ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜ NG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
TRẦN THỊ THANH TÂN
VĂN HỌC DÂN GIAN DÂN TỘC SÁN DÌU Ở THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN – NĂM 2016
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜ NG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TRẦN THỊ THANH TÂN VĂN HỌC DÂN GIAN DÂN TỘC SÁN DÌU Ở THÁI NGUYÊN CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Hằng Phương THÁI NGUYÊN – NĂM 2016
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn
chân thành và sâu sắc nhất của mình tới PGS.TS Nguyễn Hằng Phương, người
đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận
văn.
Tác giả xin trân trọng cảm ơn quý thầy cô trong Ban giám hiệu; Ban chủ
nhiệm; Quý thầy, cô trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập,
nghiên cứu khoa học.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Bảo tàng tỉnh Thái Nguyên, Thư viện tỉnh
Thái Nguyên, Sở văn hóa - thông tin tỉnh Thái Nguyên, Ủy ban nhân dân xã
Nam Hòa, Trường THPT Trần Quốc Tuấn. Cảm ơn các nghệ nhân, các ông bà,
cô chú, anh chị và bạn bè ở huyện Đồng Hỷ, huyện Phú Lương, huyện Phú Bình,
tỉnh Thái Nguyên - những người đã giúp đỡ tôi trong quá trình sưu tầm tư liệu để
hoàn thành luận văn. Cuối cùng, xin được bày tỏ lòng yêu thương và biết ơn sâu
sắc đến gia đình, đồng nghiệp - những người đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ, động
viên tác giả trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 10 năm 2016
Tác giả
Trần Thị Thanh Tân
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tư liệu
trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng, các kết quả trong luận văn là trung thực và
chưa từng được ai công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Trần Thị Thanh Tân
i
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN………………………………………………………………...i
LỜI CẢM ƠN……………………………………………………………………ii
MỤC LỤC……………………………………………………………………....iii
MỞ ĐẦU………………………………………………………………………...1
1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………………....1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề………………………………………………….....2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu………………………………………….........5
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu………………………………………….....6
5. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………….......7
6. Cấu trúc luận văn………………………………………………………….......8
7. Đóng góp của luận văn……………………………………………………......8
NỘI DUNG.........................................................................................................10
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ DÂN TỘC SÁN DÌU Ở THÁI NGUYÊN VÀ
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI………………...10
1.1. Khái quát về dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên……………………………..11
1.1.1. Vài nét về dân tộc Sán Dìu ở Việt Nam………………………………….11
1.1.2. Sơ lược về dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên………………………..........12
1.2. Văn học dân gian và văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Việt Nam……...22
1.2.1. Khái niệm văn học dân gian……………………………………………...22
1.2.2. Văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Việt Nam………………………….28
* Tiểu kết ………………………………………………...................................29
Chương 2: PHÁC HỌA DIỆN MẠO VĂN HỌC DÂN GIAN DÂN TỘC
SÁN DÌU Ở THÁI NGUYÊN…………………………….…………………31
ii
2.1. Khái quát về văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên…………..31
2.1.1. Hiện trạng văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên………..….31
2.1.2. Các thể loại văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên…………33
2.2. Những nhận xét sơ bộ về văn học dân gian
dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên………………………………………………..55
2.2.1. Đa dạng, phong phú, độc đáo về thể loại………………………………...55
2.2.2. Văn học dân gian Sán Dìu ở Thái Nguyên đang dần mai một………….56
* Tiểu kết ……………………………………………………………………...59
Chương 3: MỘT SỐ THỂ LOẠI VĂN HỌC DÂN GIAN TIÊU BIỂU CỦA
DÂN TỘC SÁN DÌU Ở THÁI NGUYÊN……………………………………61
3.1. Truyện cổ tích……………………………………………………………..61
3.1.1. Các tiểu loại truyện cổ tích………………………………………………61
3.1.2. Một số nội dung cơ bản………………………………………………….66
3.1.3. Một số đặc điểm nghệ thuật tiêu biểu……………………………………73
3.2 Hát Soọng Cô………………………………………………………………77
3.2.1. Các dạng thức hát Soọng Cô……………………………………………..77
3.2.2. Một số nội dung cơ bản………………………………………………….89
3.2.3. Một số đặc điểm nghệ thuật tiêu biểu…………………………………..101
* Tiểu kết …………………………………………………………………….112
KẾT LUẬN…………………………………………………………………...115
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1. Một số bài hát Soọng Cô dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên (chưa xuất bản)
iii
2. Một số câu tục ngữ, câu đố dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên.
3. Một số truyện cổ tích dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên (chưa xuất bản)
4. Phỏng vấn các nghệ nhân dân tộc Sán Dìu
5. Một số hình ảnh về văn hóa dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
1.1. Dân tộc Việt Nam là một cộng đồng bao gồm 54 dân tộc, bên cạnh dân
tộc Việt là dân tộc chủ thể còn có các dân tộc thiểu số khác sống rải rác trên mọi
miền đất nước. Thành phần các dân tộc có khác nhau nhưng đều chung nguồn gốc
Bách Việt. Từ buổi đầu dựng nước đến nay, các dân tộc thiểu số đã tham gia tích
cực trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước, xây dựng truyền thống lịch sử, văn hóa
của đại gia đình dân tộc Việt Nam. Văn học dân gian các dân tộc thiểu số có những
thành tựu độc đáo với những sắc thái riêng biệt. Giá trị của văn học dân gian dân tộc
thiểu số trong đời sống cộng đồng là vấn đề khoa học đáng để nghiên cứu. Từ đó,
diện mạo của nền văn học dân gian Việt Nam được nhìn nhận đầy đủ, chính xác
hơn trên mối quan hệ tổng thể văn học dân gian các dân tộc. Ðó là một nền văn học
dân gian thống nhất, đa dạng. Việc tìm hiểu văn học dân gian dân tộc thiểu số còn
thể hiện đường lối dân tộc, đường lối văn hóa văn nghệ của Ðảng ta, đó là bình
đẳng dân tộc, phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc anh em trong
đại gia đình dân tộc Việt Nam, nhằm góp phần vào việc xây dựng nền văn hóa văn
nghệ Việt Nam thống nhất và mang tính chất dân tộc phong phú.
1.2. Từ trước đến nay, đã có một số công trình hoặc bài viết nghiên cứu ở
phạm vi rộng, hẹp khác nhau về người Sán Dìu ở Thái Nguyên, cho ta biết đôi nét
về nguồn gốc, cư trú, phong tục và văn hoá truyền thống của người Sán Dìu. Các
công trình, bài viết cung cấp khá đầy đủ về một số khía cạnh dân tộc học, văn hoá
học nhưng chưa có công trình nào tìm hiểu về văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở
Thái Nguyên. Thêm vào đó, trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi đã đến điền
dã và sưu tầm văn học dân gian của người Sán Dìu lưu truyền trong dân gian với số
lượng đáng kể ở một số loại hình văn học dân gian. Với đề tài này, người nghiên
cứu hi vọng được nâng cao tầm hiểu biết về lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu
văn học dân gian, đặc biệt nghiên cứu văn học dân gian của dân tộc ít người ở Việt
Nam. Từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho công việc giảng dạy của bản thân người
nghiên cứu trong tương lai trên chính quê hương mình. Từ đó, có thể nhìn nhận đầy
2
đủ và chính xác hơn diện mạo của nền văn học dân gian Việt Nam trong mối quan
hệ tổng thể văn học dân gian các dân tộc.
1.3. Tự hào là người con dân tộc Sán Dìu, đồng thời sống tại địa phương có
nhiều người dân tộc Sán Dìu sinh sống, song tôi cảm thấy xót xa khi những tác
phẩm văn học dân gian, di sản vô giá của dân tộc mình đang dần mất đi. Thực hiện
đề tài là nguyện vọng chính đáng của chúng tôi bởi bản thân người nghiên cứu đang
công tác và giảng dạy môn Ngữ văn tại miền núi - nơi có nhiều người Sán Dìu sinh
sống. Vì vậy việc nghiên cứu, tìm hiểu văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái
Nguyên sẽ giúp tôi hiểu rõ hơn về văn hoá tinh thần của người Sán Dìu. Từ đó, có ý
nghĩa thiết thực trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy Văn học dân gian của các
dân tộc thiểu số. Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sẽ tiến hành sưu tầm tại
địa phương mình đang sinh sống và điền dã các tác phẩm văn học dân gian dân tộc
Sán Dìu lưu truyền trong dân gian để làm cơ sở nghiên cứu. Vì vậy, việc nghiên cứu về
văn học dân gian của dân tộc Sán Dìu giúp tôi hiểu rõ hơn về văn hóa tinh thần của
dân tộc mình. Nghiên cứu những nét cơ bản về giá trị nội dung, nghệ thuật văn học
dân gian trong đời sống văn hóa của người dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên sẽ góp
phần khẳng định, bảo tồn và phát huy nét đẹp truyền thống vốn có của các dân tộc
thiểu số Việt Nam nói chung và dân tộc Sán Dìu nói riêng...
Xuất phát từ thực tiễn nghiên cứu cùng lý do nghiệp vụ trên, chúng tôi chọn
đề tài nghiên cứu cho luận văn là: “Văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái
Nguyên”. Mong rằng qua công trình này, tôi sẽ góp một phần công sức nhỏ bé vào
việc giới thiệu, giữ gìn, bảo tồn và phát huy văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở
Thái Nguyên; đồng thời, tạo thêm một cơ sở, một nguồn tư liệu về văn học dân gian
để giúp giáo viên Ngữ văn ở tỉnh Thái Nguyên có thể thực hiện tiết dạy Ngữ văn địa
phương một cách thuận lợi hơn.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Mỗi dân tộc đều có những nét văn hóa đặc thù riêng. Những giá trị văn hóa
đậm đà bản sắc dân tộc đó đã tạo thành nền văn hóa thống nhất và đa dạng của đại
3
gia đình 54 dân tộc Việt Nam. Nghiên cứu văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở
Thái Nguyên nhằm giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam, đồng thời ứng dụng vào những công việc có ý nghĩa thiết thực ở địa
phương. Từ trước đến nay, tuy chưa có những công trình nghiên cứu chuyên sâu
về văn học song nền văn hóa dân tộc Sán Dìu nói chung và văn học dân tộc Sán Dìu
ở Thái Nguyên đã được một số tác giả đề cập đến, cụ thể như sau:
Trước hết có thể nhắc tới cuốn Người Sán Dìu ở Việt Nam của tác giả Ma
Khánh Bằng do Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội ấn hành năm 1983. Trong cuốn sách
này, tác giả đã giới thiệu khái quát về văn hóa vật chất, tinh thần của người Sán
Dìu ở Việt Nam. Đây là cơ sở quan trọng cho việc tìm hiểu nguồn gốc và đặc điểm
cơ bản của dân tộc Sán Dìu.
Cuốn Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam của tác giả Nguyễn
Đăng Duy được Nhà xuất bản Văn hóa thông tin ấn hành năm 2001 đã trình bày
khá đầy đủ về tín ngưỡng, tôn giáo, nguồn gốc, nội dung của các hình thái dân
gian đặc trưng ở một số vùng miền, một số dân tộc ít người, trình bày nguồn gốc
và những giáo lí cơ bản của các loại hình tôn giáo trong đời sống hiện nay.
Cuốn sách Lễ hội các dân tộc Hoa, Sán Dìu ở Việt Nam của tác giả Diệp
Trung Bình do Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội ấn hành 2002 đã đề cập khá toàn
diện về lễ hội của người Sán Dìu như lễ: Lễ Tháo Khoán, Lễ Kỳ Yên, Lễ Đại
Phan, Lễ Cấp Sắc…
Đặc biệt, trong những năm gần đây, trước xu thế hội nhập văn hóa giữa các
dân tộc, các nhà nghiên cứu trẻ đã có nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa dân
tộc Sán Dìu nói chung và nền văn học dân tộc Sán Dìu nói riêng. Mặc dù, địa bàn
cư trú của người dân tộc Sán Dìu khá rộng song Thái Nguyên là địa phương có
nhiều người dân tộc Sán Dìu sinh sống nhất cả nước. Việc tìm hiểu về văn hóa dân
gian dân tộc Sán Dìu và văn học dân gian dân tộc Sán Dìu (cụ thể là hát Soọng Cô)
ở Thái Nguyên là điều dễ hiểu.
4
Năm 2005, nhà nghiên cứu Vũ Diệu Trung trong bài viết Lễ cấp sắc của
người Sán Dìu ở Thái Nguyên (Thông báo khoa học) do Nxb Khoa học xã hội ấn
hành đã bước đầu tìm hiểu về lễ cấp sắc của người Sán Dìu trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên dưới góc nhìn văn hóa.
Không quá cầu kỳ trong cách ăn uống, nhưng cộng đồng người Sán Dìu
cũng có những nét riêng, độc đáo trong ẩm thực, góp phần làm phong phú nền văn
hóa Thái Nguyên. Năm 2008, tác giả Nguyễn Thị Quế Loan trong luận án Tiến sĩ
Tập quán ăn uống của người Sán Dìu ở Thái Nguyên đã đề cập tới đặc trưng trong
văn hóa ẩm thực của dân tộc này.
Nhìn chung, các công trình trên do mục đích nghiên cứu khác nhau đã tìm
hiểu về văn hóa của người Sán Dìu ở nhiều góc độ: lễ hội, ẩm thực, tôn giáo…
Tuy nhiên, việc nghiên cứu chuyên sâu về văn hóa tinh thần nói chung và văn học
dân gian của dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên nói riêng chưa được các tác giả quan
tâm tìm hiểu.
Năm 2012, tác giả Diệp Thanh Bình trong cuốn Dân ca các dân tộc Pu Péo,
Sán Dìu, Dao, Cao Lan, Lô Lô được Nxb Văn hóa dân tộc ấn hành đã đề cập đến
sinh hoạt dân ca (Soọng Cô) của dân tộc Sán Dìu song chỉ mang tính chất giới
thiệu những bài dân ca Sán Dìu mà không đi sâu tìm hiểu đặc trưng về nội dung và
nghệ thuật.
Có những luận văn, đề tài đã nghiên cứu về văn học dân gian các dân tộc
thiểu số nói chung, song đề tài nghiên cứu về văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở
Thái Nguyên gần như không có.
Gần đây, Sở Văn hóa - Thông tin và Thể thao tỉnh Tuyên Quang, Thái
Nguyên cũng có đề tài Bảo tồn hát Soọng Cô của dân tộc Sán Dìu với mục đích:
sưu tầm lời kể của nghệ nhân, chọn người để luyện tập các điệu hát Soọng Cô
nhằm phát huy những giá trị văn hóa phi vật thể của dân tộc Sán Dìu ở Thái
Nguyên; Năm 2011, có luận văn Khảo sát loại hình hát Soọng Cô của dân tộc Sán
Dìu ở Thái Nguyên và Tuyên Quang của tác giả Nguyễn Thị Mai Phương (Đại học
5
sư phạm). Song, do phạm vi tư liệu sưu tầm nên đề tài chưa khám phá hết giá trị
của loại hình dân ca này ở địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
Như vậy, công tác sưu tầm, nghiên cứu về văn học dân gian dân tộc Sán Dìu
ở Thái Nguyên còn rất khiêm tốn và mới được đề cập ở mức độ nhất định. Các đề
tài nghiên cứu chưa khám phá hết giá trị của loại hình dân ca cũng như những thể
loại văn học dân gian khác của dân tộc Sán Dìu ở vùng văn hóa này. Tuy nhiên,
các công trình nghiên cứu trên là những gợi mở, là tiền đề khoa học có giá trị cho
việc nghiên cứu đề tài luận văn của chúng tôi.
Qua quá trình khảo sát, phân tích một số tác phẩm văn học dân gian tiêu
biểu của dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên, chúng tôi sẽ nghiên cứu hi vọng góp
thêm một tiếng nói khẳng định ảnh hưởng của văn học dân gian đến đời sống văn hóa,
tinh thần của con người.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở
Thái Nguyên.
- Tìm hiểu thêm văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở địa phương khác đề so
sánh khi cần thiết.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Phạm vi tư liệu nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành khảo sát văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái
Nguyên trong một số công trình:
1. Diệp Trung Bình (1987), Dân ca Sán Dìu, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
2. Lê Trung Vũ, Diệp Thanh Bình, Đỗ Quang Tụ, Nguyễn Liễn, Lâm Quý,
Lò Giàng Páo (2012), Dân ca các dân tộc Pu Péo, Sán Dìu, Dao, Cao Lan, Lô Lô,
Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
6
3. Diệp Minh Tài (2001), Soọng Cô dân ca dân tộc Sán Dìu, Sưu tầm, dịch
thuật và biên soạn, Tài liệu chưa xuất bản.
4. Một số tác phẩm văn học dân gian dân tộc Sán Dìu và những tư liệu liên
quan đến đề tài mà chúng tôi thu thập được trong quá trình điền dã.
3.2.2. Phạm vi vấn đề nghiên cứu
Trong giới hạn của một đề tài luận văn thạc sĩ, chúng tôi chủ yếu nghiên cứu
những nội dung cơ bản và một số yếu tố về thi pháp tiêu biểu trong phần lời của
tác phẩm văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên (Những yếu tố khác
dùng để phân tích tham khảo khi cần thiết).
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
- Luận văn nhằm mục đích nghiên cứu, tìm hiểu giá trị cơ bản về nội dung
và nghệ thuật của các tác phẩm văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên.
Trong điều kiện cho phép, chúng tôi có liên hệ so sánh giữa văn học dân gian dân
tộc Sán Dìu với văn học dân gian các dân tộc anh em, từ đó thấy được nét độc đáo,
riêng biệt của đối tượng nghiên cứu.
- Thông qua việc điền dã, sưu tầm, nghiên cứu về văn học dân gian dân tộc
Sán Dìu, luận văn đưa ra một số định hướng, biện pháp nhằm bảo tồn, giữ gìn và
phát huy các giá trị văn hóa nói chung và văn học dân gian dân tộc Sán Dìu nói
riêng ở Thái Nguyên.
- Một trong những mục tiêu quan trọng mà luận văn muốn hướng tới là dùng
kết quả sưu tầm, nghiên cứu để ứng dụng vào việc giảng dạy nội dung Ngữ văn địa
phương ở các đơn vị trường trung học cơ sở trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên; Tìm hiểu về địa
bàn cư trú, văn hóa, đời sống vật chất, tinh thần của người dân tộc Sán Dìu ở Thái
Nguyên và đóng góp của văn học dân gian vào đời sống văn hóa tinh thần của
7
người dân tộc Sán Dìu; đề xuất một số giải pháp nhằm bảo tồn, lưu giữ các tác
phẩm văn học dân gian…
5. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu về văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên, tác giả sưu
tầm, tham khảo các sách, báo, tạp chí, bài viết có liên quan hoặc đề cập đến vấn đề
nghiên cứu.
Để tìm hiểu, nghiên cứu về văn học dân gian dân tộc Sán Dìu, luận văn sử
dụng một số phương pháp:
- Phương pháp điền dã: Đây là phương pháp chúng tôi sử dụng để thu thập
tư liệu về văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên. Thường vào những
ngày nghỉ cuối tuần và nghỉ hè, chúng tôi tìm đến các làng bản ở Thái Nguyên có
người dân tộc Sán Dìu sinh sống để sưu tầm. Các tác phẩm đều được sưu tầm từ
các nghệ nhân dân gian, những người già trong làng, những người am hiểu về văn
hóa, văn học dân gian dân tộc Sán Dìu trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
- Phương pháp thống kê, phân loại: Sau khi sưu tầm tác phẩm văn học dân
gian, chúng tôi đọc kĩ nhằm tìm hiểu sơ bộ tác phẩm đó. Sau đó đối chiếu với kiến
thức văn học dân gian mà bản thân có để phân loại tác phẩm vào những thể loại cụ
thể nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Từ kết quả phân loại các tác phẩm văn
học dân gian dân tộc Sán Dìu theo thể loại, chúng tôi tiến hành phân tích và đưa ra
những nhận xét, đánh giá đối với những giá trị cơ bản về nội dung, nghệ thuật của
các thể loại đó.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Trong quá trình phân tích, tổng hợp,
chúng tôi cố gắng so sánh, đối chiếu các tác phẩm văn học dân gian của các dân
tộc anh em khác nhằm tìm ra những nét tương đồng và dị biệt trong những trường
hợp cần thiết.
8
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Trên cơ sở tìm hiểu những văn bản
văn học dân gian dân tộc Sán Dìu, chúng tôi có phối hợp với một số phương pháp
sử học, văn hóa học, dân tộc học…
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Nội dung
chính của luận văn được triển khai thành 3 chương:
Chương 1: Khái quát về dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên và một số vấn đề lý
luận chung liên quan đến đề tài
Chương 2: Phác họa diện mạo văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái
Nguyên
Chương 3: Một số thể loại văn học dân gian tiêu biểu của dân tộc Sán Dìu ở
Thái Nguyên
7. Đóng góp của luận văn
Từ việc sưu tầm, phân tích, phân loại, tổng hợp, đối chiếu, so sánh các văn
bản văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên, luận văn là công trình
nghiên cứu tương đối hệ thống và đầy đủ về văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở
Thái Nguyên. Từ đó, luận văn góp phần tạo dựng diện mạo chung của nền văn học
dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên.
Tác giả luận văn trong quá trình nghiên cứu đã đi điền dã sưu tầm được một
số lượng nhất định tác phẩm văn học dân gian thuộc các thể loại như thần thoại,
tục ngữ, câu đố, hát Soọng Cô, truyện cổ tích của dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên.
Từ những tư liệu chúng tôi sưu tầm được, giá trị của văn học dân gian dân tộc Sán
Dìu ở Thái Nguyên hi vọng sẽ được bảo lưu, trường tồn cùng thời gian.
Cùng với nhịp sống hiện đại, văn học dân gian dân tộc Sán Dìu đang dần
phôi phai thì việc sưu tầm, nghiên cứu về văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái
Nguyên, luận văn góp phần khơi dậy tình yêu và ý thức giữ gìn của người dân tộc
9
Sán Dìu với vốn văn hóa, văn học dân gian của họ, góp phần bảo tồn, phát huy vốn
văn hóa, văn học dân gian dân tộc Sán Dìu.
Đồng thời, các kết quả nghiên cứu sẽ được tham khảo và ứng dụng vào việc
giảng dạy những tiết Ngữ văn địa phương trong các trường Trung học cơ sở thuộc
tỉnh Thái Nguyên.
10
NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ DÂN TỘC SÁN DÌU Ở THÁI NGUYÊN VÀ MỘT SỐ
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
“Thái Nguyên xanh mát nương chè
Chè xanh xứ Thái đậm đà ngát hương.
Bà con một nắng, hai sương
Nụ cười chíu nắng bên nương dưới đồi”. [9]
Thái Nguyên xanh mát nương chè, phảng phất gió heo may, với sông Cầu
thoáng màu xanh trung du, với sắc hoa rừng nhè nhẹ ngát hương, với Thủ đô Gió
ngàn nặng ân tình, An toàn Chiến khu xưa. Thái Nguyên là một tỉnh miền núi
trung du, nằm trong vùng văn hóa Việt Bắc, phía bắc tiếp giáp với tỉnh Bắc Kạn;
phía tây giáp với các tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang; phía đông giáp với các
tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang và phía nam tiếp giáp với thủ đô Hà Nội. Tỉnh Thái
Nguyên có diện tích tự nhiên 3.562,82 km2, dân số hiện nay là 1.139.444 người;
trong đó, đông nhất là dân tộc Kinh có 786.903 người, chiếm 75,5%; dân tộc Tày
có 106.238 người, chiếm 10,7%; dân tộc Nùng có 54.628 người, chiếm 5,1%; dân
tộc Sán Dìu có 37.365 người, chiếm 2,4%; dân tộc Sán Chay có 29.229 người,
chiếm 2,79%, dân tộc Dao có 21.818, chiếm 2,1%; dân tộc Mông có 4.831 người,
chiếm và các dân tộc thiểu số khác chiếm khoảng 1,8%.
Và đến với Thái Nguyên là đến với một nền văn hoá dân gian khá độc đáo,
mang đậm dấu ấn miền núi. Sự tiếp xúc giữa văn hoá Sán Dìu với văn hoá dân
gian của dân tộc Cao Lan, H’mông, Dao, Nùng, Tày,… trong vùng không thể
không ảnh hưởng lẫn nhau ở chừng mực nào đó trong nghệ thuật và trong sinh
hoạt. Nhưng tâm lý, thị hiếu thẩm mĩ và điều kiện sinh sống không bao giờ đồng
nhất giữa các dân tộc. Cho nên văn hoá nghệ thuật của bất cứ cộng đồng nào cũng
11
vẫn mang những nét dáng tinh tuý riêng, thể hiện thành bản sắc dân tộc. Văn hoá
của dân tộc Sán Dìu cũng không nằm ngoài quy luật đó.
1.1. Khái quát về dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên
1.1.1. Vài nét về dân tộc Sán Dìu ở Việt Nam
1.1.1.1. Dân số của người Sán Dìu
Theo thống kê trên toàn quốc, người Sán Dìu có số dân theo các năm như
sau: Năm 1989 có 94.630 người; Năm 1999 có 126.237 người. Theo số liệu của
Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam đến ngày 01/04/2009, người Sán Dìu có
số dân 146.821 người, cư trú 56/63 tỉnh, thành phố của cả nước, dân số đứng thứ
17/54 dân tộc của Việt Nam. Phân bố dân cư của người Sán Dìu không đồng đều
còn chênh lệch ở mức cao giữa nông thôn (90,86%) và thành thị (9,14%).
Địa bàn cư trú của người dân tộc Sán Dìu chủ yếu ở trung du và miền núi
phía Bắc (85.011 người) và đồng bằng sông Hồng (57.832 người). Các tỉnh có dân
số từ 1000 người trở lên như Thái Nguyên; Vĩnh Phúc; Bắc Giang; Tuyên Quang;
Quảng Ninh; Hải Dương. Ở các tỉnh phía Nam người Sán Dìu tập trung đông ở
vùng Tây Nguyên (1.757 người) và Đông Nam Bộ (1.968 người), các tỉnh có dân
số từ 100 người trở lên như: Đồng Nai, Lâm Đồng, Đắc Nông, Bình Phước, Bình
Dương, Thành phố Hồ Chí Minh, Đắc Lắc, Gia Lai, Bà Rịa Vũng Tàu, Kon Tum.
1.1.1.2. Tên gọi tộc người
Dân tộc Sán Dìu tên tự nhận San Déo Nhín, theo âm Hán Việt có thể hình
dung: San = Sơn; Déo = Dao; Nhín = Nhân. San Déo Nhín tức là Sơn Dao Nhân.
Đồng bào cũng có những tên gọi tương tự như: San Déo Láo, cách gọi này được
người Sán Dìu sử dụng trong cộng đồng. Ngoài tên tự nhận, dân tộc Sán Dìu còn
có các tên gọi khác do những dân tộc cận cư gọi, chủ yếu dựa vào đặc điểm khác
nhau (mang tính địa phương) như:
12
Dựa vào trang phục truyền thống gọi là Mán Váy Xẻ, Mán Quần Cộc để
phân biệt với Mán Quần Chẹt, Mán Quần Trắng – một tên gọi khác của nhóm Dao
Quần Trắng và nhóm Dao Quần Chẹt. [62]
Dựa vào đặc điểm nhà ở, người Sán Dìu có tên là Trại, Trại Đất. Nhà của
người Sán Dìu tường được trình bằng đất hay bưng ván. Từ đó, để phân biệt với
Trại Cao là tên gọi chỉ những người dân tộc Cao Lan sống trong các ngôi nhà sàn
bằng gỗ.
Dựa vào sự kết hợp giữa nhà ở với đặc điểm canh tác gọi là Trại Ruộng, tức
người Sán Dìu ở nhà đất, làm ruộng.
Dựa vào nhà ở và trang phục truyền thống gọi là Trại Cộc, tức người Sán
Dìu mặc quần cộc và ở nhà đất tường trình...
Các tên gọi dân tộc Sán Dìu thuộc các nhóm địa phương như Thái Nguyên,
Bắc Giang, Tuyên Quang... không phải tên gọi thống nhất của dân tộc Sán Dìu.
Mục đích các tên gọi này để phân biệt với các dân tộc cận cư như: Sán Chay, Dao,
Tày...
Những năm 50 của thế kỷ XX, bản danh mục tương đối đầy đủ và khá chi
tiết về thành phần các dân tộc Việt Nam mới được công bố trong cuốn Các dân tộc
thiểu số Việt Nam của tác giả Lã Văn Lô và cộng sự đã thống nhất tên gọi Sán Dìu
dưới góc độ chuyên môn để phân định các dân tộc thiểu số Việt Nam. Tổng cục
thống kê Trung ương chính thức khẳng định tên Sán Dìu trong các văn bản Nhà
nước là tên gọi chính thống của dân tộc này.
1.1.2. Sơ lược về dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên
1.1.2.1. Nguồn gốc lịch sử
Về nguồn gốc tộc người Sán Dìu, từ trước tới nay vẫn là vấn đề được các
nhà nghiên cứu quan tâm. Bởi lẽ, chúng ta chưa tìm ra cứ liệu khoa học chính xác
nào bàn về vấn đề này mà chỉ dựa trên những ghi chép chưa thật chi tiết của các sử
gia hay lời kể của những vị cao niên am tường về văn hóa dân tộc Sán Dìu.
13
Nhà nghiên cứu Ma Khánh Bằng khẳng định“tất cả các nhóm Dao ở nước
ta đều là Man hay Mán. Như vậy, có thể nghĩ rằng Man = Dao, và Sơn Man tức là
Sơn Dao hay cũng chính là Sán Dìu” [2, tr.9]. Những lí giải trên của ông, vô hình
chung đã đồng nhất các dân tộc vào làm một. Bởi lẽ, không phải dân tộc nào là
Man hay Mán cũng là Dao, trong chế độ phong kiến không riêng gì người Dao
được gọi là Man, mà nhiều dân tộc khác cũng gọi như vậy, cụ thể như người
Hmông, Pàthẻn, Cao Lan…
Các sử gia phong kiến đã gộp nhiều tộc người vào làm một và chỉ dựa vào
đặc trưng văn hóa như ăn, ở, mặc… mà chưa đi sâu tìm hiểu văn hóa tín ngưỡng,
tri thức bản địa, tổ chức cộng đồng, văn học dân gian…những thành tố quan trọng
tạo nên bản sắc riêng của các tộc người, nên khó có thể hiểu rõ về những “giống
người” trên thuộc về dân tộc nào. Các triều đại phong kiến đều gọi các dân tộc
thiểu số là Man hay Mán, trong từ “Man di”.
Cũng trong cuốn Người Sán Dìu ở Việt Nam, có viết: “Quần Cộc từ Quảng
Đông di cư sang đất nước ta mới được độ ba bốn trăm năm nay, còn có tên là Sơn
Dao,”.[2, tr.9]
Căn cứ vào tên tự nhận của đồng bào Sán Dìu, khi di cư vào Việt Nam do
loạn lạc, người Sán Dìu chạy lên các vùng đồi núi thấp, bán sơn địa sinh sống.
Những ngày đầu tiên trên đất nước Việt Nam, người Sán Dìu sống du canh du cư,
họ dựng những túp lều hay những nhà trại. Do vậy, từ “San Léo – Sán Lều” dùng
chỉ những người làm ăn sinh sống và ở những lều trại trong rừng, đọc chệch là San
Déo – người Sán Dìu.
Theo tác giả Ma Khánh Bằng thì “Tên Sán Dìu từ Sơn Dao, thì người Sán
Dìu vốn có nguồn gốc từ người Dao. Từ đó ta có thể suy ra rằng: từ rất xa xưa,
khối Dao bị bọn phong kiến phương Bắc thống trị đã “bóp vụn” thành nhiều nhóm
nhỏ, khiến cho mỗi nhóm phiêu bạt một nơi. Người Sán Dìu là một trong những
nhóm đó, nhưng đã sống lâu ngày bên cạnh người Hán nên dần dần mất tiếng mẹ
đẻ, tiếp thu một thổ ngữ ở Quảng Đông…”.[2, tr.9]
14
Tuy chưa xác định rõ nguồn gốc tộc người Sán Dìu nhưng tộc người này
vẫn ý thức mình là một dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, có ngôn ngữ riêng… với
tên tự gọi là San Déo Nhín.
Người Sán Dìu di cư vào Việt Nam đã vượt qua dãy Hoàng Trúc Cao Sơn
(Voóng Mố Lẻng) từ xã Quảng Sơn huyện Hải Hà tới xã Quảng Lâm huyện Đầm
Hà, tiếp tục tiến sâu vào nước ta. Họ đi qua Tiên Yên rồi tỏa đi các nơi sinh cơ và
lập nghiệp ở nhiều địa phương khác nhau. Tuy nhiên, địa bàn cư trú của người Sán
Dìu chủ yếu từ tả ngạn sông Hồng đến các tỉnh trung du miền núi phía Bắc. Họ có
mặt ở các vùng đồi núi thấp, các triền núi, chân đồi thậm chí cả vùng biển đảo
như: huyện Vân Đồn, huyện Đầm Hà, huyện Tiên Yên… Một nhóm rẽ sang thị xã
Chí Linh (Hải Dương), nhánh chính theo dãy núi Yên Tử tiến vào các tỉnh Bắc
Giang, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc. Theo gia phả của gia đình ông Lê
Hữu Nhất, xã Hóa Thượng, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên, tổ tiên họ xa kia
có nguồn gốc tại thôn Phong Lưu, xã Bách La, huyện Phương Thành, tỉnh Quảng
Đông (Trung Quốc). Vào đời Càn Long, Nhà Thanh, tổ tiên họ di cư sang
Việt Nam, đến nay đã 13 đời (trên dưới 300 năm). Quảng Ninh là điểm định cư
đầu tiên của họ tại Việt Nam. Sau đó, họ di cư tới Thanh Trà, Phú Lương, Thái
Nguyên. Đến đời cụ Lê Hữu Nhất, lại chuyển đến Đồng Hỷ, Thái Nguyên. [76]
1.1.2.2. Dân số và địa bàn cư trú
Hiện nay, Thái Nguyên là tỉnh có đông người Sán Dìu nhất ở nước ta
(29,59%). Năm 1999 với 37.365 người (3,57%), họ đứng ở vị trí thứ 4 trong các
dân tộc của tỉnh và có mặt ở tất cả các huyện, thị xã thành phố của Thái Nguyên.
Người Sán Dìu phân bố chủ yếu ở vùng bán sơn địa, đông nhất là huyện Đồng Hỷ
(40,8%), tiếp đến là thị xã Phổ Yên (21,8%), huyện Phú Lương (12,2%), thành phố
Thái Nguyên (9,2%) và ít nhất là huyện Định Hoá (0,09%). Năm 1960 người Sán
Dìu có mặt ở 63/162 xã, phường của tỉnh, trong đó huyện Đại Từ có 22 xã, huyện
Đồng Hỷ có 21 xã, còn hai huyện: Định Hoá và Võ Nhai không có xã nào có
người Sán Dìu cư trú; số xã có người Sán Dìu cư trú phần lớn chiếm tỉ lệ thấp
(59/63 xã chỉ đến 40%), chỉ có 3 xã người Sán Dìu chiếm trên 40% dân số là: Phúc
15
Thuận (44,9%) của thị xã Phổ Yên; Phúc Thọ (48,5%) của huyện Đại Từ và Nam
Hòa (69%) của huyện Đồng Hỷ.
Năm 1999, người Sán Dìu đã có mặt ở 154/180 xã phường của Thái
Nguyên, dân số Sán Dìu trong mỗi xã cũng vẫn chiếm tỉ lệ thấp, có 151/154 xã
chiếm tỉ lệ từ 0,01 đến 40%, còn lại 3 xã có tỉ lệ trên 40% là xã Nam Hoà (61,6%),
xã Tân Lợi (42,5%) của huyện Đồng Hỷ và xã Bàn Đạt (41,3%) của huyện Phú
Bình.
Làng bản của người Sán Dìu ở Thái Nguyên thường được lập dưới chân các
đồi núi, gần các con sông và cánh rừng. Trải qua những thăng trầm của lịch sử,
người Sán Dìu ở Thái Nguyên đã sát cánh bên nhau, cùng chống chọi lại thiên
nhiên khắc nghiệt, biến những mảnh đất khô cằn thành cánh đồng màu mỡ và từ
trong cuộc sống vất vả lam lũ đó, văn học dân gian đã trở thành món ăn tinh thần,
gắn bó máu thịt với họ.[19]
1.1.2.3. Hoạt động kinh tế
Về kinh tế tự nhiên
Người Sán Dìu cư trú trên vùng bán sơn địa rộng lớn có rừng, núi đồi, có
đồng bằng. Ngoài những hoạt động sản xuất thường niên, người Sán Dìu còn khai
thác lâm thổ sản để cung cấp cho nhu cầu thiết yếu cho đời sống của đồng bào.
Việc khai thác các nguồn lợi tự nhiên được phân công lao động theo giới, phù hợp
với các thành viên trong gia đình: đàn ông khỏe mạnh đi xẻ gỗ, săn bắn…, phụ nữ,
trẻ em đi lấy măng, lấy củi, hái nấm,… Hình thái kinh tế tự nhiên góp phần huy
động tất cả sức lao động của các thành viên trong gia đình, song các hoạt động này
hầu hết được thực hiện vào lúc nông nhàn, còn hoạt động chính và chủ đạo trong
kinh tế của người Sán Dìu là trồng trọt và chăn nuôi.
Về hoạt động sản xuất
Có thể nói, cũng như các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Sán Chay..., sinh sống ở
Thái Nguyên, cộng đồng Sán Dìu đã biết dựa vào thiên nhiên, khai thác tự nhiên
để duy trì cuộc sống và phát triển cộng đồng của mình. Trải qua quá trình tự nhiên
16
ở Thái Nguyên, cộng đồng Sán Dìu đã xây dựng một đời sống kinh tế, mang
dấu ấn của vùng miền núi trung du nhưng cũng rất phong phú những nét truyền
thống tộc người. Thái Nguyên thuộc vùng miền núi trung du, địa hình ở đây bao
gồm những đặc điểm của vùng đồi núi, đất bằng ven đồi, vùng trũng chân núi...
Đất đai ở vùng này tương đối đa dạng về loại hình. Ruộng đất của người Sán Dìu
thường được phân chia theo phần ruộng đất cha ông để lại. Trong quan niệm của
người Sán Dìu, những người con trai trong gia đình mới được chia ruộng đất, xuất
phát từ tư tưởng “trọng nam khinh nữ” và họ cho rằng người con trai mới là người
phụng dưỡng cha mẹ, thờ cúng tổ tiên. Người Sán Dìu canh tác chủ yếu dựa vào
kinh nghiệm cổ truyền. Mỗi loại đất đai, mỗi loại nhóm cây trồng, họ có kĩ năng
canh tác riêng phần nhiều do kinh nghiệm tích lũy được qua nhiều năm. Trong đó,
lúa là cây lương thực quan trọng hàng đầu nên được người Sán Dìu canh tác ở tất
cả các loại đất đai. Ngoại trừ số ít các gia đình sống ở thị xã, thành phố, đại bộ
phận người Sán Dìu vẫn sống trong hoàn cảnh một nền kinh tế tự cấp tự túc. Bởi
thế, nông nghiệp, trồng trọt vẫn giữ vai trò hạt nhân trong hệ thống các hoạt động
mưu sinh của họ. Mọi hoạt động đều xoay quanh nông nghiệp, điều đó thể hiện
trong nông lịch hàng năm của người Sán Dìu. Đồng thời phản ánh rõ nét thông qua
văn học dân gian dân tộc Sán Dìu như tục ngữ về kinh nghiệm sản xuất, hát Soọng
Cô về những mùa vụ trong năm…
Gia ®×nh S¸n D×u cã truyÒn thèng làm giấy gió do người Sán Dìu dùng giấy
gió để ghi chép gia phả, truyện cổ tích, thơ ca, sớ… Nhưng ngày nay, giấy gió
thường chỉ được dùng trong việc ghi sớ của những thầy cúng. Có lẽ, do nhu cầu sử
dụng nên nghề làm giấy gió mai một theo thời gian.
Từ xưa đến nay, người Sán Dìu có nhiều nghề thủ công nhưng hiện nay còn
phổ biến đó là nghề đan lát. Trong mọi gia đình người Sán Dìu hầu hết ai cũng biết
đan lát, từ đàn ông đến phụ nữ và trẻ nhỏ. Song công việc đan lát chủ yếu do người
đàn ông trong gia đình đảm trách, họ đan lát vào buổi tối hoặc khi nông nhàn.
Những sản phẩm của đan lát phục vụ cho chính nhu cầu của gia đình như: lồng gà,
bu gà, sọt, rổ rá, giần, sàng… Những năm gần đây do nhu cầu sử dụng nên một số
17
gia đình người Sán Dìu có mang những sản phẩm từ đan lát ra chợ bán, song số
lượng không nhiều mà chủ yếu phục vụ cho cộng đồng và một số ít những dân tộc
anh em lân cận. Đây cũng là điều kiện tiếp xúc, giao thoa văn hóa với các dân tộc
khác trong vùng.
1.1.2.4. Văn hóa truyền thống
Mỗi dân tộc đều mang trong mình nét đặc trưng riêng về văn hóa vật chất
và văn hóa tinh thần, tộc người Sán Dìu cũng nằm trong mối tương quan đó. Văn
hóa vật chất bao gồm nhà ở, đồ ăn thức uống, trang phục… của người Sán Dìu
có những nét riêng và khu biệt với dân tộc khác.
Nhà ở
Nếu người Dao, người Hmông chọn nhưng nơi núi cao để làm nhà, người
Kinh chọn nơi đồng bằng thì làng bản của người Sán Dìu chủ yếu trên các sườn
đồi hay chân đồi. Mỗi làng có khoảng vài chục nóc nhà nhưng cũng có làng nhiều
lên đến cả trăm nhà. Trong cùng một làng cũng được người Sán Dìu đặt tên theo
các khu như: Óng Ánh Vùi, Thai Lẹng,…
Người Sán Dìu chọn nơi ở lí tưởng đó là phía trước là đồng ruộng, phía sau
nhà là đồi thấp thuận tiện cho trồng trọt. Trong cuộc sống của người Sán Dìu họ
rất coi trọng việc dựng nhà. Trước khi dựng nhà bao giờ họ cũng tới nhà thầy
cúng để xem tuổi (chủ yếu là tuổi của người đàn ông). Nếu không “được” tuổi,
họ sẽ nhờ một người đàn ông khác trong cộng đồng làm thủ tục “mượn” tuổi và
phải được báo cáo trước bàn thờ tổ tiên. Sau đó, khi làm nhà xong, chủ nhà nếu
muốn có thể “mua” lại thì làm lễ dâng xin lại nhà trước bàn thờ thổ công nhà
mình.
Nếu người Kinh chọn nhà hướng Nam, thì theo quan của người Sán Dìu,
hướng nhà phải hợp với tuổi chủ nhà. Họ rất kị cửa chính nhà đối diện với ngọn
núi cao hay con đường, nóc nhà chiếu thẳng vào. Họ cho rằng nếu phạm phải
những điều ấy thì gia chủ lụi bại, hay gặp tai họa. Sau khi làm nhà xong, hay vào
18
mỗi dịp đầu năm người Sán Dìu thường làm Lễ Kỳ yên, trấn trạch với mong
muốn đất ở bình an, gia đình hưởng phúc.
Nhà của người Sán Dìu thường gồm ba gian hoặc năm gian. Trước đây, họ
thường ở nhà trình tường bằng đất. Tường đất dày khoảng 40-50cm, được làm
nhờ những bàn tay khỏe mạnh trành đất theo các khuôn xếp chồng lên nhau. Nhà
ở đẹp là những khuôn tường đất mịn, mái nhà được lợp bằng rơm rạ hay cỏ
tranh. Gian chính của ngôi nhà để đặt bàn thờ tổ tiên và cũng là nơi tiếp khách.
Hai gian bên cạnh dùng để ở, thường là họ kê giường ngay cạnh và bên dưới bàn
thờ.
Lễ ăn mừng nhà mới của người Sán Dìu không thể thiếu các thầy cúng kỳ
yên trấn trạch, rồi đón tổ tiên của gia chủ về nhà. Đây cũng là lúc chủ nhà mời
anh em họ hàng và những người đã giúp đỡ chủ nhà làm nhà ăn bữa cơm cảm ơn.
Để rồi trai gái trong làng đến hát Soọng Cô mừng chủ nhà, lời ca vang lên:
Soọng théo sếnh cô hô chúy ca
Chúy ca ộc sọng khọi lống ngá
Ịt nén hý ộc sen nén suy
Chấy son hỵ chọn tách lói là
(Hát một bài ca mừng chủ nhà
Gia đình đoàn kết làm nhà to
Một năm làm nhà ngàn năm ở
Hằng năm con cháu đi lại thăm).[44]
Hiện nay, nhà ở của người Sán Dìu đã có sự đổi khác do cuộc sống hiện
đại, họ làm nhà xây thay vì nhà trình tường, nhưng những thủ tục như xem tuổi,
chọn hướng, mừng nhà mới vẫn được duy trì.
Ẩm thực
19
Lương thực chủ yếu của người Sán Dìu là gạo tẻ, phương thức chế biến lương
thực và tổ chức bữa ăn gần gũi với người Kinh. Gạo tẻ được nấu thành cơm hoặc
cháo loãng (cháo ỉm). Gạo nếp thường được dùng trong những ngày lễ tết để nấu xôi
(xôi cẩm, xôi sau sau…), hay làm bánh (bánh trôi, bánh lép cóc phồ, bánh bẻng,…).
Trong bữa ăn của người Sán Dìu thì cơm và rau là thành phần chính, thức ăn có thịt
cá nhưng không thường xuyên. Câu mời cửa miệng của người Sán Dìu Thái Nguyên
trong suốt bữa là “gắp rau ăn đi”. Bởi trong quan niệm của họ, rau là bao gồm tất cả
thưc ăn trong bữa ăn ấy. Phải chăng một phần cũng vì rau là một trong hai thành phần
chính trong bữa ăn.
