
tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo thì có thể tạm đình chỉ điều tra trước khi hết
thời hạn điều tra hoặc chưa xác định được bị cáo hoặc không biết rõ được bị
cáo đang ở đâu thì Thẩm phán ra Quyết định tạm đình chỉ vụ án, nếu thấy có:
Căn cứ quy định tại Khoản 2 Điều 155 BLTTHS;
Căn cứ quy định tại các điểm: 3,4,5,6 và 7 Điều 157 BLTTHS;
Hoặc khi Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên
tòa thì Thẩm phán ra Quyết định đình chỉ vụ án.
Quy định tại khoản 2 Điều 155 BLTTHS 2015 có sự khác biệt so với
quy định tại khoản 2 Điều 105 BLTTHS 1999 (sửa đổi bổ sung 2003):
Trong khoản 2 Điều 105 BLTTHS 1999 (sửa đổi bổ sung 2003) có quy
định “Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở
phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ”. Quy định như vậy được hiểu
là những vụ án khởi tố theo yêu cầu của người bị hại chỉ được đình chỉ khi
51
người có yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trước khi mở phiên tòa. Do vậy,
nếu đã mở phiên tòa kể cả sơ thẩm hoặc phúc thẩm mà người bị hại mới rút
yêu cầu thì Tòa án vẫn phải xét xử bình thường.
Còn khoản 2 Điều 155 BLTTHS 20015 đã quy định là người yêu cầu
khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ. Theo đó, thì trong mọi
trường hợp vụ án đều được đình chỉ, kể cả tại phiên tòa sơ thẩm hoặc phúc
thẩm nếu người yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố.
Quy định như khoản 2 Điều 155 BLTTHS 2015 là hợp lý bởi lẽ: Theo
quy định tại Điều 155 BLTTHS, thì những trường hợp khởi tố theo yêu cầu
của người bị hại đa phần thuộc những trường hợp ít nghiêm trọng, việc có xử
lý bằng hình sự hay không phụ thuộc vào ý chí của người bị hại. Hành vi của
một người có bị coi là tội phạm hay không cũng phụ thuộc vào ý chí của
người bị hại. Do vậy, cần để người bị hại được thể hiện ý chí của mình trong
suốt quá trình tố tụng, chứ không nên quy định cứng nhắc là chỉ được đình chỉ
khi người bị hại rút yêu cầu khởi tố trước khi mở phiên tòa. Quy định như vậy
là bất lợi cho người phạm tội, trái với nguyên tắc xử lý của Bộ luật hình sự.
Việc đình chỉ vụ án còn căn cứ vào các trường hợp như, khi có căn cứ
xác định người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu
trách nhiệm hình sự;
- Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình
chỉ vụ án đã có hiệu lực pháp luật.
- Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự như quy định tại Điều 27
Bộ luật hình sự;
- Tội phạm được đại xá;
- Người phạm tội đã chết;
- Hoặc có sự sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự hoặc bị can, bị cáo là
người không có năng lực trách nhiệm hình sự.
52
Sau khi bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án hình sự chưa có hiệu
lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định pháp luật thì Tòa án sẽ
tiến hành xét xử phúc thẩm. Theo quy định tại Điều 330 BLTTHS thì khái
niệm xét xử phúc thẩm vụ án hình sự là “Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp
trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án,
quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo
hoặc kháng nghị”.
Trong tố tụng hình sự, xét xử phúc thẩm có một vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc đảm bảo nguyên tắc “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được
đảm bảo” và có ý nghĩa đảm bảo cho bản bán, quyết định của Tòa án được
phán quyết thận trọng, khách quan, chính xác, có căn cứ, đúng pháp luật, đảm
bảo cho việc Tòa án cấp trên giám sát hoạt động xét xử của Tòa án cấp dưới,
khắc phục được những sai lầm của Tòa án cấp dưới bảo đảm cho quyền, lợi
ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và cá nhân [38, tr.313].
Cũng như việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự ở cấp sơ thẩm, thì việc
nghiên cứu hồ sơ ở giai đoạn phúc thẩm theo phương pháp nào phụ thuộc vào
năng lực, sở trường và kinh nghiệm của từng Thẩm phán [38, tr 333].
Sau khi nghiên cứu kháng cáo, kháng nghị Thẩm phán cần nghiên cứu
bản án sơ thẩm để biết nội dung vụ án, phần nhận định, kết luận và quyết định
của bản án hình sự sơ thẩm. Khi nghiên cứu bản án hình sự sơ thẩm cần chú ý
đến tính hợp pháp và có căn cứ. Tính hợp pháp thể hiện ở chỗ bản án hình sự
sơ thẩm phải phù hợp với các quy định của pháp luật hình sự trong việc định
tội danh, định khung hình phạt, quyết định hình phạt và phải phù hợp với các
quy định của BLTTHS. Tính có căn cứ thể hiện ở các chứng cứ dùng để
chứng minh vụ án phải phù hợp với những sự kiện (tình tiết) thực tế của vụ án
đã xảy ra [38, tr.334]. Thẩm phán phải nghiên cứu cả các vấn đề không kháng
cáo, kháng nghị vì việc quyết định các vấn đề khác trong cùng một vụ án liên
quan với nhau. Để chuẩn bị cho việc xét xử phúc thẩm, không chỉ có Thẩm
53
phán Chủ tọa phiên tòa mà các Thẩm phán khác cũng phải nghiên cứu hồ sơ
vụ án, xem xét đánh giá các tài liệu có trong hồ sơ, đối chiếu với nội dung bản
án sơ thẩm để xác định: các chứng cứ trong hồ sơ đã đầy đủ chưa; sự việc,
tình tiết nào có căn cứ; sự việc tình tiết nào chưa rõ, còn mâu thuẫn để từ đó
kết luận bản án sơ thẩm có căn cứ và hợp lý chưa.
Các Thẩm phán không những chỉ kiểm tra những chứng cứ đã được cấp
sơ thẩm xem xét mà còn có quyền xem xét chứng cứ mới mà người có liên
quan đến kháng cáo, kháng nghị cung cấp và những chứng cứ do Viện kiểm
sát điều tra bổ sung. Trong quá trình chuẩn bị cho việc xét xử phúc thẩm, nếu
thấy có các căn cứ của việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn
chặn. Thẩm phán được phân công Chủ tọa phiên tòa có quyền áp dụng, thay
đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế. Việc áp dụng, thay
đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam do Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quyết
định. Việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn khác, biện pháp
cưỡng chế do Thẩm phán chủ tọa phiên tòa quyết định.
Tùy theo từng nội dung vụ án và nội dung kháng cáo của những người
tham gia tố tụng hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát, thì chủ tọa phiên tòa
phải có nhiệm vụ xác định việc triệu tập những người tham gia tố tụng tới
phiên tòa. Dự kiến những tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa, trên cơ sở
chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án và kháng cáo, kháng nghị để lập kế
hoạch xét hỏi.
Để chuẩn bị cho việc xét xử lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, Chánh án Tòa án phân công một
Thẩm phán là thành viên Hội đồng giám đốc thẩm làm bản thuyết trình về vụ
án. Bản thuyết trình tóm tắt nội dung vụ án và các bản án, quyết định của các
cấp Tòa án, nội dung của kháng nghị. Bản thuyết trình và các tài liệu có liên
quan phải gửi cho các thành viên Hội đồng giám đốc thẩm chậm nhất là 07
ngày trước ngày mở phiên tòa giám đốc thẩm. Các Thẩm phán trong Hội
54
đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm phải nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án,
điều này xuất phát từ phạm vi của giám đốc thẩm, tái thẩm. Qua việc nghiên
cứu hồ sơ vụ án các Thẩm phán phải nắm vững được nội dung vụ án, những
căn cứ của việc kháng nghị, những tình tiết mới của vụ án, những sai lầm
trong bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới.
Nói chung, các quy định về chuẩn bị xét xử giúp cho Thẩm phán có cách
nhìn nhận, sự đánh giá nhất định có tính bao quát về vụ án các vấn đề cần
phải làm sáng tỏ; giúp Thẩm phán khi ra phiên tòa có tính chủ động hơn để
điều khiển phiên tòa theo đúng trình tự thủ tục, bám sát nội dung vụ án, nâng
cao hiệu quả tranh tụng tại phiên tòa. Chính vì vậy luật tố tụng hình sự đã quy
định khá cụ thể về vai trò của Thẩm phán trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ
thẩm, tạo ra hành lang pháp lý cho Thẩm phán để giải quyết vụ án. Điều đó đã
hạn chết rất nhiều án hủy vì lỗi nghiên cứu hồ sơ vụ án được xác định là lỗi
chủ quan của Thẩm phán.
Trong những năm gần đây cho thấy: Các Thẩm phán đã phát huy được
quyền tố tụng của mình cũng như thực hiện đúng nghĩa vụ tố tụng, nêu cao
tinh thần trách nhiệm, chú trọng hơn trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, nghiên
cứu hồ sơ có phần thấu đáo và kỹ càng hơn. Khắc phục những thiếu sót,
chuẩn bị kỹ đề cương xét hỏi, phát hiện kịp thời những thiếu sót trong quá
trình điều tra vụ án để trả hồ sơ điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát có căn cứ
pháp lý, phát huy tốt vai trò là người tổ chức chỉ huy cao nhất tại phiên tòa.
Tuy nhiên, một số Thẩm phán không nắm chắc pháp luật, không thể hiện
được quyền hạn của một Chủ tọa phiên tòa, một mặt cũng do năng lực bạn
chế nên việc nghiên cứu hồ sơ chưa sâu, qua loa đại khái dẫn đến việc đánh
giá chứng cứ sai, không nắm chắc tình tiết của vụ án nên khi ra phiên tòa xét
hỏi không sát với nội dung, không tập trung, để những người tham gia tố tụng
tranh luận lan man, không giải quyết được vấn đề cần tranh luận nên dẫn đến
55
việc bị Tòa án cấp trên hủy án.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán có quyền trả hồ sơ để điều
tra bổ sung cho Viện kiểm sát nhưng thực tế có Thẩm phán không thực hiện
đúng quyền hạn này hoặc thực hiện không triệt để. Cụ thể: Cũng xuất phát từ
mối quan hệ nể nang nhau nên khi nghiên cứu hồ sơ thấy cần phải trả hồ sơ để
điều tra bổ sung nhưng Thẩm phán đã không thể hiện bằng một quyết định trả
hồ sơ để điều tra bổ sung theo luật định mà cho Kiểm sát viên bổ sung chứng
cứ rồi mang sang Tòa án để bổ sung vào hồ sơ hoặc Thẩm phán đã trả hồ sơ
để điều tra cho Viện kiểm sát một lần nhưng kết quả điều tra không đáp ứng
được yêu cầu trả hồ sơ, Tòa án đã “vội” đưa vụ án ra xét xử trong khi đó
quyền trả hồ sơ vẫn còn và kết quả đã bị Tòa án cấp trên hủy án trả hồ sơ cho
Viện kiểm sát để điều tra theo thẩm quyền.
2.1.2. Vai trò của Thẩm phán trong quá trình xét xử tại phiên tòa
Theo tinh thần Nghị quyết số 08/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số
49/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp, thì
Tòa án được xác định là trung tâm và xét xử được coi là hoạt động trọng tâm.
Để nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa hình sự cần “bảo đảm
tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố
tụng khác… Việc phán quyết của Toàn án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả
tranh tụng tại phiên tòa”.
Chính vì vậy, một phiên tòa hình sự có bảo đảm tính chất tranh tụng hay
không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó vai trò của chủ tọa phiên tòa có
thể nói là quan trọng nhất. Kết quả phiên tòa như thế nào hoàn toàn phụ thuộc
vào vai trò của chủ tọa phiên tòa. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử hiện nay,
một số Thẩm phán vẫn chưa thực hiện đúng tinh thần của Nghị quyết số 08,
nên đã có không ít phiên tòa chưa thể hiện tinh thần tranh tụng, phán quyết
của Tòa án chưa căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Thực
56
tiễn xét xử hiện nay cho thấy, nhiều phiên tòa vẫn mang tính thụ động, phụ
thuộc vào Cáo trạng của Viện kiểm sát chưa nâng cao được vị thế của Tòa án
như Điều 102 Hiến pháp 2013 đã ghi nhận “Tòa án nhân dân là cơ quan xét
xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.
Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.
Khoản 1, Điều 45 BLTTHS quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm
phán trong quá trình giải quyết, xét xử vụ án hình sự là tiến hành xét xử vụ
án, tiến hành hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền
của Hội đồng xét xử.
Dù ở cấp xét xử nào hay thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật nào thì sự tham gia của Thẩm phán trong Hội đồng xét xử luôn là
điều bắt buộc. Đây vừa là quyền nhưng đồng thời cũng là nghĩa vụ của người
Thẩm phán.
Ở cấp xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Điều 254 BLTTHS quy định: Hội
đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm. Trường hợp vụ án
có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm
hai Thẩm phán và ba Hội thẩm.
Đối với vụ án có bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất
của khung hình phạt là tù chung thân, tử hình thì Hội đồng xét xử sơ thẩm
gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm.
Ở cấp xét xử phúc thẩm, quy định: Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba
Thẩm phán, trong trường hợp cần thiết có thể có thêm hai Hội thẩm. Việc quy
định như vậy cũng xuất phát, tính có căn cứ của bản án, quyết định của Tòa
án cấp sơ thẩm nên đòi hỏi phải có đội ngũ Thẩm phán có trình độ chuyên
môn nghiệp vụ cao.
Thành phần Hội đồng xét xử được quy định như trên là đáp ứng được
những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự là việc xét xử của Tòa án có Hội
57
thẩm tham gia, nguyên tắc Thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật và nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
Các nguyên tắc trên đều mang tính hiến định được ghi nhận tại Điều 103 Hiến
pháp 2013 và là nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự.
Để đảm bảo chất lượng xét xử của Thẩm phán, để việc xét xử được
nghiêm minh, vô tư, khách quan, công minh thì Thẩm phán phải từ chối tham
gia xét xử hoặc bị thay đổi theo đề nghị của những người tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng trong các trường hợp sau đây:
- Thẩm phán đồng thời là bị hại, đương sự; là người đại diện, người thân
thích của bị hại, đương sự hoặc của bị can, bị cáo.
- Thẩm phán đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm
chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch
thuật trong vụ án đó.
- Có căn cứ rõ ràng khác để có thể cho rằng Thẩm phán không vô tư
trong khi làm nhiệm vụ ví dụ như: Thẩm phán là người đã chịu ơn bị cáo,
người bị hại hoặc có mối quan hệ mật thiết về công vụ, về kinh tế, về gia đình
với người có lợi ích được giải quyết trong vụ án hoặc có mâu thuẫn nghiêm
trọng với người đó.
- Thẩm phán và Hội thẩm cùng trong một Hội đồng xét xử là người thân
thích với nhau. Mối quan hệ thân thích ở đây có thể là vợ, chồng, bố đẻ, mẹ
đẻ, bố chồng, mẹ chồng, bố vợ, mẹ vợ, bố nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi;
ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột; cụ nội, cụ
ngoại, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, cháu ruột giữa Thẩm phán
và Hội thẩm hay giữa Thẩm phán với Thẩm phán.
- Thẩm phán đã tham gia xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm hoặc tiến hành
tố tụng vụ án đó với tư cách là Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên,
58
Kiểm tra viên, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án.
