ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ THANH HÕA VAI TRÕ ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP CNH, HĐH NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Hà Nội - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ THANH HÕA VAI TRÕ ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP CNH, HĐH NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN HIỆN NAY Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Anh Tuấn
Hà Nội - 2016
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………..3
CHƢƠNG 1. ................................................................................................... 10
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỘI NGŨ ............................. 10
TRÍ THỨC VÀ VAI TRÕ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC CÁC ................. 10
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN ................................... 10
1.1. Quan niệm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức và vai trò của đội ngũ trí thức .......... 10
1.1.1 Quan niệm của các nhà kinh điển Mác - Lênin về trí thức và vai trò
của đội ngũ trí thức ................................................................................. 10
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về trí thức và vai trò của đội ngũ trí thức....................................... 12
1.2. Vai trò đội ngũ trí thức và trí thức giảng viên ở Việt Nam hiện nay ... 18
1.2.1. Vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay ............................ 18
1 2.2. Vai trò của đội ngũ trí thức giảng viên hiện nay .......................... 21
1.3. Các tiêu chí đánh giá đội ngũ trí thức giảng viên .................................... 26
1.3.1. Về số lượng .................................................................................... 26
1.3.2. Về cơ cấu ....................................................................................... 27
1.3.3. Về chất lượng ................................................................................ 28
1.4. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở
nƣớc ta hiện nay ..................................................................................................... 30
1.4.1. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa .................................... 30
1.4.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn .............. 36
Tiểu kết chƣơng 1……………………..……………………………………45 CHƢƠNG 2. ................................................................................................... 46
THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP ... 46
1
VIỆT NAM, VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÕ 46
CỦA ĐỘI NGŨ NÀY ĐÁP ỨNG NHU CẦU CỦA SỰ NGHIỆP CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN ....... 46
2.1. Thực trạng đội ngũ trí thức giảng viên của Học viện Nông nghiệp Việt
Nam hiện nay .......................................................................................................... 46
2.1.1. Giới thiệu về Học viện Nông nghiệp Việt Nam ............................. 46
2.1.2. Thực trạng đội ngũ trí thức giảng viên Học viện .......................... 50
2.2. Một số vấn đề đặt ra từ thực trạng thực hiện vai trò của đội ngũ trí
thực Học viện Nông nghiệp Việt Nam đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn hiện nay .......................... 60
2.2.1 Tình trạng không đảm bảo về số lượng giảng viên phục vụ công tác
giảng dạy và nghiên cứu khoa học. ......................................................... 61
2.2.3. Chưa đảm bảo được về mặt chất lượng đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn hiện nay.
................................................................................................................. 69
2.3. Một số phƣơng hƣớng, giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao hơn
nữa vai trò của đội ngũ trí thức Học viện Nông nghiệp Việt Nam .............. 74
2.3.1. Những phương hướng cơ bản nhằm nâng cao vai trò đội ngũ trí
thức giảng viên của Học viện Nông nghiệp Việt Nam ............................ 74
2.3.2. Một số nhóm giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò đội ngũ trí
thức giảng viên Học viện Nông nghiệp Việt Nam ................................... 77
2.3.3. Một số khuyến nghị nhằm phát triển đội ngũ trí thức giảng viên
Học viện Nông nghiệp Việt Nam đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn .................................. 81
Tiểu kết chƣơng 2…………………………………………………………..83 KẾT LUẬN .................................................................................................... 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 87
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, khi mà khoa học, công nghệ đã trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp, khi mà nền kinh tế thế giới đang chuyển mình từ
kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào sức
lao động cơ bắp, vốn và tài nguyên thiên nhiên sang nền kinh tế chủ yếu dựa
vào tri thức của con người, vào khoa học - kỹ thuật và công nghệ thì vai trò
của đội ngũ trí thức ngày càng được đánh giá cao hơn nữa. Trí thức là lực
lượng cơ bản và nòng cốt trong lao động, sản xuất cũng như trong sáng tạo,
truyền bá và ứng dụng tri thức khoa học. Trí thức trở thành đại biểu cho trí tuệ
của nhân loại.
Nước ta là một quốc gia đi lên từ sản xuất nông nghiệp. Nước ta có
điều kiện tự nhiên khá thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Do đó trong quá
trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng
đến nông nghiệp. Trong những năm qua, cùng với sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa (CNH, HĐH) nông nghiệp, nông thôn và công cuộc xây dựng
nông thôn mới, nhiều chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước đã tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển. Những thành tựu trong
nông nghiệp đã góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển và đảm bảo an ninh
lương thực quốc gia. Nước ta đã trở thành nước xuất khẩu nhiều mặt hàng
nông nghiệp. Những thành tựu đó có sự đóng góp không nhỏ của đội ngũ trí
thức trong nông nghiệp.
Để thực hiện được các mục tiêu, chiến lược quốc gia về xây dựng nông
thôn và phát triển nông nghiệp, hoàn thành thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn nước ta cần phải có một đội ngũ trí thức nông nghiệp
đông đảo về số lượng, giỏi về chuyên môn, nắm bắt kịp thời các tiến bộ khoa
học - kỹ thuật và công nghệ để đưa vào quá trình sản xuất. Tuy nhiên, trong
3
giai đoạn hiện nay nguồn nhân lực cho lĩnh vực này còn hạn chế về mọi mặt.
Do đó, trong thời gian tới chúng ta phải sớm khắc phục được hạn chế này,
củng cố và xây dựng một đội ngũ trí thức trong lĩnh vực nông nghiệp có thể đi
đầu, tiên phong trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước
ta hiện nay.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam được thành lập vào năm 1956 với tên
gọi đầu tiên là Trường Đại học Nông Lâm. Ngày 28 tháng 02 năm 2014, Thủ
tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 441/QĐ-TTg về việc thành lập Học
viện Nông nghiệp Việt Nam trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn trên cơ sở tổ chức lại Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội. Việc thành
lập Học viện không đơn thuần chỉ là sự đổi tên mà thể hiện quyết tâm của
Chính phủ nhằm thay đổi về chất trong đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển
giao công nghệ, phục vụ xã hội và hội nhập quốc tế, đáp ứng nhu cầu của sự
nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn cũng như hoàn thành các nhiệm
vụ chính trị mà Đảng, Chính phủ và Nhà nước giao phó cho Học viện, cho
ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong giai đoạn phát triển mới
hiện nay. Là trường trọng điểm quốc gia, đầu ngành trong lĩnh vực nông
nghiệp, trong nhiều năm qua Học viện đã không ngừng phấn đấu, đạt nhiều
thành tựu to lớn trong giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Học
viện đã đóng góp một cách thiết thực cho sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp
và phát triển nông thôn, cung ứng cho lĩnh vực nông nghiệp hàng vạn người
lao động có trình độ từ cử nhân, kỹ sư đến các trình độ cao hơn như thạc sỹ,
tiến sỹ. Đội ngũ cán bộ do Học viện đào tạo vừa có trình độ chuyên môn, vừa
có phẩm chất chính trị vững vàng, đã và đang là lực lượng nòng cốt trên mặt
trận đưa tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất và xây dựng nông thôn mới
trên khắp cả nước.
Bước vào thời kỳ đổi mới đất nước, Học viện đã thực hiện đổi mới toàn
diện, phát triển để trở thành một trường đại học nghiên cứu đa ngành. Nhà
4
trường hiện có 15 khoa: Nông học, Chăn nuôi, Thuỷ sản, Thú y, Cơ điện nông
nghiệp, Kinh tế và phát triển nông thôn, Quản lý đất đai, Môi trường, Kế toán
và Quản trị kinh doanh, Công nghê thực phẩm, Công nghệ sinh học, Công
nghệ thông tin, Sư phạm - ngoại ngữ, Lý luận chính trị và xã hội, Giáo dục
quốc phòng; 77 bộ môn chuyên ngành; 17 phòng, ban chức năng cùng với 21
viện, trung tâm nghiên cứu và công ty trực thuộc; hơn 1.400 cán bộ viên chức
và hợp đồng trong đó có trên 700 cán bộ giảng dạy với gần 120 nghiên cứu
viên, 94 Giáo sư, phó Giáo sư, trên 35% cán bộ giảng dạy có học vị tiến sĩ,
trên 47% cán bộ giảng dạy có học vị thạc sĩ. Đội ngũ cán bộ do Học viện đào
tạo chiếm 65% số cán bộ khoa học - kỹ thuật và quản lý ngành nông nghiệp
và phát triển nông thôn của cả nước. Họ đã và đang là lực lượng nòng cốt, chủ
đạo trên mặt trận khoa học - kỹ thuật, quản lý kinh tế nông nghiệp, xây dựng
và phát triển nông thôn ở khắp mọi miền Tổ quốc.
Trong những năm qua được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, Bộ Giáo
dục và đào tạo và nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Học viện đã
có những bước đột phá trên nhiều lĩnh vực. Đội ngũ trí thức giảng viên của Học
viện đang ngay một lớn mạnh về số lượng và chuẩn hoá về chất lượng. Tuy
nhiên, để đáp ứng hơn nữa nhu cầu, đòi hỏi của việc đào tạo nguồn nhân lực,
cung ứng các dịch vụ, sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao, đưa khoa học - kỹ
thuật và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, giữ vai trò là lực lượng nòng cốt
và tiên phong trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thì đội ngũ
này vẫn còn thiếu về số lượng và chưa đáp ứng được đầy đủ về mặt chất lượng.
Do đó nghiên cứu vai trò, thực trạng của đội ngũ trí thức của Học viện, giải
quyết những vấn đề đặt ra từ hoạt động của đội ngũ này nhằm đẩy mạnh và phát
huy hơn nữa vai trò của họ trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
hiện nay là một vấn đề có ý nghĩa thực tiễn to lớn. Đó chính là lý do người
viết lựa chọn vấn đề "Vai trò của đội ngũ trí thức Học viện Nông nghiệp
Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn hiện nay" làm đề tài luận văn của mình.
5
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về vai trò của đội ngũ trí
thức ở những phạm vi và góc độ khác nhau, trong đó có một số công trình liên
quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài. Trong một số công trình, các tác giả
cung cấp cho người đọc những quan điểm cơ bản của các nhà kinh điển Mác -
Lênin cũng như những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta về vai trò, nhiệm vụ của đội ngũ trí thức ở Việt Nam như: Trí thức
Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước của Đỗ Mười, Nxb CTQG, HN,
1995; Một số vấn đề về trí thức Việt Nam của Nguyễn Thanh Tuấn, Nxb
CTQG, HN, l998; Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong
công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Phạm Tất Dong, Nxb CTQG, HN, 2001;
Trí thức giáo dục đại học Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, của Nguyễn Văn Sơn, Nxb CTQG, HN, 2002...