Văn hóa ẩm thực của người Sán Dìu để lại dấu ấn chủ yếu trong các dịp lễ tết
của đồng bào. Những món ăn đậm đà bản sắc dân tộc như: khau nhục, thịt thính, thịt
muối, cà bát nén, bánh chưng gù, bánh nghé, bánh trôi con, xôi nhuộm màu… và
không thể thiếu cơm tẻ, cháo ỉm.
Thức uống của người Sán Dìu cũng khá là đa dạng. Trước đây và hiện nay,
trong các gia đình Sán Dìu vẫn dùng các loại nước uống như: nước vối (sủi loóng sá),
nước nấu từ sa nhân (thôôc thala cháy), nước nấu từ cây tu hú (tu hụ thanh), nước nấu
từ các loại thảo dược khác của núi rừng, nước chè tươi, chè xanh (búp sao). Rượu
được nấu từ nhiều loại nguyên liệu khác nhau như gạo tẻ, gạo nếp, ngô, sắn… Bên
cạnh đó, đồng bào cũng biết tận dụng một số thảo dược ngâm rượu uống như rượu
trẩm huyết,…
Bên cạnh đó, cháo ỉm cũng là một loại thức uống bổ dưỡng. Sáng sáng trong
gia đình người Sán Dìu bao giờ cũng có nồi cháo để ngang buổi làm họ sẽ về uống
nước cháo để giải khát. Đây là thức uống vô cùng bổ dưỡng.
Trong mâm cơm của người Sán Dìu thì thức ăn bao giờ cũng đặt ở vị trí trung
tâm, rau đặt xung quanh. Trong gia đình có cả con trai con gái thì người con gái sẽ
ngồi đầu nồi để đơm cơm, nếu chỉ có con trai thì người con trai ngồi vị trí đầu nồi.
Khách đến nhà chơi ăn cơm dù mâm cơm có ít hay nhiều thức ăn nhưng bao giờ chủ
20
nhà cũng mời khách “ăn thêm bát nữa”, lời mời ấm áp tình người, chứng tỏ sự mến
khách của chủ nhà.
Trang phục
Trang phục của nam giới, họ thường mặc hai chiếc áo. Áo trong ngắn hơn
màu trắng, áo ngoài có thể màu nâu hoặc đen. Áo năm thân, cổ cao, cài khuy bên
phải. Quần màu nâu hoặc đen, ống rộng, thắt lưng màu chàm. Trang phục của nữ
giới phức tạp hơn, gồm có: khăn đội đầu, yếm, áo trong, áo ngoài, dây lưng, váy, xà
cạp. Áo trong ngắn hơn áo ngoài, màu trắng, áo ngoài màu chàm. Áo của người phụ
nữ Sán Dìu là kiếu áo tứ thân, cổ cao nhưng không có khuy. Cách mặc cũng phân
biệt tuổi tác, người trẻ mặc áo vạt bên phải vắt phủ lên vạt bên trái, tạo thành đường
chéo nhau từ cổ xuống ngực. Người già thì mặc áo thì vạt bên trái vắt phủ lên vạt
bên phải, thắt lưng hoa lý, tím hoặc đỏ thắt lại. Xà cạp bằng vải màu đen hoặc màu
chàm. Chân đi guốc gỗ hoặc đi dép quai hậu. Đồ trang sức của người Sán Dìu chủ
yếu làm bằng bạc như vòng kiềng, khuyên tai, nhẫn. Bên cạnh đó, túi trầu và con
dao cũng được coi là vật trang sức của người Sán Dìu. Nếu như người Kinh trao
khăn, gửi áo:
“Gửi khăn, gửi áo gửi lời
Gửi đôi chàng mạng cho người đàng xa”
Thì túi trầu hình múi bưởi được may công phu bằng sáu đến tám sợi chỉ màu
là vật trao duyên của người con gái Sán Dìu:
Dịu chác loi thoi láo moi cây
Ném nẻm dịu hềnh thèm lốc chấy
Loi thoi nẹm, nẹm xím miếng loi
Ban híp cói cỏi sệch lim nhín.
(Chiếc túi trầu của em tôi
In hình múi bưởi xinh tươi bên mình
21
Túi trầu nặng nghĩa, nặng tình
Gói trong bao nét nhân duyên thật thà).[50]
Tín ngưỡng
Trong nhà của người Sán Dìu, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên luôn được coi
trọng. Trong ngôi nhà của đồng bào, bàn thờ tổ tiên bao giờ cũng đặt ở gian giữa,
đó là gian trang trọng nhất đối diện cửa chính. Ngoài thờ cúng tổ tiên, người Sán
Dìu còn thờ cúng Thần cửa, Thổ Công... Ở người Sán Dìu là sự dung hòa giữa
Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo. Chính vì vậy, tư tưởng về hành vi ứng xử của
đàn ông tuân theo tam cương ngũ thường, phụ nữ thì phải tam tòng, tứ đức. Tư
tưởng đó củng cố thêm chế độ phụ quyền, trọng nam khinh nữ trong xã hội. Lễ tết
của người Sán Dìu phân bố theo thời gian trong năm, gần như tháng nào đồng bào
cũng có những ngày tết: Tết Cả, Tết Nguyên Tiêu, Tết Thanh Minh, Tết mùng 05
tháng 5, Tết mùng 06 tháng 6, Tết 14 tháng 7,... Lễ tết cũng là dịp để đồng bào tập
trung hát Soọng Cô với những lời ca ngọt ngào, ấm áp tình nghĩa, đậm đà bản sắc
dân tộc, gắn kết tình cảm xóm làng.
Ngôn ngữ
Dân tộc Sán Dìu thuộc ngữ hệ Hán - Tạng, theo GS.TS Ngô Đức Thịnh:
“Nhóm Hán gồm có các tộc Hoa, Ngái và Sán Dìu, là những người đại diện trực
tiếp cho sự hiện diện của một nền văn minh lớn của Trung Quốc ở Việt Nam” [64,
tr.277]. Người Sán Dìu đã sáng tạo ra ngôn ngữ Nôm - Sán Dìu đặc trưng cho
tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, cũng tương tự các dân tộc khác như dân tộc
Dao có Nôm – Dao, dân tộc Tày có chữ Nôm - Tày. Người Sán Dìu có chữ viết
riêng, là loại chữ tượng hình, có nhiều đường nét của chữ Hán cổ. Hiện nay, tiếng
nói, chữ viết của người Sán Dìu đang ở vào thời kỳ bị mai một. Lớp trẻ hiện nay
phần nhiều không còn sử dụng ngôn ngữ, chữ viết của dân tộc mình. Tuy vậy, chữ
viết của người Sán Dìu vẫn được lưu truyền, sử dụng ở một số gia đình có người
làm thầy cúng, thầy địa lí.
Văn nghệ dân gian
22
Người Sán Dìu có vốn văn nghệ dân gian khá phong phú, nội dung và hình
thức đều có màu sắc riêng đậm đà bản sắc dân tộc. Hát Soọng Cô giao duyên, hội
hè, cưới xin, hát ru (gọi chung là Soọng Cô),... Bên cạnh đó có ca dao, tục ngữ,
câu đố được đúc kết từ kinh nghiệm sống. Đồng bào cũng có kho tàng truyện cổ,
truyện thơ khá phong phú.
Nhạc cụ có tù và, thanh la, não bạt, sáo... Dân vũ có một số điệu nhảy: nhảy
Tắc Sình trong lễ hội và một số điệu nhảy chỉ dùng cho tang ma, cúng bái.
Tóm lại
Về văn hóa vật thể, ngườ i Sán Dìu sinh số ng bằng nông nghiê ̣p ở vù ng trung du và có phương pháp canh tác riêng, rất đặc biệt, ho ̣ số ng rải rác thành làng xó m
nhỏ dưới các chân nú i, nhà thườ ng làm 3 gian, 2 chái. Về trang phục truyền thố ng của người Sán Dìu, đàn bà mă ̣c quần màu nâu, cắt theo kiểu chân què, bên trong mă ̣c yếm bằng vải mềm, chân quấn xà ca ̣p, đeo tú i ăn trầu may bằng vải chàm; ngoài ra còn có các đồ trang sứ c như: mấm tai, vòng cổ , nhẫn, vò ng tay, xà tích, xen thu... Trang phu ̣c củ a nam giớ i truyền thố ng là quần chân què, áo cổ đứ ng có ba tú i (hai túi to ở trước bụng, mô ̣t tú i nhỏ ở trướ c ngực) không có ve.
Về văn hóa phi vật thể, ngườ i Sán Dìu thờ cúng tổ tiên, thờ Thổ Công, thờ mu ̣... Quan niệm về vũ trụ, ngườ i Sán Dìu chi ̣u ảnh hưở ng củ a Phâ ̣t giáo, Đa ̣o giáo và Nho giáo. Người Sán Dìu sử du ̣ng tiếng nói riêng củ a dân tô ̣c mình, cò n về văn tự ho ̣ sử du ̣ng chữ Hán nhưng vẫn phát âm theo tiếng của mình. Các loa ̣i hình văn nghê ̣ dân gian củ a ngườ i Sán Dìu khá đa da ̣ng, nổi tiếng với sinh hoạt dân ca Soo ̣ng Cô, các trò chơi dân gian, tranh thờ và đă ̣c biê ̣t có rất nhiều các truyê ̣n cổ dân gian.
1.2. Văn học dân gian và văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Việt Nam
1.2.1. Khái niệm văn học dân gian
Để có được thuật ngữ quen thuộc “Văn học dân gian” như hiện nay, tên gọi
này đã phải trải qua một quá trình lịch sử phát triển kéo dài từ cách gọi tự phát
trong dân gian - những người góp phần sáng tạo ra văn học dân gian - cho đến
23
cách gọi định danh mang tính khoa học hơn của những nhà nghiên cứu. Từ thế kỷ
XX trở về trước, trong các tài liệu sưu tầm về bộ phận văn học này còn lại, chỉ lưu
hành những thuật ngữ gọi riêng lẻ từng thể loại văn học dân gian như truyện đời
xưa, truyện cười, truyện cổ tích mà thật sự chưa có một sự giới thuyết khoa học
nào về những tên gọi này. Người sử dụng chỉ mặc nhiên coi tên gọi về một thể loại
đó có tính bao quát về một bộ phận văn học truyền miệng trong dân gian từ đời
này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác mà thôi.
Đầu thế kỷ XX, bắt đầu xuất hiện những khái niệm liên quan đến văn học
dân gian như: Văn chương bình dân, văn học bình dân, văn chương đại chúng, văn
học đại chúng, văn chương truyền khẩu, văn chương truyền miệng, văn học truyền
mi ệng, sáng tác truyền miệng dân gian sáng tác dân gian, văn nghệ dân gian…
Tuy nhiên, trong ngành nghiên cứu văn học dân gian sau này, các thuật ngữ vừa
nêu không có tính phổ biến vì nhiều nguyên nhân. Đặc biệt là những thuật ngữ ấy
không có tính bao quát những đặc trưng quan trọng của văn học dân gian. Và điều
đáng nói là những thuật ngữ ấy đã gây ra hiện tượng sử dụng khái niệm không
thống nhất, gây nhiều khó khăn phức tạp trong việc tiếp cận đối tượng nghiên cứu.
Đầu những năm 50 của thế kỷ XX, trong giới nghiên cứu có những thuật
ngữ được sử dụng dịch từ “Folklore” như văn hóa dân gian, văn nghệ dân gian,
văn học dân gian. Folklore là một thuật ngữ tiếng Anh (Folk: nhân dân - lore: hiểu
biết trí tuệ) được William J. Thoms - nhà nhân chủng học người Anh sử dụng lần
đầu năm 1846 và sau đó thuật ngữ này được phổ biến rộng rãi năm 1889. Theo
ông, Folklore dùng để chỉ những di tích của nền văn hóa vật chất và chủ yếu là
những di tích của nền văn hóa tinh thần của nhân dân có liên quan với nền văn hóa
vật chất như phong tục, đạo đức, việc cúng tế, dị đoan, ca dao, cách ngôn của các
thời trước [63, tr39]. Thuật ngữ này, sau đó được chuyển dịch sang tiếng Việt
thành Văn hóa dân gian (tương ứng với thuật ngữ Folklore theo nghĩa rộng của từ
này) bao gồm toàn bộ các lĩnh vực văn hóa vật thể và phi vật thể của nhân dân
(chủ yếu là văn hóa dân gian truyền thống). Bên cạnh đó, Folklore còn được hiểu
là văn nghệ dân gian (hay Folklore văn nghệ) bao gồm cả nghệ thuật tạo hình (như
24
hội họa, điêu khắc, nặn tượng) và nghệ thuật biểu diễn hay diễn xướng (như văn
học, âm nhạc, vũ đạo, sân khấu dân gian). Ở đây, xin được sử dụng thuật ngữ
Folklore theo cách dịch Folklore văn học - đó là văn học dân gian. Đây là thành
phần cốt lõi, phát triển mạnh mẽ và lâu bền nhất của nghệ thuật diễn xướng dân
gian, bao gồm các loại sáng tác dân gian có thành phần nghệ thuật ngôn từ (như
thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, tục ngữ, ca dao, dân ca, câu đố).
Từ lâu, vấn đề thuật ngữ đã được đặt ra một cách nghiêm túc để hướng tới
một cách gọi thống nhất và giới thuyết nội hàm của thuật ngữ được sử dụng. Trên
thực tế tồn tại nhiều cách gọi khác nhau, nhiều cách hiểu cũng không giống nhau,
người học tập và nghiên cứu văn học dân gian cần phải hiểu từng thuật ngữ và
phân biệt rõ ràng - tức là nên có một sự giới thuyết khái niệm khi sử dụng. Trong
các giáo trình giảng dạy và học tập văn học dân gian, có thể thấy đa số các ý kiến
của các chuyên gia đầu ngành xem văn học dân gian như một đối tượng nghiên
cứu (trước đây gọi là văn chương dân gian). Có nghĩa là những sáng tác diễn
xướng dân gian (như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, ca dao, câu đố,
vè). Nhưng đồng thời, nói đến văn học dân gian cũng tức là nói đến tên gọi của
một ngành khoa học chuyên nghiên cứu những sáng tác văn chương của dân gian
(chẳng hạn những công trình sưu tầm và nghiên cứu như : Tục ngữ ca dao dân ca
của Vũ Ngọc Phan; Truyện cổ tích dưới mắt các nhà khoa học của Chu Xuân
Diên; văn học dân gian Việt Nam của Đinh Gia Khánh chủ biên). Vì thế, cũng như
các giáo trình khác, tài liệu này sẽ thống nhất cách gọi văn học dân gian bởi thuật
ngữ này có tính bao quát hơn, đặt ra vấn đề nghiên cứu một cách hệ thống hơn.
Trong Giáo trình văn học dân gian Việt Nam, nhóm tác giả Đinh Gia
Khánh, Chu Xuân Diên và Võ Quang Nhơn xem tác phẩm văn học dân gian trước
hết là những tác phẩm nghệ thuật và những hình tượng nghệ thuật mang tính thẩm
mĩ. Tuy nhiên, cách định nghĩa này ít nhiều chưa phân biệt được những đặc trưng
cơ bản của văn học dân gian. Trước hết, chúng ta có thể định nghĩa theo kiểu chiết
tự khái niệm. Theo đó, Văn học chỉ bộ phận sáng tác nghệ thuật bằng chất liệu
ngôn từ, còn Dân gian nêu ra mối quan hệ giữa nghệ thuật ngôn từ với các loại
25
hình nghệ thuật khác (Âm nhạc, vũ đạo, tạo hình, môi trường diễn xướng…). Và
văn học dân gian dùng chỉ những thể loại sáng tác dân gian trong đó có thành phần
nghệ thuật ngôn từ (tức phần “văn học” chiếm vị trí quan trọng hơn nhưng bao giờ
nó cũng có mối quan hệ hữu cơ với các thành phần nghệ thuật và phi nghệ thuật
khác). Văn học dân gian là một loại sáng tác nghệ thuật ngôn từ của nhân dân.
Nhưng bên cạnh đó, văn học dân gian còn có những yếu tố nghệ thuật khác ngoài
ngôn từ. Những yếu tố ấy thuộc loại hình nghệ thuật biểu diễn, nghệ thuật thời
gian, không gian và được tiếp nhận bằng cả thính giác lẫn thị giác. Vậy, văn học
dân gian ra đời và tồn tại gắn liền với lịch sử loài người và được nhân dân sáng
tác, lưu truyền chủ yếu bằng phương thức truyền miệng. Ở đây, ta có thể mượn sự
đúc kết của nhà nghiên cứu Hoàng Tiến Tựu trong Giáo trình văn học dân gian
(CĐSP) để có một cái nhìn bao quát về lịch sử khái niệm văn học dân gian. Ông đã
khái quát tất cả những định nghĩa về văn học dân gian thành ba luồng ý kiến chính.
Một (1), văn học dân gian là thành phần ngôn từ ở trong những sáng tác dân gian
mang tính nguyên hợp. Ngôn từ vừa là bộ phận của nghệ thuật diễn xướng dân
gian vừa có tính độc lập tương đối. Hai (2), văn học dân gian chỉ là những sáng tác
ngôn từ có giá trị nghệ thuật và giá trị văn học. Ba (3), văn học dân gian chỉ là một
trong những thành tố của nghệ thuật diễn xướng (hay nghệ thuật biểu diễn), một
loại nghệ thuật tổng hợp bao gồm nhiều thành tố. Theo ông Hoàng Tiến Tựu, ý
kiến (2) và (3) không xác đáng (vì hai luồng ý kiến ấy hoặc đánh đồng việc nghiên
cứu văn học dân gian với khoa nghiên cứu văn học hoặc phủ nhận vai trò của ngôn
từ như một chỉnh thể độc lập) mà chỉ có ý kiến (1) là hợp lý hơn cả. Nói một cách
ngắn gọn, văn học dân gian là một bộ phận của sáng tác dân gian, là nghệ thuật
ngôn từ sinh thành và phát triển trong đời sống của nhân dân theo phương thức
truyền miệng và tập thể (1).
Bản thân thuật ngữ văn học dân gian đã nói lên rằng văn học dân gian do
quần chúng nhân dân làm ra. Bác Hồ đã từng khẳng định: “Quần chúng là người
sáng tạo, công nông là người sáng tạo. Nhưng quần chúng không chỉ sáng tạo ra
của cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn là người sáng tác nữa Những câu tục
26
ngữ, những câu vè, ca dao rất hay là những sáng tác của quần chúng. Các sáng
tác ấy rất hay mà lại ngắn”. [45]
Lê-nin lại coi sáng tác truyền miệng dân gian là sáng tác chân chính của
nhân dân lao động. Văn học dân gian thể hiện bản sắc riêng, độc đáo về nội dung,
đặc sắc về nghệ thuật, đề cập đến những vấn đề thiết thân đối với quần chúng nhân
dân và lý giải theo cách nhìn, cách cảm của họ. Vì thế, văn học dân gian phản ánh
thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh của nhân dân lao động, mang nội dung dân chủ và
tính nhân văn sâu sắc.
Văn học dân gian là những tác phẩm ngôn từ truyền miệng được tập thể
sáng tạo nhằm phục vụ trực tiếp cho các sinh hoạt khác nhau của đời sống cộng đồng.
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn học dân gian, tuy nhiên trong
khuôn khổ của luận văn chúng tôi nghiên cứu thì văn học dân gian là “những sáng
tác nghệ thuật ngôn từ truyền miệng theo phương thức tập thể nhiều đời chọn lọc
và gọt giũa của nhân dân, là một thành tổ hợp thành chỉnh thể văn hoá dân gian
có tính nguyên hợp”[68]. Tác phẩm văn học dân gian là kết quả của một quá trình
sáng tạo tập thể, trong đó một người tham gia vào quá trình là một cá nhân sáng
tạo.
Văn học dân gian là một trong nhiều yếu tố văn hoá phi vật thể. Nó có
những điểm gần gũi với triết học, dã sử, tín ngưỡng dân gian, dân tục, luật tục của
cộng đồng cư dân truyền thống. Các loại hình văn hoá phi vật thể này gắn bó và có
quan hệ qua lại với nhau, chi phối và đan lồng vào nhau một cách tự nhiên nhiều
khi đến khó tách bạch.
Văn học dân gian không chỉ là một bộ phận của văn hóa dân gian mà còn là
một bộ phận của văn học. Nó chính là kho tàng tri thức vô giá, là những nét truyền
thống tốt đẹp của dân tộc. Có thể nói, văn hóa dân gian Việt Nam nói chung và
văn học dân gian dân tộc Sán Dìu nói riêng chính là nơi đã giữ gìn, bảo tồn những
giá trị tinh thần cao đẹp của dân tộc, bồi dưỡng cho thế hệ trẻ lòng yêu nước, niềm
tự hào dân tộc, tự hào về những giá trị tinh thần cao quý mà cha ông đã để lại. Do
27
đó, văn học dân gian có tác dụng tác dụng rất lớn ở cả hai mặt giáo dục và giáo
dưỡng. Chính vì lẽ đó, khi nói đến văn học dân gian, ta nhận ra đó là một nguồn tri
thức dân gian vô cùng phong phú, đầy đủ về thể loại, đa dạng về màu sắc. Đây là
sự tổng hợp những hiểu biết của con người về cuộc sống và thiên nhiên, là những
kinh nghiệm sản xuất, những phong tục tập quán, tín ngưỡng, những quan niệm về
vũ trụ, nhân sinh, quan hệ họ hàng, làng nước, tình yêu lứa đôi,...
Văn học dân gian là những sáng tác văn học do nhân dân tạo nên và lưu
truyền. Văn học dân gian cũng là những sáng tác nghệ thuật ngôn từ như văn học
viết, nhưng lại có những đặc điểm riêng về lịch sử ra đời và phát triển, về người
sáng tác, về cách thức sáng tác và lưu truyền, về nội dung tư tưởng và thể loại
nghệ thuật. Ở vị trí nghiên cứu văn học, chúng ta coi tác phẩm văn học dân gian
trước hết là những tác phẩm nghệ thuật. Tính nghệ thuật là một thuộc tính khách
quan của văn học dân gian, cho dù thuộc tính đó có được nhân dân nhận thức rõ
hay không trong khi sáng tác, diễn xướng và tiếp thu các tác phẩm văn học dân
gian. Văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam có những thành tựu với
những sắc thái riêng biệt. Văn học dân gian các dân tộc thiểu số có những nét đặc
sắc như: Yếu tố thần thoại bảo tồn, kho thần thoại giải thích tự nhiên rất dồi dào,
khối lượng thơ ca dân gian lớn, có sắc thái trữ tình đậm. Thể loại tự sự dân gian về
thời kỳ lịch sử khi loài người bước vào xã hội văn minh, kể về những kỳ tích, sự
nghiệp anh hùng có tầm vóc lớn. Truyện thơ là những truyện kể bằng thơ, biểu
hiện cảm nghĩ bằng ngôn ngữ giàu hình ảnh, cảm xúc, chứa đựng vấn đề xã hội.
Có sự kết hợp yếu tố tự sự và trữ tình, dung lượng lớn, mang tính chất cố sự của
truyện kể dân gian, biểu hiện dưới hình thức thơ ca với màu sắc trữ tình đậm.
Văn học dân gian, từ lâu được ví như một kho báu khổng lồ bởi nó chứa
đựng những tri thức dân gian vô cùng phong phú. Những tri thức này, về cơ bản
được đúc kết dựa trên những trải nghiệm, kinh nghiệm thực tế và được truyền lại
qua nhiều thế hệ. Vì lẽ đó, bức tranh văn học dân gian Việt Nam, thực chất là sự
kết hợp của rất nhiều tri thức dân gian đã được nghệ thuật hóa với những gam màu
riêng biệt. Tuy nhiên, cần thấy rằng trong quá trình vận động và phát triển, kho
28
tàng văn học dân gian Việt Nam có sự cộng gộp của hai mảng lớn là văn học dân
gian người Việt và văn học dân gian các dân tộc thiểu số. Do vậy, khi nhắc đến
những thành tựu của văn học dân gian của người Việt, cũng cần chú ý đến những
đóng góp của văn học dân gian các dân tộc thiểu số. Trong đó, cùng với văn học
dân gian của các dân tộc Tày, Thái, Mường…, văn học dân gian dân tộc Sán Dìu
là sự thể hiện sâu sắc những tri nhận về thiên nhiên, xã hội, con người...
1.2.2. Văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Việt Nam
Văn học dân gian dân tộc Sán Dìu tuy không được nhắc đến nhiều như văn
học dân gian các dân tộc khác: Tày, H’mông, Dao, Thái,… song kho tàng văn học
dân gian của họ theo lời kể của các cụ già và các nghệ nhân là vô cùng phong phú
và quý giá. Để giữ gìn những truyền thống quý báu của dân tộc, để bảo tồn những
kinh nghiệm sống, kinh nghiệm sản xuất của các thế hệ người Việt Nam một hình
thức văn học dân gian truyền miệng đã ra đời và được truyền lại từ thế hệ này sang
thế hệ khác tại Việt Nam. Văn học dân gian dân tộc Sán Dìu thường ca ngợi tài
năng và lòng dũng cảm của con người trước thiên nhiên khắc nghiệt, trước kẻ thù
độc ác, ca ngợi lòng nhân hậu, độ lượng giúp đỡ nhau, ca ngợi tình yêu trai gái,
tình chung thuỷ vợ chồng, yêu con người, yêu thiên nhiên, yêu làng xóm, quê
hương. Không những thế văn học dân gian dân tộc Sán Dìu còn là vũ khí đấu tranh
chống lại những thói hư tật xấu của con người, chống lại những bất công thối nát
trong xã hội. Bằng ngôn ngữ dân gian giàu hình ảnh, bằng nghệ thuật nhạc điệu
sinh động, văn học dân gian Việt Nam đã thấm sâu vào lòng người một cách tự
nhiên và rất dễ dàng truyền lại cho đời sau. Trong khi các tập quán, nghi lễ liên
quan đến nhà ở, cũng như các hình thức tín ngưỡng truyền thống còn được lưu giữ
một cách khá đậm nét thì các yếu tố văn nghệ dân gian của dân tộc Sán Dìu ở Việt
Nam hiện nay đã có sự ảnh hưởng sâu sắc từ các tộc người láng giềng, trong đó
chủ yếu là người Hoa. Hiện nay, văn học dân gian của dân tộc Sán Dìu không
được phổ biến dưới dạng văn bản mà chủ yếu là truyền miệng, chỉ sử dụng tiếng
Hán cổ làm phương tiện giao tiếp và truyền đạt các yếu tố văn hoá cổ truyền của
mình, trong đó có một số loại hình văn nghệ dân gian đang được thịnh hành ở
29
vùng dân tộc Sán Dìu như các bài dân ca, truyện cổ tích, truyền thuyết và thần
thoại,... Tuy nhiên, các giá trị văn học dân gian đã sưu tầm, khai thác được lại chưa
nhiều và nằm phân tán trong các công trình nghiên cứu văn hoá nói chung. Những
gì khai thác được vẫn chưa thấm tháp vào đâu. Còn một mảng rất lớn ca dao, dân
ca, tục ngữ trong cộng đồng các dân tộc thiểu số đang bị bỏ ngỏ... Điều đáng nói là
những “tài sản” độc đáo này không phải nơi nào cũng có được. Và hơn nữa, trong
quá trình giao thoa, tiếp biến văn hoá, những giá trị ấy đang có nguy cơ mai một,
biến dạng.
Nội dung cơ bản của văn học dân gian dân tộc Sán Dìu phản ánh lý giải
những hiện tượng của tự nhiên mà người Sán Dìu không lý giải được. Đồng thời,
cũng thể hiện những ước mơ chân chính của cộng đồng trong đấu tranh xã hội, đấu
tranh với thiên nhiên, ước mơ cái thiện luôn chiến thắng cái ác, thật thà thắng gian
tà, con người chiến thắng mọi yêu ma quỷ quái, người chăm chỉ được đền đáp,
người lười biếng, xảo quyệt phải bị trừng trị (...). Có thể nói, văn học dân gian gắn
liền với đời sống của người Sán Dìu. Nó ra đời và phát triển trong các sinh hoạt
hàng ngày, hằng năm của quần chúng nhân dân. Gắn với những cuộc trò chuyện,
vui chơi, trao đổi tình cảm, lao động, cưới xin, ma chay, lễ hội. Mặc dù vậy, kho
tàng văn học dân gian của đồng bào vẫn có nhiều nét đặc trưng riêng. Đó là sự
phản ánh các đặc điểm về lịch sử, đời sống kinh tế, văn hoá của người Sán Dìu ở
Việt Nam nói chung, từng địa phương trong cả nước nói riêng.
Văn học dân gian dân tộc Sán Dìu khá phát triển trong nhân dân lao động,
với loại hình văn học dân gian chủ yếu là hát Soọng Cô. Bên cạnh đó, còn có ca
dao, tục ngữ, câu đố cũng rất phong phú được đồng bào đúc rút từ kinh nghiệm
trong đời sống. Đồng bào cũng có nhiều truyện thơ đặc sắc phải kể đến như: Dựng
đất mở trời (Hoi then dịp thi), Vua cóc ở Man Cay Coóc, Món Lóng...
* Tiểu kết
Qua những vấn đề được trình bày trên đây, chúng ta thấy rằng dân tộc Sán
Dìu ở Thái Nguyên cũng như dân tộc Sán Dìu sinh sống ở những nơi khác trong
30
cả nước đều có truyền thống lịch sử nền văn hóa lâu đời phong phú đa dạng, có
những nét đặc trưng riêng về phong tục tập quán của cư dân từng địa phương.
Như vậy, qua việc tìm hiểu về những đặc điểm lịch sử xã hội, truyền thống
văn hoá, chữ viết, tôn giáo và vốn văn nghệ dân gian của người Sán Dìu ở Việt
Nam nói chung và ở Thái Nguyên nói riêng có thể thấy: Tộc người Sán Dìu ở
Thái Nguyên nằm trong tổng hòa của nền văn hóa Sán Dìu nói chung. Với quá
trình thiên di từ lâu đời, mảnh đất Thái Nguyên là nơi tập trung cộng đồng Sán
Dìu đông nên mọi nét đặc trưng đều quần tụ nơi đây.
Trong tổng thể văn hóa dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên, văn học
dân gian đáp ứng được nhu cầu tình cảm của người lao động miền núi. Đó cũng
là phương tiện nhạy bén và sâu sắc phản ánh đầy đủ tâm tư, tình cảm và ước
vọng của người lao động trong dân tộc thiểu số vùng miền núi. Bằng loại hình
sinh hoạt văn hóa truyền thống này, những người dân lao động đã tìm thấy một
cuộc sống ấm no hạnh phúc mà trong đó tình cảm yêu thương giữa mọi người
trong cộng đồng dân tộc được đề cao hơn cả.
Trong giá trị tinh thần của người Sán Dìu không thể thiếu văn học dân
gian, những tác phẩm văn học dân gian được lưu truyền bằng sách hoặc truyền
khẩu. Có thể nói, văn học dân gian gắn liền với đời sống của người Sán Dìu.
Những vấn đề đã được khái quát ở trên chỉ mang tính giới thiệu, làm nền
cho việc nghiên cứu về tư tưởng, quan niệm, phong tục tập quán, tâm hồn và tính
cách người Sán Dìu qua một số thể loại văn học nền tảng cho việc nghiên cứu
những phương diện: nội dung và hình thức nghệ thuật của một số thể loại văn học
dân gian của dân tộc Sán Dìu trong truyền thống văn hóa tinh thần của họ.
31
Chương 2
PHÁC HỌA DIỆN MẠO VĂN HỌC DÂN GIAN DÂN TỘC SÁN DÌU
Ở THÁI NGUYÊN
Trong chương 1, chúng tôi đã phác thảo một cái nhìn khái quát về diện mạo
vùng đất, con người và văn hóa dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên. Đó là cơ sở quan
trọng cho việc định tính cơ bản văn học dân gian dân tộc Sán Dìu trên vùng đất
này. Ở chương 2, chúng tôi sẽ tiến hành tập hợp, khảo sát các tư liệu sưu tầm,
nghiên cứu về văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên cũng như các tư
liệu thuộc lĩnh vực khác nhưng có liên quan đến văn học dân gian dân tộc Sán Dìu
ở Thái Nguyên. Tìm hiểu hiện trạng tư liệu sẽ là một trong những thao tác cần
thiết để chúng tôi định hướng được một cái nhìn khái quát về văn học dân gian dân
tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên, đồng thời cũng nhằm bước đầu xác định được đối
tượng nghiên cứu cụ thể.
2.1. Khái quát về văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên
2.1.1. Hiện trạng văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên
Trong nền văn hoá văn nghệ dân gian vốn phong phú đa dạng của dân tộc
ta, không thể không tìm hiểu và nói đến sự góp mặt văn nghệ dân gian của dân
tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên. Trải qua quá trình đấu tranh lâu dài chống lại thiên
nhiên khắc nghiệt, xã hội phong kiến bất công để tồn tại và phát triển, người Sán
Dìu đã sáng tạo nên những giá trị văn hoá truyền thống giàu bản sắc, đặc biệt là
văn học dân gian. Tư liệu văn học dân gian sưu tầm được chưa nhiều gồm có một
số loại hình văn nghệ dân gian đang được thịnh hành của dân tộc Sán Dìu: truyền
thuyết, truyện cổ tích, hát Sọong Cô, câu đố (...), với nội dung phản ánh cuộc
sống lao động sáng tạo, khả năng nhận thức về tự nhiên và xã hội của đồng bào
dân tộc Sán Dìu.
Sự biến động về quy luật phát triển và thực trạng biểu hiện của kinh tế, văn
hóa, xã hội ở nông thôn vẫn đang diễn ra một cách nhanh chóng và chắc chắn sẽ
có những thay đổi trong tất cả những yếu tố đã nêu. Nhưng dù có biến đổi thế
32
nào, thì với những gì được thể hiện, sinh hoạt văn hóa mang đậm nét dấu ấn,
phong vị văn hóa văn minh nông nghiệp trồng lúa nước với cơ cấu tổ chức xã hội
thôn làng tương đối khép kín, nay có sự tiếp biến trong xây dựng đời sống văn
hóa cơ sở; là sự bền vững phong phú, đa dạng của các hoạt động văn hóa dân
gian, cụ thể là văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên.
Kho tàng văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên phong phú, cho
đến nay mặc dù được Đảng và Nhà nước quan tâm, các học giả, các nghệ nhân
trong nước dày công sưu tầm nhưng văn học dân gian dân tộc Sán Dìu vẫn là một
di sản quý báu mà chúng ta chưa nắm bắt hết được về số lượng và nội dung, hình
thức . Bởi lẽ, văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên hầu như chỉ còn
được lưu giữ trong lớp người cao tuổi. Những thế hệ sau hiểu rất ít về văn học
dân gian dân tộc Sán Dìu. Nếu không khẩn trương nghiên cứu và đề ra các biện
pháp bảo tồn, truyền thụ thì khi lớp người cao tuổi ở Sán Dìu mất, nhiều di sản
văn học dân gian dân tộc Sán Dìu sẽ mất theo.
Số lượng tác phẩm mà chúng tôi đã sưu tầm, điền dã chắc chắn chưa phải
là toàn bộ vốn liếng văn học dân gian vùng đất này. Ta sẽ còn bắt gặp đâu đó
những mảnh vụn, những câu chuyện kể trong nhân dân, trong thư tịch cổ các
dòng họ, những bài ca ý vị trên đồng ruộng hay trong những lễ hội truyền thống
của con người nơi đây. Tuy nhiên, ở một chừng mực nhất định những tư liệu đó
đã phản ánh một cách trung thực hiện trạng văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở
Thái Nguyên và chúng tôi yên tâm khi khảo sát văn bản ở những thể loại tiêu
biểu như thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, tục ngữ, câu đố, hát Soọng Cô
từ số tư liệu đã sưu tầm.
Các hình thức diễn xướng khá phong phú của văn học dân gian dân tộc Sán
Dìu ở Thái Nguyên cho thấy sức sống mạnh mẽ của bộ phận văn học này. Đó là
môi trường nuôi dưỡng và điều kiện để các thế hệ đồng bào dân tộc Sán Dìu nơi
đây không ngừng sáng tạo làm phong phú hơn kho tàng văn học dân gian dân tộc
Sán Dìu ở Thái Nguyên.
33
2.1.2. Các thể loại văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên
2.1.2.1. Thần thoại
Về mă ̣t nội dung, thần thoại của người Sán Dìu đề câ ̣p đến ba vấn đề lớ n là giải thích các hiện tượng tự nhiên, giải thích nguồ n gốc loài ngườ i và phản ánh quá trình chinh phục thiên nhiên.
Trước hết đó là các thần thoại giải thích hiện tượng tự nhiên. Khác vớ i các vị
thần ở trên trời trong thần thoa ̣i ngườ i Viê ̣t là ông Trời và nữ thần Mặt Trời, Mặt Trăng, thần thoa ̣i dân tô ̣c Sán Dìu giải thích các hiê ̣n tươ ̣ng tự nhiên như vì sao trên mặt trăng lại có một người ngồi bên gốc cây trong truyện Mặt trăng. Họ giải
thích rằng đó là do từ xa xưa trên mặt trăng có một cây quế rất to, trên mặt trăng
còn có cả loài người sinh sống. Loài người rất thích ăn vỏ quế, nhưng hễ người
nào bóc vỏ quế đến đâu thì nó lại mọc ra ngay đến đó. Một hôm, có ông lão tò mò,
vừa mới bóc vỏ cây quế ra ông ta bèn ngồi ngay vào đó muốn thử xem cây quế có
liền lại được không, không ngờ vỏ cây lại mọc lên ngay, gắn chặt ông ta vào cây
quế, khiến ông không thể nào gỡ ra được. Vì thế, đến tận ngày nay trên mặt trăng
luôn có cây quế và hình một ông già ngồi dính liền vào nhau.
Hay giải thích vì sao mặt trời lại chiếu những tia nắng chói chang xuống mặt
đất khiến loài người không thể nhìn thấy được trong truyện Mặt trời, họ giải thích
vì mặt trời là một nữ thần xinh đẹp, nàng thường không mặc quần áo, rất ngại để
cho người khác nhìn ngắm mình. Vì thế mặt trời đã tỏa hào quang, chiếu tia sáng
khủng khiếp xuống trần gian, khiến cho loài người và muôn loài nhìn lên là chói
mắt, không thể thấy gì.
Người Sán Dìu cũng giải thích vì sao ngôi sao lại cao tít trên bầu trời trong
truyện Ngôi sao. Họ kể rằng, xưa kia ngôi sao ở rất gần mặt đất chỉ cách một con
sào, sao ở ngay trên đầu của loài người, người Sán Dìu giã gạo vẫn còn chạm cả
vào sao. Sao thích gần gũi với trần gian. Nhưng các ngôi sao vốn đều rất sạch sẽ,
không thể nào chịu được bẩn thỉu. Sau này, người Sán Dìu ngày càng đông, loài
người ỉa bẩn, gây mùi hôi thối, sao sợ quá phải chạy lên cao tít. Người càng ỉa bẩn,
34
sao càng chạy lên cao. Vì thế, đến ngày nay sao ở rất xa chúng ta. Hay hiện tượng
cầu vồng xuống uống nước ở các làng bản của người Sán Dìu và mang lại điều tốt
lành cho họ trong truyện Cầu vồng.
Qua các thần thoại cho thấy, trong thế giới quan ngườ i Sán Dìu, các thực thể tự nhiên đều có vị thần ngự tri ̣. Điều này bắt nguồ n từ quan niê ̣m “va ̣n vâ ̣t hữu
linh” (mo ̣i vâ ̣t đều có linh hồ n). Minh chứng cho quan niệm này người Sán Dìu ở
Thái Nguyên còn truyền nhau rằng, ngày xưa có một cây vả rất linh thiêng. Trên
cây vả có một vị Thánh bà (Nữ thần) trông giữ, hễ trẻ em trèo lên mà không xin
phép, hoặc không được sự đồng ý của bà thì bà hóa phép, kẹp đứa bé lại (Thần cây
vả). Với quan điểm vạn vật hữu linh, những thần thoại về thiên nhiên, cây cối, mă ̣t
trăng, mặt trời, sao, cầu vồng hay núi, sông, đất, nước… đã ra đời và là kết quả của
sự hình dung, tưởng tượng của cộng đồng người Sán Dìu cổ xưa.
Nhóm thần thoại kể về nguồn gốc vũ trụ và tự nhiên của người Sán Dìu đã
giải thích, nhìn nhận thế giới hết sức hồn nhiên của con người thời cổ về vũ trụ,
núi sông, biển cả, đất trời và muôn vàn các hiện tượng tự nhiên khác. Có thể tìm
thấy trong đó lôgic biện chứng của mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên và
môi trường sinh tồn thuở sơ khai.
Về mă ̣t hình thứ c, thần thoại Sán Dìu có cốt truyện đơn giản, thường có rất
ít các sự kiện, ít chi tiết, thể hiện cách lý giải còn thô sơ rời rạc trong nhận thức về
thế giới của con người thời cổ. Nhân vật của thần thoại như thần Mă ̣t Trờ i, thần
Sao, thần Cầu Vồng... mỗi thần chỉ thực hiện một chức năng, một hành động đóng
góp cho xã hội loài người. Đa phần các nhân vật trong thần thoại Sán Dìu đều là
những nhân vật độc lập, đơn lẻ.
Không gian thần thoại chủ yếu là hiê ̣n tươ ̣ng thiên nhiên trên bầu trời, đó là
vì sao, vầng trăng, mặt trời, cầu vồ ng. Bên ca ̣nh đó là không gian mă ̣t đất gần gũi
với đời sống con người như không gian cánh đồ ng, bản làng và dò ng sông trải dài và rộng khắp trong các thần thoại. Cũng có khi trong mô ̣t tác phẩm đã có sự phức
35
hợp của nhiều không gian khác nhau, đồ ng hiê ̣n trong các thần thoa ̣i củ a ngườ i Sán Dìu.
Có thể nói, thần thoại của người Sán Dìu đã phần nào phản ánh được môi
trường sống, phản ánh được xã hội, tư tưởng và tâm hồn của người dân. Trong các
thần thoại của người Sán Dìu vẫn còn chứa đựng trí tưởng tượng phong phú về đời
sống tinh thần của con người. Họ đã dùng trí tưởng tượng của mình để giải thích
thế giới tự nhiên, chinh phục tự nhiên và cải tạo bản thân mình.
2.1.2.2. Truyền thuyết
Đặc điểm chủ yếu phân biệt truyền thuyết với các thể loại thần thoại và
truyện cổ tích là “trong truyền thuyết bao giờ cũng giữ lại được những nét chính
yếu của những sự kiện và con người có thực, làm thành cái cốt lõi hiện thực lịch
sử - cụ thể cho trí tưởng tượng nghệ thuật của nhân dân” [13, tr.38]. Tác giả Chu
Xuân Diên rõ ràng đã nêu lên hai yếu tố: con người có thực và cốt lõi hiện thực
lịch sử, như là đặc điểm chủ yếu của thể loại truyền thuyết. Khảo sát truyền thuyết
của dân tộc Sán Dìu, chúng tôi nhận thấy truyền thuyết của dân tộc Sán Dìu cũng
có những đặc trưng của truyền thuyết nói chung, đó là có yếu tố “sử ở trong
truyện”. Tuy nhiên, theo tác giả Kiều Thu Hoạch, “cái cốt lõi lịch sử trong truyền
thuyết không nên hiểu một cách giản đơn là sự thật lịch sử đích thực. Yếu tố lịch sử
ở đây, nhiều khi chỉ là cái bối cảnh trần tục của truyền thuyết.” [11, tr.39].
Truyền thuyết của ngườ i Sán Dìu cò n giải thích về nguồn gốc các dòng tộc của mình. Nếu như trong truyền thuyết các dân tộc khác như trong truyền thuyết Giáy, Thái, H’Mông, Bana,... còn lưu giữ nhiều ký ức về trận lụt lớn, về nạn đại hồng
thuỷ, nó giống như một đại hoạ khủng khiếp khiến cho loài người bị tuyệt diệt và
cùng với đó là ký ức về sự tái sinh của con người nhờ những quả bầu kỳ lạ, thì trong truyền thuyết về nguồ n gố c loài ngườ i củ a dân tộc Sán Dìu có những nét đă ̣c trưng riêng biệt. Trong truyền thuyết Nguồn gốc người Sán Dìu, đại ý kể rằng, do nắng
nóng khủng khiếp suốt 35 năm liền nên người Sán Dìu không ai sống nổi, chỉ còn
lại hai anh em ruột sống sót do uống được nước trong mọt cái đầu nâu. Hai anh em
36
tìm ra nguồn nước, đi dọc dòng sông, người anh đi tìm đàn bà làm vợ nhưng
không thấy, người em đi tìm đàn ông làm chồng cũng không thấy vì chẳng còn ai
sống sót, cuối cùng hai anh em lấy nhau và sinh ra một cục máu. Các tiên nữ trên
thiên đình xuống định chia cục máu ra thành 100 cục máu nhỏ, nhưng họ chia thừa
thành 101 cục máu, mỗi cục máu đặt tên cho một dòng họ khác nhau, đến cục máu
cuối cùng không còn tên gọi nữa, họ bèn gọi dòng họ ấy là họ Trừ. Từ đó có dòng
họ Trừ, dòng họ này rất ít người hơn các dòng họ khác và cho đến nay vẫn còn.
Sau khi chia ra thành các nhóm người, dòng họ thì người Sán Dìu lại trở nên đông
đúc.
Theo truyền thuyết Truyện quả bầu nói về nguồn gốc của dân tộc Sán Dìu:
Thuở xa xưa trời đất gần nhau, có một làng quê đông đúc trù phú soi bóng xuống
dòng sông thơ mộng. Bỗng một hôm ông trời nổi giận, cho nước sông dâng cao
làm chết hết muôn loài. Trong làng có hai chị em, họ nhanh chân chui vào quả bầu
khô nổi lên theo nước nên sống sót. Khi nước rút, họ liền lấy nhau, sinh nhiều con
cháu làm cho người Sán Dìu hồi sinh trở lại. Tuy làng đông người nhưng toàn con
cháu cùng huyết thống nên không thể lấy nhau nên phải sang làng khác tìm hiểu.