Ngoài những trường hợp từ chối hoặc bị thay đổi trên, BLTTHS còn quy
định thay thế các thành viên của Hội đồng xét xử trong trường hợp có Thẩm
phán không tiếp tục tham gia xét xử vụ án nhưng có Thẩm phán dự khuyết
tham gia phiên tòa từ đầu thì những người này được thay thế làm thành viên
Hội đồng xét xử. Trường hợp Thẩm phán chủ tọa phiên tòa không tiếp tục
tham gia xét xử được thì Thẩm phán là thành viên Hội đồng xét xử làm chủ
toạ phiên tòa và Thẩm phán dự khuyết được bổ sung làm thành viên Hội đồng
xét xử (Điều 349 BLTTHS). Theo quy định của pháp luật thì các thành viên
HĐXX phải xem xét vụ án từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc, quy định như
vậy nhằm đảm bảo cho việc thực hiện nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời
nói, liên tục. Trong quá trình xét xử, nếu có Thẩm phán không thực hiện tham
gia xét xử thì Tòa án vẫn có thể xét xử vụ án nếu có Thẩm phán dự khuyết.
Trong thực tế, đối với những vụ án đặc biệt nghiêm trọng và phức tạp cần
phải đề phòng có thành viên trong HĐXX không thể tiếp tục tham gia xét xử
được vì điều kiện sức khỏe hoặc phải thay đổi theo quy định của pháp luật.
Thẩm phán dự khuyết phải có mặt tại phiên tòa ngay từ đầu mới được tham
gia xét xử chứ không phải khi nào cần mới có mặt.
Trong quá trình xét xử, Thẩm phán làm nhiệm vụ Chủ tọa phiên tòa điều
khiển và giữ kỷ luật phiên tòa. Khi bắt đầu phiên tòa, Chủ tọa phiên tòa đọc
quyết định đưa vụ án ra xét xử. Thẩm phán phải đọc một cách rõ ràng, chính
xác, dõng dạc thể hiện được tính uy nghiêm nơi xét xử, làm cho bị cáo cùng
những người dự phiên tòa thấy được tính chất nghiêm trọng của vụ án. Chính
những điều tưởng chừng đơn giản đó nhưng lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng
tác động tới không khí phiên tòa. Thư ký phiên tòa báo cáo cho Hội đồng biết
sự có mặt, vắng mặt của những người được triệu tập đến phiên tòa.
Chủ tọa phiên tòa kiểm tra lại sự có mặt của những người có mặt tại
59
phiên tòa theo giấy triệu tập, giấy mời của Tòa án; kiểm tra lý lịch, phổ biến
quyền và nghĩa vụ của họ; giải thích cho họ biết về những bản án, quyết định
được công bố trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án và quyền của họ về việc
yêu cầu Tòa án không công bố những nội dung liên quan đến bí mật cá nhân,
bí mật gia đình, bí mật kinh doanh. Trong phiên tòa hình, việc kiểm tra căn
cước do Chủ tọa phiên tòa tiến hành nhằm xác định đúng “những người tham
gia tố tụng” mà Tòa án đã triệu tập để bảo đảm cho việc xét xử đúng người và
đúng pháp luật. Do vậy, chỉ những người “có mặt theo giấy triệu tập” và được
ghi rõ trong Quyết định đưa vụ án ra xét xử thì mới cần kiểm tra căn cước tại
phiên tòa.
Khi phổ biến quyền và nghĩa vụ cho những người tham gia tố tụng, Chủ
tọa phiên tòa phải giải thích cho họ hiểu được các quyền, nghĩa vụ của mình.
Đối với một số quyền, khi phổ biến có thể hỏi ngay việc thực hiện quyền đó.
Ví dụ: Quyền được tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa, nếu bị cáo đã
nhờ người bào chữa thì phải hỏi xem tại phiên tòa bị cáo có đồng ý để luật sư
bào chữa cho mình không. Nếu bị cáo không mời người bào chữa thì giải
thích cho bị cáo quyền tự bào chữa, hoặc nếu Tòa án chỉ định người bào chữa
trong những trường hợp bắt buộc thì cũng hỏi xem bị cáo có đồng ý không.
Chủ tọa phiên tòa giới thiệu thành viên của HĐXX, kiểm sát viên, Thư
ký phiên tòa, nếu có người giám định, người phiên dịch thì chủ tọa cũng cần
giới thiệu tên, chức vụ của những người đó và phải hỏi Kiểm sát, những
người tham gia tố tụng có quyền xin thay đổi người tiến hành tố tụng xem có
ai xin thay đổi người tiến hành tố tụng hay không? Nếu có người xin thay đổi
thì yêu cầu họ nói rõ lý do họ xin thay đổi. Sau khi nghe họ nêu lý do xin thay
đổi, có thể là họ xin thay đổi chính chủ tọa phiên tòa vì cho rằng chủ tọa
phiên tòa không khách quan, vô tư khi xét xử, nhưng không đưa ra được lý
do, thì cũng không thể vì thế mà chủ tọa phiên tòa nổi nóng, có những lời lẽ
60
gay gắt, hay lời lẽ mang tính giáo dục, răn đe mà phải bình tĩnh, nhẹ nhàng,
phân tích những căn cứ của việc xin thay đổi người tiến hành tố tụng tại phiên
tòa. Trong mọi trường hợp, nếu có người tham gia tố tụng xin thay đổi người
tiến hành tố tụng tại phiên tòa thì HĐXX cũng phải tuyên bố tạm dừng phiên
tòa để vào phòng nghị án để thảo luận và ra quyết định chấp nhận hoặc bác
yêu cầu thay đổi. Quyết định này phải được lập thành văn bản và phải đọc
trước phiên tòa. Trong trường hợp chấp nhận yêu cầu thay đổi thì phải có
thành viên khác thay thế ngay. Nếu không có người thay thế thì phải hoãn
phiên tòa.
Trong trường hợp có nhiều người làm chứng thì Chủ tọa phiên tòa quyết
định có hay không để cho người làm chứng nghe lời khai của nhau hoặc tiếp
xúc với những người khác, cách ly bị cáo với người làm chứng trước khi hỏi
người làm chứng.
Sau khi kiểm tra lý lịch và hoàn thành thủ tục giới thiệu, Chủ tọa phiên
tòa hỏi Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng xem có ai yêu cầu
triệu tập thêm người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng, tài liệu ra
xem xét tại phiên tòa hay không? Nếu có người yêu cầu triệu tập thêm người
làm chứng, đưa thêm vật chứng ra xem xét thì HĐXX xem xét và quyết định
tại phòng xử án. Nếu có người tham gia tố tụng vắng mặt thì HĐXX chủ động
hoặc theo yêu cầu của Kiểm sát viên, những người tham gia tố tụng khác
quyết định có hoãn phiên tòa hay không? Tùy theo từng trường hợp Hội đồng
xét xử xem xét và quyết định.
Nếu phiên tòa tiếp tục được mở, thì Chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc
phần thủ tục bắt đầu phiên tòa và chuyển sang phần xét hỏi, yêu cầu đại diện
Viện kiểm sát công bố bản Cáo trạng.
Sau khi nghe Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng và trình bày ý kiến bổ
sung nếu có, HĐXX và đặc biệt là Thẩm phán phải xác định đầy đủ các tình
61
tiết về từng sự việc và về từng tội của bị cáo bằng cách đặt câu hỏi và nghe ý
kiến trình bày của bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác,
đặc biệt là ý kiến của người làm chứng trong các vụ án có tính điều tra truy
xét, ý kiến của người giám định đối với vụ án hình sự mà kết luận giám định
có chỗ chưa rõ ràng hoặc có sự thắc mắc của những người tham gia tố tụng.
Nếu cần thiết phải xem xét vật chứng và các tài liệu khác, thậm chí phải tiến
hành xem xét tại chỗ.
Căn cứ vào kế hoạch xét hỏi đã được chuẩn bị, việc xét hỏi được tiến
hành theo trình tự: Chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm, sau đó
đến Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo về quyền lợi của đương sự.
Những người tham gia phiên tòa cũng có quyền đề nghị với chủ tọa phiên
tòa hỏi thêm những tình tiết cần làm sáng tỏ. Người giám định được hỏi về
những vấn đề có liên quan đến vệc giám định. Bộ luật tố tụng hình sự
không quy định phải hỏi ai trước, ai sau. Tùy thuộc vào vụ án hình sự cụ
thể, khi nghiên cứu hồ sơ Chủ tọa phiên tòa có kế hoạch xét hỏi sao cho
hợp lý. Khi hỏi bị cáo, đối với vụ án đồng phạm thì cần phải hỏi riêng từng
bị cáo, nếu thấy lời khai của bị cáo này có thể ảnh hưởng đến lời khai của
bị cáo khác thì cần cách ly các bị cáo. Bị cáo bị cách ly được thông báo lại
nội dung lời khai của bị cáo trước.
Các câu hỏi được đặt ra phải rõ ràng, dễ hiểu, không được dùng các lời
nói xúc phạm danh dự nhân phẩm của người được xét hỏi. Đồng thời phải đặt
ra nhiều loại câu hỏi khác nhau, hỏi thẳng vào vấn đề, hỏi ngược lại, tạo ra
tình huống có vấn đề…..hướng bị cáo và những người được hỏi tập trung làm
sáng tỏ vấn đề còn mâu thuẫn trong vụ án. Ngược lại nếu câu hỏi đặt ra quá
dài, rườm rà, khó hiểu, đặt câu thiếu chính xác, dùng từ lấp lửng, đối tượng có
thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau thì sẽ dẫn tới việc trả lời thiếu chính xác,
62
không đáp ứng được yêu cầu đặt ra, làm mất thời gian phiên tòa.
Xét hỏi tại phiên tòa, hay như nhiều người thường gọi là “thẩm vấn”,
chính là một phần của quá trình xét xử, trong đó Hội đồng xét xử, kiểm sát
viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự phải kiểm tra các
chứng cứ, kết luận điều tra, bản Cáo trạng một cách công khai về những tình
tiết của vụ án, cũng như phải trực tiếp xét hỏi bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người
làm chứng, nghe kết luận của người giám định, xem xét các vật chứng, đọc
biên bản, công bố lời khai, công bố các tài liệu, xem xét tại chỗ…. Xét hỏi là
giai đoạn trung tâm của hoạt động xét xử và cũng là giai đoạn quan trọng
nhất để xác định sự thật của vụ án, cũng như là những căn cứ để xác định tội
danh và quyết định hình phạt. Tuy những câu hỏi và trả lời tại phiên tòa
không khác nhiều so với những câu hỏi và trả lời trong quá trình điều tra,
nhưng nó lại có ý nghĩa quan trọng vì việc hỏi và trả lời tại phiên tò được
diễn ra một cách công khai, là hình thức kiểm nghiệm kết quả điều tra của
Cơ quan điều tra.
Việc xét hỏi đối với bị cáo tại phiên tòa, cần phải bảo đảm dân chủ,
khách quan, công minh, không thể hiện ý thức chủ quan của người hỏi là một
yêu cầu của tố tụng tranh tụng. Do vậy, thẩm phán chủ tọa phiên tòa cần tập
trung làm rõ các tình tiết là yếu tố định tội mà Viện kiểm sát truy tố, các tình
tiết là yếu tố định khung hình phạt; các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự; các vấn đề có liên quan đến trách nhiệm dân sự, đến xử
lý vật chứng. Tuy nhiên, việc đặt câu hỏi phải mang tính gợi mở, tạo điều
kiện cho bị cáo được khai một cách thoải mái nhất, không được hỏi mang tính
quy chụp đối với bị cáo. Trong quá trình xét hỏi, không chỉ xét hỏi về các tình
tiết buộc tội mà phải xét hỏi cả các tình tiết gỡ tội đối với bị cáo, kể cả trường
hợp bị cáo không thừa nhận lời khai nhận tội tại Cơ quan điều tra thì cũng
63
không được có thái độ mang tính áp đặt, dọa nạt, ép buộc mà cần phân tích
hỏi và lắng nghe sự lý giải của bị cáo tại phiên tòa vì sao tại Cơ quan điều tra
nhận tội mà tới phiên tòa lại phủ nhận lời khai nhận tội. Thực tế có nhiều vụ
án, nhiều trường hợp khi xét hỏi bị cáo thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đã
bộc lộ ngay định kiến xét hỏi theo hướng buộc tội hoặc theo hướng gỡ tội,
thông qua việc xét hỏi như vậy những người dự phiên tòa đã biết được hoặc
bàn tán nói trước Hội đồng xét xử sẽ ra bản ấn như thế nào đối với bị cáo.
Việc xét hỏi tại phiên tòa là một nghệ thuật, đòi hỏi người hỏi phải khách
quan, không thành kiến hoặc định kiến trước, không truy chụp hoặc đặt câu
hỏi theo kiểu bức cung hoặc mớm cung. Chỉ được công bố lời khai tại giai
đoạn điều tra theo đúng quy định tại Điều 308 BLTTHS.
Do vậy, việc xét hỏi những vấn đề liên quan đến việc buộc tội và gỡ tội
thì Chủ tọa phiên tòa chỉ hỏi mang tính gợi mở còn lại yêu cầu đại diện Viện
kiểm sát chủ động hỏi làm rõ để bảo vệ bản Cáo trạng của Viện kiểm sát.
Việc điều luật quy định, Kiểm sát viên không chỉ hỏi về những tình tiết của
vụ án liên quan đến việc buộc tội mà còn phải hỏi cả những tình tiết của vụ án
liên quan đến việc gỡ tội là thể hiện bản chất tố tụng hình sự của nước ta là tố
tụng “thẩm vấn xen lẫn tranh tụng” và nguyên tắc “xác định sự thật của vụ
án” là mục đích tối thượng của tố tụng Nhà nước Việt Nam. Bởi vì, Kiểm sát
viên tại phiên tòa có trách nhiệm thực hành quyền công tố, bảo đảm việc truy
tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người
phạm tội; kiểm sát việc xét xử các vụ án hình sự, nhằm bảo đảm việc xét xử
đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời. Trong lời luận tội của Kiểm sát viên
cũng không chỉ nêu các nội dung chứa đựng các tình tiết buộc tội bị cáo mà
còn phải nêu các chứng cứ gỡ tội, các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Trong
trường hợp bị cáo đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham
gia phiên tòa thì chủ tọa phiên tòa cũng cần xem xét ý kiến của bị cáo, nếu
phù hợp và cần thiết cũng nên chấp nhận ý kiến đề nghị của bị cáo để làm
64
sáng tỏ thêm các tình tiết của vụ án. Nếu sau khi xét hỏi mà chứng minh bị
cáo không phạm tội thì Kiểm sát viên còn phải rút quyết định truy tố và đề
nghị Hội đồng xét xử đình chỉ vụ án.
Hơn nữa, việc đặt câu hỏi có vai trò rất quan trọng trong quá trình xét
hỏi, xác định sự thật của vụ án. Câu hỏi được đưa ra phải đáp ứng được các
yêu cầu như phải ngắn gọn, rõ ràng về nội dung và xác định được đối tượng
cần được làm rõ. Tránh trường hợp đặt câu hỏi dài dòng, vòng vo làm cho
người được xét hỏi khó nắm bắt để trả lời. Trong quá trình xét hỏi, có thể đặt
ra các câu hỏi không trực tiếp liên quan đến đối tượng nhằm kiểm tra các
chứng cứ, lời khai. Tuyệt đối không được đưa ra các câu hỏi mang tính đánh
đố hoặc “mớm” cho người được xét hỏi trả lời theo hướng đã định sẵn. Không
nên đặt câu hỏi và yêu cầu người được xét hỏi chỉ trả lời “có” hoặc “không”.
Với tâm lý sợ hãi, mất bình tĩnh của người được xét hỏi tại phiên tòa, nhất là
các bị cáo thì việc đặt câu hỏi như vậy rất thiếu khách quan.
