ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
VŨ THANH LOAN
VĂN XUÔI LINH NGA NIÊ KDAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2017
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
VŨ THANH LOAN
VĂN XUÔI LINH NGA NIÊ KDAM
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã ngành: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN THỊ VIỆT TRUNG
THÁI NGUYÊN - 2017
i
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu, đến nay tôi đã hoàn thành Luận
văn Thạc sĩ khoa học với đề tài: Văn xuôi Linh Nga Niê Kdam (H’Linh Niê).
Với tình cảm chân thành, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc với PGS.TS.
Trần Thị Việt Trung - người đã tận tình hướng dẫn tôi thực hiện và hoàn
thành Luận văn.
Tôi xin cảm ơn nhà văn Linh Nga Niê Kdam đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi
về tư liệu để tôi hoàn thành phần nghiên cứu của mình.
Tôi xin cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng Quản lý khoa học, khoa Sau đại
học, khoa Ngữ văn, các thầy cô trong tổ Văn học Việt Nam - Trường Đại học
khoa học - Đại học Thái Nguyên, các thầy cô công tác tại Viện Văn học đã
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.
Tôi cũng xin cảm ơn Ban giám hiệu Trường THPT Vũ Văn Hiếu, các
đồng nghiệp, gia đình và bạn bè đã giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tôi
hoàn thành tốt khóa học này.
Thái Nguyên, tháng 05 năm 2017
Tác giả luận văn
Vũ Thanh Loan
ii
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................. i
MỤC LỤC .................................................................................................................. ii
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................... 2
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ..................................................................... 8
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ............................................................... 8
5. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................ 9
6. Cấu trúc của luận văn.......................................................................................... 9
7. Đóng góp mới của luận văn .......................................................................... 9
Chương 1. VÀI NÉT VỀ VĂN XUÔI TÂY NGUYÊN THỜI KÌ HIỆN
ĐẠI VÀ NỮ NHÀ VĂN LINH NGA NIÊ KDAM ......................... 10
1.1. Vài nét về văn xuôi Tây Nguyên thời kì hiện đại .......................................... 10
1.1.1. Văn xuôi Tây Nguyên trước Đổi Mới (1986) ........................................ 10
1.1.2. Văn xuôi Tây Nguyên sau Đổi Mới (1986) ........................................... 14
1.2. Nhà văn nữ Linh Nga Niê Kdam ................................................................... 17
1.2.1. Vài nét về tiểu sử .................................................................................... 17
1.2.2. Linh Nga Niê Kdam - người con luôn hướng về nguồn cội .................. 20
Tiểu kết chương 1...................................................................................................... 22 Chương 2. CẢM HỨNG VỀ CUỘC SỐNG VÀ CON NGƯỜI TÂY NGUYÊN ... 24
2.1. Tình yêu, niềm tự hào về mảnh đất, con người Tây Nguyên ........................ 24
2.1.1. Một vùng đất hùng vĩ, lãng mạn............................................................. 24
2.1.2. Một cộng đồng dân tộc giàu bản sắc văn hoá ........................................ 34
2.1.3. Những con người dũng cảm, tài hoa và khát khao đổi thay cuộc sống ...... 47
2.2. Nỗi niềm cùng những dự cảm về cuộc sống, con người và bản sắc văn hóa
quê hương .............................................................................................................. 53
2.2.1. Những khó khăn, thách thức của cuộc sống thời kì hiện đại .......................... 53
2.2.2. Sự tha hoá của con người bản địa........................................................... 60
iii
2.2.3. Sự phai nhạt bản sắc văn hoá, sự tổn thương môi trường sinh thái