Để bạn tình ở làng bên rung động, họ dùng tiếng hát để diễn tả lòng mình. Soọng
Cô ra đời từ đó và tồn tại cho đến ngày nay.
Truyền thuyết dân tộc Sán Dìu còn phản ánh quá trình chinh phục thiên
nhiên, họ kể về những vị thần trấn giữ các vù ng đất, các dò ng sông. Truyê ̣n kể
rằng, thuở xưa, một gia đình có 7 chị em gái, mỗi người thống lĩnh một vùng đất
quanh dãy Tam Đảo, bà Lang Thị Tiêu hay còn gọi là Tây Thiên Quốc Mẫu ở ngôi
cao nhất. Các vị thần này từng đánh thắng vua Thủy Tề bảo vệ vùng đất và sản vật
do mình cai quản.
2.1.2.3. Truyện cổ tích
Giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, Hoàng Tiến Tựu đã định nghĩa:
“Truyện cổ tích là một loại truyện kể dân gian ra đời từ thời kỳ cổ đại, gắn liền với
quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thủy, hình thành của gia đình phụ
37
quyền và phân hóa giai cấp trong xã hội; nó hướng vào những vấn đề cơ bản
những hiện tượng có tính phổ biến trong đời sống nhân dân, đặc biệt là những
xung đột mang tính chất riêng tư giữa người với người trong phạm vi gia đình và
xã hội. Nó dùng một thứ tưởng tượng và hư cấu riêng “có thể gọi là tưởng tượng
và hư cấu cổ tích” .[73] Từ đó, kết hợp với các thủ pháp nghệ thuật đặc thù khác
để phản ánh đời sống và mơ ước của nhân dân đáp ứng nhu cầu hiện thực, thẩm mĩ
giáo dục và giải trí của nhân dân trong thời kỳ những hoàn cảnh lịch sử khác nhau
của xã hội có giai cấp (ở nước ta chủ yếu là xã hội phong kiến).
Còn nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra những định nghĩa khác nhau về truyện
cổ tích (Nguyễn Đổng Chi, Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên,…), tuy nhiên trong
phạm vi của đề tài chúng tôi chọn định nghĩa của Hoàng Tiến Tựu làm cơ sở lí
luận cho việc khảo sát thể loại cổ tích của mình trong luận văn. Từ trước đến nay
có nhiều cách phân loại truyện cổ tích, các nhà nghiên cứu folklore nước ta đã
tương đối thống nhất ở việc phân chia truyện cổ tích thành ba tiểu loại: truyện cổ
tích thần kỳ, truyện cổ tích sinh hoạt, truyện cổ tích loài vật. Tiêu chí để phân biệt
truyện cổ tích thần kỳ và cổ tích sinh hoạt: trong cổ tích thần kỳ, yếu tố kỳ diệu có
vai trò quan trọng trong cốt truyện, nó giải quyết xung đột, thúc đẩy cốt truyện
phát triển; còn trong cổ tích sinh hoạt, yếu tố kỳ diệu xuất hiện ít hơn, chủ yếu ở
cuối truyện.
Có thể nói truyện cổ tích là những truyện đời xưa được nhân dân lưu giữ lại.
Nó mang tính chất hư cấu, kì ảo. Truyện cổ tích dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên có
nội dung phong phú nhằm phản ánh và lí giải hiện thực xã hội những số phận khác
nhau của con người khi có chế độ tư hữu, dần thoát khỏi chế độ xã hội nguyên
thủy; đồng thời truyện cổ tích dân tộc Sán Dìu phản ánh mối quan hệ giữa con
người với con người, con người với thiên nhiên nhằm phản ánh những ước mơ
khát vọng của nhân dân lao động về một xã hội công bằng dân chủ.
Truyện cổ tích chê bai sự dối trá, khuyên răn con người nên ăn ở đức hạnh,
làm việc thiện, không làm điều ác, để con cháu đời sau được hưởng phúc tốt lành.
Vua Cóc là một truyện cổ tích tiêu biểu thuộc kiểu truyện nhân vật xấu xí mà tài
38
ba (hay kiểu truyện nhân vật mang lốt). Hình dáng xấu xí của chàng Cóc khiến
cho mọi người đều sợ hãi, ngạc nhiên và cha mẹ thì âu sầu. Như vậy, thông qua
việc miêu tả về hình dáng bên ngoài cũng như thái độ của mọi người xung quanh
với nhân vật chàng Cóc, người Sán Dìu muốn dành sự quan tâm đặc biệt đến
những con người bất hạnh trong xã hội. Truyện cổ tích đã bênh vực, bản vệ cho
những nạn nhân của xã hội, trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của con người, dù
họ có hình dáng hay dị tật xấu xí. Đó là cái nhìn đầy tính nhân hậu, giàu lòng yêu
thương con người, gần gũi, chia sẻ với những thân phận bất hạnh. Bằng tài năng,
phẩm chất của mình, chàng Cóc đã vượt qua những thử thách, khó khăn, trút bỏ
được hình hài xấu xí để đạt được hạnh phúc.
Chính thái độ ban đầu không khinh ghét chàng Cóc đã giúp công chúa nhận
thấy vẻ đẹp đích thực của chàng. Công chúa là hình ảnh thể hiện cách nhìn nhận,
đánh giá con người của nhân dân lao động: phải có cái nhìn thân thiện, trân trọng
con người thì mới tìm thấy vẻ đẹp, giá trị của mỗi người. Như vậy, truyện Vua
Cóc còn đề cập đến hình thức trừng phạt dành cho ông vua tham lam, không giữ
lời húa đối với chàng Cóc. Cách kết thúc câu chuyện như vậy thể hiện những ước
của nhân dân lao động về một xã hội công bằng: người lương thiện, tốt bụng, tài
giỏi được hưởng hạnh phúc, được ban thưởng; những kẻ xấu xa, độc ác phải bị
trừng phạt. Đó cũng là triết lí của nhân dân về lẽ công bằng của cuộc đời.
Bên cạnh đó, nhân dân ước mơ về sự đổi đời cho con người. Chàng Cóc từ
một con cóc xấu xí thành một chàng trai khôi ngô, có công diệt giặc Man Di, lấy
được công chúa. Những điều đó không dễ gì thực hiện trong cuộc đời thực nhưng
việc gửi gắm những ước mơ đó cho thấy tinh thần lạc quan, niềm tin vào con
người và những điều tốt đẹp trong thế giới cổ tích của người Sán Dìu ở Thái
Nguyên.
Truyện cổ tích dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên là sản phẩm của trí tưởng
tượng, cốt truyện mang tính hư cấu nhưng qua mỗi câu chuyện, nhân dân muốn
gửi gắm những điều tốt đẹp, những quan niệm và triết lí về cuộc đời. Thông qua
39
câu chuyện, số phận của chàng Cóc, người Sán Dìu cất lên tiếng nói bênh vực thân
phận những nạn nhân xã hội, thể hiện giá trị nhân văn cao cả.
Trước hết đó là sự khẳng định phẩm chất tốt đẹp của con người. Dù những
người xấu xí, bất hạnh, bị thiệt thòi khi sinh ra nhưng phẩm chất đạo đức vẫn là
những giá trị bền vững, không thể phủ nhận. Truyện bênh vực những nạn nhân xã
hội, đòi quyền sống công bằng cho họ: công bằng trong cách đánh giá, trong việc
thưởng công và trừng phạt kẻ ác.
Các tác giả dân gian Sán Dìu ở Thái Nguyên đã khéo léo tạo ra một thế giới
không có trong thực tại nhưng lại giống với thực tại, nhằm tạo ra sự liên tưởng liền
mạch để họ biết yêu cái tốt đẹp, ghét cái xấu và ra sức đấu tranh chống lại cái xấu.
Có lẽ, vì vậy ruyện cổ tích dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên có sức sống cùng thời
gian.
2.1.2.4. Truyện cười
Các nhà nghiên cứu folklore Việt Nam tiêu biểu như tác giả Đinh Gia
Khánh, Chu Xuân Diên trong sách giáo trình Văn học dân gian [24], Lê Chí Quế,
Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ trong sách giáo trình Văn học dân gian Việt
Nam [58] của trường Đại học Tổng hợp; tác giả Hoàng Tiến Tựu trong các sách
Văn học dân gian Việt Nam [73] giáo trình văn học dân gian Đại học Sư phạm Hà
Nội, tác giả Đỗ Bình Trị trong sách Thi pháp văn học dân gian… phân chia truyện
cười theo hai hướng, thứ nhất là căn cứ theo thi pháp hay hình thức nghệ thuật của
truyện cười và phân thành truyện cười kết chuỗi và không kết chuỗi; hướng thứ
hai phân chia truyện cười theo nội dung phản ánh, phân ra thành truyện trào phúng
và khôi hài.
Nếu căn cứ theo hướng phân chia theo thi pháp của truyện, truyện cười của
dân tộc Sán Dìu sẽ gồm có truyện đơn lẻ và truyện kết chuỗi kể về một vị trạng có
tên là Trạng Hít. Nếu phân chia theo nội dung thì đa phần là những truyện khôi
hài, đôi khi pha chút trào phúng. Trên quan điểm phân loại theo thi pháp truyện
40
cười, chúng tôi nhận thấy, truyện cười dân tộc Sán Dìu gồm có: Truyện cười
không kết chuỗi và truyện cười kết chuỗi.
Truyện cười không kết chuỗi là những truyện độc lập, không bao gồm nhiều
câu chuyện gắn với một nhân vật cụ thể nào. Về mặt nội dung, truyện cười không
kết chuỗi của người Sán Dìu phản ánh tính cách hài hước của nhân vật, và cũng
gợi đôi chút phản ánh thói hư tật xấu của người dân. Điều đặc biệt là trong truyện
cười của người Sán Dìu phản ánh về tục đánh cược, đó là việc những người cha
mang con gái đến tuổi lấy chồng ra đánh cược với đám trai tráng trong làng, như
trong truyện: Ăn cứt chó, Bật cạp nong, Con chim đất.
Các nhân vật trong truyện cười nói chung không được miêu tả với với một
“lý lịch” hoàn chỉnh như nhân vật trong truyện cổ tích, nó chỉ xuất hiện ở một
hành động hoặc một hành vi nào đó diễn ra trong cuộc sống, hành vi ấy thường rất
đặc biệt, có khi trái với lẽ thường của con người. Trong truyện cười của dân tộc
Sán Dìu, các nhân vật mang đậm tính cách và hành vi của con người nơi đây.
Xung đột trong truyện cười của người Sán Dìu thể hiện qua sự trả thù của
nhân vật, đó là xung đột giữa sự cam chịu và sự ức hiếp như nhân vật người con
nuôi trả thù lão địa chủ như trong truyện Hai cái tai, bằng cách lừa hiếp con gái
lão địa chủ bằng cách thay đầu dê bằng “của quý” của mình nhét vào đít con gái
lão, anh ta còn bày cách chơi khăm lão ta qua hành động mang cái đầu dê về nhà
treo ở gần bếp đun. Sáng sớm, vợ lão địa chủ dậy đun lửa nhìn thấy hai mắt dê
tưởng là thần bếp, bà ta bèn gọi chồng dậy. Lão thức dậy, đánh trống kêu dân làng
thì trống bị anh ta thay bằng chậu nước đái làm bắn tung tóe khắp người.
Cũng về nội dung trả thù, trong truyện cười của người Sán Dìu có truyện
người con rể trả thù gia đình nhà vợ trong truyện Bánh Phất. Anh ta đã nghĩ ra
cách để lừa gạt nhằm ngủ được cả với em vợ và bà mẹ vợ. Anh ta làm một ít bánh
để biếu ông bà vãi (bố mẹ vợ), trên mỗi chiếc bánh anh ta đều ghi chữ “Phất”,
nhưng khi anh ta quay lại đòi phất (ngủ) với cô em vợ, thì bà vãi tưởng con gái
không đưa cho anh ta bánh phất, bèn nói vọng lại từ xa “cho anh phất đi con”. Cô
41
con gái nghe lời mẹ nên đã để cho anh ta phất. Rồi khi chở bà vãi qua sông, anh ta
nói trên bờ có một con ma, nếu bà cho nó “phất” nó sẽ cho đi, nhưng thực ra đó
chỉ là củ giáy anh ta làm sẵn. Bà vãi bị củ giáy làm ngứa, đành phải nhờ con rể
“phất” cho hết ngứa.
Ngoài ra, trong truyện cười của dân tộc Sán Dìu còn phản ánh xung đột giữa
sự thật và giả dối như truyện Bật cạp nong, Ăn cứt chó kể về người con trai hàng
xóm trả thù ông lão thất hứa gả con gái cho anh ta. Trong truyện Bật cạp nong kể
về một ông lão chuyên làm nghề đan, ông có một cô con gái rất xinh đẹp. Ông lão
cuộc với đám thanh niên rằng, đứa nào chịu được để ông bật ba cái cạp nong vào
“của quý” ông sẽ gả con gái cho. Có một anh nhận cuộc, anh ta nghĩ kế, đi tìm một
cái gáo dừa úp vào chỗ ấy. Cứ mỗi lần ông lão chuẩn bị bật cạp nong thì anh ta lại
kêu to làm cho ông lão tưởng anh ta đau thật. Xong cuộc, ông lão không giữ lời
hứa, đành để anh ta bật cạp nong lại vào “của quý” của mình, nhưng lão không
chịu đựng được và cuối cùng đành phải gả con gái cho anh ta.
Cũng với mô típ trả thù tương tự, truyện Ăn cứt chó lại có tình tiết riêng. Có
một lão giàu nuôi rất nhiều chó. Lão cược với đám thanh niên trong làng là ai ăn
hết một trăm bãi cứt chó trong vườn nhà lão thì lão sẽ cho cô con gái út xinh đẹp.
Có một anh chàng thanh niên nhận lời thách. Anh ta lập mưu vào vườn nhà lão giả
làm giả cứt chó bằng chè lam. Khi anh ta ăn hết 97 bãi thì lão ta thay đổi, không
muốn mất con gái; anh thanh niên bèn đòi lão phải ăn 3 bãi cứt chó thật, nhưng lão
không thể ăn hết được một bãi nào, cuối cùng lão phải mất không cô con gái út
cho anh thanh niên.
Bên cạnh các truyện về sự trả thù, trong truyện cười của người Sán Dìu còn
có truyện kể về người thông minh như trong truyện Con chim đất. Truyện kể về
một lão địa chủ giàu có và có tiếng là rất ác, nhà lão ta kín cổng cao tường, không
ai có thể vào được. Lão đố đám thanh niên rằng, ai vào được nhà lão thì lão sẽ cho
con gái út. Có một anh nhà nghèo nhận lời xin vào. Cuối cùng anh ta dùng mưu trí
lấy được con gái lão.
42
Nổi bật lên trong nghệ thuật truyện cười dân tộc Sán Dìu là thường hay sử
dụng yếu tố tục để gây cười, yếu tố tục được nhắc đến trong truyện đó là các bộ
sinh dục của con người, hoặc miêu tả cụ thể việc “quan hệ” nam nữ như trong
truyện Bật cạp nong, Bánh phất, Hai cái tai, hay nói đến những vật thiếu trang nhã
như cứt chó trong truyện Ăn cứt chó.
Bên cạnh truyện cười không kết chuỗi, người Sán Dìu còn có truyện cười
kết chuỗi của dân tộc mình, đó là câu chuyện kể về nhân vật là Trạng Hít, một
nhân vật bất tài nhưng gặp may hết lần này đến lần khác, cuối anh ta được phong
là trạng.
Trạng Hít là một người rất lười biếng và láu cá, nhờ tài nói khoác và gặp
may nên anh ta trở thành thầy bói, lừa được cả ông vãi (bố vợ) đã cất tiền ở đâu,
lừa được trưởng bản tìm thấy đàn lợn đẻ... Tiếng lành đồn xa, càng ngày trạng
ngày càng nổi tiếng khắp nơi. Về sau, ở bên Tàu có hạn hán, mấy năm trời không
có mưa. Tiếng đồn người Sán Dìu có anh trạng bói giỏi, quan bên Tàu cho mời
trạng sang, nhờ giải hạn. Trên đường đi, trạng may mắn nghe được đàn cóc nói
chuyện nên biết trời sắp mưa, trạng đến gặp sứ giả Tàu và bảo chỉ trong hai, ba
hôm nữa tất sẽ có mưa. Quả nhiên hai hôm sau trời mưa rất to. Quan Tàu phục
trạng lắm nhưng vẫn muốn thử thách thêm một lần nữa rồi mới cho về. Quan cho
viết một hàng chữ treo trên đỉnh ngọn tre, bảo nếu trạng đọc được hàng chữ ấy sẽ
trọng thưởng, bằng không sẽ bị chém đầu. Trạng sợ quá ra đứng dưới cột tre mà
than rằng: “Giời ơi là giời, nam ơi là bắc”. Không ngờ lời than của anh trạng lại
đúng với hàng chữ treo trên đỉnh ngọn tre. Quan Tàu thấy vậy thì bội phần thêm
phục, bèn cho trạng thêm rất nhiều tiền của và kiệu anh ta về nước. Từ ấy trạng ăn
suốt đời cũng không hết của.
Truyện kể về nhân vật Trạng Hít đã phản ánh được tính cách hài hước của
của người dân nơi đây. Qua hình tượng nhân vật trạng, nội dung câu chuyện có
tính chất phê phán nhẹ nhàng thói lười biếng, khoác lác của con người. Cho dù
nhân vật trạng được phong tặng nhiều của cải, được quan Tàu nể phục nhưng đây
43
không phải là nhân vật mang mơ ước, khát vọng của người dân, mà họ xây dựng
hình tượng nhân vật này chỉ là để mua vui, giải trí.
Truyện cười dân tộc Sán Dìu đã thể hiện được tinh thần lạc quan của người
dân. Dù trong cuộc sống đầy đủ hay khó khăn, vất vả hay sung sướng con người
vẫn giữ được tinh thần lạc quan, lấy tiếng cười của mình làm phương tiện giải trí.
Bên cạnh đó, tiếng cười trong truyện cười Sán Dìu cũng đã thể hiện thái độ phê
phán những thói hư tật xấu đó là sự khoác lác, độc ác, lừa dối…và tất cả những
biểu hiện trái với tâm tư nguyện vọng của người dân, trái với thuần phong mỹ tục
của con người. Đứng cao hơn những cái đáng cười, tiếng cười phê phán trong
truyện cười dân tộc Sán Dìu còn mang tính chất giáo dục con người, thức tỉnh con
người, giúp họ nhìn lại bản thân mình trong những hành động ở cuộc sống và tỉnh
táo hơn trong các hành động trong xã hội họ sinh tồn.
2.1.2.5. Tục ngữ, câu đố
Như mọi loại hình văn học dân gian, tục ngữ và câu đố là hai thể loại văn
học dân gian có sự phổ biến rộng khắp từ Nam chí Bắc trong đời sống tinh thần
của người lao động. Những câu hát đố - một dạng nguyên hợp của câu đố còn giữ
lại được trong nhiều loại dân ca đối đáp nam nữ. Tục ngữ và câu đố được sử dụng
trong mọi hoàn cảnh mang tính chất vui chơi giải trí, đúc kết kinh nghiệm sống.
Trong khi cùng lao động tập thể, lúc nghỉ ngơi, túm năm tụm ba với nhau, người
lao động thường ca hát, kể chuyện vui và đố nhau, đem lại cho người lao động
nhiều phút vui vẻ, yêu đời, lạc quan. Là những thể loại biểu hiện rõ đặc trưng của
đời sống nhân dân, phong tục tập quán của tộc người, chúng tôi đã sưu tầm khảo
sát hai thể loại tục ngữ và câu đố của dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên để thấy được
những nét độc đáo và phong phú trong kho tàng văn học dân gian của một trong
những dân tộc ít người ở Thái Nguyên bên cạnh các dân tộc anh em nói chung.
Câu đố là “một thể loại của văn học dân gian mà chức năng chủ yếu là
phản ánh đặc điểm của sự vật, hiện tượng bằng phương pháp giấu tên và nghệ
thuật chuyển hóa gây nhiễu (chuyển vật nọ thành vật kia), được nhân dân dùng
44
trong sinh hoạt tập thể để thử tài suy đoán, kiểm tra sự hiểu biết và mua vui, giải
trí”. [24, tr. 48] Chức năng cơ bản của câu đố là: nhận thức, giáo dục và giải trí.
Vấn đề phân loại câu đố được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
Câu đố là một thể loại khá phổ biến ở vùng cư trú của người Sán Dìu, theo
lời kể của các cụ già và những nghệ nhân mà chúng tôi gặp khi đi điền dã. Theo họ
thì bất kỳ ở đâu, những lúc đi làm ruộng, trò chuyện, vui đùa người ta đều dùng
câu đố như một hình thức sinh hoạt văn hoá tinh thần. Nội dung của câu đố rất
phong phú biểu hiện những nhận xét sắc sảo, tinh tế và hóm hỉnh. Các câu đố về
thực vật, đồ vật, động vật, con người, về hiện tượng tự nhiên gắn bó với đời sống
hàng ngày của người Sán Dìu. Tuy nhiên, số lượng tục ngữ và câu đố dân tộc Sán
Dìu mà chúng tôi sưu tầm lại không nhiều, do các nghệ nhân hay những người già
trong làng không ghi nhớ được. Đó cũng là những trăn trở của chúng tôi trong quá
trình đi điền dã, đồng thời là người con của dân tộc Sán Dìu, trước tình hình di sản
về câu đố của dân tộc đang mất dần theo nhịp sống hiện đại, chúng tôi không khỏi
tiếc nuối. Những câu đố sưu tầm được, chúng tôi hết sức trân trọng. Khi xem xét
đối tượng, chúng tôi không tách rời môi trường đã sản sinh, bảo tồn và nuôi dưỡng
nó, chính là không gian văn hóa của câu đố.
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy thế giới vật đố trong câu đố của dân tộc
Sán Dìu có nội dung phong phú, đa dạng, đó là những sự vật, hiện tượng xuất hiện
trong cuộc sống hàng ngày của họ. Tất cả những hiện tượng của cuộc sống đều
được phản ánh: thực thể tự nhiên, thực vật, động vật, đồ vật, con người và các hoạt
động của con người,…
Dân tộc Sán Dìu cũng có rất nhiều câu đố có nét độc đáo ví von với sự vật
gần gũi với cuộc sống, lao động sản xuất:
Thai chuy thèo cộ then lềnh
Tú hông hông?
(Dịch: Con lợn to nhảy qua bờ ruộng/ Bụng thì trống không).[44]
Sự hóm hỉnh, thông minh của người Sán Dìu thể hiện trong câu đố, lời nói
45
nhẹ nhàng đòi hỏi người nghe phải suy ngẫm. Câu đố không quá cầu kì, như một
lời thủ thỉ “tú hông hông?” êm ái, kích thích người nghe. Trong câu đố, vật đố là
sự vật nào đó mà người ta muốn nói đến, nhưng không nói thẳng tên nó ra, mà nói
ám chỉ (nửa kín nửa hở). Giải đố là dựa vào chỗ hở trong ám chỉ về vật đố
mà đoán ra vật đố và gọi tên nó ra. Hình ảnh “con lợn to nhảy qua bờ ruộng” đem
đến nhiều đoán định, kích thích trí thông minh, sự tò mò của người giải đố. Câu đố
có sử dụng kỹ thuật ẩn dụ, song vật đố không quá xa lạ “cái gầu tát nước bên bờ
ruộng” (hụ tỏi). Giải được câu đố mang đến niềm vui trong những lúc lao động
mệt nhọc. Qua đó, truyền dạy cho con cháu của người Sán Dìu tình yêu đối với
những vật dụng quen thuộc trong đời sống hàng ngày.
Cuộc sống của người Sán Dìu gắn bó với đồng ruộng, họ vốn cần cù, chăm
chỉ trong lao động. Mong muốn có cuộc sống đủ đầy, mùa màng thu hoạch những
hạt lúa chắc, mẩy vàng. Song, do sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào điều kiện tự
nhiên nên không phải lúc nào mùa màng của họ cũng bội thu. Nhưng hơn hết
chúng ta thấy được tinh thần lạc quan của người Sán Dìu: “Sèn sì lống nhi thồng
nèn/ Hòi sì thai cô thành hút chong/ Chác ốc thai cô tác báo nọn/ Dịu ngoi bọn tú
vi ken hông” (Trước đây anh cùng tôi vốn đồng niên/ Sau này anh trở thành hạt
mẩy vàng/ Gia đình anh được no ấm sung túc/ Còn tôi lép kẹp rơi lắt lay?).[44]
Từ cách giải đố về hạt thóc lép đưa đến những bài học triết lí, nhân sinh về
con người trong cuộc sống. Cùng sinh ra và lớn lên “vốn đồng niên”, nhưng số
phận mỗi con người lại hoàn toàn khác nhau, người thì “ấm no sung túc”, người
thì “rơi lắt lay”. Đố vui không chỉ là để giải trí mà còn chứa đựng những bài học
cuộc sống răn dạy người Sán Dìu biết cách đối mặt với hoàn cảnh. Trong cuộc
sống không phải ai cũng là những “hạt mẩy vàng”, điều quan trọng là có tinh thần
lạc quan trong cuộc sống.
Bên cạnh cây lúa - cây lương thực chính của người Sán Dìu, thì cây lạc, cây
đỗ cũng gần gũi với họ. Những cây lương thực đi vào câu đố giản dị như chính con
người nơi đây:
46
Cây gì gốc có quả, ngọn có hoa?
Giải nghĩa: Cây lạc.[44]
Không chỉ cây, mà quả trong vườn cũng là sự vật được quan tâm trong
những câu đố. Nếu người Việt có câu: “Một bầu chứa rất nhiều tôm,/ Hạt tươi đốt
cũng cháy bùng lửa hoa”. - Là quả gì?
Thì dân tộc Sán Dìu cũng có những câu đố tương tự: “Vỏ xanh bao ruột
trắng - Ruột trắng đựng tép con?”[50] Quả bưởi quen thuộc, gần gũi và dễ nhận
biết. Câu đố về quả bưởi không quá cầu kì, nhưng ẩn giấu là tấm lòng yêu thương,
nhân hậu, sự bao bọc lẫn nhau của cộng đồng dân tộc Sán Dìu. Yêu thương, đùm
bọc là truyền thống tốt đẹp nghìn đời của người dân tộc Sán Dìu nói riêng và của
người Việt Nam nói chung. Đó cũng là khởi nguồn của tinh thần đoàn kết, tương
thân tương ái.
Đời sống của người dân tộc Sán Dìu phong phú, không tránh khỏi những
câu đố mang yếu tố tục về vật dụng quen thuộc trong gia đình để xay thóc: “Ngỗng
cổ dài lại tham ăn/ Không đít ỉa ra giữa thân?”. Giải nghĩa: Cái cối xay.[44]
Người Sán Dìu coi trọng việc làm nhà, xem tuổi, xem hướng. Cửa nhà đặt
như thế nào cho hợp tuổi, họ thường tìm đến những thầy cúng, thầy địa lý để xem,
hỏi ý kiến. Đối với họ, cánh cửa cũng là thực thể có linh hồn:
Ngày thì bay ra, tối thì đậu vào?
Giải nghĩa: Cánh cửa.[44]
Điều đáng trân trọng ở người Sán Dìu là tinh thần ham học hỏi. Học chữ
không nhất thiết cúa tập viết đi viết lại. Chữ viết của họ vốn là chữ Hán cổ - chữ
tượng hình. Họ dùng hình thức đố chữ dễ học, dễ nhớ:
Bên tả phẩy một phẩy
Bên hữu ngoạch một ngoạch
Con quạ cắp con trạch?
47
Giải nghĩa: chữ Cửu.[44]
Chữ Hương khó viết là thế, nhưng người Sán Dìu đã đơn giản hóa bằng câu
đố: “Thiên tự vô thành thiên/ Bát tự bài lưỡng biên/ Nhật hữu tại hoà hạ / Quái tại
phật diên tiền”. ( Chữ Thiên không phải thiên/ Chữ bát bày hai bên/ Nhật có ở
dưới thóc/ Quẻ ở trước mặt phật).[50]
Người Sán Dìu luôn mơ ước một cuốc sống ấm no, thanh bình, phúc lộc
nhiều như nước biển Đông chảy mãi. Họ đố câu “Phúc như đông hải”: “Nhất nhân
nhất khẩu tại điền điện/ Nhị nhân điền biên nhất thành ngân/ Đại mật đả đòng điền
trung quá/ Nữ mẫu trú tại giang thủy tiên”. (Một người một miệng trên mặt ruộng/
Hai người bên đồng chẳng thành dải/ Cây to đem đánh qua trong ruộng/ Mẹ con ở
lại bên sông nước” [50]
Ngoài đố chữ, trong cộng đồng người Sán Dìu còn lưu truyền những câu tục
ngữ. Tục ngữ của người Sán Dìu cũng phản ánh mọi mặt của đời sống xã hội và
khái quát cô đọng bản chất của các sự vật, hiện tượng. Trong chu kỳ sản xuất một
năm, theo lịch âm lịch của người Sán Dìu, thì đầu năm mới đã bắt đầu công việc
lao động sản xuất của đồng bào, vì vậy kho tàng tục ngữ của người Sán Dìu liên
quan sản xuất, xây dựng cuộc sống tốt đẹp cũng ngày càng phong phú và đa dạng.
Về nông lịch, người Sán Dìu làm nông nghiệp từ lâu đời nên đã đúc kết
nhiều kinh nghiệm làm ăn:
Sam nhọt sênh mềnh lày xong láo.
(Tết tháng 3 (tết Thanh Minh) cày vỡ ruộng xong). [44]
Ngũ nhọt chét hạ xong dong.
Tết tháng 5 (5-5 âm lịch) phải gieo mạ xong.[44]
Xết nhọt chét lày si xong.
Tết tháng 7 (14-7 âm lịch) phải cày cấy xong.[50]
Công láo mong tông chí, mạo mong nèn
48
Mong nèn, sọc căng thèn.
Đi ở mong đông chí, không mong tết cả.
Mong tết cả phải làm vụ đông. [44]
Trong sản xuất, người Sán Dìu phán đoán thời tiết rồi tổng kết đầy đủ và
ngắn gọn trong những câu tục ngữ:
Xết nhọt chộng xọn, cửu nhọt chộng xông.
Tháng bảy giồng tỏi, tháng chín giồng hành.[44]
Khi thời tiết đã chuyển sang mùa thu rồi thì cấy lúa không có hiệu quả nữa,
chỉ nên cấy mùa khi còn thời tiết mùa hè “đất nóng chân” mới cho thu hoạch cao:
Sái lọc này mạo nọn quác, mạo si vò tách.
Si vồ lu nọng công.
Dẫm xuống đất không nóng chân thì không cấy
Cấy nữa chẳng qua là cấy vớt mà thôi. [44]
Dựa vào kinh nghiệm, người Sán Dìu nhìn cách ong làm tổ để xem thời tiết,
trời hạn hán hay lũ lụt căn cứ vào việc ong làm tổ thấp hay cao:
Ỏng bầu, trụ tọi tay, lu họn, trụ trọi cao, thai súi chịm.
Con ong bầu vẽ nếu làm tổ thấp thì trời thì trời sẽ hạn hán;
còn nếu làm tổ trên cao thì sẽ bị lũ lụt. [44]
Cuộc sống gắn bó với ruộng đồng, người Sán Dìu luôn mong có cuộc sống
no ấm. Nhưng được mùa hay mất mùa, thiên nhiên như báo trước cho họ. Nhìn
hoa sim nở: “Nìm suy, sị nhót phạc va tô, tách cháo vồ./ Hồng va tô, tách sì
vồ.” (Cây sim nở hoa vào tháng 4 âm lịch, nếu hoa trắng nhiều thì được mùa lúa
sớm, còn nếu hoa đỏ nhiều thì được mùa lúa muộn.) [44]
Nếu người Kinh có câu: “Con cóc là cậu ông trời/ Nếu ai đánh cóc thì trời
đánh cho”. Thì với người Sán Dìu, con cóc gần gũi với cuộc sống của họ: “Khàm
49
suỳ lọc thòng, sam cheo nọn/ Khàm suỳ hý thòng, sết cheo lạng.” (Cóc xuống ao,
nắng ấm 3 ngày./ Cóc lên bờ, rét 7 ngày...) [44]
Trong cuộc sống, nam nữ Sán Dìu được tự do tìm hiểu, tự do yêu đương
nhưng khi lấy vợ lấy chồng không nên quá kén chọn:
Xen cán, man cán, cán sọc lan tanh chán.
(Lấy vợ lấy chồng đừng quá kén chọn, chọn nghìn người vạn người lại chọn phải
người không ra gì, chọn phải cái bát mẻ). [50]
Cuộc sống vợ chồng đòi hỏi sự thủy chung, son sắt, trong cuộc hôn nhân
xuất hiện người thứ ba, tranh vợ cướp chồng thì cuộc sống ấy không bền: “Chang
nhìn ốc sạ, chẹm nhìn thèn./ Hu cụi rềnh va tách kí nèn.” (Tranh cướp vợ người,
cướp ruộng người/ Vinh hoa phú quý được mấy mươi!) [44]
Đồng thời, trong gia đình họ những người lười biếng, ham chơi bị phê phán
không những làm khổ mình mà khổ cả vợ con. Cuộc sống đòi hỏi phải chịu thương, chịu
khó, hay lam, hay làm:
Sam sòng hụ sòng, sệch sí lạn hu nhòng.
(Quần dài, áo dài, ăn chết cả vợ lười (những người lười lao động hay quần áo dài
đi chơi thì sẽ trở thành người túng bấn, làm khổ cả vợ con).[44]
Mặc dù, tư tưởng trọng nam khinh nữ ăn sâu vào tư tưởng của họ, nhưng
việc giáo dục con trai hay con gái được người Sán dìu rất quan tâm. Họ dạy con
biết yêu thương, có lòng nhân ái:
Dọng nàm bút cạo, bút duỳ dọng luỳ.
Dọng nhuý bút cạo, bút duỳ dọng chuy.
(Nuôi con trai mà không dạy bảo đến nơi đến chốn để nó hư hỏng, thất đức thì thà
nuôi con lừa; còn ngược lại, nếu nuôi con gái mà không dạy được để nó không
nghe lời cha mẹ thì thà nuôi con lợn còn hơn). [50]
50
Người Sán Dìu đưa ra sự đối lập giữa hình thức và nội dung, để xem xét con
người, nhìn nhận về con người tốt đẹp hay xấu xa không phải căn cứ vào vẻ bề
ngoài mà căn cứ vào phẩm chất bên trong:
Nẹm phì mạo nẹm slim.
(Đẹp vỏ nhưng không đẹp ruột.) [44]
Bản thân mỗi con người không nên tự cao, tự đại, sống vô ơn:
Chưa có cánh đã muốn bay.[44]
Đúc kết kinh nghiệm, vốn sống là cả đời người. Mỗi người không ngừng
học hỏi để trưởng thành và mỗi lứa tuổi những ước mơ về cuộc đời khác nhau:
Sồng non ọi háo, láo ọi báo.
(Người còn trẻ thì muốn đẹp, nhưng đến lúc già thì lại chỉ muốn no mà thôi).[44]
Từ thấu hiểu cuộc sống, người Sán Dìu đón nhận những bài học sâu sắc với
ông bà, cha mẹ:
Ti va sốc công sốc phô.
Biết điều biết ông biết bà.[44]
Ti thoi ti lu
Biết đầu biết cuối.[50]
Công ơn sinh thành và dưỡng dục của cha mẹ tựa trời bể, nhưng con người
chỉ có thể thấu hiểu khi đã trưởng thành, trải nghiệm những khó khăn trong cuộc
sống. Người Kinh có câu “Có nuôi con mới hiểu lòng cha mẹ” thì người Sán Dìu
cũng dạy:
Sang chấy chăng ty hu mù en.
Khi người ta sinh con nuôi con mới biết cha mẹ khó nhọc. [44]
51
Cuộc sống muôn hình, muôn vẻ, có lòng khoan dung, nhân hậu, biết đối
nhân xử thế, biết ông biết bà, biết đến công ơn của cha mẹ là nét đẹp nghìn đời
trong đạo đức của đồng bào dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên:
Sự việc ở đời như lá cây trên rừng
Yêu thương nhân hậu nhưng không đồng nghĩa họ tha thứ, về hùa với cái ác
mà người Sán Dìu quan niệm trong cuộc sống người sống hiền lành hay ác độc đều
có trời chứng giám:
Người ác – người sợ, trời không sợ
Người lành – người khinh, trời không khinh.[44]
Từ đó đánh giá về nhân tâm:
Lòng người như dòng nước chảy.[44]
Họ luôn ca ngợi công việc đồng áng, cuộc sống thuần nông gắn bó với lũy
tre làng, gắn bó với bản làng đó là cuộc sống được đề cao:
Mai tông mai say mạo cộ số thén coóc.
Buôn đông bán tây không bằng cuốc góc ruộng.[44]
Trên đây là vài nét khái quát tìm hiểu về kho tàng tục ngữ, câu đố rất phong
phú của người Sán Dìu ở tỉnh Thái Nguyên, đã tổng kết chung đúc những kinh
nghiệm quý báu trong quan hệ giữa người với người, giữa người với thiên nhiên
bao quanh, trong quá trình lao động sản xuất để làm ra của cải vật chất, để tồn tại
và làm giàu thêm vốn cổ văn nghệ dân gian của các dân tộc ít người nói chung và
người Sán Dìu nói riêng ngày càng thêm phong phú và đặc sắc.
Tuy nhiên, trong những lần đi điền dã, phỏng vấn những người dân địa
phương, chúng tôi nhận thấy bộ phận câu đố, tục ngữ của dân tộc Sán Dìu đang
ngày càng mai một. Trong cuộc sống hàng ngày hầu hết họ không còn sử dụng,
ngoại trừ những câu quen thuộc. Bởi lẽ, nhịp sống hiện đại với những phương tiện
cũng như cách thức lao động mới khiến những kinh nghiệm đúc rút trong truyền
thống bị giảm sút, không còn phù hợp.
52
2.1.2.6. Hát Soọng Cô
Theo Từ điển thuật ngữ văn học (2009), dân ca là “một loại hình sáng tác
dân gian mang tính chất tổng hợp bao gồm lời nhạc, động tác, điệu bộ kết hợp với
nhau trong diễn xướng” [24, tr.105]. Nội dung chính của dân ca là phản ánh đời
sống nội tâm, tư tưởng, tình cảm của người bình dân. Các tác giả Lê Chí Quế, Võ
Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ trong sách Văn học dân gian Việt Nam đã phân
loại dân ca thành 3 loại: dân ca gắn liền với nghi lễ phong tục, dân ca gắn liền với
các hoạt động lao động sản xuất và dân ca trữ tình sinh hoạt (trong đó có dân ca
giao duyên).
Dân tộc nào cũng có dân ca giao duyên nhưng mỗi dân tộc lại có quan niệm
và cách biểu hiện riêng về tình yêu lứa đôi. Trên cái nền chung của tình yêu con
người, dân ca giao duyên có nhiều hình, nhiều vẻ, phản ánh được những nét đặc
trưng của các dân tộc thiểu số. Mỗi dân tộc thiểu số lại có tên gọi riêng cho bộ
phận dân ca này của mình như : người Tày gọi là “Lượn”, người Nùng gọi là “Sli”,
người Sán Chay gọi là “Thun cọ nhây”… thì người Sán Dìu gọi là Soọng Cô.
Soọng Cô của dân tộc Sán Dìu là một thể loại dân ca trữ tình với lời hát đối đáp
nam nữ, được lưu truyền từ nhiều thế hệ, người Sán Dìu đã say mê hát bởi Soọng
Cô bắt nguồn từ cuộc sống bình dị, chất phác, nói lên tâm tư, tình cảm, ước vọng
của người dân lao động.
Nguồn gốc và khái niệm hát Soọng Cô
Theo truyền thuyết Truyện quả bầu nói về nguồn gốc dân tộc Sán Dìu, kể
rằng thuở xa xưa trời đất còn gần nhau, có một làng quê đông đúc trù phú soi bóng
xuống dòng sông thơ mộng. Bỗng một hôm ông trời nổi giận, cho nước sông dâng
cao làm chết muôn loài. Trong làng có hai chị em họ nhanh chân chui vào quả bầu
khô, nổi lên theo dòng nước nên sống sót.
Khi nước rút vì trong vùng không còn ai nên họ đành lấy nhau sinh nhiều
con cháu làm cho người Sán Dìu hồi sinh trở lại. Tuy làng đông người nhưng đều
là con cháu cùng huyết thống không thể lấy nhau nên phải sang làng khác tìm hiểu.
53
Để bạn tình ở làng bên rung động họ dùng tiếng hát để diễn tả lòng mình. Điệu hát
Soọng Cô ra đời từ đó và tồn tại đến nay.
Người Sán Dìu ở xã Sơn Cẩm (huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên) lại
truyền tụng một câu chuyện khác về nguồn gốc của hát Soọng Cô. Chuyê ̣n kể la ̣i
rằng: Từ rất xưa có một cô gái tên là Lý Tam Mói thông minh, xinh đẹp, hát đối
đáp rất giỏi. Thanh niên trong làng chưa có một ai hát đối lại được cô. Một ngày
kia, có ba chàng trai trên ba chiếc thuyền mang theo các bài hát đối không rõ từ xứ
nào muốn tìm gặp cô gái để thử tài. Gần đến nơi, họ nhìn thấy một cô gái đang
gánh nước bên bờ sông. Ba chàng bèn hỏi thăm tới nhà cô Lý Tam Mói. Cô gái
liền nói với ba chàng trai, mình chính là em gái của Lý Tam Mói, rồi ra một câu
hát đối, nếu ba chàng đối lại được thì cô sẽ chỉ đường. Nhưng ba chàng trai tìm tất
cả các sách trên thuyền mà không đối lại được, thất vọng quay thuyền trở về. Từ
đó, cô gái bỗng sinh buồn rầu, luyến tiếc vì đã không mời ba chàng trai vào thăm
bản. Ngày ngày, cô ra bến sông trông về nơi xa và nhẩm hát những bài hát mang
âm điệu da diết, khắc khoải, mong chờ. Những bài hát của cô được dân làng lưu
truyền qua nhiều thế hệ.
Theo tiếng Sán Dìu thì Soo ̣ng có nghĩa là hát, cò n Cô nghĩa là ca, Soọng Cô là cách phát âm của người Sán Dìu từ chữ Hán, xướng ca nghĩa là ca hát. Lời ca và giai điê ̣u của Soọng Cô không hề khô cứng mà mềm dẻo đầy sứ c lan tỏ a, diễn đa ̣t tâm tư tình cảm củ a ngườ i hát, làm mê đắm lòng người.
Lề lối hát Soọng Cô
Hát Soo ̣ng Cô là mô ̣t thể loa ̣i hát đố i đáp gắn liền vớ i sinh hoạt văn hóa dân gian củ a ngườ i Sán Dìu. Nó là những tâm tư tình cảm củ a những đôi trai gái đang trong giai đoa ̣n tìm hiểu nhau, nhờ tiếng hát để trải tấm lò ng mình, là phương tiê ̣n để bô ̣c lô ̣ những tâm ý mà không dám ngỏ lờ i trực tiếp mô ̣t cách tinh tế. Không chỉ có vâ ̣y, Soọng Cô cò n là những lờ i hát ru đưa con trẻ chìm trong giấc ngủ, là những lờ i hát để hỏ i thăm về gia đình, ba ̣n bè… củ a những ngườ i lâu ngày mớ i có di ̣p gă ̣p mặt. Những câu hát Soo ̣ng Cô không bi ̣ giớ i ha ̣n bở i không gian, thờ i gian,
54
hoàn cảnh cũng như môi trườ ng diễn xướ ng, ngườ i ta có thể hát mô ̣t đêm, nhiều đêm, hát trong nhà, bên bờ suố i, khi đi làm nương, hay trong lú c đi chơi làng, trong khi ru con và trong các lễ hô ̣i củ a ngườ i Sán Dìu. Bên cạnh vai trò là một loại hình giải trí củ a mô ̣t dân tô ̣c yêu văn nghê ̣, nó thanh lo ̣c tâm hồ n, giú p cho con
ngườ i từ bỏ cái ác, hướ ng tớ i cái thiê ̣n, cái hoàn mĩ.
Ngày trước, Soọng Cô được lưu truyền chủ yếu qua ghi chép. Người học hát
phải học theo sách, thuộc những bài hát một cách bài bản để ứng đối cho phù hợp
từng cuộc hát. Song, do hoàn cảnh diễn xướng, người Sán Dìu cũng ứng tác nhiều
lời ca để có thể hát từ đêm này sang đêm khác mà không bị lặp. Vì vậy, hát Soọng
Cô được lưu truyền theo hai phương thức: ghi chép và truyền miệng.
Tùy trong từng hoàn cảnh mà Soo ̣ng Cô đươ ̣c diễn xướ ng theo cách hát Coó ng hoă ̣c hát Ênh. Hát Coó ng là cách hát mà ở đó ngườ i hát không sử dụng
những âm phụ luyến láy mà đi thẳng vào lờ i hát, thườ ng đươ ̣c hát trong lao đô ̣ng. Còn hát Ếnh là cách hát mà trong đó sử du ̣ng những từ luyến láy châ ̣m cha ̣p trong những lú c ru con, hoă ̣c là những lời buông lơi lả lướt củ a những đôi trai gái đang yêu.
Soo ̣ng Cô là mô ̣t thể loa ̣i hát đối đáp gắn liền với sinh hoạt văn hóa dân gian của người Sán Dìu. Hát Soọng Cô chủ yếu là phần đối đáp giao duyên và những lời hát ru, họ hát những câu hát nói về tình yêu lứa đôi, ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên,
ca ngợi tình nghĩa thủy chung vợ chồng, công lao ông bà, cha mẹ, răn dạy con
người sống có đức, có nhân, có hiếu… khi tiếng hát cất lên nghe thật dặt dìu, réo
rắt, lúc ngân cao, lúc trầm ấm làm say mê lòng người, những lời ca bình dị ấy đã
trở thành món ăn tinh thần, mặc cho thăng trầm thời gian nhưng vẫn có sức sống
mãnh liệt và lắng đọng trong tâm hồn của người Sán Dìu. Môi trườ ng diễn xướ ng
của hát Soo ̣ng Cô không bi ̣ giớ i ha ̣n bởi không gian, thờ i gian, hoàn cảnh, người ta
có thể hát mô ̣t đêm, nhiều đêm, hát trong nhà, bên bờ suố i, khi đi làm nương, hát
trong đám cưới, trong khi ru con hay trong lúc đi chơi làng và hát chúc xuân, trong các lễ hô ̣i, ngày nông nhàn củ a người Sán Dìu.