Sau khi xét hỏi bị cáo xong, Hội đồng xét xử tiếp tục xét hỏi những
người tham gia tố tụng khác như: Người làm chứng, bị hại, người giám
định… Tùy theo từng vụ án và diễn biến của phiên tòa mà đặt câu hỏi cho
hợp lý.
Sau khi Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Luật sư….đã xét hỏi xong vụ án
theo trình tự luật định, nếu thấy cần thiết phải làm sáng tỏ thêm một số tình
tiết của vụ án làm cơ sở cho việc quyết định của Hội đồng xét xử, Chủ tọa
phiên tòa có thể tiếp tục xét hỏi thêm. Bởi vì, thông qua việc xét hỏi có thể
mang tính buộc tội hoặc gỡ tội của Kiểm sát viên, xét hỏi mang tính buộc tội
hoặc gỡ tội của người bào chữa… có thể xuất hiện thêm các tình tiết có ý
nghĩa đối với vụ án mà Hội đồng xét xử chưa lường hết được trong phần xét
65
hỏi của mình.
Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu người bị hại thì Chủ tọa
phiên tòa yêu cầu người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày,
bổ sung ý kiến sau khi Kiểm sát viên trình bày luận tội. Khi phát biểu họ chỉ
đề nghị Hội đồng xét xử đồng ý hay không đồng ý với ý kiến của Kiểm sát
viên hoặc đề nghị Hội đồng xét xử kết tội bị cáo hoặc không kết tội bị cáo,
nếu kết tội thì là tội gì và hình phạt như thế nào là đủ, mà không yêu cầu họ
phải phân tích chứng cứ, pháp luật áp dụng như trong lời luận tội của Kiểm
sát viên được.
Nếu nhận thấy các tình tiết của vụ án đã được xét hỏi đầy đủ và không ai
đề nghị xét hỏi thêm, Chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc thủ tục xét hỏi tại
phiên tòa và chuyển sang phần tranh luận.
Một phiên tòa xét xử về hình sự có dân chủ hay không, phụ thuộc vào
kết quả tranh luận tại phiên tòa. Đây là giai đoạn rất quan trọng. Do đó chủ
tọa phiên tòa cần tập trung điều khiển để việc tranh luận tại phiên tòa đạt kết
quả cao nhất. Đúng như tinh thần của Nghị quyết số 08/TW của Bộ chính trị
ngày 02/01/2002 đã chỉ rõ “Khi xét xử, các tòa án phải bảo đảm cho mọi công
dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; Thẩm phán
và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của Tòa án
phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ,
toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo,
nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp
để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong
thời hạn quy định”. Tiếp đến Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của
Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng chỉ rõ “Đổi
mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách
nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo
đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại
66
các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”. Điều đó
thể hiện, tranh luận tại phiên tòa thể hiện rõ nét nhân nguyên tắc tranh tụng
mà công cuộc cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta đang hướng tới, là
nơi các bên tham gia tố tụng thực hiện các quyền tố tụng để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình.
Trong phần tranh luận, người Thẩm phán với vai trò như là một người
trọng tài không tham gia vào việc đối đáp mà chỉ lắng nghe ý kiến luận tội
của Kiếm sát viên, nghe các bên trình bày ý kiến lập luận về việc luận tội.
Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho
những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến nhưng có quyền cắt
những ý kiến không liên quan đến vụ án. Chủ tọa phiên tòa có quyền đề nghị
Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến có liên quan đến những vụ á của
người bào chữa và những nguời tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó
chưa được Kiểm sát viên tranh luận.
Chủ tọa phiên tòa chủ động trong việc quyết định người bào chữa nào
phát biểu trước, người bào chữa nào phát biết sau (nếu vụ án có đông bị cáo
và nhiều người bào chưa hoặc có một bị cáo nhưng có nhiều người bào chữa).
Sau khi người bào chữa phát biểu xong thì chủ tọa cần hỏi bị cáo có đồng ý
với quan điểm của người bào chữa đã phát biểu hay không, có cần bổ sung gì
thêm để tự bào chữa cho mình. Nếu bị cáo có ý kiến phát biểu bổ sung thì để
bị cáo được phát biểu, xong cần lưu ý bị cáo những gì mà người bào chữa đã
phát biểu rồi thì không cần nói lại để tránh mất thời gian. Sau đó sẽ yêu cầu
những người tham gia tố tụng khác phát biểu quan điểm của mình đối với bản
luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Về vấn đề này, đòi hỏi Chủ tọa phiên tòa
phải nắm chắc các tình tiết đã được xét hỏi để điều khiển việc tranh luận
không kéo dài mà vẫn bảo đảm tính chất tranh tụng khi xét xử.
Sau khi kết thúc phần tranh luận, Chủ tọa phiên tòa hỏi xem có ai có ý
67
kiến gì thêm không. Nếu không có ai cần trình bày thêm, Chủ tọa phiên tòa
tuyên bố kết thúc tranh luận, chuyển sang phần nghị án. Chủ tọa phiên tòa cho
bị cáo được nói lời sau cùng. Nếu trong lời nói sau cùng, bị cáo trình bày
thêm những tình tiết mới có ý nghĩa quan trọng đối với vụ án mà chưa được
làm sáng tỏ thì Hội đồng xét xử quyết định trở lại xét hỏi để xác định cho rõ.
Sau khi bị cáo đã trình bày xong lời nói sau cùng, Chủ tọa phiên tòa
tuyên bố nghỉ để nghị án. Nếu dự kiến việc nghị án kéo dài sang ngày khác thì
Chủ tọa phiên tòa cần tuyên bố rõ thời gian tuyên án.
Cuối cùng là thủ tục nghị án và tuyên án: Sau khi kết thúc phần tranh
luận HĐXX vào phòng nghị án. Chỉ có HĐXX, tức là chỉ có Thẩm phán và
Hội thẩm mới được nghị án. Kiểm sát viên và Thư ký không được tham gia
vào việc quyết định bản án. Trong phòng nghị án, Chủ tọa phiên tòa cần nêu
rõ từng vấn đề nghị án như: Tội danh; Điều khoản áp dụng; Các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng; Hình phạt, vấn đề bồi
thường thiệt hại; xử lý vật chứng của vụ án; Án phí và quyền kháng cáo của
bản án.
Đối với mỗi vấn đề, Chủ tọa phiên tòa phải nêu nội dung cần thảo luận.
Điều 326 BLTTHS chỉ quy định Thẩm phán biểu quyết sau cùng, chứ không
quy định Chủ tọa phiên tòa phát biểu thảo luận sau cùng. Vì vậy, Chủ tọa
phiên tòa có thể nêu quan điểm của mình trước hoặc sau khi Hội thẩm có ý
kiến. Khi có vấn đề thảo luận chưa thống nhất, thì cần thẳng thắn trao đổi,
Chủ tọa phải có trách nhiệm giải thích các quy định của pháp luật cho Hội
thẩm. Cùng với việc chuẩn bị nội dung và chương trình nghị án, Chủ tọa cần
chuẩn bị các văn bản pháp luật cần thiết có liên quan đến nội dung vụ án, để
nếu cần thiết thì có thể tra cứu ngay phục vụ cho việc nghị án.
Các vấn đề thảo luận được chia theo từng vấn đề một và mỗi vấn đề
được giải quyết bằng cách biểu quyết theo đa số. Về nguyên tắc, khi biểu
68
quyết Hội thẩm biểu quyết trước, Thẩm phán biểu quyết sau cùng và các vấn
đề được quyết định theo đa số. Nếu thành viên nào có ý kiến thiểu số thì ý
kiến đó được đưa vào biên bản nghị án hoặc người đó có thể trình bày bằng
văn bản và lưu trong hồ sơ vụ án. Qua việc nghị án nếu có những tình tiết của
vụ án chưa được xét hỏi hoặc xét hỏi chưa đầy đủ thì HĐXX quyết định trở
lại phần xét hỏi và tranh luận. Chủ tọa phiên tòa lập biên bản ghi các ý kiến
đã thảo luạn và quyết định của HĐXX. Khi nghị án, HĐXX căn cứ vào các
chứng cứ và tài liệu đã được kiểm tra thẩm định, đảm bảo tính khách quan
trong quá trình xét hỏi. Mọi thành viên trong HĐXX phải biểu quyết và Thẩm
phán phải biếu quyết sau cùng. Tất cả các vấn đề được thảo luận và biểu
quyết được coi là bí mật công tác và không được tiết lộ ra bên ngoài.
Sau khi bản án được thông qua, HĐXX trở lại phòng xét xử để tuyên án.
Việc tuyên án là nhằm công bố bản án và các quyết định khác của Hội đồng
xét xử một cách công khai trước phiên tòa. Qua đó bị cáo và những người
tham gia tố tụng khác biết được bẳn án hoặc những quyết định khác của Hội
đồng xét xử về những vấn đề có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của
mình, trên cơ sở đó họ có thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Khi
tuyên án, Chủ tọa phiên tòa hoặc có thể một thành viên của Hội đồng xét xử
tuyên đọc nguyên văn bản án. Nếu bản án dài, có thể các thành viên Hội đồng
xét xử thay nhau đọc. Về nguyên tắc mọi người có mặt trong phòng xử án
phải đứng dậy nghe tuyên án, nếu bản án dài thì sau phần mở đầu Hội đồng
xét xử có thể cho mọi người ngồi để nghe bản án, riêng các bị cáo vẫn phải
đứng nghe tuyên toàn bộ bản án.
Cách đọc, giọng đọc của người Thẩm phán cần được luyện tập và trao
đổi, rút kinh nghiệm. Khi tuyên án, người đọc bản án phải thể hiện sự đàng
hoàng, trang nghiêm; đọc bản án cần dõng dạc, dứt khoát, thể hiện được tính
uy nghiêm, mức độ quan trọng của bản án ,phản ánh chính xác nội dung của
bản án và các quyết định của Hội đồng xét xử. Sau khi tuyên án xong, Chủ
tọa phiên tòa nên giải thích cho bị cáo và những người tham gia tố tụng biết
quyền kháng cáo, thể thức kháng cáo, việc chấp hành bản án,giải thích về chế
69
định án treo, nghĩa vụ của người được hưởng án treo trong thời gian thử
thách… Nếu Hội đồng xét xử ra quyết định bắt giam bị cáo hay trả tự do cho
bị cáo ngay sau khi tuyên án, Chủ tọa phiên tòa cũng phải công bố và cho thi
hành ngay những quyết định đó đối với bị cáo.
Chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc phiên tòa, yêu cầu Công an dẫn giải
các bị cáo về trại giam nếu bị cáo bị tạm giam hoặc bị bắt tạm giam tại phiên
tòa. Nếu bị cáo được trả tự do ngay thì cần giải thích họ phải quy lại trại giam
để làm các thủ tục cần thiết và nhận lại tài sản lưu ký nếu có.
Tiếp theo, đó là quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán tại phiên tòa
xét xử phúc thẩm vụ án hình sự. Thủ tục bắt đầu phiên tòa được tiến hành như
ở phiên tòa sơ thẩm xong theo quy định tại khoản 2 Điều 255 BLTTHS 2015
thì khi xét xử phúc thẩm Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cũng phải ra quyết định
đưa vụ án ra xét xử. Do vậy, Chủ tọa phiên tòa sau khi khai mạc phiên tòa
cũng phải công bố quyết định đưa vụ án hình sự phúc thẩm ra xét xử.
Chỉ kiểm tra căn cước của các bị cáo có kháng cáo hoặc bị kháng nghị.
Khi giải thích về quyền và nghĩa vụ cho những người tham gia tố tụng tại
phiên tòa, Chủ tọa phiên tòa cần giải thích thêm quyền bổ sung, thay đổi, giữ
nguyên, rút một phần hay toàn bộ kháng cáo, kháng nghị (nhưng không được
làm xấu đi tình trạng của bị cáo). Nếu người kháng cáo hoặc Viện kiểm sát rút
toàn bộ kháng cáo, kháng nghị và không còn ai kháng cáo thì Hội đồng xét xử
ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm theo đúng quy định tại Điều 348
BLTTHS.
Giải quyết yêu cầu, đề nghị về hoãn phiên tòa (trong trường hợp người
được triệu tập vắng mặt; bị cáo chưa nhận được thông báo về việc kháng cáo,
kháng nghị hoặc thông báo về thời gian mở phiên tòa phúc thẩm…).
Phiên tòa phúc thẩm cũng được tiến hành như phiên tòa sơ thẩm bao
gồm các phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên
70
án. Tuy nhiên, khác với cấp sơ thẩm là trước khi xét hỏi thường là Chủ tọa
phiên tòa trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm, nội
dung kháng cáo, kháng nghị.
Khi xét hỏi, HĐXX tập trung làm rõ những vấn đề liên quan tới kháng
cáo, kháng nghị thông qua việc thẩm vấn chính người có kháng cáo, kháng
nghị và những người khác có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tới kháng cáo,
kháng nghị.
Trong phần tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên phát biểu
quan điểm về việc giải quyết vụ án, trên cơ sở kiểm tra các chứng cứ cũ và
mới (nếu có) để kết luận về tính hợp pháp của bản án sơ thẩm và đề nghị Hội
đồng xét xử chấp nhận hay không chấp nhận kháng cáo hoặc kháng nghị.
Tiếp theo, người bào chữa trình bày và nêu lên quan điểm đề nghị Hội đồng
xét xử về việc giải quyết các vấn đề liên quan đến kháng cáo, kháng nghị (nếu
không có người bào chữa thì bị cáo tự mình bào chữa) sau đó đến những
người tham gia tố tụng khác.
Sau khi các bên đã trình bày xong quan điểm của mình, Chủ tọa phiên
tòa điều khiển phần đối đáp cũng như tại phiên tòa sơ thẩm. Sau khi phần đối
đáp đã đầy đủ Hội đồng xét xử tuyên bố kết thúc phần tranh luận, cho bị cáo
nói lời sau cùng và chuyến sang phần nghị án.
Việc nghị án và lập biên bản nghị án cũng tiến hành như ở cấp sơ thẩm.
HĐXX phúc thẩm sau khi nghị án có quyền quyết định: Không chấp nhận
kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm; sửa bản án sơ thẩm;
hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại; hủy bản án sơ thẩm và đình
chỉ vụ án. Mặc dù cấp phúc thẩm chỉ xét trên những phần của bản án có
kháng cáo, kháng nghị. Song theo nguyên tắc cần phải xem xét toàn diện vụ
71
án, do vậy nếu cần thiết HĐXX vẫn xem xét đến những vấn đề không có
kháng cáo, kháng nghị để giải quyết (nếu điều đó không làm xấu đi tình trạng
của bị cáo). Trước khi tuyên án, HĐXX phải xem xét kỹ lưỡng bản án và thủ
tục tuyên án cũng như ở cấp sơ thẩm, một thành viên của HĐXX đọc bản án.
Sau cùng, đó là quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán tại phiên tòa
xét xử lại bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm. Ở phiên tòa giám đốc thẩm, chủ tọa phiên tòa khai
mạc phiên tòa, một thành viên Hội đồng giám đốc thẩm trình bày bản thuyết
trình về vụ án. Các thành viên khác của Hội đồng giám đốc thẩm hỏi thêm
Thẩm phán thuyết trình về những điểm chưa rõ trước khi thảo luận và phát
biểu ý kiến của mình về việc giải quyết vụ án. Trường hợp Viện kiểm sát
kháng nghị thì Kiểm sát viên trình bày nội dung kháng nghị. Khi xét xử giám
đốc thẩm, HĐXX có quyền đưa ra quyết định: Không chấp nhận kháng nghị
và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị; Hủy
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên bản án, quyết định
đúng pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc thẩm bị hủy,
sửa không đúng pháp luật; . Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
để điều tra lại hoặc xét xử lại; Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
và đình chỉ vụ án; Sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật; Đình chỉ
xét xử giám đốc thẩm.