Tây Nguyên ...................................................................................................... 66
Tiểu kết chương 2...................................................................................................... 73
Chương 3. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ NGHỆ THUẬT ........................................ 74
3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật đậm chất Tây Nguyên ................................................. 74
3.1.1. Ngôn ngữ nghệ thuật đậm dấu ấn dân tộc .............................................. 74
3.1.2. Ngôn ngữ nghệ thuật đậm chất trữ tình .................................................. 84
3.2. Cốt truyện, tình huống truyện giàu kịch tính, mang màu sắc hiện đại .......... 92
Tiểu kết chương 3.................................................................................................... 100
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 104
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tây Nguyên là một vùng địa - văn hóa đặc biệt: vùng cao nguyên đất đỏ Bazan với những cánh rừng bạt ngàn xanh bất tận, những thác nước vừa dữ dội vừa
rất đỗi nên thơ, những mặt hồ trên cao, những dòng sông, con suối luôn ầm ào cuồn
cuộn chảy… Vùng cao nguyên đó còn có những buôn làng với mái nhà Rông cao
vút và những nhà dài, những dàn cồng chiêng, những hũ rượu cần luôn luôn đầy ắp…, đặc biệt là những người cư dân khỏe mạnh, dũng cảm, tài hoa; rất ưa nhảy
múa, ưa nghe già làng kể chuyện… Nơi đây, chứa đựng bao huyền thoại, huyền
tích, bao câu chuyện cổ và bao pho sử thi đồ sộ của các dân tộc Tây Nguyên đã có
tự ngàn đời. Nói một cách khác: Tây Nguyên chính là một vùng đất giàu bản sắc
văn hóa và có một kho tàng văn học dân gian phong phú vào loại bậc nhất trong các dân tộc thiểu số (DTTS) Việt Nam. Hai yếu tố này là cội nguồn, là nền tảng vững
chắc cho văn học Tây Nguyên thời kì hiện đại hình thành và phát triển.
Văn học Tây Nguyên thời kì hiện đại đã có hơn nửa thế kỷ hình thành và
phát triển, đến nay cũng đã có những thành tựu nhất định đáng được ghi nhận. Trên
mảnh đất cao nguyên rộng lớn ấy, các thế hệ nhà văn Tây Nguyên đã nối tiếp nhau
cầm bút viết về quê hương; về cuộc sống, con người… của một vùng núi non hùng
vĩ, thơ mộng và khắc nghiệt. Nhưng việc nghiên cứu văn học Tây Nguyên và
nghiên cứu từng tác giả là người DTTS viết văn ở nơi đây còn hết sức khiêm tốn. Vì
vậy, mảng văn học Tây Nguyên vẫn rất cần được nhiều người chú ý, tìm hiểu,
nghiên cứu để thấy được những nét đặc sắc, đặc trưng cùng những đóng góp quan
trọng của bộ phận văn học này trong việc làm phong phú hơn, đa sắc màu hơn đối
với văn học DTTS Việt Nam nói riêng và đối với văn học Việt Nam nói chung.
Trong các nhà văn Tây Nguyên thời kì hiện đại, Linh Nga Niê Kdam (tên bút danh: H’Linh Niê) là một nhà văn có sức viết dồi dào, viết nhiều thể loại (sáng tác, nghiên cứu sưu tầm, phê bình văn học - nghệ thuật) và thể loại nào chị cũng có những thành công nhất định. Nổi bật nhất, có nhiều đóng góp nhất là lĩnh vực sáng tác văn xuôi. Chị đã xuất bản 3 tập truyện ngắn và 5 tập bút ký. Văn xuôi của chị có màu sắc riêng biệt, mang đậm chất Tây Nguyên và chiếm được nhiều cảm tình của độc giả. Với những sáng tác văn xuôi của mình, Linh Nga Niê Kdam được đánh giá là một trong “Bốn cây Knia” văn học - nghệ thuật của vùng đất đỏ Tây Nguyên
giàu bản sắc. Tuy nhiên, cho đến nay việc nghiên cứu một cách hệ thống, thấu đáo
về nữ nhà văn Linh Nga Niê Kdam còn rất hạn chế. Vì vậy, rất cần có một công
2
trình nghiên cứu cụ thể, hệ thống và đầy đủ về trường hợp nhà văn Tây Nguyên tiêu biểu này. Bởi nghiên cứu về nhà văn Linh Nga Niê Kdam có nghĩa là đã nghiên cứu
một trường hợp nhà văn tiêu biểu của văn học Tây Nguyên thời kì hiện đại; là chỉ ra
được những thành công (cũng như hạn chế) của văn học khu vực này. Đồng thời
phác họa rõ nét bức chân dung của một cây bút văn xuôi tiêu biểu cùng những đóng góp của chị đối với văn học Tây Nguyên nói riêng và văn học DTTS Việt Nam hiện
đại nói chung.