55
Hát Soọng Cô là làn điệu dân ca độc đáo của dân tộc Sán Dìu ở Việt Nam. Nó là phương tiện để truyền tải những tâm tư, tình cảm và ước muốn của người
Sán Dìu trong cuộc sống thường ngày được thể hiện qua lời hát, là môi trường gìn
giữ văn hóa tộc người. Hiê ̣n nay, làn điệu Soọng Cô của người Sán Dìu đang bi ̣ mai mô ̣t nhanh chóng và bị lấn át bởi những hình thức giải trí hiện đại.
2.2. Những nhận xét sơ bộ văn học dân gian Sán Dìu ở Thái Nguyên
2.2.1. Đa dạng, phong phú, độc đáo về thể loại
Qua quá trình điền dã, sưu tầm văn học dân gian của dân tộc Sán Dìu ở tỉnh
Thái Nguyên, chúng tôi nhận thấy văn học dân gian của dân tộc Sán Dìu khá đa dạng về thể loại và phong phú về mặt nội dung. Nếu xét theo tiêu chí về thể loa ̣i, có thể phân văn học dân gian của dân tộc Sán Dìu: Tự sự và trữ tình.
Loại hình tự sự (truyê ̣n cổ Sán Dìu) phân chia thành những thể loại cơ bản là: Thần thoại, truyện cổ tích và truyện cười. Truyện cổ dân tộc Sán Dìu mà chúng tôi sưu tầm ở tỉnh Thái Nguyên bao gồm thể loại thần thoại, truyện cổ tích và truyện cười đã phần nào phản ánh được thế giới quan của người dân. Trong truyện
cổ dân tộc Sán Dìu chứa đựng rất nhiều tri thứ c khác nhau về cuô ̣c số ng củ a nhân
dân, đó là yếu tố lịch sử, văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng dân gian. Tất cả đã hòa lẫn
trong các tác phẩm tự sự và được người dân lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác và biểu hiện tính nguyên hợp trong nội dung phản ánh của các tác phẩm.
Truyện cổ dân tộc Sán Dìu đã được người dân lưu truyền rộng rãi, được địa
phương hóa qua những hình thức cụ thể, như: thờ cúng, gắn với địa danh, gắn vớ i
tên gọi làng xóm, tên vùng đất và còn mang theo trong nó cả tâm tư, tình cảm của
người dân nơi đây. Việc tìm hiểu và khám phá các thể loại truyện cổ Sán Dìu sẽ
mang đến những nhận thức về một thời kỳ cổ xưa của vùng đất này cù ng với
những vẻ đẹp tâm hồn của người dân nơi đây.
Loại hình trữ tình: tục ngữ, câu đố, hát Soọng Cô.
Qua sưu tầm cho thấy, kho tàng văn học dân gian của người Sán Dìu vẫn
còn là một mảnh đất khá màu mỡ chưa được khai thác đúng với tiềm năng. Hi
56
vọng sẽ có những công trình sưu tầm, biên soạn và nghiên cứu, nhằm đánh giá vai
trò của nó trong đời sống của người dân Sán Dìu.
2.2.2. Văn học dân gian Sán Dìu ở Thái Nguyên đang dần mai một
Trên cơ sở định hướng thực hiện mục đích của đề tài, người viết có thuận lợi
là người dân tộc Sán Dìu, sinh ra, lớn lên trong cái nôi của văn hóa dân gian của
dân tộc Sán Dìu, nên có điều kiện gần gũi hiểu được phần nào phong tục tập quán
của người dân tộc Sán Dìu nói chung và đã có nhiều dịp được nghe người Sán Dìu hát. Tuy vậy, chúng tôi cũng gặp không ít những khó khăn khi thực hiện đề tài,
mặc dù là dân tộc có vốn văn hoá truyền thống khá phong phú và đặc sắc, đặc biệt
là những tri thức về văn hoá văn nghệ dân gian nhưng do số lượng dân cư không
nhiều, địa bàn phân bố rộng.
Hiện nay, cũng như các nghệ nhân người Sán Dìu của các địa bàn khác,
những nghệ nhân ca hát dân gian ở Thái Nguyên thường sử dụng tiếng Sán Dìu
trong giao tiếp hằng ngày song song với sử dụng tiếng Việt và cũng rất say sưa với
Soọng Cô. Điều mà các nghệ nhân lo lắng là làm thế nào để lưu truyền kho tàng
văn học dân gian đặc sắc của dân tộc mình. Trải qua thời gian, do nhiều nguyên
nhân điệu hát Soọng Cô đang bị mai một dần và số lượng người thực sự biết hát
Soọng Cô không còn nhiều. Một số bài hát do được truyền khẩu theo thời gian đến
nay đã không còn lưu giữ được…
Bởi lẽ, lớp trẻ chẳng mấy mặn mà, thậm chí đa số các thế hệ con, cháu của
họ (kể cả các ông, các bà là nghệ nhân hát Soọng cô) không biết nói tiếng nói của
dân tộc mình, thì nói chi đến việc hát. Dù dưới nhiều hình thức tổ chức học, không
gian thời điểm cũng như người dạy, người học có khác nhau, nhưng phương pháp
truyền dạy của các nghệ nhân nơi đây chủ yếu thường sử dụng bằng phương pháp
truyền khẩu. Cách này đã trở thành truyền thống, truyền từ đời này sang đời khác.
Với cách dạy học truyền thống như vậy, người học tiếp cận với âm nhạc bằng tai,
chứ không phải bằng mắt. Họ học lỏm, học ở nhiều nơi, học nhiều người, tự học là
chủ yếu. Họ dựa hoàn toàn vào tai nghe và trí nhớ của mình nên người học nắm
57
bài rất chắc, học đến đâu, biết đến đó. Có người thông minh đã có thể thuộc ngay
tức thì. Song vì học theo lối truyền khẩu nên người học phụ thuộc hoàn toàn vào
người dạy và bị tiếp thu một cách thụ động, khi gặp các bài có khuôn khổ lớn hơn
thì việc truyền thụ sẽ gặp khó khăn, thầy truyền cho học trò học bài bản và kỹ
thuật hát, thì học trò cũng chỉ biết trung thành theo cách dạy của thầy mà không có
sự sáng tạo thêm. Với cách tổ chức học không đông người, dạy đại trà và không gò
ép… Người học hoàn toàn chủ động học, lựa chọn thầy người dạy mà mình thích
hoặc yêu quý hay trọng nghề.
Trong quá trình đi điền dã, chúng tôi tìm đến nhà các nghệ nhân, những
người già trong các thôn xóm, song có một thực trạng là hầu hết không dịch được
từ tiếng Sán Dìu ra tiếng Việt. Ngay cả những nghệ nhân tham gia các câu lạc bộ
Soọng Cô cũng chỉ có vài người biết dịch, những bài hát được dịch ra họ đều lấy
nguồn từ những cuốn sách của ông Diệp Minh Tài, sưu tầm và dịch thuật. Thậm
chí, còn có tình trạng phô tô sách, sau đó tẩy xóa tên tác giả và đề tên mình lên, khi
chúng tôi hỏi đến mang tài liệu đó ra tự nhận là do chính nghệ nhân đó biên soạn
và dịch. Hay cũng có những nghệ nhân tuổi đã quá cao, không còn đủ minh mẫn
để có thể truyền dạy. Đồng thời, những hoạt động sưu tầm, biên soạn chỉ là niềm
yêu thích của một số nghệ nhân mang tính bột phát, chưa có quy củ và chưa có sự
đồng bộ.
Đồng thời, các nghệ nhân hầu hết tuổi đã cao, mặc dù có niềm đam mê, sự
yêu thích và mong muốn bảo tồn văn học dân gian của dân tộc Sán Dìu nhưng họ
gặp trở ngại về sức khỏe, kinh tế. Như khi chúng tôi tìm đến nhà ông Diệp Minh
Tài, mặc dù ông rất nhiệt tình chỉ dạy nhưng vì bệnh của tuổi già, những cơn ho
kéo dài hành hạ, y tá luôn phải túc trực ở bên để chăm sóc, tiêm thuốc, nên chúng
tôi cũng không dám hỏi nhiều mặc dù còn rất nhiều trăn trở. Hay khi tìm đến nhà
nghệ nhân Miêu Thị Nguyệt (Nam Hòa, huyện Đồng Hỷ), bà tâm sự với chúng tôi,
việc sưu tầm và dịch của bà gặp nhiều trở ngại do không có nguồn kinh phí hỗ trợ,
cũng không có chuyên gia, hay nhà nghiên cứu cùng hỗ trợ. Bà có thể dịch ra tiếng
58
Việt, nhưng không đơn giản là dịch nghĩa, mà là dịch rabài hát mà không làm mất
đi vẻ đẹp, hồn nét riêng của lời ca dân tộc Sán Dìu.
Cùng có niềm say mê, yêu thích Soọng Cô song những nghệ nhân ở Sơn
Cẩm, Phú Lương lại gặp trở ngại về thời gian. Công việc chủ yếu của họ là làm
ruộng, để duy trì câu lạc bộ Soọng Cô, họ phải ra đồng từ rất sớm, tranh thủ những
buổi trưa, buổi tối để tập hát, lại có những người không nhận được sự đồng thuận
của người than trong gia đình. Vì vậy, việc bảo tồn và phát triển điệu hát Soọng
Cô không chỉ có ý nghĩa gìn giữ bản sắc văn hóa độc đáo của người Sán Dìu mà
còn để “hồn cốt” văn hóa của người Sán Dìu ăn sâu vào trong đời sống văn hóa
tinh thần của nhân dân.
Chúng tôi, dù còn gặp nhiều khó khăn, dù trước đó chưa có một công trình
nào nghiên cứu sưu tầm về văn học dân gian của dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên
trong tính chỉnh thể của nó, đã mạnh dạn đi sưu tầm ở nhiều thôn bản, ở huyện, ở
tỉnh với mong muốn tìm kiếm, khám phá những bài hát Soọng Cô, câu đố, truyện
kể, truyền thuyết, tục ngữ mà đời sống dân gian ngày nay vẫn lưu truyền và gìn
giữ. Đối với việc sưu tầm một số loại hình văn học dân gian của dân tộc Sán Dìu, chúng tôi thực hiện với nhiều chuyến đi thực tế, tất nhiên cũng gặp không ít những
khó khăn, thuận lợi. Có thể với thời gian 10 tháng, số lượng của các thể loại văn
học dân gian mà chúng tôi sưu tầm được chưa nhiều, còn gặp nhiều khó khăn
trong nghiệp vụ, hạn chế về mặt lý luận, thì đó thực sự là thành quả của chúng tôi.
Do điều kiện không cho phép cả về thời gian, công việc và kinh tế mà địa bàn sưu
tầm của chúng tôi chưa mở rộng như mong muốn. Nhưng những vùng đất xa xôi
hẻo lánh của người Sán Dìu ở Thái Nguyên mà chúng tôi dừng chân, cũng như
những nghệ nhân dân gian mà chúng tôi tiếp xúc và nhận được sự cộng tác nhiệt
tình của các cấp chính quyền địa phương cho chúng tôi cảm nhận được người Sán
Dìu nơi đây vẫn luôn thích ca hát và kể chuyện.
Nội dung được phản ánh trong các bài hát, truyện kể rất mộc mạc và mang
tính quần chúng sâu sắc, thể hiện được hoàn cảnh lịch sử cũng như những kinh
nghiệm ứng xử giữa người với người, giữa người với tự nhiên trong quá trình lao
59
động sản xuất của đồng bào Sán Dìu. Hầu hết những loại hình văn nghệ dân gian
chúng tôi có được đều thông qua phương thức truyền miệng của người dân thôn
bản, có bà, ông đã tuổi cao và có cả lớp trẻ yêu thích văn học dân gian. Các loại
hình văn nghệ dân gian được kể bằng tiếng Hán và được phiên dịch lại đúng với
hiện thực ngôn ngữ sống động mà cuộc sống vốn có. Quá trình dịch và chép lại
bằng tiếng Việt của chúng tôi cũng gặp một vài khó khăn, làm sao để truyển tải
đúng nét nghĩa của câu nói, từ ngữ, cũng như tôn trọng ý nghĩa, nội dung lời kể,…
Đôi khi phải thừa nhận rằng sức sống nằm trong bản thể ngôn ngữ này
không thể tả hết chính nó trong thể thức của ngôn ngữ khác. Tuy nhiên, các loại
hình văn nghệ dân gian được dịch vẫn giữ nguyên vẻ đẹp của nó. Vì vậy, chúng tôi
cũng không có tham vọng gì lớn, chỉ hi vọng trong bước đầu tập dượt nghiên cứu
khoa học, sẽ đóng góp một phần công sức giới thiệu về một số loại hình Văn học
dân gian được dân tộc Sán Dìu yêu thích, từ đó giúp mọi người hiểu rõ hơn về
người dân tộc anh em trên mảnh đất này.
* Tiểu kết
Diện mạo văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên mang những nét
chung của văn học dân gian dân tộc Sán Dìu trong cả nước, có nghĩa là văn học
dân gian vùng đất này gần như đầy đủ những thể loại văn học dân gian dân tộc Sán
Dìu của cả nước. Tuy vậy, do tiến trình phát triển văn học dân gian dân tộc Sán
Dìu đã khiến cho diện mạo thể loại văn học dân gian nơi đây không hoàn toàn đầy
đủ như văn học dân gian dân tộc Sán Dìu cả nước, cũng chính vì thế mà trữ lượng
tác phẩm ở mỗi thể loại không đầy đủ như văn học dân gian dân tộc Sán Dìu cả
nước. Việc vắng bóng thể loại này hoặc thể loại khác, thể loại này có trữ lượng tác
phẩm lớn, thể loại kia có trữ lượng tác phẩm ít cũng là điều dễ thấy từ thực tế trên.
Dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên có nền văn học dân gian khá độc đáo, mang
đậm dấu ấn miền núi. Sự tiếp xúc giữa văn hoá Sán Dìu với văn hoá dân gian của
dân tộc Sán Chay, H’mông, Dao, Nùng, Tày,… trong vùng không thể không ảnh
hưởng lẫn nhau ở chừng mực nào đó trong nghệ thuật và trong sinh hoạt. Nhưng
60
tâm lý, thị hiếu thẩm mĩ và điều kiện sinh sống không bao giờ đồng nhất giữa các
dân tộc nên văn hoá nghệ thuật của bất cứ cộng đồng nào cũng vẫn mang những
nét dáng tinh tuý riêng, thể hiện thành bản sắc dân tộc. Văn học dân gian của dân
tộc Sán Dìu cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Những vấn đề đã được khái quát ở trên chỉ mang tính giới thiệu, làm nền
cho việc nghiên cứu về tư tưởng, quan niệm, phong tục tập quán, tâm hồn và tính
cách người Sán Dìu ở Thái Nguyên qua một số thể loại văn học thuộc loại hình tự
sự, loại hình trữ tình và làm nền tảng cho việc nghiên cứu những phương diện: nội
dung và hình thức nghệ thuật của một số thể loại văn học dân gian của dân tộc Sán
Dìu trong truyền thống văn hóa tinh thần của họ.
61
Chương 3
MỘT SỐ THỂ LOẠI VĂN HỌC DÂN GIAN TIÊU BIỂU
CỦA DÂN TỘC SÁN DÌU Ở THÁI NGUYÊN
Đậm đà hồn thiêng dân tộc, ngọt ngào hương sắc miền núi, văn học dân gian
dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên là dòng sữa ngọt lành nuôi dưỡng tâm hồn và bồi
đắp năng khiếu cho biết bao thế hệ đồng bào dân tộc Sán Dìu. Dòng sữa ngọt lành
ấy cứ thấm dần vào máu thịt, vào tâm hồn mỗi người con dân tộc Sán Dìu ở Thái
Nguyên. Trong số những thể loại truyền thống của văn học dân gian dân tộc Sán
Dìu phải kể đến hai thể loại tiêu biểu là truyện cổ tích và hát Soọng Cô.
Làm sao có thể quên được những đêm trăng thanh gió mát nằm ngửa mặt
lên trời để nghe bà, nghe mẹ kể những câu truyện cổ tích dân tộc Sán Dìu ấm áp
nghĩa tình. Mỗi câu chuyện là một vấn đề phản ánh giống như những thông điệp
về tình cảm và quan niệm sống, những nhận thức về thế giới tự nhiên… mà đồng
bào dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên muốn gửi đến nhau. Cùng với truyện cổ tích,
hát Soọng Cô không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người dân tộc Sán Dìu
ở Thái Nguyên. Lấy nguồn cảm hứng từ cuộc sống, hát Soọng Cô là cái hay cái
đẹp của dân tộc Sán Dìu. Chỉ có lời ca tiếng hát mới làm vui làng, vui xóm, đồng
bào dân tộc Sán Dìu hát để cho cuộc sống bớt vắng lặng, để giao duyên tình tứ, hát
để ru con vào giấc ngủ, để hăng say lao động làm cho làng xóm ngày càng giàu
đẹp.
Truyện cổ tích và hát Soọng Cô của dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên có
những hồn nét riêng mà không phải vùng nào cũng có được.
3.1. Truyện cổ tích
3.1.1. Các tiểu loại truyện cổ tích
* Truyện cổ tích loài vật
62
Truyện cổ tích loài vật là một tiểu loại đặc biệt của truyện cổ tích, ở đó các
con vật đóng vai trò chính trong kết cấu câu chuyện. Nhưng con người đã truyền
cho con vật những suy nghĩ, quan hệ như con người.
Về mặt nội dung, truyện cổ tích dân tộc Sán Dìu về loài vật giải thích các
đặc tính tự nhiên của con vật, đó là tiếng kêu của các loài chim, như loài vọt chót
và ca ca trong truyện Sự tích tiếng kêu chim ca ca và vọt chót; giải thích tại sao
con khỉ lại sống trên núi trong truyện Tại sao khỉ lên núi, giải thích tại sao con cọp
lại phải đi bên cạnh đường trong truyện Vua cóc, hay tại sao lại có con khỉ và con
vượn trong truyện Sự tích con khỉ và con vượn.
Trong thế giới cổ tích trong truyện Trâu và hổ, con vật và con người có thể
giao tiếp, cả trâu và hổ đều biết nói. Trong công việc lao động, trâu bị đánh đập,
bắt làm những việc nặng nhọc. Trâu là con vật gần gũi với con người trong lao
động, đặc biệt trong cuộc sống gắn bó với đồng ruộng của người dân tộc Sán Dìu.
Thấy trâu phải làm việc vất vả, hổ lại gần nói với trâu: “Anh to lớn là vậy mà bị
giống người nhỏ bé kia sai khiến”. Nhưng hổ đâu biết rằng con người tuy nhỏ bé
nhưng có trí khôn. Hổ tò mò muốn biết trí khôn của con người như thế nào, hổ
nghe người bảo về lấy trí khôn cho hổ xem thì thích lắm. Hổ cho người trói hổ vào
gốc cây để người về lấy trí khôn. Khi bị người chất lá và củi xung quanh đốt, hổ
giãy giụa, kêu la, chạy một mạch vào rừng sâu không dám quay đầu lại. Con người
tuy nhỏ bé nhưng có trí thông minh đã chiến thắng.
Cũng từ truyện Trâu và hổ giải thích màu lông của hổ hiện nay, do bị cháy
nên lông của hổ có những đường vằn màu nâu xen kẽ. Truyện cũng giải thích vì
sao đến bây giờ trâu chỉ có hàm răng dưới, khi thấy hổ bị cháy, trâu lăn ra cười va
phải tảng đá nên gãy hết hàm răng trên. Cách giải thích tự nhiên thể hiện sự nhận
thức về thế giới xung quanh của người Sán Dìu, lý giải nguồn gốc, đặc tính tự
nhiên của con vật.
* Truyện cổ tích thần kỳ
63
Truyện cổ tích thần kỳ “là bộ phận quan trọng và tiêu biểu nhất của thể
loại cổ tích. Ở loại truyện này nhân vật chính là con người trong thực tại, nhưng
các lực lượng thần kỳ, siêu nhiên có một vai trò rất quan trọng”.[24]
Hoàng Tiến Tựu định nghĩa truyện cổ tích thần kỳ là “bộ phận cơ bản cổ
điển và tiêu biểu nhất của truyện cổ tích, đồng thời là một trong những bộ phận
quan trọng nhất và tiêu biểu của nền văn học dân gian mỗi dân tộc… Tiêu chí
quan trọng và chủ yếu nhất để phân biệt truyện cổ tích thần kỳ và truyện cổ tích
sinh hoạt (hay hiện thực) là phương pháp sáng tác hay tức là phương pháp chiếm
lĩnh và phản ánh hiện thực”. [12] Tác giả đưa ra sự khác nhau giữa hai thể loại để
hiểu và cắt nghĩa thế nào là cổ tích thần kỳ.
Nhà nghiên cứu Tăng Kim Ngân trong Nghiên cứu Cổ tích thần kỳ người
Việt khi bàn về đặc điểm cấu tạo cốt truyện cho rằng ý kiến của các nhà nghiên
cứu Chu Xuân Diên, Hoàng Tiến Tựu, Lê Chí Quế là tương đối thống nhất hơn cả.
“Truyện cổ tích thần kỳ là một tiểu loại của truyện cổ tích, có những đặc điểm
riêng về nhiều mặt, phân biệt nó với những tiểu loại cổ tích dân gian khác như
truyện cổ tích loài vật hay truyện cổ tích sinh hoạt; thể hiện ở cách xây dựng nhân
vật, cốt truyện, cách phản ánh thực tại…”. [46; Tr55 - 56]
Đối với truyện cổ tích thần kỳ của người Sán Dìu ở Thái Nguyên, truyện
Hai người con của nàng tiên. Truyện kể về nhiều thế hệ trong một gia đình, từ
người ông, người cha rồi đến con cái của họ, nội dung xoay quanh nhiều vấn đề
khác nhau trong cuộc sống làm cho truyện có kết cấu đan xen, phức tạp. Trong
nhận thức của người Sán Dìu, từ thuở xưa, trần gian và nhà trời có mối quan hệ
gần gũi. Ngọc Hoàng sai các nàng tiên xuống gặt lúa cho chàng trai, yếu tố thần kỳ
xuất hiện giúp đỡ con người trong lao động. Qua đó, thể hiện ước mơ của người
Sán Dìu khi gặp khó khăn, họ luôn mong muốn lực lượng siêu nhiên giúp đỡ.
Nhờ giấu đi đôi cánh của một nàng tiên mà chàng lấy được nàng tiên làm
vợ và sinh được hai người con. Người và tiên có thể sống hòa thuận. Khi vợ vắng
nhà, mỗi lần dỗ con khóc, chàng mang đôi cánh ra để cho chúng nín. Một lần, nhờ
64
con chỉ, người vợ lấy được đôi cánh và bay về trời. Khi người cha cầm chổi đánh
con khóc, người mẹ thả cầu vồng xuống trần gian để đón các con lên trời. Không
chỉ giải thích hiện tượng cầu vồng, trong niềm tin của người Sán Dìu, bên cạnh cõi
trần còn có một thế giói khác là thiên đình. Chi tiết cầu vồng xuất hiện là cầu nối
giữa trần gian và thiên đình.
Truyện Tướng quân cụt đầu, kể về một tướng quân tài ba, xuất chúng, đánh
đâu được đấy bất khả chiến bại, làm kẻ thù kinh hồn bạt vía. Chẳng may trong một
trận chiến bị quân địch bủa vây và bị chém đứt đầu. Khi đầu vừa rơi xuống đất
tướng quân cũng vừa kịp nhặt lên, lắp lại và phi ngựa thẳng về nhà. Chi tiết thần
kỳ, đầu tướng quân rơi xuống đất có thể lắp lại và giao tiếp với con người, thể hiện
ước mơ của người Sán Dìu về sự trường thọ của con người trước thời gian.
Vì đau đớn thương xót, muốn luôn nhìn thấy mặt chồng, người vợ đã giữ cái
đầu của người chồng lại và cho vào cái bồ đựng thóc. Ngày ngày người vợ tảo tần
nấu nồi cơm to, đổ vào bồ cho đầu chồng ăn. Ngày qua ngày lại, cái đầu biến hóa
thành sâu, cứ thế lớn dần, lớn dần. Chi tiết đề cao tình yêu, sự thủy chung trong
tình cảm vợ chồng.
Nhân cơ hội con dâu đi vắng, bà mẹ tướng quân vội vào buồng con dâu,
xem khắp buồng không thấy gì lạ, chỉ thấy cái bồ đựng thóc, đun sôi nồi nước to
rồi đổ vào cái bồ làm cho toàn bộ số sâu trong bồ chết sạch. Vợ tướng quân đau
đớn vô cùng, vì thương nhớ chồng, không muốn xa hình bóng chồng nên vợ tướng
quân hót tất cả số sâu trong bồ ra để ở trước cổng nhà.
Hôm sau số sâu đó đã mọc thành một cây trúc. Ngày qua ngày, cây trúc lớn
dần lớn dần, cao to, cao mãi vút tận trời xanh, mọc thành cả rừng trúc. Cùng với
thời gian đó cây trúc bắt đầu hóa phép tạo mưa tạo gió bão, ngày ngày gió bão đưa
lá trúc bay thẳng đến cung vua của kẻ thù, lá trúc không ngừng rơi, bỗng chốc cả
cung vua tràn ngập lá trúc, khiến vua và cả triều đình kinh ngạc. Vua liền triệu tập
khẩn cấp quan thần triều đình đến thiết triều, sau đó triều đình quyết định sai binh
lính tỏa đi tứ phương lần tìm theo hướng gió đã đưa lá trúc bay đến. Quân triều
65
đình tìm mãi tìm mãi cuối cùng cũng tìm thấy nơi cây trúc mọc, đến nơi quân lính
triều đình thấy cây trúc đứng sừng sững, uy nghi, mọc thành rừng trúc, cao vút tận
trời xanh, càng nhìn quân lính triều đình càng thán phục nhưng trong lòng lại vô
cùng bực tức cây trúc, kẻ đã gây ra họa nơi cung vua của họ. Viên tướng chỉ huy
liền ra lệnh cho quân lính triều đình ra sức chặt phá, tận diệt cây trúc những đoàn
quân của triều đình, bao nhiêu dao, kiếm, búa, rìu, đủ thứ mà không ai chặt được
cây nào vì cây trúc cứng vô cùng, quân triều đình thay nhau chặt phá, tận diệt, bao
nhiêu binh khí được huy động đến nhưng cứ đụng vào cây trúc lại bị sứt mẻ và trở
nên vô dụng không tài nào triệt hạ được cây trúc, quân lính triều đình đành bó tay.
Nhờ lấy dao cắt rốn của tướng quân ra chặt, cả rừng trúc bỗng chốc bị đổ
xuống, trong thân mỗi đốt cây trúc đang hình thành một người một ngựa chiến và
có sẵn binh khí trong tay sắp đến ngày ra trận. Khi triệt hạ được cây trúc, để trừ
họa về sau, nhà vua liền cho quân lính gom toàn bộ cây trúc chất cao như núi rồi
lấy lửa đốt thành tro, rồi hót toàn bộ số tro đó đổ xuống sông, suối. Nhà vua và
triều đình ngờ đâu tro cây trúc lại biến hóa và mọc thành cây Lỳ Slec Chốc (cây
trúc nước). Dần dần cây trúc nước đã mọc thành thành lũy dâng nước ngày một lên
cao lên cao mãi, nước lên cao bao nhiều thì cây trúc nước mọc lên cao bấy nhiêu
và cuối cùng cung vua kẻ thù của tướng quân bị tràn ngập, bị nước lũ tàn phá, đâu
đâu cùng là nước.
Chi tiết thần kỳ về sự biến hóa của cây trúc, người Sán Dìu kiêng không bao
giờ dùng dao cắt rốn cho con mà chỉ dùng cật nứa cắt rốn cho con và dùng xong
đem đi chôn. Đồng thời, thể hiện ước mơ, khát vọng của người Sán Dìu về sức
mạnh dân tộc để chống lại các thế lực thù địch. Đây là truyện mang tính biểu
tượng, văn hóa và sức sống của người Sán Dìu.
* Truyện cổ tích sinh hoạt
Truyện cổ tích sinh hoạt của dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Thái Nguyên mà chúng
tôi sưu tầm được có thể chia làm hai nhóm là truyện cổ tích sinh hoạt về gia đình
và truyện cổ tích sinh hoạt về xã hội.
66
Truyê ̣n cổ tích về mố i quan hệ gia đình như cha me ̣ - con cái trong truyện Người con nuôi có hiếu, kể rằng: có hai vợ chồng nhà kia rất giàu có, sinh được
chín người con trai giàu có nhưng không quan tâm đến cha mẹ, còn người con
nuôi nghèo khó lại rất có hiếu. Trước khi qua đời, hai bà đã để lại cho người con
nuôi rất nhiều của cải.
Bên cạnh truyện cổ tích sinh hoạt về gia đình, trong truyện cổ tích sinh hoạt
Sán Dìu còn có truyện về quan hệ xã hội có nội dung phản ánh về tình yêu nam nữ, tiêu biểu như truyện Yêu nhau bốc bả dần sàng, truyện kể về một một anh
chàng nhà nghèo, mồ côi cha mẹ nhưng rất chăm chỉ học hành, anh ta được cô con
gái út nhà giàu đem lòng cảm mến và giúp đỡ. Về sau, anh chàng mồ côi đỗ trạng
nguyên, được nhà vua giữ lại triều đình.
Khi trở về, anh đã thông báo cho cả bản làng biết rằng, gia đình nhà ai có
con gái đến tuổi lấy chồng nếu biết làm cỗ ngon, anh sẽ lấy cô gái đó làm vợ. Cả
làng đua nhau làm cỗ thật linh đình, toàn những mâm cao cỗ đầy, bày biện long
trọng thành một dãy dài. Duy nhất chỉ có cô con gái nhà giàu năm xưa giúp đỡ anh
ta chỉ làm cỗ bằng những thức ăn thường ngày, cô bày thức ăn ra cái sàng cuối dãy
cỗ. Khi trạng nguyên trở về làng, anh ta đi khắp một lượt nhìn hai bên toàn những
sơn hào hải vị ngon nhất vùng được bày ra, anh ta không ngồi vào mâm cỗ nào cả.
Đi đến cuối dãy, thấy có một cái sàng đựng cơm với tôm rang, bèn ngồi xuống ăn
và khen ngon, hỏi ra mới biết đó là cỗ của cô gái đã giúp mình ăn học. Trạng
nguyên lấy cô gái ấy làm vợ. Từ đó, người Sán Dìu còn lưu truyền câu ca rằng
“Yêu nhau bốc bả dần sàng” để ca ngợi tình yêu của hai người. Câu chuyện khác
nói lại kể về một anh chàng nghèo khổ đã may mắn lấy được con gái xinh đẹp của
người giàu có, trong truyện Cậu bé và con chấy. Truyện kể về một cậu bé mồ côi,
gia đình nghèo khó, sau khi chữa bệnh cho cô gái xinh đẹp con nhà giàu, anh
chàng mồ côi lấy cô ta làm vợ.
3.1.2. Một số nội dung cơ bản
3.1.2.1. Miêu tả quá trình di dân của người Sán Dìu
67
Ngoài truyện kể về tình yêu nam nữ, trong truyê ̣n cổ tích sinh hoa ̣t về xã hội còn có truyện kể về quá trình di dân của người Sán Dìu, giải thích hồn nhiên về
hiện tượng người Sán Dìu sinh sống ở nhiều vùng khác nhau. Truyện Tại sao
người Sán Dìu sống ở nhiều nơi thể hiện rõ điều đó, người Sán Dìu ban đầu sinh
sống ở bên Trung Quốc, sau do loạn lạc đã chạy sang nước ta. Người đi trước đặt
cành cây theo hướng mình đã đi để người theo sau đi về hướng ấy thì sẽ gặp nhau,
nhưng không may cành cây bị đàn lợn rừng chạy qua làm lạc hướng người theo
sau. Vì thế, một bộ phận người Sán Dìu đi đúng đường lên sinh sống ở miền núi,
một số đến sau đi sai đường xuống cư trú ở đồng bằng, lâu dần trở thành người
Kinh.
3.1.2.2. Nhận thức về tự nhiên, xã hội và con người
Truyện Hai người con của nàng tiên có cốt truyện gần gũi, truyện kể về một
gia đình nghèo khổ, khi người vợ có chửa đã nói với chồng mình thèm ăn mộc nhĩ.
Nhưng người chồng bị điếc nên hiểu là vợ muốn ăn tai nai. Người đàn ông đã giết
chết hết nai đực, để cắt lấy hai cái tai cho vợ ăn. Anh ta bị nai cái kiện, bắt phải đi
làm nai đực. Nhưng khi trở về nhà, anh ta rất hôi hám. Đến con chó vàng nuôi
trong nhà cũng nhận ra mùi hôi của nai nên đuổi cắn. Từ đó, anh ta bỏ chạy lên
rừng, ở lâu ngày quá, đầu anh ta mọc sừng và biến thành nai.
Người con đi tìm cha về, nhưng cha không về được. Anh ta được cha cho
đôi sừng đem về. Nghe lời cha, anh ta kéo đôi sừng nai về không may mắc phải
nhà của người đàn bà góa. Anh ta bảo bà góa chạy bà góa không chạy, anh ta bèn
làm nhà khác cho bà ta còn mình ở lại chỗ bà góa. Anh ta cấy lúa, đến mùa gặt anh
ta gặt xong lúa lại trổ bông. Chi tiết này cũng thể hiện ước mơ của người Sán Dìu
về một cuộc sống no đủ. Đặc biệt trong lao động sản xuất, người và trời luôn có
mối quan hệ gần gũi. Không gặt kịp anh ta kêu trời nhờ giúp đỡ, điều này cho thấy
khi gặp khó khăn, người dân tộc Sán Dìu luôn mong muốn có lực lượng siêu nhiên
giúp đỡ, cụ thể trong truyện đó là Ngọc Hoàng đã sai các nàng tiên xuống trần gian
gặt giúp.
68
Anh ta đem giấu đôi cánh của một nàng tiên đi. Về sau, anh ta lấy được
nàng tiên làm vợ và có hai người con trai. Đến khi người vợ lấy lại được đôi cánh
trở về thiên đình. Hai người con ở cùng bố nghịch quá nên bị người bố cầm chổi
đánh, đứa con kêu khóc, người mẹ đã thả cầu vồng xuống đón. Cách giải thích
hiện tượng cầu vồng của người Sán Dìu tự nhiên, đó là cầu nối giữa nhà trời và
trần gian. Các con của nàng tiên nhờ cầu vồng cũng lên được thiên đình, còn người
bố bị ngã xuống chết.
Hai người con của nàng tiên trở về trần gian, chiến đấu với bà hùm rồi thoát
nạn. Cuối cùng, người em lấy được cô gái xinh đẹp, còn người anh lấy được cô gái
bị mối ăn mất một bên mặt.
Trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Sán Dìu có cả yếu tố của truyện cổ
tích loài vật và truyện cổ tích sinh hoạt, tuy nhiên yếu tố thần kỳ đậm đặc và nổi
trội trong các tình tiết của truyện. Qua các nhân vật thần kỳ đã cho thấy trí tưởng
tượng bay bổng của người dân về thế giới trần gian, thế giới thiên đình, thế giới
loài vật và thế giới của con người, tất cả thế giới xa lạ đang ngày càng xích lại gần
nhau hơn. Điều này đã biểu hiện quá trình phát triển tư duy của người dân trong
nhận thức về tự nhiên, xã hội và con người.
3.1.2.3. Phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người
Truyê ̣n cổ tích về mố i quan hê ̣ gia đình như cha me ̣ - con cái trong truyê ̣n Người con nuôi có hiếu (dân tộc Sán Dìu huyện Phú Lương) kể rằng: có hai vợ
chồng nhà kia rất giàu có, sinh được chín người con trai giàu có nhưng không quan
tâm đến cha mẹ, còn người con nuôi nghèo khó lại rất có hiếu. Trước khi qua đời,
hai bà đã để lại cho người con nuôi rất nhiều của cải.
Câu chuyện kể về việc đối nhân xử thế trong gia đình giữa con đối với cha
mẹ đã nêu lên đạo đức làm người, người con nuôi có hiếu được cha mẹ quý mến
và đền đáp cho hưởng tài sản để lại. Còn những người con đẻ tuy giàu có nhưng
bất hiếu thì không được của cải gì. Ở đây hai tuyến nhân vật được phân biệt rạch
ròi, đối lập là nhân vật đức hạnh với hình ảnh người con nuôi hiếu thảo và nhân
69
vật xấu xa mà đại diện là 9 người con đẻ bất hiếu của hai ông bà. Tuy câu chuyện
chỉ diễn ra trong phạm vi một gia đình nhưng lại đặt ra vấn đề đạo đức của con
người đối với cha mẹ trong xã hội.
Truyện Người con nuôi có hiếu có dị bản khác (dân tộc Sán Dìu huyện
Đồng Hỷ), người con nuôi thấy cha mẹ già ốm đau, ơn dưỡng dục anh luôn ghi
nhớ trong lòng, anh luôn đau đáu có thể trả được công ơn cha mẹ. Nhưng gia cảnh
của anh ta quá nghèo khó, lúc cha mẹ ốm anh ta mang cháo củ mài đến mời cha
mẹ, dọc đường đi thấy cây khế ngọt anh ta hái mang biếu cha mẹ. Món ăn tuy đạm
bạc nhưng mát lòng của người làm cha làm mẹ. Trong khi đó, những người con đẻ
mang nhiều thịt đến, họ có tấm lòng nhưng lại không hiểu tâm lý người ốm, họ
mang thịt đến nhưng cha mẹ không ăn. Để công bằng, hai ông bà sai các con về
làm chuồng trâu trên một bãi đất trống, cậy nhà giàu hơn những người con đẻ làm
chuồng trâu bằng gỗ tốt. Người con nuôi vì nhà nghèo, anh ta vào rừng chặt tre để
làm chuồng trâu. Một thời gian sau hai ông bà già cho đuổi đàn trâu ra bãi đất
trống, trâu về chuồng nhà ai thì người con đó được. Chuồng trâu của người con
nuôi do tre cắm xuống đất nên mọc mầm xanh tốt, trâu lao đến chuồng của người
con nuôi. Nhờ có tấm lòng với cha mẹ già, người con nuôi được phần thưởng xứng
đáng.
Truyện cũng đề cập mối quan hệ giữa cha mẹ và con rể, gần với quan niệm
của người Việt “dâu con, rể khách”, khi cha mẹ muốn để lại tài sản cho con rể thì
do nhầm lẫn trong cách viết, cách hiểu nên câu “tài sản tôi để lại cho con rể, người
ngoài cấm xâm phạm” được hiểu thành câu “tài sản tôi để lại cho con, rể người
ngoài cấm xâm phạm”. Truyện kể đó là sự nhầm lẫn, nhưng trên thực tế đây là
cách giải thích hồn nhiên về quan niệm của người Sán Dìu, thông thường tài sản
của cha mẹ thường được truyền lại cho những người con trai. Và người con trai có
đạo đức tốt là người được thừa kế tài sản cha mẹ để lại.
Bên cạnh việc đề cập đến mối quan hệ cha mẹ - con cái, trong truyện cổ tích
Sán Dìu còn có truyện kể về mố i quan hê ̣ anh - em trong gia đình, như trong
truyê ̣n Người anh tham lam. Câu chuyện kể về một người anh cả có bao nhiêu của
70
cải cha mẹ để lại đều lấy hết, chỉ cho người em mỗi một con mèo. Người em phải
mang con mèo đi cày thì va phải hòn đá, hòn đá há miệng ra, bên trong có rất
nhiều vàng bạc châu báu. Người em lấy một cái túi ba gang ra đựng, mang về. Từ
đó anh ta trở thành người giàu có nhất trong vùng. Người anh tham lam cũng bắt
chước em, nhưng anh ta may sẵn một chiếc túi mười gang để mang đi đựng vàng
bạc châu báu. Anh ta bốc mãi vẫn chưa đầy túi thì bỗng nhiên hòn đá ngậm chặt
lại và ngậm luôn cả bàn tay của anh ta, ba năm sau đá mới há ra, người anh mới rút
tay ra được.
Truyện cổ tích Người anh tham lam đã đề cập đến mối quan hệ anh em ruột
trong gia đình và đã nhấn mạnh đến sự bất công trong xã hội, đó là việc người anh
cả luôn là người được hưởng rất nhiều tài sản của cha mẹ để lại, còn người em thì
ngược lại, không được hưởng chút tài sản nào. Điều này đã phản ánh một thời kì
phát triển của xã hội, sự bất công trong cuộc sống gia đình, người con trưởng có
vai trò quan trọng, đó là người sẽ thừa hưởng gia tài và duy trì sự phát triển của
dòng họ và gia đình.
Đồng bào Sán Dìu không chỉ quan tâm đến mối quan hệ giữa cha mẹ và con
cái, giữa anh và em, mà còn quan tâm đến mối quan hệ vợ chồng trong truyện cổ
tích. Chàng Mạ Sìn cha mẹ giàu có nhưng lấy được người vợ ăn chơi trác táng nên
phá sản. Sau đó, cô ta bỏ đi lấy chồng khác, nhưng tính tình vẫn không thay đổi.
Cô ta làm phá sản nhà chồng mới, sau đó tìm về làng Mạ Sìn ở. Trong khi đó, Mạ
Sìn chăm chỉ học tập đỗ đạt và được ra làm quan. Người vợ muốn nối lại với Mạ
Sìn nên chờ sẵn ở nhà cũ khi biết tin Mạ Sìn vinh quy bái tổ về làng. Mạ Sìn ra
điều kiện cho vợ cũ nếu muốn ở lại, hỏi trời thì trời ở xa, hỏi người thì muôn
người, mỗi người một ý, chi bằng hỏi con vật. Khi hất chậu nước vào con ngựa,
con ngựa lắc đầu, người vợ xấu hổ tự tử chết.
Trong quan niệm của người Sán Dìu đề cao tư tưởng Nho giáo, trong đó có
tứ đức mà người phụ nữ cần có: công, dung, ngôn, hạnh. Kết thúc câu chuyện,
người vợ tự tử chết, đó là bi kịch của người vợ ăn chơi trác táng, không giữ được
đạo đức tốt đẹp của người phụ nữ.
71
Cùng mối quan hệ vợ chồng, trong truyện Mòn Lồng, chàng Mòn Lồng ra
trận, vợ Mòn Lồng ở nhà qua lại với nhà sư. Khi Mòn Lồng trở về, chàng mang
quân vào rừng giấu, đóng giả người ăn xin vào xin chính ngôi nhà của mình,
chứng kiến cảnh vợ mình ngoại tình khi chàng vắng nhà. Hôm sau, chàng trở lại
nhà không phải là người ăn xin mà là tướng quân. Chàng hỏi vợ lúc mình vắng nhà
có làm việc gì sai không. Rồi chàng nhắc lại câu chuyện người ăn xin hôm trước,
người vợ quỳ lạy xin tha thứ. Mòn Lồng cho vợ lựa chọn viết giấy từ hôn hoặc chỉ
có thể làm vợ lẽ, người vợ không đồng ý. Truyện đã phản ánh quan niệm của
người Sán Dìu, trong gia đình đã là vợ cả thì không thể ngược đời hay tự ý thay
đổi xuống làm vợ lẽ. Người vợ trong gia đình không thể viết giấy từ hôn dù có vi
phạm đạo đức, tư tưởng “trọng nam khinh nữ” ăn sâu vào tư tưởng của người Sán
Dìu, chỉ người chồng mới có quyền từ hôn. Người vợ xấu hổ tự tử chết.
Chiến tranh làm vợ chồng phải chia lìa, chàng cũng tự trách giận mình
không thể tha thứ cho vợ dẫn đến bi kịch cho vợ, gia đình tan nát. Mòn Lồng đem
quân trả lại triều đình, đau khổ bỏ vào vùng núi sống, sau này không ai rõ.
Mối quan hệ giữa con người với con người đó là mối quan tâm từ ngàn đời
của con người, đề cao đạo đức phong kiến, con cái hiếu thảo với cha mẹ, người em
trong gia đình luôn phải chịu những thiệt thòi, người vợ trong gia đình cần giữ
được tiết hạnh. Trong những mối quan hệ đó, truyện cổ tích Sán Dìu cũng lên án
chiến tranh phong kiến, phê phán tư tưởng trọng nam khinh nữ.
3.1.2.4. Giải thích nguồn gốc, đặc điểm, tính cách của các con vật
Cách giải thích các hiện tượng tự nhiên của loài vật trong truyện cổ tích về
loài vật của người Sán Dìu còn ngây thơ, hồn nhiên nhưng lại chứa đựng trí tưởng
tượng phong phú. Trong truyện Sự tích tiếng kêu chim ca ca và vọt chót kể về việc
hai con chim đổi chỗ ở cho nhau, con chim ca ca ở sâu trên núi cao, còn con chim
vọt chót ở trong một khu rừng phía ngoài. Một hôm, hai con chim đi kiếm ăn,
chúng gặp nhau, con nào cũng khoe chỗ mình ở đông vui, rất đẹp và có nhiều thức
ăn ngon. Sau một hồi trò chuyện, hai con chim đồng ý đổi chỗ ở cho nhau. Sau khi
72
đổi, con vọt chót vào trong núi sâu thì kiếm được rất nhiều thức ăn, nên nó cứ kêu
“miếng sào, miếng giăng” để trêu con ca ca. Còn con ca ca thì tiếc của vì đã bị hớ
nên hễ thấy con vọt chót kêu thì nó lại kêu rằng “tiếc, tiếc, tiếc cư, tiếc cư nhà ta”
để giãi bày sự tiếc nuối của mình. Trong truyện Hổ và cóc, họ còn giải thích việc
con hổ chỉ đi bên cạnh đường do sợ dẫm phải con cóc họ, bởi xưa kia con hổ cậy
mạnh đã phải chịu thua mưu trí của cóc và được cóc tha mạng, nên hễ thấy cóc đâu
là phải tránh mặt nên không dám đi ra giữa đường.