Khi xét xử tái thẩm, Hội đồng tái thẩm có quyền đưa ra quyết định: Không
chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
bị kháng nghị; Hủy bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật để
điều tra lại hoặc xét xử lại; Hủy bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật và đình chỉ vụ án; Đình chỉ việc xét xử tái thẩm.
Quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm có hiệu lực
72
pháp luật kể từ ngày ra quyết định.
Có thể nói Thẩm phán có vai trò quyết đinh trong quá trình giải quyết
các vụ án hình sự. Thẩm phán là thành phần không thể thiếu được trong bất
kỳ phiên tòa nào. Thẩm phán chuẩn bị cho phiên tòa xét xử, Thẩm phán là
thành viên trong mỗi một HĐXX để quyết định một người có tội hay không
có tội và hình phạt đối với người có tội. Thẩm phán cũng tham gia thành viên
xem xét, quyết định bản án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm. Thẩm phán chính là một trong những nhân tố quan trọng để đi
đến chất lượng tốt của việc xét xử, đảm bảo cho hoạt động xét xử của Tòa án
diễn ra theo quy định pháp luật đi đến những bản án quyết định sáng suốt,
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Với tư cách là nhân vật trung tâm trong hoạt động xét xử của Tòa án,
BLTTHS của Nhà nước ta đã có những quy định cụ thể, rõ ràng về vai trò của
Thẩm phán trong tố tụng hình sự. Là đại diện cho nền công lý quốc gia, Thẩm
phán phải có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ tố tụng của
mình trong toàn bộ quá trình tố tụng để đảm bảo cho các phán quyết của
Thẩm phán được công minh, đúng pháp luật
2.2. Thực tiễn và hạn chế về vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử
vụ án hình sự
2.2.1 Về số lượng biên chế Thẩm phán
Tại Nghị quyết số 473a/NQ-UBTVQH13 ngày 28/3/2012 và Nghị
quyết số 1278/NQ-UBTVQH13 ngày 01/7/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội đã giao cho Tòa án nhân dân tổng biên chế là 15.237 người, gồm: Tòa án
nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân cấp cao có 722 người, trong đó có 17
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và 170 Thẩm phán cao cấp; Tòa án nhân
dân cấp tỉnh có 4.088 người, trong đó có 65 Thẩm phán cao cấp và 1.170
Thẩm phán trung cấp; Tòa án nhân dân cấp huyện có 10.427 người, trong đó
73
có 1.420 Thẩm phán trung cấp và 3.679 Thẩm phán sơ cấp.
Tính đến ngày 30/6/2018, tổng biên chế của các Tòa án nhân dân là
14.839 người (đạt tỉ lệ 97,4%), còn thiếu 398 biên chế; cụ thể như sau:
- Tòa án nhân dân tối cao là 458 người, trong đó có 17 Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao.
- 03 Tòa án nhân dân cấp cao là 290 người, trong đó có 102 Thẩm phán
cao cấp.
- 63 Tòa án nhân dân cấp tỉnh là 3.909, trong đó có 1.097/1.235 Thẩm
phán. Số biên chế còn thiếu 93 người, thiếu 138 Thẩm phán trung cấp.
- 710 Tòa án nhân dân cấp huyện là 10.182/10.427 người, trong đó có
5.023/5.099 Thẩm phán. Số lượng biên chế còn thiếu 245 người, thiếu 76
Thẩm phán sơ cấp [37].
2.2.2 Kết quả đã đạt được trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của
Thẩm phán
Theo Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cáo trước Quốc hội
về công tác của các Tòa án từ năm 2016 đến năm 2018 cho thấy kết quả
hoạt động xét xử các vụ án hình sự của đội ngũ Thẩm phán các cấp thể hiện
như sau:
Năm 2016
Các Tòa án nhân dân đã thụ lý 81.529 vụ với 137.301 bị cáo, tăng
1.111 vụ, giảm 4.069bị cáo; đã giải quyết, xét xử được 79.107 vụ với 131.995
bị cáo (đạt tỷ lệ 97% về số vụ và 96% về số bị cáo). Trong công tác giải quyết
xét xử các vụ án hình sự, quán triệt chỉ đạo của lãnh đạo Tòa án nhân dân tối
cao, các Tòa án đã tăng cường phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng
nhằm sớm hoàn tất hồ sơ để đưa ra xét xử trong thời hạn luật định [33].
Năm 2017
Các Tòa án đã thụ lý 74.505 vụ với 123.679 bị cáo, giảm 7.024 vụ
74
với 13.622 bị cáo; đã giải quyết, xét xử được 72.854 vụ với 119.207 bị
cáo(đạt tỷ lệ 98% về số vụ và 96,4% về số bị cáo). Qua công tác xét xử cho
thấy, tình hình tội phạm nói chung tuy đã được kiềm chế nhưng vẫn diễn
biến phức tạp. Năm 2017, việc giải quyết, xét xử các vụ án hình sự về cơ
bản đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, chưa phát hiện trường
hợp nào kết án oan người không có tội [34].
Năm 2018
Các Tòa án đã thụ lý 76.260 vụ với 128.254 bị cáo (tăng 1.755 vụ với
4.575 bị cáo); đã giải quyết, xét xử được 67.022 vụ với 110.537 bị cáo (đạt tỷ
lệ 87,9% về số vụ và 86,2% về số bị cáo). Nhìn chung, việc xét xử các vụ án
hình sự đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Qua công tác xét xử các
vụ án hình sự cho thấy, tình hình tội phạm nói chung tuy đã được kiềm chế
nhưng vẫn còn diễn biến phức tạp, trong đó chiếm tỷ lệ cao vẫn là các nhóm tội
liên quan tới xâm phạm sở hữu; các tội phạm về ma túy; xâm phạm trật tự công
cộng; xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người [35].
Thực tế hiện nay, mỗi Thẩm phán phải giải quyết, xét xử trung bình 8 vụ,
việc/tháng, cá biệt có nơi 12-14 vụ/tháng, như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí
Minh, Đồng Nai, Bình Dương... Số lượng các loại vụ, việc tăng hằng năm,
năm sau cao hơn năm trước nhưng trong khi tổng biên chế vẫn giữ nguyên,
dẫn đến các Thẩm phán bị quá tải, áp lực về công việc, chưa đáp ứng yêu cầu
công tác xét xử, giải quyết các loại vụ, việc thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp.
2.3 Những tồn tại, hạn chế trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự của
Tòa án nhân dân
Chủ trương mở rộng và nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà hình
sự theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết số 49- NQ/TW của
Bộ Chính trị là hoàn toàn đúng đắn nhằm bảo đảm việc xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luât. Đây là một đòi hỏi cấp bách nhằm khắc phục những
75
bất cập, vuớng mắc và tồn tại trong thực tiễn tranh tụng tại các phiên toà hình
sự ở nước ta và cũng là nhu cầu tất yếu của đất nước trong quá trình hội nhập
quốc tế nhằm bảo vệ ngày càng có hiệu quả hơn quyền con nguời trong lĩnh
vực đặc thù này.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong hoạt động xét xử các vụ án
hình sự của Tòa án thì vẫn còn những tồn tại những hạn chế chưa đáp ứng
được theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết số 49- NQ/TW
của Bộ Chính trị. Vẫn có nhiều trường hợp việc xét hỏi tại phiên tòa còn
phiến diện, không đầy đủ dẫn đến việc ra bản án không đúng pháp luật. Có
một số biên bản phiên tòa được lưu trong hồ sơ vụ án không thể hiện việc khi
phổ biến quyền, nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng trong quá trình
xét xử, giải quyết vụ việc, Chủ tọa phiên tòa giải thích cho những người tham
gia tố tụng biết về những bản án, quyết định được công bố trên Cổng thông
tin điện tử của Tòa án và quyền của họ về việc yêu cầu Tòa án không công bố
những nội dung liên quan đến bí mật cá nhân, bí mật gia đình, bí mật kinh
doanh(đây có thể do lỗi của thư ký phiên tòa đã không ghi chép đầy đủ trong
khi ghi biên bản phiên tòa)
2.3.1 Hạn chế chủ quan
Đội ngũ Thẩm phán các cấp nhiều người chưa được chuẩn bị đầy đủ về
kỹ năng nghề nghiệp theo yêu cầu cải cách tư pháp, chưa kịp thời đổi mới tư
duy và phương pháp công tác nên việc thực hiện chức năng xét xử tại phiên
toà vẫn theo "nếp cũ”. Mặt khác, do cơ chế làm việc, sự hạn chế về trình độ
nghiệp vụ và tinh thần trách nhiệm của đội ngũ Thẩm phán nên nguyên tắc
"Khi xét xử Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” chưa có tính khả
thi cao trên thực tế. Việc xét hỏi tại phiên toà chưa thực sự đổi mới theo tinh
thần cải cách tư pháp của Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết số 49-
NQ/TW mà chủ yếu vẫn do HĐXX (chủ toạ phiên toà) thực hiện nên chưa
76
phát huy được vai trò tích cực, chủ động của Kiểm sát viên, luật sư và những
nguời tham gia tố tụng khác trong xét hỏi và tranh luận tại phiên toà để làm
sáng tỏ các tình tiết, các chứng cứ, tài liệu về vụ án. Trong nhiều phiên tòa,
Thẩm phán chủ tọa còn lúng túng trong xử lý tình huống, chưa chủ động điều
khiển quá trình tranh luận, đối đáp của các bên, nhất là đối với các vụ án có
đông bị cáo và nhiều luật sư tham gia nên mặc dù thời gian tranh luận kéo dài
nhưng chất luợng luận tội và bào chữa không cao, việc tranh luận, đối đáp của
các bên không đi vào trọng tâm các vấn đề cần giải quyết trong vụ án [17].
Trong thực tiễn xét xử vẫn còn nhiều phiên tòa mặc dù được chuẩn bị
công phu, chặt chẽ nhưng do Chủ tọa phiên tòa thiếu kinh nghiệm điều khiển
phiên tòa, thậm chí không biết tiến hành việc gì trước việc gì sau nên kết quả
đạt được kết quả cao.
Phần tranh luận chính là phần thể hiện tính tranh tụng nhất nhưng chủ
toạ phiên toà chưa điều khiển để người bào chữa, bị cáo và những người tham
gia tố tụng khác tranh luận với Kiểm sát viên, còn Kiểm sát viên thì không
tranh luận hoặc tranh luận không hết các ý kiến mà người bào chữa, bị cáo và
những người tham gia tố tụng đưa ra cần tranh luận làm rõ. Việc xử lý các
tình huống tại phiên toà của chủ toạ cũng còn lúng túng, khi gặp phải trường
hợp ngoài dự kiến ban đầu của chủ toạ phiên toà như: Người bào chữa (Luật
sư) tự ý rời bỏ phòng xử án mà không được chủ toạ đồng ý; bị cáo ra toà lặng
thinh như người câm, không nói, không trả lời bất cứ câu hỏi nào của Hội
đồng xét xử hoặc của Kiểm sát viên; tại phiên toà bị cáo đề nghị mời Luật sư
bào chữa; Kiểm sát viên đề nghị hoãn phiên toà rút hồ sơ vụ án để xem xét
lại...Việc Hội đồng nghị án, cũng như thời gian nghị án còn nhiều vấn đề Bộ
luật tố tụng hình sự chưa quy định rõ ràng, chưa có cơ chế kiểm tra, giám sát
xem bản án có được thông qua tại phòng nghị án hay không? Biên bản nghị
án có phản ảnh đúng trình tự, nội dung thảo luận của Hội đồng xét xử hay
77
không? [20].
Sau khi nghiên cứu các quy định về vai trò của Thẩm phán tại phiên tòa
thì thấy rằng: Thẩm phán luôn giữ vai trò là người điều khiển suốt quá trình
diễn ra phiên tòa, mọi lời nói, cử chỉ của Thẩm phán đều phải hết sức cẩn
trọng làm sao để những người tham gia tố tụng và những người đến dự phiên
tòa thấy được sự công bằng của pháp luật, thấy được vị quan tòa “cầm cân
nảy mực” nhân danh công lý, đại diện cho một nền pháp lý dân chủ và công
bằng để cho nhân dân rằng mình đã mang lại công lý cho mọi người.
Trong phần tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của luật sư bào chữa cho bị
cáo, ý kiến tranh luận của bị cáo ít được Chủ tọa phiên tòa lắng nghe điều này
rơi vào các Thẩm phán không chịu thay đổi tư duy giữ nguyên lề lối làm việc
cũ, việc này đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng xét xử cũng như
tính khách quan, toàn diện của phiên tòa, có phiên tòa khi chuyển sang phần
tranh luận hầu như vị Chủ tọa đó cũng không quan tâm lắm đến các ý kiến mà
các bên tham gia tranh luận.
Có thể nói, “tranh tụng trong xét xử” là một trong những nguyên tắc
quan trọng nhất đảm bảo cho việc ra phán quyết bản án dựa trên một phần
quan trọng là chất lượng tranh tụng tại phiên tòa vì có tranh tụng mới nâng
cao chất lượng xét xử của Tòa án. Phiên tòa được tranh tụng đúng nghĩa sẽ
giúp cho hội đồng xét xử có cơ sở đưa ra phán quyết cuối cùng đúng người,
đúng tội, không oan, sai; làm rõ được các vấn đề có kháng cáo, kháng nghị.
Tăng cường và nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa sẽ tạo được sự
bình đẳng giữa các chủ thể tham gia tố tụng, thông qua tranh tụng để làm sáng
tỏ vụ việc mà không làm mất đi đặc trưng mô hình tố tụng hiện có. Tuy nhiên,
xét một cách kỹ lưỡng thì yếu tố tranh tụng thực sự vẫn chưa được đáp ứng
theo yêu cầu tại các Nghị quyết 08 và 49 của Bộ Chính trị; Coi hoạt động xét
xử của Tòa án là khâu đột phá trong hoạt động tư pháp, các bản án, quyết định
78
của Hội đồng xét xử cũng chưa thực sự căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh luận
tại phiên tòa, chưa coi trọng ý kiến của luật sư, bị cáo hay bị hại, yếu tố tranh
tụng nhiều khi vẫn coi là hình thức, hiện tượng “án bỏ túi” vẫn còn tồn tại.
2.3.2 Hạn chế khách quan
Điều 15 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định như sau: "Trách
nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình
vô tội.”. Vì vậy, trong việc chứng minh tội phạm thì Tòa án đóng vai trò rất
lớn. Chính vì vậy mà, Tòa án không chỉ đóng vai trò là trọng tài, thực hiện
chức năng xét xử mà còn có chức năng buộc tội và có trách nhiệm chứng
minh tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
có vai trò, trách nhiệm nghiên cứu kỹ hồ sơ do Viện kiểm sát chuyển sang,
nắm chắc các tài liệu, chứng cứ trước khi đưa vụ án ra xét xử, quyền lực tập
trung vào tay Hội đồng xét xử là rất lớn và chủ yếu. Trong phần xét hỏi Chủ
tọa phiên tòa là người hỏi chính, xét hỏi đầu tiên. Tại phiên tòa Chủ tọa thể
hiện vai trò rất tích cực nhưng ngược lại Kiểm sát viên lại rất thụ động. Có lẽ,
đây là vấn đề mà chúng ta cũng phải tiếp tục nghiên cứu và xem xét sao cho
phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp mà Bộ chính trị đề ra theo hướng nâng
cao tranh tụng tại các phiên tòa.