Số các công trình khác hướng đến việc làm rõ vai trò và đưa ra những
giải pháp nhằm nâng cao vai trò của đội ngũ trí thức như: Vai trò của đội ngũ
trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Phạm Viết
Dũng, Luận án Phó tiến sỹ triết học, HN, l988; Vai trò của tầng lớp trí thức
Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của Ngô
Thị Phượng, Luận án Thạc sỹ triết học, HN, 1997; Vai trò của đội ngũ trí
thức khoa học xã hội và nhân văn trong sự nghiệp đổi mới - Luận án tiến sỹ
triết học của Ngô Thị Phượng, HN, 2006; Đội ngũ trí thức trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức của Đặng Hữu, HN, 2008;
Vai trò của trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất
nước của Lê Hữu Ái, Huế, 2009…
Trong thời gian gần đây cũng có rất nhiều các công trình của các học
giả nghiên cứu về vai trò của đội ngũ trí thức nói chung và đội ngũ giảng viên
nói riêng, thực trạng và giải pháp xây dựng, nâng cao vai trò của đội ngũ này
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc như Đề tài khoa học cấp nhà
6
nước (Mã số KX: 04.06-l0) Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn
2011 - 2020 của PGS.TS. Đàm Đức Vương; Thực trạng và giải pháp nâng
cao chất lượng đội ngũ giảng viên Đại học giai đoạn 2010-2015 - Đề tài
nghiên cứu khoa học của Lê Thị Phương Nam, HN, 2010; Phát huy lao động
sáng tạo của đội ngũ trí thức trong các trường đại học hiện nay - Đề tài
nghiên cứu khoa học của Vũ Hằng, Đại học Xây dựng Hà Nội, HN, 2014;
Thực trạng và giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp
đổi mới đất nước của Đàm Đức Vương, Nxb CTQG, HN, 2014…
Mặc dù đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về vai trò của đội ngũ
trí thức ở những phạm vi khác nhau song chưa có công trình nào nghiên cứu
vai trò của đội ngũ trí thức của một đơn vị đào tạo trực tiếp, một trường đại
học chuyên ngành như Học viện nông nghiệp Việt Nam đối với sự nghiệp
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy học viên
chọn nghiên cứu đề tài này nhằm góp phần làm rõ thực trạng vai trò của đội
ngũ trí thức giảng viên Học viên Nông nghiệp Việt Nam, từ đó đề xuất các
giải pháp phát huy hơn nữa hiệu quả lao động cũng như vai trò của đội ngũ
này, góp phần vào việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu trong phát triển nông
nghiệp và nông thôn mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Làm rõ những vấn đề lý luận về vai trò của đội ngũ trí thức
cũng như đội ngũ trí thức giảng viên, phân tích thực trạng thực hiện vai trò
của đội ngũ trí thức giảng viên của Học viên Nông nghiệp Việt Nam, từ đó
luận văn hướng tới đề xuất các phương hướng và giải pháp phát huy hơn nữa
vai trò to lớn của đội ngũ này trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn ở nước ta hiện nay.
Nhiệm vụ: Làm rõ một số khái niệm cơ bản trong phạm vi nghiên cứu
của luận văn như đội ngũ trí thức giảng viên; vai trò của đội ngũ trí thức giảng
7
viên trong trường Đại học nói chung và Học viện nông nghiệp Việt Nam nói
riêng; CNH, HĐH trong nông nghiệp, nông thôn.
- Tìm hiểu, phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện vai trò của đội
ngũ trí thức Học viện đối với sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp và nông
thôn (khảo sát về số lượng, chất lượng, cơ cấu; đánh giá những mặt tích cực,
hạn chế, những vấn đề đặt ra trong công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học,
cung cấp các dịch vụ, sản phẩm, ứng dụng khoa hoc - kỹ thuật và công nghệ
trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn hiện nay…).
- Đề xuất các phương hướng, giải pháp và nêu các khuyến nghị nhằm
xây dựng đội ngũ trí thức giảng viên Học viện đảm bảo đầy đủ cả về mặt số
lượng cũng như chất lượng; hợp lý trong cơ cấu, hướng tới thực hiện tốt hơn
vai trò là đội ngũ cơ bản và tiên phong trong sự nghiệp CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở những quan điểm của
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng Sản Việt Nam về
đội ngũ trí thức và vai trò của đội ngũ trí thức giảng viên đối với đào tạo
nguồn nhân lực và nghiên cứu khoa học phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước nói chung và nông nghiệp, nông thôn nói riêng.
Đề tài có tiếp thu những kết quả của các công trình nghiên cứu có liên
quan trực tiếp đến đề tài trong thời gian gần đây.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu
biện chứng duy vật như thống nhất lịch sử - lôgic, phân tích - tổng hợp,
nghiên cứu tài liệu, khảo sát thực tế; các phương pháp thống kê, so sánh, khái
quát hóa…
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vai trò của đội ngũ trí thức (chủ yếu
là bộ phận giảng viên) của Học viện Nông nghiệp Việt Nam trong việc đào
8
tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu và ứng dụng khoa học - kỹ thuật cũng như
cung cấp các sản phẩm, dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp và phát triển nông
thôn ở nước ta hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu đội ngũ trí thức
giảng viên của Học viện hiện nay từ góc độ vị trí, vai trò của họ đối với sự
nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
6. Đóng góp mới của luận văn
Làm rõ thực trạng vai trò của đội ngũ trí thức giảng viên Học viện
Nông nghiệp Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn; một số giải pháp phát huy hơn nữa vai trò của đội ngũ này.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Đề tài góp phần vào việc nghiên cứu mang tính lý luận chung về đội
ngũ trí thức và vai trò của đội ngũ trí thức trong các cơ sở giáo dục đại học
nói chung và ở Học viện Nông nghiệp Việt Nam nói riêng đối với nhiệm vụ
đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn - một lĩnh vực kinh tế trọng điểm, một địa bàn rộng lớn và
then chốt chiến lược của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dung làm tài liệu tham
khảo phục vụ cho công tác quản lý và lãnh đạo; công tác xây dựng đội ngũ trí
thức giảng viên; trong việc hoạch định các mục tiêu, chiến lược đào tạo của
Học viện nhằm đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn Việt Nam.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, và phụ lục
luận văn kết cấu thành 2 chương, 7 tiết.
9
CHƢƠNG 1.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỘI NGŨ
TRÍ THỨC VÀ VAI TRÕ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC CÁC
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
1.1. Quan niệm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí minh
và Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức và vai trò của đội ngũ trí thức
1.1.1 Quan niệm của các nhà kinh điển Mác - Lênin về trí thức và vai
trò của đội ngũ trí thức
Theo quan điểm của các nhà kinh điển Chủ nghĩa Mác - Lênin, trí thức
là một tầng lớp đặc biệt trong xã hội, là kết quả của sự phân công lao động xã
hội giữa lao động trí óc và lao động tay chân. Trong tác phẩm "Góp phần phê
phán khoa kinh tế chính trị học", Mác đã rất chú ý đến vấn đề trí thức, ông
cho rằng, đó là một trong những yếu tố quan trọng của lực lượng sản xuất và
do đó cũng là một trong những yếu tố quan trọng của quá trình phát triển lịch
sử. Lênin đã định nghĩa về trí thức như sau: "Trí thức bao hàm không chỉ
những nhà trước tác, mà còn bao hàm tất cả những người có học thức, các đại
biểu của những nghề tự do nói chung, các đại biểu của những người lao động
trí óc" [25, tr. 372]. Trí thức là một tầng lớp không có hệ tư tưởng độc lập do
chỗ như Lê nin nói "Trí thức không hợp thành một giai cấp độc lập về kinh
tế". Trong tất cả các chế độ xã hội trí thức đều cơ bản phục vu cho giai cấp
thống trị, chịu ảnh hưởng của giai cấp thống trị. Họ xuất thân tư nhiều tầng
lớp, thành phần xã hội khác nhau. Trí thức được gọi là trí thức chính như nó
phản ánh và thể hiện sự phát triển của các lợi ích giai cấp và các nhóm phản
chính trị trong toàn bộ xã hội một cách có ý thức hơn cả, kiên quyết hơn cả,
chính xác hơn cả do chỗ trí thức là tầng lớp đại biểu cho trí tuệ của thời đại.
10
Từ vị trí của mình trong sự phân công lao động xã hội, trí thức không
có quan hệ riêng với tư liệu sản xuất do đó họ không đại biểu cho một phương
thức sản xuất nào cả. Trí thức trong lịch sử luôn gắn với một giai cấp, tầng
lớp nhất định trong xã hội. Quá trình đấu tranh giai cấp cùng với sự tác động
về một lợi ích làm cho tầng lớp này có sự phân hoá thành những bộ phận khác
nhau. Ví như nếu phục vụ cho giai cấp tư sản thì họ đứng về phía đối lập với
giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Ngược lại nếu đứng về phía giai cấp
công nhân và nhân dân lao động thì họ thuộc về đội ngũ trí thức của công -
nông. Do đó tính giai cấp của tầng lớp trí thức phụ thuộc vào giai cấp mà nó
phục vụ.
Sự khác nhau căn bản giữa tầng lớp trí thức và giai cấp công nhân
chính là ở tính chất lao động. Trí thức là người lao động trí óc. Họ là chủ thể
của tri thức khoa học, phát minh và sáng tạo ra các loại công cụ lao động, trực
tiếp sản xuất và truyền bá, ứng dụng những tri thức khoa học vào đời sống.
Những tri thức khoa học khi đã tham gia vào đời sống sản xuất như một phần
thiết yếu của lực lượng sản xuất, như chính bản thân lực lượng sản xuất thì
lúc đó vai trò của tầng lớp trí thức càng trở nên vô cùng quan trọng.
Tóm lại, theo quan điểm của các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác -
Lênin trí thức là một tầng lớp xã hội đặc biệt, không có mối liên hệ trực tiếp
với tư liệu sản xuất nên không có tiềm lực kinh tế, không phải một lực lượng
chính trị độc lập, tầng lớp này chỉ có thể phát huy năng lực của mình khi "hoà
nhập với một giai cấp khác trong xã hội". Tuy nhiên, trí thức lại có vai trò vô
cùng quan trọng trong đời sống xã hội nói chung và sản xuất nói riêng. Theo
Lênin nếu không có trí thức thì không thể có được nền sản xuất của chủ nghĩa
Tư bản hiện đại. Do đó Lênin cho rằng trong cuộc cách mạng Xã hội Chủ
nghĩa giai cấp vô sản phải lôi kéo trí thức về phía mình để phát huy được sức
mạnh của cả vô sản và trí thức. Những tư tưởng tiến bộ của tầng lớp trí thức
11
đóng vai trò cung cấp vũ khí lý luận cho giai cấp công nhân, giúp giai cấp
công nhân ý thức được sứ mệnh lịch sử của mình. Không những thế đội ngũ
trí thức còn có vai trò là người tiên phong trong sáng tạo khoa học - kỹ thuật,
phát minh ra các loại công cụ lao động mới, kiến tạo những giá trị tư tưởng,
tinh thần tiến bộ cho đời sống xã hội.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về trí thức và vai trò của đội ngũ trí thức.
Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới đã
định nghĩa về trí thức như sau: "Trí thức là hiểu biết. Trong thế giới chỉ có hai
thứ hiểu biết: một là hiểu biết về sự đấu tranh sinh sản. Khoa học tự nhiên do
đó mà ra. Hai là sự hiểu biết về tranh đấu dân tộc, tranh đấu xã hội. Khoa học
xã hội do đó mà ra. Ngoài hai cái đó không có trí thức nào khác. Một người
học xong đại học, có thể gọi là trí thức, Song y không biết cày ruộng, không
biết làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm
lại công việc thực tế y không biết gì cả. Thế là y chỉ có trí thức một nửa. Trí
thức của y chỉ là trí thức học sách, chưa phải trí thức hoàn toàn. Y muốn trở
thành một người trí thức hoàn toàn, thì phải biết đem trí thức đó áp dụng vào
thực tế" [38, tr.235]. Có thể nói Người đề cao tính thực tiễn trong hoạt động
của một trí thức và vai trò của họ cũng thể hiện trong những hoạt động mang
tính thực tiễn đó. Một người được đào tạo, trang bị đầy đủ các tri thức chuyên
môn mà không có hoạt động thực tiễn thì cũng không phát huy được giá trị
những tri thức đó cũng như vai trò là một trí thức của chính anh ta.
