ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
PHAN THỊ THU HIỀN
VẬN DỤNG PHƢƠNG PHÁP MÔ HÌNH HÓA TRONG DẠY HỌC ĐẠI SỐ LỚP 10 Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
THÁI NGUYÊN - 2015
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
PHAN THỊ THU HIỀN
VẬN DỤNG PHƢƠNG PHÁP MÔ HÌNH HÓA TRONG DẠY HỌC ĐẠI SỐ LỚP 10 Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Chuyên ngành: Lý luận và PPDH bộ môn Toán
Mã số: 60.14.01.11 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Danh Nam
THÁI NGUYÊN - 2015
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
các kết quả nghiên cứu là trung thực và chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2015
Tác giả luận văn
i Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Phan Thị Thu Hiền
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Danh Nam, người
thầy đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình làm luận văn.
Em xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, Khoa Toán, Phòng Đào tạo
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện thận lợi
cho em trong suốt quá trình học tập và làm luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, các GV tổ Toán, các em HS
khối 10 Trường THPT Ngô Quyền và Trường THPT Dương Tự Minh – TP.
Thái Nguyên đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình
thực nghiệm sư phạm.
Dù đã rất cố gắng, xong luận văn cũng không tránh khỏi những khiếm
khuyết, tác giả mong nhận được sự góp ý của các thầy, cô giáo và các bạn.
Tác giả
ii Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Phan Thị Thu Hiền
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................ ii
MỤC LỤC ................................................................................................................. iii
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT ................................................................. iv
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................... 3
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu ........................................................................ 3
4. Giả thuyết khoa học ................................................................................................ 3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................................. 3
6. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 4
7. Đóng góp của luận văn ............................................................................................ 4
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN .................................................... 6
1.1. Mô hình và phương pháp mô hình hóa ................................................................ 6
1.1.1. Khái niệm mô hình ............................................................................................ 6
1.1.2. Ứng dụng của Toán học trong thực tiễn .......................................................... 10
1.1.3. Phương pháp mô hình hóa .............................................................................. 13
1.2. Quy trình mô hình hóa ....................................................................................... 15
1.2.1. Giai đoạn 1: Toán học hóa ............................................................................... 19
1.2.2. Giai đoạn 2: Giải bài toán ............................................................................... 20
1.2.3. Giai đoạn 3: Thông hiểu bài toán .................................................................... 20
1.2.4. Giai đoạn 4: Đối chiếu thực tế ........................................................................ 21
1.3. Vai trò của phương pháp mô hình hóa trong dạy học môn toán ........................ 21
1.3.1. Tạo tình huống có vấn đề trong dạy học toán ................................................. 22
1.3.2. Làm sáng tỏ một số yếu tố toán học trong thực tiễn ....................................... 26
1.3.3. Hiểu được ý nghĩa của các số liệu thông kê từ thực tiễn ................................ 29
1.3.4. Phát triển các kĩ năng toán học ....................................................................... 31
1.4. Thực trạng vận dụng phương pháp mô hình hóa trong dạy học môn toán ở
trường THPT ............................................................................................................. 33
iii Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
1.4.1. Về bài toán có tính thực tiễn trong SGK môn Toán THPT ............................. 33
1.4.2. Thực trạng dạy học môn Toán theo hướng tăng cường liên hệ với thực tiễn ...... 37
1.5. Kết luận chương 1 .............................................................................................. 45
Chƣơng 2: THIẾT KẾ MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG MÔ HÌNH HÓA .................... 46
2.1. Nguyên tắc thiết kế mô hình toán học ................................................................ 46
2.1.1. Nguyên tắc 1: Đảm bảo tính khoa học của toán học ....................................... 46
2.1.2. Nguyên tắc 2: Làm rõ tính ứng dụng của toán học trong thực tiễn ................ 46
2.1.3. Nguyên tắc 3: Chú trọng rèn luyện kĩ năng giải quyết vấn đề ........................ 46
2.1.4. Nguyên tắc 4: Đảm bảo tính khả thi và tính vừa sức ...................................... 47
2.2. Thiết kế hoạt động m̞ hình hóa chủ đề hàm số ................................................... 48
2.2.1. Mô hình hàm số bậc nhất ................................................................................ 49
2.2.2. Mô hình hàm số bậc hai .................................................................................. 55
2.3. Thiết kế hoạt động mô hình hóa chủ đề phương trình và bất phương trình ....... 62
2.4. Xây dựng hệ thống bài tập mô hình hóa đại số lớp 10 ................................. 68
2.4.1. Hệ thống bài tập chủ đề “Hàm số bậc nhất và hàm số bậc hai” ..................... 69
2.4.2. Hệ thống bài tập chủ đề “Phương trình và bất phương trình” ........................ 79
2.5. Kết luận chương 2 .............................................................................................. 90
Chƣơng 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM .............................................................. 91
3.1. Mục đích thực nghiệm ....................................................................................... 91
3.2. Nội dung thực nghiệm ........................................................................................ 91
3.3. Tổ chức thực nghiệm .......................................................................................... 92
3.3.1. Đối tượng thực nghiệm ................................................................................... 92
3.3.2. Tiến trình thực nghiệm .................................................................................... 92
3.4. Phân tích kết quả thực nghiệm ........................................................................... 92
3.4.1. Phân tích định tính .......................................................................................... 92
3.4.2. Phân tích định lượng ....................................................................................... 95
3.5. Kết luận chương 3 .............................................................................................. 97
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 100
PHỤ LỤC
iv Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
Viết đầy đủ Viết tắt
Công nghệ thông tin CNTT
Đối chứng ĐC
Giải quyết vấn đề GQVĐ
Giáo viên GV
Học sinh HS
Mô hình hóa MHH
Sách giáo khoa SGK
Thực nghiệm TN
Trung học phổ thông THPT
iv Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Trang tr.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Toán học có liên hệ mật thiết với thực tiễn và có ứng dụng rộng rãi
trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau của khoa học, công nghệ cũng như trong
sản xuất và đời sống. Với vai trò đặc biệt, Toán học trở nên thiết yếu đối với
mọi ngành khoa học, góp phần làm cho đời sống xã hội ngày càng hiện đại và
văn minh hơn. Để theo kịp sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ,
chúng ta cần phải đào tạo những con người lao động có hiểu biết, có kĩ năng
và ý thức vận dụng những thành tựu của Toán học trong điều kiện cụ thể nhằm
mang lại những kết quả thiết thực. Mối liên hệ giữa toán học và thực tiễn đóng
vai trò quan trọng trong quá trình tạo động cơ và hình thành tri thức toán học
cho HS. Để làm sáng tỏ mối liên hệ này, HS cần hiểu và vận dụng những kiến
thức toán học đã học để giải thích, dự đoán, kiểm chứng và MHH các vấn đề
trong cuộc sống.
Xu hướng tăng cường tính thực tiễn trong dạy học Toán ở trường phổ
thông đóng vai trò rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển năng lực
cho HS. Liên hệ thực tiễn giúp HS học tập toán một cách tích cực, chủ động
và có ý nghĩa hơn. Để thực hiện được mục tiêu đó, người GV dạy toán cần có
năng lực vận dụng những khái niệm toán học ở trường phổ thông để thiết kế
và mô tả các mô hình toán học trong cuộc sống. Khả năng xây dựng mô hình
toán học từ tình huống thực tiễn được coi là cơ sở của việc “toán học hóa các
tình huống thực tiễn”. Thuật ngữ “toán học hóa” có nghĩa là sử dụng ngôn ngữ
toán học chuyển các vấn đề trong cuộc sống hàng ngày về dạng biểu diễn toán
học. Năng lực toán học hóa tình huống thực tiễn là tổng hợp của năng lực thu
nhận thông tin toán học từ tình huống thực tiễn; năng lực chuyển đổi thông tin
giữa thực tế cuộc sống, toán học và năng lực thiết lập mô hình toán học của
1
tình huống thực tiễn.
Trong dạy học toán ở trường phổ thông, mô hình được sử dụng có thể
là hình vẽ, bảng biểu, hàm số, đồ thị, phương trình, sơ đồ, biểu đồ, biểu tượng
hoặc mô hình ảo trên máy tính điện tử. MHH trong dạy học toán là phương
pháp giúp HS tìm hiểu, khám phá các tình huống nảy sinh từ thực tiễn bằng
công cụ và ngôn ngữ toán học với sự hỗ trợ của các phần mềm dạy học. Sử
dụng phương pháp này trong giảng dạy sẽ giúp GV phát huy được tính tích
cực học tập của HS, giúp HS có thể tự trả lời câu hỏi “Môn Toán có ứng dụng
gì trong thực tiễn và có vai trò gì trong việc giải thích các hiện tượng thực
tiễn?”. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc gợi động cơ học tập ngay từ đầu
cho HS.
Quá trình MHH các tình huống thực tiễn cho thấy mối quan hệ giữa
thực tiễn với các vấn đề trong SGK dưới góc nhìn của toán học. Do vậy, nó
đòi hỏi HS cần vận dụng thành thạo các thao tác tư duy toán học như phân
tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa. Ở trường phổ thông,
cách tiếp cận này giúp việc học toán của HS trở nên thiết thực và có ý nghĩa
hơn, tạo động cơ và niềm say mê học tập môn Toán. Những ứng dụng của
toán học vào thực tiễn trong chương trình và SGK, cũng như trong thực tế
dạy học Toán chưa được quan tâm một cách đúng mức và thường xuyên.
Trong các SGK môn Toán và các tài liệu tham khảo về Toán thường chỉ tập
trung chú ý những vấn đề, những bài toán trong nội bộ Toán học, số lượng ví
dụ, bài tập Toán có nội dung liên môn và thực tế trong các SGK Đại số
THPT để HS học và rèn luyện còn rất ít. Một vấn đề quan trọng nữa là trong
thực tế dạy học Toán ở trường phổ thông, GV không thường xuyên rèn luyện
cho HS thực hiện những ứng dụng của toán học vào thực tiễn. Ở Việt Nam,
chưa có nhiều nghiên cứu vận dụng phương pháp MHH trong dạy học toán.
Chương trình SGK và các phương pháp dạy học hiện nay vẫn chưa giúp HS
hiểu rõ về những ứng dụng của toán học trong thực tiễn. Vì vậy, kết quả của
2
đề tài có thể tạo ra một diễn đàn trao đổi về khả năng giảng dạy toán học ứng
dụng cũng như làm rõ mạch kiến thức về mối liên hệ giữa toán học với thực
tiễn trong chương trình môn Toán ở trường phổ thông.
Từ những lý do trên, chúng tôi đã chọn đề tài nghiên cứu của luận văn
là: “Vận dụng phương pháp mô hình hóa trong dạy học Đại số lớp 10 ở
trường trung học phổ thông”.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là vận dụng phương pháp MHH
trong việc dạy học Toán góp phần nâng cao hiệu quả dạy học môn Toán ở
trường THPT, giúp HS rèn luyện năng lực vận dụng kiến thức toán học để giải
quyết một số bài toán có nội dung thực tiễn.
3. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học môn Toán ở trường THPT và
quá trình sử dụng các kiến thức toán học mô tả các tình huống thực tiễn.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Phương pháp MHH trong dạy học môn Toán, quy
trình MHH, hệ thống bài tập MHH.
3.3. Phạm vi nghiên cứu: Lớp 10 ở trường THPT.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu thiết kế được hệ thống các tình huống và bài tập có nội dung thực tiễn,
vận dụng phương pháp MHH để tổ chức các hoạt động học tập thì sẽ hình thành
và phát triển năng lực MHH toán học cho HS, góp phần đổi mới phương pháp
dạy học môn Toán theo định hướng phát triển năng lực cho HS ở trường THPT.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu đặc điểm của phương pháp MHH vận dụng trong các tình
huống dạy học điển hình trong chương trình toán THPT.
5.2. Nghiên cứu đặc điểm của chương trình SGK Đại số lớp 10 theo định
hướng phát triển năng lực cho HS.
5.3. Xây dựng được một hệ thống bài tập có nội dung thực tiễn vận dụng
3
phương pháp MHH để sử dụng trong dạy Toán ở trường THPT.
5.4. Thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng giả thuyết khoa học và đánh giá
tính khả thi, hiệu quả của việc vận dụng phương pháp MHH trong dạy học
môn Toán ở trường THPT.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: Tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu trong và
ngoài nước về các vấn đề liên quan đến đề tài của luận văn.
6.2. Phương pháp điều tra, quan sát: Quan sát, điều tra thực trạng về việc vận
dụng phương pháp MHH trong dạy học môn Toán ở trường THPT qua các
hình thức: sử dụng phiếu điều tra, dự giờ, quan sát, nhật kí ghi chép, phỏng
vấn trực tiếp GV ở trường THPT.
6.3. Phương pháp nghiên cứu trường hợp: Phỏng vấn trực tiếp nhóm HS.
6.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Tổ chức dạy thực nghiệm tại một
số trường THPT để kiểm nghiệm tính khả thi và hiệu quả của nội dung
nghiên cứu được đề xuất.
6.5. Phương pháp sử dụng thống kê toán học trong xử lí số liệu thực nghiệm.
7. Đóng góp của luận văn
7.1. Những đóng góp về mặt lý luận
- Góp phần làm rõ thêm vai trò quan trọng của việc vận dụng phương
pháp MHH để giải quyết một số bài toán có nội dung thực tiễn.
- Đề xuất được những quan điểm cơ bản đối với việc thiết kế một số
tình huống MHH trong dạy học Toán và xây dựng hệ thống bài toán có nội
dung thực tiễn và đưa ra được những gợi ý, những chỉ dẫn về vận dụng
phương pháp MHH để giải quyết hệ thống bài tập đó.
7.2. Những đóng góp về mặt thực tiễn
- Nâng cao hiệu quả dạy và học nội dung Đại số lớp 10 ở trường THPT,
tăng cường tính ứng dụng thực tiễn của toán học trong chương trình môn Toán
4
ở trường THPT.
- Kết quả luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho GV và HS
trong quá trình giảng dạy và học tập môn Toán ở trường THPT.
- Làm cơ sở để phát triển những nghiên cứu sâu, rộng hơn về những vấn
đề có liên quan trong luận văn, trong đó có việc định hướng đổi mới chương
5
trình SGK môn Toán sau 2015.
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Mô hình và phƣơng pháp mô hình hóa
1.1.1. Khái niệm mô hình
Có nhiều quan niệm khác nhau về mô hình, dưới đây là một số định nghĩa:
- Khách thể M là mô hình của khách thể A đối với một hệ thống S các
đặc trưng nào đó, nếu M được xây dựng hoặc chọn để bắt chước A theo
những đặc trưng đó [19, tr.107].
- Mô hình là một “vật” hay “hệ thống” đóng vai trò đại diện hoặc vật thay
thế cho “vật” hay “ hệ thống vật” mà ta quan tâm nghiên cứu [24, tr.175].
- Mô hình là một hệ thống được hình dung trong óc hoặc được thực
hiện bằng vật chất phản ánh hay tái tạo lại đối tượng nghiên cứu [14, tr.124].
Tóm lại, mô hình là vật trung gian dùng để nghiên cứu đối tượng (vật
gốc) nhằm hướng tới mục đích nhất định nào đó.
Như vậy, mô hình có một số đặc trưng sau đây:
- Mô hình là vật đại diện, vật trung gian cho sự nghiên cứu, nên mô
hình phải bảo toàn được các mối quan hệ cơ bản của vật gốc (tính chất nào là
cơ bản do con người quan niệm). Bởi vậy, mô hình phải đồng cấu hay đẳng
cấu với vật gốc. Mô hình đẳng cấu (đồng cấu) với vật gốc theo nghĩa: đồng
nhất hoàn toàn về mặt cấu trúc (đồng nhất những tính chất và những mối quan
hệ chủ yếu). Tính chất này cho phép con người xây dựng những mô hình đơn
giản hơn vật gốc. Vì thế mô hình bao giờ cũng “nghèo nàn” hơn hiện thực mà
nó mô tả và mô hình có thể là “thô thiển và chưa hoàn thiện”, song nó phải
xét đến khía cạnh chính của thực tế, những khía cạnh mà chúng ta quan tâm
tới. Tuy nhiên không phải bao giờ mô hình cũng đơn giản hơn vật gốc. Ngày
nay, với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, con người sử dụng nhiều phương
6
tiện hiện đại để mô phỏng đối tượng nghiên cứu, cho nên mô hình có thể phức
tạp hơn vật gốc, đồng thời nó có thể dự báo được những hiện tượng có thể
xảy ra trong thực tiễn.
- Đứng về mặt nhận thức, mô hình là sản phẩm của quá trình tư duy, nó
ra đời nhờ quá trình trừu tượng hóa của ít nhiều các đối tượng cụ thể. Trong
quá trình trừu tượng hóa, con người đã vứt bỏ những dấu hiệu không bản
chất, chỉ giữ lại những thuộc tính bản chất; hay nói cách khác, đối tượng
nghiên cứu đã được lí tưởng hóa. Bởi vậy, mô hình mang tính lí tưởng, tính
chất này cho phép con người sáng tạo ra trên đó những yếu tố chưa hề có
trong thực tiễn. Điều này đã làm cho phương pháp MHH có tính chất cách
mạng, có tính phát triển. Do đó, quá trình xây dựng mô hình là một quá trình
nhận thức khoa học tích cực.
- Mô hình không thể thay thế hoàn toàn vật gốc. Một mô hình chỉ phản
ánh đến một mức độ nào đó, một vài mặt nào đó của vật gốc. Để nghiên cứu
các sự vật hiện tượng phức tạp, người ta dùng nhiều mô hình để mô tả chúng.
Tuy nhiên để lắp ráp chúng lại để có một sự đánh giá tổng quát về đối tượng
ban đầu không phải là một việc đơn giản.
- Thực tiễn cuộc sống luôn vận động và biến đổi, bởi vậy mô hình
không phải là cái bất biến. Phát triển mô hình ở mức độ thấp lên mức độ cao
hơn đòi hỏi phải phát hiện được tính quy luật chung của các nhóm mô hình
của các quá trình cụ thể, trong đó mô hình tổng quát hơn phải tương thích với
các mô hình cụ thể trước đó. Một mô hình có thể là chưa thành công về nhiều
phương diện nhưng nó vẫn có vai trò quan trọng trong việc phán đoán tình
huống thực tiễn.
- Đặc điểm quan trọng của mô hình toán học là sử dụng ngôn ngữ toán
học để mô tả hiện thực khách quan. Nguyễn Cảnh Toàn cho rằng: mô hình
toán học khác các mô hình trong các khoa học khác ở chỗ nó bỏ qua các
thuộc tính về “chất” mà chỉ cần một ngôn ngữ nào đó chính xác để diễn tả
đúng những quan hệ số lượng cơ bản, từ đó có thể suy ra quan hệ số lượng
7
khác [12].
Mô hình được mô tả như một vật dùng thay thế mà qua đó ta có thể
thấy được các đặc điểm đặc trưng của các vật thể thực tế (Mason & Davis
,1991). Thông qua mô hình, ta có thể thao tác và khám phá các thuộc tính của
đối tượng mà không cần đến vật thật. Tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc vào
ý đồ của người thiết kế mô hình và bối cảnh áp dụng của mô hình đó (Swetz
& Hatler, 1991; Verschaffel, 2002). Mô hình toán học là một mô hình trừu
tượng sử dụng ngôn ngữ toán học để mô tả về một hệ thống nào đó. Mô hình
toán học được sử dụng nhiều trong các ngành khoa học tự nhiên và chuyên
ngành kĩ thuật (ví dụ Vật lý, Sinh học, và Kĩ thuật điện tử) đồng thời trong
cả khoa học xã hội (như Kinh tế, Xã hội học và Khoa học chính trị) [7].
Ví dụ 1.1. (Mô hình gia tăng dân số của Maithus) Giả sử tỷ lệ người
sinh ra là b và tỷ lệ người chết là d; b và d đều là những hằng số, thì tỷ lệ gia
tăng dân số là cũng là một hằng số. Giả sử thời kỳ đầu ( ) dân số
là , thì dân số tại thời điểm t là cũng chính là nói dân số tăng
theo cấp số nhân. So sánh với những số liệu về dân số đã thống kê được trước
thế kỷ 19 thì sự gia tăng dân số ở một số vùng châu Á tương đối phù hợp với
mô hình của Maithus, nhưng đa số trường hợp lại đi rất xa mô hình này. Vì
thế, mô hình này không hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tế. Bởi vì nó đã
không tính đến việc cùng với sự gia tăng của dân số thì môi trường, nguồn tài
nguyên thiên nhiên,… chỉ hạn chế trong một giới hạn. Dân số quá đông dẫn
tới sự thiếu hụt lương thực, chỗ ở chật hẹp, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng
và các vấn đề khác nữa, từ đó dẫn tới sự giảm của tỷ lệ sinh và sự tăng lên của
tỷ lệ chết [4].
Ví dụ 1.2. (Mô hình mô tả hành vi của khách hàng) Khách hàng
mong muốn mua nhiều nhất các mặt hàng với số tiền hiện có. Trong mô hình
này, ta xem xét trường hợp một khách hàng phải lựa chọn để mua trong
số n mặt hàng được đánh nhãn 1, 2, ..., n, mỗi thứ có giá là p1, p2,..., pn. Giả
8
thiết rằng khách hàng có một hàm tiện ích U với mục đích là gán một giá trị
(tương ứng cho số lượng) với mỗi mặt hàng mà khách hàng định
mua x1, x2,..., xn. Mô hình còn giả thiết là khách hàng sở hữu số tiền giá
trị M dùng để mua các mặt hàng và mục đích là cực đại U(x1, x2,..., xn). Bài
toán cần giải quyết về mô hình hành vi của khách hàng trở thành bài toán tối
ưu hóa, nghĩa là: thỏa mãn: và
. Mô hình này được sử dụng trong lý thuyết cân bằng
chung, đặc biệt dùng để chứng minh sự tồn tại và tối ưu hóa Pareto của cân
bằng kinh tế. Tuy nhiên, việc sử dụng mô hình này gán giá trị số để phân mức
thỏa mãn của khách hàng vẫn là vấn đề tranh cãi [4].
Ví dụ 1.3. (Mô hình chuyển động của chất lỏng) Phương trình
chuyển động của chất lỏng không nén được biểu diễn bằng hệ phương
trình Navier-Stokes như sau:
Trong đó v là hệ số nhớt động, là tốc độ của các phần tử chất lỏng, p
là áp suất của môi trường và là mật độ của dòng chất lỏng. Kết hợp với
phương trình liên tục dành cho chất lỏng không nén như sau:
Và điều kiện biên: Trong đó là tốc độ của hạt chất lỏng trên
bề mặt vật thể, là điều kiện biên [4].
Tóm lại, trong dạy học môn Toán ở trường phổ thông, mô hình được sử
dụng có thể là hình vẽ, bảng biểu, hàm số, đồ thị, phương trình, sơ đồ, biểu đồ,
biểu tượng hoặc mô hình ảo trên máy tính điện tử (Van Den Heuvel &
Panhuizen, 2003; Van De Walle, 2004 ). MHH trong dạy học toán là phương
pháp giúp HS tìm hiểu, khám phá các tình huống nảy sinh từ thực tiễn bằng công
cụ và ngôn ngữ toán học với sự hỗ trợ của các phần mềm toán học. Sử dụng
9
phương pháp này trong giảng dạy sẽ giúp GV phát huy được tính tích cực học
tập của HS, giúp HS có thể tự trả lời câu hỏi “Môn Toán có ứng dụng gì trong
thực tiễn và có vai trò gì trong việc giải thích các hiện tượng thực tiễn?”. Điều
này có ý nghĩa rất lớn trong việc gợi động cơ học tập ngay từ đầu cho HS [7].
1.1.2. Ứng dụng của Toán học trong thực tiễn
1.1.2.1. Toán học có nguồn gốc thực tiễn
Toán học là môn học có tính trừu tượng cao. Theo [3, tr.35] tính trừu
tượng của toán học và của môn Toán trong nhà trường phổ thông do chính đối
tượng của toán học quy định. Theo Ăng – ghen, “Đối tượng của toán học
thuần túy là những hình dạng không gian và những quan hệ số lượng của thế
giới khách quan” . Hình dạng không gian có thể hiểu không phải chỉ trong
không gian thực tế ba chiều mà còn cả trong những không gian trừu tượng
khác nữa như không gian có số chiều là n hoặc vô hạn, không gian mà phần
tử là những hàm liên tục, … Quan hệ số lượng không chỉ bó hẹp trong phạm
vi tập hợp các số mà được hiểu như những phép toán và tính chất của chúng
trên những tập hợp có các phần tử là những đối tượng loại tùy ý như ma trận,
tập hợp, mệnh đề, phép biến hình,…
Tuy nhiên, Toán học có nguồn gốc từ thực tiễn nên tính trừu tượng chỉ
che lấp chứ không hề làm mất đi tính thực tiễn của nó. Theo [4, tr.62] thì liên
hệ với thực tiễn trong quá trình dạy học Toán là một trong ba phương hướng
thực hiện nguyên lí giáo dục. Cụ thể là:
- Nguồn gốc thực tiễn của Toán học: Số tự nhiên ra đời do nhu cầu
đếm, hình học xuất hiện do nhu cầu đo đạc lại ruộng đất sau những trận lụt
bên bờ sông Nile (Ai Cập),…
- Sự phản ánh thực tiễn của Toán học: Khái niệm véctơ phản ánh
những đại lượng đặc trưng không phải chỉ bởi bằng số đo mà còn bởi hướng,
chẳng hạn vận tốc, lực,… khái niệm đồng dạng phản ánh những hình cùng
hình dạng nhưng khác nhau về độ lớn,… Trong Toán học có những chứng
minh thuận, chứng minh đảo thì trong cuộc sống ta thường khuyên nhau:
10
“nghĩ đi rồi phải nghĩ lại”, “có qua có lại”, “sống phải có trước có sau”,…
- Các ứng dụng thực tiễn của Toán học: Ứng dụng lượng giác để đo
khoảng cách không tới được, đạo hàm ứng dụng để tính vận tốc tức thời, tích
phân để tính thể tích, diện tích, …
1.1.2.2. Toán học có ứng dụng thực tiễn
Toán học nghiên cứu những mối quan hệ về số lượng và hình dạng
trong không gian của thế giới khách quan. Toán học có vai trò rất quan trọng
và được ứng dụng trong rất nhiều lĩnh vực của khoa học tự nhiên, khoa học xã
hội, công nghệ, kinh tế, y học, vật lý, thiên văn học, quân sự,…
Ví dụ 1.4. (Trong quân sự) Pháo là một loại vũ khí không thể thiếu
trong chiến tranh, nó cơ động, có sức sát thương lớn và tầm hoạt động lên tới
hàng chục ki-lô-mét. Lần sử dụng pháo với đạn đẩy bằng thuốc nổ trên chiến
trường đã được ghi lại lần đầu là vào ngày 28 tháng 1 năm 1132 khi
tướng Hàn Thế Trung của Nam Tống dùng thang mây và hoả pháo để đánh
thành Kiến Châu (nay là Kiến Âu). Loại vũ khí nhỏ thô sơ này đã du nhập vào
vùng Trung Đông rồi đến châu Âu vào thế kỷ thứ 13. Trải qua nhiều thế kỷ,
các nhà khoa học kỹ thuật đã không ngừng cải tiến các khẩu pháo cả về tầm
bắn, tính chính xác lẫn sức công phá. Với sự phát triển của Toán học, người ta
đã viết được phương trình bay của viên đạn sau khi ra khỏi nòng pháo:
trong đó là vận tốc khi viên đạn ra khỏ nòng pháo
và là góc mà nòng pháo tạo với phương nằm ngang.