Có thể nói, bằng cảm quan của mình, người Sán Dìu đã có những suy nghĩ
bay bổng về hình tượng các loài vật sống gần gũi với con người. Họ đã giải thích
những đặc tính quen thuộc của con vật thông qua các mối quan hệ giữa các con vật
ấy. Đó là một cách biểu hiện suy nghĩ và mong muốn khám phá thế giới tự nhiên
bằng trí tưở ng tượng củ a con người.
3.1.2.5. Thể hiện những quan điểm đạo đức và ước mơ về công lý xã hội
Trong truyện cổ tích loài vật của dân tộc Sán Dìu, nhân vật chính là các con
vật, đó là con chim, con khỉ, con cóc, con cọp, con trâu… Bên cạnh việc giải thích
nguồn gốc, đặc điểm, tính cách của các con vật, còn gián tiếp phản ánh mối quan
hệ giữa con người và con người. Nhân vật là con người trong truyện cổ tích loài
vật giữ vai trò là nhân vật phụ, còn nhân vật là các con vật không chịu sự chi phối
của con người. Trong các truyện kể về các con vật và con người thì trí tuệ và sức
mạnh của con người được đề cao hơn so với con vật; trong các cuộc đấu trí giữa
nhân vật là con người và nhân vật là con vật như trong truyện Trâu và hổ thì nhân
vật là con người tuy nhỏ bé nhưng luôn giành phần thắng và chinh phục được con
vật.
Trong tâm thứ c củ a dân gian, ngườ i dân luôn đứ ng về phía nhân vật thấp hèn, nhỏ bé, họ bênh vực và mong muốn thay đổi số phận của các nhân vật này. Hình tươ ̣ng người em út nghèo khó bỗng có được rất nhiều của cải, châu báu; còn người anh tham có được rất nhiều của cải nhưng rồi lại bị trừng phạt bởi chính
73
lòng tham của mình trong truyện Người anh tham lam đã nó i lên đươ ̣c tâm lý từ xa
xưa của người dân.
Truyện cổ tích sinh hoạt Sán Dìu thường phản ánh những vấn đề của cuộc
sống ấy trong xã hội phân chia giai cấp, xã hội mà chứa đựng trong đó cả những
bất công và ngang trái,... Qua các câu chuyện khác nhau đã biểu hiện được tâm lý
tập thể, tâm lý phổ biến và nguyện vọng chung của nhân dân hướng đến một cuộc
sống tốt đẹp hơn, một cuộc sống mà những người dân nghèo khổ, hiền lành, tốt
bụng sẽ được hưởng hạnh phúc, còn những kẻ tham lam, độc ác sẽ bị trừng phạt.
3.1.3. Một số đặc điểm nghệ thuật tiêu biểu
3.1.3.1. Nghệ thuật tạo dựng cốt truyện
Cốt truyện là một bộ phận có tính chất đặc trưng và là bộ phận quan trọng
hàng đầu trong các tác phẩm thuộc loại hình tự sự. Theo Từ điển thuật ngữ văn
học (2009), cốt truyện là “hệ thống sự kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu cầu tư
tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong
hình thức động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và kịch” [24, tr.99].
Cốt truyện là phương tiện nhà văn tái hiện các xung đột xã hội, là phương diện để
nhân vật bộc lộ tính cách. Cốt truyện trong văn học dân gian và văn học viết có
nét tương đồng nhưng không trùng khít. Trong văn học viết cốt truyện có vai trò
thứ yếu còn cốt truyện trong văn học dân gian là bộ phận phát triển nhất (hay nói
là quan trọng nhất). Theo nhà nghiên cứu Tăng Kim Ngân, “cốt truyện là một thể
tổng hợp các hành động, sự kiện, phát triển một cách cụ thể trong quá trình diễn
tiến của truyện kể (…) có quan hệ mật thiết với thời gian (…) tổ chức theo trình
tự thời gian một chiều, trong một không gian khép kín” [46, tr.28, 29].
Truyện cổ tích của dân tộc Sán Dìu bao giờ cũng được kể theo thời gian
tuyến tính, sự kiện nào xảy ra trước kể trước, sự kiện nào xảy ra sau kể sau. Nhìn
chung, truyện cổ tích của dân tộc Sán Dìu có cốt truyện không phức tạp, cầu kỳ
mà đơn giản được tạo nên bởi một số ít sự kiện diễn ra qua thử thách, xung đột
được giải quyết, câu chuyện sẽ dừng lại.
74
Truyện cổ tích của dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên cũng đã phản ánh
những đặc trưng riêng trong sinh hoạt văn hóa của dân tộc mình, biểu hiện cách
nhìn hiện thực của nhân dân, nói lên những quan điểm đạo đức, những quan niệm
về công lý xã hội và ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn cuộc sống hiện tại.
3.1.3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Theo Từ điển thuật ngữ văn học (2009), nhân vật văn học là “con người cụ
thể được miêu tả trong tác phẩm văn học” [24, tr.235]. Nhân vật truyện cổ tích
thuộc kiểu nhân vật chức năng, có đặc điểm, phẩm chất cố định, không thay đổi
từ đầu đến cuối truyện, thường không có đời sống nội tâm. Như vậy, nhân vật
văn học cũng như nhân vật trong tác phẩm tự sự là một đơn vị nghệ thuật mang
tính ước lệ. Nhân vật được xây dựng để phản ánh hiện thực khách quan và thể
hiện quan niệm nghệ thuật, lý tưởng thẩm mĩ của tác giả về con người.
Trong truyện cổ tích loài vật của dân tộc Sán Dìu, nhân vật chính là các con
vật, đó là con chim, con khỉ, con cóc, con cọp, con trâu…Bên cạnh việc giải thích
nguồn gốc, đặc điểm, tính cách của các con vật, còn gián tiếp phản ánh mối quan
hệ giữa con người và con người. Nhân vật là con người trong truyện cổ tích loài
vật giữ vai trò là nhân vật phụ, còn nhân vật là các con vật không chịu sự chi phối
của con người. Trong các truyện kể về các con vật và con người thì trí tuệ và sức
mạnh của con người được đề cao hơn so với con vật; trong các cuộc đấu trí giữa
nhân vật là con người và nhân vật là con vật như trong truyện Trâu và hổ thì nhân
vật là con người tuy nhỏ bé nhưng luôn giành phần thắng và chinh phục được con
vật.
Sự xuất hiện yếu tố thần kỳ trong truyện Hai người con của nàng tiên đáp
ứng nhu cầu tâm lý của con người, hình tượng chiếc sừng nai dừng lại ở đâu sẽ
mang đến điều tốt đẹp ở đó, chiếc kim thần biết nói, chiếc gậy một đầu sống một
đầu chết… là những yếu tố thần kỳ với tư cách là “nhân vật đặc biệt” của trong
truyện cổ tích thần kỳ, đóng vai trò thúc đẩy cho câu chuyện phát triển. Bên cạnh
đó, các nhân vật thần kỳ như nàng tiên, Ngọc Hoàng, bà hùm… đã hướng đến giải
75
quyết một vấn đề nào đó trong nội dung cốt truyện góp phần tạo nên “thế giới
truyện cổ tích” sinh động.
3.1.3.3. Các mô típ tiêu biểu
Mô típ là “những thành tố, những bộ phận lớn nhỏ đã được hình thành ổn
định bền vững và được sử dụng nhiều lần trong sáng tác văn học nghệ thuật,
nhất là trong văn học nghệ thuật dân gian” [24, tr.197]. Theo nhà nghiên cứu
Nguyễn Tấn Đắc: “Mô típ là thuật ngữ chỉ bất kỳ một phần nào mà ở một tiết
của folklore có thể phân tích ra được… Mô típ là những thành tố nhỏ của truyện,
thường có thể tách rời được, có thể lắp ghép được, ít nhiều khác lạ bất thường,
đặc biệt là những yếu tố đặc trưng của truyện cổ dân gian”. [18, tr.27] Sử dụng
kết quả nghiên cứu này, chúng tôi sẽ phân tích một số mô típ tiêu biểu trong
truyện cổ tích của dân tộc Sán Dìu.
* Mô típ 1: Mô típ xuất thân nghèo khổ của nhân vật
Đây là một trong những mô típ tiêu biểu của cổ tích thần kỳ. Có thể kể ra
hàng loạt truyện cổ tích thần kỳ chứa mô típ này trong kho tàng truyện kể dân
gian: Nàng Kháy (Tày), Chiếc áo lông chim (Nùng), Hổ, gấu và lợn rừng (Giáy),
Không trâu bắt mèo bừa ruộng (Việt),… nhân vật không phải là người có địa vị,
danh vọng mà chỉ là những người lao động bình thường, nghèo khổ, thậm chí ở
dưới đáy của xã hội như người mồ côi, người em út, người con riêng, kẻ đi ở phải
chịu biết bao đau khổ, tủi cực.
Trong truyện cổ tích dân tộc Sán Dìu mô típ này xuất hiện, các nhân vật:
Một anh chàng “nhà nghèo, mồ côi cha mẹ” (Yêu nhau bốc bả giần sàng), một cậu
bé “mồ côi, nghèo khổ” (Cậu bé và con chấy).
Trong truyện cổ tích “Hổ, Gấu và Lợn rừng” của dân tộc Giáy kể: “có hai
anh em trai mồ côi cha mẹ từ lúc còn nhỏ bé, ngày ngày dắt nhau lên rừng đào củ,
hái quả, xuống suối bắt cá nuôi nhau”, truyện “Nàng Kháy” của dân tộc Tày cũng
kể: “Ở làng kia có một trẻ mồ côi tên là Hoa Long, ngày ngày phải đi làm thuê cho
thổ ty kiếm miếng ăn. Đêm đến Hoa Long lại về nghỉ ở túp lều tranh nhỏ bé, bé
76
hơn cả cái tầu ngựa nhà thổ ty. Hoa Long nghèo, chẳng có vật gì đáng giá tiền”.
Hoặc truyện “Không trâu bắt mèo bừa ruộng” của dân tộc Việt kể: “Ngày xưa có
một anh nông dân nghèo, cha mẹ mất sớm, chỉ để lại cho có một thuở ruộng cằn
gần vách đá và một con mèo đen”.
Các nhân vật trên đều có điểm tương đồng ở chỗ, dù cha mất sớm, mẹ góa
con côi, mồ côi hay bố mẹ còn nhưng đã già, họ đều là những người lao động bình
thường, nghèo khổ, có lòng nhân ái. Sự xuất hiện của những nhân vật này ngay từ
đầu cốt truyện với lai lịch nghèo khổ phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội sự phân
hóa giàu nghèo, phân chia giai cấp đang diễn ra gay gắt. Kiếp sống của những con
người này không phải kiếp sống của riêng một cá nhân mà là kiếp sống chung của
số đông người lao động nghèo khổ trong xã hội. Mô típ này còn có ý nghĩa tô đậm,
tôn vinh vẻ đẹp của người lao động. Dù nghèo, dù mang thân phận là những kẻ “áo
ngắn” nhưng họ lại là những người hội tụ đầy đủ vẻ đẹp và phẩm chất của người
dân lao động, thông minh, chính trực, biết yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau, giàu ước
mơ,… Họ trở thành đại diện tiêu biểu cho số phận và vẻ đẹp tâm hồn của nhân
dân. Kết thúc truyện, một số nhận được phần thưởng xứng đáng như anh chàng
nhà nghèo trong truyện cổ tích của dân tộc Sán Dìu đỗ Trạng nguyên và lấy cô gái
đã giúp mình ăn học làm vợ (Yêu nhau bốc bả giần sàng). Cậu bé mồ côi nghèo
khổ sau này lấy được cô gái xinh đẹp, con nhà giàu (Cậu bé và con chấy).
* Mô típ 2: Mô típ trừ ng phạt
Song song vớ i mô típ xuất thân nghèo khổ của nhân vật là mô típ về sự trừng phạt. Đây cũng là minh chứ ng rõ nét cho quan điểm củ a nhân dân xưa về lẽ
“ở ác gặp ác”, “gieo nhân nào gă ̣p quả nấy”… Trong truyê ̣n Người anh tham lam,
người anh vì tham lam may túi mười gang thay vì túi ba gang nên khi hòn đá há
miệng ra thấy bên trong toàn vàng bạc châu báu cứ bốc mãi để mang về bỗng hòn
đá ngậm chặt lại, ngậm luôn cả bàn tay anh ta. Và ở trong truyê ̣n cổ tích Mòn Lồng người vợ lừa dối chồng của mình khi chồng vắng nhà đã gian díu với nhà sư
đã bi ̣ trả giá bằng ma ̣ng sống củ a mình vì xấu hổ.
77
* Mô típ 3: Mô típ nhân vật đổi đời
Đây là mô típ mà ta có thể dễ dàng bắt gặp trong hầu hết những câu chuyện
cổ tích của người Kinh nói chung và của người dân tộc Sán Dìu nói riêng mà kết
thúc có hậu. Chàng trai trong câu chuyện Cậu bé và con chấy, nhờ có sự thông
minh mà từ một chàng trai mồ côi nghèo khổ, anh lấy được cô con gái nhà giàu
xinh đẹp và hưởng hạnh phúc trọn đời. Sự đổi đời trong truyện cổ tích này giống
trong nhiều câu chuyện khác là nhân vật sau những vất vả, khó khăn đã được
hưởng hạnh phúc viên mãn như Người con nuôi có hiếu ... Qua những truyện này,
tác giả dân gian đã thể hiện khát vọng muôn đời về lẽ công bằng, về mong ước “ở
hiền gặp lành, ở ác gặp ác”. Và đối với nhân dân, các nhân vật ấy dù được hưởng
hạnh phúc có “quá” so với thực tế và công sức thì điều đó vẫn là xứng đáng vì sự
chăm chỉ, lò ng tố t mà họ bỏ ra.
Truyện cổ tích Sán Dìu mà chúng tôi sưu tầm được với số lượng không phải
là nhiều nhưng nó đã phản ánh được những nét chung phổ biến trong truyện cổ
tích Việt Nam và trên thế giới qua các tiểu truyện, các chủ đề khác nhau. Đồ ng
thờ i, truyện cổ tích Sán Dìu cũng đã phản ánh những đặc trưng riêng trong sinh
hoạt văn hóa của dân tộc mình, biểu hiện cách nhìn hiện thực của nhân dân, nói lên
những quan điểm đạo đức, những quan niệm về công lý xã hội và ước mơ về một
cuộc sống tốt đẹp hơn cuộc sống hiện tại.
3.2 Hát Soọng Cô
3.2.1. Các dạng thức hát Soọng Cô
3.2.1.1. Chia theo tiêu chí thời gian
Dựa vào tiêu chí thời gian, người ta chia hát Soọng Cô thành hát Soọng cô
ban ngày và hát Soọng Cô ban đêm, hát Soọng Cô từ chiều qua đêm.
* Hát Soọng Cô ban ngày: là những bài hát ru, hát gọi, hát trong hội xuân, hát
trong lao động sinh hoạt, hát mừng nhà mới và chủ yếu là hát ở ngoài trời với
những đề tài vô cùng phong phú và hấp dẫn như đề tài về thiên nhiên, bản làng; đề
tài về xã hội, con người. Những bài hát ru ban ngày khi cha mẹ đi làm vắng:
78
“Ềnh ếnh ênh ếnh/ Ềnh ếnh ênh ếnh/ Ềnh ếnh bồng/ Ếnh thoi ngoi mói hị tà lồng”
(À á ời… à á ơi/ Em ơi em cứ ngủ ngoan/ Mai ngày em lớn đi thăm ruộng
đồng).[50]
Những lời ru là nguồn cảm hứng vô tận, thu hút những làn điệu nhẹ nhàng
trong tâm hồn, những em bé này lớn lên từng này, những giấc ngủ ngon đã trở
thành một động lực để cha mẹ có thể lao động để nuôi dưỡng những người con của
mình. Với người Sán Dìu hát ru như một ký ức tuổi thơ mà không ai có thể quên
trong ký ức của mình, qua lời ru của bà, của chị, hình ảnh cánh đồng, lũy tre làng
nó đã được in sâu vào tâm hồn trẻ thơ. Bằng những lời ru êm ả tha thiết của bà,
của mẹ đã gieo vào tâm thức tuổi thơ những ký ức và hình ảnh tốt lành về lòng
nhân ái, đạo lý làm người, tình yêu quê hương, đất nước. Nghệ thuật hát ru và
những bài hát ru không chỉ là di sản văn hóa mà còn là nguồn mạch quan trọng, có
ý nghĩa nhân văn tiêu biểu của gia đình Việt Nam, là mạch nguồn của sự sống nuôi
dưỡng tâm hồn trẻ thơ, giáo dưỡng nhân cách hồn nhiên, trong sáng, trọng lẽ phải,
trọng đạo hiếu nghĩa cho trẻ từ khi lọt lòng: “Ềnh ếnh ênh ếnh/ Ếnh ếnh ếnh/ Ềnh
ếnh hụn/ Ếnh thoi mói hị là chụn/ Thệnh ti nu thói nhìn tá thét/ Thệnh ti nỉ thói
nhìn tá nghèn” (À á ời à á ơi/ À á ời à á ơi.../ Em ơi em cứ ngủ đi/ Mẹ còn đi cấy
biết khi nào về/ Còn bao công việc bộn bề/ Cha còn đi rẫy, giờ về còn lâu).[50]
Thương cha thương mẹ, trong khúc hát ru nhắn gửi cả tấm lòng yêu thương.
Ông bà ngoại cho em vòng tay, cho em áo đẹp nhưng em thời chẳng ưa. Thông
thường đối với con trẻ, áo đẹp hay đồ trang sức là đồ vật dễ dẫn dụ các em nín
khóc quên đi nỗi nhớ mẹ cha. Nhưng em bé trong khúc hát ru lại đòi “trâu cặp” để
đỡ đần mẹ cha thể hiện sự hóm hỉnh, chút bông đùa, cũng để nhắc nhở con trẻ
“trâu cặp” – tài sản lớn nhất trong gia đình người dân tộc Sán Dìu. Trâu cũng là
con vật gần gũi trong cuộc sống lao động của đồng bào Sán Dìu:
Tá táo nghèn sén bí mói tại
Tai thói háo cang then
Cang then lộ cốc lộ máy dếch
79
Cốc cốc máy máy chịn nghen sên
Ềnh ếnh ênh ênh
Chía công tá ác chấy
Dịch: Ông ngoại cho cái vòng tay
Bà ngoại áo đẹp em thời chẳng ưa
Em thương cha mẹ sớm trưa
Xin ngoại trâu cặp đỡ đần mẹ cha
Á à ời á à ơi.... À á ời à á ơi...[50]
Những lời ru như dòng suối mát ngọt ngào thấm đẫm vào tâm hồn trẻ thơ,
để em bé hiểu những khó khăn nhọc nhằn của cha mẹ trong công việc ruộng đồng,
nương rẫy “bộn bề”. “À á ời à á ơi - À á ời à á ơi”, lời ru nhẹ nhàng tha thiết, chứa
chan tình yêu thương. Mong muốn em hiểu nỗi nhọc nhằn của mẹ cha, cũng là
mong em khôn lớn, trưởng thành. Dỗ cho em nín khóc, dỗ cho em ngủ ngoan,
người hát đưa ra những vật trang sức “cho nhẫn, cho vòng” không phải để cho đẹp,
cho duyên mà cho “thỏa nhọc nhằn mẹ cha”: “Chía phố nem dam chấy/ Mói mạo
vị, mói vị ngòi nạ tại chay/ Hen… Ềnh ếnh ênh ếnh” (Ngủ đi cho nhẫn cho vòng/
Em đeo cho thỏa nhọc nhằn mẹ cha/ À á ời à á ơi/ À á ời à á ơi...) [50]
Hát ru góp phần rất lớn trong việc hình thành tính cách và bản lĩnh con
người, đây là một tài sản văn hóa quý, rất cần được lưu giữ để truyền lại cho đời
sau, nhằm góp phần khẳng định bản sắc dân tộc đậm đà của văn học dân gian Sán
Dìu ở Thái Nguyên.
* Hát Soọng Cô ban đêm: là những bài hát giao duyên được hát từ bảy giờ tối hôm
trước đến bảy giờ sáng hôm sau và được hát ở trong nhà bên ánh lửa bập bùng.
Bên nữ hát: “Lập lòe đom đóm bay đêm/ Tiếng kêu giun dế càng thêm nẫu lòng/
Nhà chàng chin khúc suối nông/ Có đồng hoa cúc đàn ong đến tìm”[59] Bên nam
đáp lại: “Cuối sông thác đổ ào ào/ Ong đi tìm nhụy bay vào bay ra/ Núi cao rừng
thẳm bay qua/ Sông và hoa chết cũng vì hoa chung tình”. Bên nữ tiếp tục: “Cùng
80
chàng trồng cỏ bấc đèn/ Nhưng chàng lại muốn trồng sen dưới hồ/ Búp sen mặt
nước mới nhô/ Chờ ngày chàng ngắm hoa nhô sắc màu”.[59]
* Hát Soọng cô từ chiều qua đêm
Sau mùa gặt hái - thời gian nông nhàn, từng tốp thanh niên đi hết làng trên,
xóm dưới để tìm đám hát, họ gọi những cuộc đi hát như vậy là đi chơi làng: Từ
chiều tối hát gọi, chập tối hát mời ngồi xuống chiếu, mời nước, mời trầu. Nửa đêm
là hát hỏi: hỏi về quê quán, gia sự, hát thăm dò tìm hiểu nghề nghiệp, ý nguyện của
nhau,… Canh ba chủ nhà mời ăn lót dạ xôi hoặc chè. Sau đó là hát chào, hát xin
về, hát níu giữ nhau. Sáng ra thì họ vừa tiễn nhau ra cổng vừa hát hẹn hò cuộc hát
tới. Từ những đêm hát này mà có biết bao đôi trai gái đã bén duyên nhau.
Bắt đầu buổi hát, thường họ sẽ dừng lại ở một nhà họ hàng của một thanh
niên trong đám chơi. Theo quan niệm của người Sán Dìu khi gia đình có khách tới
chơi sẽ gặp nhiều may mắn, chính vì vậy họ đón tiếp khách rất nhiệt tình. Sau bữa
cơm tối, chủ nhà sẽ đi mời các thanh niên trong làng mình đến hát. Trong thực tế,
thường không đợi chủ nhà mời, nghe trong làng có khách lạ đến chơi, để tỏ long
quý khách, mến người, họ đã muốn sang góp vui. Nhưng nề nếp trong gia đình
người Sán Dìu khá chặt chẽ, nên những thanh niên phải chờ chủ nhà sang xin phép
bố mẹ mới được đi hát.
Tuy nhiên, không phải cứ có đầy đủ thanh niên nam nữ là cuộc hát bắt đầu
ngay mà phải chờ bên khách chủ động buông lời mời hát tình tứ, ý nhị, mời gọi
bên chủ nhà ra hát đối đáp. Khi những lời mời gọi vang lên tha thiết, chủ nhà mới
bước ra nhận lời hát cùng, cuộc hát chính thức bắt đầu. Và cứ thế cuộc hát kéo dài
từ chiều hôm trước cho tới sáng hôm sau. Có những cuộc hát kéo dài tới bốn năm
đêm mà họ chưa nỡ rời nhau. Tình cảm của họ ẩn giấu trong những lời ca mượt
mà, sâu lắng, níu chân những khách lạ, khiến họ không nỡ dời đi.
Hát Soọng Cô thường là những câu hát giao duyên, trao gửi tâm tình của
những đôi trai gái, chính vì vậy, họ luôn tìm cách hát giữ chân bạn hát khéo léo.
Khi bên khách ngỏ ý ra về, bên chủ sẽ đặt một cành lá nhỏ ở bên đường, không
81
cho đối phương bước qua. Những chàng trai thấy các cô gái đặt cành lá nhỏ như
vậy, họ tiếp tục hát những lời tiễn biệt nồng nàn. Cành lá nhỏ ấy chính là biểu
tượng cho tình cảm nồng đậm, quyến luyến của bên chủ nhà. Không ai bước qua
cành lá nhỏ ấy, bởi nếu lỡ bước qua cành lá nhỏ ấy xem như họ bị loại khỏi môi
trường Soọng Cô mãi mãi.
Khi biết ba ̣n hát đến nhà, chủ nhà ban đầu thường tỏ ra thờ ơ và đă ̣t ra thách thức đối với ba ̣n hát của mình, đưa họ vào những tình huố ng phải suy nghĩ thâ ̣t kỹ mới có thể giải đáp đươ ̣c câu đố trong lờ i hát đó. Hát hay chưa đủ mà cò n phải thể hiện sự thông minh để các ba ̣n hát nể phu ̣c.
Trướ c khi chủ nhà đưa ra những lờ i hát đố, thườ ng là những lờ i giao kèo, nếu như không giải được câu đố thì buổ i hát dừng la ̣i ở đây, mờ i ba ̣n về để hôm khác có sự chuẩn bị tố t hơn thì sẽ hát. Đến nhà mà bi ̣ chủ nhà giao kèo như vâ ̣y là những thử thách đầu tiên mà các chàng trai, cô gái phải vươ ̣t qua, nếu không sẽ bi ̣ ba ̣n hát xem thườ ng. Chủ nhà thường đưa ra bài hát đố :
Mú t mọt cô
Con gì không xương, sống ở trong hang ?
Con gì không xương, sống ở vũng nướ c ?
Con gì không xương, sống ở trong nong ?
Con gì không xương, bay khắ p phương trờ i ?
Sau khi đưa ra bài hát, chủ nhà cho phép khách suy nghĩ tìm câu trả lờ i, sau đó bên khách cử ra mô ̣t đa ̣i diê ̣n lên hát đối lại và giao kèo rằng bên chủ nhà cũng
phải trả lời câu đố mà bên khách đưa ra: “Con giun không xương, sống ở trong
hang/ Con đỉa không xương, sống ở vũng nướ c/ Con tằ m không xương (con), ngườ i nuôi trong nong/ Con chuồn chuồn không xương, bay khắp phương
trờ i”.[50]
Những lờ i đố i đáp hết sứ c ma ̣ch la ̣c đã làm cho các bạn hát phải nể phu ̣c trong lò ng. Ho ̣ tỏ ra là ngườ i không chỉ giỏ i trong viê ̣c đố i đáp mà còn rất thông
82
minh khi đố la ̣i gia chủ: “Nơi nà o bằ ng phẳng, không mọc cỏ?/ Sừ ng con gì mọc dà i, không ra chãng?/ Sừ ng con gì có chãng mà lại không ra quả?/ Cây gì ra quả mà không ra hoa?”[50]
Cuộc hát đố i đáp tiếp tục diễn ra vớ i những lờ i thách đố của hai bên. Không giố ng như trong hát Quan Ho ̣, các liền anh, liền chị, mặc dù hát vớ i nhau nhưng
không bao giờ được lấy nhau, trong hát Soo ̣ng Cô, các chàng trai, cô gái, có thể mặc sức thông qua lờ i hát để ngỏ lời, cho ̣n ba ̣n tình, chọn bạn đời. Những tuần trà lần lượt ró t ra mời ba ̣n. Những câu hát vẫn nhe ̣ nhàng trầm lắng, làm cho con ngườ i quên đi cảm giác về thời gian.
Khi tiếng gà gáy báo hiệu mô ̣t ngày mớ i sắp bắt đầu, những tâm hồ n đang đắm chìm trong những điê ̣u hát Soọng Cô như chơ ̣t tỉnh giấc, nhiều đôi cảm thấy luyến tiếc rằng thời gian ngắn quá chưa đủ để nó i hết tâm sự trong lò ng. Những
câu hát giã từ cất lên, he ̣n mô ̣t đêm gần nhất để tiếp tu ̣c hát lên những làn điệu Soo ̣ng Cô: “Gà gá y chưa khắ p trờ i sắ p sáng/ Gà gá y sáng rồi sắ p chia tay,/ Bố me ̣, ông bà thì cò n được,/ Anh, em mình chia tay đứ t hết ruột gan.”[4]
Chủ nhà cũng đáp la ̣i với ý nghĩa: mới chỉ chia tay buổ i hát hôm nay thôi,
đâu có phải chia tay không gă ̣p la ̣i nữa nên an ủ i mà rằng:
Rừ ng sâu cây to cà nh mọc ngang.
Chim phượng bay đến không dám sang,
Chim phượng bay đến không dám đậu,
Lưu tâm chờ đợi đó n anh sang.[4]
Qua lời hát chia tay ta đã thấy ai đó đã chọn được người yêu: Lưu tâm chờ
đợi đón anh sang mà họ không nói thẳng ra rằng Em đã ưng anh rồi. Đây là cách
gián tiếp thể hiện một tiêu chuẩn khi chọn người yêu của thanh niên Sán Dìu:
thông minh, tinh tế, sâu sắc nhưng cũng rất nồng nàn.
Soọng Cô mang hồn nét riêng của người Sán Dìu với những nét văn hóa
riêng trong không gian, thời gian diễn xướng riêng. Đó là những tục lệ, những
83
hành động tinh tế giữa bên chủ và bên khách trong không khí trao đổi tâm tình
mặn mà, thắm được hồn người. Đến lúc phải chia tay, họ lưu luyến hẹn ngày gặp
lại bằng những câu hát tiễn gắn với sông núi, xóm làng,... Câu hát giữa người ở,
người về ngân dài hơn, lời hát lúc ngập ngừng, khi da diết như muốn níu chân
người lại. Người về như muốn nói, muốn hát thêm mội chút, sợ những lời đã nói,
đã hát chưa đủ làm bạn hiểu lòng mình, người ở lại thì như muốn mượn câu hát để
giữ chân bạn thêm chút nữa để tỏ bày nỗi nhớ: “Then cong bo/ Hoi lống vọng
choóc dịp xan thó/ Choóc chấy lý xan lý noi kẹo/ Lóng kim lý nỉ bác bôn
xói” (Trời sắp sáng/ Mở lồng thả chim bay vào núi/ Chim xa núi đêm ngày chim
hót/ Anh xa nàng anh nhớ không quên).[59]
3.2.1.2. Chia theo tiêu chí nội dung
Theo Từ điển thuật ngữ văn học (2009), dân ca là “một loại hình sáng tác
dân gian mang tính chất tổng hợp bao gồm lời nhạc, động tác, điệu bộ kết hợp
với nhau trong diễn xướng” [24, tr.105]. Nội dung chính của dân ca là phản ánh
đời sống nội tâm, tư tưởng, tình cảm của người bình dân. Các tác giả Lê Chí Quế,
Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ trong sách Văn học dân gian Việt Nam đã
phân loại dân ca thành 3 loại: dân ca gắn liền với nghi lễ phong tục, dân ca gắn
liền với các hoạt động lao động sản xuất và dân ca trữ tình sinh hoạt (trong đó có
dân ca giao duyên). Căn cứ vào sự phân loại trên, qua thực tế điền dã tại địa
phương, chúng tôi đã sưu tầm được 200 bài dân ca trữ tình sinh hoạt (chủ yếu là
dân ca giao duyên).
Nội dung của Soọng Cô rất phong phú, thể hiện sự đa dạng và độc đáo trong
văn nghệ dân gian của người Sán Dìu. Tùy từng hoàn cảnh cụ thể mà Soọng Cô đã
truyền tải những thông điệp văn hóa đến cho mọi người.
* Các bài bài hát Soọng Cô giao duyên
Những đêm hát giao duyên củ a các chàng trai cô gái Sán Dìu thườ ng diễn ra ở trong nhà, bên bờ suố i, hoă ̣c khu đất trố ng trướ c làng. Nếu hát trong nhà, đầu tiên khách phải xin phép gia chủ để được hát giao duyên. Khi đã được chủ nhà đồ ng ý,
84
các đôi trai gái sẽ đươ ̣c thỏ a sứ c trổ tài ca hát củ a mình và từ lúc đó bắt đầu cho một đêm hát giao duyên. Khi đã ưng nhau, các chàng trai, cô gái Sán Dìu có thể
tiếp tục cùng đoàn hoặc tách riêng ra để hát giao duyên. Hát giao duyên không chỉ
là phương tiện thể hiện tài năng của các đôi nam nữ mà còn là nơi gửi gắm và thể
hiện ước mơ, quan niệm về người bạn tình cũng như tình cảm của những người
đang tìm hiểu nhau. Do vậy, nội dung của hát giao duyên rất phong phú và đa
dạng, thể hiện sự tinh túy và sâu lắng trong đời sống tình cảm của người Sán Dìu.
Hát giao duyên thể hiê ̣n nỗi nhớ nhung củ a chàng trai, cô gái khi đang yêu Tó ong ló ong Cô (nhớ anh, nhớ nàng): “Nhớ anh lắ m lắ m anh ơi/ Nhớ đêm không ngủ nhớ ngà y không ăn/ Nhớ anh cơm chẳng buồn ăn/ Hai bên tay á o ướ t đầm như mưa”. [59, tr.25] Hay: “Nhớ nàng lăm lắm nàng ơi,/ Bao nhiêu nỗi nhớ
trong đời gửi ai?/ Ba mươi ngày một tháng dài,/ Một ngày lại nhớ mười hai giờ
liền”.[59, tr.25]
Đồng thời hát giao duyên cò n là những tiếng nó i củ a đôi trẻ khi yêu nhau nhưng bi ̣ các thế lực ngăn cấm “Nghe tiếng há t nhưng không sang được/ Cách sông cá ch núi há i hoa rất khó ”.[4] Nhưng không vì những khó khăn trở ngại mà
họ nản lòng. Câu hát Soọng Cô lại vang lên thể hiện ước mơ và sự tin tưở ng vào ha ̣nh phú c đôi lứ a: “Dướ i nướ c trôi đến một cây rau/ Nước trên chả y xuố ng một cây hà nh/ Anh là lợn và ng em là tiên/ Lợn và ng nàng tiên kết thà nh đôi”.[4]
Bên cạnh những lời tâm tình, than thở, những ước nguyện của đôi trai gái, hát
Soọng Cô còn thể hiện sự chủ đô ̣ng trong tình yêu củ a những chàng trai, cô gái Sán Dìu. Từ tình yêu, họ mơ ước tiến đến một cuộc hôn nhân hạnh phúc
Nam:
Rằ ng em nay mườ i tá m đôi mươi
Có lòng mờ i anh đi sang chơi.
Nữ:
Em đây tuổi mới độ hoa đà o
85
Mong anh tính em về là m dâu.[50]
Khi bạn hát đến nhà, chủ nhà thường đă ̣t ra những lời hát đố để thử thách sự
thông minh trong cách đối đáp của bạn hát, nếu như không giải đươ ̣c câu đố thì buổi hát dừ ng la ̣i, mờ i bạn về để hôm khác có sự chuẩn bi ̣ tố t hơn sẽ hát. Cuô ̣c hát đối đáp diễn ra vớ i những lời thách đố của hai bên. Những tuần trà lần lươ ̣t ró t ra mời bạn. Những câu hát vẫn nhe ̣ nhàng trầm lắng, làm cho con ngườ i quên đi cảm
giác về thờ i gian.
Hát giao duyên không chỉ là phương tiện thể hiện tài năng của các đôi nam
nữ mà còn là nơi gửi gắm và thể hiện ước mơ, quan niệm về người bạn tình cũng
như tình cảm của những người đang tìm hiểu nhau. Từ những đêm hát này mà có
biết bao đôi trai gái đã bén duyên và yêu nhau.
Bên cạnh những lời tâm tình, còn có những lời than thở, những ước nguyện
của đôi trai gái, hát Soọng Cô còn thể hiện sự chủ đô ̣ng trong tình yêu củ a những chàng trai, cô gái Sán Dìu. Từ tình yêu, họ mơ ước tiến đến một cuộc hôn nhân hạnh phúc: “Một trăm là thóc thu xong/ Cùng anh sống đến răng long bạc
đầu!”[59,tr.27]
* Các bài hát Soọng Cô đám cưới
Theo quan niê ̣m củ a ngườ i Sán Dìu thì đám cướ i có thể thiếu lơ ̣n, rươ ̣u nhưng không thể thiếu làn điệu Soo ̣ng Cô, vì đó là những nghi thứ c bắt buô ̣c trong lễ cướ i củ a họ. Những câu hát Soo ̣ng Cô đã làm cho đôi lứ a tìm thấy mô ̣t nử a ha ̣nh phú c củ a cuô ̣c đờ i mình.
Theo phong tục khi nhà trai đến rướ c dâu thì bên nhà gái mang những chiếc ghế để ở cửa ra vào cùng một ấm trà pha sẵn và mô ̣t vài miếng trầu đã têm với ngu ̣ ý là nhà trai phải hát đú ng những câu hát của nhà gái đưa ra thì mớ i được mờ i vào nhà. Soọng Cô trong đám cưới thường do các cặp nam giới đối đáp nhau, nhà trai
cử hai anh hát, nhà gái cũng cử hai anh. Hát suốt ngày suốt đêm cho đến khi tan tiệc
cưới.
Há t nghênh tiếp (Soọng Cô Lá n Xả)
86
Nhà gái hát: “Trong nhà có bà n ghế,/ Cũng có lá trầu cù ng vớ i cau/ Hôm nay
trong nhà có đá m cướ i/ Chi ̣ em ra đó n tiếp nhà trai”.[4]
Nhà trai đáp lại : “Có bà n có ghế ngá ng lối đi/ Trai mang lợn bé lối không
thong/ Cũng có trầu cau bổ là m bố n/ Chi ̣ em bỏ ghế đó n nhà trai”.[4]
Nhà trai cứ thế đáp lại lần lượt những câu hỏ i củ a nhà gái đưa ra, ho ̣ mờ i nhau uống nước, ăn trầu và khi nhà gái cảm thấy thỏ a mãn yêu cầu thì bỏ ghế để mờ i nhà trai vào nhà. Hát Nghênh tiếp thể hiện nghĩa tình của họ hàng hai bên nhà trai,
nhà gái, đồng thời kể ra những khó khăn, thử thách mà đôi trẻ đã từng trải qua. Từ
đó, nhắc nhở đôi trẻ biết trân trọng hạnh phúc, yêu thương, gắn bó trọn đời.
Há t Khai Hoa Tử u (Soọng Cô Hoi Va Chíu)
Sau khi được mời vào trong nhà, đa ̣i diện bên nhà trai xin phép họ hàng nhà gái làm lễ cú ng tổ tiên và đó n cô dâu về nhà. Lúc này, tại nhà gái diễn ra lễ Khai Hoa Tử u (Hoi Va Chíu) và những làn điệu Soọng Cô vang lên là những lờ i hát mừng và tạ ơn công lao củ a tổ tiên thể hiện sự kết giao của đôi bạn trẻ, trở thành
vợ chồng chính thức. Từ đây, nhà trai và nhà gái có mỗi quan hệ bền chặt, gắn bó,
là điểm tựa vững chắc cho đôi vợ chồng trẻ. Trong khi uống rượu, hai họ lại tiếp
tục hát đố. Sau khi xong lễ khai hoa tửu, nhà trai xin phép nhà gái đươ ̣c đó n dâu. Người con gái trướ c khi về nhà chồ ng thườ ng đươ ̣c me ̣ căn dă ̣n đa ̣o làm dâu.
Nhà gái hát:
Há t lên tiếng há t hỏi nhà trai
Tại sao có quả trứng thần tiên
Trứ ng thần tiên xâu hai sợi chỉ
Cũng nhớ ơn tổ tiên hai họ.
Nhà trai đáp rằng:
Cù ng tiếng hát Khai Hoa Tử u
Trứ ng thần tiên kết mối lương duyên
87
Hai sợi chỉ xuyên qua đôi trứ ng
Trình bền đe ̣p tổ tiên xe duyên.[4]
* Các bài bài hát Soọng Cô ru con
Hát ru là loại dân ca dùng để ru trẻ nhỏ. Những bài hát ru truyền cho trẻ nhỏ
tình cảm thắm thiết của người lớn với trẻ em qua những khúc hát êm ái, ngọt ngào.
Mỗi một dân tộc khác nhau lại có những bài hát ru khác nhau để thể hiện nét độc
đáo của dân tộc mình. Dân tộc Thái có bài “Ru em ngủ”: “Hỡi ru à hỡi ru/ Bé ơi
ngủ bé ngoan bé ơi/ Mẹ đi nương đến tối/ Mẹ đi cấy sẽ về/Phần một nắm xôi nếp/
Cho bé ăn nắm xôi thịt gà”
Dân tộc Mông có bài “Hát ru con” như sau: “Bé ơi đừng hờn dỗi!/ Để bé
lớn nhanh hơn/ Thành người hiểu lý lối,/ Đem hết sức làm mùa màng/ Bằng mọi
người lớn tốt đẹp”.
Dân tộc Sán Dìu có những lời hát êm êm qua giọng của bà, của mẹ về trẻ
con rất hay như bài:
Con gà con.
Con gà con cộc đuôi
Chị có câu hát không dạy em
Em có con cáo
Bắt con gà con của chị
Hay bài Con chim bồ câu: “Bồ câu non/ Con chim bố đến dỗ con khóc/ Hai
cánh vẫy vẫy/ Con chim mẹ đến mớm mồi cho con”. Đó là những bài hát ru mượt
mà, sâu lắng, thể hiện tình cảm và ước vọng của ông bà, cha mẹ đối với đứa con bé
bỏng của mình: “Ềnh ếnh ênh ếnh/ Ềnh ếnh ênh ếnh/ Ềnh ếnh bồng/ Ếnh thoi ngoi
mói hị tà lồng/ Ềnh ếnh ênh ếnh/ Ếnh ếnh ếnh/ Ềnh ếnh hụn/ Ếnh thoi mói hị là
chụn” (À á ời… à á ơi/ Em ơi em cứ ngủ ngoan/ Mai ngày em lớn đi thăm ruộng
đồng).[50]
88
Về tiết tấu, phần lớn theo diễn xướng tự do, tiết nhịp dàn trải, vừa nhịp
nhàng đẩy võng, đưa nôi thành một chuyển động chu kỳ có tính ngâm ngợi tâm
tình. Lời ru chậm dãi, lặp đi lặp lại nhiều lần, thư thái du dương để giúp trẻ dễ
chìm vào giấc ngủ. Qua lời ru, thấy được sự nhọc nhằn của cha của mẹ nuôi nấng
con cái nên người, đồng thời đó cũng là lời răn dạy, tình cảm của đứa con bé bỏng
với cha mẹ: “Thệnh ti nu thói nhìn tá thét/ Thệnh ti nỉ thói nhìn tá nghèn/ Tá táo
nghèn sén bí mói tại/ Tai thói háo cang then/ Cang then lộ cốc lộ máy dếch/ Cốc
cốc máy máy chịn nghen sên” ( À á ời à á ơi/ À á ời à á ơi.../ Em ơi em cứ ngủ đi/
Mẹ còn đi cấy biết khi nào về/ Còn bao công việc bộn bề).
Nội dung thường dùng những hình tượng mộc mạc của cuộc sống hàng ngày
của người phụ nữ dân tộc Sán Dìu ở miền núi nhưng chan chứa tình cảm gần gũi,
thân thương, gợi âm thanh ngọt ngào, trìu mến. Bài hát thường là do mẹ ru con, bà
ru cháu hoặc chị ru em. Loại hình dân ca này chiếm số nhỏ trong kho tàng dân ca
của người Sán Dìu.
* Các bài bài hát Soọng Cô lao động
Thường là những bài hát đươ ̣c cất lên trong những lú c lao đô ̣ng, thể hiê ̣n những tâm hồn đầy lãng ma ̣n. Chính môi trườ ng lao động là cái nôi sinh ra và nuôi dưỡng câu hát Soọng cô ngân nga bên những sườn đồi.
Giữa màu xanh ngút ngàn của đồi chè, những bài Soọng Cô lao động là lời
ca tiếng hát của đồng bào Sán Dìu thể hiện tinh thần lạc quan. Tìm hái chè chỉ là
cái cớ bởi tháng hai chè xuân mới nhú “lưa thưa”, cả chàng trai và cô gái Sán Dìu
cũng chưa vội về bởi còn “đứng ngắm”, “cầm tay này hỡi anh đưa em về”:
Hái chè (Sói sá)
Tháng hai tìm hái chè non
Vườn chè mầm nhú vẫn còn lưa thưa
Đến vườn đứng ngắm đến trưa
Cầm tay này hỡi anh đưa em về. [59]
89
Với làn điệu da diết, câu từ mộc mạc, giản dị, nội dung phong phú, Soọng
Cô góp phần khích lệ, động viên tinh thần người dân Sán Dìu trong cuộc sống, lao
động sản xuất. Soọng Cô có vai trò rất lớn trong việc đáp ứng nhu cầu giải trí của
người dân, góp phần gắn kết cộng đồng, là nơi để trao đổi tình cảm, phản ánh nét
đẹp văn hóa truyền thống của người dân Sán Dìu. Người Sán Dìu đề cao công việc
đồng áng, gần gũi với ruộng đồng trong Hát làm ruộng (Cang then cô): “Đi qua
muôn núi vạn rừng/ Trăm bề cực khổ qua từng gian nan/ Về nhà làm ruộng tuyệt
trần/ Nửa năm vất vả, an nhàn nửa năm”.[59]
Các làn điệu Soọng Cô mang màu sắc trữ tình nhẹ nhàng, duyên dáng, có
sức lôi cuốn mãnh liệt, gây xúc động lòng người. Thông qua các làn điệu soọng cô,
nhiều thông điệp về cuộc sống đã được truyền tải tới các thế hệ, phát huy được vốn
văn hóa truyền thống của dân tộc.