Hồ Chí Minh không chỉ tiếp thu trọn vẹn những tư tưởng của Chủ
nghĩa Mác - Lênin về trí thức và vai trò của đội ngũ trí thức mà Người còn kế
thừa và phát huy những quan điểm truyền thống của dân tộc về trí thức, hiền
tài. "Hiền tài là nguyên khí quốc gia” hay “quốc gia hưng vong, thất phu hữu
trách”. Tất cả những tư tưởng đó được Người vận dụng triệt để trong quá
12
trình lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và
xây dựng đất nước. Khi thành lập Chính phủ kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đưa ra Công thư đăng báo "Tìm người tài đức". Bác viết "Không
thiếu người có tài, có đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp,
đến nỗi những người tài đức không thể xuất thân". Người khẳng định một dân
tộc dốt là một dân tộc yếu. Do đó theo Người, Đảng ta phải nhận thức rõ vai
trò của đội ngũ trí thức đối với sự nghiệp Cách mạng của dân tộc "Những
người trí thức tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến là rất quý báu cho
Đảng. Không có những người trí thức đó thì công việc cách mạng khó khăn
thêm nhiều", "cách mạng rất cần trí thức và chính ra chỉ có cách mạng mới
biết trọng trí thức, trí thức đáng trọng là trí thức hết lòng phục vụ cách mạng,
phục vụ nhân dân" [38, tr.32-33]. Với tinh thần đó Người đã thuyết phục và
cảm hoá được rất nhiều nhân sĩ, trí thức lớn tham gia cách mạng như Trần Đại
Nghĩa, Tạ Quang Bửu, Phan Anh, Tôn Thất Tùng, Trần Hữu Tước, Nguyễn
Hữu Thọ…. Những người đã từ bỏ cuộc sống nhung luạ, giàu sang, bất chấp
nguy hiểm lên chiến khu tham gia kháng chiến giành độc lập cho dân tộc và
gây dựng nền tảng khoa học mới cho nước nhà.
Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ Việt Nam dân chủ
cộng hoà ngay sau khi giành được độc lập (tháng 9/l945), Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã xác định "chống giặc dốt" và "giáo dục nhân dân trở nên một dân tộc
dũng cảm, yêu nước, yêu lao động… cần, kiệm, liêm, chính" là hai trong sáu
nhiệm vụ cấp bách của đất nước lúc bấy giờ.
Với tầm nhìn xa, trông rộng Người luôn nhấn mạnh: "trong sự nghiệp
xây dựng Chủ nghĩa Xã hội, lao động trí óc có một vai trò quan trọng và vẻ
vang". "…. Đảng ta luôn phải nắm vững khoa học kỹ thuật, do đó mỗi Đảng
viên đều phải cố gắng học tập văn hoá, học tập khoa học và kỹ thuật" [38,
tr.214]. Hồ Chí Minh cho rằng con đường để hình thành và phát triển đội ngũ
13
trí thức ở nước ta là đào tạo trí thức mới, cải tạo trí thức cũ, công nông trí thức
hoá, trí thức công nông hoá. Nghĩa là: công nông cần học tập và nâng cao
trình độ của mình, trí thức phải gần gũi với công nông truyền bá tư tưởng,
khoa học kỹ thuật cho công nông đồng thời học tập tinh thần, nghị lực trong
lao động của công nông. Có như vậy thì công - nông - trí đoàn kết với nhau
thành một khối thống nhất, cùng nhau tiến bộ và giúp cho đất nước thực hiện
thành công sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên Chủ nghĩa Xã
hội.
Người cũng đặc biệt quan tâm đến đội ngũ trí thức hoạt động trong lĩnh
vực giáo dục. Bác luôn khẳng định vai trò, vị trí không thể thay thế được của
người trí thức trong việc tiếp thu, phát huy và truyền lại những giá trị văn hoá,
khoa học của dân tộc và nhân loại cho thế hệ mai sau; trong việc đào tạo cán
bộ cho tương lai, "đào tạo đội ngũ trí thức mới cho cách mạng". Người nói:
"Nhiệm vụ của giáo dục rất quan trọng và vẻ vang, vì nếu không có thầy giáo
thì không có giáo dục… kháng chiến cần một đội ngũ cán bộ. Không có giáo
dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế, văn hoá" [39, tr.184].
Thấm nhuần quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, ngay từ khi thành lập, dẫn dắt toàn dân đấu tranh giành độc lập dân tộc,
cho đến ngày hôm nay trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước Đảng
ta luôn coi trí thức là một bộ phận vô cùng quan trọng, không thể thiếu trong
quá trình cách mạng. Với những chủ trương, đường lối đúng đắn Đảng ta đã
xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức lớn mạnh, đoàn kết với giai cấp công
nhân, nông dân, tạo thành một khối thống nhất, tạo thành một sức mạnh to lớn
trong cuộc cách mạng dân tộc trên mọi phương diện "Trong cách mạng dân
tộc, dân chủ, vai trò giới trí thức đã quan trọng, trong xây dựng xã hội chủ
nghĩa, vai trò giới trí thức càng quan trọng hơn. Giai cấp công nhân nếu
không có đội ngũ trí thức của mình và nếu bản thân công - nông không được
14
nâng cao kiến thức, không dần dần được trí thức hoá thì không thể xây dựng
Chủ nghĩa Xã hội" [7, tr.133].
Tại Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương khoá X về xây
dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH hoá đất nước Đảng
ta đã ra Nghị quyết, trong đó chỉ rõ: Trí thức là những người lao động trí óc,
có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư
duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm
tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội. Trong định nghĩa này, trí thức
cơ bản là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao. Tuy nhiên nếu
chỉ dừng lại ở đó thì chưa đủ. Trí thức còn phải là những người lao động có
sự sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức. Do đó không thể tạo ra những sản
phẩm vật chất và tinh thần có giá trị thực tiễn thì cũng không được gọi là trí
thức. Trong xã hội ta ngày hôm nay, để tạo ra được những sản phẩm có giá trị
như thế người trí thức không chỉ có năng lực chuyên môn, khả năng sáng tạo
mà còn phải có đạo đức và nhân cách tốt. Đây là biểu hiện cho mối quan hệ
giữa tài và đức trong mỗi con người, nó hoàn toàn phù hợp với quan điểm của
Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức.
Cũng trong Hội nghị này Nghị quyết số 27-NQ/TW đã khẳng định:
Trong mọi thời đại, trí thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là
lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngày nay, cùng với sự phát
triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí
thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng trong sự hình thành và phát triển
nền kinh tế tri thức phục vụ phát triển kinh tế xã hội và tạo nên sức mạnh của
mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển. Mục tiêu sớm đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển, cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại vào năm 2020 đòi hỏi phải lựa chọn con đường rút ngắn, phát huy
15
đến mức cao nhất mọi nguồn lực, tiềm năng trí tuệ của dân tộc, đặc biệt là
năng lực sáng tạo của đội ngũ trí thức.
Đối với người trí thức xã hội chủ nghĩa, nếu tài năng, trí tuệ đóng vai
trò quan trọng trong sự sáng tạo thì phẩm chất, đạo đức lại đóng vai trò định
hướng cho người trí thức mang những tri thức, những giá trị mà mình sáng
tạo ra phục vụ cho sự tiến bộ và phát triển chung của cộng đồng và xã hội. Có
thể nói những quan điểm của Đảng ta về đội ngũ trí thức là cơ sở lý luận vững
chắc cho việc nhìn nhận, đánh giá về vai trò cũng như phương hướng xây
dựng đội ngũ trí thức của nước ta hiện nay.
Từ một số những quan điểm nói trên có thể rút ra những đặc điểm cơ
bản của đội ngũ trí thức như sau:
Thứ nhất: Lao động của trí thức là lao động trí óc phức tạp, là sự sáng
tạo ra những tri thức mới, những giá trị mới. Đây cũng chính là đặc trưng nổi
bật nhất của trí thức để có thể phân biệt với các giai cấp và tầng lớp khác
trong xã hội. Tuy nhiên lao động trí óc cũng có nhiều dạng khác nhau. Tiêu
chí cơ bản để phân biệt là sự hao tổn trí tuệ, hàm lượng chất xám ít hay nhiều
trong quá trình lao động. Đối với người lao động trí óc một cách giản đơn, sự
hao tổn năng lượng trí tuệ không phải là cơ bản thì họ chưa được gọi là trí
thức. Ngay cả những người có trình độ cao, tốt nghiệp đại học nhưng không
làm việc đúng chuyên môn, tham gia lao động phổ thông hoặc thất nghiệp thì
cũng không được coi là trí thức Như vậy người lao động với sự chi phí hàm
lượng chất xám cao, trí tuệ lớn, luôn có sự tìm tòi, nghiên cứu, đặc biệt là có
sự sáng tạo, dùng tri thức để tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần mới cho
đời sống mới thực sự là trí thức.
Thứ hai: Trí thức là người có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên
môn nhất định: Lao động của trí thức là lao động trí óc phức tạp, đòi hỏi sự
sáng tạo cao nên người trí thức phải có trình độ học vấn. Do đó người trí thức
16
luôn phải trải qua quá trình được giáo dục và đào tạo một chuyên môn nhất
định. Để đảm bảo cho hoạt động lao động trí óc phức tạp, sáng tạo người trí
thức cần phải có trình độ tối thiểu từ đại học trở lên. Tiêu chí này cũng chỉ
mang tính tương đối bởi trong thực tế có những người không hề tốt nghiệp đại
học, không có bằng cấp nào tương ứng nhưng những sản phẩm họ tạo ra lại
mang một hàm lượng chất xám cao, là một sự sáng tạo đặc biệt, ứng dụng một
cách hiệu quả vào thực tiễn…
Thứ ba: Trí thức tham gia vào các hoạt động lãnh đạo, quản lý xã hội.
Hầu hết các xã hội luôn cần đến sự tham gia của trí thức trong hoạt động lãnh
đạo cũng như quản lý xã hội. Bởi hoạt động này luôn cần đến một năng lực
hơn người, một phẩm chất đặc biệt. Người làm công tác quản lý, lãnh đạo
phải là người có tri thức sâu rộng về lĩnh vực mà mình quản lý và lãnh đạo.
Không những thế họ còn phải có những năng lực khác như tổ chức, tập hợp,
giáo dục, thuyết phục, lôi kéo quần chúng tham gia thực hiện những nhiệm vụ
đã vạch ra.
Thứ tư: Trí thức không phải là một giai cấp mà là một tầng lớp xã hội
đặc biệt, tuy không có hệ tư tưởng độc lập nhưng trí thức lại đại diện cho trí
tuệ của thời đại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Khi đã gắn bó với một
giai cấp nhất định trong xã hội trí thức sẽ phát huy vai trò của mình. Do đặc
thù quá trình lao động của mình luôn đòi hỏi tính trí tuệ, tính sáng tạo nên trí
thức có khả năng tổng kết, khái quát thực tiễn thành lý luận, xây dựng hệ tư
tưởng cho giai cấp thống trị. Trong lịch sử bất cứ giai cấp cầm quyền nào
cũng cần đến trí thức. Họ luôn tìm cách thu hút, tập hợp và lôi kéo lực lượng
trí thức về phía mình.
Thứ năm: Sự ra đời của trí thức là kết quả của sự phát triển lực lượng
sản xuất của sự phân công lao động. Như sự tổng kết của Ăngghen trong tác
phẩm "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà nước" thì lịch sử
17
loài người đã trải qua 3 lần phân công lao động lớn: Lần thứ nhất là sự tách ra
giữa chăn nuôi và trồng trọt; Lần thứ hai là thủ công nghiệp tách ra khỏi nông
nghiệp; Lần thứ ba là sự tách biệt lao động trí óc ra khỏi lao động chân tay.