Ví dụ 1.5. (Trong thiên văn) Đã từ rất lâu, các nhà khoa học đã phát
hiện ra các hành tinh trong hệ mặt trời chuyển động theo một quỹ đạo nhất
định, và các nhà thiên vãn tin rằng quỹ đạo các hành tinh là một hình tròn
hoàn hảo. Những tính toán chi tiết từ dữ liệu quan sát của quỹ đạo Sao
Hỏa lần đầu tiên cho Kép-lê thấy quỹ đạo của nó phải là hình elíp thì mới phù
hợp với dữ liệu quan sát, và từ đây ông suy luận tương tự cho các hành tinh
khác quay quanh Mặt trời cũng phải có quỹ đạo hình elíp. Ba định luật Kép-lê
11
(1609 - 1619) và kết quả phân tích dữ liệu quan sát của ông là một thách thức
lớn cho mô hình địa tâm của A-rít-tốt và Ptô-lê-mê đã được chấp thuận từ rất
lâu, và ủng hộ cho mô hình nhật tâm của Cô-péch-ních (mặc dù quỹ đạo elíp
theo Kép-lê khác với các quỹ đạo tròn theo Cô-péch-ních), bằng chứng
tỏ Trái đất quay quanh Mặt trời, vận tốc của các hành tinh trên quỹ đạo là
biến đổi, và quỹ đạo có đường elíp hơn là đường tròn.
Ví dụ 1.6. (Trong hội họa – kiến trúc) Tờ báo mà bạn đọc, màn hình vi
tính, thẻ tín dụng, cánh hoa, lá cây, toà nhà cao ốc – tất cả mọi thứ đều được
tạo lập dựa trên một nguyên tắc, một tỷ lệ, một giá trị cân đối. Dường như vũ
trụ đang tiết lộ với chúng ta về một mật mã ẩn chứa trong mọi khía cạnh của
tự nhiên – một mật mã độc đáo và mang đầy tính nghệ thuật: đó là con số của
tỷ lệ vàng – một tỉ lệ hoàn hảo. Trong một cuộc thực nghiệm gần đây nghiên
cứu một số cá thể từ các dân tộc khác nhau đã cho thấy rằng: trong số những
số đo khác nhau của hình chữ nhật, thì hầu hết mọi người đều đồng ý với một
con số cân đối nhất. Con số hoàn hảo nhất được hình thành khi tỷ lệ giữa cạnh
lớn hơn với cạnh nhỏ hơn xấp xỉ 1,618 – trong toán học con số này được gọi
là “vàng”. Tỷ lệ các cạnh hình chữ nhật này có mặt trong hàng ngàn công
trình kiến trúc trên khắp thế giới, cũng như là trong các hộp diêm, danh thiếp,
những cuốn sách, và hàng trăm vật dụng hàng ngày khác, đơn giản bởi vì con
người cảm thấy nó phù hợp. Kim tự tháp Giza, kim tự tháp Cheops, trụ sở
Liên Hiệp Quốc tại New York, và nhà thờ Đức Bà Paris là những dẫn chứng
điển hình cho việc ứng dụng tỷ lệ vàng. Trên thực tế, đền thờ Panthenon có
rất nhiều chi tiết ứng dụng tỷ lệ này.
12
Đền Parthenon (Athens) Nàng Mona Lisa
Các thí dụ từ hình chữ nhật cho tới hình xoắn ốc tuân theo tỷ lệ vàng
(hình tạo thành bằng cách nối các đỉnh của các hình chữ nhật vẽ theo tỷ lệ
vàng đặt chồng lên nhau) có thể tìm thấy ở khắp mọi nơi: sừng của con cừu,
khoáng vật, xoáy nước, cơn lốc, vân tay, cánh hoa hồng, những đài hoa đồng
tâm của cây súp-lơ hay hoa hướng dương, chim muông, côn trùng, cá, dải
ngân hà, hay một số dải thiên hà khác như dải M51 ngay cạnh dải ngân hà của
chúng ta… thậm chí cả con ốc sên. Một con ốc thật đẹp và thật hoàn hảo như
ốc Anh Vũ chắc chắn phải có sự kết hợp thật tài tình với tỷ lệ vàng. Rất nhiều
loài cây cũng thể hiện mối liên hệ với tỷ lệ vàng trong độ dày giữa giữa cành
thấp với cành cao.
Tóm lại, Toán học có ứng dụng to lớn trong thực tiễn cũng như trong
sự phát triển của các ngành khoa học kỹ thuật, nó là điều kiện thiết yếu để
phát triển lực lượng sản xuất. Việc vận dụng Toán học vào thực tiễn thực chất
là vận dụng Toán học vào giải quyết một tình huống thực tế, tức là dùng
những công cụ Toán học thích hợp để tác động, nghiên cứu khách thể nhằm
mục đích tìm một phần tử chưa biết nào đó, dựa vào một số phần tử cho trước
trong khách thể hay để biến đổi, sắp xếp những yếu tố trong khách thể, nhằm
đạt một mục đích đề ra [4].
1.1.3. Phương pháp mô hình hóa
Phương pháp MHH trong dạy học Toán ở trường phổ thông được chú
trọng nghiên cứu khoảng một thập kỉ gần đây (Blum, Galbraith, Henn &
Niss, 2002). Phương pháp này giúp HS giải quyết các bài toán thực tiễn
bằng phương pháp toán học, từ đó hiểu sâu và nắm chắc các kiến thức toán
học. MHH là một quá trình khép kín (English, 2007), bắt đầu từ việc
chuyển các vấn đề thực tiễn sang các vấn đề toán học, sử dụng toán học để
hiểu, đánh giá, chọn lọc và cải tiến mô hình cho phù hợp với thực tiễn.
Hoạt động MHH gắn kết giữa không gian lớp học với các vấn đề của thế
13
giới bên ngoài (Zbiek & Conner, 2006; Stillman, 2009). Nó giúp HS phát
triển các kĩ năng hợp tác và nhận thức ở mức độ cao (Tanner & Jones,
2002; McClure & Sircar, 2008). GV nên phát triển các loại bài tập gắn với
hoạt động MHH như: các bài tập ở dạng điều tra số liệu, khảo sát thực tế
các vấn đề nảy sinh tại địa phương, phân tích các tin tức trên báo chí, số
liệu trong SGK hoặc trên mạng internet [7].
Đối với cấp tiểu học, phương pháp MHH thường được sử dụng để giải
quyết lớp các bài toán có lời văn. Mô hình thường là được biểu diễn dưới
dạng biểu tượng như hình chữ nhật, hình thang, hình tròn,… Tuy nhiên, hoạt
động MHH không thể hiện một cách rõ ràng ở bậc tiểu học. Van de Walle
(2004) cho rằng mô hình diễn tả các khái niệm toán học và mối quan hệ giữa
các khái niệm đó có thể là đồ vật, bức tranh hay hình vẽ cụ thể giống như việc
sử dụng các khối hình chữ nhật để biểu diễn các phân số bằng nhau. Quá trình
MHH đòi hỏi hoạt động nhóm, hợp tác và thảo luận để có thể tập hợp, liên kết
các lập luận của thành viên trong nhóm [13].
Đối với cấp trung học, HS tiếp cận với khối lượng tri thức lớn hơn, các
chủ đề rộng hơn. Bài tập toán thường được chia thành ba loại: sử dụng mối
quan hệ giữa các bộ môn Toán học, giải quyết các vấn đề thực tiễn dưới dạng
các vấn đề toán học thuần túy và giải quyết các vấn đề thực tiễn phải sử dụng
các kiến thức toán học. HS cần phải linh hoạt trong việc giải hai dạng bài toán
đầu tiên, đó là bài toán ứng dụng toán học. Từ đó, chuẩn bị cho việc tiếp cận
dạng bài toán thứ ba là giải toán thực tế thông qua mô phỏng và MHH [13].
Chúng ta cần làm rõ dạy học MHH và dạy học bằng MHH. Để nâng
cao năng lực hiểu biết toán cho HS, không thể coi nhẹ việc dạy học cách thức
xây dựng mô hình toán học để giải quyết một vấn đề nào đó do thực tiễn đặt
ra. Đối với các nhà toán học, mô hình ấy thường là chưa tồn tại, hoặc đã tồn
tại nhưng không cho phép giải quyết mọi trường hợp, hay ngược lại, không
mang đến lời giải tối ưu cho một lớp các trường hợp đặc biệt nào đó. Việc tìm
14
ra mô hình mới của họ thường dẫn đến một phát minh mới (một khái niệm,
một định lý mới). Song đối với GV thì mô hình ấy đã tồn tại. Điều đó dẫn đến
chỗ việc dạy học có thể được tổ chức theo hai tiến trình (trình bày theo [1]):
- Trình bày tri thức toán học lý thuyết (giới thiệu định nghĩa khái niệm
hay định lý, công thức).
- Vận dụng tri thức vào việc giải quyết các bài toán thực tiễn, ở đó phải
xây dựng mô hình toán học: Xuất phát từ một vấn đề thực tiễn; Xây dựng mô
hình toán học; Câu trả lời cho bài toán thực tiễn; Thể chế hóa tri thức cần
giảng dạy bằng cách nêu định nghĩa hay định lý, công thức; Vận dụng vào
giải các bài toán thực tiễn khác mà tri thức đó cho phép xây dựng một mô
hình toán học phù hợp.
Tiến trình dạy học thứ nhất, gọi là dạy học MHH, tiết kiệm được thời
gian nhưng lại làm mất đi nguồn gốc thực tiễn của các tri thức toán học, và do
đó làm mất nghĩa của tri thức. Hơn nữa, trong trường hợp này, một cách rất tự
nhiên HS sẽ không lưỡng lự gì và hướng ngay đến việc xây dựng một mô
hình toán học phù hợp với tri thức vừa đưa vào. Liệu vượt ra khỏi bối cảnh
ấy, họ có thể xây dựng được mô hình toán học phù hợp hay không?
Tiến trình thứ hai, bản chất là dạy học toán thông qua dạy học MHH, cho
phép khắc phục khiếm khuyết này. Ở đây tri thức cần giảng dạy sẽ hình thành từ
quá trình nghiên cứu các vấn đề thực tiễn, nảy sinh với tư cách là kết quả hay
phương tiện giải quyết vấn đề. Người ta gọi đây là dạy học bằng MHH.
Với những điểm lý luận vừa trình bày trên thì rõ ràng dạy học bằng
MHH và dạy học MHH là một con đường để nâng cao năng lực hiểu biết toán
học cho HS. Như vậy, để đạt được mục đích dạy học toán thì cần thiết phải
tính đến vấn đề MHH trong dạy học.
1.2. Quy trình mô hình hóa
MHH các tình huống thực tiễn trong dạy học toán có thể sử dụng các
15
công cụ và ngôn ngữ toán học phổ biến như công thức, thuật ngữ, phương
trình, bảng biểu, biểu tượng, đồ thị, kí hiệu,… Vì thế nó cần tuân theo quy
trình gồm 4 giai đoạn chính sau đây (trình bày theo Swetz và Hartzler, 1991):
1. Giai đoạn 1: Quan sát hiện tượng thực tiễn, phác thảo tình huống và
phát hiện các yếu tố có tác động đến vấn đề đó.
2. Giai đoạn 2: Lập giả thuyết về mối quan hệ giữa các yếu tố sử dụng
ngôn ngữ toán học, từ đó phác họa mô hình toán học tương ứng.
3. Giai đoạn 3: Áp dụng các phương pháp và công cụ toán học phù
hợp để MHH bài toán và phân tích mô hình.
4. Giai đoạn 4: Thông báo kết quả, đối chiếu mô hình với thực tiễn và
đưa ra kết luận.
Quá trình GQVĐ và MHH có những đặc điểm tương tự nhau giúp rèn
luyện cho HS những kĩ năng toán học cần thiết. Do đó, chúng hỗ trợ và bổ
sung cho nhau. Quy trình này được xem là khép kín vì nó được dùng để mô tả
các tình huống nảy sinh từ thực tiễn và kết quả của nó lại được dùng để giải
thích và cải thiện các vấn đề trong thực tiễn (English, 2007). Có thể minh họa
Quan sát, hiểu và xây dựng mô hình
Tình huống thực tiễn
Mô hình toán học
Áp dụng
Phân tích
Hiểu và thông dịch
Kết luận, Thông báo
Kết luận toán học
quy trình trên bằng sơ đồ khép kín dưới đây:
16
Hình 1.1: Quy trình mô hình hóa khép kín
Để vận dụng linh hoạt quy trình trên, trong quá trình dạy học toán, GV
cần giúp HS nắm được các yêu cầu cụ thể của từng bước sau đây trong quá
trình MHH các bài toán:
- Bƣớc 1 (Toán học hóa): Hiểu vấn đề thực tiễn, xậy dựng các giả
thuyết để đơn giản hóa vấn đề, mô tả và diễn đạt vấn đề bằng các công cụ
và ngôn ngữ toán học.
- Bƣớc 2 (Giải bài toán): Sử dụng các công cụ và phương pháp toán
học thích hợp để giải quyết vấn đề hay bài toán đã được toán học hóa.
- Bƣớc 3 (Thông hiểu): Hiểu ý nghĩa lời giải của bài toán đối với tình
huống trong thực tiễn (bài toán ban đầu).
- Bƣớc 4 (Đối chiếu): Xem xét lại các giả thuyết, tìm hiểu các hạn chế
của mô hình toán học cũng như lời giải của bài toán, xem lại các công cụ và
phương pháp toán học đã sử dụng, đối chiếu thực tiễn để cải tiến mô hình đã
xây dựng.
Tóm lại, tuân theo quy trình và các bước cụ thể trên, HS cần xuất phát
từ tình huống thực tiễn, diễn đạt vấn đề thực tiễn trên bằng lời (lập giả thuyết,
công thức, phương trình,…); sau đó sử dụng công cụ toán học để giải bài toán
và hiểu ý nghĩa của lời giải bài toán đối với thực tiễn. Cuối cùng, HS xem xét
lại mô hình (hoặc chấp nhận mô hình), diễn đạt lại bài toán ban đầu (hoặc
thông báo kết quả) và tìm hiểu những hạn chế và khó khăn có thể gặp phải khi
áp dụng kết quả của bài toán vào tình huống thực tiễn.
Tuy nhiên, trong thực tế dạy học, quy trình MHH ở trên luôn tuân theo
một cơ chế điều chỉnh phù hợp nhằm làm đơn giản hóa và làm cho vấn đề trở
nên dễ hiểu hơn đối với HS ở trường phổ thông [13]. Cơ chế điều chỉnh này
17
thể hiện mối liên hệ mật thiết giữa toán học với các vấn đề trong thực tiễn:
Hình 1.2: Cơ chế điều chỉnh quá trình MHH
Từ cơ chế điều chỉnh quá trình MHH, chúng tôi đề xuất các bước tổ
chức hoạt động MHH trong dạy học môn Toán như sau:
- Bƣớc 1: Tìm hiểu, xây dựng cấu trúc, làm sáng tỏ, phân tích, đơn giản
hóa vấn đề, xác định giả thuyết, tham số, biến số trong phạm vi của vấn đề
thực tế.
- Bƣớc 2: Thiết lập mối liên hệ giữa các giả thuyết khác nhau đã đưa ra.
- Bƣớc 3: Xây dựng bài toán bằng cách lựa chọn và sử dụng ngôn ngữ
toán học mô tả tình huống thực tế cũng như tính toán đến độ phức tạp của nó.
- Bƣớc 4: Sử dụng các công cụ toán học thích hợp để giải bài toán.
- Bƣớc 5: Hiểu được lời giải của bài toán, ý nghĩa của mô hình toán
học trong hoàn cảnh thực tế.
- Bƣớc 6: Kiểm nghiệm mô hình (ưu điểm và hạn chế), kiểm tra tính
hợp lý và tối ưu của mô hình đã xây dựng.
- Bƣớc 7: Thông báo, giải thích, dự đoán, cải tiến mô hình hoặc xây
18
dựng mô hình có độ phức tạp cao hơn sao cho phù hợp với thực tiễn.
Hình 1.3: Các bước tổ chức hoạt động mô hình hóa
CNTT có thể giúp làm thu hẹp khoảng cách trong nhận thức của HS về quá
trình MHH. Các phần mềm toán học (như phần mềm tính toán đại số, phần mềm
hình học động, phần mềm thống kê), bảng tính điện tử hay thậm chí cả máy tính
bỏ túi sẽ giúp HS tạo ra mô hình để tìm hiểu, khám phá thuộc tính của các khái
niệm, đối tượng toán học trong chương trình toán ở trường phổ thông và ở trường
đại học (Beare, 1996; Ferrucci & Carter, 2003; Chua & Wu, 2005). Đối với cùng
một vật thật, mỗi HS có thể tạo ra những mô hình khác nhau với sự hỗ trợ của
CNTT. Đây là nhân tố giúp tổ chức các hoạt động MHH theo nhóm phong phú và
hiệu quả hơn. Đặc biệt, với sự xuất hiện của các thiết bị học tập di động như điện
thoại di động, máy tính bỏ túi, PDA với các chức năng hỗ trợ quá trình MHH sẽ
giúp HS học tập theo nhóm dựa trên các tình huống thực tiễn [25].
1.2.1. Giai đoạn 1: Toán học hóa
Toán học đã xâm nhập vào cuộc sống đời thường, trong lao động sản
xuất và trong nghiên cứu của mọi ngành khoa học, đó là quá trình toán học
hóa các vấn đề thực tiễn. Theo Hans Freudenthal: “Toán học hóa dẫn thế giới
của cuộc sống về thế giới của các kí hiệu…” [21, tr.41]. Ông cũng cho rằng:
“Tiên đề hóa, công thức hóa, sơ đồ hóa được xem là tiền đề của thuật ngữ
„toán học hóa‟, trong đó tiên đề hóa là thuật ngữ chính đầu tiên xuất hiện
trong ngữ cảnh của toán học‟‟. Thuật ngữ “toán học hóa” thường được dùng
19
trong các cuộc thảo luận của các nhà khoa học trước khi đưa ra trong các văn
bản chính thức. Bởi vậy, thuật ngữ này ra đời một cách tự nhiên và khó xác
định được ai đã sử dụng nó lần đầu tiên và xuất hiện từ thời điểm nào. Trong
[13], [27], tuy không giải nghĩa thuật ngữ này một cách tường minh nhưng
khi bàn đến quá trình toán học hóa thì trọng tâm nhất mà tác giả đề cập đến là
việc xây dựng mô hình toán học cho các tình huống thực tế. Trong [13, tr.97],
tác giả cho rằng: “Khả năng xây dựng mô hình toán học của một tình huống
thực tế, được coi là cơ sở của việc toán học hóa các tình huống thực tế”. Từ
đó có thể hiểu quá trình toán học hóa vấn đề thực tế là quá trình đưa vấn đề đó
về dạng toán học.
Đối với HS THPT, hoạt động toán học hóa các vấn đề thực tế diễn ra
khi HS đối mặt với các tình huống thực tiễn có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc
sống cá nhân. Các em HS phải nỗ lực chuyển những tình huống này về dạng
toán học phổ thông để giải quyết, phục vụ cho hoạt động thực tiễn của bản
thân mình. Tuy nhiên, việc vận dụng này lại mang tính chất gián tiếp. Cụ thể
là trước tình huống đối mặt trong cuộc sống, các em phải liên tưởng tới những
tri thức toán học phù hợp để từ đó đặt ra được bài toán và tìm cách giải quyết
nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình.
1.2.2. Giai đoạn 2: Giải bài toán
Sử dụng các công cụ và phương pháp toán học thích hợp để giải bài
toán, bao gồm cả sự hỗ trợ của CNTT. Yêu cầu HS lựa chọn, sử dụng các
phương pháp và công cụ toán học thích hợp để thành lập và giải quyết vấn đề
sử dụng ngôn ngữ toán học. Ở giai đoạn này CNTT sẽ hỗ trợ HS phân tích dữ
liệu, thực hiện tính toán phức tạp và đưa ra đáp số của bài toán.
1.2.3. Giai đoạn 3: Thông hiểu bài toán
Hiểu lời giải của bài toán đối với tình huống trong thực tiễn (bài toán
ban đầu). Hiểu được ý nghĩa lời giải của bài toán trong thực tiễn, trong đó cần
nhận ra những hạn chế và khó khăn có thể có khi áp dụng kết quả này vào các
20
tình huống thực tiễn.
1.2.4. Giai đoạn 4: Đối chiếu thực tế
Xem xét lại các giả thuyết, tìm hiểu các hạn chế của mô hình toán học
cũng như lời giải của bài toán, xem lại các công cụ và phương pháp toán học
đã sử dụng, đối chiếu thực tiễn để cải tiến mô hình đã xây dựng. Đây là giai
đoạn đòi hỏi HS có hiểu biết rõ về các công cụ toán học cũng như việc sử
dụng nó để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống. Từ đó, xem lại các
phương pháp và công cụ toán học đã sử dụng; xem lại các giả thuyết, hạn chế
của mô hình và tiến tới cải tiến mô hình cũng như lời giải của bài toán.
1.3. Vai trò của phƣơng pháp mô hình hóa trong dạy học môn toán
MHH là phương pháp xây dựng và cải tiến một mô hình toán học nhằm
diễn đạt và mô tả các bài toán thực tiễn. Qua các nghiên cứu thực nghiệm, các
nhà giáo dục toán học đã nhận ra được tầm quan trọng của phương pháp
MHH trong quá trình dạy học toán ở trường phổ thông (Smith & Wood, 2001;
Vasco, 1999; Martinez-Luacles, 2005; Carrejo & Marshall, 2007). Phương
pháp này giúp HS làm quen với việc sử dụng các loại biểu diễn dữ liệu khác
nhau; giải quyết các bài toán thực tiễn bằng cách lựa chọn và sử dụng các
công cụ, phương pháp toán học phù hợp. Qua đó, giúp HS hiểu sâu và nắm
chắc các kiến thức toán học. Lesh & Zawojewski (2007) khẳng định rằng
MHH toán học giúp HS phát triển sự thông hiểu các khái niệm và quá trình
toán học. Quá trình MHH giúp HS hệ thống hóa các khái niệm, ý tưởng toán
học; nắm được cách thức xây dựng mối quan hệ giữa các ý tưởng đó. Những
mô hình này được thể hiện rõ ràng hơn với sự trợ giúp của CNTT như: biểu
diễn đồ thị, biểu đồ; tìm mối quan hệ; dự đoán; toán học hóa, mô phỏng,…
(Lesh, Yoon & Zawojewski, 2007). Hơn nữa, thông qua MHH, HS được
khuyến khích tham gia các hoạt động “hệ thống các khái niệm toán học” giúp
các em có được cái nhìn hệ thống hơn về lập luận và chứng minh toán học
dưới các dạng ngôn ngữ nói, kí hiệu, đồ thị, sơ đồ, công thức, phương trình
21
(Lesh & Doerr, 2003) (theo [7]).
Qua các nghiên cứu, các nhà toán học cũng như các nhà giáo dục toán
học đã nhận ra được tầm quan trọng của MHH trong quá trình dạy học toán ở
trường phổ thông (Smith & Wood, 2001; Vasco, 1999; Martinez-Luacles,
2005; Carrejo & Marshall, 2007). Phương pháp MHH trong dạy học giúp HS
phát triển nhiều kĩ năng toán học, đồng thời nó cũng đòi hỏi nhiều kĩ năng,
kiến thức và kinh nghiệm từ GV hơn là phương pháp dạy học GQVĐ
(Martinez-Luacles, 2005).
GQVĐ cũng là một trong những kĩ năng quan trọng của cuộc sống. Nó
liên quan đến các hoạt động như phân tích, tổng hợp, thông hiểu, lập luận, dự
đoán, đánh giá và đối chiếu thực tế. Đó là mục tiêu tổng quát và một thành tố cơ
bản trong chương trình môn Toán ở nhiều nước trên thế giới. Quá trình GQVĐ
thường được xác định tương ứng với từng đối tượng HS và tập trung vào quy
trình thực hiện (Zawojewski, 2007). Trong khi đó, quá trình MHH yêu cầu hiểu
các dữ liệu ban đầu, hợp tác nhóm để thiết kế mô hình, nắm được những hạn chế
và cải tiến mô hình. Cả hai quá trình MHH và GQVĐ đều hỗ trợ HS giải toán,
phát triển tư duy và điều khiển quá trình nhận thức [7].
1.3.1. Tạo tình huống có vấn đề trong dạy học toán
GV có thể sử dụng mô hình để tạo ra các tình huống gợi vấn đề trong
quá trình dạy học toán. Từ đó, tăng cường mối quan hệ giữa các hoạt động
MHH và các hoạt động toán học, phân tích quá trình nhận thức xảy ra trong
quá trình MHH và hiểu quá trình này. Xu hướng của giáo dục toán học phổ
thông hiện nay là tăng cường tính ứng dụng của toán học, trong đó chú trọng
rèn luyện kĩ năng giải quyết các bài toán thực tiễn (Gravemijer, 1994; NCTM,
2000; Lowrie & Logan, 2006; Gainsburg, 2008).
Ví dụ 1.7. (Thiết kế một chiếc cầu qua sông) Hai thành phố A và B nằm
ở hai phía của một dòng sông. Hãy chọn một địa điểm xây dựng một chiếc
cầu bắc qua con sông sao cho quãng đường đi giữa hai thành phố là nhỏ nhất?
22
(giả sử hai bờ sông song song với nhau và cầu nằm vuông góc với bờ sông).
* Giai đoạn 1 (Toán học hóa): GV hướng dẫn HS dựng hai đường
thẳng l1 và l2 song song biểu diễn cho hai bờ sông. Sau đó, dựng hai điểm A
và B biểu diễn cho hai thành phố. Dựng điểm D bất kì trên đường thẳng l1,
sau đó dựng đường thẳng đi qua D và vuông góc với l1, cắt l2 tại điểm E. Cuối
cùng, dựng các đoạn thẳng AD, DE, EB. Tổng độ dài đường gấp khúc ADEB
chính là quãng đường đi từ thành phố A đến thành phố B.
* Giai đoạn 2 (Giải bài toán): Đây cũng là giai đoạn tạo tình huống có
vấn đề. GV hướng dẫn HS đo tổng khoảng cách (AD + DE + EB) và di
chuyển điểm D trên đường thẳng l1 cho đến khi thấy tổng trên nhỏ nhất thì
dừng lại và quan sát. GV đặt câu hỏi nêu vấn đề: “Khi tổng trên đạt giá trị
nhỏ nhất thì hai đường thẳng AD và EB có quan hệ với nhau như thế nào?”.
Hình 1.4: Điểm D bất kì và điểm D khi (AD + DE+ EB) nhỏ nhất
* Giai đoạn 3 (Thông hiểu): Sau khi hướng dẫn HS trả lời được câu hỏi
trên, nghĩa là tổng (AD + DE + EB) nhỏ nhất khi AD // EB, GV hướng dẫn
HS giải bài toán trên sử dụng phép tịnh tiến theo véc tơ . Thật vậy, gọi
, G = AB’ l1 và H là giao điểm của đường thẳng đi qua G
vuông góc với l1 và đường thẳng l2. Ta có:
23
.
Hình 1.5: Hoạt động mô hình hóa xác định vị trí chiếc cầu
Dựa trên lời giải của bài toán, GV hướng dẫn HS hiểu và thông dịch bài
toán. Để xác định vị trí xây chiếc cầu, trước tiên các em phải xác định điểm
B’ là ảnh của điểm B qua phép tịnh tiến theo véc tơ , sau đó xác định vị trí
xây cầu G chính là giao điểm của AB’ và đường thẳng l1.
* Giai đoạn 4 (Đối chiếu): Ở bước này, GV cần làm rõ khả năng ứng
dụng lời giải của bài toán vào thực tế: vấn đề giải phóng mặt bằng cho hai
đoạn đường từ A đến D và từ E đến B, các yêu cầu về mặt địa chất tại địa
điểm xây cầu và các yếu tố khác. Từ đó, giúp các em thấy rằng cần phải cải
tiến các mô hình toán học trước khi có thể ứng dụng vào thực tiễn.