2.4. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong hoạt động xét xử các
vụ án hình sự của Tòa án nhân dân
2.4.1 Nguyên nhân khách quan
Một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng xét xử các vụ
án hình sự là do quy định của pháp luật mà đặc biệt là việc giải thích, hướng
dẫn thi hành pháp luật chưa đầy đủ và kịp thời. BLTTHS đã qua nhiều lần sửa
đổi, nhưng còn rất nhiều quy định không phù hợp, chứa đựng nhiều mâu
thuẫn nhưng chưa được sửa đổi, bổ sung. Có nhiều văn bản pháp luật liên
79
quan đến hoạt động xét xử các vụ án hình sự chưa được quy định hoặc quy
định chưa đầy đủ, chồng chéo lẫn nhau. Những quy định của BLTTHS 2015
về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong vụ án hình sự
vẫn chưa đáp ứng được công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay. Để nâng cao chất lượng xét xử thì một trong những yêu cầu cần đặt
ra là phải hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề này theo hướng “Đổi
mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn trách
nhiệm của người tiến hành tố tụng”. Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ chính trị
nhận định pháp luật tố tụng hình sự còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ
sung. Nhiều quy định trong pháp luật tố tụng hình sự và văn bản pháp luật
khác còn ảnh hưởng đến nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán
cụ thể như: BLTTHS chưa quy định tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của tố
tụng hình sự nên các quy định của Bộ luật chưa cụ thể hóa đầy đủ tính chất
tranh tụng tại phiên tòa. Một số quy định của BLTTHS đặt gánh nặng trách
nhiệm chứng minh tội phạm lên vai Hội đồng xét xử (ví dụ: khoản 2 Điều 307
quy định về trình tự xét hỏi như sau: Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa
hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người
bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện
việc hỏi. Người tham gia tố tụng tại phiên tòa có quyền đề nghị chủ tọa phiên
tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Người giám định, người định
giá tài sản được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám định, định
giá tài sản.”). Vì vậy, chính các chủ thể tham gia tranh tụng (kiểm sát viên,
luật sư…) cũng chưa ý thức được đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của mình
trong tranh tụng. Việc xét hỏi tại phiên tòa là một giai đoạn của quá trình
tranh tụng tại phiên tòa cho nên cần phải để các bên tranh tụng thực hiện trách
nhiệm chứng minh (Viện kiểm sát, người bào chữa….) tiến hành xét hỏi là
chủ yếu, còn Hội đồng xét xử thực hiện việc duy trì trình tự xét hỏi. BLTTHS
cần xác định rõ tại phiên tòa vai trò của Hội đồng xét xử chỉ là người trọng tài
80
giữa bên buộc tội và bên bào chữa để ra phán quyết về vụ án, còn việc xét hỏi
buộc tội là trách nhiệm của kiểm sát viên, việc xét hỏi gỡ tội hoặc giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự cho bị cáo là trách nhiệm của người bào chữa. Vấn đề
tranh tụng tại phiên tòa hiện nay vẫn còn mang tính hình thức, phiến diện, vai
trò của luật sư vẫn còn mờ nhạt.
Tòa án là một nhánh cơ quan độc lập (tách biệt lập pháp và hành pháp)
để nhân danh Nhà nước bảo vệ pháp luật, đảm bảo pháp luật được thực thi.
Chính vì vậy, kim chỉ nam duy nhất để Tòa án căn cứ khi xét xử là các quy
định của pháp luật, luôn luôn theo tôn chỉ “Thượng tôn pháp luật”. Ngoài
tôn chỉ trên, Tòa án không thể bị áp lực, chi phối từ phía các cơ quan khác
ngay cả cơ quan nhà nước, cơ quan Đảng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy sự can
thiệp của cấp ủy Đảng, “nhân vật quan trọng” vào hoạt động xét xử của Tòa
án, sự cả nể, “ngại vai chạm” của Thẩm phán vẫn tồn tại dẫn tới việc Tòa án
chưa thực sự được độc lập trong trong quá trình giải quyết vụ án và xét xử.
Về việc bổ nhiệm Thẩm phán hiện nay còn đặt ra tiêu chuẩn Thẩm phán
phải là đảng viên. Vì khi đã là Thẩm phán cho dù người đó có phải là đảng
viên hay không thì họ cũng phải tuyệt đối trung thành với Hiến pháp, tuân thủ
pháp luật và tôn trọng sự thật khách quan. Nếu họ không làm tròn chức trách,
nhiệm vụ được giao, không tuân thủ pháp luật thì họ sẽ bị xử lý theo quy định
của pháp luật, thậm chí họ còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Vì vậy,
hãy lấy chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác và phẩm chất đạo đức của
người đó là tiêu chuẩn hàng đầu trong việc tuyển chọn Thẩm phán. Yếu tố
Đảng không phải là yếu tố quyết định đến năng lực xét xử của một Thẩm
phán. Ngược lại, nhiều khi Thẩm phán còn bị chi phối bởi chính sự can thiệp
của cấp ủy Đảng vào quá trình xét xử đối với một số vụ án nhạy cảm của địa
phương, làm hạn chế tính độc lập của Tòa án. Do vậy phần nào đã hạn chế
năng lực xét xử của Thẩm phán và chưa phát huy hết sức mạnh tổng hợp của
81
đội ngũ cán bộ trẻ có năng lực.
Nhiệm kỳ đầu của Thẩm phán hiện nay là 05 năm kể từ ngày được bổ
nhiệm, hết thời hạn này các Thẩm phán phải làm quy trình bổ nhiệm lại với
những thủ tục hết sức phức tạp. Tuy nhiên với tinh thần cải cách tư pháp, đội
ngũ cán bộ Tòa án mà đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán với trình độ chuyên môn
ngày càng được nâng cao thì việc quy định bổ nhiệm Thẩm phán theo nhiệm
kỳ sẽ không còn phù hợp nữa, nó hạn chế sự độc lập của Tòa án, làm cho đội
ngũ Thẩm phán luôn có tâm lý e ngại trong việc đưa ra phán quyết, không
dám đấu tranh mạnh mẽ với cái xấu, cái tiêu cực, sợ tỷ lệ án hủy cao sẽ không
được bổ nhiệm trong nhiệm kỳ tiếp theo nên có tâm lý “dĩ hòa vi quý”. Tình
trạng này vẫn tồn tại trong quá trình chúng ta thực hiện cải cách tư pháp đến
bây giờ vẫn chưa được khắc phục. Chính vì vậy, trong quá trình cải cách tư
pháp hiện nay, Nhà nước ta cần dự liệu được những bất cập này mà có quy
định về nhiệm kỳ của Thẩm phán cho phù hợp với tính chất của hoạt động xét
xử, nâng cao tinh thần trách nhiệm, chất lượng của đội ngũ Thẩm phán cùng
với nâng cao tính độc lập của Tòa án.
2.4.2 Nguyên nhân chủ quan
Nhận thức của Thẩm phán về vai trò của họ được quy định trong
BLTTHS còn chưa thống nhất, đôi khi có phần coi nhẹ trách nhiệm, nghĩa vụ
của mình khi có thẩm quyền giải quyết vụ án hình sự cụ thể tạo ra tâm lý ức
chế cho những người tham gia tố tụng.
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực xét xử của một số Thẩm phán
còn hạn chế, việc cập nhật, nghiên cứu các văn bản pháp luật, nghị quyết của
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân tối cao, các giải đáp, hướng dẫn của Tòa án
nhân dân tối cao chưa tỉ mỉ, kịp thời nên chất lượng xét xử chưa được đảm
bảo tỷ lệ án cải sửa, hủy vẫn còn nhiều; chưa nhận thức đầy đủ và đúng về
bản chất của yếu tố tranh tụng nên tranh tụng tại phiên tòa còn yếu, qua loa,
82
nhiều trường hợp quyền và nghĩa vụ của đương sự chưa được đảm bảo.
Nhiều Thẩm phán chưa làm tốt công tác chuẩn bị xét xử chưa nghiên
cứu hồ sơ vụ án và các tình tiết có tại phiên tòa nên việc đánh giá tổng hợp
chứng cứ không đầy đủ, thiếu chính xác nên việc giải quyết vụ án chưa đúng
theo quy định của pháp luật.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng tập huấn nghiệp vụ cho Thẩm phán chưa
được kịp thời, chưa đảm bảo và chưa được đầu tư đúng mức đặc biệt là trong
bối cảnh cải cách tư pháp như hiện nay Tòa án được coi là trung tâm.
Tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật của một bộ phận cán bộ,
Thẩm phán còn yếu, phong cách làm việc chậm đổi mới; tinh thẩn phục vụ
nhân dân chưa cao. Trong những năm trước một số cán bộ, công chức trong
đó có cả Thẩm phán (giữ cương vị Phó chánh án) còn vi phạm phẩm chất đạo
đức, vi phạm kỷ luật công vụ bị xử lý kỷ luật hoặc cá biệt gần đây nhất (năm
2017) có trường hợp vi phạm pháp luật đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự (ví
dụ: Bà Lê Thị Bích Anh (53 tuổi), nguyên thẩm phán, Phó chánh án TAND
huyện Đan Phượng bị điều tra về tội danh Nhận hối lộ, theo Điều 354 Bộ luật
Hình sự năm 2015). Vẫn biết đồng lương trong ngành Tòa án còn rất khó
khăn, eo hẹp, tăng lương không đủ bù trượt giá của đồng tiền. Nhiều đồng chí
hàng ngày phải di chuyển khoảng 30 km đến 40 km mới đến được trụ sở làm
việc, đồng lương hàng tháng không đủ chi phí cho bản thân chứ đừng nói đến
nuôi vợ con, gia đình, nhiều gia đình cả vợ và chồng đều làm trong ngành
pháp luật nên cuộc sống còn rất nhiều khó khăn, vất vả. Nhưng không phải vì
thế mà chúng ta lại đánh mất đi tư cách, đạo đức của một người Thẩm phán.
83
Kết luận chương 2
Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, BLTTHS năm 2015 đã cụ thể hóa các
quy định về tổ chức hoạt động của Tòa án. Vai trò của Thẩm phán đã quy
định trong bộ luật một cách chặt chẽ, thể hiện nền tố tụng dân chủ, khách
quan và tiến bộ sau nhiều lần pháp điển hóa về cơ bản vai tròcủa Thẩm phán
trong tố tụng hình sự không có thay đổi lớn. Thẩm phán luôn được xác định
có vai trò trung tâm trong tố tụng hình sự, nhất là từ sau nghị quyết số 08-
NQTW năm 2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới và nghị quyết 49-NQTW của Bộ chính trị năm 2005
về chiến lược cải cách tư pháp. Trên cơ sở pháp luật thực định, chương hai
còn nghiên cứu về thực trạng việc áp dụng các quy định pháp luật về vai trò
của Thẩm phán. Bên cạnh kết quả đạt được, hoạt động của Thẩm phán trong
quá trình tiến hành tố tụng còn tồn tại nhiều bất cập và chưa đồng bộ với các
quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Với tư cách là người được giao thực hiện chức năng xét xử của Tòa án,
Thẩm phán có rất quan trọng và có vai trò không thể thay thế trong việc thực
hiện một trong những quyền lực nhà nước đó là quyền tư pháp. Ngoài vai trò
của Thẩm phán trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, Thẩm phán còn có
vai trò đặc biệt trong cơ cấu tổ chức cán bộ của Tòa án, trong hoạt động tố
tụng khi so sánh với những người tiến hành tố tụng khác và trong cơ chế bổ
nhiệm, giao nhiệm vụ nếu so sánh với các chức danh công chức khác trong
các cơ quan nhà nước.
Trong hoạt động tố tụng mà các cơ quan tham gia như Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án và hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư pháp như cơ
quan giám định, công chứng, luật sư,…. thì Tòa án và Thẩm phán luôn chiếm
84
giữ vị trí trung tâm và có vai trò quyết định cuối cùng đối với việc xét xử và
giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án. Như vậy, hoàn toàn có
căn cứ để khẳng định rằng Tòa án mà thực chất là Thẩm phán không chỉ có
vị trí trung tâm trong hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật mà còn có vai
trò quyết định trong toàn bộ hoạt động tố tụng tư pháp theo quy định c ủa
pháp luật.
Từ đó vai trò của Thẩm phán cần có những thay đổi sao cho phù hợp với
85
tình hình thực tế để nâng cao hiệu quả trong công tác xét xử của Tòa án.
Chương 3
MỘT SỐYÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
3.1. Một số yêu cầu cải cách tư pháp nhằm nâng cao vai trò của Thẩm phán
Với mục tiêu Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng
sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là
hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao.
Tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc Hiến pháp năm 2013 và các
Nghị quyết, văn kiện của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và
các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội về công tác tư pháp và cải cách tư pháp.
Việc cải cách tư pháp phải nhằm đáp ứng các yêu cầu cơ bản sau:
Làm tốt công tác tổng kết thực tiễn xét xử, hướng dẫn áp dụng thống
nhất pháp luật; rà soát để sửa đổi, bổ sung và ban hành các văn bản hướng dẫn
áp dụng thống nhất pháp luật về các vấn đề được giao và các vấn đề vướng
mắc từ thực tiễn xét xử, đẩy mạnh công tác lựa chọn, công bố, bình luận án lệ.
Thường xuyên tổ chức Hội nghị tập huấn, trao đổi, giải đáp các vấn đề nghiệp
vụ theo chuyên đề, lĩnh vực.
Những yêu cầu cải cách cơ bản mang tính mục tiêu trên đây là phù hợp
với xu hướng phát triển của nhà nước ta trong quá trình xây dựng nhà nước
pháp quyền. Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều Nghị quyết, Chỉ thị về
xây dựng và hoàn thiện nhà nước, pháp luật trong đó có nhấn mạnh đến nội
dung đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp, đặc biệt là Nghị
quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020. Theo đó, cải cách hệ thống cơ quan tư pháp từ tổ chức đến cơ chế hoạt
động, năng lực cán bộ đã được quán triệt và là nhiệm vụ cấp bách của toàn
đảng, toàn dân.
86
Để đảm bảo cho cải cách tư pháp thành công, cần phải quán triệt những
quan điểm chỉ đạo sau đây:
- Cải cách tư pháp phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và giữ vững bản
chất của Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp.
- Cải cách tư pháp xuất phát từ yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội
của việc xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, bảo vệ vững chắc sự
phát triển dân chủ, gắn với đổi mới công tác lập pháp, cải cách hành chính.
- Cải cách tư pháp phải xuất phát từ truyền thống pháp lý, kế thừa những
thành tựu trong nước, đồng thời tiếp thu kinh nghiệm của nước ngoài. Công
cuộc cải cách tư pháp không chỉ tính đến tình hình xã hội hiện tại, mà còn
phải tính trước xu thế phát triển của xã hội trong tương lai.
- Cải cách tư pháp được tiến hành khẩn trương, đồng bộ, nhưng có
trọng tâm.
3.1.1 Đối với Tòa án
Qua quá trình phát triển từ ngày thành lập đến nay, tổ chức, hoạt động
của ngành Tòa án nhân dân đã không ngừng đổi mới, từng bước được hoàn
thiện củng cố, về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm
vụ theo luật định. Từng bước hệ thống tổ chức, bộ máy cơ quan tòa án các cấp
đã đi vào ổn định, hoạt động theo một quy trình đồng bộ, thống nhất, đạt hiệu
quả trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của nhà nước cũng như các quyền, tự do dân chủ của công dân
Tuy nhiên, trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay, Tòa án phải phải
87
đáp ứng các yêu cầu cơ bản sau:
Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn,
trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng
bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh
tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp.