Có thể nói lao động trí óc không thể thiếu và ngày càng trở nên quan trọng đối
với sự phát triển của xã hội.
Ở Việt Nam, đội ngũ trí thức hiện đại chủ yếu xuất thân là con em nông
dân, công nhân hoặc được hình thành trong quá trình trí thức hóa công nhân
và nông dân. Đây là một đặc điểm riêng của đội ngũ trí thức Việt Nam so với
giới trí thức của các quốc gia đã trải qua giai đoạn Tư bản Chủ nghĩa. Nhìn
chung, chỉ có một số rất ít trong số trí thức Việt Nam hiện nay được thừa
hưởng truyền thống của các gia đình trí thức lâu đời. Đặc điểm đó tạo ra cho
giới trí thức nước ta một sự gắn bó sâu sắc với nhân dân lao động, với hoàn
cảnh nghèo nàn, lạc hậu của đất nước, cùng chung một mong muốn xây dựng
đất nước trở thành một quốc gia dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh.
Với những đặc điểm cơ bản như trên, trí thức ngày càng trở nên có vị
trí, vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội, đặc biệt trong xu thế
chung của thế giới hướng tới xây dựng nền kinh tế tri thức, trong công cuộc
đổi mới toàn diện đất nước cũng như trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH
hiện nay.
1.2. Vai trò đội ngũ trí thức và trí thức giảng viên ở Việt Nam hiện nay
1.2.1. Vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay
Xã hội càng phát triển thì cơ cấu ngành nghề của đội ngũ trí thức ngày
càng trở nên đa dạng. Do đó có thể phân loại (một cách tương đối) đội ngũ trí
thức ở nước ta hiện nay dựa trên những căn cứ như sau:
Thứ nhất: Căn cứ vào nguồn, trình độ đào tạo và dạng thức lao động
- Theo nguồn đào tạo: trí thức đào tạo trong nước và ngoài nước
18
- Theo bằng cấp, học vấn: cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ
- Theo dạng thức lao động: nghiên cứu, giảng dạy, ứng dụng…
Thứ hai: Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động
- Trí thức khoa học tự nhiên
- Trí thức khoa học kỹ thuật và công nghệ
- Trí thức khoa học xã hội và nhân văn
- Trí thức khoa học giáo dục
- Trí thức khoa học nông nghiệp (nông - lâm - ngư nghiệp)
Trong mọi lĩnh vực hoạt động nêu trên đội ngũ trí thức Việt Nam đều
có vai trò quan trọng. Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa X đã nhấn mạnh: Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng
tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo
của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng
đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững. Do đó có thể nói trí thức là
những người không chỉ có trình độ học vấn, chuyên môn cao, mà còn là
những người quan tâm và có chính kiến trước những vấn đề chính trị - xã hội
nóng bỏng của thời đại. Đặc điểm cơ bản của trí thức là lao động trí óc và
sáng tạo. Kiểu lao động trí óc và sáng tạo đó đòi hỏi cao về tính độc lập của
người trí thức trong tư duy, vận dụng kiến thức và kinh nghiệm đã tích lũy
được cũng như năng lực chuyên môn nghề nghiệp để tìm ra biện pháp tối ưu
giải quyết công việc.
Từ những đặc điểm cơ bản về cơ cấu nêu trên có thể đi đến 5 vai trò
chủ yếu của đội ngũ trí thức như sau:
Một là tiếp thu và truyền bá tri thức. Đội ngũ trí thức trước hết là
những người được đào tào một cách bài bản, đầy đủ, những người có trình độ
học vấn cao, chuyên môn sâu trong lĩnh vực mà họ lao động và làm việc.
19
Cũng chính trong quá trình lao động và làm việc đội ngũ này đã truyền bá
những tri thức vào đời sống xã hội, góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Hai là sáng tạo ra các giá trị mới của tri thức. Trong quá trình hoạt
động thực tiễn, đứng trước những đòi hỏi của thực tiễn lao động sản xuất và
phát triển trình độ nhận thức của xã hội, đội ngũ trí thức đã không ngừng sáng
tạo ra những giá trị mới của tri thức, làm giàu thêm cho khoa học - kỹ thuật.
Ba là đề xuất, phản biện một cách độc lập các chủ trương, chính sách
và biện pháp giải quyết các vấn đề xã hội. Đội ngũ trí thức là những đại biểu
cho trí tuệ của thời đại, họ có thể nhìn nhận, đánh giá một cách chính xác
những vấn đề xã hội đang đặt ra, do đó hơn bất cứ một giai cấp tầng lớp nào
trong xã hội, đội ngũ này có thể đề xuất, phản biện một cách độc lập các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đưa ra các giải pháp tốt nhất để
giải quyết các vấn đề xã hội đã, đang và sẽ xảy ra.
Bốn là dự báo phát triển và định hướng dư luận xã hội. Trong quá trình
hoạt động của mình đội ngũ trí thức không những chỉ ra những vấn đề đang
tồn tại mà họ còn có thể vạch ra, dự báo các xu hướng phát triển trong tương
lai của đời sống xã hội trên mọi lĩnh vực. Đặc biệt, với trình độ và uy tín của
mình đội ngũ trí thức còn tạo nên niềm tin vào tri thức, khoa học đối với các
giai cấp và tầng lớp khác của xã hội từ đó định hướng dư luận xã hội.
Năm là trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất ra của
cải vật chất cho xã hội. Vai trò này chính là điều kiện cơ bản để đội ngũ trí
thức có thể phát huy tốt nhất địa vị của mình trong hệ thống sản xuất xã hội.
Đặc biệt trong bối cảnh thế giới đang tiến rất gần tới nền kinh tế tri thức thì
đội ngũ trí thức càng có cơ hội để phát huy hơn nữa vai trò của mình. Chính
quá trình hoạt động thực tiễn, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình
sản xuất ra của cải cải vật chất, là điều kiện thuận lợi, là mảnh đất màu mỡ để
đội ngũ này có thể mang những giá trị tri thức mà họ đã tích lũy được đóng
góp cho xã hội.
20
1 2.2. Vai trò của đội ngũ trí thức giảng viên trong các trường đại học,
cao đẳng hiện nay
Việt Nam bắt đầu triển khai mạnh mẽ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và hội nhập sâu rộng với quốc tế ngay từ những năm đầu thế
kỷ XXI - thế kỷ của khoa học và công nghệ, của nền kinh tế tri thức mà ở đó
nhân tố con người được đặt lên hàng đầu. Để đảm bảo cho sự thắng lợi của
công cuộc đổi mới đất nước, của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
chúng ta phải có một nguồn nhân lực dồi dào, sâu về chuyên môn, năng động
nhiệt tình và sáng tạo; có ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm cao…
Việc tạo ra được một nguồn nhân lực như vậy đòi hỏi rất nhiều ở xã hội nói
chung và cụ thể là ở đội ngũ trí thức - những người thầy, những nhà khoa học
trong các cơ sở đào tạo nói riêng.
Các trường đại học và cao đẳng là nơi trực tiếp đào tạo các thế hệ sinh
viên - nguồn nhân lực đảm bảo về chuyên môn tốt nhất hiện nay cho lao động
xã hội. Đội ngũ trí thức trong các trường đại học và cao đẳng chính là những
người thầy, những nhà khoa học trực tiếp truyền thụ kiến thức chuyên môn
cho các thế hệ sinh viên. Do đó vai trò của họ là vô cùng to lớn. Nếu khoa học
và công nghệ là động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước thì đội ngũ trí thức là động lực của sự phát triển khoa học và công nghệ.
Đội ngũ trí thức trong các trường đại học và cao đẳng tham gia trực tiếp vào
việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, giáo dục thế giới
quan khoa học, phát triển trí tuệ cũng như năng lực sáng tạo cho người học.
Chính vì vậy giáo dục và đào tạo đã được Đảng và Nhà nước ta coi là quốc
sách hàng đầu. Giáo dục và đào tạo là nhân tố hàng đầu, mang tính chất quyết
định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Theo những vai
trò chủ yếu của đội ngũ trí thức nói chung như trên thì đội ngũ trí thức trong
các trường đại học, cao đẳng ở nước ta hiện nay chính là đội ngũ giảng viên
21
với những nhiệm vụ, công tác chuyên môn mà họ thực hiện như công tác
giảng dạy, nghiên cứu khoa học và đội ngũ cán bộ chuyên trách đảm nhiệm
các công tác khác trong một trường đại học hoặc cao đẳng.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành TW Đảng khoá VIII đã
xác định giảng viên chính là nhân tố quyết định đến chất lượng giáo dục và
cần được xã hội quan tâm, tôn vinh. Chăm lo xây dựng đội ngũ giảng viên sẽ
tạo được sự chuyển biến về chất lượng giáo dục, đáp ứng được yêu cầu đổi
mới của đất nước.
Giảng viên (theo Quyết định số 202/TCCP - VC ngày 08/06/1994 của
Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ) là viên chức chuyên môn đảm nhiệm việc
giảng dạy và đào tạo ở bậc đại học, cao đẳng thuộc một chuyên ngành đào tạo
của trường đại học hoặc cao đẳng. Một giảng viên đại học không chỉ đơn
thuần là một nhà sư phạm mà họ còn là một nhà khoa học do chỗ lao động sư
phạm của một giảng viên đại học là loại lao động góp phần “sáng tạo ra con
người” – một người lao động có khả năng làm việc với trình độ chuyên môn
nghiệp vụ cao, có đầy đủ các kỹ năng và phẩm chất nghề nghiệp của ngành
nghề mà họ đã lựa chọn. Do đó, người giảng viên trước hết phải là một nhà sư
phạm có năng lực truyền thụ kiến thức, có những hiểu biết sâu sắc, đầy đủ và
chính xác về chuyên môn mà mình phụ trách, có những hiểu biết về thực tiễn
đời sống kinh tế - chính trị - xã hội, có nhân cách, phẩm chất đạo đức và lòng
yêu nghề. Bên cạnh đó để trở thành một nhà khoa học trong một trường Đại
học thì người giảng viên phải thường xuyên trau dồi, nghiên cứu và phát huy
sự sáng tạo của mình, phát hiện ra những cái mới, mở rộng và làm phong phú
thêm những tri thức khoa học trong chuyên môn giảng dạy của mình. Hơn thế
nữa, người giảng viên còn có thể tạo ra những sản phẩm khoa học, các công
trình nghiên cứu, các dịch vụ khoa học và ứng dụng những thành tựu đó vào
thực tiễn lao động sản xuất.
22
Đề tài sẽ sử dụng khái niệm và cách tiếp cận này để xem xét đội ngũ
giảng viên của Học viện Nông nghiệp Việt Nam cũng như vai trò của họ
trong việc đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ khoa
học - kỹ thuật và cung cấp các sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của sự
nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Như vậy đội ngũ trí
thức giảng viên của Học viện Nông nghiệp Việt Nam chính là lực lượng cán
bộ đang làm việc tại Học viện với chức danh là giảng viên, cán bộ quản lý,
cán bộ nghiên cứu hay các cán bộ chuyên trách làm việc tại các phòng ban,
viện hay các trung tâm khoa học - kỹ thuật của Học viện. Trong giới hạn
phạm vi nghiên cứu, đề tài chủ yếu đi sâu vào làm rõ vai trò của đội ngũ
giảng viên trực tiếp giảng dạy của Học viện.
Từ cách tiếp cận trên cho thấy người giảng viên luôn phải thực hiện tốt
3 vai trò chính:
Một là vai trò của một nhà giáo: Đây là vai trò mang tính truyền thống
và tiên quyết đối với một giảng viên. Để thực hiện sứ mệnh này giảng viên
phải là một người thầy giỏi. Muốn vậy đòi hỏi người giảng viên phải có
chuyên môn sâu về nội dung, chương trình đào tạo; có đầy đủ kiến thức và kỹ
năng dạy học; có kiến thức về môi trường giáo dục và mục tiêu giáo dục.