Sau đây là một số ví dụ ứng dụng CNTT để tổ chức các hoạt động
MHH trong dạy học toán ở trường phổ thông:
Ví dụ 1.8. (Thiết kế bãi để xe đạp) Có một công viên và một khu đất
trống cạnh nhà ga. Nhằm đảm bảo an toàn trong công viên, thành phố xây
dựng đường đi riêng dành cho xe đạp và bãi gửi xe tại khu đất trống để hành
khách gửi xe trước khi đi bộ đến nhà ga. Hãy thiết kế phương án giải bài toán
trên (làm việc theo nhóm) bằng phương pháp MHH:
* Giai đoạn 1 (Toán học hóa):
24
- HS hiểu vấn đề và vẽ hình để mô tả tình huống thực tiễn.
Q
D
C
Công viên
F
Vận tốc đi bộ: 1 m/s
Bãi để xe đạp
1 0 0 m
1 0 0 m
Vận tốc xe đạp: 5 m/s
Khu đất trống
A
B
P
150 m
250 m
Hình 1.6: Mô tả tình huống thực tiễn
- HS lập giả thuyết và thu thập thêm thông tin như: kích thước công
viên và khoảng đất trống, vận tốc trung bình của người đi bộ và xe đạp,
giới hạn vận tốc xe đạp trong công viên, mục đích thiết kế (đường đi ngắn
nhất, tiết kiệm thời gian nhất,…).
- Xác định các khái niệm toán học liên quan trước khi thiết kế mô hình
trên máy tính: khoảng cách, vận tốc và thời gian.
- Xây dựng mô hình toán học dựa trên các giả thuyết đã đưa ra. Ví dụ
như thiết kế để thời gian đi là ít nhất thì biểu thức biểu thị thời gian được mô
tả như sau: Tổng số thời gian T = Khoảng cách đi trong công viên/vận tốc xe
đạp + Khoảng cách đi trong khoảng đất trống/vận tốc đi bộ; công viên và
mảnh đất có dạng hình chữ nhật; các số liệu về số chiều và vận tốc có thể
hướng dẫn HS lấy trên mạng internet.
* Giai đoạn 2 (Giải bài toán):
- HS sử dụng các phần mềm hình học động GeoGebra để di chuyển
điểm F đến các vị trí khác nhau và đo khoảng cách, lập bảng quan sát và xác
định vị trí của điểm F sao cho thời gian đi là ngắn nhất.
- HS lập biểu thức của khoảng cách như một hàm số theo thời gian
dựa vào định lý Pitago như sau: , trong đó x là
25
khoảng cách QF.
Hình 1.7: Mô hình hóa bằng phần mềm GeoGebra
* Giai đoạn 3 (Hiểu và thông dịch): HS cần biết rằng giá trị x biểu thị
vị trí của bãi gửi xe đạp. Trong khi AF biểu thị cho đường đi xe đạp, CF biểu
thị cho đường đi bộ.
* Giai đoạn 4 (Đối chiếu thực tế):
- Sau khi xác định được vị trí bãi để xe đạp, HS cần kiểm tra lại tính
khả thi của việc xây dựng bãi để xe và tìm hiểu các khó khăn khác.
- Xem xét lại các giả thuyết: Nếu công viên có dạng hình tròn thì sao?
Nếu công viên hay khu đất trống là các đa giác không đều? Có phương pháp
nào có thể áp dụng cho tất cả các trường hợp? Giải pháp nào đáp ứng nguyện
vọng của người dân (thời gian hay khoảng cách?).
- Suy nghĩ về các phương pháp toán học khác? Sử dụng các phần mềm
toán học khác để mô tả?
- Xét đến tính liên môn trong bài toán này: vật lý, địa lý, giao thông,…
Như vậy thông qua các bài toán trên, GV tập cho HS tham gia các hoạt
động MHH trên máy tính để dự đoán, tìm cách GQVĐ và đưa ra ý tưởng
chứng minh cho bài toán. Từ đó, giúp HS phát triển kĩ năng giao tiếp, tư duy
và giải quyết các vấn đề về giao thông trong thực tế cuộc sống [7].
1.3.2. Làm sáng tỏ một số yếu tố toán học trong thực tiễn
Các hoạt động MHH có thể là chất xúc tác giúp HS hiểu sâu hơn về các
ý tưởng toán học, kĩ năng giải quyết vấn đề và phát hiện các yếu tố toán học
26
trong thực tiễn. Sử dụng phương pháp MHH, GV có thể giúp HS thấy được
các mô hình toán học như các đường parabôn, hypebôn, côníc được thể hiện
trong các hiện tượng trong cuộc sống. Do đó, MHH giúp việc học toán của
HS trở nên có ý nghĩa hơn bằng cách tăng cường và làm sáng tỏ các yếu tố
toán học trong thực tiễn (Lesh & English, 2005; Ang, 2009; Dindyal, 2009).
Tuy nhiên, để thực hiện được vấn đề này GV cần phải khắc phục một số khó
khăn như: vấn đề lựa chọn tình huống thực tế phù hợp với khả năng nhận thức
của HS; trong quá trình thực hiện, phương pháp này đòi hỏi nhiều thời gian
hơn các phương pháp truyền thống khác; gặp khó khăn trong quá trình kiểm
tra, đánh giá kết quả học tập của HS [7].
Ví dụ 1.9. (Tượng Merlion tại Singapore) GV đưa ra hình ảnh về tượng
nhân sư Merlion, biểu tượng du lịch của Singapore. Yêu cầu HS quan sát và
dự đoán về quỹ đạo chuyển động của vòi phun nước xuất phát từ miệng tượng
nhân sư. Sau đó, GV hướng dẫn HS sử dụng phần mềm GeoGebra để tìm
phương trình quỹ đạo chuyển động của vòi phun nước:
- Bước 1: Chọn gốc tọa độ trùng với vị trí xuất phát của vòi phun nước.
Sau đó, nhập giá trị của tham số m sử dụng chức năng thanh trượt của phần
mềm GeoGebra.
- Bước 2: Nhập phương trình có dạng vào trường nhập lệnh.
- Bước 3: Di chuyển điểm (thay đổi giá trị m) trên thanh trượt cho đến
khi đồ thị hàm số dạng trùng khớp với quỹ đạo của vòi phun nước.
27
Hình 1.8: Quỹ đạo của vòi phun nước tượng Merlion
Thông qua các hoạt động này, HS có thể thấy rằng quỹ đạo chuyển
động nói chung của các vòi phun nước là hình parabôn, cụ thể trong ví dụ này
là parabôn có phương trình . Tương tự là ví dụ về xác định quỹ
đạo nước mưa rơi dưới đây.
Ví dụ 1.10. (Quỹ đạo nước mưa rơi) Sử dụng phần mềm GeoGebra
hoặc Geometer‟s Skethpad để tìm hiểu về quỹ đạo của nước mưa rơi từ
mái nhà xuống đất.
Hình 1.9: Mô hình hóa quỹ đạo chuyển động của nước mưa rơi
Nhập bức ảnh nước mưa rơi (HS có thể chụp bằng máy ảnh kỹ thuật số
hoặc sưu tầm trên mạng internet) vào giao diện của phần mềm GeoGebra.
Dựa trên định luật chuyển động của phân tử, ta có thể dự đoán quỹ đạo
chuyển động của nó là dạng hình parabôn có phương trình
, trong đó việc chọn gốc tọa độ là tùy ý.
Để tổ chức hoạt động MHH hiện tượng này, GV yêu cầu các nhóm
nhóm sử dụng phần mềm GeoGebra, nhập các tham số a, b, c vào máy tính và
thay đổi giá trị của chúng để xác định đúng quỹ đạo chuyển động và phương
trình biểu diễn hiện tượng nước mưa rơi. Như vậy, dựa vào mô hình trên, HS
có thể nhận ra được quỹ đạo chuyển động của nước mưa rơi từ mái nhà xuống
mặt đất có dạng hình parabôn. Tùy thuộc vào cách chọn gốc tọa độ mà mỗi
28
nhóm sẽ có dạng phương trình biểu diễn khác nhau [7].
1.3.3. Hiểu được ý nghĩa của các số liệu thông kê từ thực tiễn
Trong quá trình dạy học toán, GV cần tập trung vào khả năng tạo các
mối quan hệ giữa toán học và thực tiễn cuộc sống nhằm giúp HS thấy được sự
phát triển của toán học gắn liền với văn hóa và sự tiến bộ của xã hội loài
người (Freudenthal, 1973). Trong đó, rèn luyện kĩ năng hiểu được ý nghĩa của
các số liệu thống kê trong thực tiễn có vai trò quan trọng trong giáo dục toán
học hiện nay.
Ví dụ 1.11. (Thành tích chạy 100m nam) Khi nghiên cứu về hàm số,
các nhà toán học thường tập trung vào một số dạng hàm số có nhiều ứng dụng
nhất trong cuộc sống thực tế, ví dụ như hàm số dạng , hàm số tuyến
tính, hàm số bậc hai, hàm số lượng giác, hàm số mũ và hàm số lôgarít. Trong
dạy học ở trường phổ thông, GV cần giúp HS hiểu được ý nghĩa của các mô
hình toán học trên trong việc dự đoán kết quả của các tình huống cho trước
trong thực tế. Ví dụ, khi xét bảng thống kê sau về kỷ lục chạy 100 mét (thời
gian tính theo đơn vị giây) của các nam vận động viên tại các thế vận hội
Ôlympíc mùa hè từ năm 1900 đến năm 2012:
Bảng 1.1: Bảng thành tích chạy 100 m tại các kỳ Ôlympíc (1900 - 2012)
1900 1904 1908 1912 1920 1924 1928 1932 1948
11.0 11.0 10.8 10.08 10.06 10.08 10.03 10.03 10.03
1952 1956 1960 1964 1968 1972 1976 1980 1984
10.04 10.05 10.02 10.06 9.95 10.14 10.06 10.25 9.99
1988 1992 1996 2000 2004 2008 2012
9.92 9.96 9.84 9.87 9.85 9.69 9.63
Dựa vào các số liệu trên, GV hướng dẫn HS tham gia hoạt động MHH
để tìm ra phương trình mô tả hiện tượng trên và đưa ra dự đoán về thành tích
của vận động viên nam tại Ôlympíc mùa hè 2016 tại Rio de Janeiro (Braxin).
29
Sử dụng phần mềm toán học để xử lý số liệu và đưa ra được đồ thị hàm số
tuyến tính biểu diễn xấp xỉ các giá trị (số giây) theo các năm tổ chức thế vận
hội mùa hè như sau:
Hình 1.10: Mô hình tuyến tính thành tích của các nam vận động viên
Kết quả tính toán đưa ra hàm số biểu diễn mối quan hệ tuyến tính của
mô hình trên: , trong đó t là thời gian chạy
100 mét (tính theo đơn vị giây), N là số năm. Từ mô hình này, GV có thể
hướng dẫn HS dự đoán về thành tích của nam vận động viên chạy 100 mét tại
Ôlympíc mùa hè 2016 tại Rio de Janeiro (Braxin) theo mô hình:
(giây)
Tóm lại, sử dụng phương pháp MHH trong dạy học toán ở trường phổ
thông giúp HS rèn luyện các kĩ năng toán học cần thiết, đồng thời cho các em
thấy được những ứng dụng trực tiếp của các kiến thức toán học trong thực
tiễn. Để thực hiện được phương pháp này, người GV cần linh hoạt, sáng tạo
trong việc lựa chọn các tình huống thực tế phù hợp với trình độ nhận thức của
HS cũng như hướng dẫn các em thao tác và tham gia các hoạt động MHH trên
máy tính điện tử. Thông qua các hoạt động này, HS có cơ hội học toán gắn
với các tình huống thực tế, rèn luyện và phát triển năng lực toán học cần thiết
cho cuộc sống và tăng cường hứng thú học tập môn Toán, từ đó giúp các em
30
học toán một cách có ý nghĩa hơn [7], [13].
1.3.4. Phát triển các kĩ năng toán học
Sử dụng CNTT để hỗ trợ HS thực hiện các hoạt động MHH trong học
tập toán ở trường phổ thông giúp các em rèn luyện các kĩ năng toán học cần
thiết và thấy được ứng dụng trực tiếp của các kiến thức toán học trong thực
tiễn. Từ đó, tăng hứng thú và niềm say mê học tập môn Toán, giúp các em
học toán một cách có ý nghĩa hơn. Để thực hiện tốt ý tưởng này, đòi hỏi
người GV cần sáng tạo, lựa chọn các tình huống thực tế phù hợp với trình độ
nhận thức của HS, lựa chọn các phần mềm dạy học hợp lý giúp các em thao
tác và MHH trên máy vi tính. Ngoài ra, các hoạt động MHH còn hỗ trợ rất
hiệu quả cho phương pháp dạy học GQVĐ, nó giúp tạo các tình huống gợi
vấn đề và tham gia trực tiếp vào quá trình giải bài toán. Hơn thế, với sự phát
triển của CNTT, các hoạt động MHH sẽ dễ dàng tiếp cận hơn ở nhà trường
phổ thông, giúp HS có cơ hội học toán gắn với các tình huống thực tế, rèn
luyện và phát triển năng lực toán học cần thiết cho cuộc sống [13].
Sử dụng phương pháp MHH trong dạy học giúp HS phát triển các kĩ
năng toán học, đồng thời nó còn hỗ trợ GV tổ chức dạy học theo phương pháp
phát hiện và giải quyết vấn đề có hiệu quả hơn (Martinez-Luacles, 2005;
Mousoulides, Sriraman & Christou, 2007). Phương pháp MHH hỗ trợ GV tổ
chức dạy học theo phương pháp GQVĐ có hiệu quả hơn và khuyến khích HS
học tập, hiểu sâu kiến thức, rèn luyện các kĩ năng GQVĐ (Mousoulides,
Sriraman & Christou, 2007). GV nên sử dụng các dạng bài tập MHH theo
nhóm nhỏ nhằm các mục đích sau đây:
- Rèn luyện cho HS năng lực phân tích và giải quyết các vấn đề thực
tế. Trong suốt quá trình MHH, HS cần phải phân tích và tổng hợp, trừu
tượng hóa và tổng quát hóa, so sánh và tương tự, hệ thống hóa và đặc biệt
hóa, suy diễn và quy nạp,... Quá đó đồng thời rèn luyện cho các em năng
31
lực tư duy lôgíc và tư duy trừu tượng.
- Rèn luyện khả năng sáng tạo, đó là việc tiếp cận kho tàng tri thức
mới, sử dụng những phương pháp và kỹ thuật mới trong phân tích và GQVĐ.
- Nâng cao tinh thần hợp tác trong học tập, tăng cường tính độc lập và
tự tin cho HS thông qua trao đổi nhóm, sử dụng phần mềm dạy học hỗ trợ quá
trình giải quyết vấn đề, MHH và cải tiến mô hình cho phù hợp với thực tiễn.
Verschaffel và De Corte (1997) cho rằng, các bài toán MHH sẽ giúp GV thiết
lập các hoạt động nhóm mới trong lớp học nhằm tạo ra sự xung đột về kiến
thức và thúc đẩy quá trình hợp tác ở mức độ cao.
- Tăng cường tính liên môn trong học tập: địa lý, khoa học, lịch sử, môi
trường,… Ví dụ như thông qua hoạt động MHH toán học giúp HS hiểu được
đồ thị của hàm số mô tả về sự tốc độ sinh trưởng của thực vật.
Theo nghiên cứu của Biembengut và Hein (2007), MHH như một
phương pháp dạy học cung cấp cho HS một số kĩ năng: tích hợp toán học với
các kiến thức khác, quan tâm đến ứng dụng toán học, cải tiến việc nắm bắt
các khái niệm toán học, khả năng sử dụng công nghệ thông tin; khả năng làm
việc theo nhóm, định hướng nghiên cứu, khả năng thông báo nghiên cứu. Một
số nghiên cứu gần đây cũng đặt ra nhiều câu hỏi nghiên cứu liên quan đến vận
dụng MHH trong dạy học toán ở trường phổ thông như: Làm thế nào để thiết
kế các hoạt động MHH có ý nghĩa đối với HS? (Lesh và Caylor, 2003; 2007);
Thiết kế các hoạt động MHH như thế nào? Những khó khăn trong việc thực
hiện các giai đoạn MHH trong dạy học khác nhau là gì? (Blum, Niss và các
đồng nghiệp, 2006); Cấu trúc nhận thức liên quan đến năng lực MHH và
những kĩ năng nhận thức nào liên quan đến giai đoạn nào của chu trình
MHH? (Boromeo Ferri, 2006) [7].
Các bài toán MHH có đặc điểm là yêu cầu HS toán học hóa các tình
huống, thường là các tình huống thực tiễn. Toán học hóa là thành phần quan
trọng của bài toán MHH vì nó dựa trên các ý tưởng toán học quan trọng giúp
32
HS có thể đào sâu và phát triển sự thông hiểu toán học (Lesh, 2000). GV nên
lựa chọn các tình huống thực tiễn đòi hỏi việc thu thập các số liệu, hình ảnh
hay hiện tượng nào đó. Thông qua đó thực hiện các hoạt động MHH, đưa ra
kết luận và dự đoán về tính khả thi của mô hình. Thảo luận nhóm là biện pháp
tốt nhất giúp HS làm quen và biến những vấn đề toán học trong SGK thành
những vấn đề trong cuộc sống, tranh luận về những ưu điểm và nhược điểm
của các mô hình đã thiết kế,…. Verschaffel và De Corte (1997) cho rằng, các
bài toán MHH sẽ giúp GV thiết lập các hoạt động nhóm mới trong lớp học
nhằm tạo ra sự xung đột về kiến thức và thúc đẩy quá trình hợp tác. Các hoạt
động MHH này sẽ tạo cơ hội cho HS hiểu được tình huống thực tiễn theo các
cách khác nhau để từ đó chia sẻ kế hoạch, tranh luận, đưa ra quyết định và
công bố kết quả (Anderson, 2005).
Tóm lại, vai trò của phương pháp MHH là nhằm truyền đạt nội dung
kiến thức theo cách tích cực, tạo động cơ học tập, tăng cường tính liên môn và
tính khoa học trong quá trình dạy học môn Toán ở trường phổ thông [7].
1.4. Thực trạng vận dụng phƣơng pháp mô hình hóa trong dạy học môn
toán ở trƣờng THPT
1.4.1. Về bài toán có tính thực tiễn trong SGK môn Toán THPT
Như đã trình bày ở trên, Toán học có nguồn gốc từ thực tiễn, phản ánh
thực tiễn và có ứng dụng to lớn vào thực tiễn. Từ đó, ta có thể thấy mối quan
hệ mật thiết giữa Toán học và thực tiễn. Việc liên hệ Toán học với thực tiễn
trong chương trình và SGK trước đây cũng như sách chỉnh lí hợp nhất năm
2000 chưa được quan tâm một cách đúng mức và thường xuyên. Về vấn đề
này tác giả Trần Thúc Trình (1998) cho rằng: “Đáng tiếc là hiện nay trong các
SGK và bài tập còn quá ít các bài toán thực tế. Điều này cần phải nhanh
chóng được khắc phục”. Trong các SGK môn Toán và các tài liệu tham khảo
về Toán thường chỉ chú ý tập trung làm rõ những vấn đề, những bài toán
trong nội bộ Toán học nhưng cũng chưa đáp ứng được so với yêu cầu; số
33
lượng các vấn đề lí thuyết, các ví dụ, bài tập Toán có nội dung liên môn và
thực tế trong các SGK Đại số và Giải tích ở bậc THPT để HS học và rèn
luyện còn rất ít. Cụ thể:
1) Đối với SGK trước đây, rất ít thấy các bài tập và các vấn đề toán
học gắn liền với thực tiễn. Chẳng hạn, trong cuốn Đại số và Giải tích 11
(1999) chỉ tìm thấy: bài tập 8, 9, 10 (tr.10-11); ví dụ (tr.95); bài tập 7
(tr.96) và ví dụ 4 (tr.99).
2) Sách Đại số và Giải tích 11; Giải tích 12 (chỉnh lí hợp nhất năm 2000):
- Đại số và Giải tích 11: Ở chương I, §1, khi nói đến mở rộng khái niệm góc có đề cập: “Trong thực tiễn còn có những góc lớn hơn 3600. Chẳng
hạn bán kính OM của một bánh xe có thể quay 4/3 vòng, 2 vòng,…” [tr.6].
Cũng trong §1 có bài tập 8 [tr.12] gắn liền với thực tiễn. Trong chương III, §3
có nêu ra một ví dụ về cấp số cộng gần với thực tiễn [tr.98]. Cũng trong §3, ở
phần bài tập có 1 bài “trồng cây theo hình tam giác” ở trang 100. Còn trong
§4, có đưa vào một ví dụ về cấp số nhân “phần thưởng của hoàng tử Ấn Độ
Xiram cho người phát minh ra trò chơi cờ vua” ở trang 103.
- Giải tích 12: Chương I, §1, trang 1 và 2, trước khi đưa ra định nghĩa
đạo hàm, sách đã đưa vào “bài toán tìm vận tốc tức thời của một chất điểm
chuyển động thẳng”. Cũng trong §1, ở trang 10 có nêu lên ý nghĩa vật lí của
đạo hàm. Còn ở trang 11 đưa vào một bài tập về vấn đề này. Ở §4, có nêu lên
“ý nghĩa cơ học của đạo hàm cấp 2” cùng với một ví dụ (tr.38) và một bài tập
(tr.39). Trong bài tập ôn tập chương I có một bài liên hệ với thực tiễn ở trang
43. Trong chương II, sách trình bày những ứng dụng của đạo hàm. Tuy nhiên
cũng chỉ quan tâm đến những ứng dụng thuần túy trong nội bộ toán học. Chỉ
có ví dụ 2 được nêu ra ở §3 (tr.62) gắn liền với thực tiễn sản xuất. Trong
chương III, lại một lần nữa SGK cũng quan tâm nhiều hơn các ứng dụng
trong nội bộ toán mặc dù có hẳn một bài về ứng dụng hình học và vật lí của
tích phân. Cụ thể là chỉ có hai bài toán áp dụng phép tính tích phân để giải bài
34
tập vật lí 12.
3) Còn các SGK mới hiện nay, mặc dù nhiều chủ đề có rất nhiều
tiềm năng có thể đưa vào được những tình huống thực tiễn và thực sự
cũng đã có những quan tâm nhất định. Tuy nhiên, vấn đề này lại một lần
nữa vẫn chưa được làm rõ. Chẳng hạn:
- Đại số và Giải tích 11: Trong chương I, từ tr.4 đến tr.41 không có bất
cứ một kiến thức nào gắn liền với thực tiễn ngoài toán học.
Trong chương II, đây là một chương dạy về toán ứng dụng nên có khá
nhiều vấn đề liên hệ với thực tiễn: §1 có ví dụ 1 (tr.43); ví dụ 2, ví dụ 3
(tr.44); phần hoạt động của HS, ví dụ 4 (tr.45); bài tập 3, 4 (tr.46). §2 có ví
dụ 1 (tr.46); ví dụ 2 (tr.47); ví dụ 3 (tr.49); ví dụ 6, hoạt động của HS (tr.52);
bài tập 2,3,5 (tr.54 và 55). §3 có ví dụ 1, 3, 4, 5 (tr.60, 61 và 63); bài tập 1-7
(tr.63 và 64). §5 có ví dụ 1-7 (tr.65-71); bài tập 1-7 (tr.74 và 75). Ôn tập
chương 2 có các bài tập 5, 6, 7, 9 (tr.76 và 77).
Trong chương III, có liên hệ dãy số Fibonacci với thực tiễn (trong mục
“Bạn có biết”, tr.91). §4, phần hoạt động của HS (tr.98); ví dụ 3 (tr.100); bài
tập 5, 6 (tr.104); bài tập 12 (tr.108).
Trong chương IV, §1, có hoạt động của HS (tr.117); bài đọc thêm
(tr.120). §2 có bài tập 7 (tr.133 và 134); §4 không có kiến thức nào được liên
hệ với thực tiễn. Ôn tập chương IV có bài tập 3 (tr.141 và tr.142).
Trong chương V, ngay §1, trước khi đưa ra định nghĩa đạo hàm, sách
đã đưa vào “bài toán tìm vận tốc tức thời” và “bài toán tìm cường độ tức
thời”. Ngoài ra còn có bài tập 7 (tr.157). §5 có nêu ý nghĩa cơ học của đạo
hàm cấp 2 cùng một ví dụ. Ôn tập chương V, có bài tập 8 (tr.177). Phần ôn
tập cuối năm, có bài tập 4, 6, 7 (tr.179).
- Đại số và Giải tích 11 (nâng cao):
Trong chương I, có bài đọc thêm (tr.15); mục “Em có biết” (tr.18). §2
có bài tập 17 (tr.29); bài 24, 25 phần luyện tập (tr.31 và 32). §3 có bài tập 31
35
phần câu hỏi và bài tập (tr.41); bài tập 37 phần luyện tập (tr.46).
Trong chương II, đây là một chương dạy về toán ứng dụng nên có khá
nhiều vấn đề liên hệ với thực tiễn: §1 có ví dụ 1, 2, 3, 4, 5 (tr.51-54 ); bài tập
1, 3 phần câu hỏi và bài tập (tr.54); bài đọc thêm (tr.55). §2 có ví dụ 1, 2, 4
(tr.56-58); ví dụ 7 (tr.61); bài tập 5 - 8 phần câu hỏi và bài tập (tr.62); bài tập
9, 11, 13, 15 phần luyện tập (tr.63-64). §4, tất cả các ví dụ đều gắn liền với
thực tiễn (8 ví dụ); phần bài tập có 2 bài (tr.75 và 76); trong phần luyện tập có
3 bài (tr.76). §5, tất cả các ví dụ đều gắn liền với thực tiễn (7 ví dụ); phần câu
hỏi và bài tập có 4 bài đều gần với thực tiễn (tr.83); phần luyện tập có các bài
41, 42 (tr.85). §6, tất cả các ví dụ đều gắn liền với thực tiễn (6 ví dụ); phần
câu hỏi và bài tập có tất cả 7 bài liên hệ với thực tiễn (tr.90- 91); phần luyện
tập có bài 50 và 51 (tr.92). Phần câu hỏi và bài tập ôn tập chương II có bài 57
(tr.93); bài 59, 62, 63, 67 (tr.94-95).
Trong chương III, có bài đọc thêm ở tr.107. §3, ví dụ 3 và hoạt động 5
(tr.113). Trong phần câu hỏi và bài tập không có bài nào gắn liền với thực tiễn
ngoài toán học. §4, trước khi định nghĩa cấp số nhân có đưa vào một bài toán
về “gửi tiền tiết kiệm” (tr.115); hoạt động 3 (tr.119); trong phần câu hỏi và
bài tập có bài 35 (tr.121). Phần câu hỏi và bài tập ôn tập chương 3 có một bài
gắn với thực tiễn cuộc sống ở tr.124.
Trong chương IV, không có bất cứ một vấn đề nào liên hệ với thực tiễn
ngoài toán học.
Trong chương V, ngay §1, trước khi đưa ra định nghĩa đạo hàm, sách
đã đưa vào “ví dụ mở đầu”; tr.188 có nêu “ý nghĩa cơ học của đạo hàm”.
Ngoài ra còn có bài tập 6 (phần câu hỏi và bài tập, tr.192). §3, phần luyện
tập có bài 37 (tr.212). §5, có đưa vào ý nghĩa cơ học của đạo hàm cấp 2 cùng
với một ví dụ; phần câu hỏi và bài tập có một bài (bài 44, tr.219). Phần câu
hỏi và bài tập ôn tập cuối năm có 2 bài (tr.224).
- Đại số 10: Số gần đúng có hoạt động 1 (tr.19); Hàm số bậc nhất và bậc
36
hai có ví dụ 1 (tr.32), ví dụ 2 (tr.33), đường parabôn (Bài đọc thêm); Phương
trình, hệ phương trình: Phương trình Đi-ô-phăng (Bài đọc thêm); các bài tập 3-4-
6 (tr.69), bài tập 6 (tr.70), bài tập 8-9-13 (tr.71); Bất đẳng thức, bất phương trình:
Bài toán kinh tế, phương pháp tìm cực trị của biểu thức F = ax + by trên miền đa
giác (Bài đọc thêm); các bài tập 3 (tr.99), bài tập 4 (tr.106); Thống kê có các bài
tập thực hành dành cho nhóm HS (tr.131) và bài tập 6 (tr.159).