Chính vì các lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài: “Văn xuôi Linh Nga Niê
Kdam” làm đề tài Luận văn Thạc sỹ của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Linh Nga Niê Kdam là một hiện tượng văn xuôi nổi trội của văn học Tây
Nguyên thời kì hiện đại, đặc biệt là những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI. Chị đã có một số lượng tác phẩm văn xuôi đáng kể trong đó có những tác phẩm được
đánh giá cao như: Con rắn màu xanh da trời, Gió đỏ, Pơ Thi mênh mang mùa
gió, Trăng Xí Thoại, Đi tìm hồn chiêng, Nhân danh ai ?... Chị từng được nhận
Giải thưởng của Hội Văn học Nghệ thuật Dân tộc thiểu số Việt Nam và Giải thưởng của Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Chị trở thành một trong “Bốn cây Knia” của đời sống văn học - nghệ thuật Tây Nguyên. Chính vì vậy, những
sáng tác của chị, những cống hiến của chị đã được khá nhiều nhà nghiên cứu, phê
bình, nhà văn nhắc tới. Theo khảo sát của chúng tôi, đã có hàng chục bài báo, cuốn
sách có viết về chị (hoặc có nhắc đến chị với những nhận xét đánh giá cụ thể). Chị
được coi là một nhà văn Tây Nguyên tiêu biểu, một trí thức, một nhà văn hóa có uy
tín của dải đất cao nguyên rộng lớn này.
Trong các công trình, các tuyển tập nghiên cứu và giới thiệu về văn học
DTTS Việt Nam của các nhà nghiên cứu, phê bình, các nhà văn, trong đó có nhiều
nhà văn là người DTTS như: Lâm Tiến, Hoàng An, Hoàng Triều Ân, Mai Liễu, Lò
Ngân Sủn, Vương Trung, Phạm Quang Trung, Trần Thị Việt Trung, Phạm Duy Nghĩa, Nguyễn Đức Hạnh, Đào Thuỷ Nguyên, Cao Thị Hảo… và của Hội Văn học DTTS Việt Nam hay trong các Tuyển tập, các Kỷ yếu Hội thảo về văn học DTTS, ta đều thấy xuất hiện tên của nữ nhà văn Linh Nga Niê Kdam. Có thể kể tên một số
công trình nghiên cứu tiêu biểu như: Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện
đại (Lâm Tiến), Bản sắc văn hóa dân tộc trong văn xuôi của các nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam (PGS.TS. Đào Thủy Nguyên (chủ biên) - TS. Dương Thu Hằng),
Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam - Truyền thống và hiện đại (PGS.TS Trần Thị
Việt Trung và PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh đồng chủ biên), Văn học dân tộc thiểu
3
số Việt Nam thời kì hiện đại - Một số đặc điểm (PGS.TS. Trần Thị Việt Trung - PGS.TS. Cao Thị Hảo đồng chủ biên)…
Trong công trình nghiên cứu Bản sắc văn hóa dân tộc trong văn xuôi của
các nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam (PGS.TS. Đào Thủy Nguyên (chủ biên) -
TS. Dương Thu Hằng), các tác giả đã chỉ ra khá rõ nét đặc điểm văn chương của nhà văn Linh Nga Niê Kdam (H’Linh Niê): “Trong các sáng tác H’Linh Niê, người đọc
được sống với không khí âm nhạc của con người và núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ bởi