3.2.2. Một số nội dung cơ bản của hát Soọng Cô
3.2.2.1. Ca ngợi tình yêu quê hương, đất nước
Hình ảnh của quê hương, đất nước ngự trị trong tiếng hát, chan chứa tình
cảm, yêu mến, niềm tự hào của dân tộc. Nếu người Kinh khuyên răn con người
đoàn kết, yêu thương, gắn bó: “Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống
nhưng chung một giàn”. Truyền thống tốt đẹp ấy cũng là niềm tự hào trong lời
hát của người dân tộc Sán Dìu. Làng bản có “nhân hòa” thì mới ấm no, nhà
khang trang. Hình ảnh cây đa, bến nước, con đò không chỉ in dấu kỉ niệm trong
tiềm thức của người Kinh ở đồng bằng. Với người dân tộc Sán Dìu, đó là biểu
tượng của làng bản, cây đa rợp bóng là nơi hẹn hò, trao gửi tình cảm, cũng là thể
hiện lòng mến khách trong Hát chào làng (Hô son thoi): “Hát một bài ca mừng
xóm làng/ Nhân hòa cảnh đẹp nhà khang trang/ Làng anh có cây đa rợp bong/
Che mát cho em vào đến làng”.[59]
Yêu quê hương với những gì gần gũi với quê hương, làng bản mình. Yêu
quê hương là tự hào khung cảnh đẹp quê hương làng xóm:
Chào xuân mới (Sun cô)
90
Năm cũ qua rồi năm mới sang
Hoa đào hoa mận nở khắp làng
Hoa đào nở rộ hương thoang thoảng
Hoa mận nở rộ đón xuân sang.[59]
Lời bài hát mộc mạc, giản dị như chính tấm lòng của đồng bào Sán Dìu,
đồng thời cũng thể hiện ước mong về một cuộc sống no đủ trên quê hương.
3.2.2.2. Ca ngợi sức sáng tạo và tình yêu trong lao động
Nhìn chung, Soọng Cô có trong lao động sản xuất chiếm số lượng không
nhiều, chủ yếu đề cao lao động, phản ánh kinh nghiệm sản xuất của đồng bào,
cũng có bài ca phản ánh sự gắn bó giữa nhịp điệu lao động và cảm xúc con người
trong lao động như các bài hò của người Kinh. Hình thức diễn xướng chủ yếu là
hát đơn, hát đối đáp trong lúc nghỉ ngơi, trao đổi kinh nghiệm sản xuất.
Người Sán Dìu đã phải vật lộn chinh phục thiên nhiên khắc nghiệt để biến
đồi sỏi đất khô cằn thành ruộng đồng màu mỡ. Trong vất vả lam lũ ấy, tiếng hát
Soọng Cô vẫn vang lên xua đi nỗi nhọc nhằn. Trai gái Sán Dìu đến với nhau để
thổ lộ tâm tình không chỉ thông qua nhưng đêm hát mà họ còn hát với nhau ở tất
cả mọi nơi khi cùng lao động sản xuất, thể hiện niềm lạc quan, yêu đời, lời ca
tiếng hát giúp họ xua đi những mệt mỏi vất vả.
Thông qua việc hái chè, khái quát những hiện tượng thời tiết trong năm,
mùa xuân tiết trời ấm áp, cỏ cây đâm chồi nảy lộc: “Tháng giêng hái chè chưa có
chè/ Rừng đồi chè chưa nhú lộc non/ Vào tới rừng chè chưa nảy lộc non/ Ta mình
dắt tay quay trở về”.[4, tr.113] Để rồi đến tháng hai: “Tháng hai hái chè thời đúng
lúc/ Rừng, đồi chè nảy lộc non/ Bên này hái đi, bên kia đến/ Vui đùa, ca hát quên
mệt mỏi).[4,tr.113]
Mùa hè bước vào vụ gieo cấy, tháng mưa nhiều, nước từ đồng cao đổ
xuống ruộng thấp: “Tháng sáu hái chè lá đã vàng/ Ở ruộng đã có chàng trai cấy
cày/ Không đi hái chè, chè quá lứa/ Chẳng đi hái hoa, hoa cũng tàn”.[4, tr.114].
91
Mùa thu lá vàng rơi, búp chè cũng dần hết: “Tháng tám hái chè, gặp quả chè/ Hái
chè chẳng được dạ thêm sầu/ Trở về chè đã nảy lộc non/ Người trước hái chè
truyền đời sau”.[4, tr.114]
Mùa đông ngày nắng đêm sương đồng thời là mùa kết trái, gieo mầm mai
sau:
Tháng mười một hái chè, quả chin vàng
Quả chè thu về đến mấy là
Bốn là gánh đến chợ để bán
Còn lại năm là trồng rừng phía nam.[4, tr.115]
3.2.2.3. Đề cao đạo đức, lối sống
Tình cảm xóm làng, tinh thần đoàn kết luôn được người Sán Dìu trân trọng:
“Song théo sênh cô hô son thói/ Son thói son mỵ vạt nói nói/ Son thói báo tách
thai hu cụi/ Nhóng kim hỵ chọn tách lói phói”. (Em chào đầu xóm cuối thôn/
Chân em dạo bước đường mòn quê anh/ Dân làng đoàn kết ấm no/ Em nay đi lại
chơi cùng các anh”.[59]
Những thói hư, hủ tục lạc hậu, những kẻ lười biếng bị người Sán Dìu lên án
và họ đề cao người cần cù cấy trồng: “Đừng có chơi với kẻ lừa đảo phá gia tài/
Làm người ở đời chăm chỉ cấy trồng/ Trong nhà có đủ trăm thứ giống/ Từ bỏ
rượu, không chơi hoa, không cờ bạc”. [4, tr6] Hay: “Nhà giàu có hạnh phúc có
người khen/ Lười biếng nghèo đói ta coi thường/ Sớm tối, xuân thu cần cù cày cấy/
Đừng có lười thân ngủ cả ngày”.[50]
Cuộc sống của người Sán Dìu gần gũi với đồng ruộng, vì vậy, họ coi việc
buôn bán là gian lận, ắt có tội:
Nguyên văn:
Moọc vúi váng say dịu soi hén
Ết bón coong hú lip lam ben
92
Đoọng sin coong hú cô ết bón
Cạo thao hoi thoi sênh séo nén.
Dịch:
Đừng có làm việc sai trái sẽ có tội
Quyển sách giang hồ mười ba chương
Hát hết quyển sách giang hồ
Dạy cho đời sau sống lương thiện.[4,tr 3]
3.2.2.4. Ứng xử của người Sán Dìu trong cuộc sống
Nhân loại coi trọng ứng xử như một tiêu chuẩn khẳng định kiến thức. Cách
ứng xử là nền tảng văn hóa, là vẻ đẹp cao sang của tâm hồn. Hành vi ứng xử của
con người là thước đo trình độ văn hóa của mỗi người, của cộng đồng. Mở đầu
mỗi buổi hát Soọng Cô, người hát phải xin phép chủ nhà để được hát với khách,
hát chào gia chủ, hỏi thăm đến cô, chú, thím, người hàng xóm, bố mẹ nàng
(chàng), bạn bè cũ... những lời hỏi thăm lịch sự. Hát Soọng Cô không chỉ của gia
đình mà của cả làng xóm, thậm chí có khi của cả làng bên cạnh nên già trẻ, gái trai
kéo đến cùng vui. Vì vậy, lời ca mang ý nghĩa chúc sức khỏe các bậc phụ lão trong
làng, vừa là lời mời các cụ vui cùng con cháu. Bên nữ cất tiếng Chào các cụ (Hô
lão thai): “Sọng théo sếnh cô hô lão thai/ Sị ben lão thai sộ phai phài,/ Sị ben lão
thai sáy sộ leo,/ Tánh ngọi sẹo nén leo pha cai. (Kính chào các cụ làng ta/ Ngồi
quanh tứ phía cụ bà, cụ ông/ Chúng cháu đứng trước đám đông
/ Xin phép ca hát mặn nồng trao duyên).[59]
"Lời chào cao hơn mâm cỗ" trở thành một nét đẹp văn hóa của người Việt
Nam. Đó chính là biểu hiện của lịch sự, nhã nhặn và cả sự tôn trọng lẫn nhau. Đó
là tính nhân văn, tính giá trị của văn hóa. Những lời hát mở đầu cho một cuộc hát
đã thể hiện điều đó. Bên nam cũng thể hiện tình cảm sự kính trọng đối với các bô
lão trong làng: “Nhóng kim hô hỷ long hô hỷ/ Sáy ca hô hỷ ngọi lão thai/ Sị ben
lão thai sáy sộ leo,/ Tánh ngọi sẹo nén leo pha cai!” (Nàng cùng ta gửi lời sang,/
93
Cùng chào các cụ gà làng thôn ta./ Bốn bên cụ ông, cụ bà,/ Cùng nghe giới trẻ hát
ca vui cười).[59]
Lời bài hát làm ấm lòng các bậc cao niên. Ngày xưa còn trẻ, các già làng
cũng đã từng trải qua những giây phút tươi vui và giờ đến lượt con cháu nối tiếp
truyền thống xưa trong buổi hát này. Niềm vui lấp lánh trong mắt người già, trong
tiếng ngâm của con trẻ. Đặc biệt, đối với người Sán Dìu, lòng thành kính tổ tiên,
ông bà và tình cảm nồng hậu với những người xung quanh là một phẩm chất tốt
đẹp của người Sán Dìu. Nét văn hoá ấy được lưu giữ trong những câu hát Soọng
Cô.
Đối với người Kinh, “miếng trầu là đầu câu chuyện” thì với người Sán Dìu
tình cảm mến khách quý người cũng được thể hiện qua lời mời nước, Mời trầu
(hoẹn loi): “Hảo lói loi!/ Lóng lý síu thùi quén mú mòi./ Nhóng lý dịu sim sệch ết
hói,/ Cui ca nhóng lý kỵ man thoi”. (Mời nàng một miếng trầu cay,/ Anh cuốn
chưa đẹp bởi tay vụng về./ Xin nàng ăn thử đừng chê,/ Về nhà nhớ một, về quê nhớ
mười).[59]
Chàng trai đã khéo léo kể đến trong lời mời sự vụng về của mình “tay vụng
về”, nhưng ẩn chứa đằng sau đó là tình cảm tha thiết dành cho cô gái. Bên cạnh
đó, thấy được sự chu đáo, quý khách, mến người của chàng trai khi Mời nước (
hoẹn sà): “Sá sọi cao tun mếnh hoi nhọn,/ Vố sọi tay then mếnh long pha.
/ Kim mạn nhóng lói tạo nỵ sụy,/ Mạo hém thạm sủi sệch boi sà”. (Đồi cao chưa
có chè non,/ Ruộng thấp hoa lúa vẫn còn trắng tinh./ Đêm nay nàng tới xứ anh,/
Đừng chê, khi uống chè xanh quê chàng.[59]
Đáp lại lời mời uống nước, cô gái cảm ơn người mời. Đó là nét đẹp văn hóa
của người Việt nói chung và của người Sán Dìu nói riêng: “Hán cộ lén thong lén
dẹp vòng,/ Lóng kim chúy sá lói hoẹn nhòng./ Ết lói hộ hỷ sóng cong sủi,/ Nghi
lói hô hỷ chúy sá lòng”. (Đầm sen lá ngả màu vàng/ Nước kia ai nấu để chàng mời
đây?/ Cảm ơn sông lớn nước đầy,/ Cảm ơn người nấu nước này mời em!)[59]
94
Chính vì vậy, cô gái mặc dù băn khoăn “Công lao biết trả cả đời cho ai”, song
cũng mở lòng đón nhận:
Da dịu bi nòng da dịu loi,
Hảo cọi pha phónbống phát lói,
Bống lói ký tô nhóng sệch lẻo,
Ky sí chang dịu công lao phòi?
Dịch ý:
Có trầu lại có cả cau,
Có cơi bê đến cùng nhau ta mời,
Bao nhiêu cũng hết chàng ơi,
Công lao biết trả cả đời cho ai?[59]
Câu hát, giọng hát với cái đích là phục vụ con người. Con người luôn có
hoài bão vươn tới cái hay, cái đẹp, cái thanh tao của cuộc sống là chân, thiện, mĩ
nên hát Soọng Cô không chỉ là những bài hát nhịp điệu trầm bổng du dương để
quên cảnh buồn tẻ, trống trải hay để giải trí mà thực tế nội dung ý nghĩa còn mang
tính nhân văn sâu sắc. Hát Soọng Cô không chỉ là một hình thức văn hóa - nghệ
thuật rất có ý nghĩa trong đời sống tinh thần của người Sán Dìu, mà còn thể hiện cả
một thế ứng xử xã hội qua các quy định chặt chẽ trong thực hành hát Soọng Cô, ở
đó thể hiện thẩm mĩ văn hóa trong giao lưu gữa các nhóm cộng đồng của tộc người
Sán Dìu.
3.2.2.5. Thể hiện tình yêu lứa đôi
Có một hằng số bất biến cho mọi thời đại, đó là tình yêu. Khi yêu con người
thường có nhu cầu, khát vọng giải bày những tâm trạng, tình cảm, nỗi lòng của
mình mà ngôn ngữ đời thường khó diễn đạt hết. Tình yêu nam nữ là tình cảm được
thăng hoa đẹp nhất của con người. Ở đó có đủ các sắc thái, tiết tấu, cung bậc,
thanh âm... Tình yêu nam nữ luôn là đề tài nổi bật, hấp dẫn trong kho tàng thơ ca
95
dân gian của người Việt từ xưa đến nay. Với dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên cũng
vậy, đề tài tình yêu luôn được trở đi trở lại trong những khúc hát dân ca trữ tình
đằm thắm, mượt mà làm say đắm biết bao tâm hồn. Có thể nói rằng, những câu hát
về tình yêu chiếm một số lượng lớn trong những bài hát Soọng Cô. Tình yêu hiện
lên đầy đủ các cung bậc: Tình yêu và nỗi nhớ, sự khao khát; tình yêu và lời ước
hẹn thủy chung; tình yêu và sự dang dở ngậm ngùi. Những cuộc hát có thể kéo dài
tới bốn, năm đêm của những nam thanh nữ tú thể hiện được mọi sắc thái tinh tế
của tình yêu. Những đêm hát chính là cơ hội tuyệt vời cho đôi lứa trao gửi tâm
tình, giãi bày tâm sự. Bao ân tình được trao gửi khiến cho họ càng say mê đi hát.
Mở đầu cuộc hát bao giờ cũng là lời ướm hỏi khách làng chơi, cũng thể hiện
tấm lòng hiếu khách mời nước, mời trầu: “Đồi cao chưa có chè non,/ Ruộng thấp
hoa lúa vẫn còn trắng tinh./ Đêm nay nàng tới xứ anh,/ Đừng chê, khi uống chè
xanh quê chàng”. Hay:
Mời nàng một miếng trầu cay,
Anh cuốn chưa đẹp bởi tay vụng về.
Xin nàng ăn thử đừng chê,
Về nhà nhớ một, về quê nhớ mười.[59]
Bắt đầu cuộc hát là những lời chào mời, chàng trai viện ra cả sự thiếu thốn
“chưa có chè non”, “hoa lúa còn trắng tinh”, để thấy được sự đủ đầy trong tấm
lòng tình cảm dành cho khách, khơi lên trong lòng các cô gái tình cảm ban sơ, đó
là sự khéo léo của các chàng trai Sán Dìu. Song để các chàng trai không bận lòng
về sự thiếu thốn đó, cô gái Sán Dìu đưa ra những lí do “có trầu có cả cau”, “có cơi
bê đến”... và đặc biệt câu hỏi tu từ ý nhị ở cuối lời hát các cô gái đã đan cài vào đó
câu hỏi ý nhị: “Công lao biết trả cả đời cho ai?”. Tưởng rằng chỉ đơn giản nói
chuyện trầu cau, chuyện chè nước, nhưng câu hỏi cuối cùng dò hỏi ý tứ của đối
phương, khiến cho cuộc hát càng ngày càng say, những câu hát vừa trả lời đối
phương nhưng cũng mở ra những câu hỏi mới. Mời nước, mời trầu chỉ là cái cớ để
các chàng trai, cô gái ướm hỏi lòng đối phương: “Đầm sen lá ngả màu vàng/ Nước
96
kia ai nấu để chàng mời đây?/ Cảm ơn sông lớn nước đầy,/ Cảm ơn người nấu
nước này mời em!”[59] Hay:
Có trầu lại có cả cau,
Có cơi bê đến cùng nhau ta mời,
Bao nhiêu cũng hết chàng ơi,
Công lao biết trả cả đời cho ai? [59]
Sau khi mời nước mời trầu kết thúc, bên trai gái đã thân mật hơn, đủ để các
chàng trai không cần mượn cớ mà hỏi thẳng họ tên. Bởi lẽ, nguyªn t¾c c¬ b¶n
trong h«n nh©n cña ngưêi S¸n D×u lµ ngo¹i h«n dßng hä. Nh÷ng ngưêi thuéc cïng
mét dßng hä (kh«ng hªnh chÕch th¹y cót hoÐt) tuyÖt ®èi kh«ng ®ưîc lÊy nhau.
Trưêng hîp vi ph¹m bÞ coi lµ lo¹n lu©n (ngó ng¹c nhÝn). Để nhận biết người cùng
họ hay khác họ, khi gặp nhau thường hỏi: “Dịu théo sếnh cô lói mun nị,/ Mun nị
ký nhóng hạm mút méng?/ Mun nị ký nhóng mí coi sẹng,/ Bí lóng tách ty hạm
nhóng méng!” (Lời ca gửi tới các nàng,/ Xin cho anh biết họ hàng, tên chi?/ Họ
em tên thật là gì?/ Để anh được biết khắc ghi trong lòng!” [59]
Bằng cách hỏi họ tên, người Sán Dìu biết được người đó có mối quan hệ họ hàng
với mình không, qua đó tránh được hiện tượng loạn luân. Những băn khoăn, gánh
nặng trong lòng của chàng trai Sán Dìu được trút bỏ khi cô gái cất lên lời hát:
“Lóng dịu sếnh cô lói mun ngọi,/ Tánh ngọi phói va mun chọn lòng./ Tao chảm
vóng thánh ết dong sẹng./ Ết sẹng sếnh nhóng ết sẹng lòng.” (Lời ca anh hỏi chúng
em,/ Nay xin gửi lại anh xem xét cùng./ Ở đây hai họ song song,/ Riêng em một họ
không trùng họ anh.” [59]
Được lời như cởi tấm lòng, khát vọng tình yêu ăn sâu vào tiềm thức của
chàng trai nay với những ca từ bay bổng chàng trai bộc bạch có phần khiêm tốn
nhưng cũng tự nhận thức được mình là “chàng trai chân chính”: “Lưng đèo có
vũng trâu đằm,/ Nước trong ứ đọng, mạch ngầm nhỏ nhỏ nhoi/ Em như cá chép
kim khôi,/ Anh đây chân chính mong ngồi cùng em!” [59]
97
Chàng trai mạnh dạn bày tỏ những ao ước đến em nhưng trong tâm chàng
trai, cô gái là cành hoa đẹp nhưng “nở trên đỉnh trời cao”, sợ rằng sức mình có hạn
“tay ngắn với lên không trung”, anh không đủ dịu dàng để rồi “không hái được,
mủi lòng lệ rơi”. Khi cô gái có đồng ước nguyện, cô sẽ cất lên lời ca ngọt ngào, e
ấp chờ mong: “Núi cao có tùng bách cao/ Núi thấp, khế thấp đâu vào đấy thôi./
Chung ăn quả khế bồi hồi,/ Hoa tùng, hoa khế dẫn đôi bạn tình”.[59]
Cây tùng, cây bách là hình ảnh chàng trai mạnh mẽ trong tưởng tượng của
cô gái. Cô gái ngầm khen chàng trai và cũng thầm ao ước được cùng chàng trai kết
thành “đôi bạn tình”.
Yêu nhau để rồi thương rồi nhớ, khi sợi “tơ hồng” đã buộc hai người xa lạ
với nhau, trái tim thổn thức ngân rung nhịp đập của tình yêu. Đôi người yêu nhau
thương nhớ khôn nguôi với tâm trạng chưa từng trải qua. Hình ảnh người yêu lúc
nào cũng chập chờn trong trí nhớ của chàng trai: “Then thi súi chấy lọc lén lèn,/
Sống bác pha hoi tuế tuế sen./ Ết nén sam bác lộc sịp nhít,/ Nhít nhít kỵ nỷ sọi men
mèn!” (Đất trời dòng dã mưa dông,/ Trăm hoa vẫn nở, nở hồng khắp nơi./ Ba
trăm, sáu chục ngày trời,/ Ngày ngày đều nhớ đến người ta yêu!”[59]
Viết về nỗi nhớ trong tình yêu là một điều khá quen thuộc. Chỉ có điều trong
cách thể hiện của mỗi người, nỗi nhớ sẽ mang những màu sắc khác nhau. Với
người Sán Dìu: “Lóng soóng nỵ!/ Ký tô si soóng nỵ bút ty,/ Ết nhọt soóng nhóng
sam síp nhít,/ Ết nhít soóng nhóng síp nghi sì!” (Nhớ nàng lăm lắm nàng ơi,/ Bao
nhiêu nỗi nhớ trong đời gửi ai?/ Ba mươi ngày một tháng dài,/ Một ngày lại nhớ
mười hai giờ liền!”[59]
Nỗi nhớ theo chiều dài thời gian khôn nguôi, vô tận. Cách diễn tả nỗi nhớ
theo thời gian là một cách thể hiện quen thuộc trong các bài hát Soọng Cô. Nỗi
nhớ của chàng trai “ba mươi ngày một tháng dài”, “mười hai giờ” trong ngày đã
trở thành đơn vị quy ước thời gian để đo chiều dài nỗi nhớ. Với những người đang
yêu, đang nhớ, mọi cảm giác thời gian, không gian đều bị xóa nhòa. Trong họ chỉ
98
còn ăm ắp hình ảnh của người yêu, thời gian khi ấy chuyển sang thời gian tâm lý,
thời gian của nhớ thương.
Nữ:
Ngọi loóng dịu sếnh nán phao sá,
Sang ra ọi lén sỉ ọi lén,
Dông sim lén lóng mú phạ sỉ,
Mũ phạ nhẹt thói mú phạ then!
Dịch ý:
Hai người sâu nặng mối tình,
Sống yêu, chết vẫn hết mình ta yêu.
Trái tim gửi gắm sớm chiều,
Sợ chi số phận ngặt nghèo trời ban![59]
Tình yêu là tâm sự muôn đời và là tâm lý chung của những người đang yêu,
là niềm khao khát gìn giữ cho tình yêu bất tử. Hát Soọng Cô cũng mang trong
mình tinh thần nhân bản ấy, thể hiện ước nguyện gắn kết của tình yêu thủy chung
trọn đời. Ước mơ chung tình cũng là ước mơ ngàn đời của những đôi lứa yêu nhau
“Sống yêu, chết vẫn hết mình ta yêu”.
Nếu như cô gái người Việt nhớ người yêu đêm không ngủ được: “Đêm nằm
lưng chẳng tới giường/ Mong trời mau sáng ra đường gặp anh”. Những đêm hát
giao duyên đầy say mê đã khắc sâu trong mỗi chàng trai, cô gái Sán Dìu. Khi trở
về, cái mà các cô nhớ nhất đó là lời hát của chàng trai, là cái duyên của chàng trai.
Nỗi nhớ đau đáu không nói thành lời. Nhớ đến mức “thơ thẩn, vấn vương”, “nhịn
ăn”, “nhịn uống” đến âu sầu. Nhưng vì họ ở xa nhau quá cho nên thương nhớ đến:
Cộ nhít soóng lóng sút lu sộ,
Soóng lóng táy léo ký tô ngô,
Lống lóng mú tách sếnh sông tọi,
99
Ngạn lui sá sông lọc cong hồ!
Dịch ý :
Ngày ngày ngồi ở ven đường,
Nhớ chàng thơ thẩn, vấn vương trong đầu.
Nhịn ăn, nhịn uống âu sầu,
Hai bên khóe mắt tuôn trào lệ rơi.[59]
Ước mơ được kết đôi ngàn vạn đời được ở bên nhau, đó là khát vọng
chung muôn thuở đôi lứa yêu nhau. Tình yêu là một cây đàn muôn điệu mà mỗi
nốt nhạc của nó là một nốt láy tâm hồn, là một nhịp đập yêu thương và chỉ có trái
tim của hai người đang yêu mới có tần số rung động. Từ nhớ mong, lo lắng các
nam thanh nữ tú Sán Dìu mong muốn kết đôi, nguyện ước thủy chung. Vai trò
của ông bà mối trong cưới xin của người Sán Dìu rất được coi trọng. Ông bà mối
được coi là cầu nối, là sứ giả của hai họ cũng như của đôi trẻ. Ý thức được điều
đó, cô gái nhắc đến “người mối” với mong muốn: “Nai con tìm cỏ bờ sông
/ Cá chép muốn đớp rêu dong, dưới ghềnh./ Ong bay tìm phấn hoa sen,/ Em mong
người mối, chắp duyên cùng chàng!”[59]
Và cái đích cuối cùng mà những lời thề nguyền hướng tới: Ấy là khao khát
một tình yêu chung thủy, gắn bó keo sơn, một sự gắn kết bền vững giữa những
trái tim yêu thương. Thề nguyền và lời ước hẹn thủy chung cũng là những cung
bậc của tình yêu đôi lứa. Khi đã yêu, có mấy ai không mong được chung tình, gìn
giữ hạnh phúc trong vòng tay. Chàng trai cũng nguyện ước một lòng gắn bó, thủy
chung: “Cuối sông thác đổ ào ào,/ Ong đi tìm nhị bay vào, bay ra./ Núi cao rừng
thẳm bay qua,/ Sống vì hoa, chết cũng vì hoa, chung tình!”[59]
Có thể nói, tình yêu là cuộc sống, không có ngọn lửa tình yêu thắp sáng thì
cuộc đời con người tồn tại không có ý nghĩa gì. Họ nhớ nhau cả khi gặp mặt, họ
sầu biệt ly ngay cả khi chưa đến phút chia tay. Tình yêu, nỗi nhớ thì mênh mông
mà mỗi cuộc hát lại kéo dài trong thời gian ít ỏi. Vậy nên, những lo lắng, ưu phiền
100
của những cô gái Việt xưa : “Đêm qua em những lo phiền,/ Lo vì một nỗi, không
yên một bề.” Cô gái Sán Dìu cũng cùng tâm trạng lo lắng: “Tìm chàng nhưng cách
con sông/ Nước sâu chảy xiết, mênh mông xuôi dòng./ Trên sông bến vắng, thuyền
không,/ Ngậm ngùi rơi lệ ngóng trông anh hoài!”[59]
Các làn điệu Soọng Cô bình dị, mộc mạc nhưng lại rất trang nhã, mềm mại,
khéo léo và tinh tế. Phản ánh cuộc sống từ những chi tiết đời thường nhất mà
không xuất hiện sự thô kệch, vụng về; mọi cử chỉ, lời nói, giao tiếp đều toát lên vẻ
lịch thiệp và đậm đà tình người. Cùng với những thay đổi trong tập quán sinh hoạt
cũng như sự phát triển của đời sống xã hội, Soọng Cô đã có những biến đổi nhất
định để phù hợp với con người mới và thời đại mới. Soọng cô là hình thức sinh
hoạt văn nghệ phổ biến của đồng bào Sán Dìu, ra đời từ rất sớm và gắn bó với sự
hình thành, phát triển của cộng đồng người Sán Dìu. Vì vậy, mọi mặt trong đời
sống xã hội của đồng bào Sán Dìu từ xa xưa cho đến nay đều được tái hiện một
cách sinh động trong Soọng Cô. Những câu hát phản ánh đầy đủ hiện thực cuộc
sống và thế giới tâm hồn của người Sán Dìu hiện lên qua những rung cảm mãnh
liệt, tinh tế đa dạng, độc đáo và sâu sắc, tô đậm thêm vẻ đẹp con người, bộc lộ chất
nhân văn cao cả.
Hát Soọng Cô không chỉ là một sản phẩm nghệ thuật dân gian mà còn là tâm
thức của dân gian về những hiện tượng lịch sử, xã hội nhất định. Soọng Cô phản
ánh lịch sử trực tiếp hoặc gián tiếp, ở những góc độ, những cung bậc khác nhau. Kí
ức dân gian về các sự kiện, hiện tượng lịch sử trong Soọng Cô thường không được
ghi rõ về mốc thời gian, nhưng nó rất dễ nhớ bởi nó được diễn đạt bằng lời ca và
bằng hình ảnh sinh động phản ánh rất chân thực cái nhìn của dân gian về các sự
kiện, hiện tượng lịch sử mà nhân dân quan tâm.
Các làn điệu Soọng Cô mang màu sắc trữ tình nhẹ nhàng, duyên dáng, có
sức lôi cuốn mãnh liệt, gây xúc động lòng người. Chủ đề trong Soọng Cô phong
phú, nội dung ca ngợi tình yêu đôi lứa, tình yêu quê hương đất nước, đề cao lao
động sản xuất, phê phán cái xấu... Thông qua các làn điệu Soọng Cô, các thế hệ
101
người Sán Dìu vừa truyền tải được nội dung cần thiết tới người nghe, vừa phát huy
được vốn văn hóa truyền thống của dân tộc.
Người Sán Dìu hát Soọng Cô bằng tâm hồn, bằng cảm xúc, biểu hiện những
quan niệm đẹp đẽ, trong sáng, chất phác về mối quan hệ giữa người với người
thông qua thái độ tôn trọng nghĩa tình và lòng thủy chung son sắt. Bởi vậy, Soọng
Cô có giá trị tích cực trong giáo dục con người hiểu biết cội nguồn dân tộc, quê
hương, gìn giữ và phát huy những từ ngữ trong các làn điệu dân ca hàm chứa sâu
sắc mối quan hệ trong gia đình, họ hàng, anh em, tình yêu đôi lứa, trong lao động
sản xuất… để truyền dạy cho thế hệ sau. Tạo nguồn cảm hứng sáng tạo cho các
văn nghệ sĩ sáng tác phục vụ cuộc sống.
Như vậy, các giá trị tiêu biểu của Soọng Cô là sự biểu hiện phong phú trong
đời sống văn hóa cả về vật chất và tinh thần. Theo chiều dài phát triển của lịch sử
dân tộc, các làn điệu Soọng cô đã sớm trở thành đặc trưng văn hóa phi vật thể của
cộng đồng người Sán Dìu ở Thái Nguyên. Tuy nhiên, hiện nay loại hình hát Soọng
Cô đặc sắc này đang bị mai một, ít được phát huy trong đời sống hiện đại. Trước
đây, những câu hát Soọng Cô được cất lên từ những không gian gắn liền với cảnh
sinh hoạt đời thường, không khí lao động vui tươi, phấn khởi của nhân dân. Ngày
nay, hát Soọng Cô chỉ còn thấy trên sân khấu với những quang cảnh tự tạo mà
thiếu hẳn sự sinh động mang đậm hồn cốt của Soọng Cô.
3.2.3. Một số đặc điểm nghệ thuật tiêu biểu của hát Soọng Cô
3.2.3.1. Thể thơ
Thể (còn được gọi là thể thơ) là một yếu tố quan trọng của ca dao, dân ca.
Yếu tố này nó chi phối đến các yếu tố khác như vần và nhịp của bài hát, khúc hát.
Hầu hết các bài hát Soọng Cô được sáng tác theo thể thất ngôn. Lời Soọng
Cô bằng tiếng Việt được hát bằng thể lục bát hoặc thể thất ngôn. Đây cũng là một
thể thơ mà các dân tộc thiểu số khác sử dụng phổ biến trong các làn điệu dân ca
của dân tộc mình như dân ca Tày, Nùng, Cao Lan. Trong giới hạn của đề tài
nghiên cứu, chúng tôi xin giới thiệu hai thể mà Soọng Cô thường dùng.
102
Bài hát Soọng Cô được sáng tác theo thể thất ngôn. Đối với hát Soọng Cô,
đây là một thể thơ truyền thống sử dụng phong phú đa dạng. Đối với thể thơ thất
ngôn tứ tuyệt, nếu chỉ sai một chữ hay một vần thì không thể hát được: “Tông
dẹp bao dém phọng súi ben/ Dém sím súi táy dẹp phù men/ Dém sím súi táy ken
súi hỵ/ Dẹp phù súi men hỵ sím lèn!”
Hay:
Sọng xun cô (hát vui xuân)
Háng cô son thói lống ngá khọi
Lý pha phát léo tháo pha hoi.
Lý pha phát léo hông sui hỵ
Tháo pha phát láo dịu lóng lói.
Đôi khi gieo vần ở cuối câu nhưng giãn cách như trong bài “Hô phếnh dịu”(Chúc
mừng bằng hữu): “Sọng theo sếnh cô hô phếnh dịu/ Sị ben phếnh dịu sộ sênh
phếnh/ Sị ben phếnh dịu sáy sộ leo/ Thông vúi chí moi leo cô sếnh [66]
Và một số bài là dạng biến thể của thất ngôn: Những bài hát thuộc dạng
"biến thể” linh hoạt và phong phú. Khi sáng tác Soọng Cô, người Sán Dìu đã chịu
ảnh hưởng của lối diễn xướng trực tiếp. Bài hát không bắt buộc phải nhất loạt theo
công thức cứng nhắc mà được làm mới sao cho việc giao tiếp bằng lời hát thuận
tiện nhất. Thêm vào đó, trong quá trình diễn xướng, dưới hình thức đối đáp nên
khi hát đòi hỏi người hát phải có tài ứng đối linh hoạt. Từ đó, người hát có thể
thêm bớt các câu, từ cho phù hợp với tâm trạng và hoàn cảnh của mình. Cuộc hát
diễn ra trong nhiều đêm liền, người hát buộc phải thuộc rất nhiều lời. Theo nguyên
tắc ở cùng một địa điểm, nội dung của các bài hát đêm hôm sau không được lặp lại
đêm trước. Do vậy, chủ đề đa dạng, phong phú cần sử dụng hình thức phù hợp với
nó. Một trong những cách thức như vậy là yếu tố của lời ăn tiếng nói hàng ngày
được sử dụng tạo nên sắc thái biểu cảm nhất định cho bài hát. Dạng biến thể của
thất ngôn: thỉnh thoảng cũng có những biến tấu ở những dòng đầu (dòng đầu có
103
thể là ba chữ): “Sệch phan bảo!/ Mun lòng cóng cạ ký tô sèn?/ Dịu sèn ben bá sén
vàn chọn,/ Mù sèn sé si kỵ lối nèn!” [59]
Đó là những khúc ca có bốn câu, những câu đầu tiên chỉ có ba tiếng, ba câu
sau mỗi câu bảy tiếng. Về cơ bản, những khúc hát thuộc dạng biến thể này có
nguồn gốc là những khổ thơ thất ngôn nhưng do hoàn cảnh diễn xướng đã được
biến đổi đi cho phù hợp. Bên cạnh đó, có những bài Soọng Cô còn được viết theo
thể thơ tự do, số lượng tiếng trong một câu biến đổi linh hoạt:
Ềnh ếnh ênh ếnh
Ềnh ếnh ênh ếnh
Ềnh ếnh bồng
Ếnh thoi ngoi mói hị tà lồng
Dịch:
À á ời… à á ơi
Em ơi em cứ ngủ ngoan
Mai ngày em lớn đi thăm ruộng đồng. [50]
Thể thơ này vừa có thể dung nạp ngôn ngữ đời thường, mộc mạc, dung dị,
chân thực, lại vừa có thể diễn tả được mọi tư tưởng tình cảm với nhiều cung bậc
tâm trạng khác nhau bằng hình thức giàu hình ảnh, nhạc điệu của cuộc sống: “À á
ời à á ơi/ À á ời à á ơi.../ Ông ngoại cho cái vòng tay/ Bà ngoại áo đẹp em thời
chẳng ưa/ Em thương cha mẹ sớm trưa/ Xin ngoại trâu cặp đỡ đần mẹ cha/ Á à ời
á à ơi.... À á ời à á ơi...”. [50] Hay: “Người đi, người đứng, người đang làm/ Hãy
ngồi lại đây nghe mở hội ngày cưới/ Bên trái bái lạy các lão làng/ Bên phải bái
lạy ông, bà chủ/ Phía đông chủ nhà, phía tây là khách/ Bốn phía kết lại thành sáu
dòng họ/ Cả sáu dòng họ ngồi lắng nghe/ Nghe chúng tôi nói ra lời nhân
nghĩa...”.[44]
Thể thơ đã tạo nên nét độc đáo, riêng biệt của Soọng Cô của dân tộc Sán
Dìu, không những góp thêm cho kho tàng văn học cổ Việt Nam một viên ngọc quý
104
mà còn đưa Soọng Cô ngang hàng với dân ca của những tộc người khác trên đất
nước.
3.2.3.2. Kết cấu
Theo cách hiểu chung nhất, kết cấu là “Sự phân chia và bố trí các phần,
các chương mục theo một hệ thống nhất định để thể hiện nội dung của tác phẩm”
[69 - tr. 469]. Trong kết cấu Hát Soọng Cô, những khái niệm như chương hát, bài
hát, khúc hát, câu hát, lời hát cần được hiểu một cách thống nhất.
Chương là “một phần của sách có nội dung tương đối trọn vẹn” [69 - tr.
187]. Chương Hát Soọng Cô cũng tương tự là một bộ phận được chia ra và được
đặt trong quan hệ với tổng thể đêm hát, có nội dung tương đối hoàn chỉnh. Trong
chương hát có một đơn vị được các tác giả gọi bằng nhiều tên khác nhau như câu,
bài, lời ca (trên chữ viết được ghi thành 4 dòng thơ, mỗi dòng 7 chữ).
Theo cách hiểu chung nhất, câu là “Đơn vị cơ bản của lời nói, do từ tạo
thành, có một ngữ điệu nhất định, diễn đạt một ý trọn vẹn” [69 - tr.121]. Để dễ
dàng trong việc nghiên cứu, chúng tôi đề nghị một dòng thơ trong Hát Soọng Cô
nên gọi là một câu.
Còn lời là “Một chuỗi âm thanh phát ra trong không khí nói mang một nội
dung trọn vẹn nhất định” [69 - tr.565], thì một đến hai dòng thơ có thể gọi là lời.
Như vậy không nên gọi cả 4 dòng thơ là lời hát hay câu hát. Bài chỉ “Công trình
sáng tác, biên tập, có nội dung tương đối hoàn chỉnh, nhưng không dài” [69 -
tr.24) có thể phù hợp với đơn vị đang xét (mỗi bài là 4 dòng thơ, mỗi dòng có 7
chữ.
Đơn vị trong một chương hát có thể được gọi là một “khúc hát” - là “Phần
có độ dài nhất định được tách ra khỏi một vật để thành một đơn vị riêng” [69 -
tr.495]. Có thể một khúc hát là một bài hoàn chỉnh, có thể nhiều khúc hát hợp lại
mới trở thành một bài, nhiều bài hợp thành một chương, nhiều chương làm nên
một đêm hát.
105
Như vậy, kết cấu là một kiểu kiến trúc, cách tổ chức và xây dựng tác phẩm.
Đối với thơ ca truyền thống Việt Nam xét về hình thức kết cấu có hai dạng: kết
cấu một vế và kết cấu hai vế đối đáp. Còn xét về dạng thức thì đa dạng, phong
phú. Trong hát Soọng Cô điều này được thể hiện khá rõ. Dưới cùng hình thức là
một bài thất ngôn nhưng mỗi bài lại có những kiểu kết cấu không giống nhau. Ỏ
đây xin đưa ra một số dạng kết cấu tiêu biểu thường gặp trong các bài Soọng Cô
của dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên.
* Kết cấu hai vế đối đáp
Hát đối đáp thể hiện một cách sinh động và chân thực về mọi mặt của đời
sống lao động cũng như tư tưởng tình cảm của người dân, đặc biệt là tình yêu đôi
lứa. Hát đối đáp cũng là một hình thức trao đổi tâm tư, tình cảm giữa cá nhân và
tập thể. Mặt khác hát đối đáp còn thể hiện sự thông minh trong cách ứng xử của
con người. Việc chọn hình thức kết cấu đối đáp là dạng thức chủ đạo trong hát đối
giao duyên của dân tộc Sán Dìu.
Lối kết cấu này được thể hiện rõ nét nhất trong đêm hát giữa nam và nữ :
Nữ:
Nhóng kim sộ sọi phố chạo thòi,
Sông síu chép lòng ết thóc loi,
Ký tô en loi nhóng sệch lẻo,
Mun nị mại sọi na cai thòi?
Dịch:
Chúng em ngồi cạnh bếp hồng,
Hai tay đón cháp mà lòng xuyến sao.
Trầu kia mua ở chợ nào?
Để em được biết ta vào cùng mua![59]
Nam:
106
Hảo cọi pha phòn, hảo loi en,
Loi en ốc chộng mạo lẻo sèn,
Nhóng lý dịu sim sệch ết hói,
Phói cui si soóng loóng sam nèn !
Dịch ý:
Cơi trầu có cả thuốc lào,
Nhà trồng tất cả tiền nào phải mua!
Có tâm cùng hưởng một tua,
Khi về nhớ mãi ba mùa, ba năm! [59]
Giữa nhà trai và nhà gái trong đám cưới: Nhà gái hát “Há t lên tiếng há t hỏi nhà trai/ Tại sao có quả trứ ng thần tiên/ Trứ ng thần tiên xâu hai sợi chỉ/ Cũng nhớ ơn tổ tiên hai họ”.
Nhà trai đáp rằng: “Cù ng tiếng hát Khai Hoa Tử u/ Trứ ng thần tiên kết mối lương duyên/ Hai sợi chỉ xuyên qua đôi trứ ng/ Trình bền đe ̣p tổ tiên xe duyên”. [44]
* Kết cấu trùng điệp
Trùng điệp là biện pháp lặp lại một ý, một câu, thậm chí một khúc ca theo
nguyên tắc điệp ý, điệp cấu trúc ngữ pháp. Cũng như trong ca dao trữ tình Vệt
Nam, kết cấu trùng điệp xuất hiện nhiều trong các bài hát Soọng Cô của dân tộc
Sán Dìu. Sự trùng điệp ấy thể hiện ở sự lặp lại có thể là một ý thơ nhằm biểu đạt
những cung bậc tình cảm sâu sắc của con người như:
Hô phếnh dịu (Chào bằng hữu)
Sọng theo sếnh cô hô phếnh dịu
Sị ben phếnh dịu sộ sênh phếnh
Sị ben phếnh dịu sáy sộ leo,
107
Thông vúi chí moi leo cô sếnh.[59]
Hay: “Ọi hỵ sím lóng các théo cong,/ Các théo cong sủi phạc mong mòng./
Các théo cong sủi mú lu hỵ,/ Men sèn ngạn lui lọc hong hòng.”
Hoặc:
Nhọt lý ết sút seng ra sút,
Nhọt lý ết dì seng ra dì.
Nhọt lý hỵ cui không seng cỏng,
Lống nị thống hàng tạo ký sì? [59]
Kết cấu như trên đem lại cho những bài Soọng Cô sự cô đọng, giàu màu sắc
ẩn dụ, bóng bẩy, giúp người hát dễ nhớ, lời hát cũng dễ đi vào lòng người. Đồng
thời, giúp các nghệ nhân dễ ứng tác trong mỗi cuộc hát.
3.2.3.3. Vần và nhịp
Vần là “Một phương tiện tổ chức văn bản thơ đựa trên cơ sở sự lặp lại
không hoàn toàn các tiếng ở những vị trí nhất định của dòng thơ nhằm tạo nên
tính hài hòa và liên kết của dòng thơ và giữa các dòng thơ” [24 – tr.423].
Khảo sát hơn 200 bài hát, xin đưa ra một số nhận xét về đặc điểm của vần
như sau: Trong Hát Soọng Cô có sự hiệp vần chặt chẽ. Hai dạng vần được sử
dụng chủ yếu là vần chân và vần lưng
* Vần chân: vần chân được sử dụng trong hát Soọng Cô với các dạng cơ
bản là vần liền và vần cách. Qua khảo sát có những khúc ca dùng vần liền (dạng
AA- A): “Tông dẹp bao dém phọng súi ben,/ Dém sím súi táy dẹp phù men,/
Dém sím súi táy ken súi hỵ,/ Dẹp phù súi men hỵ sím lèn!”[59]
Có vần liền chỉ ở hai dòng đầu:
Tao cót sim sóng nhộc da thộng,
Nhộc thộng cụi sí nán sá lòng.
Ngọi loóng dịu sếnh nán pha sá.
108
Tông dịu nhẹt thói, say dịu then![59]
Gieo vần liền ở hai dòng cuối:
Then cong léo!
Cao sềnh mạo kín nị hun lỳ,
Ngọi long nghi nhìn hun síu hỵ
Mú ty hồ nhít tách sìm si![59, tr.35]
Gieo vần liền ở ba dòng cuối:
Nhóng cui hỵ!
Lóng kim sọi ca soóng ký nhòng,
Song mạn cô thong không nị sọng,
Ký tô sếnh va kỵ sim sòng! [6, tr 30]
Những trường hợp vần chân được gieo tương đối đặc biệt là dạng vần cách
chỉ ở hai câu. Câu thứ hai với câu cuối:
Ngọi loóng dịu sếnh nán phao sá,
Sang ra ọi lén sỉ ọi lén,
Dông sim lén lóng mú phạ sỉ,
Mũ phạ phẹt thói mú phạ then![59]
* Vần lưng: vần lưng trong Hát Soọng Cô có cách gieo vần khá phong phú
ở các vị trí khác nhau từ đầu đến cuối câu theo các dạng khác nhau.
Sọng theo sếnh cô hô phếnh dịu
Sị ben phếnh dịu sộ sênh phếnh
Sị ben phếnh dịu sáy sộ leo,
Thông vúi chí moi leo cô sếnh.[59]
109
Bên cạnh sử dụng vần chuỗi, hát Soọng Cô còn sử dụng những cách bắt
vần chân với vần lưng rất linh hoạt. Sau đây là các ví dụ tiếng ở cuối ở câu trước
bắt vần với các tiếng của câu sau:
Bắt vần với tiếng thứ nhất “Nhóng sô sút chép lóng sô chép/ Chép táo cô
chấy leo cô thong).[59] Bắt vần với tiếng thứ hai: “Da dịu bi nòng da dịu loi,/
Hảo cọi pha phón bống phát lói”.[59] Bắt vần với tiếng thứ tư: “Song súi líu lói
ết toi sọi,/ Ha súi líu lói ết toi sông”.[59]
Những hiện tượng điệp vần trên đã liên kết, móc xích các tiếng trong các
câu hát, khúc hát lại với nhau tạo thành một chỉnh thể hoàn chỉnh. Hiệp vần đã
đem lại cho lời ca trở nên cân đối, hài hòa, nhịp nhàng, có giá trị tạo nên nhịp
điệu du dương cho lời hát.