- Đại số 10 (Nâng cao): Trong phần mệnh đề và tập hợp có lồng ghép
các kiến thức xã hội, suy luận toán học; Số gần đúng có hoạt động 1 (tr.24),
các bài tập 47-48-49 (tr.29); Hàm số bậc nhất và hàm số bậc hai có ví dụ 1
(tr.35), bài tập 2 (tr.44), bài tập 25 (tr.54), bài tập 37 (tr.60), bài tập 38 (tr.61),
một số hình ảnh đường parabôn trong thực tế trong mục “Em có biết” (tr.62);
Phương trình, hệ phương trình có các bài tập từ 38-44 (tr.97); Bất đẳng thức,
bất phương trình có bài tập 15 (tr.112), bài toán kinh tế (tr.131), phương pháp
tìm cực trị của biểu thức dạng P(x, y) = ax + by trên miền đa giác lồi (Bài đọc
thêm), bài tập 48 (tr.135); Thống kê có các ví dụ thực hành (tr.159).
Như vậy có thể thấy rằng, quan điểm chỉ đạo, xuyên suốt quá trình dạy
học ở trường phổ thông cần gắn với các vấn đề thực tiễn được nhấn mạnh
trong chương trình SGK môn Toán. Tuy nhiên, việc quán triệt quan điểm này
chưa thực sự toàn diện và cân đối. Thực tế thì SGK môn Toán hiện nay đã có
những thay đổi lớn về nội dung theo hướng tích cực và vấn đề gắn liền toán
học với thực tiễn đã có được những quan tâm nhất định. Điều này được thể
hiện ở việc SGK mới đã đưa thêm vào phần toán học ứng dụng (xác suất) và
đây cũng là điều đáng nói nhất của SGK Toán mới. Ngoài ra, theo chúng tôi ở
các nội dung khác, tính thực tiễn ngoài toán học vẫn chưa được quan tâm
đúng mức, thường chỉ dừng lại ở mức giới thiệu là chính, ít bài tập. Một lần
nữa vai trò công cụ của môn Toán vẫn chưa được làm rõ.
1.4.2. Thực trạng dạy học môn Toán theo hướng tăng cường liên hệ với
thực tiễn
Thông qua phiếu điều tra dành cho HS (xem phần phụ lục 1), chúng tôi
37
đã tiến hành điều tra 223 HS ở lớp 10 trường THPT Dương Tự Minh, trường
THPT Ngô Quyền (TP. Thái Nguyên ) và trường THPT Đồng Hỷ (Huyện Đồng
Hỷ - Tỉnh Thái Nguyên). Đối với mỗi câu hỏi trong phiếu HS sẽ trả lời bằng cách
cho điểm tùy theo mức độ đồng ý của bản thân. Sau khi thu lại các phiếu chúng tôi
sẽ tính điểm trung bình cho mỗi câu hỏi và kết quả thu được như sau:
(1) Thống kê về mong muốn của HS được biết thêm những ứng dụng thực
tế của những kiến thức Toán học:
Hình 1.11
(2) Thống kê của HS về mức độ thường xuyên tự tìm hiểu những ứng
dụng trong thực tiễn của toán học:
Hình 1.12
Dựa vào các thống kê trên chúng ta thấy đại đa số HS đều muốn biết
những ứng dụng của toán học vào thực tiễn, nhưng ngược lại thì hầu hết các
em đều không thường xuyên tự mình tìm hiểu những ứng dụng trong thực tiễn
của toán học. Việc HS không thường xuyên tự mình tìm hiểu những ứng dụng
38
trong thực tiễn của toán học có thể do các nguyên nhân sau:
- Toán là môn học trừu tượng, để nắm được một vấn đề các em phải
dành một lượng thời gian không nhỏ, điều này dẫn tới việc các em ít quan tâm
tới các vấn đề khác của toán học.
- Các em chưa biết tìm hiểu bằng cách nào và ở đâu.
- Do tính ỳ của HS, luôn trông chờ vào GV hay còn do phương pháp
dạy học của GV ảnh hưởng đến cách học của HS.
(3) Thống kê đánh giá của HS về mức độ thường xuyên giảng giải mối
liên hệ toán học với thực tiễn của GV:
Hình 1.13
Dựa vào thống kê trên chúng ta thấy GV đã có những sự quan tâm nhất
định đến việc giảng giải về mối liên hệ giữa toán học với thực tiễn, nhưng sự
quan tâm này còn dừng lại ở cấp độ thấp, mức độ chưa thường xuyên.
(4) Thống kê ý kiến của HS về mối liên hệ giữa toán học và các môn học
khác:
39
Hình 1.14
(5) Thống kê ý kiến của HS về tầm quan trọng của toán học:
Hình 1.15
Dựa vào các thống kê trên chúng ta thấy đại đa số HS đều đánh giá
môn Toán là môn học quan trọng không chỉ với các môn học khác mà còn
trong cả đời sống.
(6) Thống kê ý kiến của HS về mức độ khô khan của môn Toán:
Hình 1.16
Dựa vào các thống kê trên chúng ta thấy đại đa số HS đều đánh giá môn
Toán là môn học khô khan. Đặc biệt, thông qua phỏng vấn HS, ta thống kê được
một số khó khăn các em gặp phải trong quá trình học môn Toán như sau:
- Khó hiểu, nhiều công thức phải ghi nhớ, không thực tế, nhiều lý thuyết.
- Dễ nản lòng bởi các bài toán khó, khó kiềm chế khi thua bạn bè, lớp
ồn khó tập trung.
- Môn hình học không gian rất khó tưởng tượng, nhưng lại rất ít
40
mô hình trực quan.
- Không thấy có ứng dụng gì trong thực tế, không áp dụng được gì cho
cuộc sống hàng ngày.
- Chương trình học quá nặng, khô khan, khó tiếp thu.
- GV ít đổi mới phương pháp, vẫn thiên về dạy lý thuyết và giải bài tập.
- Học nhiều kiến thức khó mà lại ít áp dụng vào trong cuộc sống.
- Học không thực tiễn, quá nhiều và thừa thãi, tốn nhiều thời gian học
vô ích, không có sự đầu tư vào các hoạt động ngoại khóa, chương trình dạy
lỗi thời, không có hứng thú.
- Vì không thấy mối liên hệ với thực tiễn nên thấy môn Toán rất khó và
cũng không muốn học nhiều.
Trên đây là những tâm sự về khó khăn các em gặp phải trong quá trình
học môn Toán. Khó khăn này không chỉ dừng lại ở mức độ trừu tượng của
toán học, hay ở sự quá tải của chương trình, mà nó còn bao gồm cả nhu cầu
muốn được biết mối liên hệ giữa Toán học và thực tiễn không được thỏa mãn.
Để giải quyết khó khăn này, các em HS đã đưa ra một vài mong muốn của
mình trong quá trình học môn Toán như sau: Được ứng dụng những gì mình
học vào thực tế cuộc sống; Được giảng về mối quan hệ giữa lí thuyết và ứng
dụng kĩ càng hơn; Có nhiều ví dụ sinh động hơn từ thực tế, có thêm nhiều liên
hệ với thực tiễn; Giảm bớt kiến thức, thêm bài tập thực tế; Có thêm nhiều
hình vẽ, mô hình, ứng dụng trong các giờ học; Môi trường học tập thật sự tập
trung, im lặng.
Thông qua điều tra ta cũng thấy được nhu cầu muốn biết mối liên hệ
giữa toán học và thực tiễn của HS là rất lớn. Việc không được thỏa mãn nhu
cầu này cũng là một rào cản để các em có sự yêu thích với môn Toán.
Thông qua phiếu điều tra dành cho GV (xem phần phụ lục 2), chúng tôi đã
tiến hành trao đổi, điều tra 21 GV dạy toán thuộc các trường THPT Dương Tự
Minh, trường THPT Ngô Quyền (TP. Thái Nguyên) và trường THPT Đồng Hỷ
41
(Huyện Đồng Hỷ - Tỉnh Thái Nguyên) về việc hiểu biết và khai thác ứng dụng thực
tế vào dạy học môn Toán. Đối với mỗi câu hỏi được hỏi ý kiến GV được sẽ trả lời
bằng cách cho điểm tùy theo mức độ đồng ý của bản thân. Sau khi thu lại các phiếu
chúng tôi sẽ tính điểm trung bình cho mỗi câu hỏi và kết quả thu được thể hiện theo
các biểu đồ dưới đây:
(7) Thống kê ý kiến của GV về mức độ thường xuyên quan tâm đến vệc dạy
học theo hướng tăng cường mối liên hệ toán học và thực tiễn:
Hình 1.17
Dựa vào thống kê trên chúng ta thấy các GV đều quan tâm đến việc dạy học
theo hướng tăng cường mối liên hệ toán học với thực tiễn. Có nhiều GV thường
xuyên quan tâm tới vấn việc này.
(8) Thống kê ý kiến của GV về mức độ thường xuyên tự tìm hiểu về những
ứng dụng thực tế của toán học trong cuộc sống:
Hình 1.18
Dựa vào thống kê trên ta có thể thấy để có thể dạy học theo hướng tăng
cường Toán học với thực tiễn các GV đã chú trọng tới việc tự tìm hiểu về những
ứng dụng thực tế của toán học trong cuộc sống. Sự tìm hiểu này đã được diễn ra
thường xuyên và sâu sắc, nhưng vẫn có nhiều GV chưa chú ý tới vấn đề này
42
(21,24% chưa thường xuyên tìm hiểu).
(9) Thống kê ý kiến của GV về tầm quan trọng của việc đưa những tình
huống thực tiễn vào dạy học toán học:
Hình 1.19
(10) Thống kê ý kiến của GV về mức độ thường xuyên đưa tình huống thực
tiễn vào dạy học môn Toán:
Hình 1.20
Dựa vào hai biểu đồ trên ta thấy hầu hết các GV đều nhận định việc
đưa đã đưa những tình huống thực tiễn vào dạy học toán học là quan trọng.
GV cũng đã chú ý đến việc đưa tình huống thực tiễn vào dạy Toán, nhưng
việc này diễn ra chưa thường xuyên.
(11) Thống kê về mức độ thường xuyên hướng dẫn HS giải quyết
những tình huống thực tế ngoài SGK:
43
Hình 1.21
Dựa vào các hình trên ta thấy có đến 50% GV không thường xuyên cho HS
giải quyết những tình huống thực tế ngoài SGK. Điều này có thể lý giải do việc tự
tìm hiểu về những ứng dụng thực tế của Toán học trong cuộc sống.
(12) Thống kê về tầm quan trọng của việc tăng cường các câu hỏi có nội
dung thực tiễn vào kiểm tra môn Toán:
Hình 1.22
Dựa vào các biểu đồ trên, ta thấy hầu hết các GV đều đồng ý với quan
điểm về việc tăng thêm câu hỏi có nội dung thực tiễn vào kiểm tra môn Toán.
Dưới đây là bảng thống kê về ý kiến của GV về việc đưa tình huống thực tiễn
vào giảng dạy môn Toán.
Bảng 1.2: Bảng thống kê về ý kiến của GV trong dạy học Toán
Thuận lợi
1. Cơ sở vật chất tốt, HS giỏi. 2. Ban giám hiệu quan tâm, tạo điều
kiện cho nghiên cứu. Khó khăn 1. Hình thức đánh giá thi cử có vận dụng vào tình huống thực tiễn rất ít.
3. Có giờ ngoại khóa và có thời gian
tổ chức hoạt động cho HS.
4. GV có nhu cầu đưa thực tiễn vào
giảng dạy.
5. Có sự hỗ trợ của máy tính và các
phần mềm hỗ trợ dạy học.
44
2. Việc chọn nội dung, những câu hỏi, tình huống thực tiễn là khó. 3. Nội dung kiến thức không có nhiều ví dụ, mô hình thực tiễn. 4. Khả năng liên hệ kiến thức Toán học vào thực tiễn còn nhiều hạn chế. 5. Bản thân trong quá trình đào tạo tại các trường sư phạm ít khi được học tập một cách có hệ thống về phương pháp khai thác, vận dụng kiến thức toán học vào thực tế.
Về việc tìm hiểu ứng dụng Toán học trong thực tế: Hầu hết những GV trên
có quan tâm đến việc khai thác tình huống thực tế vào dạy học môn Toán và điều
này được thể hiện ở hai cấp độ như sau:
- Một số ít GV quan tâm và chủ động tìm hiểu để ứng dụng toán học vào
thực tế.
- Số GV còn lại quan tâm nhưng không chủ động tìm hiểu mà chủ yếu sử
dụng các bài tập trong SGK, sách bài tập.
Về khai thác tình huống thực tế vào dạy học môn Toán: Qua trao đổi với
những GV trên thì 100% các thầy cô đều cho rằng nếu tăng cường khai thác các
tình huống thực tế vào dạy học thì có thể làm cho HS tích cực hơn trong việc học
môn Toán. Tuy nhiên việc tìm hiểu, khai thác các tình huống thực tế vào dạy học
hiện nay của GV còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế (xem bảng 1.2).
Về năng lực MHH bài toán thực tiễn: Hầu hết GV đều đánh giá cao những
hoạt động MHH trong dạy học môn Toán. Tuy nhiên, năng lực MHH của cả GV và
HS còn nhiều hạn chế. Hầu hết HS đều không giải quyết trọn vẹn các bài tập MHH,
đặc biệt là năng lực thành lập và biểu diễn các mô hình toán học nhằm làm sáng tỏ
các vấn đề trong thực tiễn cuộc sống. Chính vì vậy, những kết quả nghiên cứu của
luận văn sẽ góp phần khắc phục những khó khăn và hạn chế nói trên, góp phần đưa
ý tưởng toán học gắn liền với thực tiễn vào trong lớp học toán ở nhà trường.
1.5. Kết luận chƣơng 1
Chương 1 đã trình bày khá cụ thể và làm rõ được khái niệm mô hình
toán học, phương pháp MHH, cũng như vai trò quan trọng của phương pháp
MHH để giải quyết các bài toán có nội dung thực tiễn. Đồng thời, luận văn
cũng chỉ ra rằng, việc rèn luyện cho HS năng lực vận dụng kiến thức toán học
vào thực tiễn là vấn đề có tính nguyên tắc và là một nhiệm vụ của giáo dục
toán học ở nước ta. Luận văn cũng đề cập đến vấn đề liên quan tới chương
trình và SGK trung học của Việt Nam, đặc biệt là mối quan hệ giữa toán học
và thực tiễn. Đây sẽ là cơ sở quan trọng để tác giả đề xuất xây dựng một số
45
mô hình toán học được trình bày trong chương 2.
Chƣơng 2
THIẾT KẾ MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG MÔ HÌNH HÓA
TRONG DẠY HỌC ĐẠI SỐ LỚP 10
2.1. Nguyên tắc thiết kế mô hình toán học
2.1.1. Nguyên tắc 1: Đảm bảo tính khoa học của toán học
Các mô hình được thiết kế phải đảm bảo tính khoa học, tính chính xác
của toán học và mô tả được các tình huống trong thực tiễn. HS sử dụng các
phương pháp toán học để giải bài toán, từ đó đối chiếu kết quả với thực tế để
điều chỉnh mô hình toán học cho phù hợp.
2.1.2. Nguyên tắc 2: Làm rõ tính ứng dụng của toán học trong thực tiễn
Toán học nghiên cứu những mối quan hệ về số lượng và hình dạng
trong không gian của thế giới khách quan. Toán học có ứng dụng to lớn trong
thực tiễn cũng như trong sự phát triển của các ngành khoa học kỹ thuật, nó là
điều kiện thiết yếu để phát triển lực lượng sản xuất. Việc vận dụng toán học
vào thực tiễn thực chất là vận dụng toán học vào giải quyết một tình huống
thực tế, tức là dùng những công cụ toán học thích hợp để tác động, nghiên
cứu khách thể nhằm mục đích tìm một phần tử chưa biết nào đó, dựa vào một
số phần tử cho trước trong khách thể hay để biến đổi, sắp xếp những yếu tố
trong khách thể, nhằm đạt một mục đích đề ra.
2.1.3. Nguyên tắc 3: Chú trọng rèn luyện kĩ năng giải quyết vấn đề
HS phân tích những cái đã cho, những mối quan hệ ràng buộc, và mục
tiêu. Lập giả thuyết, lập kế hoạch tìm kiếm lời giải hơn là thử ngay kết quả
của nó. Xét các bài toán tương tự, cố gắng đơn giản hóa bài toán ban đầu để
có thể tìm hiểu sâu và dễ dàng đi tìm kết quả. Kiểm soát và đánh giá quá trình
và thay đổi giả thuyết nếu thấy cần thiết. Phụ thuộc vào ngữ cảnh tình huống
thực tế, thay đổi biểu thức đại số, thay đổi biểu diễn của mô hình, giải thích
46
tương ứng giữa các phương trình, mô tả bằng lời, bảng biểu, đồ thị hoặc biểu
đồ, sơ đồ của những đặc trưng, tính chất quan trọng, mối quan hệ, biểu diễn
số liệu, xu hướng. Phụ thuộc vào các đối tượng hoặc hình ảnh cụ thể để giải
bài toán. Kiểm tra câu trả lời sử dụng các phương pháp khác nhau, hiểu được
ưu thế của từng phương pháp. Thông qua MHH, HS được phát triển các kĩ
năng GQVĐ, đặc biệt là những vấn đề trong thực tiễn.
2.1.4. Nguyên tắc 4: Đảm bảo tính khả thi và tính vừa sức
Tính khả thi của hoạt động MHH và hệ thống bài tập có nội dung thực
tiễn được hiểu là khả năng thực hiện được (xây dựng được, sử dụng được).
Điều này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: Chương trình, SGK, kế hoạch dạy
học và quỹ thời gian thực hiện, trình độ nhận thức chung của HS, khả năng và
trình độ thực hiện của GV, sự tương hợp giữa các nội dung thực tiễn chứa
đựng trong các tình huống,... Vì vậy, các hoạt động và hệ thống các bài tập
MHH cần phải được tinh lọc một cách thận trọng, vừa mức về số lượng và
mức độ.
Các hoạt động và bài tập MHH tình huống thực tiễn cần được sắp xếp
từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Việc HS tự mình giải quyết được
một bài toán có ý nghĩa rất lớn về mặt tâm lý. Ngược lại, việc thất bại ngay từ
bài toán đầu tiên dễ làm cho HS mất nhuệ khí, dễ gây tâm trạng bất lợi cho
quá trình tổ chức hoạt động tiếp theo. Do đó, trong khi thiết kế các hoạt động
và hệ thống bài tập MHH, GV cần chú ý đến các các cấp độ sau đây:
- Cấp độ 0: HS không hiểu tình huống và không thể vẽ, phác thảo hay
viết bất cứ cái gì cụ thể về vấn đề.
- Cấp độ 1: HS chỉ hiểu tình huống thực tiễn nhưng không cấu trúc và đơn
giản tình huống hoặc không thể tìm sự kết nối đến một ý tưởng toán học nào.
- Cấp độ 2: Sau khi tìm hiểu vấn đề thực tiễn, HS tìm mô hình thật
qua cấu trúc và đơn giản hóa, nhưng không biết chuyển đổi thành một vấn
47
đề toán học.
- Cấp độ 3: HS có thể tìm ra không chỉ mô hình thật, mà còn phiên dịch
nó thành vấn đề toán học, nhưng không thể làm việc với nó một cách rõ ràng
trong thế giới toán học.
- Cấp độ 4: HS có thể thiết lập vấn đề toán học từ tình huống thực tiễn,
làm việc với bài toán với kiến thức toán học và có kết quả cụ thể.
- Cấp độ 5: HS có thể trải nghiệm quá trình MHH toán học và kiểm
nghiệm lời giải bài toán trong mối quan hệ với tình huống đã cho.
Tùy từng đối tượng HS mà GV giao nhiệm vụ ở những cấp độ phù hợp,
vừa sức, đảm bảo đúng trình độ của HS nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt
động MHH vấn đề thực tiễn trong dạy học môn Toán.
2.2. Thiết kế hoạt động m̞ hình hóa chủ đề hàm số
Để xây dựng những hoạt động MHH có ý nghĩa và phù hợp đối với HS,
chúng ta có thể thực hiện theo các bước sau:
- Bắt đầu với một tình huống thực tế, tình huống đó phải thích hợp với
đối tượng HS và chứa đựng nội dung toán học các em đã được học.
- Dự kiến những kiến thức, kĩ năng toán học mà HS cần sử dụng để
thiết lập mô hình toán học và giải bài toán.
- Làm cho tình huống rõ ràng hơn, tạo mối liên kết giữa tình huống
thực tế và toán học bằng cách:
+ Đơn giản hóa, đặc biệt hóa, cụ thể hóa vấn đề.
+ Đưa ra các giả thiết phù hợp.
+ Nhận ra các biến trong tình huống để biểu diễn các đặc điểm cần thiết.
+ Thu thập dữ liệu thực tế để cung cấp thêm thông tin cho tình huống,
những dữ liệu này sẽ gợi ý loại mô hình toán phù hợp với tình huống.
+ Mô tả chi tiết tình huống.
+ Câu hỏi được đặt ra một cách rõ ràng.
48
- Đối chiếu mô hình với thực tế và rút ra kết luận cần thiết.
2.2.1. Mô hình hàm số bậc nhất
Bài toán 2.1: Một hãng taxi quy định giá thuê xe đi mỗi kilômét là 6
nghìn đồng đối với 10 km đầu tiên và 2,5 nghìn đồng đối với các kilômét tiếp
theo. Một hành khách thuê taxi đi quãng đường x kilômét phải trả số tiền là y
nghìn đồng. Khi đó, y là một hàm số của đối số x, xác định với mọi x ≥ 0.
a) Hãy biểu diễn y như một hàm số bậc nhất trên từng khoảng ứng với
đoạn [0; 10] và khoảng (10; +∞).
b) Tính f(8), f(10) và f(18).
c) Vẽ đồ thị của hàm số y = f(x) và lập bảng biến thiên của nó.
* Mục tiêu hoạt động:
- Tìm mối liên hệ giữa số tiền phải trả y nghìn đồng và quãng đường đi
được x kilômét (biểu diễn y theo x).
- Sau khi tìm được mối liên hệ giữa x và y, tính số tiền hành khách phải
trả khi đi những quãng đường nhất định.
- Thiết lập mô hình hàm số bậc nhất biểu diễn mối liên hệ trên.
- Dựa vào đồ thị hàm số nhận xét về ý nghĩa của tình huống trong
thực tiễn.
* Tiến trình hoạt động:
GV chia lớp thành các nhóm, khoảng 6 đến 8 HS một nhóm. Tổ chức
cho nhóm HS giải quyết bài toán trên theo 4 giai đoạn của quá trình MHH
như sau:
- Giai đoạn 1 (Toán học hóa): Các nhóm nhận nhiệm vụ, tìm hiểu
phương pháp biểu diễn y theo x. HS trao đổi, thảo luận tìm ra y là một hàm số
của đối số x, xác định với mọi x ≥ 0 và phác thảo vị trí của các điểm thuộc đồ
thị hàm số.
- Giai đoạn 2 (Giải bài toán): Các nhóm thảo luận biểu diễn hàm số y
theo x, với mọi x ≥ 0 như sau:
, tức là quãng đường đi nằm trong 10 km đầu tiên, số tiền Khi 0 x
49
phải trả là y = 6x.
Khi x ≥ 10, số tiền phải trả là y = 6.10 + (x - 10).2,5 = 2,5x + 35.
Vậy ta có hàm số bậc nhất sau: y = f(x) = nếu
Nhóm HS vẽ đồ thị hàm số trên và quan sát:
Hình 2.1: Mô hình tình huống tính giá cước taxi
- Giai đoạn 3 (Hiểu và thông dịch): Sau khi giải xong vấn đề HS biết
được rằng y là hàm số bậc nhất của đối số x và được biểu diễn dưới dạng
y = f(x) = nếu
Để vẽ được đồ thị hàm số y = f(x), HS cần vẽ đồ thị hàm số y = 6x lấy
phần đồ thị ứng với 0 ≤ x ≤ 10 và vẽ đồ thị hàm số y = 2,5x + 35 lấy phần đồ
thị ứng với x ≥ 10 (Hình 2.1).
Hình 2.2: Bài làm của HS lớp thực nghiệm
- Giai đoạn 4 (Đối chiếu thực tế): Sau khi tìm ra dạng biểu diễn của
50
hàm y, GV yêu cầu các nhóm tính số tiền mà hành khách phải trả khi đi
những quãng đường tương ứng với x = 8, x = 10, x = 18, … Các nhóm thảo
luận và đưa ra câu trả lời như sau:
Với x = 8 < 10 nên f(8) = 6.8 = 48.
Với x = 10 nên f(10) = 6.10 = 60.
Với x = 18 > 10 nên f(18) = 2,5.18 + 35 = 80.
Hình 2.3: Bài làm của HS lớp thực nghiệm
Nhóm HS đưa ra nhận xét: Khi hành khách muốn đi quãng đường xác
định thì sẽ tính được trước số tiền phải trả. Hàm số y = f(x) là hàm số đồng
biến. Do vậy, càng đi xa thì số tiền hành khách phải trả sẽ tăng dần.
* Phân tích kết quả hoạt động:
Kết quả cho thấy, hơn 70% các nhóm HS hoàn thành tốt nhiệm vụ GV
đưa ra, HS nắm chắc phương pháp lập hàm số bậc nhất, kĩ năng vẽ và đọc
hiểu đồ thị hàm số bậc nhất tương đối tốt. Đối với mô hình hàm số bậc nhất,
phần lớn HS đạt được kĩ năng MHH ở cấp độ 4 và cấp độ 5.
Bài toán 2.2. (Nhịp tim tối đa): Vì lý do sức khỏe, con người nên hạn chế
những nỗ lực của mình, ví dụ như trong thể thao để không vượt quá tần số nhịp
tim nhất định. Trong nhiều năm qua mối quan hệ giữa tỉ lệ khuyến cáo giữa nhịp
tim tối đa và độ tuổi của một người được mô tả bởi công thức dưới đây:
Nhịp tim tối đa được khuyến cáo = 220 – tuổi
Nghiên cứu gần đây cho thấy rằng công thức này nên được sửa đổi một
chút. Công thức mới như sau:
51
Nhịp tim tối đa được khuyến cáo = 208 – (0.7 x tuổi)
a) Hoàn thiện bảng dưới đây về nhịp tim tối đa được khuyến cáo:
Tuổi (theo năm) 9 12 15 18 21 24
Nhịp tim tối đa được
khuyến cáo cũ (công thức 211 208 205 202 199 196
cũ)
Nhịp tim tối đa được
khuyến cáo mới (công thức 201,7 ....... 197,5 195,4 ....... 191,2
mới)
b) Ở tuổi nào thì công thức cũ và mới cho chính xác cùng một giá trị và
giá trị đó là bao nhiêu?
c) Bạn Hoa chú ý rằng hiệu số của hai nhịp tim tối đa được khuyến
cáo trong bảng có vẻ giảm đi khi tuổi tăng lên. Tìm một công thức thể
hiện hiệu số này theo tuổi.
d) Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tập thể dục có hiệu quả nhất khi nhịp
tim là 80% của nhịp tim tối đa được khuyến cáo theo công thức mới. Hãy viết
và rút gọn công thức cho nhịp tim hiệu quả nhất để tập thể dục theo tuổi.
e) Công thức mới đã làm thay đổi nhịp tim khuyến cáo theo độ tuổi như
thế nào? Hãy giải thích câu trả lời của bạn một cách rõ ràng.
* Mục tiêu hoạt động:
- Hoàn thiện bảng nhịp tim tối đa được khuyến cáo dựa vào hàm số
đã cho.