Hai là vai trò của một nhà khoa học: Giảng viên cần phải làm tốt công
tác nghiên cứu khoa học, đặc biệt là những nghiên cứu mang tính thực tiễn
hoặc những nghiên cứu mang tính đa - liên ngành nhằm giúp cho quá trình
giảng dạy chuyên môn được phong phú sinh động và sâu sắc hơn.
Ba là vai trò của một nhà cung cấp dịch vụ: Đây là vai trò đang được
xã hội ngày càng kỳ vọng và đánh giá cao. Giảng viên là người có chuyên
môn rất sâu về lĩnh vức khoa học mà họ đang nghiên cứu và giảng dạy, do đó
hơn ai hết nếu họ tham gia vào công tác quản lý, công tác tư vấn, liên hệ việc
23
làm hoặc tham gia vào các tổ chức kinh tế, các đoàn thể của trường... thì họ sẽ
phát huy được tối đa vai trò như một nhà cung ứng dịch vụ.
Từ vai trò của đội ngũ trí thức giảng viên tại các trường đại học cao
đẳng nói chung đề tài đi đến phân tích vai trò cụ thể của đội ngũ trí thức giảng
viên của Học viện Nông nghiệp Việt Nam như sau:
Một là: Đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao cho lĩnh vực sản xuất
nông nghiệp và phát triển nông thôn. Đội ngũ giảng viên của Học viện trước
hết phải thực hiện tốt vai trò là một nhà giáo dục, cùng nhà trường đào tạo các
thế hệ sinh viên - những người lao động trực tiếp trong lĩnh vực nông nghiệp,
quản lý kinh tế nông nghiệp và xây dựng xã hội nông thôn. Nước ta là một
nước nông nghiệp do đó nhu cầu về nguồn nhân lực cho nông nghiệp luôn rất
lớn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy trình độ của người lao động trong lĩnh vực
nông nghiệp của nước ta còn rất thấp. Trình độ học vấn, tay nghề còn hạn chế,
tính kỷ luật chưa cao… Đứng trước yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn hiện nay, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực đủ về số lượng và
đảm bảo về chất lượng đang là một đòi hỏi cấp thiết.
Ở khía cạnh đào tạo nguồn nhân lực, vai trò đội ngũ giảng viên của Học
viện hiện nay được thể hiện ở một số nội dung sau:
- Đào tạo đối tượng chiếm đa số hiện nay là lực lượng sinh viên nông
nghiệp, giúp cho lực lượng này nắm vững kiến thức chuyên môn cũng như
các kỹ năng thực hành theo yêu cầu của ngành nghề mà họ được đào tạo. Số
lượng sinh viên tốt nghiệp hàng năm của Học viện là nguồn bổ sung chủ yếu
vào đội ngũ lao động trình độ cao trong lĩnh vực nông nghiệp của cả nước.
- Đào tạo những chuyên gia có trình độ cao, chuyên sâu về lĩnh vực
nông nghiệp, quản lý nông nghiệp, đó là những học viên cao học, nghiên cứu
sinh. Đối tượng đào tạo này giữ vai trò rất lớn trong lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp và phát triển nông thôn ở nước ta hiện nay. Họ là những chuyên gia,
24
có trình độ cao về cả lý thuyết và thực hành, có khả năng nghiên cứu độc lập.
Họ là những cán bộ quản lý đang làm việc tại các cơ quan hành chính, các tổ
chức chính trị - xã hội ở khu vực nông thôn, các doanh nghiệp sản xuất và
kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ nông nghiệp. Họ còn là những cán bộ, viên
chức công tác tại các trường, trung tâm, viện nghiên cứu trong lĩnh vực nông
nghiệp… Với những vị trí đó lực lượng này đã, đang và sẽ đóng góp rất lớn
vào hoạt động sản xuất nông nghiệp cũng như đẩy mạnh sự nghiệp CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay.
Hai là: Nghiên cứu, ứng dụng khoa học - kỹ thuật và công nghệ vào
quá trình sản xuất nông nghiệp, xây dựng và phát triển nông thôn. Đội ngũ
giảng viên của Học viện ngoài vai trò đào tạo nguồn nhân lực họ còn là những
nhà nghiên cứu có khả năng tạo ra những giống mới, những kỹ thuật chăn
nuôi hiệu quả, những quy trình bảo quản sau thu hoạch, cải tiến và thiết kế
mới các loại máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp, ứng dụng công nghệ
sinh học trong trồng trọt, tạo ra các loại thuốc trừ sâu bệnh sinh học, chế biến
các thức ăn chăn nuôi… Trên cơ sở những thành tựu khoa học đội ngũ giảng
viên của Học viện còn là những người trực tiếp chỉ đạo, quản lý và giám sát
việc thử nghiệm, ứng dụng và chuyển giao kết quả nghiên cứu đó tới bà con
nông dân.
Ba là: Cung cấp các sản phẩm và dịch vụ nông nghiệp, đáp ứng nhu
cầu của bà con nông dân, của các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh trong
lĩnh vực nông nghiệp. Đội ngũ trí thức giảng viên của Học viện là những
chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực mà họ giảng dạy và nghiên cứu do đó họ
sẽ thực hiện rất tốt vai trò cung cấp dịch vụ cho nông nghiệp. Học viện có thể
cung cấp các dịch vụ về quản lý, tư vấn cho các cơ sở sản xuất nông nghiệp,
các trang trại; dịch vụ vật tư, cây con giống, các chế phẩm vi sinh, phân
bón…
25
Nhìn chung, đội ngũ giảng viên trong các trường đại học và cao đẳng
không những là một nguồn lực quan trọng trong giáo dục và đào tạo, góp
phần to lớn vào công cuộc đổi mới giáo dục, hướng tới một nền giáo dục hiện
đại ngang tầm với khu vực và thế giới mà còn là chiếc nôi sản sinh ra nguồn
nhân lực trình độ cao, cung cấp cho xã hội, cho nền kinh tế những người lao
động có đầy đủ phẩm chất, năng lực nhằm thực hiện những nhiệm vụ, mục
tiêu chiến lược mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra. Chính vì vậy xây dựng và
phát triển đội ngũ trí thức giảng viên tại các trường đại học, cao đẳng đủ về số
lượng, đảm bảo về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu, có bản lĩnh chính trị vững
vàng, có lương tâm và trách nhiệm để họ phát huy hết vai trò của mình là một
việc làm cấp thiết hiện nay.
1.3. Các tiêu chí đánh giá đội ngũ trí thức giảng viên
1.3.1. Về số lượng
Hiện nay đứng trước nhu cầu rất lớn của người học và thị trường giáo
dục, các trường đại học và cao đẳng đã có sự tăng lên một cách nhanh chóng
về số lượng và quy mô đào tạo. Cùng với đó là sự tăng lên một cách nhanh
chóng về số lượng đội ngũ trí thức giảng viên. Hiện nay cả nước có trên 500
trường Đại học cùng với gần 10.000 giảng viên. Với chủ trương phát triển
giáo dục như một chiến lược phát triển mang tính lâu dài và bền vững, Đảng
và Nhà nước ta và trực tiếp là Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong những năm qua
đã tăng cường tuyển cán bộ công chức ngạch giảng viên vào các trường đại
học. Số lượng đội ngũ trí thức giảng viên thể hiện ở quy mô lao động, số
người trong độ tuổi lao động đang tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học
ở các cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng. Số lượng này phụ thuộc vào quy mô
đào tạo của các trường và học viện, phụ thuộc vào nhu cầu của người học
cũng như nhu cầu của thị trường lao động và sự phát triển của kinh tế- xã hội.
26
1.3.2. Về cơ cấu
- Theo bằng cấp chuyên môn (cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ, phó giáo sư, giáo
sư) chính là sự phân chia về mặt trình độ chuyên môn theo bằng cấp mà người
giảng viên đạt được trong quá trình lao động và học tập nâng cao trình độ của
mình. Trình độ chuyên môn theo bằng cấp không chỉ thể hiện năng lực, uy tín
khoa học của chính người giảng viên mà còn quyết định đến chất lượng đào
tạo cũng như nghiên cứu khoa học của cơ sở giáo dục mà họ công tác.
- Theo mức thu nhập: thể hiện sự cao thấp khác nhau trong mức thu
nhập của giảng viên. Thu nhập của giảng viên chủ yếu phụ thuộc vào thời
gian công tác, tuổi đời, tuổi nghề, lĩnh vực chuyên môn mà họ tham gia lao
động, làm việc; đặc thù, tính chất của công việc, vị trí, vai trò cũng như đóng
góp của người giảng viên đối cơ sở giáo dục của họ.
- Theo giới tính: là sự phân chia đội ngũ cán bộ giảng viên của một cơ
sở giáo dục theo tỷ lệ giới tính nam và giới tính nữ trên tổng số giảng viên. Sự
cân bằng về giới tính sẽ giúp đội ngũ giảng viên phát huy được hết vai trò của
họ trong hoạt động chuyên môn cũng như trong các hoạt động khác của một
cơ sở giáo dục.
- Theo lứa tuổi: Ở đội ngũ giảng viên yếu tố trí lực đóng vai trò vô
cùng quan trọng. Để hoàn thiện và nâng cao trình độ chuyên môn, kinh
nghiệm giảng dạy cũng như nghiên cứu, giảng viên cần phải có một khoảng
thời gian tích lũy. Do đó tuổi đời, tuổi nghề của đội ngũ giảng viên cũng có
những đặc thù riêng so với đội ngũ trí thức lao động trong những lĩnh vực
khác. Theo lứa tuổi là sự phân chia đội ngũ giảng viên trong một cơ sở giáo
dục thành các nhóm tuổi khác nhau từ trẻ đến già để từ đó đánh giá về sự hợp
lý trong cơ cấu tuổi của đội ngũ này.
- Theo khu vực (địa phương): Các khu vực đồng bằng, trung tâm đô thị,
trung tâm văn hóa, chính trị hay các thành phố lớn thường là nơi tập trung dân
27
cư do đó cũng là nơi có nhiều các cơ sở giáo dục đại học với số lượng lớn
giảng viên làm việc tại đây. Thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh hiện
nay là hai trung tâm giáo dục đại học của cả nước. Đội ngũ trí thức giảng viên
tại hai địa phương này rất đông đảo. Trong khi đó tại các tỉnh, thành ở khu
vực miền núi phía Bắc, Duyên hải miền Trung và Tây nguyên số lượng giảng
viên ít hơn rất nhiều.
- Theo lĩnh vực chuyên môn giảng dạy: Là sự phân chia đội ngũ giảng
viên nói chung và đội ngũ giảng viên tại một cơ sở giáo dục nói riêng thành
các bộ phận khác nhau theo lĩnh vực chuyên môn mà họ giảng dạy hoặc
nghiên cứu. Xét ở mặt tổng thể sự phân chia này phụ thuộc rất nhiều vào nhu
cầu về nguồn nhân lực trong từng lĩnh vực kinh tế nhất định, trong từng giai
đoạn lịch sử cụ thể. Xét ở phạm vi một cơ sở giáo dục thì số lượng giảng viên
phụ thuộc vào quy mô đào tạo cụ thể của từng ngành học.
1.3.3. Về chất lượng
- Thứ nhất về mặt thể lực, đây là điều kiện cơ bản của một người lao
động nói chung và người lao động trí óc nói riêng. Muốn phát huy được trình
độ chuyên môn cũng như tâm huyết của mình người giảng viên cần phải có
một thể lực tốt, có sức khỏe, có sự dẻo dai và bền bỉ, đáp ứng nhu cầu của
công việc và hoàn thành các nhiệm vụ được giao.