âm thanh cồng chiêng, bởi những đêm kể Khan truyền thống, bởi lời ca tiếng hát luôn
ngập tràn bất tận trong cuộc sống con người Tây Nguyên” [29, tr.100-101]; ở đó,
“Những ngôi nhà sàn, nhà gác bị bán đổ, bán tháo để theo kịp trào lưu xây nhà
gạch, nhà ngói, nhà tầng hiện đại; những lễ hội truyền thống bị thương mại hóa đến
trở thành nhạt nhẽo, trơ trẽn trước mắt mọi người; sự lấn chiếm ghê gớm của văn minh đô thị đối với đời sống miền núi vốn yên ả, thanh bình… Những thực tế đau
lòng đó đang là “báo động đỏ” trên những trang văn của các nhà văn DTTS. Đặc
biệt là trong sáng tác của Cao Duy Sơn, Hà Thị Cẩm Anh, Inrasara, H’Linh Niê”
[29, tr.151]. Cũng trong công trình nghiên cứu này, các tác giả nêu bật đặc điểm nội
dung của tập bút ký Trăng Xí Thoại: “Trăng Xí Thoại của H’Linh Niê vừa ca ngợi
sự chuyển mình của những thành phố ở Tây Nguyên như Buôn Ma Thuột, Pleiku,
Kon Tum; sự đổi dời của người Dao Cư Suê, của các dân tộc ở làng Hà Giăng, ở
buôn Yung, ở Pa Sao huyện Chư Pah… vừa trăn trở trước thực trạng Tây Nguyên
trong thời kì mới. Cái xấu, cái lạc hậu chưa gột rửa hết và cái tốt đẹp, cái bản sắc
văn hóa tộc người cũng đang có nguy cơ mất mát, mai một dần” [29, tr.59]. Còn
nhận định về nghệ thuật viết truyện ngắn của chị, các tác giả viết: “Với tinh thần tìm tòi thể nghiệm, gần đây trên văn đàn đã thấp thoáng xuất hiện một số hình thức
cốt truyện mới lạ mang hơi hướng hậu hiện đại. Đó là kiểu kết truyện huyễn ảo
(đan xen các yếu tố hoang đường với các yếu tố hiện thực) như Nước soi bóng ai,
Dòng sông tóc, Hoa Pơ Lang của H’Linh Niê” [29, tr.183].
Trong công trình nghiên cứu Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại - Một số đặc điểm (PGS.TS Trần Thị Việt Trung và PGS.TS Cao Thị Hảo đồng chủ biên), các tác giả đã có những nhìn nhận, đánh giá thấu đáo về những nét
đặc sắc trong văn xuôi của nữ nhà văn DTTS Linh Nga Niê Kdam như: “H’Linh
Niê đã biết kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa chất huyền thoại và sử thi khi viết về con người, cuộc sống ở Tây Nguyên. Tác giả giới thiệu kho tàng folklore độc đáo với
những ngôi nhà Rông, những hình hoa văn, chim thú được lưu giữ trên nóc các nhà
mồ, về nghệ thuật ẩm thực xứ Tây Nguyên…, miêu tả sắc nét lễ hội đâm trâu, lễ hội
4
cồng chiêng, những nét hoa văn thổ cẩm Tây Nguyên phối hợp hài hòa giữa các gam: xanh, vàng, đỏ để làm nổi bật hai màu chủ đạo: đen và trắng (Về đâu hỡi thổ
cẩm Tây Nguyên, Trăng Xí Thoại). Tác giả ngợi ca cuộc sống mới đang chuyển
mình của dân tộc Tây Nguyên trong thời đại mới. Một bộ phận người dân đã vươn
lên trong làm kinh tế, thoát khỏi cuộc sống thiếu thốn nghèo khổ, được hưởng thụ cuộc sống mới, văn minh, có điện, có tiện nghi (Du xuân Tây Nguyên, Làng mặt
trời, Bình Minh người Dao Cư Suê, Buôn Yung mùa hoa trắng…). Người con
của núi rừng Tây Nguyên này không chỉ trăn trở trước những luật tục lạc hậu vẫn