- Xác định độ tuổi mà công thức cũ và công thức mới cho cùng một giá
trị và tìm giá trị đó.
- Tìm công thức thể hiện hiệu số hai nhịp tim tối đa được khuyến cáo.
- Viết và rút gọn công thức cho nhịp tim hiệu quả nhất để tập thể dục
theo tuổi.
- Qua hoạt động này, HS được rèn luyện các kĩ năng sau:
52
+ Kĩ năng thiết lập hàm số và biểu diễn bội.
+ Kĩ năng rút gọn biểu thức toán học.
+ Kĩ năng giải hệ phương trình bậc nhất hai ẩn.
+ Kĩ năng vẽ và đọc hiểu ý nghĩa thực tế của đồ thị hàm số.
* Tiến trình hoạt động:
GV chia lớp thành các nhóm HS và tổ chức cho nhóm giải quyết bài
toán theo các giai đoạn sau:
- Giai đoạn 1 (Toán học hóa): Bài toán cung cấp thông tin thực tế về sức
khỏe con người. Để làm được bài toán này, HS cần phải chuyển được những
thông tin đã cho trong đề bài thành những phương trình đại số (hay hàm số), biết
vận dụng các kĩ năng đại số để giải quyết lần lượt các vấn đề đặt ra. GV yêu cầu
các nhóm thảo luận, suy nghĩ trả lời các câu hỏi trong bài toán.
+ Câu (a) chỉ yêu cầu HS kĩ năng tính toán đơn giản để điền số liệu vào
bảng cho trước.
+ Câu (b) yêu cầu HS phải biết cách biểu diễn nhịp tim tối đa được
khuyến cáo theo hai công thức cũ và mới.
+ Câu (c), (d) yêu cầu HS có kĩ năng rút gọn biểu thức 220 – x – (208 –
0,7x) và 0,8.(208 – 0,7x).
- Giai đoạn 2 (Giải bài toán): Biểu diễn nhịp tim tối đa được
khuyến cáo theo hai công thức cũ và mới lần lượt là hai hàm số f(x) =
220 – x và g(x) = 208 – 0,7x với y thể hiện nhịp tim tối đa trong mỗi
phút và x đại diện cho tuổi tính theo năm.
GV yêu cầu nhóm HS biểu diễn đồ thị của hai hàm số trên cùng hệ trục
tọa độ để biết được công thức mới đã làm thay đổi nhịp tim khuyến cáo theo
53
độ tuổi như thế nào?
Hình 2.4: Mô hình nhịp tim tối đa được khuyến cáo
Nhóm HS quan sát mô hình trên và đưa ra nhận xét: Khi x > 40 ta có đồ
thị hàm f(x) = 220 – x nằm phía dưới đồ thị hàm g(x) = 208 – 0,7x và khi x <
40 thì đồ thị hàm f(x) = 220 – x nằm phía trên đồ thị hàm g(x) = 208 – 0,7x.
Vì hai hàm số có hệ số góc khác nhau nên đồ thị của chúng cắt nhau tại
một điểm. GV hướng dẫn HS xác định điểm này bằng cách giải phương trình
220 – x = 208 – 0,7x để suy ra nghiệm của phương trình là x = 40 và y = 180.
Tiếp theo, HS rút gọn biểu thức 220 – x – (208 – 0,7x) và 0,8.(208 – 0,7x), ta
có: 220 – x – (208 – 0,7x) = 12 – 0,3x và 0,8.(208 – 0,7x) = 166,4 – 0,56x.
- Giai đoạn 3 (Hiểu và thông dịch): Bài toán cho biết thông tin thực tế về
sức khỏe con người để từ đó con người biết cách chăm sóc cơ thể, giữ gìn sức
khỏe và có chế độ luyện tập thể dục phù hợp với tình trạng sức khỏe bản thân.
Nhóm HS cần rút ra nhận xét: Ở độ tuổi trên 40 thì nhịp tim được khuyến cáo
ở công thức mới cao hơn công thức ban đầu và thấp hơn công thức ban đầu
với lứa tuổi dưới 40.
54
Hình 2.5: Bài làm của HS lớp thực nghiệm
- Giai đoạn 4 (Đối chiếu thực tế): GV cho HS các nhóm tiến hành đo
nhịp tim các thành viên trong nhóm bằng máy đo nhịp tim điện tử thông qua
một trò chơi vận động. Sau đó yêu cầu HS các nhóm đo nhịp tim rồi lấy kết
quả trung bình các thành viên trong nhóm. So sánh kết quả của các nhóm, áp
dụng vào công thức đo nhịp tim và nhận xét về mức độ hoạt động đã phù hợp
với nhịp tim được khuyến cáo hay chưa. Đưa ra khuyến cáo đối với các thành
viên trong gia đình về nhịp tim của mỗi người (nhiệm vụ giao về nhà).
* Phân tích kết quả hoạt động:
Các nhóm HS đã biết chuyển những thông tin đã cho trong bảng biểu
thành phương trình đại số (hay hàm số), HS biết thao tác với các biểu thức đại
số để giải quyết vấn đề đặt ra ban đầu. Kết quả cho thấy, hơn 60% số HS đạt
được kĩ năng MHH ở cấp độ 3 và cấp độ 4, các em rất hào hứng với trò chơi
vận động và đo nhịp tim các thành viên trong nhóm bằng máy đo điện tử.
Tóm lại, bài toán trên minh họa cho ứng dụng của toán học trong việc
giải quyết những vấn đề có liên quan đến chất lượng cuộc sống của con
người. HS phải kết hợp nhiều kĩ năng đã học: kĩ năng thiết lập hàm số, kĩ
năng rút gọn biểu thức toán học, kĩ năng giải hệ phương trình bậc nhất hai ẩn,
kĩ năng vẽ và đọc hiểu biểu diễn của đồ thị hàm số, kĩ năng vận dụng kiến
thức toán học phổ thông giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn,…
2.2.2. Mô hình hàm số bậc hai
Bài toán 2.3. (Bài toán bóng đá): Khi một quả bóng được đá lên, nó sẽ
đạt đến độ cao nào đó rồi rơi xuống. Biết rằng quỹ đạo của quả bóng là một
cung parabol trong mặt phẳng với hệ tọa độ Oth, trong đó t là thời gian (tính
bằng giây), kể từ khi quả bóng được đá lên; h là độ cao (tính bằng mét) của
quả bóng. Giả thiết rằng quả bóng được đá từ độ cao 1,2 m. Sau đó 1 giây, nó
đạt độ cao 8,5 m và 2 giây sau khi đá lên, nó ở độ cao 6 m.
a) Hãy tìm hàm số bậc hai biểu thị độ cao h theo thời gian t và có phần
55
đồ thị trùng với quỹ đạo của quả bóng trong tình huống trên.
b) Xác định độ cao lớn nhất của quả bóng (tính chính xác đến
hàng phần nghìn).
c) Sau bao lâu thì quả bóng sẽ chạm đất kể từ khi đá lên (tính chính xác
đến hàng phần trăm)?
Hình 2.6: Mô hình bài toán bóng đá
* Mục tiêu hoạt động:
- Tìm hàm số bậc hai biểu thị độ cao h theo thời gian t và có phần đồ
thị trùng với quỹ đạo của quả bóng rơi.
- Tìm độ cao lớn nhất của quả bóng và tính thời gian quả bóng
chạm đất.
- Thấy được một số hình ảnh trong thực tiễn có quỹ đạo chuyển động là
một phần đồ thị của hàm số bậc hai.
- Qua hoạt động này, HS được rèn luyện các kĩ năng sau đây:
+ Thiết lập và biểu diễn đồ thị của hàm số bậc hai.
+ Kĩ năng đọc đồ thị của hàm số bậc hai (xác định được giá trị lớn nhất
và giá trị nhỏ nhất).
+ Kĩ năng mô tả những tình huống thực tiễn bằng công cụ toán học.
* Tiến trình hoạt động:
GV chia lớp thành các nhóm HS và tổ chức cho nhóm giải quyết bài
toán theo các giai đoạn sau:
- Giai đoạn 1 (Toán học hóa): GV hướng dẫn nhóm HS phân tích và
56
hiểu được vấn đề thực tiễn như sau:
+ Quỹ đạo của quả bóng là một cung parabôn trong mặt phẳng với hệ
tọa độ Oth, vì vậy hàm số biểu thị độ cao h theo thời gian t là một hàm số bậc
hai và có phần đồ thị trùng với quỹ đạo của quả bóng.
+ Độ cao lớn nhất của quả bóng chính là tung độ của đỉnh parabôn.
+ Khoảng thời gian từ khi quả bóng được đá lên đến khi chạm đất (tức
là tung độ của đồ thị hàm số bằng 0).
- Giai đoạn 2 (Giải bài toán): Giả sử h = f(t) = at + bt + c. GV cần
hướng dẫn nhóm HS tìm các hệ số a, b và c. Các nhóm HS thảo luận và tìm
các hệ số a,b,c như sau:
Quả bóng được đá lên từ độ cao 1,2 m nghĩa là: f(0) = c = 1,2.
Sau đó 1 giây nó đạt độ cao 8,5 m nên: f(1) = a + b + 1,2 = 8,5.
Sau khi đá 2 giây quả bóng ở độ cao 6 m, nghĩa là: f(2) = 4a + 2b + 1,2 = 6.
HS thu gọn các hệ thức trên rút ra hệ phương trình bậc nhất:
.
Giải hệ phương trình HS thu được kết quả sau: a = –4,9; b = 12,2. Vậy
hàm số cần tìm là: f(t) = –4,9t2 + 12,2t +1,2.
Hình 2.7: Bài làm của HS lớp thực nghiệm
Tiếp theo HS tìm độ cao lớn nhất của quả bóng:
Độ cao lớn nhất của quả bóng chính là tung độ của đỉnh parabôn, cụ thể là:
y = =
HS Giải phương trình bậc hai –4,9t2+ 12,2t + 1,2 = 0 được hai nghiệm
57
gần đúng là t1 = –0,09 (loại vì giá trị âm) và t2 = 2,58. Như vậy, quả bóng chạm đất sau gần 2,58 giây.
Hình 2.8: Bài làm của HS lớp thực nghiệm
- Giai đoạn 3 (Hiểu và thông dịch): Sau khi giải bài toán và tìm được
nghiệm, GV hướng dẫn HS đưa ra nhận xét: Quỹ đạo chuyển động của quả
bóng là một cung parabôn trong mặt phẳng. Ta có thể xác định được vị trí của
quả bóng (cả về độ cao so với mặt đất lẫn khoảng cách so với vị trí quả bóng
được đá lên) ở một thời điểm bất kỳ trong quá trình chuyển động và sau bao
lâu thì quả bóng chạm đất (tung độ của đỉnh đồ thị hàm số bằng 0).
- Giai đoạn 4 (Đối chiếu thực tế): Việc xác định được quỹ đạo của
chuyển động không chỉ giúp HS xác định được vị trí của quả bóng tại một
thời điểm bất kỳ, mà còn giúp HS dự kiến được thời gian quả bóng rơi xuống
đất, cũng như tính được khoảng cách từ vị trí đá đến vị trí quả bóng rơi
xuống. GV yêu cầu nhóm HS tìm các chuyển động khác có quỹ đạo là một
phần của parabôn, ví dụ như: quỹ đạo của nước rơi, quỹ đạo của vòi phun
nước, đường đi của quả bóng rổ, đường đi của đạn đại bác,... Nhiệm vụ về
nhà của các em là sưu tập hình ảnh các chuyển động có quỹ đạo là đường
parabôn (đồ thị của hàm số bậc hai).
* Phân tích kết quả hoạt động:
Ngoài ra, thông qua hoạt động MHH, GV có thể phân tích cho HS hiểu
rõ thêm các vấn đề sau: Trong thực tế, chuyển động của quả bóng còn phụ
58
thuộc vào rất nhiều yếu tố như: nhiệt độ môi trường, sức cản của không khí,
vận tốc gió,… Do vậy, không phải lúc nào quả bóng cũng chuyển động theo
quỹ đạo hình parabôn mà nó sẽ có một sai số nào đó. Trong những trường
hợp không đòi hỏi sự chính xác quá cao thì ta có thể bỏ qua các yếu tố của
môi trường và coi chuyển động của quả bóng là một phần của đường parabôn.
Kết quả cho thấy, trên 80% số HS có thể đạt được kĩ năng MHH ở cấp độ 3.
Đặc biệt, nhóm HS nam rất hứng thú với bài toán này và đã đưa ra đáp số
trước nhóm HS nữ vì nó có liên quan đến chủ đề bóng đá – một trong những
sở trường của các em HS nam.
Bài toán 2.4. (Bài toán về cổng Ac-xơ): Khi du lịch đến thành phố Xanh-
Lui (Hoa Kì), ta sẽ thấy một cái cổng lớn đó là cổng Ác-xơ. Giả sử ta lập một hệ
tọa độ Oxy sao cho một chân cổng đi qua gốc 0 (x và y tính bằng mét), chân kia
của cổng ở vị trí (162; 0). Biết một điểm M trên cổng có tọa độ (10; 43).
a) Tìm hàm số có đồ thị biểu diễn hình dạng của cổng Ác-xơ.
b) Tính chiều cao của cổng (tính từ đỉnh cao nhất trên cổng đến mặt
đất, làm tròn kết quả đến hàng đơn vị).
Hình 2.9: Cổng Ác-xơ
* Mục tiêu hoạt động:
- Thiết lập hàm số có đồ thị biểu diễn hình dạng của cổng Ác-xơ (đường
parabôn).
- Tính chiều cao của cổng (xác định tung độ đỉnh của parabôn trên).
59
- Qua hoạt động này, GV có thể rèn cho HS những kĩ năng sau đây:
+ Thiết lập và biểu diễn đồ thị của hàm số bậc hai.
+ Đọc đồ thị hàm số bậc hai và nhận dạng được một số tình huống,
hình ảnh trong thực tiễn có biểu diễn là đường parabôn.
* Tiến trình hoạt động:
- Giai đoạn 1 (Toán học hóa): GV chia lớp thành các nhóm HS và yêu
cầu các nhóm quan sát hình ảnh cổng Ác-xơ. Các nhóm thảo luận và đưa ra
dự đoán rằng hình dạng cổng giống như một phần của đường parabôn.
Sau đó GV yêu cầu các nhóm tìm dạng biểu diễn của parabôn đó. Các
nhóm thảo luận để đưa ra cách xác định phương trình biểu diễn.
- Giai đoạn 2 (Giải bài toán): Các nhóm HS dựa theo quan sát và các dữ
kiện đề bài đưa ra để tìm dạng biểu diễn của parabôn là một hàm số bậc hai.
Nhóm HS thảo luận và đưa ra hàm số cần tìm có dạng f(x) = ax + bx + c thỏa mãn điều kiện: f(0) = c và f(10) = 100a + 10b = 43; f(162) = 1622a + 162b +
0 hay có phương trình 162a + b = 0. Từ đó suy ra: a 4,583. –0,028; b
Tiếp theo, nhóm HS kết luận rằng: Hàm số cần tìm là f(x) = ax + bx
trong đó a 4,583. –0,028; b
Sau đó, nhóm HS vẽ đồ thị hàm số vừa tìm được và tìm chiều cao của
cổng dựa vào đồ thị của hàm số như sau:
Hình 2.10: Đường parabôn biểu diễn hình dạng cổng Ác-xơ
Cuối cung, nhóm HS quan sát đồ thị vừa vẽ và rút ra kết luận: Chiều
cao của cổng bằng tung độ của đỉnh parabôn, do đó:
60
h = f(162/2) = f(81) 188 (phút)
Hình 2.11: Bài làm của HS lớp thực nghiệm
- Giai đoạn 3 (Hiểu và thông dịch): Khi dự đoán về hình dạng của
cổng Ác-xơ, dựa theo số liệu thực tế và các kiến thức đã được học thì HS
có thể dễ dàng tìm ra được hàm số bậc hai có đồ thị là đường parabôn.
Nhóm HS biểu diễn đồ thị của hàm số trên và nhận xét về quỹ đạo chuyển
động của quả bóng, về thời điểm quả bóng có độ cao lớn nhất , thời gian
quả bóng chạm đất,...
- Giai đoạn 4 (Đối chiếu thực tế): Trên thực tế có rất nhiều công trình
được thiết kế có hình dạng tương tự như cổng Ác-xơ. Vì vậy, việc thiết kế và
thi công các công trình sẽ được tính toán một cách cẩn thận vừa đảm bảo được
chất lượng công trình lại mang lại tính thẩm mĩ cao. GV yêu cầu HS đưa ra
một số hình ảnh trên thực tế có hình dạng tương tự như hình dạng cổng Ác-xơ
như: hình ảnh vòi phun nước, nhịp cầu, quỹ đạo chuyển động ném của vật,...
GV hướng dẫn HS sử dụng phần mềm hình học động để xác định phương trình
61
đường parabôn biểu diễn hình ảnh các hiện tượng trong thực tiễn.
Hình 2.12: Một số hình ảnh thực tế có hình dạng parabôn
* Phân tích kết quả hoạt động:
Các nhóm HS đã thảo luận và tìm ra kết quả của bài toán. Khoảng 72%
số HS hoàn thành nhiệm vụ và hiểu rõ bài toán. Nói cách khác, số HS này có
thể thiết lập công thức biểu diễn hàm số, vẽ và đọc đồ thị của hàm số, so sánh
với các tình huống khác. Với bài toán này, theo đánh giá hầu hết HS đều đạt
được kĩ năng mô hình hóa ở cấp độ 4 và rất hứng thú với dạng bài tập sưu tầm
hình ảnh parabôn trong thực tiễn và thiết lập phương trình biểu diễn bằng sử
dụng các phần mềm hình học động (như GeoGebra, Geometry Cabri,
Geometer‟s Sketchpad,...).
2.3. Thiết kế hoạt động mô hình hóa chủ đề phương trình và bất
phương trình
Trong cuộc sống, đôi khi ta phải so sánh giữa nhiều phương án khác
nhau để chọn ra phương án tối ưu chẳng hạn như lựa chọn giữa các mạng điện
thoại, giá thuê xe của các hãng taxi khác nhau hoặc trong kinh doanh người ta
luôn hướng đến chi phí sản xuất thấp, lợi nhuận cao nhất. Phương trình, bất
phương trình, hệ phương trình và hệ bất phương trình sẽ hữu ích trong một số
trường hợp để giải quyết các vấn đề thực tế tương tự.
Bài toán 2.5. (Bài toán máy bơm nước): Một gia đình muốn mua một
chiếc máy bơm. Có hai loại với cùng lưu lượng bơm được trong một giờ; loại
thứ nhất giá 1,5 triệu đồng, loại thứ hai giá 2 triệu đồng. Tuy nhiên, nếu dùng
62
máy bơm loại thứ nhất thì mỗi giờ tiền điện phải trả là 1200 đồng, trong khi
dùng máy bơm loại thứ hai thì chỉ phải trả 1000 đồng cho mỗi giờ bơm. Theo
bạn gia đình này nên chọn mua loại máy nào để đạt hiệu quả kinh tế cao?
* Mục tiêu hoạt động:
Chọn máy bơm trong hai loại để mua sao cho hiệu quả kinh tế là cao
nhất. Như vậy, ngoài giá cả ta phải quan tâm đến hao phí khi sử dụng máy nghĩa
là chi phí cần chi trả khi sử dụng máy trong một khoảng thời gian nào đó. Do
vậy, trong hoạt động này, HS có thể được rèn luyện những kĩ năng sau đây:
- Thiết lập phương trình và hệ phương trình hàm số bậc nhất.
- Biểu diễn và xác định miền nghiệm của hệ phương trình.
- Liên hệ toán học với các vấn đề về kinh tế và tối ưu toán học.
* Tiến trình hoạt động:
GV chia lớp thành các nhóm HS và tổ chức cho các nhóm giải quyết
bài toán theo các giai đoạn sau:
- Giai đoạn 1 (Toán học hóa): Kí hiệu f(x) và g(x) lần lượt là số tiền
(tính bằng nghìn đồng) phải trả khi sử dụng máy bơm loại thứ nhất và loại
thứ hai trong x giờ (bao gồm tiền điện và tiền mua máy bơm).
GV yêu cầu nhóm HS biểu diễn f(x) và g(x) dưới dạng các biểu thức
của x và vẽ đồ thị của hai hàm số y = f(x) và hàm số y = g(x) trên cùng hệ
trục tọa độ.
- Giai đoạn 2 (Giải bài toán): Các nhóm HS thực hiện nhiệm vụ do
GV đưa ra. Nhóm HS thảo luận và đưa ra nhận xét sau: Trong x giờ số tiền
phải trả khi sử dụng máy thứ nhất là: f(x) =1500 + 1,2x (nghìn đồng). Số tiền
phải chi trả cho máy thứ hai trong x giờ là: g(x) = 2000 + x (nghìn đồng).
Sau khi thảo luận HS thấy được rằng chi phí trả cho hai máy sử dụng là
như nhau sau khoảng thời gian x0 là nghiệm của phương trình f(x) = g(x). Từ
đó, GV yêu cầu nhóm HS giải phương trình: f(x) = g(x).
HS các nhóm nhận nhiệm vụ giải phương trình: f(x) = g(x).
63
1500 + 1,2x = 2000 + x x = 2500 (giờ). 0,2x = 500
Tiếp theo, HS vẽ đồ thị của hai hàm số f(x) và g(x) trên cùng hệ trục
tọa độ:
Hình 2.13: Bài làm của HS lớp thực nghiệm
- Giai đoạn 3 (Hiểu và thông dịch): Quan sát đồ thị HS thấy rằng ngay
sau khi sử dụng 2500 giờ tức là nếu mỗi ngày dùng 4 tiếng tương đương với
khoảng thời gian là không quá hai năm thì máy thứ hai chi phí sẽ thấp hơn rất
nhiều nên chọn mua máy thứ hai thì hiệu quả kinh tế sẽ cao hơn.
- Giai đoạn 4 (Đối chiếu thực tế): GV hướng dẫn nhóm HS phân tích
bài toán trong các trường hợp sau:
+ Trường hợp 1: Nếu thời gian sử dụng máy ít hơn hai năm thì mua
máy thứ nhất sẽ tiết kiệm hơn.
+ Trường hợp 2: Nếu thời gian sử dụng nhiều hơn hoặc bằng hai năm
thì nên mua máy thứ hai.
Tuy nhiên, trong thực tế một máy bơm có thể sử dụng được thời gian
khá dài. Do vậy, trong trường hợp này gia đình đó nên mua máy thứ hai.
* Phân tích kết quả hoạt động:
Đa số HS gặp khó khăn trong giai đoạn toán học hóa bài toán. Tuy
nhiên, với sự hướng dẫn của GV, nhóm HS đã giải quyết được vấn đề đó và
64
đối chiếu bài toán với thực tế. Kết quả thực nghiệm cho thấy, gần 80% số HS
chỉ đạt được kĩ năng MHH ở cấp độ 2, điều này chứng tỏ HS còn gặp nhiều
lúng túng khi gặp các bài toán về tối ưu toán học.
Bài toán 2.6. (Bài toán vitamin): Một nhà khoa học nghiên cứu về tác
động phối hợp của vitamin A và vitamin B đối với cơ thể con người. Kết quả
như sau:
(i) Mỗi người có thể tiếp nhận được mỗi ngày không quá 600 đơn vị
vitamin A và không quá 500 đơn vị vitamin B.
(ii) Mỗi người mỗi ngày cần từ 400 đến 1000 đơn vị vitamin cả A lẫn B.
(iii) Do tác động phối hợp của hai loại vitamin, mỗi ngày, số đơn vị
vitamin B không ít hơn số đơn vị vitamin A nhưng không nhiều hơn ba lần
số đơn vị vitamin A.
Giả sử x và y lần lượt là số đơn vị vitamin A và B mà bạn dùng mỗi ngày.
a) Gọi c (đồng) là số tiền vitamin mà bạn phải trả mỗi ngày. Hãy viết
phương trình biểu diễn c dưới dạng một biểu thức của x và y, nếu giá một đơn
vị vitamin A là 9 đồng và giá một đơn vị vitamin B là 7,5 đồng.
b) Viết các bất phương trình biểu thị các điều kiện (i), (ii), và (iii) thành
một hệ bất phương trình rồi xác định miền nghiệm (S) của hệ bất phương
trình đó.
c) Tìm phương án dùng hai loại vitamin A và B thoả mãn các điều kiện
trên để số tiền phải trả là ít nhất, biết rằng c đạt giá trị nhỏ nhất tại một trong
các đỉnh của miền nghiệm (S).
* Mục tiêu hoạt động:
Tính được số tiền phải bỏ ra ít nhất để mua vitamin A và vitamin B mà
vẫn đảm bảo cung cấp đủ lượng vitamin cần thiết cho cơ thể. Thông qua hoạt
động này, GV rèn luyện cho HS một số kĩ năng sau đây:
- Thiết lập phương trình và hệ phương trình hàm số bậc nhất.
- Kĩ năng giải hệ phương trình và đối chiếu kết quả với thực tế.
- Kĩ năng sống (biết tính toán và lựa chọn các loại thức ăn phù hợp bổ
65
sung các loại vitamin cần thiết cho các thành viên trong gia đình).
* Tiến trình hoạt động:
GV chia lớp thành các nhóm HS và tổ chức cho nhóm giải quyết bài
toán theo các giai đoạn sau:
- Giai đoạn 1 (Toán học hóa): GV hướng dẫn HS viết phương trình biểu
diễn c dưới dạng một biểu thức của x và y. Nhóm HS cần phải chuyển được những
thông tin đã cho từ các điều kiện (i), (ii) và (iii) thành những phương trình đại số
(hay hàm số), biết vận dụng thao tác trên các biểu thức đại số để giải quyết các vấn
đề đã đặt ra trong thực tiễn.
- Giai đoạn 2 (Giải bài toán): Các nhóm HS thảo luận về việc viết
phương trình biểu diễn c dưới dạng một biểu thức của x và y như sau:
c = 9x + 7,5y (đồng).
Nhóm HS chuyển những thông tin đã cho từ các điều kiện (i), (ii) và
(iii) thành những phương trình đại số (hay hàm số) như sau:
Theo (i) có: x ≤ 600 và y ≤ 500;
Theo (ii) có: 400 ≤ x + y ≤ 1000;
Theo (iii) có: x ≤ y ≤ 3x.
Nhóm HS rút ra hệ bất phương trình sau:
GV hướng dẫn nhóm HS rút ra nhận xét sau: Để xác định miền nghiệm (S)
của hệ bất phương trình trên ta vẽ các đường thẳng sau đây trên cùng một hệ trục
tọa độ:
x = 600; y = 500; y = x; y = 3x; y = –x + 400; y = –x + 1000
Nhóm HS thực hiện nhiệm vụ vẽ các đường thẳng trên và xác định
66
miền nghiệm (S) của hệ bất phương trình:
Hình 2.14: Minh họa miền nghiệm của bài toán Vitamin
Nhóm HS kết luận miền nghiệm (S) chính là miền trong lục giác
ABCDEF (Hình 2.14). Xác định tọa độ các đỉnh của hình lục giác, trong đó
tọa độ các điểm lần lượt là A(100; 300), B(166,67; 500), C(500; 500), D(600;
400), E(600; 300), F(266,67; 133,33).
Từ ý (a), (b) và vì c đạt giá trị nhỏ nhất tại một trong các đỉnh của miền
nghiệm (S) nên HS rút ra c = 9x + 7,5y nhỏ nhất khi x = 100 và y = 300 và
giá trị đó là c = 9.100 + 7,5.300 = 3150.
- Giai đoạn 3 (Hiểu và thông dịch): Mỗi người phải trả ít nhất 3150
đồng cho 100 đơn vị vitamin A và 300 đơn vị vitamin B để đảm bảo cung cấp
đủ lượng vitamin A và B cho cơ thể hàng ngày.