- Thứ hai về mặt trí lực, về trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, về
năng lực giảng dạy và nghiên cứu khoa học, khả năng tham gia các công tác
khác như công tác quản lý, công tác đoàn thể của người giảng viên. Để trở
thành một nhà giáo dục, người giảng viên cần phải trình độ chuyên môn từ
thạc sỹ trở lên, có năng lực cũng như phương pháp giảng dạy phù hợp với đối
tượng người học là sinh viên; có sự hiểu biết về thực tiễn đời sống chính trị -
kinh tế - xã hội; có năng lực tổ chức và quản lý lớp học, đánh giá sinh viên,
xử lý các tình huống trong giảng dạy; năng lực truyền đạt; kỹ năng xây dựng
28
và phát triển chương trình, sử dụng công nghệ trong giảng dạy... Để trở thành
một nhà khoa học, người giảng viên phải không ngừng nghiên cứu và sáng
tạo, thể hiện khả năng nghiên cứu của mình thông qua số lượng và chất lượng
các ấn phẩm được xuất bản trong các tạp chí khoa học, các hội nghị khoa học
trong và ngoài nước; số lượng các đề tài, dự án, các công trình nghiên cứu
khoa học tham gia. Để trở thành một nhà cung cấp dịch vụ đòi hỏi người
giảng viên phải luôn gắn những nghiên cứu, ứng dụng của mình vào sản xuất,
kinh doanh, cung cấp cho thị trường những sản phẩm, dịch vụ khoa học tiến
bộ.
- Thứ ba về mặt tâm lực: Đó chính là phẩm chất đạo đức, lối sống, nhân
cách, trách nhiệm và sự nhiệt tình, tâm huyết với nghề của người trí thức
giảng viên. Giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng chính là sự
nghiệp "trồng người". Nếu sản phẩm của giáo dục là con người có văn hóa thì
sản phẩm của giáo dục đại học là nguồn nhân lực có trình độ văn hóa cao, kỹ
năng, tay nghề, chuyên môn và nghiệp vụ vững vàng, có nhân cách và đạo
đức tốt, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của lao động xã hội. Do đó, ngay
trong môi trường giáo dục đại học, người học cần phải được trang bị, giáo dục
đầy đủ, không chỉ trình độ chuyên môn mà còn phải rèn luyện tác phong, tu
dưỡng đạo đức và hoàn thiện nhân cách. Đội ngũ giảng viên, các thầy cô giáo
chính là những tấm gương mà sinh viên noi theo. Nhân cách của nhà giáo ảnh
hưởng lớn đến người học. Sự nhiệt tình, tâm huyết với nghề của người giảng
viên không chỉ là động lực giúp họ hoàn thành nhiệm vụ mà còn kích thích
tính tự giác, tích cực và niềm hăng say học tập, nghiên cứu khoa học của sinh
viên.
Như vậy, để thực hiện được các vai trò của mình đội ngũ trí thức giảng
viên luôn phải được đảm bảo đầy đủ về mặt số lượng, có sự hợp lý trong cơ
cấu và ngày càng được nâng cao hơn nữa về chất lượng. Hiện nay, trong tiến
29
trình xây dựng nền kinh tế tri thức, hoàn thành công cuộc đổi mới và sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước, bản thân đội ngũ trí thức giảng viên phải luôn
cố gắng phấn đấu, không ngừng nỗ lực vươn lên về mọi mặt song cũng rất
cần đến sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, của các cơ quan, ban, ngành và
trực tiếp là các cơ sở giáo dục thông qua các chủ trương, đường lối, chính
sách, quy định, chế độ…Có như vậy, đội ngũ này mới thực sự phát huy được
vai trò của mình.
1.4. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn ở nƣớc ta hiện nay
1.4.1. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi căn bản và toàn diện các hoạt
động sản xuất từ chỗ dùng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một
cách phổ biến sức lao động dựa trên công cụ, phương tiện lao động sản xuất
cơ giới hóa, tự động hóa.
Hiện đại hóa là quá trình ứng dụng và trang bị các thành tựu khoa học
và kỹ thuật tiên tiến vào quá trình sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quá trình
kinh tế - xã hội nói chung nhằm thay đổi căn bản lối sống và tác phong làm
việc của người lao động.
* Về tính tất yếu, khách quan của việc tiến hành CNH, HĐH ở nước ta.
Trước hết Việt Nam là một nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, trình độ
của lượng sản xuất thấp, không thể tạo điều kiện thúc đẩy quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa phát triển. Muốn xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nền sản
xuất hiện đại tất yếu chúng ta phải tiến hành sự nghiệp CNH, HĐH. Đây là
con đường đúng đắn, mang tính quy luật của những quốc gia đi từ một nền
sản xuất nhỏ lên một nền sản xuất lớn. Hơn nữa muốn có một nền sản xuất
năng suất cao bắt kịp với các nền sản xuất tiên tiến trên thế giới, rút ngắn
khoảng cách tụt hậu về kinh tế tất yếu chúng ta phải tiến hành CNH, HĐH.
30
* Về tác dụng to lớn và toàn diện của CNH, HĐH:
CNH, HĐH tạo điều kiện để phát triển lực lượng sản xuất và tăng năng
xuất lao động xã hội, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, giải quyết
việc làm, tăng thu nhập và nâng cao đời sống của nhân dân.
CNH, HĐH tạo ra lực lượng sản xuất mới, làm tiền đề cho việc củng cố
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, tăng cường vai trò của Nhà nước xã hội
chủ nghĩa cũng như khối liên minh giai cấp công nhân - nông dân và trí thức.
CNH, HĐH tạo tiền đề để hình thành và phát triển nền văn hóa mới xã
hội chủ nghĩa – nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
CNH, HĐH tạo ra nền tảng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho việc xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ gắn với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và tăng
cường an ninh quốc phòng.
* Quan điểm tiến hành CNH, HĐH hiện nay của Đảng ta là quá trình
này phải gắn liền với xây dựng từng bước nền kinh tế tri thức, với kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và phát huy nguồn lực con người. Quá
trình CNH, HĐH phải lấy khoa học và công nghệ làm nền tảng và động lực
để phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.
* Mục tiêu của sự nghiệp CNH, HĐH được xác định như sau:
- Cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ
thuật hiện đại
- Đẩy mạnh CNH, HĐH nhằm mục tiêu cao hơn là phát triển kinh tế tri thức
- CNH, HĐH phải đạt tới mục tiêu động viên, khuyến khích, lôi cuốn
được toàn dân, mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo, vào sự nghiệp vĩ đại này.
- CNH, HĐH còn nhằm tới mục tiêu hỗ trợ và thúc đẩy tốt hơn sự hội
nhập quốc tế của Việt Nam nhằm khai thác thị trường thế giới để tiêu thụ những
31
sản phẩm mà nước ta có nhiều lợi thế, thu hút vốn đầu tư của nước ngoài, thu
hút công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới.
- Thông qua CNH, HĐH để phát huy mạnh hơn vai trò quan trọng của
lực lượng cán bộ khoa học và công nghệ, khoa học quản lý và đội ngũ công
nhân lành nghề trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc .
Tóm lại, mục tiêu của CNH, HĐH và tăng trưởng kinh tế là vì con
người; vì dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì sự
bảo vệ môi trường tự nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học…
* Những việc cần làm trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
- Thứ nhất, cần nhận diện một cách đúng đắn những hạn chế, yếu kém
cũng như những khó khăn, thách thức trong quá trình CNH, HĐH. Rút ra bài
học kinh nghiệm thực tiễn. Từ đó xác định thời gian tới cần điều chỉnh cơ chế,
chính sách, hướng ưu tiên nguồn lực vào những ngành và lĩnh vực nào để có
thể tạo nền tảng vững chắc thực hiện mục tiêu đưa nước ta trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Lựa chọn những kinh nghiệm quốc tế phù
hợp từ những nước có chính sách công nghiệp hợp lý và đúng đắn để tham
khảo, vận dụng cho Việt Nam hướng tới năm 2020 và tầm nhìn xa hơn.
- Thứ hai, yêu cầu chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài gắn với chiến
lược thúc đẩy kinh tế trong nước để phát huy ưu thế về vốn, công nghệ, năng
lực quản trị,.. của khu vực FDI nhằm giúp thúc đẩy các khu vực khác của nền
kinh tế cùng phát triển, đặc biệt là thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế nông
nghiệp hộ gia đình. Qua đó dẫn dắt các doanh nghiệp nội địa tham gia các mắt
xích cung ứng quốc tế và chuỗi giá trị toàn cầu, nhằm thực hiện mục tiêu
CNH, HĐH đất nước.
- Thứ ba, đánh giá điểm mạnh, điểm yếu của các ngành công nghiệp
phụ trợ và dịch vụ hỗ trợ hiện nay của nước ta, qua đó đề ra kế hoạch và hành
động cụ thể để phát triển trong thời gian tới sao cho công nghiệp phụ trợ và
32
các dịch vụ hỗ trợ trở thành một thành tố then chốt trong chiến lược CNH,
HĐH đất nước.
Thứ tư, đề xuất giải pháp có tính đột phá để tiếp tục tháo gỡ ba nút thắt
đang cản trở tăng trưởng hiện nay kết cấu hạ tầng kém cỏi, thể chế lạc hậu và
chất lượng nguồn nhân lực. Đặc biệt là khuyến khích thúc đẩy CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn; thúc đẩy phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ; thúc
đẩy tăng năng suất từ các yếu tố tổng hợp, huy động các nguồn lực tư nhân để
phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng thông qua mô hình đối tác công tư.
Thứ năm, xác định cụ thể thước đo thành công của CNH, HĐH đối với
từng vùng, địa phương để phát huy tối đa tiềm năng và lợi thế so sánh của
mỗi vùng, địa phương, đảm bảo tính bền vững và triển khai theo quy hoạch.
Tránh tình trạng các tỉnh, thành phố chạy đua thực hiện CNH, HĐH theo
phong trào hoặc vì lợi ích trước mắt mà bỏ qua tiềm năng, thế mạnh, lợi thế
cạnh tranh của địa phương mình, hoặc thậm chí làm suy yếu lợi thế cạnh tranh
của địa phương khác.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, Đảng và Nhà nước ta
đặc biệt chú trọng đẩy mạnh CNH, HĐH, coi đây là “nhiệm vụ trung tâm
trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”. Đường lối CNH, HĐH đã
được hình thành từ Đại hội III của Đảng (tháng 9/1960), đến trước khi thực
hiện đổi mới, chủ trương của Đảng ta vẫn là “ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ
(Đại hội IV, tháng 12/1976). Để gải quyết những vấn đề cấp bách của thực
tiễn đời sống nhân dân tại Đại hội VI (tháng 12/1986) Đảng ta hướng vào 3
chương trình kinh tế lớn: sản xuất lương thực – thực phẩm, sản xuất hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu, tiến hành CNH theo phương thức kết hợp kế hoạch
với cơ chế thị trường. Đến Đại hội VII (tháng 6/1991), trước sự phát triển
mạnh mẽ của khoa học, công nghệ, Đảng ta khẳng định rõ yêu cầu của tiến
33
trình CNH là phải kết hợp chặt chẽ giữa CNH với HĐH, “công nghiệp hóa
theo hướng hiện đại”. Đến Hội nghị Trung ương 7 khóa VII (năm 1994), lần
đầu tiên Đảng ta đưa ra khái niệm CNH, HĐH. Đó là quá trình chuyển đổi
căn bản và toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý
kinh tế, xã hội từ sử dụng sức lao động mang tính thủ công là chính sang sử
dụng một cách phổ biến sức lao động cùng công nghệ, phương tiện và phương
pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa
học – công nghệ, tạo ra năng xuất lao động xã hội cao.