tồn tại mà còn đau đớn, xót xa trước những di sản văn hóa đang bị mai một dần”
[52, tr.63]. Các tác giả cũng đưa ra những nhận xét rất sâu sắc và tinh tế về nghệ
thuật văn xuôi của nhà văn Tây Nguyên này: “Văn xuôi H’Linh Niê lại mang màu
sắc sử thi Tây Nguyên với chất huyền thoại khi đậm đặc lúc mờ nhạt, đan cài nhuần nhuyễn trong hình tượng nhân vật, cốt truyện hay các chi tiết sự kiện thực mà như
ảo. Đặc biệt ngôn ngữ giàu hình ảnh, giầu nhịp điệu, phép so sánh và phóng đại
được sử dụng có hiệu quả rất rõ rệt, đó là chất lãng mạn và sự bay bổng của lời
văn, câu văn. Điều này cho thấy, nguồn cội văn hóa dân gian trực tiếp tác động
sâu sắc tới tác giả chính là: kho tàng sử thi đồ sộ của các dân tộc Êđê, Bana”
[52, tr.125]. Không chỉ đánh giá về mặt nghệ thuật trong sáng tác của chị, các tác
giả còn cho chúng ta thấy thêm cả vẻ đẹp nội dung ẩn sâu trong từng sáng tác đó:
“Trong Dòng sông tóc, tác giả đã miêu tả đồng hiện đan cài giữa câu chuyện thần
thoại của con trai thần sông Srêpôk và hai người con gái của Đất và Rừng là Rinh
và Rao - trong một câu chuyện có thực về mối tình không lời của một cô gái thời
hiện đại. Qua tác phẩm này, thông điệp mà tác giả muốn gửi tới người đọc là: Tình yêu ở thời nào cũng vậy - nó có một sức mạnh diệu kì - làm cho người con trai và
người con gái đẹp rực rỡ trong mắt nhau; vì thế nếu không còn tình yêu nữa con
người sẽ trở nên khô cằn và đầy thù hận. Chính tình yêu đã nuôi dưỡng những trái
tim nhân hậu, làm sống lại những tâm hồn sỏi đá” [52, tr.84-85].
Qua các công trình nghiên cứu đó, ta đều thấy cái tên Linh Nga Niê Kdam được nhắc đến như một nhà văn nữ Tây Nguyên tiêu biểu; nội dung và nghệ thuật văn xuôi của chị luôn có sự kết hợp nhuần nhuyễn tính truyền thống và hiện đại.
Chị là một nhà văn có nhiều đóng góp cho văn học Tây Nguyên nói riêng và văn
học DTTS Việt Nam thời kì hiện đại nói chung.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu kể trên, còn có một số bài báo, bài giới
thiệu, nhận xét, đánh giá, bình luận của một số nhà phê bình, nhà văn viết trực tiếp
về Linh Nga Niê Kdam và các sáng tác của chị. Có thể kể đến bài bút ký Thư ngỏ
5
gửi nữ nhà văn H’Linh Niê (in trong cuốn Trăng Xí Thoại xuất bản năm 1999), tác giả Y Hoan Drai Êban viết: “Trăng Xí Thoại không giống trăng trung thu,
không phải trăng rằm vằng vặc. Càng không phải thứ trăng suông nhạt nhẽo. Nó là
bức họa nhân tình của người viết, ánh lên ý tưởng của văn, của người” [7, tr.252];
“Đọc Trăng Xí Thoại càng quý thứ văn không mời gọi bạn đọc theo mình. Bằng những hình ảnh, hình tượng ở những khách thể quanh mình, dường như tác giả chỉ cốt ghi lại
cho chính mình. Song người đọc lại tìm ra ý tưởng văn chương - nhiệm vụ văn học - ý
tưởng của người cầm bút luôn hướng tới việc của quê hương” [7, tr.252]. Cũng nhận