- Giai đoạn 4 (Đối chiếu thực tế): Ngoài việc tính toán được lượng
vitamin A và B ta cũng có thể tính được rất nhiều loại vitamin và các chất
dinh dưỡng khác cần thiết cho cơ thể. So sánh kết quả bài toán với lượng
vitamin được sử dụng trong gia đình mình và đưa ra giải pháp khắc phục
nhằm đảm bảo sức khỏe cho cả gia đình.
* Phân tích kết quả hoạt động:
Vì nội dung bài toán đã toán học hóa vấn đề cho nên các nhóm HS đã
vận dụng tốt quy trình MHH để giải bài toán trên. Trên 70% số HS đạt được
67
kĩ năng MHH ở cấp độ 4 và đều có đối chiếu với thực tế bản thân. Thông qua
hoạt động này, GV giảng dạy Toán có thể tích hợp các kiến thức về giáo dục
sức khỏe và hướng dẫn HS sử dụng mô hình toán học để mô tả những tình
huống thực tiễn, cũng như đối chiếu với thực tế để rút ra bài học cho bản thân.
2.4. Xây dựng hệ thống bài tập mô hình hóa đại số lớp 10
Trong dạy học Toán ở trường phổ thông, HS thường gặp khó khăn sau
đây khi giải quyết các bài tập MHH:
- MHH bao gồm việc chuyển đổi giữa toán học và thực tế theo cả hai
chiều vì vậy kiến thức toán và kiến thức thực tế đều cần thiết. Tuy nhiên, HS
thường thiếu kiến thức thực tế liên quan đến tình huống cũng như kinh
nghiệm để tạo ra các mô hình thực tế.
- HS mất nhiều thời gian trong việc hiểu tình huống, thiết lập các giả
thiết, nhận ra các biến phù hợp, thu thập dữ liệu thực tế để cung cấp thêm
thông tin về tình huống.
- Tình huống thực tế có thể được xây dựng lại theo những cách khác
nhau tùy thuộc vào kinh nghiệm của chính HS, đôi khi các em tạo ra một tình
huống giả tưởng xung quanh vấn đề được đặt ra hoặc thoát khỏi môi trường
“thực nghiệm” toán học.
- Các tình huống MHH được đặt trong môi trường thực tế thường
phức tạp và có phương án giải quyết “mở” do đó có nhiều cách khác nhau
để tiếp cận và có thể có nhiều kết quả khác nhau. Vì vậy, GV khó dự đoán
trước các cách giải quyết của HS cũng như khó hướng dẫn các em trong
quá trình MHH.
Tóm lại, các tình huống MHH làm cho việc học toán của HS trở nên
thách thức hơn so với các nhiệm vụ toán học thông thường – dễ nắm bắt,
thường có quy tắc, thuật toán. Điều này về cơ bản có thể giải thích được bởi
sự phức tạp vốn có của các nhiệm vụ MHH. Các khó khăn tập trung chủ yếu ở
bước chuyển từ “tình huống thực tế” đến “mô hình toán học”. Do đó, để hạn
68
chế những khó khăn trên, GV cần đưa ra một mô hình thực tế thay vì một tình
huống thực tế và HS phải chuyển đổi tình huống từ thực tế vào môi trường
toán, giải quyết vấn đề toán học, đưa ra kết quả giải bài toán và giải thích kết
quả trong ngữ cảnh thực tế ban đầu. Điều này giúp HS tiếp cận hoạt động
MHH trong giờ học toán mà vẫn đảm bảo:
(i) Phát triển năng lực vận dụng toán học trong giải quyết các bài
toán thực tiễn;
(ii) Đưa toán học ra khỏi phạm vi lớp học;
(iii) Sử dụng ngữ cảnh thực tế là một thành phần then chốt trong
quá trình MHH;
(iv) Thực hiện chuyển đổi từ môi trường thực tế sang môi trường toán
và ngược lại.
Từ đó, chúng tôi xây dựng hệ thống bài tập MHH nội dung Đại số lớp
10 dựa theo các tiêu chí sau đây:
- Các bài tập đều là những tình huống toán học hóa, chứa đựng các yếu
tố của thực tiễn và có thể sử dụng quá trình toán học hóa để giải quyết.
- Kiến thức toán học được sử dụng để giải quyết vấn đề của bài tập
thuộc chương trình Đại số lớp 10.
- Các bài tập được phân loại ở các mức độ khác nhau, phù hợp với từng
đối tượng HS.
- Mục tiêu của mỗi tình huống cần tập trung vào phát triển một số kĩ
năng toán học cho HS.
2.4.1. Hệ thống bài tập chủ đề “Hàm số bậc nhất và hàm số bậc hai”
Bài tập 2.1. Biểu đồ trong Hình 2.15 biểu thị sản lượng vịt, gà và ngan
lai qua 5 năm của một trang trại. Coi y = f(x), y = g(x) và y = h(x) tương ứng là
các hàm số biểu thì sự phụ thuộc số vịt, số gà và số ngan lai qua thời gian x.
a) Tìm tập xác định của mỗi hàm số đã nêu.
b) Tìm các giá trị f(2002), g(1999), h(2000) và nêu ý nghĩa của chúng.
69
c) Tính hiệu h(2002) – h(1999) và nêu ý nghĩa của nó.
Hình 2.15: Biểu đồ sản lượng gà, vịt và ngan lai qua các năm
Mục tiêu: Thông qua bài tập này, GV có thể đánh giá được các kĩ năng
sau đây của HS:
- Kĩ năng tìm tập xác định của hàm số.
- Kĩ năng đọc và hiểu ý nghĩa số liệu biểu diễn trên biểu đồ.
- Kĩ năng vận dụng kiến thức toán học trong giải quyết bài toán thực tiễn.
Lời giải:
a) Tập xác định của ba hàm số y = f(x), y = g(x) và y = h(x) là:
D =
b) f(2002) = 620000 (con); g(1999) = 380000 (con); h(2000) = 100000
(con). Năm 2002 sản lượng của trang trại là 620000 con vịt, năm 1999 sản
lượng là 380000 con gà, năm 2000 sản lượng là 100000 con ngan lai.
Hình 2.16: Bài làm của HS lớp thực nghiệm
c) h(2002) – h(1999) = 210000 – 30000 = 180000 (con). Năm 2002 sản
70
lượng ngan lai của trang trại tăng 180000 con so với năm 1999.
Hình 2.17: Bài làm của HS lớp thực nghiệm
Bài tập 2.2. Một lớp học muốn thuê một hướng dẫn viên cho chuyến
thăm quan, có 2 công ty đã được liên hệ để lấy các thông tin về giá. Công ty
A có phí dịch vụ ban đầu là 375 USD cộng với 0,5 USD cho mỗi km hướng
dẫn. Công ty B có phí dịch vụ ban đầu là 250 USD cộng với 0,75 USD cho
mỗi km hướng dẫn.
a) Lớp học nên chọn công ty nào để thuê hướng dẫn viên nếu biết rằng
chuyến đi sẽ đến một địa điểm nào đó với tổng khoảng cách đi lại là 400 km,
600 km?
b) Vậy nếu đi với khoảng cách là bao nhiêu thì chọn công ty A có lợi hơn?
Mục tiêu: Chọn công ty nào để thuê hướng dẫn viên với chi phí thấp
hơn khi đi những quãng đường xác định. Qua bài toán, GV có thể đánh giá
các kĩ năng sau đây của HS:
- Kĩ năng thiết lập hàm số bậc nhất.
- Kĩ năng giải bất phương trình bậc nhất.
- Kĩ năng vận dụng toán học giải quyết các bài toán thực tiễn.
Lời giải: Gọi x là số ki-lô-mét lớp đó đi trong ngày (x > 0). Khi đó số
tiền phải trả cho công ty A là 375 + 0,5x, số tiền phải trả cho công ty B là:
71
250 + 0,75x.
a) Nếu x = 400 thì số tiền phải trả cho công ty A là 575 USD, số tiền
phải trả cho công ty B là 550 USD. Vậy chọn công ty B sẽ có lợi hơn.
Nếu x = 600 thì số tiền phải trả cho công ty A là 675 USD, số tiền phải
trả cho công ty B là 700 USD. Vậy chọn công ty A sẽ có lợi hơn.
Hình 2.18: Bài làm của HS lớp thực nghiệm
b) Việc chọn công ty A sẽ có lợi hơn nếu số tiền phải trả cho công ty A
nhỏ hơn số tiền phải trả cho công ty B tức là: 375 + 0,5x < 250 + 0,75x. Giải
bất phương trình trên ta có x < 500. Vậy thuê hãng A sẽ có lợi hơn nếu mỗi
ngày đi dưới 500 km.
Bài toán sẽ khó hơn nếu GV đặt câu hỏi là lớp học nên chọn công ty
nào nếu tổng quãng đường sẽ từ 400 đến 600 km. Gác lại một số yếu tố hư
cấu thì một tình huống như trên hoàn toàn có thể xảy ra. Bài toán có thể giải
bằng phương pháp đại số hoặc bằng đồ thị hoặc sự kết hợp của cả hai. Tùy
theo nội dung cần củng cố mà GV có thể lựa chọn giải quyết bài toán theo
cách nào. Ví dụ như khi HS học về hàm số bậc nhất thì có thể giải toán toán
trên bằng cách vẽ đồ thị hàm số để rèn luyện kĩ năng biểu diễn cũng như đọc
hiểu thông tin từ đồ thị hàm số.
Bài tập 2.3. Có 3 hình thức trả tiền cho việc truy cập internet như sau:
- Hình thức A: Mỗi giờ truy cập giá 2000 đồng.
- Hình thức B: Thuê bao hàng tháng 350.000 đồng và số giờ truy cập
không hạn chế.
- Hình thức C: Thuê bao hàng tháng 45.000 đồng và mỗi giờ truy cập
phải trả 500 đồng.
a) Em hãy cho biết hình thức nào phải trả ít tiền hơn nếu tổng hợp truy
72
cập hàng ngày trong tháng (30 ngày) lần lượt là 45h; 300h; 360h?
b) Hãy viết p(x), q(x), u(x) theo thứ tự là số tiền phải trả hàng tháng
theo mỗi hình thức A, B, C trong đó x là số giờ truy cập internet.
Mục tiêu: Chọn hình thức truy cập internet nào để chi phí thấp nhất.
Qua bài toán này, GV có thể rèn luyện cho HS một số kĩ năng sau đây:
- Kĩ năng biểu diễn số liệu (dạng bảng).
- Kĩ năng thiết lập hàm số bậc nhất.
- Kĩ năng vận dụng kiến thức toán học trong giải quyết các vấn đề
thực tiễn.
Lời giải. a) Lập bảng và điền vào bảng sau để thống kê kết quả:
Số giờ truy cập tháng 45h 300h 360h
Số tiền phải trả Hình thức A
Hình thức B
Hình thức C
b) Hình thức A là: p(x) = 2000x (đồng); hình thức B là: q(x) = 350000
(đồng); và hình thức C là: u(x) = 500x + 40000 (đồng).
Bài tập 2.4. (Bài toán tàu vũ trụ): Khi một con tàu vũ trụ được phóng
lên Mặt trăng, trước hết nó bay vòng quanh Trái đất. Sau đó, đến một thời
điểm thích hợp, động cơ bắt đầu hoạt động đưa con tàu bay theo quỹ đạo là
một nhánh parabôn lên Mặt trăng (trong hệ tọa độ Oxy, x và y tính bằng đơn
vị nghìn kilômét). Biết rằng khi động cơ bắt đầu hoạt động, tức là khi x = 0 thì
y = –7. Sau đó, ta có y = –4 khi x = 10 và y = 5 khi x = 20.
73
Hình 2.19: Qũy đạo chuyển động của tàu vũ trụ
a) Tìm hàm số bậc hai có đồ thị chứa nhánh parabôn nói trên. b) Theo lịch trình, để đến được Mặt Trăng, con tàu phải đi qua điểm có tọa độ (100; y) với y = 294 ± 1,5. Hỏi điều kiện đó có được thỏa mãn hay không?
Mục tiêu: Bài toán yêu cầu HS xác định hàm số bậc hai có đồ thị chứa nhánh parabôn nói trên và xác định điểm nào đó có thuộc đồ thị chứa nhánh parabôn hay không. Qua đó, GV có thể đánh giá các kĩ năng sau đây của HS:
- Kĩ năng giải hệ phương trình bậc nhất hai ẩn. - Kĩ năng xây dựng mô hình toán học. - Kĩ năng vận dụng kiến thức toán học trong giải quyết các vấn đề
thực tiễn.
Lời giải: a) Ta cần tìm hàm số dạng f(x) = ax + bx + c thỏa mãn điều kiện là f(0) = c = –7; f(10) = 100a + 10b – 7 = –4; f(20) = 400a + 20b – 7 = 5.
Từ đó suy ra a = 0,03; b = 0. Vậy hàm số cần tìm là f(x) = 0,03x – 7.
Hình 2.20: Bài làm của HS lớp thực nghiệm
b)Theo điều kiện khi x = 100 thì y = 294 , tức là:
294 – 1,5 294 + 1,5 hay y (292,5; 295,5) y
Ta thấy f(100) = 293 thỏa mãn điều kiện đó.
74
Hình 2.21: Bài làm của HS lớp thực nghiệm
Bài tập 2.5. Dưới đây là bảng số liệu và mô hình biểu diễn mối tương quan
giữa điểm số trên lớp và thời gian học tập ở nhà trong một ngày của 12 HS.
Thời gian 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Điểm số 60 55 65 65 77 80 83 80 75 90 72 68
a) Hãy biểu diễn số liệu trong bảng trên hệ trục tọa độ Đề-các vuông
góc. Từ đó, xấp xỉ mô hình hàm số bậc nhất và hàm số bậc hai.
b) Quan sát hai mô hình hàm số bậc nhất (đường thẳng) và mô hình
hàm số bậc hai (parabôn), hãy cho biết mô hình nào biểu diễn số liệu trong
bảng tốt hơn?
c) Từ mô hình đã chọn ở trên, hãy rút ra bài học cần thiết về số giờ học
trong một ngày để đạt hiệu quả học tập cao nhất.
Mục tiêu: Biết được khoảng thời gian thích hợp nhất để học tập ở nhà
để đạt được hiệu quả học tập cao nhất. Qua bài toán này, GV có thể đánh giá
các kĩ năng sau đây của HS:
- Kĩ năng biểu diễn số liệu thống kê.
- Kĩ năng xây dựng mô hình toán học.
- Kĩ năng đọc và hiểu ý nghĩa thực tế của mô hình toán học.
Lời giải:
a) Số liệu trong bảng được biểu diễn như sau:
75
Hình 2.22: Mối tương quan giữa thời gian học ở nhà và điểm số
b) Quan sát biểu diễn trên, ta thấy mô hình hàm số bậc hai biểu diễn tốt
hơn mô hình hàm số bậc nhất.
c) Từ đồ thị hàm số bậc hai cho ta biết rằng cần sắp xếp thời gian học
tập ở nhà cho hợp lý (không quá ít mà cũng không quá nhiều). Thời gian tốt
nhất là khoảng 07 tiếng/ngày (đỉnh của parabôn).
Bài tập 2.6. (Thành tích chạy 100m nam): Quan sát bảng thống kê dưới
đây về kỷ lục chạy 100 mét (thời gian tính theo đơn vị giây) của các nam vận
động viên tại các thế vận hội Ôlympíc mùa hè từ năm 1900 đến năm 2012:
1900 11.0 1952 10.04 1988 9.92 1924 1920 1912 1908 1904 10.08 10.06 10.08 10.8 11.0 1972 1968 1964 1960 1956 10.14 10.05 10.02 10.06 9.95 2008 2004 2000 1996 1992 9.69 9.85 9.87 9.84 9.96 1928 10.03 1976 10.06 2012 9.63 1932 10.03 1980 10.25 1948 10.03 1984 9.99
a) Dựa vào bảng số liệu trên, hãy biểu diễn thành tích của nam vận
động viên nam trên hệ trục tọa độ.
b) Xác định mô hình biểu diễn tốt nhất cho thành tích trên và đưa ra dự
đoán cho thành tích của nam vận động viên chạy cự ly 100 m tại Ôlympíc
mùa hè 2016 tại Rio de Janeiro (Braxin).
Mục tiêu: Dự đoán thành tích của nam vận động viên tại Ôlympíc mùa
hè 2016 tại Rio de Janeiro (Braxin). Qua bài toán, GV có thể đánh giá các kĩ
năng sau đây của HS:
- Kĩ năng biểu diễn số liệu thống kê.
- Kĩ năng xây dựng và so sánh các mô hình toán học.
- Kĩ năng đọc và hiểu xu hướng của mô hình toán học.
Lời giải: a) Dựa vào các số liệu trên, sử dụng phần mềm toán học để xử
lý số liệu và đưa ra được đồ thị hàm số tuyến tính biểu diễn xấp xỉ các giá trị
76
(số giây) theo các năm tổ chức thế vận hội mùa hè như sau:
b) Kết quả tính toán đưa ra hàm số biểu diễn mối quan hệ tuyến tính
của mô hình trên: , trong đó t là thời gian
chạy 100 mét (tính theo đơn vị giây), N là số năm. Từ mô hình này, ta có thể
dự đoán về thành tích của nam vận động viên chạy 100 mét tại Ôlympíc mùa
hè 2016 tại Rio de Janeiro (Braxin) theo công thức:
(giây)
Hình 2.23: Mô hình tuyến tính thành tích của các nam vận động viên
Như vậy, để tăng cường toán học hóa các tình huống thực tiễn sử dụng
mô hình, GV có thể hướng dẫn HS điều tra các số liệu thực tế, tích hợp các
kiến thức về môi trường, địa lý, kinh tế,…. Ví dụ như yêu cầu HS phân tích
số lượng của một loài động vật nào đó có nguy cơ tuyệt chủng trong khoảng
thời gian 10 năm gần đây để từ đó xây dựng mô hình dự đoán về khả năng và
thời gian tuyệt chủng của loài đồng vật này hoặc yêu cầu HS phân tích số
lượng xe hơi bán ra tại Việt Nam trong 05 năm gần đây để xây dựng mô hình
dự đoán về tốc độ tăng trưởng về số lượng xe hơi để từ đó đề xuất các giải
pháp về giao thông và thuế.
Bài tập 2.7. (Cầu dây cáp treo): Dây truyền đỡ nền cầu treo có dạng
đường parabôn ACB như Hình 2.24. Đầu cuối của dây được gắn chặt vào
77
điểm A và B trên trục AA’ và BB’ với độ cao 30m. Chiều dài nhịp A’B’ =
200m. Độ cao ngắn nhất của dây truyền trên nền cầu là OC = 5m. Xác định
chiều dài các dây cáp treo (thanh thẳng đứng nối nền cầu với dây truyền)?
(100; 30)
y
A B
M3
200m
y3 30m M2 y2 M1 y1 C O 5m A’ B’ x
Hình 2.24: Mô hình cầu dây cáp treo
Mục tiêu: Bài toán yêu cầu xác định chiều dài các dây cáp treo. Qua đó,
GV có thể đánh giá được các kĩ năng sau đây của HS:
- Kĩ năng xây dựng hàm số bậc hai.
- Kĩ năng giải hệ phương trình bậc nhất hai ẩn.
- Kĩ năng vẽ và đọc hiểu ý nghĩa thực tế của đồ thị hàm số bậc hai.
Lời giải: Chọn trục Oy trùng với trục đối xứng của parabôn, trục Ox
nằm trên nền cầu. Khi đó ta có tọa độ các điểm A(100; 30), C(0; 5). Từ đó, ta tìm được phương trình của parabôn có dạng y = ax2 + bx + c. Parabôn này có
đỉnh là C và đi qua A nên ta có hệ phương trình sau:
Từ đó suy ra parabôn có phương trình y = x2 + 5.
Bài toán đưa về việc xác định chiều dài các dây cáp treo, có nghĩa là
tính tung độ của các điểm M1, M2, M3 thuộc parabôn. Ta dễ dàng tính được
78
tung độ các điểm có các hoành độ x1 = 25, x2 = 50, x3 = 75 lần lượt là y1 =
6,56 (m), y2 = 11,25 (m), y3 = 19,06 (m). Đó chính là độ dài các dây cáp treo
cần tính.
2.4.2. Hệ thống bài tập chủ đề “Phương trình và bất phương trình”
Bài tập 2.8. Một công ty TNHH trong một đợt quảng cáo và bán
khuyến mãi hàng hoá (sản phẩm mới của công ty) cần thuê xe để chở 140
người và 9 tấn hàng. Nơi thuê chỉ có hai loại xe A và B. Trong đó xe loại
A có 10 chiếc, xe loại B có 9 chiếc. Một chiếc xe loại A cho thuê với giá
4 triệu đồng, loại B giá 3 triệu đồng. Hỏi phải thuê bao nhiêu xe mỗi loại
để chi phí vận chuyển là thấp nhất. Biết rằng xe A chỉ chở tối đa 20 người
và 0,6 tấn hàng; xe B chở tối đa 10 người và 1,5 tấn hàng.
Mục tiêu: Xác định xem thuê bao nhiêu xe mỗi loại để chi phí vận
chuyển là thấp nhất. Qua đó, GV có thể đánh giá các kĩ năng sau đây của HS:
- Kĩ năng thiết lập và giải hệ bất phương trình bậc nhất hai ẩn.
- Kĩ năng giải các bài toán tối ưu và ứng dụng trong thực tiễn.
Lời giải: Trước hết ta cần phải tính số xe loại A, loại B cần dùng sao
cho chi phí là thấp nhất. Nếu chỉ sử dụng một loại xe thì không đáp ứng yêu
cầu. Thật vậy, nếu dùng cả 9 xe B thì chở được 90 người và vận chuyển được
13,5 tấn hàng. Như vậy sẽ thừa 50 người và thiếu 4,5 tấn. Nếu dùng cả 10 xe
A chở được 200 người và 6 tấn hàng như vậy sẽ hiếu 60 người và thừa 3 tấn
hàng. Do vậy, ta phải thuê hai loại xe.
Gọi x, y lần lược là số xe loại A, B cần dùng. Theo đề bài thì cần tìm x,
y sao cho A(x, y) = 4x + 3y đạt giá trị nhỏ nhất. Ta có:
Để giải bài toán này ta lần lượt giải hai bài toán nhỏ dưới đây:
a) Xác định tập (S) các điểm có có toạ độ (x, y) thoả mãn hệ bất
79
phương trình (II) trên.
b) Khi (x, y) lấy giá trị trên (S) tìm giá trị nhỏ nhất T(x, y) = 4x + 3y.
Việc giải bài toán (a) rất đơn giản. Miền nghiệm (S) của hệ II được
biểu diễn bởi tứ giác ABCD kể cả biên như hình vẽ:
Hình 2.25: Minh họa miền nghiệm của hệ bất phương trình (II)
Giải bài toán (b) nghĩa là tìm tất cả các điểm M(x, y) thuộc tứ giác
ABCD sao cho A(x, y) nhỏ nhất. Ta biết rằng A(x, y) nhỏ nhất đạt tại các giá
trị biên của tứ giác ABCD, nên ta cần tìm các toạ độ các đỉnh.
Điểm A(x, y) là nghiệm hệ:
Điểm B(x, y) là nghiệm hệ:
Điểm C(x, y) là nghiệm hệ:
Điểm D(x, y) là nghiệm hệ:
Tính giá trị T(x, y) tại các điểm biên:
80
T(A) = 4.5 + 3.4 = 32 (triệu đồng)
T(B) = 4.10 + 3.2 = 46 (triệu đồng)
T(C) = 4.10 + 3.9 = 67 (triệu đồng)
T(D) = 4. + 3.9 = 37 (triệu đồng)
Vậy T(A) = 32 triệu đồng là nhỏ nhất. Do đó, ít tốn tiền vận chuyển
nhất nên phương án chọn là 5 xe A và 4 xe B.
Bài tập 2.9. Trong một cuộc thi về “bữa ăn dinh dưỡng”, ban tổ chức
yêu cầu để đảm bảo lượng dinh dưỡng hằng ngày thì mỗi gia đình cần ít nhất
900 đơn vị prôtêin và 400 đơn vị lipít trong thức ăn hằng ngày. Mỗi kg thịt bò
chứa 800 đơn vị prôtêin và 200 đơn vị lipít, mỗi kg thịt heo chứa 600 đơn vị
prôtêin và 400 đơn vị lipít. Biết rằng mẹ chỉ được mua tối đa 1,6 kg thịt bò và
1,1 kg thịt heo. Mỗi kg thịt bò giá 100.000đ, mỗi kg thịt heo giá 70.000đ.
Phần thắng sẽ thuộc về gia đình nào trong khẩu phần thức ăn đảm bảo chất
dinh dưỡng và chi phí bỏ ra là ít nhất.
Mục tiêu: Tính toán khẩu phần thức ăn đảm bảo chất dinh dưỡng và chi
phí bỏ ra là ít nhất. GV có thể đánh giá các kĩ năng sau đây của HS:
- Kĩ năng lập và giải hệ bất phương trình bậc nhất hai ẩn từ tình
huống thực tiễn.
- Kĩ năng mô hình hóa và biểu diễn miền nghiệm của hệ bất phương
trình bậc nhất hai ẩn.
- Kĩ năng hiểu và rút ra ý nghĩa thực tiễn từ mô hình toán học.
Lời giải: Xác định lượng thịt heo và thịt bò cần mua để vừa đảm bảo
dinh dưỡng vừa ít tốn nhất. Rõ ràng đối với trường hợp này nếu ta chỉ mua
một loại thịt thì không đáp ứng yêu cầu. GV hướng dẫn HS phân tích bài toán
như sau:
- Nếu chỉ mua thịt heo thì ta mua được tối đa 1,1 kg. Khi đó chi phí bỏ
ra là: 1,1 x 70.000 = 77000đ. Với lượng thịt trên thì cung cấp 1,1 x 600 = 660
đơn vị prôtêin và 1,1 x 400 = 440 đơn vị lipít. Như vậy, lượng lipít thừa mà
81
lượng prôtêin thì thiếu.
- Nếu chỉ mua thịt bò thì rõ ràng chi phí sẽ rất cao.
Do vậy, ta phải mua hai loại thịt. Vì thế, ta có thể trình bày lời giải của bài
toán như sau: Gọi x, y lần lượt là khối lượng thịt bò và thịt heo mà mẹ mua. Bài
toán đặt ra là tìm x, y để T = 100.000x + 70.000y đạt giá trị nhỏ nhất.
Ta có điều kiện của bài toán là:
Hình 2.26: Minh họa miền nghiệm của hệ bất phương trình
Miền giới hạn chính là tứ giác ABCD với tọa độ các điểm là: A(0,3;
1,1), B(1,6; 1,1), C(1,6; 0,2), D(0,6; 0,7). Ta tính được:
T(A) = 107.000đ
T(B) = 237.000đ
T(C) = 174.000đ
82
T(D) = 109.000đ
Vậy Tmin = 107.000đ khi mẹ mua 0.3 kg thịt bò và 1,1 kg thịt heo. Do
vậy, để thắng trong cuộc thi này mẹ ngoài tay nghề nấu nướng thì mẹ nên
mua 0,3 kg thịt bò và 1,1 kg thịt heo.
Bài tập 2.10. Giám đốc công ty X vừa khánh thành ngôi nhà của mình,
diện tích mảnh đất làm nhà là 600m2, phải dùng 95m lưới sắt để làm rào
chắn. Bây giờ ông ta muốn trồng cây xanh và hoa để ngôi nhà thêm đẹp.
Theo ý ông dọc theo ngôi nhà là trồng cây tùng, trước và sau ngôi nhà trồng
loại cây vạn tuế. Khoảng cách mỗi cây cảnh phải đảm bảo kỹ thuật. Nếu bạn
nhận nhiệm vụ này bạn sẽ làm như thế nào (biết cổng ra vào dài 5m), khu
vườn ngôi nhà có dạng hình chữ nhật.
Mục tiêu: Qua bài toán, GV có thể đánh giá các kĩ năng sau đây của HS:
- Kĩ năng phân tích và giải quyết vấn đề.
- Kĩ năng lập và giải hệ phương trình bậc nhất hai ẩn.