Nhận thức về CNH, HĐH là một quá trình lâu dài, trong đó mỗi giai
đoạn lại có những mục tiêu và ưu tiên khác nhau, song mục tiêu lâu dài được
Đảng ta xác định luôn luôn là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp,
có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức sống
vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đây là một bước tiến đáng kể
trong tư duy lý luận về tính đặc điểm, tính chất, vị trí, vai trò cũng như mục
tiêu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước của Đảng ta.
Những kỳ Đại hội sau đó của Đảng, từ Đại hội VIII (năm 1996), Đại
hội IX (năm 2001), Đại hội X (năm 2006), Đại hội XI (năm 2011) và gần đây
nhất là Đại họi Đảng lần thứ XII (tháng 1 năm 2016), Đảng ta đã từng bước
tổng kết thực tiễn, kế thừa, bổ sung và phát triển lý luận về sự nghiệp CNH,
HĐH. Chẳng hạn như CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; CNH, HĐH rút
ngắn, gắn với kinh tế tri thức và hội nhập. Những yêu cầu về mục tiêu, nội
dung, các bước đi, giai đoạn và cả những nguồn lực để đảm bảo CNH, HĐH
đã được đặt ra trong chủ trương, đường lối của Đảng nhằm đảm bảo tính phù
hợp với tình hình cụ thể trong nước cũng như trên thế giới.
34
Thực tiễn hơn 30 năm thực hiện đổi mới, đặc biệt là quá trình CNH,
HĐH đất nước cho thấy cơ cấu kinh tế nước ta đã có những bước chuyển dịch
tích cực, tỷ trọng của khu vực công nghiệp tăng từ 28,9% (năm 1986) lên
38,3% (năm 2013); dịch vụ tăng từ 33,1% lên 43,3% trong cùng thời gian.
Quá trình CNH, HĐH kéo theo quá trình đô thị hóa cũng như sự chuyển dịch
trong cơ cấu lao động. Nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ
cao, khu đô thị lớn đã hình thành trên phạm vi cả nước, thu hút các nguồn
vốn, các nguồn đầu tư kinh tế trong và ngoài nước. Môi trường đầu tư của
chúng ta ngày càng hoàn thiện, môi trường chính trị, xã hội ổn định đã góp
phần đưa Việt Nam trở thành điểm đến an toàn của các nhà đầu tư quốc tế.
Theo chân các dòng vốn FDI chính là nền tảng tri thức, kinh nghiệm quản trị
và công nghệ tiên tiến của thế giới được ứng dụng và triển khai, tạo cơ hội
cho việc tiếp thu, học hỏi, sáng tạo và phát triển cho kinh tế nội địa. Hội nhập
quốc tế sâu rộng tạo ra những cơ hội, điều kiện để chúng ta tiếp cận thị trường
toàn cầu. Các hiệp định kinh tế song phương lẫn đa phương đã cho phép
chúng ta tiếp cận thị trường quốc tế dễ dàng hơn đối với những doanh nghiệp
trong nước, tạo ra một địa bàn sản xuất, kinh doanh thuận lợi.
Một thành công quan trọng nữa mà nước ta đạt được sau 30 năm đổi
mới trong đó có sự đóng góp không nhỏ của quá trình CNH, HĐH là giải
quyết một cách hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển
văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Những thành tựu của sự
nghiệp CNH, HĐH góp phần cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, giảm
tỷ lệ đói nghèo, ổn định chính trị - xã hội, an ninh quốc phòng được giữ vững,
tiềm lực và vị thế quốc tế của nước ta ngày càng được nâng cao. Những thành
tựu này lại càng khẳng định cho tính đúng đắn của và những bước đi chính
xác, hiệu quả của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
35
1.4.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ cơ bản
hàng đầu trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn có tầm quan trọng đặc biệt đối với phát triển nông nghiệp,
xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống của nông dân. Đó là con đường
tất yếu phải tiến hành đối với bất cứ quốc gia nào trên thế giới, đặc biệt đối
với nước ta có điểm xuất phát thấp từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu.
* Tính tất yếu của quá trình này thể hiện như sau:
Thứ nhất, nước ta là nước đông dân cư sống ở nông thôn, với gần 60%
dân số sống ở nông thôn, hơn 47% lao động làm nông nghiệp; tốc độ tăng dân
số ở nông thôn hiện vẫn cao; ruộng đất bình quân đầu người thấp và có xu
hướng giảm do quá trình đô thị hóa, mở rộng xây dựng kết cấu hạ tầng; trình
độ sản xuất nông nghiệp còn thấp, kỹ thuật thủ công là chủ yếu...
Thứ hai, nông nghiệp, nông thôn góp một phần quan trọng trong quá
trình tích lũy vốn cho CNH, HĐH; là khu vực kinh tế - xã hội có vị trí chiến
lược cực kỳ quan trọng, liên quan đến việc giải quyết những vấn đề đời sống
cơ bản của đại đa số dân cư, như tạo việc làm cho lao động dư thừa ở nông
thôn, tăng thu nhập cho nông dân, tăng sức mua của thị trường nông thôn,
tăng tỷ trọng trong GDP và tăng đóng góp vào ngân sách nhà nước.
Thứ ba, kinh tế nông nghiệp, nông thôn vẫn chưa ra khỏi tình trạng yếu
kém, chậm phát triển. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách thức
sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ, phân tán;
năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt hàng thấp. Đời sống vật chất
và tinh thần của người dân nông thôn chưa được cải thiện đáng kể, chưa
tương xứng với thành quả của công cuộc đổi mới đất nước; tỷ lệ hộ nghèo còn
cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa; chênh lệch
giàu - nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng còn lớn, phát sinh
36
nhiều vấn đề xã hội bức xúc. Do vậy, thực hiện thắng lợi CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn là biện pháp chủ yếu nhất để xóa đói nghèo bền vững và
xây dựng nông thôn mới về thực chất.
Thứ tư, thực tiễn thế giới cho thấy, đã có không ít nước đi lên bằng xuất
khẩu nông sản, như Ô-xtrây-li-a, Ác-hen-ti-na, Ca-na-đa,... Đối với một số
nước khác, phát triển nông nghiệp là biện pháp chủ yếu để hình thành thị
trường trong nước; cũng có nước lấy phát triển nông nghiệp và công nghiệp
nông thôn là biện pháp cơ bản giải quyết phần tất yếu của đời sống kinh tế
trong thời kỳ đầu của CNH, HĐH.
Thứ năm, đối với một nước đi lên chủ nghĩa xã hội từ nông nghiệp lạc
hậu thì vấn đề mấu chốt là phát triển nền nông nghiệp hàng hóa để cấu trúc lại
nền kinh tế theo hướng sản xuất lớn, hiện đại. Tình hình thực tế của nước ta
cũng như bài học của một số nước Đông Nam Á càng khẳng định vai trò rất
quan trọng của nông nghiệp và kinh tế nông thôn đối với sự ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhất là các nước đang phát triển đi lên từ
nông nghiệp. Trước mắt cũng như lâu dài, phát triển nông nghiệp và kinh tế
nông thôn theo hướng CNH, HĐH là cơ sở để đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ sáu, nông thôn là nguồn cung cấp nhân lực chủ yếu để thực hiện
CNH, HĐH. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng phát
triển công nghiệp, dịch vụ đồng thời cũng là quá trình chuyển lao động từ
ngành nông nghiệp sang ngành công nghiệp và dịch vụ theo hướng lao động
công nghiệp, dịch vụ tăng tuyệt đối và tương đối, còn lao động nông nghiệp
giảm tuyệt đối và tương đối.
Trong 30 năm đổi mới, Đảng ta luôn coi “Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” như Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã khẳng định.
37
Những năm qua CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đã có những bước
tiến quan trọng. Bộ mặt nông thôn thay đổi, nông nghiệp phát triển theo
hướng bền vững, hệ thống chính trị cơ sở khu vực nông thôn từng bước được
củng cố.
Nông nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ khá cao, trên 3%/năm, theo
hướng sản xuất hàng hóa; năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất nông
nghiệp không ngừng nâng cao; bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc
gia; một số mặt hàng nông sản xuất khẩu như gạo, cà-phê, cao-su... chiếm vị
trí cao trên thị trường thế giới. Kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng
tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành, nghề thủ công truyền thống; các hình thức
tổ chức sản xuất tiếp tục được đổi mới. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông
thôn được củng cố; diện mạo nhiều vùng nông thôn có thay đổi quan trọng.
Đời sống vật chất và tinh thần của dân cư ở hầu hết các vùng nông thôn ngày
càng được cải thiện. Công tác xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả to lớn, được
cộng đồng thế giới đánh giá cao. Dân chủ ở cơ sở được phát huy. An ninh
chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững. Đây là tiền đề quan trọng để
thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những phát triển tiến bộ, nông nghiệp, nông thôn
nước ta vẫn là khu vực chậm phát triển, phát triển thiếu bền vững; đang còn
không ít khó khăn, như đầu tư cho nông, lâm nghiệp, thủy sản chưa tương
xứng với vị trí, vai trò của các ngành kinh tế này; mô hình tổ chức, quản lý
sản xuất chưa ổn định, cơ cấu kinh tế còn thuần nông, công nghiệp, dịch vụ
nông thôn phát triển chưa tương xứng, nên sức ép về việc làm ở nông thôn
vẫn rất lớn, thị trường nông thôn yếu kém tác động tiêu cực đến “đầu vào” và
“đầu ra” của sản xuất nông nghiệp, một số chính sách của Nhà nước lại chưa
đủ mạnh để kích thích sản xuất nông nghiệp phát triển, do đó, năng suất lao
động, sức cạnh tranh của hàng nông sản thấp... Tất cả những điều đó làm cho
38
nông nghiệp, nông thôn có nguy cơ tụt hậu xa hơn so với công nghiệp, dịch
vụ ở thành thị. Vì vậy, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn vừa là đòi hỏi cấp
bách của thực tiễn, vừa là con đường ngắn nhất để đưa nông nghiệp, nông
thôn nước ta thoát khỏi tình trạng khó khăn hiện nay để phát triển sản xuất
hàng hóa, tăng năng suất lao động, cải thiện đời sống của cư dân nông thôn.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở nước ta phải
bảo đảm những yêu cầu cơ bản: theo định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn phát
triển lực lượng sản xuất với củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất mới ở nông
thôn, xây dựng nông thôn mới; đặt trong chiến lược CNH, HĐH nền kinh tế
quốc dân nói chung, bảo đảm lợi ích toàn diện của đất nước cả về kinh tế, xã
hội, an ninh quốc phòng, môi trường sinh thái; đặt trong xu thế chung là quốc
tế hóa và khu vực hóa nền kinh tế nhằm khai thác triệt để lợi thế so sánh của
đất nước; kết hợp hài hòa kinh nghiệm truyền thống với công nghệ, kỹ thuật
hiện đại, tiên tiến theo những bước đi phù hợp. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn hiện nay phải củng cố mối quan hệ mật thiết giữa
nông nghiệp, nông dân, nông thôn theo hướng: nông dân là chủ thể của quá
trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công
nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản, phát triển toàn
diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt.
Mục tiêu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn, bảo đảm sự hài hòa
giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó khăn,
nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với trình độ nông dân
của các nước tiên tiến trong khu vực, đủ bản lĩnh chính trị, năng lực làm chủ
nông thôn mới; xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng
hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn có năng suất, chất lượng, hiệu quả
và khả năng cạnh tranh cao, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; xây dựng
39
nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và
các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh
công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch, xã hội nông thôn ổn định, giàu
bản sắc văn hóa dân tộc, dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo
vệ, hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng
cường.