Đẩy mạnh thực hiện cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án đảm
bảo hiệu lực, hiệu quả để giải quyết nhanh chóng các công việc, tạo điều kiện
thuận lợi cho người dân khi có công việc tại Tòa án; góp phần xây dựng hình
ảnh Tòa án thân thiện, “gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”, là chỗ dựa của
nhân dân và là nơi bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Thực hiện công khai, minh bạch các hoạt động của Tòa án; công khai bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật trên Cổng thông tin điện tử Tòa án.
Tiếp tục hoàn thiện quy trình lựa chọn án lệ; đề xuất giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng bản án, quyết định của Tòa án tạo nguồn phát triển án lệ.
Nghiên cứu kinh nghiệm các nước về cải cách hành chính tư pháp, về ứng
dụng công nghệ thông tin, về tranh tụng tại phiên tòa.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án cũng như các cơ quan tư pháp
khác là nhằm mục đích nâng cao chất lượng và hiệu quả xét xử các vụ án nói
chung và hoạt động tranh tụng tại các phiên tòa hình sự nói riêng. Nghị quyết
08-NQ/TW của Bộ chính trị đã nêu rõ: ”Việc phán quyết của Tòa án phải căn
cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa” Tranh tụng tại phiên tòa hình
sự là cuộc điều tra công khai, thể hiện tính dân chủ, khách quan và bình đẳng
giữa các bên. Vì vậy, hoạt động tranh tụng có vai trò quyết định đến toàn bộ
quá trình tố tụng hình sự và là cơ sở quan trọng giúp hội đồng xét xử giải
quyết đúng đắn vụ án.
3.1.2 Đối với Thẩm phán
Chủ truơng mở rộng và nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà hình
sự theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết số 49- NQ/TW của
88
Bộ Chính trị là hoàn toàn đúng đắn nhằm bảo đảm việc xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luât. Đây là một đòi hỏi cấp bách nhằm khắc phục những
bất cập, vuớng mắc và tồn tại trong thực tiễn tranh tụng tại các phiên toà hình
sự ở nước ta và cũng là nhu cầu tất yếu của đất nước trong quá trình hội nhập
quốc tế nhằm bảo vệ ngày càng có hiệu quả hơn quyền con nguời trong lĩnh
vực đặc thù này.
Thẩm phán là người được Chủ tịch nước bổ nhiệm để nhân danh Nhà
nước thực hiện quyền tư pháp. Trọng trách của Thẩm phán rất nặng nề, sứ
mệnh của Thẩm phán rất cao quý. Trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng, Nhà nước và Nhân dân yêu cầu các Thẩm
phán phải thực hiện nhiệm vụ một cách vô tư, khách quan, thượng tôn pháp
luật; đòi hỏi các Thẩm phán phải trở thành biểu tượng của đạo đức thanh
liêm, tuân thủ những nguyên tắc của Hiến pháp về hoạt động tư pháp, thực
hiện được lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thẩm phán phải “Phụng công,
thủ pháp, chí công vô tư” và “Gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân” [15].
Đổi mới tổ chức và họat động của các cơ quan tư pháp nhằm nâng cao
chất lượng và hiệu quả xét xử các vụ án nói chung và hoạt động tranh tụng tại
các phiên tòa hình sự nói riêng là một trong những yêu cầu cấp thiết, một nội
dung quan trọng của công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Tranh tụng tại phiên tòa là hoạt động của Thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân và các chủ thể khác (Kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, bị hại) nhằm
làm sáng tỏ vụ án bảo đảm xử lý nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật. Vì vậy, công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta không thể tách rời với
việc nâng cao chất lượng và hiệu quả tranh tụng tại phiên tòa. Tranh tụng tại
phiên tòa hình sự là cuộc điều tra công khai, là quá trình tranh tụng dân chủ,
khách quan và bình đẳng giữa các bên. Hoạt động này có vai trò quyết định
89
đối với toàn bộ quá trình tố tụng hình sự, là một trong những cơ sở quan trọng
giúp hội đồng xét xử giải quyết đúng đắn vụ án. Khi thực hiện chức năng xét
xử, Thẩm phán có trách nhiệm phải làm sáng tỏ tất cả các tình tiết của vụ án
(bao gồm cả các tình tiết buộc tội, các tình tiết gỡ tội hoặc giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự đối với bị cáo) những không phải để buộc tội hay bào chữa đối
với bị cáo mà để thực hiện chức năng xét xử nhằm xác định sự thật khách
quan của vụ án. Từ đó để ra phán quyết đúng đắn về vụ án. Với vai trò là
người trọng tài “cầm cán cân công lý” để phân xử giữa bên buộc tội và bên
bào chữa, Thẩm phán phải có thái độ vô tư, khách quan và công minh. Xuất
phát từ chức năng và vai trò của Tòa án. Trong quá trình xét xử vụ án, các
thành viên của hội đồng xét xử không được biểu lộ chính kiến của mình về
bất cứ vấn đề gì thuộc nội dung vụ án cũng như các chứng cứ đang xem xét
tại phiên tòa.
Về trình độ, năng lực công tác: Trước hết muốn làm Thẩm phán yêu cầu
là cần phải có kiến thức pháp luật, phải có trình độ cử nhân luật, ngoài
những kiến thức pháp luật cơ bản, Thẩm phán còn phải học qua một khóa
đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ xét xử. Mục tiêu cơ bản của việc đào tạo, bồi
dưỡng nghiệp vụ cho Thẩm phán là nhằm trang bị cập nhật cho Thẩm phán
tất cả các kỹ năng hành nghề cần thiết nhất. Đó là những phương pháp khoa
học, kinh nghiệm và kỹ năng áp dụng pháp luật, đặc biệt là pháp luật tố tụng
vào việc giải quyết vụ án. Thẩm phán còn phải được đào tạo cơ bản có hệ
thống, phải có chuyên môn nghiệp vụ sâu rộng trong lĩnh vực của mình phụ
trách. Ngoài ra còn phải có những kiến thức hiểu biết về: kinh tế, văn hoa,
ngoại ngữ, tin học.
Về đạo đức: Đạo đức tác động trực tiếp tới niềm tin nội tâm của những
người tiến hành tố tụng, giải quyết vụ án. Tuy nhiên, đạo đức của người Thẩm
phán Tòa án nhân dân thể hiện ở mọi giai đoạn tố tụng hình sự, đòi hỏi Thẩm
phán ngoài việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật phải tôn trọng các nguyên
90
tắc và giá trị đạo đức, được thể hiện ở những chuẩn mực đạo đức như:
Tính độc lập
Trong quá trình giải quyết vụ việc, Thẩm phán tự quyết định trên cơ
sởđánh giá của mình về tình tiết vụ việc, chứng cứ và chỉ tuân theo pháp luật;
giữ gìn bản lĩnh nghề nghiệp để không bị tác động từ bất kỳ sự can thiệp nào.
Thẩm phán phải độc lập với các thành viên của Hội đồng xét xử; độc lập
với những người tiến hành tố tụng khác; độc lập với các yếu tố tác động từ
trong nội bộ và bên ngoài Tòa án.
Thẩm phán không được can thiệp vào hoạt động tố tụng của các thành
viên Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng khác [15].
Sự liêm chính
Thẩm phán phải liêm chính, trong sạch, thẳng thắn, trung thực.
Thẩm phán không được lợi dụng địa vịđể mưu cầu lợi ích cho mình
hoặc cho người khác; không để các thành viên trong gia đình, cán bộ, công
chức Tòa án dưới quyền quản lý của mình đòi hỏi hoặc nhận tiền, tài sản,
những lợi ích khác từ bất kỳ ai vì lý do liên quan đến công việc mà Thẩm
phán giải quyết.
Thẩm phán phải công khai thu nhập cá nhân theo quy định của pháp
luật [15].
Sự vô tư, khách quan
Thẩm phán phải vô tư, khách quan; thực hiện nhiệm vụ một cách đúng
đắn, không vì lợi ích cá nhân, không thiên vị bất cứ bên nào trong vụ việc.
Thẩm phán phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứđãđược xem xét công khai
tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, tập
quán, tương tự pháp luật, những nguyên tắc cơ bản của pháp luật, án lệ, lẽ
công bằng để giải quyết tất cả các vấn đề của vụ việc.
Thẩm phán không được có bất cứ phát biểu hay bình luận nào tại phiên
tòa, phiên họp, trước công chúng hoặc truyền thông làm ảnh hưởng tới việc
91
giải quyết vụ việc một cách vô tư, khách quan [15].
Sự công bằng, bình đẳng
Thẩm phán có trách nhiệm bảo đảm sự công bằng, bình đẳng để những
người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của họ trong quá
trình giải quyết vụ việc tại Tòa án.
Trong quá trình giải quyết vụ việc, Thẩm phán không được và không cho
phép các hành vi bất bình đẳng, phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn
giáo, thành phần xã hội, trình độ học vấn, nghề nghiệp, địa vị xã hội, hình
thức sở hữu và thành phần kinh tế của cá nhân, pháp nhân [15].
Sựđúng mực
Trong mọi hoạt động của mình, Thẩm phán phải hành xửđúng mực, lịch
thiệp, thận trọng; duy trì trật tự và sự tôn nghiêm trong quá trình tố tụng; luôn
thể hiện sự kiên nhẫn, nhân ái đối với các bị cáo, đương sự, người tham gia tố
tụng khác.
Tại phiên tòa, phiên họp hoặc trong các văn bản tố tụng, Thẩm phán
không được đưa ra những nhận định gây xúc phạm người khác [15].
Sự tận tụy và không chậm trễ
Thẩm phán phải tận tụy với công việc và cống hiến hết mình trong việc
thực hiện nhiệm vụ tư pháp nhằm giải quyết nhanh nhất các vụ việc được giao.
Khi giải quyết các vụ việc, Thẩm phán phải tuyệt đối tuân thủ các quy
định của pháp luật, không để các vụ việc quá hạn luật định vì những nguyên
nhân chủ quan [15].
Các Thẩm phán thể hiện bản lĩnh nghề nghiệp và thực hiện đúng nguyên
tắc độc lập trong xét xử; chú trọng thực hiện hết các thẩm quyền tố tụng theo
quy định của pháp luật để đảm bảo giải quyết tốt vụ án, như: bắt tạm giam bị
cáo hoặc thay đổi biện pháp ngăn chặn khi thấy cần thiết; khởi tố hoặc yêu
cầu khởi tố khi có dấu hiệu lọt người, lọt tội; trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ
sung khi thiếu chứng cứ; kiến nghị để khắc phục các sai sót cả về tố tụng và
92
trong hoạt động quản lý kinh tế, quản lý cán bộ [36].
3.2 Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Thẩm phán trong xét xử
vụ án hình sự
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về vai trò của Thẩm phán trong xét xửvụ án
hình sự
Thực tiễn pháp luật Việt Nam, PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí cho rằng tố
tụng hình sự nước ta "mang đặc trưng của kiểu tố tụng thẩm vấn nhưng có
những nét riêng đặc thù của Việt Nam". Nhưng đến thời điểm hiện tại kiểu tố
tụng này đã bộc lộ quá những hạn chế mà chúng ta cần phải có sự thay đổi
cho phù hợp. Theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí:
Kiểu tố tụng này đã cùng chúng ta trải qua các năm tháng trong cuộc
chiến tranh, phòng ngừa tội phạm và đã mang lại kết quả nhất định, nhưng
cũng không thể phủ nhận những hạn chế của nó trong quá trình giải quyết vụ
án. Những hạn chế đó là tỷ lệ xét xử oan, sai còn quá lớn, thiếu dân chủ, bình
đẳng và công minh trong hoạt động tố tụng khiến cho lòng tin của nhân dân
đối với hệ thống tư pháp giảm sút nghiêm trọng. Do đó, việc đổi mới hoạt
động tố tụng là cần thiết [6, tr.249].
Để hạn chế tỷ lệ xét xử oan sai, đảm bảo quyền dân chủ và bình đẳng
hơn nên Bộ Chính trị đã đề ra nhiệm vụ là phải đưa tranh tụng tại các phiên
tòa xét xử. Để làm được điều đó, không đơn giản chút nào, cần cân nhắc kỹ
càng. Theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí, vào thời điểm này chúng ta không thể
chuyển hoàn toàn sang kiều tố tụng tranh tụng được mà chỉ có thể tiếp thu
những điểm tiến bộ, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị xã hội, pháp lý
của nước ta [6, tr.250].
Pháp luật Việt Nam hiện hành đã lựa chọn cách thức bổ nhiệm để tuyển
chọn Thẩm phán và cũng đưa ra các tiêu chuẩn cụ thể trong việc tuyển chọn
Thẩm phán. Về cơ bản những quy định này bước đầu đã tạo ra những cơ sở
pháp lý để hình thành đội ngũ Thẩm phán chuyên nghiệp cho hoạt động xét
xử. Tuy nhiên, pháp luật cũng cần quy định rõ ràng, cụ thể hơn nữa về tính
93
chuyên nghiệp của Thẩm phán trên tất cả các lĩnh vuejc như: Cơ chế bảo
đảm, năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, kỹ năng xét xử…để có thể
xây dựng đội ngũ thẩm phán chuyên nghiệp. Cũng cần xem xét, nghiên cứu
về chế độ Thẩm phán được bổ nhiệm suốt đời để họ có thể yên tâm làm công
việc đầy khó khăn đã lựa chọn. Nhà nước nên có chế độ đãi ngộ đặc biệt đối
với thẩm phán về vật chất và tinh thần, có những hình thức tôn vinh thẩm
phán tương xứng với địa vị, công sức, bản lĩnh của thẩm phán trước xã hội.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra kết luận đảm bảo tính chuyên
nghiệp trong hoạt động xét xử của thẩm phán và xây dựng đội ngũ thẩm phán
chuyên nghiệp là yếu tố quan trọng mang tính tiên quyết để nâng cao địa vị
của thẩm phán trong hoạt động tư pháp và đối với xã hội góp phần nâng hiệu quả của hoạt xét xử.
Thẩm phán thực hiện quyền lực công, các phán quyết của Thẩm phán
nhân danh nhà nước, nhân danh công lý, đồng thời các phán quyết đó còn ảnh
hưởng sinh mạng chính trị của con người, quyền và lợi ích thiết thân của từng
con người. Do vậy. cần phải nghiên cứu xem xét điều chỉnh chức năng, quyền
hạn, trách nhiệm của thẩm phán trong hoạt động xét xử nhằm đảm bào cho
việc ra bản án khách quan, công bằng, đúng pháp luật. Điều 15 Bộ luật Tố
tụng hình sự 2015 quy định:„„Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng
không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các
biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn
diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội,
tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội.‟‟
Như vậy, ngoài chức năng xét xử, Toà án, Thẩm phán còn có nghĩa vụ
chứng minh vụ án, quy định này có thể dẫn đến khả năng sau:
94
Giải quyết vụ án không khách quan do Thẩm phán có nghĩa vụ thu thập
chứng cứ, kiểm tra, đánh giá để chứng minh vụ án nên định hướng và lập luận
của thẩm phán thiên về những chứng cứ buộc tội và bị ảnh hưởng bởi cáo
trạng cũng như những chứng cứ của Viện kiểm sát đưa ra, xem nhẹ việc thu
thập đánh giá những chứng cứ gỡ tội, chứng cứ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
đối với bị cáo. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng oan,
sai trong tố tụng hình sự còn xảy ra;
Thẩm phán đã làm thay công việc của cơ quan công tố bởi vì theo
nguyên lý được thừa nhận rộng rãi cơ quan công tố có trách nhiệm thu thập
chứng cứ chứng minh tội phạm trên cơ sở đó truy tố người phạm tội, Toà án
mà đại diện là Thẩm phán chỉ có quyền và trách nhiệm thẩm định, đánh giá sự
chứng minh của cơ quan công tố để đưa ra phán quyết của mình. Việc Toà án,
thẩm phán có nghĩa vụ chứng minh đối với vụ án đã lấn sân sang chức năng
của cơ quan công tố;
Ảnh hưởng tới việc tranh tụng tại phiên toà, một nội dung quan trọng của
chiến lược cải cách tư pháp đã đề ra, do thẩm phán là một trong những chủ
thể có nghĩa vụ chứng minh chứ không chỉ đơn thuần là người điều khiển
tranh tụng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội.