Lời giải: Cần tính số cây cảnh để trồng trong khu vườn. Do vậy, chúng
ta cần quan tâm đến khoảng cách của mỗi loại cây cảnh, chiều dài, chiều rộng
của khu vườn. Do đó, GV hướng dẫn HS phân tích theo các phương án sau:
- Phương án 1: Người trồng cây không cần tính toán mà mua số cây
một cách tuỳ tiện và trồng theo đúng khoảng cách kỹ thuật của cây cảnh, nếu
thiếu cây thì mua thêm, nếu thừa cây thì trả lại nơi bán. Ta thấy rằng với cách
làm việc như thế này thì anh ta sẽ rất vất vả và sẽ tốn thêm chi phí vận
chuyển trong trường hợp mua thêm hoặc trả lại cây cảnh nếu ngôi nhà ở xa
nơi bán cây cảnh.
- Phương án 2: Người này tính toán số cây có thể trồng trước khi mua.
Do vậy anh ta quan tâm đến chiều dài, chiều rộng của khu vườn. Nếu gọi x là
83
chiều dài của khu vườn, y là chiều rộng của khu vườn. Ta có:
Theo định lý Vi-ét thì x, y là nghiệm của phương trình sau:
Giả sử khoảng cách đảm bảo kỹ thuật khi trồng cây tùng là 2m. Như
vậy, dọc theo ngôi nhà ta có thể trồng tối đa là (cây). Nếu cây cảnh
trúc cũng có khoảng cách kỹ thuật là 2m thì chiều rộng ngôi nhà sẽ trồng 20/2
= 10 số cây trồng phía trước. Số cây trồng trước nhà không được trồng ở
cổng. Do vậy, nếu cổng ở giữa thì khoảng đất còn lại là 15m. Theo tính toán
sẽ trồng tối đa là 8 cây.
Do vậy, nếu trồng 30 cây tùng thì chỉ trồng được 10 + 8 – 4 = 14 cây
vạn tuế, còn nếu trồng 18 cây vạn tuế thì trồng được 26 cây tùng.
Bài tập 2.11. Một cửa hàng bán áo sơ mi, quần âu nam. Vì khi bán chị
bán hàng quên ghi chép vào sổ để chủ cửa hàng kiểm tra. Chiều ngày thứ 3
người chủ buộc chị phải nộp sổ để theo dõi nhưng chị không biết rõ ba ngày
qua đã bán được những gì. Chỉ nhớ rằng ngày thứ nhất bán được 5.160.000đ,
ngày thứ hai bán được 6.080.000đ, ngày thứ ba bán được 4.920.000đ. Vậy
bạn có cách nào giúp chị ấy không?
Mục tiêu: Phải tìm được số hàng bán từng ngày. Do vậy, phải tính
được ngày thứ nhất bán được bao nhiêu áo sơ mi, quần âu nam, tương tự các
ngày sau. Qua bài toán này, GV có thể đánh giá các kĩ năng sau đây của HS:
- Kĩ năng phân tích tình huống thực tế và toán học hóa.
- Kĩ năng thiết lập và giải hệ phương trình bậc nhất nhiều ẩn.
Lời giải: GV có thể hướng dẫn nhóm HS phân tích tình huống theo các
phương án sau đây:
- Phương án 1: Chị ấy đếm số quần áo còn lại rồi so sánh với số quần
áo khi nhập vào sau đó chia đều cho ba ngày. Cách tính này rất nhanh, chính
84
xác nhưng khó có thể thuyết phục được bà chủ.
- Phương án 2: Tính số hàng bán từng ngày. Khi hỏi chị bán hàng cho
biết thêm thông tin: ngày thứ ba bán được 15 quần âu nam, tổng số áo và quần
bán được trong ba ngày lần lược là 52 và 60. Từ giả thuyết ta gọi x1, x2, x3 lần
lượt là số áo sơ mi bán ở ngày thứ nhất, thứ hai, thứ ba. Gọi y1, y2, y3 lần lược
là số quần âu nam bán ở ngày thứ nhất, thứ hai, thứ ba. Theo đề ta có:
Như vậy, ngày thứ nhất chị ấy bán được 12 áo sơ mi, 21 quần âu nam;
ngày thứ hai bán được 16 áo sơ mi và 24 quần âu nam; ngày thứ ba bán được
24 áo sơ mi và 15 quần âu nam. Điều này hoàn toàn hợp lý.
Bài tập 2.12. Trong một xưởng cơ khí có những thanh sắt dài 7,4m.
Người chủ muốn các thợ của mình cắt mỗi thanh sắt thành các đoạn dài 0,7m
và 0,5m để tiện sử dụng. Bây giờ người chủ muốn có 1000 đoạn 0,7m và
2000 đoạn 0,5m. Bạn hãy ước lượng xem cần dùng ít nhất bao nhiêu thanh
sắt 7,4m để làm?
Mục tiêu: Cắt đủ số đoạn theo yêu cầu và phải dùng thanh sắt 7,4m ít
nhất. Do vậy, nhiệm vụ của HS là cần tìm cách cắt theo yêu cầu và chọn cách
cắt tiết kiệm nhất. Qua bài toán này, GV có thể đánh giá các kĩ năng sau đây
của HS:
- Kĩ năng mô hình hóa toán học.
85
- Kĩ năng thiết lập và giải bất phương trình bậc nhất hai ẩn.
Lời giải: GV phân tích cho HS thấy rằng muốn tiết kiệm vật liệu thì
cần phải cắt mỗi thanh 7,4 m thành a đoạn 0,7m, b đoạn 0,5m không dư. Tức
là ta cần giải phương trình:
Và . Ta có: thì (1 + 2a)
Và . Vì 1 + 2a là số lẻ nên ta suy ra:
Vậy ta có hai cách cắt một thanh 7,4m tiết kiệm: Cắt thành 2 đoạn
0,7m và 12 đoạn 0,5m; cắt thành 7 đoạn 0,7m và 5 đoạn 0,5m. Tiếp theo, GV
hướng dẫn HS chọn cách tiết kiệm nhất trong hai cách trên.
Gọi x thanh cắt theo kiểu thứ nhất, y thanh cắt theo kiểu thứ hai. Như
vậy số đoạn 0,7m là . Số đoạn 0,5m là . Để có 1000 đoạn
0,7m và 2000 đoạn 0,5m nên x, y là nghiệm hệ phương trình sau:
Vậy đã cắt được đoạn 0,7m và đoạn 0,5m.
Ta chỉ cần cắt thêm một thanh theo kiểu thứ nhất. Như vậy, ta đã dùng
tất cả thanh 7,4m. Bây giờ GV hướng dẫn HS chỉ ra rằng
cách cắt này là tiết kiệm nhất.
Thật vậy, ta thấy tổng số độ dài của 1000 đoạn 0,7m và 2000 đoạn
86
0,5m là:
Vậy phải dùng ít nhất thanh. Tóm lại, ta chỉ cần cắt
122 thanh theo kiểu thứ nhất, 108 thanh theo kiểu thứ hai.
Bài tập 2.13. Một hãng taxi định giá tiền thuê xe đi mỗi km là 6000đ
cho 10km đầu tiên và 2500đ cho các km tiếp theo, hoặc 4000đ cho mỗi km
trên cả quãng đường. Vậy một khách hàng muốn đi x km thì phải chọn
phương án nào?
Mục tiêu: Người thuê xe cần chọn 1 trong 2 cách đi trên sao cho tiết
kiệm nhất. Qua đó, GV có thể đánh giá các kĩ năng sau đây của HS:
- Kĩ năng thiết lập và giải bất phương trình bậc nhất một ẩn.
- Kĩ năng vận dụng toán học vào giải quyết các tình huống trong thực tiễn.
Lời giải: Ta thấy nếu quãng đường khách hàng đi x ≤ 10km thì chọn
cách thứ hai để trả tiền sẽ tiết kiệm hơn và tiết kiệm được
đồng.
Nếu , . Theo cách thứ nhất số tiền khách phải
. Theo cách thứ hai số tiền hành trả là:
khách phải trả là: .
Ta xét:
Vậy nếu đoạn đường hành khách đi lớn hơn 13,3 km thì nên chọn cách
thứ nhất sẽ đỡ tốn kém hơn.
Bài tập 2.14. Một xưởng sản xuất hai loại sản phẩm, mỗi kg sản phẩm
loại I cần 2kg nguyên liệu và 30 giờ, đem lại mức lãi 40000 đồng. Mỗi kg sản
phẩm loại II cần 4kg nguyên liệu và 15 giờ, đem lại mức lãi 30000 đồng.
Xưởng có 200kg nguyên liệu và 120 giờ làm việc. Nên sản xuất mỗi loại sản
87
phẩm bao nhiêu để có mức lời cao nhất?
Mục tiêu: GV hướng dẫn HS giải quyết tình huống “sản xuất mỗi
loại sản phẩm bao nhiêu để có mức lời cao nhất?”. Qua đó, đánh giá HS
một số kĩ năng sau đây:
- Kĩ năng thiết lập và giải hệ bất phương trình bậc nhất hai ẩn.
- Kĩ năng biểu diễn miền nghiệm của hệ bất phương trình.
- Kĩ năng vận dụng toán học vào giải quyết các tình huống trong thực tiễn.
Lời giải: GV hướng dẫn HS phân tích bài toán và thấy rằng thực chất
của bài toán này là phải tìm , , thoả mãn hệ phương trình sau:
sao cho L = 40000x + 30000y đạt giá trị lớn nhất. Điều này có nghĩa là tìm x,
y thoả mãn hệ phương trình sao cho 4x + 3y đạt giá trị lớn nhất.
80
F
C
y
50 40
B
I
D
O
A 20
40
E 100
x
Hình 2.27: Minh họa miền nghiệm của hệ bất phương trình
Trên Hình 2.27, ta ký hiệu C(0; 50), D(40; 0), E(100; 0), F(0; 80).
Điểm I là giao điểm của CE và DF. Dễ thấy toạ độ của I là (20; 40). Miền
nghiệm của hệ bất phương trình là miền tứ giác OCID (kể cả biên).
Với mỗi L xác định, ta nhận thấy có vô số điểm M(x; y) sao cho 4x + 3y
= L, những điểm M như thế nằm trên đường thẳng AB với A(L/4; 0), B(0;
L/3). Hệ số góc của đường thẳng AB là -4/3. Cho L lớn dần lớn lên thì đường
88
thẳng AB sẽ “tịnh tiến dần lên” phía trên. Nhìn vào Hình 2.27 ta nhận thấy
rằng: Trong những đường thẳng có hệ số góc -4/3, thì đường thẳng đi qua I là
đường thẳng ở vị trí “cao nhất” đang còn có điểm chung với tứ giác OCID.
Chưa đạt tới vị trí này thì L chưa phải là lớn nhất. Vượt quá “ngưỡng” này thì
toạ độ của mọi điểm trên đường thẳng sẽ không còn thoả mãn hệ điều kiện
ràng buộc nữa. Từ đó, ta dễ dàng đi đến kết luận là khi x = 20, y = 40 thì L đạt
giá trị lớn nhất.
Bài tập 2.15. Một công ty cần thuê xe vận chuyển 140 người và 9 tấn
hàng hóa. Nơi cho thuê xe chỉ có 10 xe hiệu MITSUBISHI và 9 xe hiệu
FORD. Một chiếc xe hiệu MITSUBISHI có thể chở 20 người và 0,6 tấn hàng.
Một chiếc xe hiệu FORD có thể chở 10 người và 1,5 tấn hàng. Tiền thuê một
xe hiệu MITSUBISHI là 4 triệu đồng, một xe hiệu FORD là 3 triệu đồng. Hỏi
phải thuê bao nhiêu xe mỗi loại để chi phí thấp nhất?
Mục tiêu: Giúp HS vận dụng toán học để giải quyết tình huống thuê xe
vận chuyển với chi phí thấp nhất. Qua đó, GV sẽ đánh giá được các kĩ năng
sau đây của HS hoặc nhóm HS:
- Kĩ năng thiết lập và giải hệ bất phương trình bậc nhất hai ẩn.
- Kĩ năng mô hình hóa và biểu diễn miền nghiệm của hệ bất phương trình.
- Kĩ năng vận dụng kiến thức toán học để giải quyết các bài toán thực tiễn.
14
B
A
9
6
I
C
y
10
7
O
15
x
89
Hình 2.28: Minh họa miền nghiệm của hệ bất phương trình
Lời giải: Trước hết ta hãy đặt bài toán thành hệ bất phương trình. Gọi x,
y lần lượt là số xe loại MITSUBISHI, loại FORD cần thuê. Từ bài toán ban
đầu, GV hướng dẫn HS thiết lập được hệ bất phương trình sau:
(*)
Tổng chi phí T(x, y) = 4x + 3y (triệu đồng). Thực chất của bài toán này
là tìm x, y nguyên không âm thoả mãn hệ (*) sao cho T(x, y) nhỏ nhất. Bước
tiếp theo là ta tìm miền nghiệm của hệ bất phương trình. Miền nghiệm là
miền tứ giác lồi IABC.
Ta cần xác định toạ độ (x, y) của một điểm thuộc miền tứ giác IABC (kể
cả biên) sao cho T(x, y) = 4x + 3y đạt cực tiểu. Xét họ đường thẳng cho bởi
phương trình: 4x + 3y = T. Khi T tăng đường thẳng này tịnh tiến song song
lên phía trên. Khi T giảm, đường thẳng này tịnh tiến song song xuống phía
dưới. Giá trị nhỏ nhất của T đạt được tại đỉnh I của tứ giác IABC là giao điểm
của hai đường thẳng có phương trình 2x + 5y = 30 và 2x + y = 14. Toạ độ của
điểm I là (xI = 5; yI = 4). Như vậy, ta cần thuê 5 xe hiệu MITSUBISHI và 4 xe
hiệu FORD thì chi phí vận tải là thấp nhất.
2.5. Kết luận chƣơng 2
Chương 2 trình bày một số nguyên tắc thiết kế hoạt động MHH. Từ đó
thiết kế một số tình huống thực tiễn cho chương trình Đại số lớp 10 và xây
dựng hệ thống bài tập MHH. Các mô hình được thiết kế với tiêu chí bám sát
chương trình SGK, có liên quan đến các vấn đề thực tiễn và đều có thể tổ
chức dạy học ở trên lớp học truyền thống. Các bài tập trong chương này được
xây dựng dựa trên các cấp độ khác nhau của kĩ năng mô hình hóa toán học.
Luận văn trình bày những ý tưởng sư phạm, một số phân tích nghiên cứu
90
trường hợp và đánh giá độ tin cậy của hệ thống bài tập đã thiết kế.
Chƣơng 3
THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM
3.1. Mục đích thực nghiệm
Thực nghiệm sư phạm được tiến hành để kiểm nghiệm giả thuyết khoa học
của luận văn, tính khả thi và tính hiệu quả của một số mô hình toán học và hệ
thống bài tập MHH trong chương trình Đại số lớp 10 ở trường THPT. Từ đó, đưa
ra những đề xuất cho việc đổi mới chương trình SGK phổ thông sau 2015.
3.2. Nội dung thực nghiệm
Thực nghiệm sử dụng hệ thống bài tập có nội dung thực tiễn được tiến
hành trong việc dạy học các tiết học ngoại khóa ở chương 2: Hàm số bậc nhất
và bậc hai; chương 3: Phương trình và hệ phương trình; chương 4: Bất đẳng
thức và bất phương trình.
Căn cứ vào nội dung cũng như mục đích, yêu cầu cụ thể của mỗi bài
dạy, trên cơ sở tôn trọng chương trình và SGK hiện hành, chúng tôi xác định
một cách tương đối cụ thể thời điểm đưa các bài toán có nội dung thực tiễn
vào giảng dạy trong chương trình.
Nội dung chủ yếu của mỗi tiết học dựa theo SGK Đại số lớp 10, được
sắp xếp theo nguyên tắc thiết kế như sau:
- Xác định những kiến thức nền tảng và những kĩ năng cơ bản của HS
cần đạt được sau quá trình MHH;
- Lựa chọn những thời điểm thích hợp trong quá trình giảng dạy, những
nội dung kiến thức có liên quan để đưa vào các bài toán có nội dung thực tiễn;
- Hướng dẫn nhóm HS hoạt động hoặc hoạt động cá nhân để MHH tình
huống thực tiễn.
- Xác định quỹ thời gian cho phép để đưa vào các bài toán có nội dung
thực tiễn vào chương trình giảng dạy;
- Đưa vào những bài toán với số lượng và mức độ phù hợp với bài dạy,
91
quỹ thời gian thực hiện, phù hợp với trình độ nhận thức chung của HS với độ
khó tăng dần, theo những quan điểm, những gợi ý về phương pháp MHH các
bài toán có nội dung thực tiễn đã được trình bày trong chương 2.
3.3. Tổ chức thực nghiệm
3.3.1. Đối tượng thực nghiệm
Được sự đồng ý của Ban Giám hiệu Trường THPT Ngô Quyền và Trường
THPT Dương Tự Minh, chúng tôi đã đề xuất chọn cặp lớp 10A1, lớp 10A5
(Trường THPT Ngô Quyền) và cặp lớp 10A1, lớp 10A3 (Trường THPT Dương
Tự Minh) làm thực nghiệm, đối chứng thể hiện cho các kết quả của luận văn.
3.3.2. Tiến trình thực nghiệm
* Thời gian thực nghiệm:
- Đợt 1: Từ tháng 10 đến tháng 11 năm 2014 tại Trường THPT
Ngô Quyền.
- Đợt 2: Từ tháng 2 đến tháng 4 năm 2015 tại Trường THPT Dương Tự
Minh, TP. Thái Nguyên.
* Công tác chuẩn bị: Để tiến hành thực nghiệm có hiệu quả, chúng tôi
đã tiến hành nghiên cứu kỹ nội dung, chương trình, SGK, tài liệu bồi dưỡng
GV,... và khảo sát tình hình thực tế việc dạy học ứng dụng Toán học vào thực
tiễn cho HS THPT. Tài liệu thực nghiệm được đưa ra tham khảo ý kiến nhiều
GV có kinh nghiệm.
* Tài liệu thực nghiệm: Gồm các bài tập, tình huống MHH có nội dung
thực tiễn mà chúng tôi đã lựa chọn, sắp xếp, hệ thống hóa, bổ sung theo ý
tưởng của đề tài, được biên soạn thành các giáo án thực nghiệm.
3.4. Phân tích kết quả thực nghiệm
3.4.1. Phân tích định tính
Theo dõi tiến trình thực nghiệm sư phạm, chúng tôi thấy rằng: nhìn
chung đa số HS học tập tích cực, sôi nổi hơn, thích thú với những bài toán có
nội dung thực tiễn. Sự hấp dẫn của các bài toán có nội dung thực tiễn cũng
chính là ở chỗ gắn các kiến thức toán học với các ứng dụng thực tế đa dạng và
sinh động của nó trong học tập cũng như trong đời sống, lao động và sản xuất.
92
Các tiềm năng ứng dụng và ý nghĩa to lớn của những bài toán có nội dung thực
tiễn được gợi mở và dần dần được củng cố bằng hệ thống các bài toán có nội
dung thực tiễn đa dạng, phong phú. Điều đó kích thích hứng thú của cả thầy lẫn
trò trong thời gian thực nghiệm. Nhận định chung cho rằng, điều khó khăn nhất
cần và có thể vượt qua - nếu ý tưởng này được triển khai về sau - là lựa chọn
được một hệ thống bài tập có nội dung thực tiễn thích hợp cho mỗi tiết học, để
cùng một lúc đạt được nhiều mục đích dạy học như đề tài đã đặt ra.
Bài học ngoại khóa thứ nhất được thực hiện ở hai lớp 10A1 và 10A5
Trường THPT Ngô Quyền, mỗi lớp thực nghiệm dạy ba tiết. Bài được dạy ở
một lớp ban A và một lớp ban D cho ta phần nào kết quả khách quan về nhu
cầu muốn biết về ứng dụng của Toán học trong cuộc sống. Kết quả điều tra ý
kiến HS về giờ dạy được cho trong bảng dưới đây (đánh giá theo thang điểm
10 về mức độ đồng ý):
Bảng 3.1: Bảng thống kê ý kiến của HS (Trƣờng THPT Ngô Quyền)
TT Nội dung
1 Em thấy giờ học rất hấp dẫn 2 Cách giảng bài của GV đã thu hút được em 3 Nội dung bài học đã được cải biến và rất hấp dẫn HS cho điểm (điểm trung bình) Lớp Lớp 10A5 10A1 7,95 7,82 8,12 8,01 8,09 7,96
4 7,37 7,68 Em đã bị cuốn hút vào bài học, chủ động tìm tòi và giải quyêt vấn đề của mình
5 Em đã nắm được các kiến thức của bài học 6 Em đã học thêm được nhiều điều mới 7,58 8,12 7,26 8,02
7 7,83 8,05
8 8,11 8,04 Những câu hỏi, mẩu chuyện, hình ảnh đã phù hợp với nội dung bài học Em đã thấy một phần mối liên hệ của Toán học và thực tiễn
9 Em mong muốn có nhiều giờ học như thế này 8,36 8,49
Thông qua kết quả thể hiện ở bảng 3.1 cho thấy đa số HS được hỏi ý
kiến đều thích và muốn học các tiết học có những nội dung có liên quan đến
những những ứng dụng của Toán học trong thực tế (ngay cả khi chưa hiểu hết
93
những nội dung trong bài).
Tuy nhiên, hầu hết HS cho là mình đã hiểu bài, nhưng thông qua kết
quả hoạt động cho thấy các nhóm đều không đạt được mục đích bài học.
Nguyên nhân dẫn tới việc HS chưa hoàn thành mục tiêu bài học:
- GV giảng dạy còn yếu kém về nghiệp vụ sư phạm, chưa huy động
được tất cả HS cùng tham gia nhiệm vụ, dẫn tới việc còn nhiều HS làm việc
riêng: làm bài tập tiếng Anh, nói chuyện, vẽ,…
- Thời gian dạy một tiết ngắn, chưa đủ để HS hoạt động (HS chỉ có thời
gian hoạt động là 20 phút), các thành viên trong nhóm chưa có sự phối hợp ăn
ý, chưa có nhiều sự hợp tác trong hoạt động.
- HS tính toán còn nhầm lẫn, chưa có thói quen phân tích vấn đề thực tiễn.
- Đây là bài học ngoại khóa nên một số HS không muốn tham gia
hoạt động.
Bài học ngoại khóa tiếp theo được thực hiện ở hai lớp 10A1 và 10A3
Trường THPT Dương Tự Minh, mỗi lớp thực nghiệm dạy ba tiết. Kết quả
đánh giá của HS về mức độ đồng ý (theo thang điểm 10).
Bảng 3.2: Bảng thống kê ý kiến của HS (Trƣờng THPT Dƣơng Tự Minh)
STT Nội dung
1 Em thấy giờ học rất hấp dẫn 2 Cách giảng bài của GV đã thu hút được em 3 Nội dung bài học đã được cải biến và rất hấp dẫn HS cho điểm (điểm trung bình) Lớp 10A1 8,17 8,54 9,34 Lớp 10A3 7,15 8,06 9,11
4 8,72 8,14 Em đã bị cuốn hút vào bài học, chủ động tìm tòi và giải quyêt vấn đề của mình
5 Em đã nắm được các kiến thức của bài học 6 Em đã học thêm được nhiều điều mới 9,45 8,19 9,16 7,92
7 8,96 7,12
8 8,14 7,73 Những câu hỏi, mẩu chuyện, hình ảnh đã phù hợp với nội dung bài học Em đã thấy một phần mối liên hệ của Toán học và thực tiễn
94
9 Em mong muốn có nhiều giờ học như thế này 9,18 8,83
3.4.2. Phân tích định lượng
Việc phân tích định lượng dựa vào kết quả kiểm tra trong đợt thực
nghiệm tại hai lớp TN và ĐC, nhằm minh họa và bước đầu kiểm nghiệm tính
khả thi, hiệu quả của việc MHH các bài toán có nội dung thực tiễn. Số liệu
thực nghiệm được chúng tôi thu thập, xử lí, đánh giá, và được thể hiện qua
các bảng thống kê sau:
Bảng 3.3: Kết quả đầu ra của hai lớp TN 10A1 và ĐC 10A5
Lớp TN 10A1 Lớp ĐC 10A5
Tần số Tần số Điểm số Tổng điểm Điểm số Tổng điểm xuất hiện xuất hiện
1 0 0 0 1 0
2 0 2 0 2 4
3 3 2 9 3 6
4 3 7 12 4 28
5 6 8 30 5 40
6 9 12 54 6 72
7 12 7 84 7 49
8 3 2 24 8 16
9 2 0 18 9 0
10 0 0 0 10 0
231 215 Tổng số 38 (HS) Tổng số 40 (HS) (Điểm) (Điểm)
Điểm Điểm 6.08 5.38 trung bình trung bình
Phương sai Phương sai 2.34 2.19 mẫu mẫu
95
Độ lệch Độ lệch 1.53 1.48 chuẩn chuẩn
Qua bảng trên ta thấy điểm trung bình của lớp TN cao hơn hẳn các lớp
lớp ĐC. Để khẳng định lại điều đó chúng tôi tiến hành kiểm định giả thuyết
, H0 là chất lượng đầu ra của hai lớp là tương đương với đối thuyết là:
mức ý nghĩa .
Ta có , ta bác bỏ giả thuyết H0, có
nghĩa là kết quả đầu ra của lớp TN cao hơn hẳn lớp ĐC.
Bảng 3.4: Kết quả đầu ra của hai lớp TN 10A1 và ĐC 10A3
Lớp TN 10A1 Lớp ĐC 10A3
Tần số Tần số Điểm số Tổng điểm Điểm số Tổng điểm xuất hiện xuất hiện
1 0 0 0 1 0
2 0 0 2 2 4
3 3 9 4 3 12
4 6 24 6 4 24
5 9 45 11 5 55
6 6 36 5 6 30
7 4 28 2 7 14
8 2 16 0 8 0
9 0 0 0 9 0
10 0 0 0 10 0
Tổng Tổng 30 (HS) 158 (Điểm) 30 (HS) 139 (Điểm)
Điểm Điểm 5.27 4.63 trung bình trung bình
Phương sai Phương sai 1.93 1.69 mẫu mẫu
96
Độ lệch Độ lệch 1.39 1.3 chuẩn chuẩn
Nhìn vào bảng trên ta thấy rằng điểm trung bình của bài kiểm tra đầu ra
của lớp TN cao hơn hẳn điểm trung bình của lớp ĐC. Để khẳng định lại điều
trên chúng tôi tiến hành kiểm định giả thuyết H0 là chất lượng đầu ra của hai
lớp là tương đương với đối thuyết là , mức ý nghĩa .
Ta có: , ta bác bỏ giả thuyết H0, tức là
chất lượng đầu ra của lớp TN cao hơn hẳn lớp ĐC.
Bảng 3.5: Tỉ lệ phần trăm về năng lực mô hình hóa của HS
Cấp độ 0 Cấp độ 1 Cấp độ 3 Cấp độ 4 Cấp độ 5 Cấp độ 2 Tỉ lệ (%) Lớp Đề kiểm tra
Đề 1
Đề 2 TN 10A1 ĐC 10A5 TN 10A1 ĐC 10A3 5% 5% 5% 8% 13% 16% 5% 3% 24% 39% 26% 32% 32% 21% 18% 11% 5% 3% 13% 8% 13% 21% 11% 18%
Căn cứ vào kết quả bài kiểm tra trước thực nghiệm, có thể bước đầu
thấy được năng lực MHH các bài tập thực tiễn của các em còn hạn chế, thể
hiện ở các cấp độ cao còn thấp. Tuy nhiên, có thể thấy là kết quả của lớp TN
cao hơn lớp ĐC ở những cấp độ 4 và 5. Vì vậy, có thể khẳng định hiệu quả
của phương pháp dạy học trong việc phát triển năng lực MHH cho HS.