Nhịp “là một phương tiện quan trọng để cấu tạo hình thức nghệ thuật
trong văn học, dựa trên sự lặp lại có tính chất chu kì, cách quãng hoặc luân
phiên của các yếu tố có quan hệ tương đồng trong thời gian hay quá trình nhằm
chia tách và kết hợp các ấn tượng thẩm mỹ” [24 - tr. 238]
Lời ca của Soọng Cô giản dị, ít tính nhạc, nhịp điệu không phong phú. Tuy
Soọng Cô chỉ có một làn điệu nhưng nội dung gồm 3 phần rõ rệt: gọi, kể, đáp.
Phần kể thường nhiều hơn so với 2 phần còn lại, nội dung cũng phong phú như
để giãi bày tâm trạng, ước nguyện của người kể… Các nốt luyến láy ở phần đầu
câu tạo nên sự mềm mại trong giai điệu, nhịp trong mỗi bài hát Soọng Cô ổn định
về trường độ (thường là nhịp 4/3, đôi khi là nhịp tự do). Âm vực trong bài hát
không lớn, quãng âm luôn kế tiếp đều đều, ít lên bổng xuống trầm đột ngột, ít
biến luyến láy dẫn tới cao trào như hát Páo Dung của người Dao. Các âm a, ư
xuất hiện ở đầu hoặc cuối câu có vai trò làm nốt lấy đà trong bài hát: “Mạo bí
thóng lém/ nhúy sại con,/ Ết lói són ngọi/ nghi són nhóng,/ Ết thói chếch vúi/ long
san bác,/ Lóng kim chếch vúi/ sẹo nén nhòng!” [59]
Ngắt nhịp tạo ra những đoạn có độ dài ngắn khác nhau trong lời hát. Có ba
tiếng được ngắt lẻ thành một nhịp riêng trong khúc ca: “Sệch phan bảo!/ Phan cạ
110
mú dông/ ký tô sèn,/ Dịu sèn ben bá/ sén vàn chọn,/ Mú sèn lống ngọi/ cang nén
then!”[59]
Sự ngắt nhịp (biểu thị bằng dấu gạch chéo) trong khúc ca trên đã có sự
biến đổi ở câu thứ nhất so với nhịp truyền thống. Có thể nói, nhịp điệu trong hát
Soọng Cô không chỉ là hình thức mà còn thể hiện được tâm trạng và cảm xúc của
người hát. Nhip điệu và tiết tấu trong hát Soọng Cô ít sự biến đổi, mỗi nhịp có độ
dài trung bình bốn tiếng và ba tiếng trong các khúc ca tạo nên âm hưởng mênh
mang trong lời hát. Đây cũng là một điểm độc đáo trong hát Soọng Cô, là chất
men say quyến rũ lòng người.
Tiếng hát cất lên thật dặt dìu, réo rắt, lúc ngân cao, lúc trầm ấm làm say mê
lòng người. Những lời ca bình dị ấy đã trở thành món ăn tinh thần có sức sống
mãnh liệt và lắng đọng trong tâm hồn của người Sán Dìu.
3.2.3.4. Các biện pháp tu từ
* So sánh
Có thể hiểu so sánh là: “Phương thức biểu đạt bằng ngôn từ một cách hình
tượng dựa trên cơ sở đối chiếu hai hiện tượng có những dấu hiệu tương đồng
nhằm làm nổi bật đặc điểm, thuộc tính của hiện tượng này qua đặc điểm thuộc
tính của hiện tương kia” [24 - tr. 282] So sánh thường có hai vế. Một vế là đối
tượng cần được biểu đạt một cách hình tượng. Vế kia là đối tượng được dùng để
so sánh. Hai vế này thường được nối liền với nhau bở các từ so sánh: như, tựa,
bằng, hơn, kém… Phương thức so sánh đem lại hiệu quả cao đối với nghệ thuật
biểu đạt bằng ngôn từ. Vì vậy, so sánh được dùng phổ biến trong dân ca các dân
tộc thiểu số trong đó có Soọng Cô của dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên. So sánh
sử dụng từ “như”: “Em như cá chép kim khôi,/ Anh đâu chân chính mong ngồi
cùng em”.[59]
Hay “Ết sim ọi sệch lống con hoét/ Coóc hạ mạo vùn nán sọng then!” (Một lòng
yêu một mà thôi/ Hồn anh như đám mây trôi trên trời!)[59] Ở đây xuất hiện hình
111
ảnh so sánh “hồn anh” với “đám mây trôi trên trời”, tâm hồn của người con trai
dân tộc Sán Dìu khi yêu nhẹ nhàng, êm dịu, bay bổng và có phần lãng mạn.
So sánh sử dụng từ “tựa”: “Đầu thuyền có hoa, đuôi có lái/ Mái chèo tựa
lưỡi dao để ở đuôi thuyền..”.[50] Cuộc sống của người dân tộc Sán Dìu gắn bó
với lao động, vì vậy hình ảnh được so sánh hết sức gần gũi, thân thuộc “mái
chèo” với “lưỡi dao”. Sự so sánh chỉ giản đơn, họ thấy gì trong cuộc sống đã xảy
ra giống như điều họ đang nghĩ là họ có thể hát. Khi người nghe hiểu được nghĩa
là sự so sánh ấy đã rất thành công rồi, chẳng hạn như câu hát: “Sáng nay ra cửa
gặp được anh/ Như là cây mướp gặp rào thưa”. [59]
* Ẩn dụ
“Phương thức tu từ dựa trên cơ sở đồng nhất hai hiện tượng tương tự, thể
hiện cái này qua cái kia, mà bản thân cái được nói tới thì giấu đi một cách kín
đáo” [24 - tr.11]
Có thể hiểu, ẩn dụ là so sánh ngầm, nghĩa là trong cấu trúc so sánh có ẩn từ
so sánh và cái được so sánh. Để nhận diện ẩn dụ, cần phải có căn cứ và tiêu chí
ngôn ngữ và phi ngôn ngữ: Tiêu chí ngôn ngữ gồm có ngữ cảnh hẹp (những yếu
tố, những quan hệ cụ thể của câu chữ có mặt trong ngôn bản) và ngữ cảnh rộng
(hoàn cảnh giao tiếp)
Tiêu chí phi ngôn ngữ: gồm tính lôgic và thói quen thẩm mĩ hay giá trị
truyền thống văn hóa. Có thể nói, ẩn dụ là một trong các phương thức chuyển
nghĩa hữu hiệu để thực hiện việc trao đổi thông tin ngầm, đưa đẩy, bóng gió, lời
ít mà ý nhiều. Vì vậy, hát Soọng Cô của đồng bào dân tộc Sán Dìu cũng thường
sử dụng phương thức này.
Nếu người dân tộc Mường nhận thấy vẻ đẹp của cô gái như những bông
hoa rừng, trong bài dân ca: “Trăm thứ hoa không bằng hoa con gái/ Trăm thứ
trái không bằng trái bong cơm/ Trăm thứ thơm không bằng thơm con mái” thì
những cô gái Sán Dìu đang độ xuân thì cũng được so sánh ngầm với những bông
hoa nở - người con gái đang độ xuân thì để nhắc nhở nhẹ nhàng chàng trai “Sao
112
anh không hái có ngày tiếc hoa”: “Chốc sọi men sèn mú phộ mẹt,/ Lóng oi tá
thánh hỵ phón san/ Pha sọi men sèn lóng bút sói,/ Dịu nhít sói pha nị ty nàn!”
(Trước mặt tre lạt thẳng tưng,/ Sao anh lại phải luồn rừng tìm dây?/ Hoa nở
trước mặt đó đây,/ Sao anh không hái có ngày tiếc hoa?”[59]
Đáp lại mong ước thầm kín ấy của cô gái, chàng trai ví mình như “ong đi
tìm nhị”, không quản ngại khó khăn, trắc trở, chàng trai một lòng thủy chung son
sắt: “Kín súi than thòi than cộ than/ Mít chấy sói pha ván cộ vàn/ Mịt chấy sói
pha san cộ lẹng/ Kẹn pha dóng dị sói pha nàn!”(Cuối sông thác đổ ào ào/ Ong đi
tìm nhị bay vào bay ra/ Núi cao rừng thẳm bay qua/ Sống vì hoa, chết cũng vì
hoa, chung tình!”)[59]
Tình nghĩa thủy chung gắn bó giữa chàng trai và cô gái Sán Dìu còn được
liên tưởng trong mối quan hệ giữa trăng và sao: “Trăng lên sao cũng lên theo/
Trăng đi sao cũng xin chiều ý trăng”.[59]
* Nhân hóa
Hiểu một cách chung nhất, nhân hóa hay nhân cách hóa là “Gán cho loài
vật hoặc vật vô tri hình dáng, tính cách hoặc ngôn ngữ của con người thật” (một
biện pháp tu từ trong văn học). [75 - tr.687] Nhân hóa là một cách biểu đạt trữ
tình, là cách nói năng hình ảnh mà người Sán Dìu hay sử dụng đặc biệt trong
Soọng Cô: “Bước ra thấy chiếu ngồi đông/ Nhện chăng lưới phủ đèn lồng khổ
tâm...”[59] Khi thể hiện nỗi lòng tha thiết xin được đợi chờ của chàng trai “Đá
vàng ăn ở nông vôi/ Trăm năm ăn ở phụ người có công”.[50] Cô gái gọi trăng,
gọi mây vào câu hát để bao nỗi nhớ thương đằm thắm mà da diết. Cô gái muốn
gọi mời cả thiên nhiên vô ý xung quanh để chia sẻ lời thương đến chàng trai “Gọi
trăng không thấy trăng thưa/ Gọi mây mây cứ quấn cờ mà đi”.[50]
* Tiểu kết
Từ những đặc điểm được trình bày trên về nội dung và hình thức nghệ thuật
của hai thể loại truyện cổ tích và hát Soọng Cô. Có thể thấy những đặc điểm trên
113
chính là dấu ấn của truyền thống văn hóa, tư tưởng, tâm hồn, tính cách, phong tục
tập quán tâm linh và môi trường sống, lao động của người Sán Dìu.
Hát Soọng Cô của dân tộc Sán Dìu phản ánh sắc nét, sinh động đời sống
tình cảm cũng như phong tục của người dân tộc Sán Dìu. Nổi bật lên là đề tài tình
yêu với các cung bậc, trạng thái tình cảm yêu thương, quan niệm về tình yêu và
hôn nhân là tình yêu phải mộc mạc chân thành, mạnh mẽ, vượt qua mọi khó khăn
trở ngại để bảo vệ tiếng nói yêu thương toát ra từ sâu thẳm trái tim của mình.
Hơn thế tình yêu chân thành phải hướng đến hôn nhân với hai chữ chung thủy
được đặt lên hàng đầu. Đằng sau những câu hát là vẻ đẹp về tâm hồn, tính cách
của người Sán Dìu, đó là những con người lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống, yêu
bản làng quê hương. Không chỉ có vậy, các biện pháp nghệ thuật như: so sánh,
trùng điệp, giai điệu trong hát Soọng cô được bó hẹp trong phạm vi một quãng
tám, trong nội hàm của bài ca giai điệu tiến hành khá đều đều, không có cao
trào.… cho ta thấy rõ hơn tâm hồn phong phú, mộc mạc không kém phần tinh tế,
sâu sắc của những con người gắn bó với thiên nhiên qua những câu hát trập trùng
thiết tha.
Còn truyện cổ tích, câu chuyện đóng vai trò như những dấu tích trực quan,
trực giác để gợi ra những suy nghĩ về số phận của những con người lao động bình
thường, nghèo khổ trong xã hội xưa, với những yếu tố làm tăng thêm tính xúc
động cho câu chuyện được kể. Ở thể loại cổ tích của dân tộc Sán Dìu ở Thái
Nguyên tính chất thần kỳ, kỳ diệu không nhiều, không đậm nét như trong truyện
kể của các dân tộc anh em. Yếu tố kỳ diệu giữ vai trò quan trọng trong việc giải
quyết những mâu thuẫn, xung đột giữa người với người và truyện kết thúc có hậu
hay không có hậu vẫn tạo ra một không khí trong sáng, một niềm tin tưởng lạc
quan giúp con người có nghị lực hơn trong cuộc sống.
Như vậy, chúng ta có thể nhận thấy hát Soọng Cô và truyện cổ tích là
những thể loại tiêu biểu trong văn học dân gian dân tộc Sán Dìu phản ánh được
bức tranh sinh động về tâm hồn con người trong cuộc sống. Hình ảnh về thiên
nhiên, cuộc sống, truyền thống dân tộc, quan hệ xã hội được phạm trù hóa theo
114
những cách khác nhau, hát Soọng Cô và truyện cổ tích không chỉ cho thấy nét
đẹp văn hóa của người Sán Dìu mà còn làm nổi bật lên tinh thần lạc quan, yêu
đời, yêu người thiết tha của họ.
115
KẾT LUẬN
Luận văn chọn đề tài: Văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên
xuất phát từ mối quan tâm, tình cảm sâu sắc chúng tôi dành cho quê hương Thái
Nguyên. Xuyên suốt luận văn, chúng tôi đã cố gắng đi sâu tìm hiểu những đặc
trưng về hoàn cảnh địa lý, lịch sử, kinh tế - xã hội, con người, vốn văn hóa dân
gian,… là những yếu tố quan trọng góp phần hình thành nên các thể loại văn học
dân gian của dân tộc Sán Dìu. Trong phạm vi của một luận văn Thạc sĩ, chúng tôi
đã tiến hành khảo sát, nghiên cứu văn học dân gian của dân tộc Sán Dìu ở Thái
Nguyên và rút ra một số kết luận sau:
1. Thái Nguyên là một tỉnh thuộc khu vực miền núi phía Bắc, điều kiện tự
nhiên, xã hội, văn hóa là những tiền đề để tác giả dân gian sáng tạo nên những câu
chuyện, điệu hát, lời ăn tiếng nói hàng ngày chứa đựng tình cảm và sức tưởng
tượng phong phú về con người và cuộc sống xưa kia. Quá trình điền dã, sưu tầm
những tác phẩm văn học dân gian, chúng tôi nhận thấy dấu ấn của điều kiện tự
nhiên, xã hội, văn hóa để lại đậm nét trong nhiều thể loại văn học dân gian như
truyện cổ tích, hát Soọng Cô… Văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên
rất phong phú về thể loại, sâu sắc về nội dung triết lý, độc đáo về hình thức nghệ
thuật. Tuy nhiên, qua sưu tầm điền dã và theo lời kể của các nghệ nhân, vốn văn
học có giá trị này đã phần nào bị mai một, cá biệt có thể loại có nguy cơ bị lãng
quên.
2. Văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên gồm các thể loại: thần
thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, tục ngữ, câu đố, dân ca (hát Soọng Cô)…
mang đậm dấu ấn miền núi. Việc tìm hiểu các thể loại văn học dân gian dân tộc
Sán Dìu ở Thái Nguyên mang đến những nhận thức mới về vùng đất, cách ứng xử
giữa người với người, con người với tự nhiên, ước mơ về một xã hội tốt đẹp... của
người Sán Dìu. Qua đó, văn học dân gian phản ánh sinh động và chân thực nhất về
cuộc sống cũng như vẻ đẹp tâm hồn của người Sán Dìu. Qua quá trình tìm hiểu
văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên, chúng tôi đã phát hiện thêm
những nét chính, tiêu biểu về giá trị nội dung cũng như một số phương diện nghệ
116
thuật trong một số thể loại văn học dân gian. Về nội dung, mỗi thể loại văn học
dân gian dân tộc Sán Dìu phản ánh một mảng hiện thực sinh động trong cuộc sống
của đồng bào Sán Dìu ở Thái Nguyên. Thần thoại giải thích các hiện tượng tự
nhiên, giải thích nguồn gốc của loài người và phản ánh quá trình chinh phục thiên
nhiên; truyện cười đem lại tiếng cười mua vui, giải trí để họ xua đi những vất vả
sau một ngày lao động mệt nhọc và phê phán, châm biếm, mỉa mai các thói hư tật
xấu của con người; hát Soọng Cô thể hiện những cung bậc, trạng thái phong phú
trong tâm tư, tình cảm, khát vọng của mọi người dân tộc Sán Dìu; tục ngữ là
những tri thức dân gian được đúc rút qua thực tế của người dân lao động… Tổng
hòa lại, văn học dân gian dân tộc Sán Dìu đã góp phần quan trọng trong việc bồi
đắp nên những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Sán Dìu, trong đó nổi lên là truyền
thống lao động cần cù, truyền thống đoàn kết, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau. Văn
học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên đã đóng góp cho nền văn học địa
phương nói riêng và văn học nước nhà nói chung những giá trị không thể phủ
nhận.
3. Truyện cổ tích và hát Soọng Cô là hai thể loại tiêu biểu của văn học dân
gian dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên. Truyện có nội dung phong phú nhằm phản
ánh và lí giải hiện thực xã hội những số phận khác nhau của con người khi có chế
độ tư hữu, dần thoát khỏi chế độ xã hội nguyên thủy; đồng thời truyện phản ánh
mối quan hệ giữa con người với con người, con người với thiên nhiên nhằm phản
ánh những ước mơ khát vọng của nhân dân lao động về một xã hội công bằng dân
chủ. Về nghệ thuật, truyện cổ tích mang tính chất hư cấu, kì ảo, cả người nghe và
người kể đều không bắt buộc tin câu chuyện là có thật, yếu tố thần kì được sử
dụng để giải quyết và thực hiện những ước mơ, nguyện vọng về một xã hội tươi
đẹp. Trong truyện cổ tích thần kì của dân tộc Sán Dìu có cả yếu tố của truyện cổ
tích loài vật và truyện cổ tích sinh hoạt, tuy nhiên yếu tố thần kì đậm đặc và nổi
trội trong các tình tiết của truyện. Qua các nhân vật thần kì đã cho thấy trí tưởng
tượng bay bổng của người dân về thế giới trần gian, thế giới thiên đình, thế giới
loài vật và thế giới của con người, tất cả thế giới xa lạ đang ngày càng xích lại gần
117
nhau hơn. Truyện cổ tích của dân tộc Sán Dìu bao giờ cũng được kể theo thời gian
tuyến tính, sự kiện nào xảy ra trước kể trước, sự kiện nào xảy ra sau kể sau. Nhìn
chung, truyện cổ tích của dân tộc Sán Dìu có cốt truyện không phức tạp, cầu kỳ mà
đơn giản và mô típ xuất thân nghèo khổ, mô típ trừng phạt, mô típ nhân vật đổi đời
là những mô típ thường thấy. Qua những truyện cổ tích của dân tộc Sán Dìu ở Thái
Nguyên, tác giả dân gian đã thể hiện khát vọng muôn đời về lẽ công bằng, về
mong ước “ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác”.
Những bài hát Soọng Cô với nội dung cơ bản ca ngợi tình yêu quê hương
đất nước, ca ngợi sức sáng tạo và tình yêu lao động, đề cao đạo đức, lối sống,
phản ánh cách ứng xử của con người trong cuộc sống… được biểu hiện qua thể
thơ thất ngôn và thất ngôn biến thể. Các dạng thức hát Soọng Cô đa dạng: hát
Soọng Cô ban ngày; hát Soọng Cô ban đêm; hát Soọng Cô từ chiều qua đêm. Có
thể thấy, hát Soọng Cô là sự chắt lọc tinh hoa từ lời ăn tiếng nói hàng ngày giản
dị, mộc mạc, đậm đà bản sắc dân tộc. Hát Soọng Cô bộc lộ những cung bậc tình
cảm phong phú và tinh tế người dân tộc Sán Dìu, những người đã từng tham gia
hát Soọng Cô thì không bao giờ có thể quên hát Soọng Cô là mạch nguồn của sự
sống nuôi dưỡng tâm hồn, giáo dưỡng nhân cách hồn nhiên, trong sáng, trọng lẽ
phải, trọng đạo hiếu nghĩa con người. Lời ca của Soọng Cô giản dị, ít tính nhạc,
nhịp điệu không phong phú. Nhip điệu và tiết tấu trong hát Soọng Cô ít sự biến
đổi, mỗi nhịp có độ dài trung bình bốn tiếng và ba tiếng trong các khúc ca tạo nên
âm hưởng mênh mang trong lời hát. Đây cũng là một điểm độc đáo trong hát
Soọng Cô, là chất men say quyến rũ lòng người.
4. Trong việc bảo tồn, phát triển văn hoá phi vật thể các dân tộc thiểu số,
công tác khảo cứu, sưu tầm, bảo tồn, phát huy giá trị văn học dân gian (truyện cổ
tích, ngụ ngôn, ca dao, tục ngữ, câu đố …), văn nghệ dân gian (hát, múa, nhạc), trò
chơi dân gian, phong tục tập quán, lễ hội truyền thống, nghề thủ công truyền
thống, văn hoá ẩm thực, tri thức dân gian các dân tộc thiểu số… tiếp tục triển khai
và được sự quan tâm đúng mức. Công tác bảo tồn ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết)
dân tộc thiểu số bước đầu triển khai thực hiện có kết quả. Thành công của sự
118
nghiệp bảo tồn, phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên sẽ góp phần không nhỏ vào sự nghiệp xây dựng, củng cố khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, nâng cao dân trí, xoá đói giảm nghèo đẩy mạnh phát triển kinh tế
- xã hội vùng dân tộc, miền núi; thực hiện thắng lợi Nghị quyết TW 5 (khóa VIII)
của Đảng, Chỉ thị số 39/1998/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về bảo tồn, phát
triển văn hoá các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
Qua việc nghiên cứu và thực tế điền dã ở các huyện Phú Lương, Phú Bình,
Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên, chúng tôi mạnh dạn đưa ra hướng bảo tồn Văn học
dân gian của dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên:
Các tác phẩm văn học dân gian từ xưa đến nay được lưu truyền từ đời này
sang đời khác, qua trí nhớ của các cụ cao niên, trong đó một số nghệ nhân yêu quý
văn học dân gian dân tộc Sán Dìu đã ghi chép lại để giao lại cho con cháu. Vì thế
điều này cũng cần phải có sự tuyên truyền, động viên của cán bộ ngành văn hoá
đối với các nghệ nhân.
Tổ chức các buổi sinh hoạt văn hoá văn nghệ, giao lưu giữa các nghệ nhân
trong xóm, giữa xóm này với xóm khác, xã này với xã khác, đồng thời tổ chức
giao lưu trong phạm vi giữa tỉnh này với tỉnh khác cũng đã khẳng định người dân
đã chú trọng kế thừa, bảo tồn nét văn hoá truyền thống. Sinh hoạt văn hóa văn
nghệ dân gian của người Sán Dìu là một sinh hoạt văn hóa tinh thần lành mạnh, rất
phù hợp và có ý nghĩa sâu sắc đối với đồng bào dân tộc. Truyền thống văn hóa đó
cần được bảo lưu, giữ gìn và trân trọng.
Chúng tôi hi vọng những nghiên cứu về văn học dân gian dân tộc Sán Dìu
ở Thái Nguyên sẽ đóng góp một phần nhỏ bé vào việc bảo tồn, phát huy các giá
trị bền vững của văn học dân gian dân tộc Sán Dìu, để nền văn học này ngày càng
sinh động, hấp dẫn hơn, từ đó, góp phần giáo dục thế hệ trẻ của dân tộc Sán Dìu
ở Thái Nguyên ngày nay.
1
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hoá sử cương, Nxb T.P Hồ Chí Minh.
2. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia (Ngô Đức Thịnh chủ biên, Tín ngưỡng và
văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001).
3. Ma Khánh Bằng (1983), Người Sán Dìu ở Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
4. Diệp Thanh Bình (1987), Dân ca Sán Dìu, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
5. Diệp Trung Bình (1987), Dân ca Sán Dìu, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
6. Diệp Trung Bình (2002), Lễ hội cổ truyền các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hóa
Dân tộc, Hà Nội.
7. Diệp Trung Bình (2005), Phong tục và nghi lễ chu kỳ đời người của người
Sán Dìu, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
8. Bộ Văn hoá và Bảo tàng Việt Bắc (1991), Một số vấn đề lịch sử Văn hoá các
dân tộc ở Việt Bắc, Bảo tàng Việt Bắc, Thái Nguyên.
9. Các trang web: http://vanhoatra.edu.vn, Văn học và ngôn ngữ, Chim Việt
cành Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo Điện tử Thái Nguyên, …
10. Nông Quốc Chấn (1967), “Hãy khơi dòng dân ca các dân tộc thiểu số”, Tạp
chí Văn học.
11. Nguyễn Đổng Chi (1982), Kho tàng cổ tích Việt Nam, Nxb Khoa học và Xã
hội, Hà Nội.
12. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên chủ biên (2002), Giá trị truyền
thống trước những thách thức của toàn cầu hóa, Nxb CTQG, Hà Nội.
13. Chu Xuân Diên (2001), Văn hoá dân gian mấy vấn đề phương pháp luận và
nghiên cứu thể loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2
14. Đinh Xuân Dũng (2004), Văn học văn hoá - Tiếp nhận và suy nghĩ, Nxb Từ
điển bách khoa, Hà Nội.
15. Nguyễn Đăng Duy (2001), Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam,
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
16. Nguyễn Dược, Trung Hải (2006), Sổ tay thuật ngữ địa lý, Nxb Văn hóa dân
tộc, Hà Nội.
17. Vũ Cao Đàm (1999), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
18. Nguyễn Tấn Đắc (1990), Về các bảng mục tra cứu tip và môtip trong truyện
kể dân gian, Nxb Khoa học và Xã hội, Hà Nội.
19. Địa chí Thái Nguyên (2009), Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Thái Nguyên
20. Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, NXB
Khoa học xã hội, H.
21. Nguyễn Quý Đôn (2000), Tục cưới xin của đồng bào Sán Dìu ở Tam Đảo,
Tạp chí Dân tộc và thời đại, số 18, tr.23-24.
22. Ngô Văn Đức, Ngâm khúc quá trình hình thành phát triển và thi pháp thể
loại, Nxb Thanh niên, H.
23. Nguyễn Bích Hà (2008), Giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội.
24. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2009), Từ điển thuật ngữ văn
học (Tái bản lần thứ 3), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
25. Hội VHNT các dân tộc thiểu số Việt Nam (1998), Sáng tạo và bảo tồn giá trị
văn hoá, văn nghệ các dận tộc thiểu số Việt Nam”, Nxb Văn hoá dân tộc, H.
26. Hội văn nghệ dân gian Việt Nam - nhiều tác giả, (2000), Sưu tầm nghiên cứu
văn hóa, văn nghệ dân gian, Nxb văn hóa dân tộc, H.
3
27. Hợp tuyển văn thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam (1997), Nxb Văn hoá dân
tộc, H.
28. Nguyễn Thị Huế (1978), "Qua việc tìm hiểu diễn xướng một số dân ca vùng
trung châu Bắc bộ", Tạp chí Văn học, số 01.
29. Nguyễn Thị Huế (2006),“Vấn đề nghiên cứu văn học dân gian những năm
gần đây”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 01.
30. Nguyễn Thị Huế (1997), Người mang lốt - môtíp đặc trưng của kiểu truyện
cổ tích về nhân vật xấu xí mà tài ba, Tạp chí Văn học (3), Hà Nội.
31. Đinh Gia Khánh (chủ biên), Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (1997), Văn
học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, H.
32. Đinh Gia Khánh, Lê Hữu Tầng (chủ biên), (1994), Lễ hội truyền thống
trong đời sống xã hội hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, H
33. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo (2005), Từ điển Việt Nam văn hóa tín
ngưỡng phong tục, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
34. Nguyễn Xuân Kính (1998), Văn hoá dân gian những lĩnh vực nghiên cứu,
Nxb Khoa học xã hội, H.
35. Nguyễn Xuân Kính (1992), Thi pháp ca dao, Nxb Đại học quốc gia, H.
36. Hoàng Ngọc La, Hoàng Văn Toàn, Vũ Anh Tuấn (2002), Văn hoá dân gian
Tày, Sở Văn hoá - Thông tin Thái Nguyên.
37. Thành Lê (2001), Văn hóa và lối sống, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
38. Đặng Văn Lung (1997), Văn hoá dân gian những lĩnh vực nghiên cứu, Tập
1, Nxb Văn hoá dân tộc, H.
39. Đặng Văn Lung (1973), "Về các hình thức sinh hoạt dân ca", Tạp chí Văn
hóa, số 5.
40. Đặng Văn Lung (1977), "Ý nghĩa của việc nghiên cứu diễn xướng dân gian",
Tạp chí Văn hóa số 06.
4
41. Đặng Văn Lung, Nguyễn Sông Thao, Hoàng Văn Thụ (1999), Phong tục tập
quán các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, H.
42. Phương Lựu (2006), Lý luận văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục.
43. Hoàng Minh Lường (2001), Quan niệm về nghệ thuật trong văn học cổ
truyền các dân tộc thiểu số, Luận án Tiến sĩ.
44. Một số tác phẩm VHDG do tác giả sưu tầm (chưa xuất bản).
45. Hồ Chí Minh - trích phát biểu tại hội nghị cán bộ văn hóa 1958.
46. Tăng Kim Ngân (1994), Cổ tích thần kỳ người Việt - đặc điểm cấu tạo cốt
truyện, Nxb Khoa học và Xã hội.
47. Phan Ngọc, Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Văn học, H.
48. Hoàng Kim Ngọc (2004), So sánh và Ẩn dụ trong ca dao trữ tình của người
Việt, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.
49. Trần Đức Ngôn (2000), “Những đặc trưng của văn bản Văn hoá dân gian”
in trong Góp phần nâng cao chất lượng sưu tầm, nghiên cứu Văn học văn nghệ
dân gian, Nxb Văn hoá dân tộc, H, trang 21-37.
50. Miêu Thị Nguyệt, sưu tầm và biên dịch, Tài liệu chưa xuất bản.
51. Nhiều tác giả (1974), Bước đầu tìm hiểu vốn văn nghệ Việt Bắc, Sở Văn hóa
thông tin Việt Bắc.
52. Phan Đăng Nhật (1981), Văn học các dân tộc ít người ở Việt Nam, Nxb Văn
học, H.
53. Vũ Ngọc Phan (2005), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, Nxb Văn học.
54. Lê Trường Phát (1999), Thi pháp văn học dân gian, Nxb Giáo dục, H.
55. Hoàng Phê (chủ biên) (2001), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm
từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng.
5
56. Nguyễn Hằng Phương (1987), Hình tượng người khổng lồ trong loại hình tự
sự dân gian các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc và Tây Bắc Việt Nam, Luận văn
Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn, lưu trữ tại trường ĐHSP Hà Nội.
57. Nguyễn Hằng Phương, Diễn xướng ca dao theo dòng thời gian, tạp chí,
nguồn mạng Internet.
58. Lê Chí Quế, Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Võ (2001), Văn học dân gian
Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
59. Diệp Minh Tài (2001), Soọng cô dân ca dân tộc Sán Dìu, Sưu tầm, dịch
thuật và biên soạn, Tài liệu chưa xuất bản.
60. Phạm Thị Phương Thái, Nghi lễ tang ma của người Sán Dìu - từ góc nhìn
văn hóa, Nxb Đại học Thái Nguyên.
61. Trần Ngọc Thêm (1998), Tìm hiểu bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
62. Bùi Thiết, 54 dân tộc và các tên gọi khác, Nxb Thanh Niên, Hà Nội, tr 199-
200.
63. Ngô Đức Thịnh (1990), Quan niệm về folklore, Nxb Khoa học Xã hội, H.
64. Ngô Đức Thịnh (2006), Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam,
Nxb Khoa học Xã hội, H.
65. Nguyễn Thị Thu, Nguyễn Thị Tâm, Nguyễn Thành Luân, Báo cáo khoa học
đề tài Bảo tồn hát Soọng cô dân tộc Sán Dìu (xã Nam Hoà, huyện Đồng Hỷ, tỉnh
Thái Nguyên), Kế hoạch 2009, Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Thái Nguyên.
66. Trần Thanh Thuỷ, “Bảo tồn và phát huy giá trị, bản sắc văn hoá các dân tộc
Việt Nam”, Tạp chí Ban Tuyên giáo Trung ương, ngày 8-4-2011.
67. Trần Hoàng Tiến, Diễn xướng dân ca - phương thức trao truyền dân gian
trong bối cảnh hiện này, nguồn mạng Internet.
6
68.Vũ Anh Tuấn (2014), Giáo trình văn học dân gian, Tái bản lần 1, Nxb Giáo
dục Việt Nam.
69. Bùi Quang Tịnh, Bùi Thị Tuyết Khanh (2000), Từ điển tiếng Việt, Nxb
Thanh niên, H.
70. Hoàng Tiến Tựu (1998), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục.
71. Đỗ Bình Trị, Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian,
NXB Giáo dục, H.
72. Vũ Diệu Trung (2005), Lễ cấp sắc của người Sán Dìu ở Thái Nguyên, Thông
báo khoa học – Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
73. Ngô Văn Trụ, Nguyễn Xuân Cần (2003), Dân tộc Sán Dìu ở Bắc Giang, Nxb
Văn hóa Dân tộc, H.
74. Tuyển tập Dân tộc và miền núi, Nxb Giáo dục, H.
75. Từ điển Tiếng Việt(1997), in lần thứ 5, Viện ngôn ngữ, Hà Nội.
76. UBND tỉnh Thái Nguyên, Cổng thông tin điện tử, http://www.thainguyen.gov.vn.
77. Đặng Nghiêm Vạn (2001), Lý luận về tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Nxb
Chính trị Quốc gia năm 2001.
78. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2004), Tổng tập văn học dân gian của
người Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
79. Lê Trung Vũ, Diệp Thanh Bình, Đỗ Quang Tụ, Nguyễn Liễn, Lâm Quý, Lò
Giàng Páo (2012), Dân ca các dân tộc Pu Péo, Sán Dìu, Dao, Cao Lan, Lô Lô,
Nxb Văn hóa dân tộc, H.
80. Trần Quốc Vượng (Chủ biên), Tô Ngọc Thanh, Nguyễn Chí Bền, Lâm Mỹ
Dung, Trần Thuý Anh (2009), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục, H.
7
PHỤ LỤC
1. Những bài hát Soọng Cô của dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên
1.1 Tông dẹp bao dém phọng súi ben,
Dém sím súi táy dẹp phù men,
Dém sím súi táy ken súi hỵ,
Dẹp phù súi men hỵ sím lèn!
Dịch:
Lá dong gói muối, bọc to
Thả trôi dòng nước lập lờ mặt sông.
Muối tan theo nước đi cùng,
Lá dong trôi nổi đau lòng tìm ai?
1.2 Sọng xun cô
Háng cô son thói lống ngá khọi
Lý pha phát léo tháo pha hoi.
Lý pha phát léo hông sui hỵ
Tháo pha phát láo dịu lóng lói.
Dịch:
Hát vui xuân
Mùa xuân đã đến én gọi xuân về
Hoa mận nở rộ để mà đón xuân.
Hoa đào hé nở đón đầu xuân sang,
Năm mới lại tới chúng ta đón xuân về.
1.3 Lóng soóng nỵ!
8
Ký tô si soóng nỵ bút ty,
Ết nhọt soóng nhóng sam síp nhít,
Ết nhít soóng nhóng síp nghi sì!
Dịch ý:
Nhớ nàng lăm lắm nàng ơi,
Bao nhiêu nỗi nhớ trong đời gửi ai?
Ba mươi ngày một tháng dài,
Một ngày lại nhớ mười hai giờ liền!
1.4 Cộ nhít soóng lóng sút lu sộ,
Soóng lóng táy léo ký tô ngô,
Lống lóng mú tách sếnh sông tọi,
Ngạn lui sá sông lọc cong hồ!
Dịch ý :
Ngày ngày ngồi ở ven đường,
Nhớ chàng thơ thẩn, vấn vương trong đầu.
Nhịn ăn, nhịn uống âu sầu,
Hai bên khóe mắt tuôn trào lệ rơi.
1.6. Nữ:
Nhóng kim sộ sọi phố chạo thòi,
Sông síu chép lòng ết thóc loi,
Ký tô en loi nhóng sệch lẻo,
Mun nị mại sọi na cai thòi?
Dịch ý:
9
Chúng em ngồi cạnh bếp hồng,
Hai tay đón cháp mà lòng xuyến sao.
Trầu kia mua ở chợ nào?
Để em được biết ta vào cùng mua!
1.7. Nam:
Hảo cọi pha phòn, hảo loi en,
Loi en ốc chộng mạo lẻo sèn,
Nhóng lý dịu sim sệch ết hói,
Phói cui si soóng loóng sam nèn !
Dịch ý:
Cơi trầu có cả thuốc lào,
Nhà trồng tất cả tiền nào phải mua!
Có tâm cùng hưởng một tua,
1.8. Ềnh ếnh ênh ếnh
Khi về nhớ mãi ba mùa, ba năm!
Ềnh ếnh ênh ếnh
Ềnh ếnh bồng
Ếnh thoi ngoi mói hị tà lồng
Ềnh ếnh ênh ếnh
Ếnh ếnh ếnh
Ềnh ếnh hụn
Ếnh thoi mói hị là chụn
Thệnh ti nu thói nhìn tá thét
10
Thệnh ti nỉ thói nhìn tá nghèn
Tá táo nghèn sén bí mói tại
Tai thói háo cang then
Cang then lộ cốc lộ máy dếch
Cốc cốc máy máy chịn nghen sên
Ềnh ếnh ênh ênh
Chía công tá ác chấy
Chía phố nem dam chấy
Mói mạo vị, mói vị ngòi nạ tại chay
Hen… Ềnh ếnh ênh ếnh
Dịch:
À á ời… à á ơi
Em ơi em cứ ngủ ngoan
Mai ngày em lớn đi thăm ruộng đồng
À á ời à á ơi
À á ời à á ơi...
Em ơi em cứ ngủ đi
Mẹ còn đi cấy biết khi nào về
Còn bao công việc bộn bề
Cha còn đi rẫy, giờ về còn lâu
Ngủ đi cho nhẫn cho vòng
Em đeo cho thỏa nhọc nhằn mẹ cha
1.9. Sệch phan bảo!
11
Mun lòng cóng cạ ký tô sèn?
Dịu sèn ben bá sén vàn chọn,
Mù sèn sé si kỵ lối nèn!
Dịch:
Bữa cơm chung với các anh,
Hỏi rằng định tính giá thành là bao?
Có tiền nên trả cho mau,
Không tiền ký nợ trả vào cuối năm!
1.10.
Hô phếnh dịu
Sọng theo sếnh cô hô phếnh dịu
Sị ben phếnh dịu sộ sênh phếnh
Sị ben phếnh dịu sáy sộ leo,
Thông vúi chí moi leo cô sếnh.
Dịch:
Chúc mừng bằng hữu
Hát chào gửi tới bạn làng
Bốn bên bằng hữu từng hang ngồi chơi,
Bốn bên bằng hữu ta ơi
Cùng nhau ca hát vui cười hân hoan.
1.11. Tông dẹp bao dém phọng súi ben,
Dém sím súi táy dẹp phù men,
Dém sím súi táy ken súi hỵ,
12
Dẹp phù súi men hỵ sím lèn!
Dịch:
Lá dong gói muối, bọc to
Thả trôi dòng nước lập lờ mặt sông.
Muối tan theo nước đi cùng,
Lá dong trôi nổi đau lòng tìm ai?
1.12 Sọng xun cô
Háng cô son thói lống ngá khọi
Lý pha phát léo tháo pha hoi.
Lý pha phát léo hông sui hỵ
Tháo pha phát láo dịu lóng lói.
Dịch:
Hát vui xuân
Mùa xuân đã đến én gọi xuân về
Hoa mận nở rộ để mà đón xuân.
Hoa đào hé nở đón đầu xuân sang,
Năm mới lại tới chúng ta đón xuân về.
1.13. Mời nước ( hoẹn sà)
Sá sọi cao tun mếnh hoi nhọn,
Vố sọi tay then mếnh long pha.
Kim mạn nhóng lói tạo nỵ sụy,
Mạo hém thạm sủi sệch boi sà.
Dịch ý:
13
Đồi cao chưa có chè non,
Ruộng thấp hoa lúa vẫn còn trắng tinh.
Đêm nay nàng tới xứ anh,
Đừng chê, khi uống chè xanh quê chàng.
1.14. Mời trầu (hoẹn loi)
Hảo lói loi!
Lóng lý síu thùi quén mú mòi.
Nhóng lý dịu sim sệch ết hói,
Cui ca nhóng lý kỵ man thoi.
Dịch ý:
Mời nàng một miếng trầu cay,
Anh cuốn chưa đẹp bởi tay vụng về.
Xin nàng ăn thử đừng chê,
Về nhà nhớ một, về quê nhớ mười.
1.15. Da dịu bi nòng da dịu loi,
Hảo cọi pha phónbống phát lói,
Bống lói ký tô nhóng sệch lẻo,
Ky sí chang dịu công lao phòi?
Dịch ý:
Có trầu lại có cả cau,
Có cơi bê đến cùng nhau ta mời,
Bao nhiêu cũng hết chàng ơi,
Công lao biết trả cả đời cho ai?
14
1.16. Nhóng kim hô hỷ long hô hỷ
Sáy ca hô hỷ ngọi lão thai
Sị ben lão thai sáy sộ leo,
Tánh ngọi sẹo nén leo pha cai!
Dịch ý:
Nàng cùng ta gửi lời sang,
Cùng chào các cụ gà làng thôn ta.
Bốn bên cụ ông, cụ bà,
Cùng nghe giới trẻ hát ca vui cười.
1.17. Chào các cụ (Hô lão thai)
Sọng théo sếnh cô hô lão thai
Sị ben lão thai sộ phai phài,
Sị ben lão thai sáy sộ leo,
Tánh ngọi sẹo nén leo pha cai.
Dịch ý:
Kính chào các cụ làng ta
Ngồi quanh tứ phía cụ bà, cụ ông
Chúng cháu đứng trước đám đông
Xin phép ca hát mặn nồng trao duyên.
1.18. Moọc vúi váng say dịu soi hén
Ết bón coong hú lip lam ben
Đoọng sin coong hú cô ết bón
Cạo thao hoi thoi sênh séo nén.
15
Dịch:
Đừng có làm việc sai trái sẽ có tội
Quyển sách giang hồ mười ba chương
Hát hết quyển sách giang hồ
Dạy cho đời sau sống lương thiện.
1.19. Ca chông hụ cụi dịu nhín ben
Lạn tô phín khống nhín kẹn sen
Cháo mạn nghi lun khín cang chộng
Moọc thoi xin hán ca lý mén.
Dịch:
Nhà giàu có hạnh phúc có người khen
Lười biếng nghèo đói ta coi thường
Sớm tối, xuân thu cần cù cày cấy
Đừng có lười thân ngủ cả ngày.
1.20. Song théo sênh cô hô son thói
Son thói son mỵ vạt nói nói
Son thói báo tách thai hu cụi
Nhóng kim hỵ chọn tách lói phói.
Lời dịch :
Em chào đầu xóm cuối thôn
Chân em dạo bước đường mòn quê anh
Dân làng đoàn kết ấm no
16
Em nay đi lại chơi cùng các anh.
* Những bài hát mang chủ đề ca ngợi Đảng và Bác Hồ chủ yếu là những bài do
nhân dân tự sáng tác, hầu hết không có trong sách cổ:
1.1 Sọng théo sếnh cô hô hý Đảng
Hô hý súi nám chênh ết ca
Bát sịp lộc nén dịu soóng chọn
Hú công hay dả súi hay ca.
Dịch lời:
Hát một bài ca dâng lên Đảng
Đảng ta lãnh đạo nước non nhà.
Tám sáu xuân Đảng ta nhớ lại
Bác Hồ là cha, nước là nhà.
1.2. Sọng théo sếnh cô hô hú công
Hú công sút tách chênh suy chong
Ngú phong sỵ cóc nhín hỵ cộ
Cui tao sui nam chang on thênh.
Dịch lời :
Hát một bài ca ca ngợi Bác
Bác Hồ lãnh đạo nước non nhà
Năm châu bốn biển người đi khắp
Về đến Việt Nam mới đặt tên.
1.3 Sếnh cô hô théo Bác Hồ cao
Súi nám Bác Hồ tô công láo
17
Bác Hồ cao tách thống trị háo
Thống trị sút tách pháp lút cao.
Dịch lời:
Tình ca Bác Hồ chỉ đạo cao
Việt Nam có Bác nhiều công lao
Toàn Đảng giáo dục nhân dân hiểu
Công Bác vào Đảng nhất trí cao.
1.4 Sọng théo sếnh cô Hô síu nám
Ký tô công hu thói láo tam
Thai séo công hu thói tam láo
Tánh ngại nhín mín tách sênh hám.
Dịch lời:
Tình ca chúc nước Việt Nam
Bao nhiêu sự việc Đảng lo toan
Việc nào khó khăn Đảng lo hết
Toàn dân no ấm được khang trang.
2. Một số câu đố và câu tục ngữ dân tộc Sán Dìu
2.1. Sam nhọt sênh mềnh lày xong láo.
(Tết tháng 3 (tết Thanh Minh) cày vỡ ruộng xong).
2.2. Ngũ nhọt chét hạ xong dong.
Tết tháng 5 (5-5 âm lịch) phải gieo mạ xong.
2.3. Xết nhọt chét lày si xong.
Tết tháng 7 (14-7 âm lịch) phải cày cấy xong.
18
2.4. Công láo mong tông chí, mạo mong nèn
Mong nèn, sọc căng thèn.
Đi ở mong đông chí, không mong tết cả.
Mong tết cả phải làm vụ đông.
2.5. Xết nhọt chộng xọn, cửu nhọt chộng xông.
Tháng bảy giồng tỏi, tháng chín giồng hành.
2.6. Tọi lày sam xác sam, háo lày lu háo tam.
Bắp cày ba thước (mỗi thước 2 gang) dễ cày lại dễ vác.
2.7. Sái lọc này mạo nọn quác, mạo si vò tách.
Si vồ lu nọng công.
Dẫm xuống đất không nóng chân thì không cấy
Cấy nữa chẳng qua là cấy vớt mà thôi
2.8. Lách chốc sún, kíu nhọt sang họi sim, lu lặng;
Sang họi ben, lu nhẹt.