Với những phân tích trên thì việc bỏ trách nhiệm chứng minh tội phạm
của Toà án, Thẩm phán là điều cần thiết để thẩm phán có thể làm tốt chức
năng của người "trọng tài" tại phiên tòa, đưa ra những phán quyết khách quan,
đảm bảo công bằng theo tinh thần cải cách tư pháp. Như vậy nghiên cứu, xem
xét lại chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của thẩm phán theo hướng tập
trung vào hoạt động xét xử đảm bảo tranh tụng dân chủ công khai tại phiên
toà là việc làm cần thiết để nâng cao địa vị của Thẩm phán cũng như hiệu quả
95
hoạt động xét xử trong tiến trình cải cách tư pháp.
Vai trò và chất lượng xét xử của Thẩm phán chỉ được nâng cao khi đảm
bảo nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Việc xét xử của Tòa
án phải dựa trên cơ sở pháp luật mới bảo đảm tính khách quan, vô tư không bị
phụ thuộc bởi bất kỳ tác động khách quan hay chủ quan nào. Điều 23 Bộ luật
Tố tụng hình sự 2015 quy định: Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc
xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm.Cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào
việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm dưới bất kỳ hình thức nào thì t y tính
chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý k luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị
truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật”.
Nguyên tắc này đòi hỏi sự độc lập giữa các thành viên của Hội đồng xét
xử trong việc nghiên cứu hồ sơ, xem xét, đánh giá chứng cứ và đưa ra các kết
luận về sự việc phạm tội và người thực hiện tội phạm không bị phụ thuộc vào
quan điểm của các thành viên khác trong Hội đồng xét xử. Theo qui định của
pháp luật tố tụng hình sự, việc xét xử sơ thẩm hoặc trong những trường hợp
nhất định của xét xử phúc thẩm thành phần của Hội đồng xét xử có thẩm phán
và hội thẩm. Hội thẩm là người không chuyên làm công tác xét xử nhưng khi
hoạt động xét xử phải được độc lập với thẩm phán trong mọi khâu của quá
trình xét xử, tránh sự phụ thuộc vào thẩm phán. Thẩm phán phải là người phát
biểu sau cùng để không ảnh hưởng tới tính độc lập của hội thẩm. Các vấn đề
của vụ án đều phải được giải quyết bằng cách biểu quyết và quyết định theo
đa số. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn
bản và được lưu vào hồ sơ vụ án. Nguyên tắc độc lập xét xử còn đòi hỏi sự
độc lập của Hội đồng xét xử với các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và các
cá nhân. Trong quá trình xét xử cơ quan, tổ chức, cá nhân không được can
thiệp hoặc tác động vào các thành viên của Hội đồng xét xử để họ phải xét xử
vụ án theo ý kiến chủ quan của mình. Mọi hành động can thiệp dưới bất kỳ
hình thức nào đều làm ảnh hưởng tới tính khách quan của vụ án và đều bị coi
96
là bất hợp pháp.
Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo quy định của pháp
luật. Pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng là chuẩn mực để các thành viên
Hội đồng xét xử xem xét đối chiếu với sự việc xảy ra, với hành vi được mang
ra xét xử. Trên cơ sở quy định của pháp luật Hội đồng xét xử sẽ đưa ra các
phán quyết của mình về sự việc phạm tội và hành vi phạm tội của bị cáo một
cách chính xác phù hợp với diễn biến thực tế của vụ án đã xảy ra. Ngoài việc
tuân theo pháp luật, khi xét xử thẩm phán, Hội thẩmkhông bị phụ thuộc bởi
bất kỳ điều kiện nào. Sự độc lập của thẩm phán và hội thẩm nhân dân khi xét
xử còn được thể hiện trong quan hệ giữa các cấp xét xử, Toà án cấp trên
không được quyết định hoặc gợi ý cho Toà án cấp dưới trước khi xét xử một
vụ án cụ thể. Đồng thời khi xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm hay tái thẩm
cũng không bị phụ thuộc bởi các nhận định, những phán quyết của toà án cấp
dưới. Việc quy định nguyên tắc độc lập trong xét xử không mâu thuẫn gì với
nguyên tắc quy định tại khoản 1 Điều 4 Hiến pháp 2013 Đảng Cộng sản Việt
Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của
nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước
và xã hội về sự lãnh đạo”. Vì, pháp luật thể hiện ý chí, nguyện vọng của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động, thể chế hoá đường lối của Đảng nên
việc tuân thủ pháp luật cũng chính là phục tùng sự lãnh đạo của Đảng. Mọi sự
can thiệt của các cấp uỷ Đảng vào việc xét xử từng vụ án cụ thể của Hội đồng
xét xử đều là sự nhận thức không đúng đắn về vai trò lãnh đạo của Đảng đối
với công tác xét xử của Tòa án. Ngoài những quy định của Luật Tố tụng hình
sự, tính độc lập xét xử của Tòa án còn được bảo đảm bằng những quy định
khác của nhà nước như: Chế độ quản lý Tòa án địa phương, chế độ bổ nhiệm
97
Thẩm phán, tuyển dụng, đào tạo cán bộ.
Trong thực tế nguyên tắc này còn bị vi phạm nghiêm trọng, cấp uỷ Đảng
còn can thiệp sâu vào hoạt động xét xử của Toà án dẫn đến hậu quả nghiêm
trọng, vị thế của Thẩm phán bị xâm hại, lòng tin của nhân dân đối với nền
công lý xã hội chủ nghĩa bị suy giảm. Vì vậy, cần có cơ chế đảm bảo để
nguyên tắc có hiệu lực trên thực tế. Cơ chế đó cần khẳng định Đảng giữ vai
trò lãnh đạo bằng đường lối, Nghị quyết chứ không phải là chỉ đạo hoạt động
xét xử Thẩm phán; Nhà nước cần xem xét lại mô hình cơ cấu tổ chức Toà án
hiện nay, nhất là có nên để Toà án Nhân dân Tối cao quản lý toàn diện các
Toà án địa phương như hiện nay không?… Một cơ chế đúng phù hợp với các
điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam cũng như phù hợp với thông lệ quốc tế sẽ
đảm bảo cho hoạt động xét xử của thẩm phán được độc lập và nâng cao vị thế
của họ đối với xã hội.
Số lượng và chất lượng thẩm phán là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến
hiệu quả xét xử cũng như địa vị của Thẩm phán. Theo thống kê của Toà án
nhân dân tối cao thì số lượng thẩm phán của Tòa án nhân dân các cấp, đặc
biệt là khối Tòa án cấp huyện còn thiếu, chưa đủ chỉ tiêu được giao. Do thiếu
thẩm phán nên nhiều Tòa án đang bị quá tải về công việc dẫn đến số lượng
các vụ án tồn đọng nhiều vẫn chưa được giải quyết dứt điểm. Mặt khác, do
sức ép công việc (có nơi thẩm phán được giao giải quyết trung bình trên 10
vụ/tháng) đã dẫn đến những sai sót không đáng có về nghiệp vụ. Tình hình
thiếu thẩm phán cũng gây ra những khó khăn nhất định đối với công tác quy
hoạch, đào tạo cán bộ của ngành (do việc nhiều, người ít nên nhiều nơi không
thể cử cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng theo kế hoạch, quy hoạch). Thực tế cũng
cho thấy đa số những đơn vị có nhu cầu bổ sung thêm Thẩm phán do đang bị
quá tải ở mức cao về công việc (với số lượng án được giao vượt quá 7 vụ
án/tháng) thì lại thường rơi vào những trường hợp chưa thực hiện đủ chỉ tiêu
số lượng Thẩm phán được giao vì không só đủ nguồn tại chỗ để tuyển dụng
98
và bổ nhiệm Thẩm phán. Đây chính là mâu thuẫn, thách thức lớn nhất đặt ra
đối với ngành Tòa án khi xử lý, giải quyết về vấn đề số lượng Thẩm phán của
Tòa án các cấp.
Về kinh nghiệm và năng lực công tác: Số Thẩm phán được bổ nhiệm lần
đầu đều có trình độ đại học Luật, có thời gian làm công tác thực tiễn pháp luật
và đều được đào tạo nghiệp vụ xét xử. Hiện nay đa số Thẩm phán Tòa án
Nhân dân các cấp đã được bổ nhiệm nhiệm kỳ thứ 2 nhiều trường hợp được
bổ nhiệm tiếp nhiệm kỳ thứ 3 cho nên tích lũy được nhiều kinh nghiệm công
tác. Tuy nhiên, một số thẩm phán còn hạn chế về năng lực, chất lượng xét xử
không cao. Đánh giá sự thiếu sót, khuyết điểm của đội ngũ thẩm phán tại Hội
nghị triển khai công tác Tòa án năm 2019, Chủ tịch nước đã nêu: “Tỉ lệ các
bản án, quyết định bị huỷ, sửa do lỗi chủ quan vẫn còn cao, thậm chí có bản
án áp dụng sai pháp luật”
Khắc phục tình trạng này đòi hỏi ngành Tòa án cần có chiến lược quy
hoạch đào tạo nguồn thẩm phán. Quy hoạch thẩm phán vừa là căn cứ để thực
hiện việc đào tạo, bồi dưỡng thẩm phán vừa là cơ sở để tiến hành chuẩn bị
nhân sự tuyển chọn bổ nhiệm thẩm phán. Đối với các Thẩm phán trước khi
được bổ nhiệm mới đều phải được học lớp đào tạo nghiệp vụ xét xử. Đây
cũng chính là giải pháp quan trọng để nâng cao chất lương đội ngũ thẩm
phán. Việc quy hoạch thẩm phán phải có lộ trình cụ thể đảm bảo hài hòa giữa
tỷ lệ thẩm phán nam và thẩm phán nữ, thẩm phán giữa các vùng, miền bảo
đảm thực hiện nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài.
Tăng cường và đổi mới công tác đào tạo nguồn thẩm phán, thẩm phán
được coi là một nghề đặc biệt, đã là một nghề phải cần một trình độ cao về
pháp luật và cần phải được đào tạo nghề. Nhiệm vụ đào tạo thẩm phán hiện
nay được giao cho Học viện Tòa án thuộc Tòa án nhân nhân tối cao đảm
99
nhiệm. Nhìn chung, đây là một cơ sở đào tạo tốt, chất lượng đầu ra của Học
viện có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, cũng cần nghiên cứu, xem xét để có
nhiều cơ sở đào tạo tham gia công tác này. Cần đổi mới chương trình, giáo
trình, phương pháp đào tạo hướng tới mục tiêu thẩm phán phải vững vàng về
chuyên môn, giỏi về kỹ năng, có phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp và
bản lĩnh, có phong cách nghề. Ngoài ra, cũng cần làm tốt công tác bồi dưỡng
thường xuyên cho thẩm phán để họ được nâng cao về kiến thức, kỹ năng, đạo
đức nghề nghiệp và cập nhật kiến thức mới ở trong và ngoài nước.
Chế độ đãi ngộ về vật chất và tinh thần đối với thẩm phán. Mặc dù lương
và chế độ đãi ngộ đối với thẩm phán đã được cải thiện, nhưng nhìn chung đời
sống của thẩm phán vẫn còn nhiều khó khăn. Lương trên thực tế chưa đủ nuôi
thẩm phán và gia đình, thẩm phán lại không được buôn bán, làm dịch vụ.
Điều này dễ phát sinh tiêu cực đối với những người không vững vàng. Các
chế độ đãi ngộ khác cũng quá thấp chưa tương xứng với tính chất đặc thù
công việc và trách nhiệm ngày càng cao của thẩm phán.
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Tòa án nhân dân là “cơ quan
xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư
pháp” nhưng Tòa án lại được xếp lương vào cùng khu vực cơ quan hành
chính nhà nước. Việc quy định ngạch, bậc lương của các chức danh tư pháp
như ngạch, bậc lương của công chức hành chính khác là chưa tương xứng với
vai trò, trách nhiệm cao của Tòa án và tính chất lao động phức tạp, nặng nhọc
và đặc thù của ngành Tòa án.
Do vậy, nó vô tình hạn chế nguồn thẩm phán và sự khuyến khích đội ngũ
Thẩm phán phấn đấu vươn lên. Những bất cập trong chính sách tiền lương và
các chính sách đãi ngộ khác cũng đã khiến cho việc điều động, biệt phái thẩm
phán gặp không ít khó khăn. Để khắc phục tình trạng trên cần nghiên cứu
sửa đổi một cách tổng thể chế độ chính sách đãi ngộ của thẩm phán. Cần
100
quan tâm điều chỉnh một cách căn bản tiền lương và các phụ cấp khác. Đối
với các phụ cấp khác cần có sự điều chỉnh nhất là đối với các thẩm phán ở
Tòa án cấp huyện khi mà thẩm quyền xét xử đã được tăng, thẩm phán phải
gánh vác nhiều công việc mà trước đây Tòa án cấp tỉnh đã làm. Ngoài ra,
Nhà nước cũng nên có chế độ vật chất ưu tiên đủ mạnh để thu hút thẩm
phán về các đơn vị tòa án cấp huyện, vùng sâu, vùng xa... như sửa đổi nâng
cao chế độ phụ cấp khu vực, phụ cấp đặc biệt… tạo điều kiện cho thẩm
phán yên tâm công tác lâu dài.
Tăng cường việc kiểm tra, giám sát, nhất là giám sát của người dân và
các cơ quan dân cử đối với các hoạt động xét xử của thẩm phán. Phát huy
quyền làm chủ của nhân dân đối với hoạt động tư pháp, Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức thành viên tập trung làm tốt công tác giám sát, động viên nhân
dân phát hiện những hạn chế, khuyết điểm trong hoạt động tư pháp, qua đó
kiến nghị việc khắc phục, sửa chữa.
Tăng cường vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc
tuyên truyền, cung cấp thông tin về hoạt động tư pháp. Trong một nền tư pháp
của nhân dân thì nhân dân phải được tiếp cận thông tin về hoạt động xét xử và
giám sát hành vi của các thẩm phán. Các tổ chức chính trị - xã hội có thể
đóng vai trò giám sát tư pháp để làm tăng trách nhiệm của các thẩm phán.
3.2.2 Một số giải pháp khác
3.2.2.1. Kiến nghị đổi mới về cơ chế hoạt động của Tòa án trên cơ sở hoàn
thiện vai trò của Thẩm phán
Tổ chức và hoạt động của các Tòa án nhân dân ở nước ta hiện nay theo
nguyên tắc kết hợp thẩm quyền xét xử với đơn vị hành chính lãnh thổ tồn tại
đã mấy chúc năm ngày càng bộc lộ nhiều bất cập trực tiếp ảnh hưởng đến sự
độc lập, chất lượng, hiệu quả của hoạt động xét xử, nguyên tắc “khi xét xử
Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” không được đảm
101
bảo trên thực tế.
Việc thành lập Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực ở một hoặc một số đơn
vị hành chính cấp huyện trong cùng một tỉnh và xác định được sự lãnh đạo
của cấp ủy Đảng, sự giám sát của Hội đồng nhân dân một tỉnh nhất định đối
với tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp khu vực đó.
Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực được coi là Tòa án cấp thứ nhất trong
hệ thống Tòa án, có nhiệm vụ và thẩm quyền chung là xét xử, giải quyết theo
thủ tục sơ thẩm các vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh – thương mại, tuyên bố
phá sản, lao động, hôn nhân – gia đình, hành chính theo quy định của pháp
luật tố tụng. Bên cạnh thẩm quyền chung như nêu trên, thẩm quyền cụ thể của
từng Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực sẽ được xác định theo quản hạt tư
pháp và theo tính chất của những vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án.
Theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, Tòa án nhân dân sơ
thẩm khu vực là Tòa án chuyên xét xử, giải quyết các vụ việc theo thủ tục sơ
thẩm, Tòa án cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có nhiệm vụ xét xử
phúc thẩm là chủ yếu, nhưng vẫn có nhiệm vụ xét xử sơ thẩm một số vụ án.
Do vậy, vẫn cần phải có các quy định của pháp luật tố tụng về các loại vụ án
thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án cấp tỉnh. Việc xác định thẩm
quyền theo vụ việc đối với các Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực cần phải có
lộ trình hợp lý để vừa bảo đảm hoạt động bình thường của Tòa án nhân dân sơ
thẩm khu vực khi mới thành lập, vừa bảo đảm yêu cầu của cải cách tư pháp.
Việc xác định thành lập khoảng bao nhiêu Tòa án nhân dân sơ thẩm khu
vực trong một tỉnh cần dựa trên những tiêu chí nhất định, như: số lượng các
loại vụ án xảy ra trong địa bàn; quy mô về địa giới hành chính; số lượng dân
cư, đặc điểm địa lý; quy hoạch tổng thể và điều kiện phát triển kinh - tế xã hội
khu vực dự kiến sẽ thành lập Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực. Trong đó, số
lượng các vụ án và giới hạn địa bàn khu vực địa lý là những tiêu chí cơ bản
102
cho việc thành lập Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực.
Có thể vẫn tổ chức Tòa án sơ thẩm khu vực ở một huyện, hoặc nếu có
điều kiện Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực sẽ được thành lập trên cơ sở hợp
nhất một số Tòa án cấp huyện, với số lượng các vụ án phải giải quyết một
năm khoảng trên dưới 300 vụ, tương đương với số vụ án của một Tòa án cấp
tỉnh miền núi cỡ nhỏ hiện nay; trụ sở Tòa án cấp huyện cũ vẫn được giữ lại
làm trụ sở chi nhánh của Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực. Theo đó, có thể
hợp nhất 03 Tòa án cấp huyện ở miền núi thành một Tòa án nhân dân sơ thẩm
khu vực. Mỗi Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực có một hoặc hai chi nhánh là
địa điểm để thụ lý và xét xử, giải quyết các vụ án theo sự phân công của
Chánh án Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực và tạo thuận lợi cho người dân,
các cơ quan, tổ chức khi có việc đến Tòa án. Ngoài ra, nên triển khai tổ
chức các Tòa Giản lược để xét xử các vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng, xử
phạt vi cảnh; có thể bố trí Tòa Giản lược ở các Chi nhánh Tòa án nhân dân
sơ thẩm khu vực.
3.2.2.2. Kiến nghị về yếu tố con người nhằm nâng cao vai trò của Thẩm phán
trong tố tụng hình sự
Chất lượng của nền tư pháp xét cho cùng là do cán bộ tư pháp quyết
định, vì họ là những người trực tiếp "cầm cân nảy mực". Mỗi sai sót trong
thực thi công vụ của cán bộ tư pháp đều ảnh hưởng đến sinh mạng chính trị
và lợi ích, thậm chí cả tính mạng của người dân [18]. Để xây dựng được đội
ngũ Thẩm phán như vậy cần:
- Giáo dục chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức cho thẩm phán; làm
cho mỗi thẩm phán phải thấy rõ hơn trách nhiệm chính trị của mình trước
Đảng, trước nhân dân. Mỗi thẩm phán phải soi vào, lấy các chuẩn mực của
"Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử của thẩm phán" để phấn đấu, giữ gìn và rèn
luyện. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên
103
môn cho đội ngũ thẩm phán.
- Tăng cường công tác quản lý, giáo dục và rèn luyện cán bộ, công chức.
Làm tốt công tác thi tuyển, nâng ngạch, bổ nhiệm thẩm phán. Chú trọng kiện
toàn đội ngũ lãnh đạo Tòa án các cấp có đủ năng lực, phẩm chất, uy tín, kinh
nghiệm quản lý, lãnh đạo Tòa án. Làm tốt việc luân chuyển cán bộ, thử thách
trong môi trường thực tế khác nhau đối với những cán bộ thuộc diện quy
hoạch chức vụ lãnh đạo ở Tòa án các cấp.
- Tăng cường công tác kiểm tra, kịp thời phát hiện những yếu kém trong
công tác xét xử để khắc phục; kiên quyết xử lý những cán bộ vi phạm phẩm
chất, đạo đức, lối sống để xây dựng Tòa án trong sạch, vững mạnh. Tăng
cường đội ngũ Thẩm phán cả về số lượng, chất lượng, đảm bảo đủ chỉ tiêu
Thẩm phán trong hoạt động xét xử.
- Cần tiếp tục cải tiến chế độ sử dụng, đãi ngộ, bảo vệ Thẩm phán và
tăng cường chế độ giám sát, kỷ luật đối với Thẩm phán. Chế độ sử dụng và
đãi ngộ cần đảm bảo cho Thẩm phán không phải mưu sinh, đảm bảo để họ và
gia định có thể sinh sống đầy đủ bằng chính đồng lương, không bị phụ thuộc
vào những tác động vật chất từ phía các cá nhân, tổ chức liên quan đến công
việc của họ. Mặt khác cần thiết lập một chế độ giám sát chặt chẽ để kịp thời
phát hiện, cảnh báo, phòng ngừa và xử lý nghiêm minh những Thẩm phán
104
hành động không xứng đáng với chức danh cao quý của mình.
Kết luận chương 3
Cải cách tư pháp theo tinh thần và nội dung của chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 của Đảng ta, cần phải có sự nhận thức đúng về vai trò của
Tòa án trong bộ máy nhà nước. Xây dựng đội ngũ cán bộ, Thẩm phán vững
vàng về bản lĩnh chính trị, giỏi về chuyên môn là một yêu cầu quan trọng
trong tiến trình cải cách tư pháp mà Nhà nước ta đang thực hiện. Trải qua quá
trình phấn đấu, rèn luyện; tích cực tham gia các cuộc xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh; thực hiện việc“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh” trong hệ thống Tòa án nhân dân với chủ đề “Nâng cao bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công
chức Tòa án nhân dân”, đội ngũ cán bộ, Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp
đã không ngừng trưởng thành, vững vàng về bản lĩnh chính trị, giỏi về nghiệp
vụ, sẵn sàng đảm nhận và hoàn thành tốt những nhiệm vụ khó khăn, phức tạp
của thời kỳ hội nhập; góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đổi mới của đất
nước. Trên cơ sở nghiên cứu các yêu cầu cải cách tư pháp, đối chiếu với pháp
luật hiện hành, chương 3 đã đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn
105
thiện vai trò của Thẩm phán đáp dứng yêu cầu cải cách tư pháp của nước ta.
KẾT LUẬN
Trong điều kiện hiện nay chúng ta đang tiếp tục thực hiện công cuộc đổi
mới, tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng Xã
hội chủ nghĩa, mở rộng quan hệ quốc tế, tiến hành cải cách tư pháp, xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân.
Chức năng của Tòa án ngày càng được mở rộng, ngoài việc xét xử các vụ án
hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình. Tòa án còn xét xử các vụ án trành chấp
kinh tế, tuyên bố phá sản doanh nghiệp, các vụ án hành chính, lao động và
giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật.
Mặt khác, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay thì
Tòa án là cơ quan công lý, là Tòa án của nhân dân, là bộ phận cấu thành quan
trọng không thể thiếu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Như Nghị
quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư
pháp chỉ rõ: Tòa án có vai trò trung tâm của hoạt động tư pháp, mọi hoạt động
tố tụng của cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và hoạt động bổ trợ tư pháp đều
chỉ có nghĩa là trợ giúp cho hoạt động xét xử của Tòa án. Cùng với việc phát
triển kinh tế, xã hội, tăng cường hội nhập quốc tế hiện nay, bên cạnh những
tiến bộ xã hội đã đạt được, cũng phát sinh nhiều vấn đề cần giải quyết. Trong
đó có vấn đề tội phạm và tranh chấp xảy ra ngày càng tăng về số lượng, rộng
hơn về quy mô có liên quan đến nhân tố trong và ngoài nước, về tính chất
cũng rất phức tạp, thủ đoạn tinh vi xảo quyệt. Vì thế làm công tác xét xử của
Tòa án ngày càng nặng nề hơn, khó khăn, phức tạp hơn và công việc đó đặt
trên vai đội ngũ Thẩm phán.
Với tư tưởng xuyên suốt là xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ, Thẩm
106
phán theo hướng toàn diện cả về lý luận chính trị, phẩm chất, năng lực thực
tiễn trên nguyên tắc coi trọng cả “đức” và “tài”, “đức” là gốc; yêu cầu đặt ra
là chất lượng cán bộ, Thẩm phán phải trên cơ sở thống nhất tiêu chuẩn về
phẩm chất và năng lực, phải vững vàng về bản lĩnh chính trị và giỏi về nghiệp
vụ nhằm thực hiện tốt nhất nhiệm vụ xét xử, bảo vệ công lý, quyền con người
[4].Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là các thẩm phán thanh liêm, chính
trực, công tâm, trong sáng, vững vàng về bản lĩnh chính trị, giỏi về nghiệp vụ,
107
tinh thông pháp luật phải là ưu tiên hàng đầu của các Tòa án [18].
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2002),Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới.
2. Bộ Chính trị (2005),Nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
3. PGS.TS. Nguyễn Hòa Bình - Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao (Chủ biên) (2016), Những nội dung mới trong Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015 (Sách chuyên khảo) , Nxb Chính trị quốc
gia – Sự thật.
4. PGS.TS. Nguyễn Hòa Bình - Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao (2017), Xây dựng đội ngũ cán bộ, thẩm phán vững vàng
về bản lĩnh chính trị, giỏi về nghiệp vụ nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ xét
xử, bảo vệ công lý, Tạp chí Cộng sản.
5. PGS.TS. Nguyễn Hòa Bình - Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao (2018), Trau dồi phẩm chất, đạo đức Thẩm phán và liêm
chính tư pháp, Tạp chí Tòa án.
6. TSKH. Lê Cảm và TS. Nguyễn Ngọc Chí (Đồng chủ biên) (2004), Tố tụng
tranh tụng và vấn đề cải cách tư pháp ở Việt Nam trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền, trong sách: Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai
đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
7. PGS. Nguyễn Ngọc Chí – TS. Lê Lan Chi (Đồng chủ biên) (2019), Giáo
trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam.Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
8. Phạm Tiến Đại (2019), Bàn về nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015, Tạp chí Tòa án.
9. TS. Trần Thu Hạnh, Một số giải pháp nâng cao vị thế của đội ngũ thẩm
phán trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tưpháp, Tạp chí Khoa
108
học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 94-100.
10. Ths. Đỗ Thúy Hà – Tòa án nhân dân tối cao, Một số kinh nghiệm trong
công tác xây dựng đội ngũ Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Cổng
thông tin điện tử Tòa án nhân dân tối cao.
11. Trương Thị Hạnh (2009), Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng
hình sự Việt Nam, Luận vănthạc sĩLuật học.
12. Nguyễn Quốc Hùng (2018), Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong tố tụng hình sự nhìn từ thực tiễn hoạt động của các cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng ở thành phố Hải Phòng, Tạp chí khoa học Đại học quốc gia Hà Nội: Luật học , Tập 34, Số 3 (2018) 71-80. 13. Trần Thị Thu Hằng (Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương)(2018),
Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật – Thực tiễn thực hiện và kiến nghị, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử. 14. TS. Phạm Mạnh Hùng (chủ biên) (2018), Bình luận khoa học Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015, Nxb Lao động.
15. Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia(2018), Bộ quy tắc
đạo đức và ứng xử của Thẩm phán.
16. Vũ Duy Khang, So sánh – Đối chiếu Bộ luật tố tụng hình sự 2003 và
2015, Nxb Hồng Đức.
17. TS. Nguyễn Đức Mai - Thẩm phán Tòa án Quân sự Trung ương (2016),
Những bất cập, vướng mắc và tồn tại trong thực tiễn tranh tụng tại phiên
toà ở nước ta.
18. Phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước tại Hội nghị triển khai công tác
Tòa án năm 2019.
19. Hoàng Hồng Phương (2011), Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân
dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, Luận văn thạc sĩ Luật học.
20. TS. Lê Hồng Quang - Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chánh án Tòa án
109
nhân dân tối cao (2018),Nâng cao đạo đức cho đội ngũ thẩm phán để
hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ công lý, xây dựng tòa án nhân dân trong
sạch, vững mạnh toàn diện, Tạp chí Cộng sản.
21. Th.S. Đinh Văn Quế - Nguyên Chánh toà hình sự Tòa án nhân dân tối
cao, Thủ tục xét xử sơ thẩm trong Tố tụng hình sự Việt Nam - Thực trạng
và phương hướng hoàn thiện.
22. Quốc hội (1959), Hiến pháp, Hà Nội.
23. Quốc hội (1946), Hiến pháp, Hà Nội.
24. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
25. Quốc hội (1988), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội.
26. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội.
27. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội. 28. Quốc hội (1960), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội. 29. Quốc hội (1981), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.
30. Quốc hội (1992), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.
31. Quốc hội (2002), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.
32. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.
33. Tòa án nhân dân tối cao (2016), Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao về công tác của các Tòa án tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa
XIV, Hà Nội.
34. Tòa án nhân dân tối cao (2017), Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao về công tác của các Tòa án tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa
XIV, Hà Nội.
35. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao về công tác của các Tòa án tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa
XIV, Hà Nội.
36. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Báo cáo việc thực hiện các nghị quyết
của Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn từ đầu nhiệm kỳ đến hết
110
kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XIV, Hà Nội.
37. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Báo cáo thuyết minh về đề nghị điều
chỉnh, bổ sung Thẩm phán sơ cấp cho Tòa án nhân dân huyện, quận,
thị xã thành phố thuộc tỉnh và tương đương số 423/BC-CA ngày
18/7/2018, Hà Nội.
38. TS. Phạm Minh Tuyên – Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh (Chủ
biên) (2018), Kỹ năng xét xử các vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật
tố tụng hình sự 2015. Nxb Thanh niên.
39. Trường cán bộ Tòa án (2014), Chương trình đào tạo Thẩm phán phần
chung (Tập bài giảng cho Khóa 1). Nxb Văn hóa thông tin.
40. TS. Nguyễn Trí Tuệ - Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (2018),Sự
tận tụy, không chậm trễ, năng lực và sự chuyên cần trong chuẩn mực đạo
đức Thẩm phán, Tạp chí Tòa án.
41. Mai Thoa (2018), TAND đã triển khai hiệu quả 14 giải pháp nâng cao
chất lượng xét xử, Báo điện tử công lý.
42. TS. Phạm Minh Tuyên – Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh
(2015), Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng xét hỏi và những vướng mắc
bất cập trong thực tiễn, Cổng thông tin điện tử của Học Viện Tòa án.
43. Thái Vũ – Hùng Lan (2019), 10 nội dung lớn về cải cách tư pháp của Tòa
án nhân dân năm 2019, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử.
44. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1993), Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân, Hà Nội.
45. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân, Hà Nội.
46. Nguyễn Như Ý (2010), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin Hà
Nội, Hà Nội.
111