Thông qua kết quả thể hiện ở bảng 3.1, bảng 3.2, bảng 3.3, bảng 3.4 và
bảng 3.5 và thông qua kết quả hoạt động của HS, GV đánh giá giờ dạy thực
nghiệm là thành công, đa số HS hào hứng tham gia các hoạt động, trình bày
được ý tưởng, nắm được nội dung bài học và áp dụng được vào giải quyết các
tình huống thực tiễn.
3.5. Kết luận chƣơng 3
Từ kết quả thực nghiệm sư phạm chúng tôi nhận thấy rằng:
- Việc đưa các bài toán có nội dung thực tiễn vào giảng dạy trên cơ sở
dựa vào những mô hình, những gợi ý về phương pháp dạy học đã góp phần
97
rèn luyện cho HS năng lực vận dụng kiến thức Toán học vào thực tiễn.
- Sự “cài đặt” một cách khéo léo các bài toán có nội dung thực tiễn trên
cơ sở những mô hình đã trình bày trong chương 2 làm cho GV thực hiện việc
giảng dạy khá tự nhiên, không miễn cưỡng và không có những khó khăn lớn
về mặt thời gian.
- Số lượng và mức độ các bài toán có nội dung thực tiễn được lựa chọn
và cân nhắc thận trọng, được đưa vào giảng dạy một cách phù hợp, có chú ý
nâng cao dần tính tích cực và độc lập của HS, nên HS tiếp thu tốt, tích cực
tham gia luyện tập và đạt kết quả tốt.
Phương pháp MHH các bài toán có nội dung thực tiễn đã trình bày ở
chương 2, trên cơ sở kế thừa và phát huy những kinh nghiệm dạy học tiên
tiến, được chuyển giao cho GV thực nghiệm một cách thuận lợi và được vận
dụng một cách sinh động, không gặp phải những trở ngại gì lớn và các mục
98
đích dạy học được thực hiện một cách toàn diện, vững chắc.
KẾT LUẬN
Luận văn đã thu được những kết quả chính sau đây:
1. Đã làm rõ được cơ sở lí luận về phương pháp MHH và quy trình
MHH trong dạy học môn Toán và sự cần thiết phải thường xuyên đưa các tình
huống thực tiễn vào trong quá trình giảng dạy môn Toán.
2. Tìm hiểu thực trạng về việc vận dụng phương pháp MHH trong dạy
học Toán ở một số trường THPT trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
3. Đề xuất được một số mô hình toán học liên quan đến chương trình
toán Đại số lớp 10 và tiến trình tổ chức thực hiện.
4. Xây dựng được hệ thống bài tập MHH có nội dung thực tiễn liên
quan đến chương trình Đại số lớp 10.
5. Tổ chức thực nghiệm sư phạm để minh họa cho tính khả thi và hiệu
quả của các mô hình toán học đã được thiết kế trong dạy học môn Toán.
Hướng nghiên cứu của đề tài:
1. Tiếp tục thực nghiệm các mô hình toán học đã đề xuất ở phạm vi
lớn hơn.
2. Tiếp tục xây dựng các mô hình toán học khác lên quan đến chương
trình Toán phổ thông.
3. Nghiên cứu thêm về các hình thức tổ chức dạy học theo hướng tích
cực hóa HS để giúp HS có thể chủ động hoàn thành các công việc cá nhân
cũng như hoạt động nhóm, đặc biệt là các hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho
HS phổ thông trong học tập và nghiên cứu toán học.
Như vậy, về cơ bản có thể khẳng định mục đích nghiên cứu của luận
văn đã được thực hiện, nhiệm vụ nghiên cứu đã được hoàn thành và giả thuyết
99
khoa học đã nêu ra là có thể chấp nhận được.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt.
[1]. Nguyễn Văn Bảo (2005). Góp phần rèn luyện cho học sinh năng lực vận
dụng kiến thức toán học để giải quyết một số bài toán có nội dung thực
tiễn. Luận văn Thạc sĩ Khoa học Giáo dục. Trường Đại học Vinh.
[2]. Nguyễn Thị Hồng Cúc (2010). Dạy học mô hình hóa hàm số thông qua
bài toán tính diện tích trong môi trường tích hợp mềm Cabri II. Luận văn
Thạc sĩ Khoa học Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
[3]. Nguyễn Hữu Hải (2014). Hướng dẫn học sinh trung học xây dựng mô
hình toán học của một số tình huốn thực tiễn. Luận văn Thạc sĩ Khoa học
Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
[4]. Nguyễn Bá Kim (2002). Phương pháp dạy học môn Toán. NXB Đại học
Sư Phạm.
[5]. Nguyễn Kỳ (1995). Phương pháp dạy học tích cực. NXB Giáo dục.
[6]. Cai Việt Long (2012). Dạy học Toán ở trường trung học phổ thông theo
định hướng phát triển năng lực giải quyết các vấn đề của thực tiễn. Luận
văn Thạc sĩ Khoa học Giáo dục, Trường Đại học Giáo dục – Đại học Quốc
gia Hà Nội.
[7]. Nguyễn Danh Nam (2013). Phương pháp MHH trong dạy học môn Toán
ở trường phổ thông. Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Cán bộ trẻ các trường đại
học sư phạm toàn quốc”, Nhà xuất bản Đà Nẵng, tr.512-516.
[8]. Nguyễn Danh Nam, Đào Thị Liễu (2013). Bồi dưỡng năng lực toán học
hóa tình huống thực tiễn cho học sinh thông qua dạy học chủ đề xác suất -
thống kê. Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt 08/2013, tr.104-106.
[9]. Nguyễn Danh Nam, Mã Thị Hiềm (2014). Sử dụng biểu diễn bội trong
100
dạy học khái niệm hàm số. Tạp chí Thiết bị Giáo dục, số 109, tr.22-25.
[10]. Nguyễn Danh Nam, Nguyễn Đức Thành (2015). Vận dụng PISA đánh
giá chất lượng học tập môn Toán ở các trường phổ thông. Tạp chí Giáo
dục, số 353, tr.42-44.
[11]. Trần Thanh Nga (2011). Khai thác những tư tưởng, bài toán của
PISA vào dạy học môn Toán (bậc trung học) theo hướng tăng cường
liên hệ Toán học với thực tiễn. Luận văn Thạc sĩ Khoa học Giáo dục,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
[12]. Nguyễn Cảnh Toàn (1997), Phương pháp luận duy vật biện chứng với
việc dạy học, nghiên cứu toán học, Tập 2, Nxb ĐHQG Hà Nội.
[13]. Trần Trung, Đặng Xuân Cương, Nguyễn Văn Hồng, Nguyễn Danh Nam
(2011). Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học môn Toán ở trường
phổ thông. NXB Giáo dục Việt Nam.
[14]. Trần Trung (2011). Vận dụng MHH vào dạy học môn Toán ở trường
phổ thông. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, số 06,
tr.104-108.
Tiếng Anh.
[15]. Berinderjeet Kaur, Jaguthsing Dindyal (2010). Mathematical
applications and modelling. World Scientific Publishing, Singapore.
[16]. Blum, Niss (1991). Applied mathematical problem solving, modeling,
applications and links to other subjects. Educational Studies in
Mathematics, 22 (1), 36-38.
[17]. Blum, Galbraith, Henn & Niss (2007). Modelling and applications in
mathematics education. The 14th ICMI Study. Springer.
[18]. Blum, Ferry (2009). Mathematical Modelling: Can it be taught and
learnt? Journal of Mathematical Modelling and Application. 1(1), 45-58.
[19]. Dirk Ifenthaler, Pablo Pirnay-Dummer & Michael Spector (2008),
Understanding models for learning and instruction. Springer-Verlag,
101
Heidelberg.
[20]. Jonathan Borwein, Keith Devlin (2009). Experimentelle Mathematik.
Spektrum Akademischer Verlag, Heidelberg.
[21].Hans Freudenthal (1991), Revisiting Mathematics Education, Kluwer
academic publishers, London.
[22]. Kaiser-Messmer (1991). Application-oriented mathematics teaching: a
survey of the theoretical debate. In: Niss, Blum, Huntley (Ed.), Chichester:
Ellis Horwood.
[23]. Matos, Carreira (1996). The quest for meaning in students‟
mathematical modelling activity. Proceedings of the PME 20, 3, 345-352.
[24]. Myint Swe Khine, Issa M. Saleh (2011). Models and modeling:
Cognitive tools for scientific enquiry. Springer-Verlag, London.
ICTMA 13, Springer-Verlag, Heidelberg.
[25]. Danh Nam Nguyen, Trung Tran (2013). Recommendations for mathematics curriculum development in Vietnam. Proceedings of the 6th
International Conference on Educational Reform, 26-32.
[26]. Peter Lancaster (1976). Mathematics: Models of the real world.
Englewood Cliffs, New Jersey, USA.
[27]. Richard Lesh, Peter L. Galbraith, Christopher R Haines & Andrew
Hurford (2010). Modeling students’ mathematical modeling competencies.
[28]. Warwick, J. (2007). Some Reflections on the Teaching of Mathematical
102
Modelling, The Mathematicals Educator. 17(1), 32-41.
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: PHIẾU ĐIỀU TRA GIÁO VIÊN
Câu hỏi 1: Các thầy (cô) hãy đánh giá về mức độ cần thiết của việc
tăng cường liên hệ toán học với thực tiễn trong dạy học môn Toán.
Không cần thiết Cần thiết Rất cần thiết
Câu hỏi 2: Các thầy (cô) hãy đánh giá về mức độ thường xuyên của
việc tìm hiểu những ứng dụng của Toán học trong thực tiễn và liên hệ với
kiến thức toán học ở trường phổ thông.
Chưa bao giờ Thỉnh thoảng Thường xuyên
Câu hỏi 3: Các thầy (cô) hãy đánh giá về mức độ thường xuyên của
việc thiết kế các hoạt động giúp HS hiểu những ứng dụng của Toán học trong
giải quyết các tình huống nảy sinh từ thực tiễn.
Chưa bao giờ Thỉnh thoảng Thường xuyên
Câu hỏi 4: Các thầy (cô) hãy đánh giá về mức độ thường xuyên của
việc sử dụng công nghệ thông tin giúp HS hiểu những mô hình của toán học
trong thực tiễn.
Chưa bao giờ Thỉnh thoảng Thường xuyên
Câu hỏi 5: Các thầy (cô) hãy đánh giá về mức độ thường xuyên của
việc thiết kế các bài tập, bài kiểm tra theo hướng vận dụng mô hình toán học
để giải quyết các bài toán nảy sinh từ thực tiễn.
Chưa bao giờ Thỉnh thoảng Thường xuyên
Câu hỏi 6: Các thầy (cô) hãy đánh giá về tầm quan trọng của mô hình
hóa toán học trong dạy học Toán ở trường phổ thông?
Không quan trọng Quan trọng Rất quan trọng
Câu hỏi 7: Theo các thầy (cô), hoạt động mô hình hóa giúp phát triển ở
HS những kĩ năng nào sau đây?
Giải quyết vấn đề Làm việc theo nhóm
Thực hiện dự án Vận dụng toán học trong thực tiễn
Sử dụng ngôn ngữ toán học Vận dụng công nghệ thông tin
Các kĩ năng khác: ........................................
Câu hỏi 8: Theo các thầy (cô), những chủ đề toán học nào dưới đây có
thể sử dụng phương pháp mô hình hóa trong thiết kế các hoạt động dạy học?
Hàm số Phương trình, bất phương trình
Đa thức Hệ phương trình, hệ bất phương trình
Xác suất – thống kê Hình học
Diện tích, thể tích Hệ thức lượng trong tam giác
Giới hạn Đạo hàm, vi phân, tích phân
Bất đẳng thức Giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất
Các chủ đề khác: ................................
Câu hỏi 9: Theo các thầy (cô), người GV cần có những hiểu biết gì để
có thể vận dụng phương pháp mô hình hóa trong dạy học Toán?
Kiến thức khoa học toán học Kiến thức về các vấn đề thực tiễn
Kiến thức toán học phổ thông Vận dụng toán học trong thực tiễn
Phương pháp dạy học Công nghệ thông tin
Thiết kế mô hình toán học Tổ chức hoạt động ngoại khóa
Kiến thức khác: ...................................
Câu hỏi 10: Theo các thầy (cô), năng lực mô hình hóa gồm có những
thành tố nào dưới đây?
Phân tích tình huống thực tiễn Đơn giản hóa giả thuyết
Xác định biến, tham số bài toán Xây dựng bài toán
Lựa chọn mô hình toán học Thiết lập mô hình
Liên hệ mô hình với thực tiễn Cải tiến mô hình
Những thành tố khác: ................................
Câu hỏi 11: Theo các thầy (cô), có cần thiết tổ chức bồi dưỡng cho GV
năng lực vận dụng phương pháp mô hình hóa trong dạy học Toán?
Không cần thiết Cần thiết Rất cần thiết
Câu hỏi 12: Các thầy (cô) cho biết những khó khăn và thách thức gặp
phải trong quá trình tổ chức hoạt động mô hình hóa ở trường phổ thông?
Câu hỏi 13: Theo các thầy (cô), làm thế nào để có thể vận dụng
phương pháp mô hình hóa trong lớp học Toán?
Câu hỏi 14: Các thầy (cô) thường làm gì để giúp HS giải quyết các bài
toán mang tính thực tiễn được trình bày trong SGK môn Toán?
Câu hỏi 15: Các thầy (cô) hãy liệt kê một số mô hình toán học có thể
sử dụng trong dạy học Toán ở trường phổ thông?
Câu hỏi 16: Các thầy (cô) có đề xuất thay đổi nội dung gì trong
chương trình SGK môn Toán hiện hành?
Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy (cô)!
PHỤ LỤC 2: ĐỀ KIỂM TRA TRƢỚC THỰC NGHIỆM
Bài toán 1. Hãy xét vấn đề thực tế sau: Người ta đang dự định thiết kế
kẻ vạch làn đường dành cho người đi bộ ngang qua đường dành cho xe buýt.
Giả sử rằng đường dành cho xe buýt là đường một chiều.
Hãy khoanh tròn vào những giả thuyết được cho là quan trọng trong
suốt quá trình thiết kế và đưa ra quyết định về việc kẻ vạch làn đường dành
cho người đi bộ.
A. Thiết kế nút ấn xin qua đường dành cho người đi bộ.
B. Thời gian giữa hai chuyến xe buýt liền nhau là 02 phút.
C. Người đi bộ đi qua đường với một tốc độ không thay đổi.
D. Chiều rộng và chiều dài của làn đường dành cho người đi bộ.
E. Số lượng người đi qua đường trong một khoảng thời gian xác định.
Bài toán 2. Dưới đây là bảng thống kê sau về thành tích chạy 100 mét
của các nam vận động viên đạt huy chương vàng tại các thế vận hội Ôlympíc
mùa hè từ năm 1900 đến năm 2012:
Năm Thành tích Năm Thành tích Năm Thành tích
(giây) (giây) (giây)
11.0 1952 10.04 1988 9.92 1900
11.0 1956 10.05 1992 9.96 1904
10.8 1960 10.02 1996 9.84 1908
10.08 1964 10.06 2000 9.87 1912
10.06 1968 9.95 2004 9.85 1920
10.08 1972 10.14 2008 9.69 1924
10.03 1976 10.06 2012 9.63 1928
10.03 1980 10.25 2016 1932
10.03 1984 9.99 2020 1948
a) Nhận xét gì về thành tích của các vận động viên qua các năm? Hãy
thiết lập mô hình toán học biểu diễn tốt nhất cho thành tích của các vận
động viên.
b) Dự đoán thành tích của vận động viên đạt huy chương vàng tại
Ôlympíc mùa hè 2016 được tổ chức tại thành phố Rio de Janeiro (Braxin).
Bài toán 3. Khi một quả bóng được đá lên, nó sẽ đạt đến độ cao nào đó
rồi rơi xuống. Biết rằng quỹ đạo của quả bóng là một cung parabôn trong mặt
phẳng với tọa độ là (0; t.h), trong đó t là thời gian (tính bằng giây) kể từ khi
quả bóng được đá lên, h là độ cao (tính bằng mét) của quả bóng. Giả thiết
rằng quả bóng được đá từ độ cao 1,2 m. Sau đó 1 giây nó đạt độ cao 8,5 m và
sau 2 giây sau khi đá lên, nó ở độ cao 6 m.
a) Hãy tìm hàm số bậc hai biểu thị độ cao h theo thời gian t và có phần
đồ thị trùng với quỹ đạo của quả bóng trong tình huống trên.
b) Xác định độ cao lớn nhất của quả bóng (tính chí nh xác đến
hàng phần nghìn).
c) Sau bao lâu thì quả bóng sẽ chạm đất kể từ khi đá lên (tính chính xác
đến hàng phần trăm).
Bài toán 4. Dưới đây là bảng số liệu và mô hình biểu diễn mối tương
quan giữa điểm số trên lớp và thời gian học tập ở nhà trong một ngày của 12 HS.
Thời gian 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Điểm số 60 55 65 65 77 80 83 80 75 90 72 68
a) Quan sát hai mô hình hàm số bậc nhất (đường thẳng) và mô hình
hàm số bậc hai (parabôn), hãy cho biết mô hình nào biểu diễn số liệu trong
bảng tốt hơn?
b) Từ mô hình đã chọn ở trên, hãy rút ra bài học cần thiết về số giờ học
trong một ngày để đạt hiệu quả học tập cao nhất.
Bài toán 5. Có nhiều hồ nước ở Úc bị cạn trong phần lớn thời gian của
năm, nó chỉ có nước trong một thời gian nhất định sau những trận mưa rào. Hồ
Eyre ở phía nam nước Úc là một ví dụ cho hiện tượng này. Vấn đề đặt ra là hãy
tính khoảng thời gian mà hồ bị cạn hết nước mỗi khi hồ được chứa đầy nước?
PHỤ LỤC 3: ĐỀ KIỂM TRA SAU THỰC NGHIỆM
Bài 1. Một hãng taxi quy định giá thuê xe đi mỗi kilômét là 6 nghìn
đồng đối với 10 km đầu tiên và 2,5 nghìn đồng đối với các kilômét tiếp theo.
Một hành khách thuê taxi đi quãng đường x kilômét phải trả số tiền là y nghìn
đồng. Khi đó, y là một hàm số của đối số x, xác định với mọi x ≥ 0.
a) Hãy biểu diễn y như một hàm số bậc nhất trên từng khoảng ứng với
đoạn [0; 10] và khoảng (10; +∞).
b) Tính f(8), f(10) và f(18).
c) Vẽ đồ thị của hàm số y = f(x) và lập bảng biến thiên của nó.
Bài 2. (Bài toán bóng đá). Khi một quả bóng được đá lên, nó sẽ đạt đến
độ cao nào đó rồi rơi xuống. Biết rằng quỹ đạo của quả bóng là một cung
parabol trong mặt phẳng với hệ tọa độ Oth, trong đó t là thời gian (tính bằng
giây), kể từ khi quả bóng được đá lên; h là độ cao (tính bằng mét) của quả
bóng. Giả thiết rằng quả bóng được đá từ độ cao 1,2 m. Sau đó 1 giây, nó đạt
độ cao 8,5 m và 2 giây sau khi đá lên, nó ở độ cao 6 m.
a) Hãy tìm hàm số bậc hai biểu thị độ cao h theo thời gian t và có phần
đồ thị trùng với quỹ đạo của quả bóng trong tình huống trên.
b) Xác định độ cao lớn nhất của quả bóng (tính chính xác đến hàng
phần nghìn).
c) Sau bao lâu thi quả bóng sẽ chạm đất kể từ khi đá lên (tính chính xác
đến hàng phần trăm)?
Bài 3. (Bài toán về cổng Ac-xơ). Khi du lịch đến thành phố Xanh Lu-i
(Mỹ), ta sẽ thấy một cái cổng lớn có hình parabôn hướng bề lõm xuống dưới,
đó là cổng Ac-xơ. Giả sử ta lập một hệ tọa độ Oxy sao cho một chân cổng đi
qua gốc tọa độ O (x, y tính bằng mét), chân kia của cổng ở vị trí (162; 0). Biết
một điểm M trên cổng có tọa độ là (10; 43).
a) Tìm hàm số bậc hai có đồ thị chứa cung parabôn nói trên.
b) Tính chiều cao của cổng (tính từ điểm cao nhất trên cổng xuống mặt
đất, làm tròn kết quả đến hàng đơn vị).
Bài 4. (Bài toán tàu vũ trụ). Khi một con tàu vũ trụ được phóng lên
Mặt Trăng, trước hết nó bay vòng quanh Trái Đất. Sau đó, đến một thời điểm
thích hợp, động cơ bắt đầu hoạt động đưa con tàu bay theo quỹ đạo là một
nhánh parabôn lên Mặt Trăng (trong hệ tọa độ Oxy, x và y tính bằng nghìn
kilômét). Biết rằng khi động cơ bắt đầu hoạt động, tức là khi x = 0 thì y = -7.
Sau đó, y = - 4 khi x = 10 và y = 5 khi x = 20.
a) Tìm hàm số bậc hai có đồ thị chứa nhánh parabôn nói trên.
b) Theo lịch trình, để đến được Mặt Trăng, con tàu phải đi qua điểm có tọa độ (100; y) với y = 294 ± 1,5. Hỏi điều kiện đó có được thỏa mãn hay không?
Bài 5. Hình dưới đây biểu thị sản lượng vịt, gà và ngan lai qua 5 năm của một trang trại. Nếu coi y = f(x), y = g(x) và y = h(x) tương ứng là các hàm số biểu thị sự phụ thuộc số vịt, số gà và số ngan lai qua thời gian x, hãy:
a) Tìm tập xác định của mỗi hàm số đã nêu. b) Tìm các giá trị f(2002), g(1999), h(2000) và nêu ý nghĩa của chúng. c) Tính hiệu h(2002) – h(1999) và nêu ý nghĩa của nó.
Bài 6. Vì lý do sức khỏe, con người nên hạn chế những nỗ lực của mình, ví dụ như trong thể thao để không vượt quá tần số nhịp tim nhất định. Trong nhiều năm qua mối quan hệ giữa tỉ lệ khuyến cáo giữa nhịp tim tối đa và độ tuổi của một người được mô tả bởi công thức dưới đây:
Nhịp tim tối đa được khuyến cáo = 220 – tuổi
Nghiên cứu gần đây cho thấy rằng công thức này nên được sửa đổi một
chút. Công thức mới như sau:
Nhịp tim tối đa được khuyến cáo = 208 – (0.7 x tuổi) a) Hoàn thiện bảng dưới đây về nhịp tim tối đa được khuyến cáo:
Tuổi (theo năm) 9 12 15 18 21 24
211 208 205 202 199 196
201,7 ....... 197,5 195,4 ....... 191,2
Nhịp tim tối đa được khuyến cáo cũ (công thức cũ) Nhịp tim tối đa được khuyến cáo mới (công thức mới)
b) Ở tuổi nào thì công thức cũ và mới cho chính xác cùng một giá trị và
giá trị đó là bao nhiêu?
c) Bạn Hoa chú ý rằng hiệu số của hai nhịp tim tối đa được khuyến cáo
trong bảng có vẻ giảm đi khi tuổi tăng lên. Tìm một công thức thể hiện hiệu số
này theo tuổi.
d) Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tập thể dục có hiệu quả nhất khi nhịp
tim là 80% của nhịp tim tối đa được khuyến cáo theo công thức mới. Hãy viết
và rút gọn công thức cho nhịp tim hiệu quả nhất để tập thể dục theo tuổi.
e) Công thức mới đã làm thay đổi nhịp tim khuyến cáo theo độ tuổi như
thế nào? Hãy giải thích câu trả lời của bạn một cách rõ ràng.
Bài 7. Một lớp học muốn thuê một hướng dẫn viên cho chuyến thăm
quan, có 2 công ty đã được liên hệ để lấy các thông tin về giá. Công ty A có
phí dịch vụ ban đầu là 375 USD cộng với 0,5 USD cho mỗi km hướng dẫn.
Công ty B có phí dịch vụ ban đầu là 250 USD cộng với 0,75 USD cho mỗi
km hướng dẫn.
a) Lớp học nên chọn công ty nào để thuê hướng dẫn viên nếu biết
rằng chuyến đi sẽ đến một địa điểm nào đó với tổng khoảng cách đi lại
là 400 km, 600 km?
b) Vậy nếu đi với khoảng cách là bao nhiêu thì chọn công ty A có lợi hơn?
Bài 8. Có 3 hình thức trả tiền cho việc truy cập mạng internet như sau:
- Hình thức A: mỗi tiếng truy cập giá 2000 đồng.
- Hình thức B: thuê bao hàng tháng 350000 đồng và số tiếng truy cập
không hạn chế.
- Hình thức C: thuê bao hàng tháng 45000 đồng và mỗi tiếng truy cập
phải trả 500 đồng.
a) Em hãy cho biết hình thức nào phải trả ít tiền hơn nếu tổng hợp truy
cập hàng ngày trong tháng (30 ngày) lần lượt là 1,5 tiếng; 10 tiếng; 12 tiếng?
b) Hãy viết p(x), q(x), u(x) theo thứ tự là số tiền phải trả hàng tháng
theo mỗi hình thức A, B, C trong đó x là số giờ truy cập internet.
Bài 9. (Bài toán máy bơm nước). Một gia đình muốn mua một chiếc
máy bơm. Có hai loại với cùng lưu lượng bơm được trong một giờ; loại thứ
nhất giá 1,5 triệu đồng, loại thứ hai giá 2 triệu đồng. Tuy nhiên, nếu dùng
máy bơm loại thứ nhất thì mỗi giờ tiền điện phải trả là 1200 đồng, trong khi
dùng máy bơm loại thứ hai thì chỉ phải trả 1000 đồng cho mỗi giờ bơm. Kí
hiệu f(x) và g(x) lần lượt là số tiền (tính bằng nghìn đồng) phải trả khi sử
dụng máy bơm loại thứ nhất và loại thứ hai trong x giờ (bao gồm tiền điện và
tiền mua máy bơm).
a) Hãy biểu diễn f(x) và g(x) duới dạng các biểu thức của x.
b) Vẽ đồ thị của hai hàm số y = f(x) và y = g(x) trên cùng một mặt
phẳng tọa độ.
c) Xác định tọa độ giao điểm của hai đồ thị ấy. Hãy phân tích ý nghĩa
kinh tế của giao điểm đó.
Bài 10. (Bài toán Vitamin). Một nhà khoa học nghiên cứu về tác động phối
hợp của vitamin A và vitamin B đối với cơ thể con người. Kết quả như sau:
(i) Mỗi người có thể tiếp nhận được mỗi ngày không quá 600 đơn vị
vitamin A và không quá 500 đơn vị vitamin B.
(ii) Mỗi người mỗi ngày cần từ 400 đến 1000 đơn vị vitamin cả A lẫn B.
(iii) Do tác động phối hợp của hai loại vitamin, mỗi ngày, số đơn vị
vitamin B không ít hơn 1/2 số đơn vị vitamin A nhưng không nhiều hơn ba
lần số đơn vị vitamin A.
Giả sử x và y lần lượt là số đơn vị vitamin A và B mà bạn dùng mỗi ngày.
a) Gọi c (đồng) là số tiền vitamin mà bạn phải trả mỗi ngày. Hãy viết
phương trình biểu diễn c dưới dạng một biểu thức của x và y, nếu giá một đơn
vị vitamin A là 9 đồng và giá một đơn vị vitamin B là 7,5 đồng.
b) Viết các bất phương trình biểu thị các điều kiện (i), (ii), và (iii) thành
một hệ bất phương trình rồi xác định miền nghiệm (S) của hệ bất phương
trình đó.
c) Tìm phương án dùng hai loại vitamin A và B thoả mãn các điều kiện
trên để số tiền phải trả là ít nhất, biết rằng c đạt giá trị nhỏ nhất tại một trong
các đỉnh của miền nghiệm (S).
Họ và tên HS: ……………………………..…….… Lớp: ……………….
Xin cảm ơn sự hợp tác của các em!