Măng tre vào tháng 9 âm lịch, nếu mọc ở giữa búi thì rét;
còn mọc ở bên ngoài trời thì nóng.
2.9. Ỏng bầu, trụ tọi tay, lu họn, trụ trọi cao, thai súi chịm.
Con ong bầu vẽ nếu làm tổ thấp thì trời thì trời sẽ hạn hán;
còn nếu làm tổ trên cao thì sẽ bị lũ lụt.
2.10. Nìm suy, sị nhót phạc va tô, tách cháo vồ.
Hồng va tô, tách sì vồ.
Cây sim nở hoa vào tháng 4 âm lịch, nếu hoa trắng nhiều thì
được mùa lúa sớm, còn nếu hoa đỏ nhiều thì được mùa lúa
muộn.
19
2.11. Khàm suỳ lọc thòng, sam cheo nọn.
Khàm suỳ hý thòng, sết cheo lạng.
Cóc xuống ao, nắng ấm 3 ngày.
Cóc lên bờ, rét 7 ngày...
2.12. Xen cán, man cán, cán sọc lan tanh chán.
(Lấy vợ lấy chồng đừng quá kén chọn, chọn nghìn người vạn người lại chọn
phải người không ra gì, chọn phải cái bát mẻ).
2.13. Chang nhìn ốc sạ, chẹm nhìn thèn.
Hu cụi rềnh va tách kí nèn.
(Tranh cướp vợ người, cướp ruộng người
Vinh hoa phú quý được mấy mươi!)
2.14. Sam sòng hụ sòng, sệch sí lạn hu nhòng.
Quần dài, áo dài, ăn chết cả vợ lười (những người lười lao động hay quần áo
dài đi chơi thì sẽ trở thành người túng bấn, làm khổ cả vợ con).
2.15. Dọng nàm bút cạo, bút duỳ dọng luỳ.
Dọng nhuý bút cạo, bút duỳ dọng chuy.
(Nuôi con trai mà không dạy bảo đến nơi đến chốn để nó hư hỏng, thất đức thì
thà nuôi con lừa; còn ngược lại, nếu nuôi con gái mà không dạy được để nó
không nghe lời cha mẹ thì thà nuôi con lợn còn hơn).
2.16. Nẹm phì mạo nẹm slim.
(Đẹp vỏ nhưng không đẹp ruột.)
2.17. Nhất nhân nhất khẩu tại điền điện
Nhị nhân điền biên nhất thành ngân
Đại mật đả đòng điền trung quá
20
Nữ mẫu trú tại giang thủy tiên
Dịch:
Một người một miệng trên mặt ruộng
Hai người bên đồng chẳng thành dải
Cây to đem đánh qua trong ruộng
Mẹ con ở lại bên sông nước
Giải nghĩa: Câu “Phúc như đông hải”.
2.18. Thiên tự vô thành thiên
Bát tự bài lưỡng biên
Nhật hữu tại hoà hạ
Quái tại phật diên tiền
Dịch:
Chữ Thiên không phải thiên
Chữ bát bày hai bên
Nhật có ở dưới thóc
Quẻ ở trước mặt phật.
Giải nghĩa: Chữ hương.
2.19. Bên tả phẩy một phẩy
Bên hữu ngoạch một ngoạch
Con quạ cắp con trạch?
Giải nghĩa: chữ Cửu.
2.20. Cây gì gốc có quả, ngọn có hoa?
Giải nghĩa: Cây lạc.
21
2.21. Vỏ xanh bao ruột trắng
Ruột trắng đựng tép con?
Giải nghĩa: Quả bưởi.
2.22.
Sèn sì lống nhi thồng nèn
Hòi sì thai cô thành hút chong
Chác ốc thai cô tác báo nọn
Dịu ngoi bọn tú vi ken hông?
Dịch :
Trước đây anh cùng tôi vốn đồng niên
Sau này anh trở thành hạt mẩy vàng
Gia đình anh được no ấm sung túc
Còn tôi lép kẹp rơi lắt lay?
Giải nghĩa: Hạt thóc lép.
2.23.
Thai chuy thèo cộ then lềnh
Tú hông hông?
Dịch: Con lợn to nhảy qua bờ ruộng/
Bụng thì trống không?
Giải nghĩa: Cái gầu tát nước.
3. Một số truyện cổ tích dân tộc Sán Dìu:
22
3.1. Truyện Vua Cóc
Một câu chuyện có tính chất huyền thoại đã được người Sán Dìu lưu
truyền từ đời này sang đời khác nhằm chê bai sự dối trá và khuyên răn con người
nên ăn ở có đức hạnh, chỉ làm việc thiện, không làm điều ác thì đời sau con cháu
sẽ được hưởng phúc lành. Truyện kể rằng: Có một người họ Trương làm quan tri
huyện, thụ ở Trân Châu kết hôn với một người có tên là Nàng Ba ở cùng huyện.
Vợ chồng lấy nhau trên 10 năm mà chưa có con nên hằng ngày hai ông bà chú
tâm làm việc thiện và chăm chỉ thắp hương cầu Phật. Sau ba năm ba tháng thì
người vợ có thai và sinh ra một con cóc. Nàng Ba cho là điềm quái gở định đánh
chết cóc nhưng khi nghĩ lại thì thấy không đành tâm. Cóc thường ở sau vườn,
khi đói lại trở về bú mẹ. Sau một thời gian dài đi làm quan, quan tri huyện trở về
thăm vợ và cũng là để được xem mặt con. Nàng Ba dẫn chồng ra vườn, con cóc
nhảy lên người khiến ông sợ hãi. Hai vợ chồng mang nặng một nỗi sầu… Khi
trong nước loạn lạc, vua treo bảng ở triều đình báo loạn và tìm người diệt giặc
Man Di giữ nền thái bình cho đất nước. Một hôm Cóc cùng cha ra ngoài phố,
thấy bảng vua treo trước cửa triều đình liền nhảy lên ngậm bảng mang về. Thấy
vậy, hai vợ chồng rất hoang mang bèn gọi cóc ra mắng: Không phải là người sao
dám làm việc đó. Nếu không dẹp được loạn sẽ mắc tội với triều đình. Cóc bày tỏ
lòng mình và quyết tâm xin đi đánh giặc. Vua cho thẩm vấn người lĩnh bảng.
Sau ba ngày tướng sĩ trong triều nổi chiêng trống nghênh đón người lĩnh bảng
đến Man Man. Tới triều đình, bị tướng quân mắng, Cóc liền nhảy đến trước mặt
vua xin được đi đánh giặc. Cóc chỉ xin vua cho một con ngựa lớn, một lá cờ
hồng, hai chiếc côn dài và 100 quân. Sau đó Cóc nhảy lên lưng ngựa phóng đi.
Tới đất Man Man, Cóc ở trên lưng ngựa cao giọng quát quân Man Di. Quân Man
Di rất coi thường Cóc sai quân tướng bắt cóc lột da. Cóc ngồi trên mình ngựa
đầu bốc lửa, lá cờ phần phật tung bay phát ra lửa khói thiêu trụi quân Man Di.
Dẹp xong giặc Man Di, Cóc trở lại đất đế vương trình tấu công trạng với vua.
Vua ban cho ba trăm gánh bạc để Cóc trở nuôi mẹ nhưng Cóc không nhận. Cóc
trình với vua rằng, trước khi đi dẹp giặc Man Di, vua đã nói sẽ gả công chúa cho
23
ai dẹp được loạn nay phải giữ lời hứa của mình. Vua không muốn gả con gái cho
chàng Cóc liền nghĩ ra một kế để trì hoãn. Nhà vua cho gọi ba nghìn cô gái ăn
mặc giống hệt nhau đến để nhận vợ. Đến canh ba, chàng Cóc được thần linh báo
mộng rằng công chúa là cô gái thứ sáu. Tối đến, khi hai vợ chồng lên giường
ngủ, trong lòng công chúa lo lắng lạ lùng. Cho tới canh năm, khi mở mắt ra,
công chúa thấy tấm da cóc bị trút bỏ, bên mình là một bậc quan lang. Trời vừa
sáng, công chúa vội trở về báo với vua cha rằng chàng Cóc thực là đấng trai tài,
bậc quân nhân và trình lên vua cha tấm da cóc vàng. Vua thấy tấm da cóc vàng
đẹp đẽ liền mặc vào song không thể nào cởi ra được. Các quan trong triều thấy
quái tinh liền đem đao kiếm giết chết cóc và chàng Cóc được lên làm vua. Nhân
dân trăm họ từ đây được hưởng thái bình.
Cũng còn có một dị bản khác nói về vua Cóc, dị bản này gắn liền với
tộc người Sán Dìu. Có một số chi tiết khác đó là: bố mẹ chàng Cóc là nông dân,
họ lấy nhau hai mươi năm rồi chưa có con. Sau sinh ra một con cóc. Diễn biến
tiếp theo như câu chuyện trên song kết thúc có sự khác biệt: Tên vua tham tàn
nhìn thấy tấm da cóc đẹp tựa cẩm bào liền khoác thử tấm da đó vào người.
Trong nháy mắt vua đã biến thành con cóc xấu xí. Thấy vua cóc như vậy, nhiều
người định chém chết nhưng công chúa thương cha đã đem cóc quẳng vào gậm
giường. Thoát chết nhưng từ đó mỗi khi trái nắng trở trời, vua cóc phải nghiến
răng kèn kẹt để báo cho thiên hạ biết rằng sắp có mưa, có gió.
3.2. Tướng quân cụt đầu
Ngày xưa có một tướng quân tài ba, xuất chúng, đánh đâu được đấy bất
khả chiến bại, làm kẻ thù kinh hồn bạt vía. Chẳng may trong một trận chiến bị
quân địch bủa vây và bị chém đứt đầu. Khi đầu vừa rơi xuống đất tướng quân
cũng vừa kịp nhặt lên, lắp lại và phi ngựa thẳng về nhà. Về đến nhà, tướng quân
cất tiếng hỏi mẹ:
- Mẹ ơi! Đầu người chặt đứt còn mọc lại được không mẹ?
Mẹ tướng quân trả lời:
24
- Con ơi con, cây chuối chặt đứt còn mọc lại được, chứ đầu người làm sao
mọc lại được nữa, con! Mẹ tướng quân vừa dứt lời, cái đầu trên cổ tướng quân
liền rời ra va dơi xuống đất. Nghe vậy, vợ tướng quân chạy ra, nhặt lấy đầu
chồng ôm vào lòng khóc thảm thiết, hết ngày này qua ngày khác. Vì đau đớn
thương xót, muốn luôn nhìn thấy mặt chồng, người vợ đã giữ cái đầu của người
chồng lại và cho vào cái bồ đựng thóc.
Ngày ngày người vợ tảo tần nấu nồi cơm to, đổ vào bồ cho đầu chồng ăn.
Ngày qua ngày lại, cái đầu biến hóa thành sâu, cứ thế lớn dần, lớn dần. Một
hôm, vợ tướng quân đi vắng nhà, thường ngày mẹ tướng quân không hiểu vì sao,
hàng ngày con dâu bà lại nấu nồi cơm to, chẳng biết một mình ăn hết hay đổ đi
đâu? nhân cơ hội con dâu bà đi vắng, bà vội vào buồng con dâu, xem khắp
buồng không thấy gì lạ, chỉ thấy cái bồ đựng thóc, bà đến đó trèo lên, mở nắp bồ
ra thấy đầy một bồ sâu đang bò, khiến bà sợ phát khiếp, khi bình tĩnh lại bà đã
nghĩ cách và đun sôi nồi nước to rồi đổ vào cái bồ làm cho toàn bộ số sâu trong
bồ chết sạch. Vợ tướng quân về thấy thế òa óc thảm thiết, mở nắp bồ ra thì thấy
mỗi con sâu đang hình thành một người một mã chiến đang sắp đến ngày ra trận.
Vợ tướng quân đau đớn vô cùng, vì thương nhớ chồng, không muốn xa hình
bóng chồng nên vợ tướng quân hót tất cả số sâu trong bồ ra để ở trước cổng nhà.
Vợ tướng quân mừng vui khôn xiết vì hôm sau số sâu đó đã mọc thành
một cây trúc. Ngày qua ngày cây trúc lớn dần lớn dần, cao to, cao mãi vút tận
trời xanh, mọc thành cả rừng trúc. Cùng với thời gian đó cây trúc bắt đầu hóa
phép tạo mưa tạo gió bão, ngày ngày gió bão đưa lá trúc bay thẳng đến cung vua
của kẻ thù, lá trúc không ngừng rơi, bỗng chốc cả cung vua tràn ngập lá trúc,
khiến vua và cả triều đình kinh ngạc, ngỡ ngàng, bức xúc vô cùng. Rõ ràng xung
quanh cung vua không hề có cây trúc nào mà lại có lá trúc rơi ngạp cả cung vua.
Vua liền triệu tập khẩn cấp quan thần triều đình đến thiết triều, sau đó triều đình
quyết định sai binh lính tỏa đi tứ phương lần tìm theo hướng gió đã đưa lá trúc
bay đến. Quân triều đình tìm mãi tìm mãi cuối cùng cũng tìm thấy nơi cây trúc
25
mọc, đến nơi quân lính triều đình thấy cây trúc đứng sừng sững, uy nghi, mọc
thành rừng trúc, cao vút tận trời xanh, càng nhìn quân lính triều đình càng thán
phục nhưng trong lòng lại vô cùng bực tức cây trúc, kẻ đã gây ra họa nơi cung
vua của họ. Viên tướng chỉ huy liền ra lệnh cho quân lính triều đình ra sức chặt
phá, tận diệt cây trúc những đoàn quân của triều đình, bao nhiêu dao, kiếm, búa,
rìu, đủ thứ mà không ai chặt được cây nào vì cây trúc cứng vô cùng, quân triều
đình thay nhau chặt phá, tận diệt, bao nhiêu binh khí được huy động đến nhưng
cứ đụng vào cây trúc lại bị sứt mẻ và trở nên vô dụng không tài nào triệt hạ được
cây trúc, quân lính triều đình đành bó tay. Cuối cùng họ nghĩ ra cách mời thầy
địa lý ở gần đó, người am hiểu về tập tục, thông tuệ mọi sự trong vùng đất để hỏi
ông ta mưu kế triệt hạ cây trúc. Thầy địa lý nọ đến, xem xét và quan sát vùng
đất, địa thế mà cây trúc đang mọc thầy ta quả quyết rằng, cây trúc này duy nhất
một thứ có thể triệt hạ được nó là lấy con dao trước đây đã dùng làm dao cắt rốn
đứa bé lúc mới sinh ra. Quân lính triều đình nghe phán vậy mừng rỡ vô cùng,
liền chạy vào trong nhà hỏi người mẹ nơi để con dao trước đây dùng để cắn rốn
tướng quân lúc sinh ra. Quả thật, quân lính triều đình lấy con dao đó ra, gõ nhẹ
lên thân mỗi cây trúc, từng từng cây một bị vỡ ra và từ từ đổ xuống. Cả rừng trúc
bỗng chốc bị đổ xuống, trong thân mỗi đốt cây trúc đang hình thành một người
một ngựa chiến và có sẵn binh khí trong tay sắp đến ngày ra trận.
Khi triệt hạ được cây trúc, để trừ họa về sau, nhà vua liền cho quân lính gom
toàn bộ cây trúc chất cao như núi rồi lấy lửa đốt thành tro, rồi hót toàn bộ số tro
đó đổ xuống sông, suối. Nhà vua và triều đình ngờ đâu tro cây trúc lại biến hóa
và mọc thành cây Lỳ Slec Chốc (cây trúc nước). Cùng với thời gian, cây trúc
nước không ngừng lớn lên từng ngày, đâm trồi, mọc dày đặc, như gieo mạ, cây
kim rơi xuông cũng chẳng lọt, khiến không hạt nước nào chảy lọt, nước các con
sông đều bị chặn đứng. Dần dần cây trúc nước đã mọc thành thành lũy dâng
nước ngày một lên cao lên cao mãi, nước lên cao bao nhiều thì cây trúc nước
mọc lên cao bấy nhiêu và cuối cùng cung vua kẻ thù của tướng quân bị tràn
ngập, bị nước lũ tàn phá, đâu đâu cùng là nước, kéo dài ngày qua tháng lại khiến
26
vua và triều đình vô cùng lo lắng và khẩn thiết triệu tập quần thần triều đình đến
thiết triều tìm mưu tính kế để giải trừ hiểm họa nước lũ.
Cuối cùng triều đình nghĩ ra cách mời người giỏi tế lễ, bày mâm cỗ, lễ vật
thật hậu hĩnh đưa lên thuyền chở đến nơi trước đây đã đổ tro cây trúc. Triều đình
và vị chủ tế lễ thay mặt nhà vua ăn năn, xin tướng quân cụt đầu mở rộng lòng từ
bi, khoan dung độ lượng, rủ lòng thương xót đến chúng sinh và triều đình hứa sẽ
lập đền thờ và đời đời dâng lễ và hương khói đầy đủ cho tướng quân... Cuối
cùng Tướng quân cụt đầu cũng chấp thuận đồng ý lui binh, nước từ từ rút dần rút
dần vì thế mà triều đình tránh được hiểm họa lũ lụt. Từ đó tướng quân cụt đầu
buộc đố phương là triều đình phải lập đền thờ và đời đời hương khói và trở nên
bất tử. Hồn thiêng tướng quân cụt đầu đã hóa vào cây Lỳ slec chốc (trúc nước)
quanh năm xanh tốt tươi xanh mãi cùng thời gian.
3.3. Mạ Sìn
Mạ Sìn có cha mẹ giàu sang, nhưng đến khi lấy vợ chàng lấy phải cô vợ
ăn chơi dẫn đến phá sản. Vợ Mạ Sìn bỏ đi, Mạ Sìn từ đó phải làm nghề gánh củi
bán sống qua ngày. Một hôm, Mạ Sìn gánh củi đến bán đúng vào nhà người vợ
cũ của mình. Nhận ra người chồng cũ, người vợ mang cho Mạ Sìn bát cơm mèo.
Mạ Sìn suy nghĩ ăn thì xấu hổ mà không ăn thì chết đói.
Người chồng mới thương tình Mạ Sìn dù sao cũng từng là chồng cũ của
vợ nên cho một gói cơm, Mạ Sìn đeo gói cơm ra khỏi rừng mới dám ngồi ăn vì
sợ xấu hổ. Nghĩ đến người chồng mới của vợ với nửa thù hận vì anh ta là người
cướp vợ mình, nhưng cũng nửa chịu ơn vì anh ta chính là người đã cho gói cơm
cứu sống mình. Bỏ qua thù hận, Mạ Sìn quyết tâm học chữ. Mạ Sìn viết chữ
trên lá cây, viết trên đất, trên gốc cây, rồi tìm thầy học và thi đỗ Trạng Nguyên.
Mạ Sìn được ban chức quan tri phủ và vềlàm quan trên chính quê hương của mình.
Mạ Sìn không yêu cầu tất cả mọi người ra đón anh vinh quy bái tổ về
làng, mà chỉ yêu cầu một đội gồm những người phụ nữ trong làng tuổi từ 17 đến
20 để làm đường sao cho ngựa đi không thụt. Trong đội làm đường ấy có vợ của
27
Mạ Sìn, người vợ nhận ra chồng nhưng không dám nói. Biết thế nào chồng cũng
trở về ngôi nhà cũ, cô vợ chờ sẵn rồi quỳ xuống khóc lóc xin lỗi vì lúc này cô ta
đã ăn chơi phá sản nhà chồng mới. Người vợ mong muốn được sum họp với Mạ Sìn.
Mạ Sìn cũng không nỡ từ chối nên đưa ra cách giải quyết: hỏi con vật xem
nó gật đầu thì vợ chồng sum họp, cón lắc đầu thì đôi lứa chia lìa. Vì hỏi người
thì muôn người hỏi làm sao hết, hỏi trời thì trời đâu có thấu. Chi bằng hỏi ngay
con ngựa, bê một chậu nước đổ lên đầu ngựa, nếu ngựa gật đầu đồng ý thì đón
lấy nước ở phía dưới, không được hết cũng được một nửa chậu nước. Người vợ
làm theo, vừa té nước vào mắt ngựa, ngựa khó chịu liền lắc đầu, biết vợ chồng
không thể sum họp, người vợ xấu hổ tự tử chết.
3.4. Mòn Lồng
Mòn Lồng mới lấy vợ đúng lúc đất nước có giặc ngoại xâm, tuân theo
chiếu chỉ của nhà vua anh ta lên đường đánh giặc. Trước khi đi Mòn Lồng có
dặn vợ, chiến trường đầy rẫy hiểm nguy, nếu chết thì hồn trở về, nếu may mắn
còn sống thì người sẽ trở về. Rồi bảo vợ nuôi lấy con gà mái, khi anh ta trở về sẽ
thịt gà cúng tạ tổ tiên. Nếu anh ta chết đúng Thanh Minh thịtcon gà làm giỗ.
Người vợ ở nhà, sau ba năm không có tin tức của chồng, người vợ đã qua
lại với ông sư. Không ngờ, bốn năm sau Mòn Lồng trở về, anh ta mang quân
giấu chỗ khác, rồi cải trang bẩn thỉu thành người ăn xin về ăn xin đúng nhà của
mình vào đúng ngày Thanh Minh.
Vợ Mòn Lồng thấy người ăn xin thì mang cho ba miếng thịt gà, nửa chén
rượu và cho ngồi ăn ở hiên nhà. Ăn xong Mòn Lồng xin phép được ở lại vì
không có chỗ nào để đi, người vợ thương tình người ăn mày cho ở dưới bếp.
Tối hôm đó, nhà sư đến tòm tem vợ Mòn Lồng, nửa đêm nhà sư kêu đầu
trọc lạnh. Vợ Mòn Lồng nói: “Đầu trọc thì kéo chăn mà đắp”. Dưới bếp, người
ăn mày cũng kêu chân lạnh lắm. Người vợ nói vọng xuống: “Chân lạnh lấy gio
28
ấm mà vùi”. Mòn Lồng làm theo, người vợ thấy ăn mày lấy gio bếp vùi chân thì
không còn chú ý đến người ăn mày nữa.
Hôm sau, ăn mày ra đi. Ba ngày sau, Mòn Lồng kéo quân trở về, cả làng
ra đón. Người vợ nhận ra chồng mình, quỳ lạy. Mòn Lồng đến trước mặt vợ:
- Trong thời gian ta đi vắng, ở nhà có gì sai bảo cho nhà quan biết?
Vợ Mòn Lồng:
- Thưa ngài, không có gì sai cả.
Mòn Lồng hỏi lại:
- Không có gì sai à?
Sau đó, người vợ chuẩn bị chỗ ăn nghỉ cho Mòn Lồng, thấy chồng mấy
năm không về mà vẻ mặt không vui, nên nhắc lại lời căn dặn của chồng ba năm
trước. Mòn Lồng bình thản nói:
- Ba năm thịt gà mái, thịt gà được ăn ba miếng, rượu được uống nửa ly.
Cảm ơn đã cứu thằng ăn mày.
Người vợ giật mình vội quỳ lạy và thừa nhận mọi chuyện. Mòn Lồng cho
vợ hai lựa chọn: Thứ nhất, nhà quan tha thứ nhưng không được làm vợ cả mà
phải xuống làm vợ lẽ. Nhưng xưa nay không có việc ngược đời như vậy, không
thể đảo lộn việc trời đã định. Thứ hai, viết giấy từ chồng, chữ không giỏi thì nhờ
thầy đồ viết, nhưng nhất định phải viết được tên mình bên trên. Hẹn ba ngày sau
trả lời. Vợ Mòn Lồng xấu hổ, nhảy sông tự tử chết.
Mòn Lồng hối hận, cảm thấy cô độc nên mang quân về triều đình. Trái tim
Mòn Lồng đã chết vì người vợ, tất cả do chiến tranh gây nên, anh ta quyết định
từ quan. Sau đó, anh ta lên ngựa một mình đi vào vùng núi sinh sống, cuộc sống
sau này như thế nào không ai biết.
3.5. Người con nuôi có hiếu
29
Ngày xưa, có hai vợ chồng nhà giàu, đẻ được rất nhiều con, các con dều
được cho ăn học. Một hôm, trước cửa nhà xuất hiện một đứa trẻ ăn xin. Thấy
đứa trẻ khôi ngô, họ đem về nhận làm con nuôi. Người con nuôi vốn chịu khó,
thường mò cua bắt ốc về cho cha mẹ nuôi, mong báo đáp công ơn nuôi dưỡng
của cha mẹ.
Đến tuổi trưởng thành, cha mẹ nuôi cưới vợ cho anh ta và cho ra ở riêng.
Cuộc sống khó khăn, người con nuôi hàng ngày phải lên rừng đào củ mài về để
nuôi vợ con. Một hôm, người cha ốm gọi tất cả các con về và ra điều kiện nếu
trong các con ai mang cái gì ông ăn thấy ngon thì ông sẽ cho thừa kế.
Các con đẻ mang thịt hươu, thịt nai, thịt lợn thịt gà đến ông đều lắc đầu.
Người con nuôi không biết mang gì đành nấu cháo củ mài mang đến mời cha
nuôi. Trên đường đi, người con nuôi thấy một cây khế, vì đói quá nên hái khế ăn.
Không ngờ, ăn vào thấy ngọt ngon, anh ta liền hái một xâu mang đến biếu cha
nuôi. Người cha nuôi ăn cháo củ mài, ăn khế ngọt thấy ngon, trong lòng cảm
động lắm. Nhưng ông vẫn muốn thử thách các con một lần nữa.
Trước khi đọc di chúc, ông yêu cầu các con về làm chuồng trâu. Những
người con đẻ thi nhau chọn các loại gỗ tốt làm chuồng kiên cố. Riêng người con
nuôi vì cuộc sống nghèo khó nên không có gì làm chuồng trâu, liền lên núi chặt
tre về làm chuồng trâu. Tre cắm xuống đất thì mọc mầm.
Người cha sai người cho đàn trâu ra bãi đất trống và dặn không được đuổi,
trâu về chuồng của ai thì người con ấy được. Trâu thấy tre xanh tốt cả đàn về
chuồng của người con nuôi, người con nuôi được hưởng đàn trâu.
Còn nhà cửa ông làm di chúc, viết làm hai bản, một bản đưa cho chánh
tổng giữ, một bản cho một người con đẻ có đạo đức mà ông tin tưởng. Với nội
dung: “Toàn bộ tài sản tôi cho con rể, người ngoài cấm xâm phạm”.
30
Nhưng trong bản di chúc đưa cho chánh tổng giữ đem đọc cho cả làng
nghe, do nghỉ hơi sai, nên chánh tổng đọc: “Toàn bộ tài sản tôi cho con, rể người
ngoài cấm xâm phạm”. Thế là người con đẻ có đạo đức được thừa kế nhà cửa.
4. Phỏng vấn các nghệ nhân dân tộc Sán Dìu
Những ngày đầu tiên đi điền dã, cũng có lúc tôi cảm thấy nản chí. Bởi lẽ
giữa guồng quay của cuộc sống hiện đại, người đi tìm về vốn văn hóa và văn học
dân gian dân tộc thiểu số mọi người đều cảm thấy xa lạ. Đến với làng của người
Sán Dìu hỏi thăm ban đầu người dân còn dè chừng. Bởi lẽ, biết bao những vụ
đội lốt “nghiên cứu, khảo cổ” để lừa gạt người dân.
Là một người con của dân tộc Sán Dìu tôi không cho phép mình lùi bước,
mặc dù vốn tiếng dân tộc của tôi rất hạn chế, nhưng việc đầu tiên tôi nghĩ tới là
phỏng vấn những cụ ông, cụ bà ngay tại xã mình. Hóa Trung là một xã nghèo, có
13 xóm trong đó có 03 xóm là người Sán Dìu sinh sống. Nhà đầu tiên tôi đến là
nhà nghệ nhân ... (xóm Cầu Mánh), ông lấy ra cho tôi xem 03 hòm sách cúng
của người Sán Dìu. Bản thân ông cũng là một thầy cúng, đây là những quyển
sách ông được truyền lại. Mạo muội hỏi ông về văn học dân gian thì ông nói
rằng: “Trước đây, ông nhớ và thuộc nhiều lắm. Nhưng lâu rồi không kể, không
còn đọc lại nên ông quên rồi. Những sách cúng ông cũng chỉ biết cúng bằng
tiếng Sán Dìu (tiếng Hán Cổ), giờ bảo ông dịch ra có dịch được cũng không
đúng nghĩa và chỉ dịch những bài cúng đơn giản”. Ông cũng cho biết thêm, con
cháu trong nhà ông cũng dạy tiếng Sán Dìu nhưng chúng không học, chỉ có cậu
con trai gần út học để ông truyền nghề luôn. Vừa là thầy cúng, đồng thời ông
cũng bốc thuốc chữa bệnh, ông bảo y học của người Sán Dìu không phải ai cũng
biết và mỗi thầy thuốc không tự quảng cáo như người Kinh mà thường nghe
tiếng người bệnh tự tìm đến. Giấc mơ tìm hiểu văn học dân gian, có thể chỉ là
dân ca khấn thầm (bài cúng dân gian) của dân tộc Sán Dìu không thành khi tôi
tiếp tục tìm đến nhà thầy cúng Lý Văn Chính (xóm Làng Lậm).
31
Những ngày giáp Tết là những ngày mọi người bận rộn với công việc dọn
dẹp nhà cửa, nhưng tôi cố gắng đến nhữngnhà có người già để hỏi thăm. Phần
nhiều các cụ ông cụ bà không nhớ hoặc chỉ nhớ bập bõm vài bài hát Soọng Cô
nhưng lại không biết dịch ra tiếng Kinh. May mắn cho tôi khi gặp được cụ bà
Miêu Thị Mói (78 tuổi, xóm Làng Lậm). Nhà chỉ có hai ông bà ở, các con cái
của ông bà thành đạt đều ra thành phố ở. Nhà vắng người, thấy tôi ông bà mừng
lắm, ông bà ngồi kể chuyện ngày xưa. Khi hỏi vể văn học dân gian dân tộc bà
hát cho tôi nghe mấy bài hát Soọng Cô, thấy tôi quay lại hình ảnh bà bảo: “Bà
ước gì được trở về ngày trẻ và đi hát Soọng Cô vui lắm”. Rồi bà gọi điện cho em
gái bà là nghệ nhân Miêu Thị Nguyệt nhờ bà Nguyệt giúp đỡ tôi. Tôi ra về thấy
lòng nhẹ nhàng hơn và có thêm hi vọng mới.
Sau Tết, Thái Nguyên mưa dầm dề, tôi tìm đến nhà bà Miêu Thị Nguyệt
(70 tuổi, xã Nam Hòa, Đồng Hỷ, Thái Nguyên), lúc bà đang say sưa nghiên cứu
Soọng Cô và dịch lời chuẩn bị cho Ngày hội văn hóa dân tộc Sán Dìu ở Thái
Nguyên lần thứ nhất diễn ra vào tháng tư sắp tới. Vì được giới thiệu trước, nên
bà đón tôi niềm nở. Ở tuổi 70 nhưng nhìn bà còn trẻ lắm, bà bảo nhờ bà có nghề
làm thuốc và tâm hồn luôn vui vẻ từ khi tham gia câu lạc bộ Soọng Cô của xã.
Bà kể câu lạc bộ tham gia rất nhiều những buổi giao lưu không chỉ với các câu
lạc bộ trong huyện trong tỉnh mà còn giao lưu với các câu lạc bộ tỉnh bạn. Bà
đưa cho tôi xem những bài hát Soọng Cô bà đã dịch được, có những bài còn dở
dang, và phần lớn lầ những bài Soọng Cô chưa dịch được. Bà trải lòng: “Thích
lắm, yêu lắm, gắn bó với Soọng Cô cả đời bây giờ chỉ mong có sức khỏe để tiếp
tục lưu giũ, ghi chép lại cho con cháu. Nhưng kinh phí hạn hẹp, không có nguồn
tại trợ thì bà không thể làm được vì bà ở một mình. Con cái bà không ai mặn mà
với những làn điệu một thời làm say lòng người”. Rồi bà ngồi giảng giải về các
câu từ trong lời bài hát, và cả những bài thơ bà mới sáng tác bằng tiếng Sán Dìu.
Trời sẩm tối, đường mưa trơn nên dù rất tiếc nhưng tôi vẫn phải chia tay bà vì sợ
về tối, đường trơn. Trước khi ra về, bà có cho tôi số điện thoại của các nghệ
32
nhân các câu lạc bộ khác trong tỉnh. Cũng từ đây chấm dứt những ngày mò mẫm
của tôi khi đi tìm về văn học dân gian dân tộc Sán Dìu.
Theo lời giới thiệu của bà Nguyệt, cuối tuần tôi tìm đến nhà nghệ nhân ưu
tú Diệp Minh Tài (70 tuổi), người lưu giữ rất nhiều vốn văn học dân gian quý
của dân tộc Sán Dìu. Ông kể: “Từ năm ông ngoài 50 tuổi khi con cái đã trưởng
thành, ông bắt đầu đạp xe đi từng nhà người dân tộc Sán Dìu trong tỉnh để tìm
tài liệu về văn hóa dân gian Sán Dìu. Sau đó ông tập hợp các nghệ nhân trong
các câu lạc bộ để dịch, rồi cùng nhau bàn luận có cả sự giúp sức của các nhà
nghiên cứu. Song phần nhiều do ông tự sưu tầm và dịch”. Khó khăn, gian truân
lắm, có lúc ông muốn dừng lại, nhưng ông nghĩ ông là người con dân tộc Sán
Dìu mà dừng lại sau này ai là người kế tục. Khi tôi đến, ông trốn viện về để tập
chó các nghệ nhân trong câu lạc bộ hát Soọng Cô chuẩn bị cho ngày hội. Từng
cơn ho hành hạ, tấm lưng còng cúi trên trang giấy, một tay giữ lấy cổ để giữ lấy
những cơn ho, nhưng tôi hỏi gì ông cũng say sưa trả lời. Lo cho sức khỏe của
ông tôi không dám hỏi nhiều mà hẹn ông một ngày gần nhất quay trở lại. Đó là
ngày cuối tháng tư, ông tặng tôi cuốn những bài hát Soọng Cô do ông sưu tầm,
biên soạn nhưng chưa công bố, kèm theo nhiều tư liệu về truyện cổ tích và tục
ngữ ca dao.
Cũng trong dịp này tôi đến nhà nghệ nhân Lục Văn Tiến (65 tuổi, xóm
Cao Sơn, Sơn Cẩm, Phú Lương, Thái Nguyên) khi ông đang làm cỏ ruộng trước
nhà. Ông bảo: “Văn học dân gian bác không biết nhiều, những bài Soọng Cô chủ
yếu bác chép lại từ ông Diệp Minh Tài ở Hóa Thượng, bác sẽ đưa cháu đến nhà
những người già trong xóm để hỏi”. Có sự dẫn dắt của ông, chúng tôi đến nhà cụ
Trần Thị Sìn (91 tuổi) mà theo ông đây là cụ bà nắm giữ vốn văn học dân gian
khá phong phú trong làng, nhưng cụ khi chúng tôi đến cụ đã mắt mờ, chân chậm,
và nặng tai. Tôi có hỏi gì cụ cũng không nghe được, chúng tôi ra về trong niềm
tiếc nuối giá như chúng tôi đến với cụ sớm hơn.
33
Tiếp theo chúng tôi đến nhà nghệ nhân Đằng Thắng Tiến (83 tuổi), cách
nhà ông Tiến chừng 500 mét. Ông kể ông có 5 người con: 1 người con trai và 4
người con gái, các con ông thì biết tiếng dân tộc nhưng các cháu thì không. Ông
không nhớ được nhiều, chỉ có bốn câu thành ngữ. Ông chỉ tôi đến nhà nghệ nhân
Trần Văn Hữu gần đó, chú Hữu là chủ nhiệm câu lạc bộ Soọng Cô. Biết chúng
tôi tìm hiểu văn học dân gian Sán Dìu chú vui lắm, chú gọi các nghệ nhân trong
câu lạc bộ đến nhà: nghệ nhân Đặng Thị Thanh (65 tuổi), nghệ nhân Trần Thị
Sinh (68 tuổi).... Từ đây chúng tôi thu được thêm một số truyện cổ tích, bài hát
Soọng Cô.
Đến với Phú Lương chúng tôi cảm nhận được sự chân thành, tình cảm ấm
áp của đồng bào dân tộc Sán Dìu nơi đây. Nhưng cũng có một thực tế đáng buồn
khi tôi đến xóm Táo, Sơn Cẩm, Phú Lương. Con đường vào làng cách ủy ban xã
gần 3km lầy lội, trơn trượt. Tìm đến được nhà nghệ nhân Diệp Thế Thuận (65
tuổi), và nghệ nhân Ôn Thị Lâm (65 tuổi), cả hai ông bà dù bận rộn trông cháu
vẫn dành thời gian tiếp chúng tôi. Bà đưa cho chúng khá nhiều tập phô tô những
bài hát nhưng hầu hết không dịch lời, có một tập cuối cùng bà bảo do ông Thuận
ghi là tác giả. Nhưng khi lật giở vào trong chúng tôi thấy quen thuộc và nhận ra
chữ cũng như chữ kí của bà Nguyệt ở một trang giữa mà họ không để ý. Tên ở
bìa ngoài đã được thay bằng tên ông Thuận. Có lẽ do những lí do đặc biệt mà
chúng tôi không tiện hỏi, mong rằng khi những quyển sách ấy được công bố sẽ
không còn tình trạng như vậy.
Chia tay Phú Lương còn nhiều trăn trở, chỉ vài ngày gắn bó với mảnh đất
này, nhưng tôi luôn mong muốn được trở lại và cũng để thực hiện những lời hứa
còn dang dở với đồng bào nơi đây. Đó là mang những bức ảnh tôi chụp các nghệ
nhân những ngày đó và trong ngày Hội văn hóa dân tộc Sán Dìu để tặng họ.
Tháng 6 mùa hè oi ả nhưng khi đến với Phú Bình, tôi cảm nhận được lòng
mình dịu mát. Về đây tôi mới biết, đây chính là cái nôi của dòng họ Trần nhà tôi.
Vì ba tôi đi xa khi tôi còn rất nhỏ, đây là lần đầu tiên ông đưa tôi trở về đất tổ.
34
Giới thiệu tôi với các ông bà trong họ bằng tiếng Sán Dìu, rồi ba tôi nhờ các ông
bà giúp đỡ tôi. Gặp lại con cháu trong họ, các ông bà đưa đi từng nhà giới thiệu.
Lần đi điền dã này, tôi không chỉ tìm hiểu được vốn văn học dân gian mà còn
tìm được tình người, tình máu mủ ruột thịt. Ông Trần Văn Tài bảo: “Cháu cần gì
cứ về, các ông các chú biết tới đâu sẽ bảo tới đó. Chú Sông là thầy cúng, chữ
Nho chú biết nhiều. Con cái trong họ ở đây từ trẻ con trở đi đứa nào cũng biết
tiếng dân tộc. Nhưng văn học dân gian của dân tộc mình thì biết ít lắm”. Phú
Bình giờ đây đã có nhiều khởi sắc, nhưng đồng bào người dân tộc Sán Dìu nơi
đây vẫn giữ được tiếng nói cho thế hệ trẻ, ấy là vốn quý.
5. Một số hình ảnh về văn hóa dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên
Bản làng của người Sán Dìu xã Sơn Cẩm – Huyện Phú Lương – Thái Nguyên [Nguồn: Ảnh tác giả tự chụp tháng 04 năm 2016]
35
Bản làng của người Sán Dìu xã Bàn Đạt – Huyện Phú Bình – Thái Nguyên [Nguồn: Ảnh tác giả tự chụp tháng 05 năm 2016]
Bản làng của người Sán Dìu ở xã Hóa Thượng – huyện Đồng Hỷ - Thái Nguyên [Nguồn: Ảnh tác giả tự chụp tháng 09 năm 2016]
36
Ngôi nhà của người Sán Dìu ở Nam Hòa – Đồng Hỷ - Thái Nguyên [Nguồn: Ảnh tác giả tự chụp tháng 06 năm 2016]
Bàn thờ nhà thầy cúng Trần Văn Sông- người dân tộc Sán Dìu xã Bàn Đạt – huyện Phú Bình – Thái Nguyên [Nguồn: Ảnh tác giả tự chụp tháng 06 năm 2016]
37
Các nghệ nhân dân tộc Sán Dìu ở thị xã Phổ Yên, Thái Nguyên trong ngày Hội văn hóa dân tộc Sán Dìu tỉnh Thái Nguyên [Nguồn: Ảnh tác giả tự chụp tháng 04 năm 2016]
Ấm áp nghĩa tình giữa những nghệ nhân Sán Dìu huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên trong ngày Hội văn hóa. [Nguồn: Ảnh tác giả tự chụp tháng 04 năm 2016]
38
Các nghệ nhân Sán Dìu huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên chuẩn bị cho màn biểu diễn hát ru trong ngày hội văn hóa. [Nguồn: Ảnh tác giả tự chụp tháng 04 năm 2016]
Bánh Nghé của người Sán Dìu thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên [Nguồn: Ảnh tác giả tự chụp tháng 06 năm 2016]
39
Cụ ông và cụ bà người dân tộc Sán Dìu xã Sơn Cẩm, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên
[Nguồn: Ảnh tác giả tự chụp tháng 04 năm 2016]
Các nghệ nhân dân tộc Sán Dìu thành phố Thái Nguyên trong ngày Hội văn hóa dân tộc Sán Dìu tỉnh Thái Nguyên [Nguồn: Ảnh tác giả tự chụp tháng 04 năm 2016]
40
Các em nhỏ dân tộc Sán Dìu xã Nam Hòa – Đồng Hỷ - Thái Nguyên
[Nguồn: Tác giả tự chụp tháng 04 năm 2016]
Phụ nữ dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên đi cà khoeo [Nguồn: Ảnh tác giả tự chụp tháng 04 năm 2016]
41
Cụ bà người dân tộc Sán Dìu tỉnh Thái Nguyên đưa các cháu nhỏ tham dự ngày Hội văn hóa dân tộc [Nguồn: Ảnh tác giả tự chụp tháng 04 năm 2016]
Mâm cơm trong lễ cúng Kỳ Yên của người Sán Dìu ở Đồng Hỷ - Thái Nguyên.
[Nguồn: Tác giả tự chụp tháng 02 năm 2016]
42
Bữa ăn ngày Tết của người dân tộc Sán Dìu huyện Phú Bình, Thái Nguyên. [Nguồn: Ảnh tác giả tự chụp tháng 04 năm 2016]
Mâm cơm ngày Tết của người dân tộc Sán Dìu xã Linh Sơn, huyện Đồng Hỷ, Thái Nguyên. [Nguồn: Ảnh tác giả tự chụp tháng 04 năm 2016]
43
Mâm cơm ngày Tết của người dân tộc Sán Dìu xã Hóa Thượng, huyện Đồng Hỷ, Thái Nguyên. [Nguồn: Ảnh tác giả tự chụp tháng 04 năm 2016]
Thầy cúng Trần Văn Nhâm và thầy cúng Trần Văn Mười ở huyện Phú Bình, Thái Nguyên đang viết sớ chuẩn bị cho lễ cúng. [Nguồn: Ảnh tác giả tự chụp tháng 08 năm 2016]
44
Thầy cúng Trần Văn Nhâm và thầy cúng Trần Văn Sông huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên trong lễ cúng ma tươi [Nguồn: Tác giả tự chụp tháng 08 năm 2016]
Gia phả dòng họ Hoàng dân tộc Sán Dìu ở huyện Phú Bình, Thái Nguyên [Nguồn: Tác giả tự chụp tháng 06 năm 2016]
45
Nhạc cụ của dân tộc Sán Dìu ở huyện Phú Bình, Thái Nguyên
[Nguồn: Ảnh tác giả tự chụp tháng 04 năm 2016 tại nhà thầy cúng Trần Văn Sông ở huyện Phú Bình – Thái Nguyên]
Sách cúng của dân tộc Sán Dìu ở Thị trấn Trại Cau, huyện Đồng Hỷ,
tỉnh Thái Nguyên [Nguồn: Ảnh tác giả tự chụp tháng 07 năm 2016 tại nhà thầy cúng Trần Văn Liên ở thị trấn Trại Cau, Đồng Hỷ, Thái Nguyên]
46
Nghi lễ cúng thần nước trong lễ hội Đại phan năm 2016 của người Sán Dìu [Nguồn: Trang web http// baoquangninh.com.vn tháng 02 năm 2016]
Lễ cấp sắc của người Sán Dìu [ Nguồn: trang web http://vanxahoi.tnus.edu.vn/]
47
Các cô gái Sán Dìu ở Thái Nguyên với trang phục truyền thống múa hát trong ngày Hội văn hóa dân tộc Sán Dìu [Nguồn: Ảnh tác giả tự chụp tháng 04 năm 2016]
Nghệ nhân ưu tú Diệp Minh Tài xã Hóa Thượng, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên – người nắm giữ nhiều tư liệu VHDG Sán Dìu quý báu [Nguồn: Ảnh tác giả tự chụp tháng 02 năm 2016]
48
Bài hát Soọng Cô do nghệ nhân Lục Văn Tiến ở Sơn Cẩm – Phú Lương – Thái Nguyên chép lại. [Nguồn: Ảnh tác giả tự chụp tháng 08 năm 2016]
Tác giả luận văn tham dự ngày Hội văn hóa dân tộc Sán Dìu tỉnh Thái Nguyên [Nguồn: Ảnh chụp tháng 04 năm 2016]
49
Tác giả luận văn đang nghe nghệ nhân Trần Thị Sinh và nghệ nhân Đặng Thị Thanh huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên giảng giải câu đố Sán Dìu [Nguồn: Ảnh chụp tháng 04 năm 2016]
Tác giả đang nghe nghệ nhân Trần Văn Tài xã Bàn Đạt, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên kể truyện cổ tích Sán Dìu [Nguồn: Ảnh chụp tháng 03 năm 2016]
50
Tác giả ghi chép sưu tầm bài hát Soọng Cô của nghệ nhân Lưu Văn Bình xã Bàn Đạt, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên
[Nguồn: Ảnh chụp tháng 03 năm 2016]