CNH, HĐH sẽ tạo tiền đề vật chất - kỹ thuật và kinh tế - xã hội để cải
biến nền kinh tế nông nghiệp còn kém phát triển thành nền kinh tế có cơ cấu
ngày càng hợp lý trên cơ sở lao động sử dụng máy móc và kỹ thuật, công
nghệ ngày càng tiên tiến. CNH, HĐH tạo nền tảng, cơ sở vật chất kỹ thuật
cho việc xác lập, củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa
và củng cố hệ thống chính trị, tăng cường an ninh quốc phòng ở khu vực nông
thôn...
Trong những năm trước mắt, tập trung các nguồn lực bên trong và bên
ngoài để đẩy mạnh CNH, HĐH kinh tế nông nghiệp, nông thôn là nội dung
chính của sự nghiệp CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân. Điều này cũng được
khẳng định trong Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XI trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
* Về phương hướng, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nước ta cần
tập trung vào:
Một là, nhận thức sâu sắc hơn nữa vị trí quan trọng của nông nghiệp,
nông thôn - nơi sinh sống của đại bộ phận dân cư, lao động xã hội và đất đai,
có điều kiện để phát triển, là nguồn nội lực to lớn và đang là lợi thế của đất
nước ta.
Hai là, tập trung cao hơn với những dự án thiết thực, cụ thể để đẩy
nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, đưa nông nghiệp, nông thôn phát
triển, từng bước thay đổi bộ mặt kinh tế nông thôn, xóa đói, giảm nghèo, cải
40
thiện đời sống của nhân dân, tạo điều kiện cho sự ổn định và phát triển bền
vững của đất nước, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
Ba là, dành một tỷ lệ tương xứng các nguồn vốn huy động được để đầu
tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn; hình thành các tổ hợp công - nông
nghiệp - dịch vụ ở những địa bàn cho phép để chế biến lương thực, thực
phẩm, sản xuất công cụ lao động nông nghiệp, phát triển các loại dịch vụ
phục vụ sản xuất công nghiệp, công nghiệp hóa sản xuất nông nghiệp, đẩy
mạnh dịch vụ khoa học - kỹ thuật, cung cấp vật tư, giống cây trồng, vật nuôi
và tiêu thụ sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp.
Bốn là, đổi mới chính sách và khơi thông các “điểm nghẽn” để thực sự
giải phóng sức sản xuất ở nông thôn và thu hút các nguồn lực cho phát triển
toàn diện, bền vững; khuyến khích mạnh mẽ việc khai thác, đưa vào sử dụng
đất trống, đồi núi trọc và đất còn hoang hóa; đẩy mạnh thâm canh, tăng năng
suất; tăng sức mua và phát triển ổn định thị trường nông thôn.
* Trên cơ sở đó, trong thời gian tới để tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi tập trung vào 8 nhóm giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo
hướng sản xuất hàng hóa trên cơ sở bảo đảm an ninh lương thực quốc gia.
Trước hết hình thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn để có điều
kiện ứng dụng kỹ thuật, công nghệ tiên tiến cho những cây trồng, vật nuôi có
giá trị kinh tế, tính hàng hóa cao; chuyên canh để có nông sản hàng hóa nhiều
về số lượng, tốt về chất lượng, đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp chế
biến, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu hàng hóa nông sản, bao gồm cả lâm,
thủy, hải sản, ưu tiên phát triển các cây trồng và vật nuôi có quy mô xuất khẩu
tương đối lớn và thị trường ổn định, đặc biệt coi trọng các sản phẩm quý hiếm
mà nước ta có lợi thế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn còn phải nhằm
41
nâng tỷ trọng và tốc độ phát triển của công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu
kinh tế nông thôn. Muốn vậy, phải coi việc phát triển công nghệ sinh học và
công nghệ chế biến, công nghệ sau thu hoạch nông, lâm, thủy, hải sản để nâng
cao giá trị và sức cạnh tranh của hàng nông sản là nội dung cốt lõi của CNH,
HĐH sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn.
Thứ hai, phát triển công nghiệp nông thôn, kết cấu hạ tầng, dịch vụ
nông thôn, tiến hành phân công lại lao động ở nông thôn theo hướng giảm lao
động thuần nông, tăng lao động trong những ngành phi nông nghiệp trên cơ
sở phát triển các ngành, nghề, làng nghề truyền thống và các ngành, nghề tiểu
- thủ công nghiệp, công nghiệp chế biến, công nghiệp nông thôn sản xuất
hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, công nghiệp khai thác và chế biến các
nguồn nguyên liệu phi nông nghiệp, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng;
các loại hình dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân; xây dựng kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội về điện, giao thông vận tải, thông tin liên lạc nối
liền thành thị với nông thôn, hình thành nên ở những tụ điểm dân cư các trung
tâm dịch vụ kinh tế - kỹ thuật - thương mại, tạo điều kiện cho sự phát triển
trên địa bàn nông thôn một nền nông nghiệp sinh thái và bộ mặt nông thôn
mới...
Thứ ba, thực hiện chính sách ruộng đất theo hướng thúc đẩy phát triển
nông nghiệp hàng hóa, trên cơ sở sử dụng ruộng đất một cách hiệu quả. Cho
phép tích tụ ruộng đất lành mạnh, nhưng không làm bần cùng hóa một bộ
phận nông dân. Tích tụ ruộng đất phải đi đôi với phát triển ngành, nghề, phát
triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn
cho dân cư nông thôn.
Phát triển kinh tế trang trại với các hình thức sở hữu khác nhau ở những
nơi có nhiều ruộng đất, khai phá đất hoang để trồng cây dài ngày, chăn nuôi
đại gia súc...
42
Thứ tư, đẩy mạnh việc nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng khoa học -
công nghệ, thực hiện thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa; tăng nhanh trang
bị kỹ thuật, đổi mới công nghệ sản xuất nông nghiệp và nông thôn, chuyển
giao công nghệ, kỹ thuật tiên tiến cho nông dân. Nhà nước hỗ trợ, tạo điều
kiện để đẩy mạnh sản xuất và sử dụng sản phẩm cơ khí phục vụ nông nghiệp,
đặc biệt là các máy móc, thiết bị vừa và nhỏ. Nâng cao dần trình độ công
nghệ chế biến, công nghệ sau thu hoạch. Lựa chọn và nhanh chóng tiếp thu
những công nghệ hiện đại, phương pháp quản lý tiên tiến ở những khâu,
những ngành then chốt, có ý nghĩa quyết định và tác động trực tiếp đến việc
đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ của nhiều ngành khác. Thúc đẩy phát
triển các ngành công nghiệp nông thôn theo sở trường, thế mạnh về năng lực
và bàn tay khéo léo của người Việt Nam, phù hợp với nhu cầu thị trường.
Công nghiệp và dịch vụ sẽ là những ngành kinh tế ngày càng chiếm vị trí
quan trọng và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong kinh tế nông thôn. Nhà
nước giúp đào tạo cán bộ khoa học, công nhân kỹ thuật, các nhà kinh doanh
cho nông nghiệp, nông thôn.
Thứ năm, chú trọng phát triển mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản cả
trong và ngoài nước. Làm cho cả nước trở thành một thị trường thống nhất,
phát triển sản xuất tăng sức mua của dân cư, củng cố hệ thống thương mại
nông thôn. Tạo ra một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực mà Việt Nam
có ưu thế và có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Đầu tư cho công tác
nghiên cứu thị trường, công tác tiếp thị và xúc tiến thương mại để mở rộng thị
trường xuất khẩu nông sản. Giữ vững và mở rộng thị trường đã tạo lập được,
đẩy mạnh việc tìm thị trường mới, đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ
thương mại quốc tế, giảm sự tập trung vào một vài đối tác và việc mua bán
qua thị trường trung gian nhằm tăng hiệu quả xuất khẩu và tạo được thị
trường ổn định.
43
Thứ sáu, tạo điều kiện, khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển
trong lĩnh vực nông nghiệp, ở địa bàn nông thôn. Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn phải gắn với chuyển đổi, xây dựng và phát triển
đa dạng các loại hình kinh tế hợp tác trên cơ sở tự nguyện của các hộ nông
dân theo hướng chuyển đổi hợp tác xã kiểu cũ thành hợp tác xã kiểu mới hoặc
thành lập các hợp tác xã kiểu mới làm dịch vụ sản xuất cho kinh tế hộ, như
dịch vụ kỹ thuật, bảo vệ thực vật, nhân giống và cung cấp giống; dịch vụ điện,
nước; dịch vụ làm đất; dịch vụ tài chính; dịch vụ thương mại, tiêu thụ sản
phẩm...
Nhân rộng các mô hình liên kết kinh tế hộ nông dân, các hình thức kinh
tế hợp tác và hợp tác xã, các nông trường, lâm trường, kinh tế trang trại gắn
với các doanh nghiệp chế biến và tiêu thụ, hỗ trợ hướng dẫn các thành phần
kinh tế khác hợp lực phát triển sản xuất hàng hóa quy mô lớn, có năng suất,
chất lượng, hiệu quả cao.
Thứ bảy, giải quyết các vướng mắc về chính sách và thể chế để tạo
động lực mới thúc đẩy kinh tế - xã hội nông thôn phát triển mạnh mẽ, vững
chắc, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, tăng
cường đoàn kết các tầng lớp cư dân nông thôn. Đề cao trách nhiệm và tính
năng động, sáng tạo của các địa phương và các ngành trong việc tạo thuận lợi
cho các hộ nông dân, các thành phần kinh tế trong nông thôn và mọi lực
lượng khác có nhu cầu và khả năng mạnh dạn đầu tư phát triển nông nghiệp,
công nghiệp, tiểu - thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn theo đúng pháp
luật.
Thứ tám, gắn quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn với thực
hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới. Coi việc
xây dựng nông thôn mới vừa là mục tiêu, yêu cầu của phát triển bền vững,
vừa là nhiệm vụ cấp bách, đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp CNH, HĐH
44
đất nước nói chung và CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Qua đó
tạo sự đồng thuận và sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, sự đồng
tâm, hiệp lực của toàn xã hội trong triển khai thực hiện. Các đoàn thể vận
động đoàn viên, hội viên tham gia hưởng ứng tích cực phong trào thi đua xây
dựng nông thôn mới, gắn phong trào thi đua với tiếp tục đẩy mạnh việc học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, với việc tiếp tục nâng cao
chất lượng Cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở
khu dân cư và các phong trào thi đua khác.
Tiểu kết Chƣơng 1
Nước ta hiện nay vẫn là một nước nông nghiệp với gần 60% dân cư
sống, lao động và sản xuất trong địa bàn nông thôn, do đó để đạt được mục
tiêu sớm đưa nước ta thành một nước công nghiệp và hiện đại chúng ta tất yếu
phải tiến hành sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Trong bối cảnh thế giới đã và đang tiến vào kỷ nguyên của nền kinh tế tri
thức, xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập diễn ra với tốc độ nhanh chóng đòi
hỏi sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn phải có sự đổi mới và phát
triển về chất. Để hoàn thành thắng lợi sự nghiệp này đòi hỏi nước ta phải có
một đội ngũ trí thức nông nghiệp đông đảo, một nguồn nhân lực chất lượng
cao trong lĩnh vực nông nghiệp. Với tư cách là bộ phận tinh hoa nhất, đội ngũ
trí thức, giảng viên công tác trong các trường đại học thuộc khối ngành nông
nghiệp như Học viện Nông nghiệp Việt Nam trong những năm qua đã trực
tiếp đóng góp rất lớn cho công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và phát triển
nông thôn.
45