xét về tập bút ký Trăng Xí Thoại nhưng trong bài Số phận của Folklore Tây
Nguyên và cái tâm của một nhà văn nữ Êđê (in trong cuốn Tiểu luận - Phê bình
văn chương Hồn cây sắc núi, NXB Hội Nhà văn 2010), tác giả Phạm Quang Trung
lại nhìn thấy: dù có rất nhiều vấn đề ngổn ngang đang đặt ra ở Tây Nguyên nhưng H’Linh Niê chọn riêng vấn đề folklore để viết vì nó phù hợp với sở trường của chị
và nó thể hiện được sự hiểu biết, niềm tin cũng như tiếng gọi thiết tha của chị về
việc bảo tồn văn hóa Tây Nguyên. Ông viết: “H’Linh Niê đã thực sự nhập vào văn
hóa các tộc người Tây Nguyên để mỗi lời chị thốt ra như lôi kéo, như mời gọi bạn
đọc, khó mà cưỡng lại nổi sức lôi cuốn của những lời như vậy! Xem ra, không ai có
đủ thẩm quyền như H’Linh Niê - đứa con ruột rà của núi rừng Cao nguyên - khi
làm cái công việc rất khó khăn mà cũng thật ý nghĩa là giới thiệu nền văn hóa dân
gian Tây Nguyên lạ lẫm và độc đáo để thế giới tinh thần của cả cộng đồng các dân
tộc Việt Nam giàu có thêm lên” [48, tr.158-159]. Trên Báo điện tử Toquoc.vn năm
2010, tác giả Phạm Duy Nghĩa trong bài Văn xuôi về dân tộc và miền núi từ 1986
đến nay, đã nhận xét riêng về ký của H’Linh Niê: “Ký của H’Linh Niê sắc sảo, tâm huyết, đào sâu vào các mặt đời sống của các dân tộc Tây Nguyên làm rạng lên
những nét riêng độc đáo trong lễ hội, nhà cửa, folklore, thổ cẩm ... đậm bản sắc;
chỉ ra cái xấu chưa lụi tàn, cái tốt đang khởi sắc và cả cái đẹp đang mai một. Nhiều
bài kí của nữ nhà văn - nhạc sĩ này là những thông điệp SOS trước hiện tượng mất mát từng ngày của văn hoá truyền thống ở Tây Nguyên” [26]. Khái quát hơn, nhà lý luận phê bình văn học DTTS Lâm Tiến trong bài Gian nan về với cội nguồn (in trên báo Văn nghệ năm 2011) đã chỉ ra những nét riêng đặc sắc của cả hai thể loại
văn xuôi: truyện và ký Linh Nga Niê Kdam như: “Đọc truyện, ký của H'Linh Niê,
người đọc như được ngắm một bức tranh toàn cảnh về văn hóa, con người, cuộc sống Tây Nguyên từ xa xưa cho tới nay, từ cái chung cho tới cái riêng độc đáo, cụ
thể, hấp dẫn. Sức hấp dẫn của các truyện ký H'Linh Niê không phải chỉ ở nội dung,
con người, cuộc sống thiên nhiên đẹp đẽ, thơ mộng, nguyên sơ của nó mà còn ở
6
cách viết. Một cách viết vừa giống vừa khác với các nhà văn dân tộc thiểu số miền Bắc. Cái khác của H'Linh Niê là bắt đầu từ nguồn gốc của dân tộc mình, từ văn hóa
Êđê. Đó là chất huyền thoại sử thi mà các nhà văn miền Bắc không thể nào có
được” [46]. Tác giả Vương Tâm trong bài báo Có một người Hà Nội ở Ban Mê (in
trên báo Người Hà Nội năm 2013), đã chỉ ra một phong cách riêng của nhà văn Tây Nguyên này: “Với một phong cách lịch lãm và lãng mạn, đậm chất Hà Nội, Linh
Nga sáng tác ca khúc hay viết truyện ngắn, với bút danh H’Linh Niê, đều chất chứa
cảm xúc da diết trong một cấu trúc hiện đại. Với những tập truyện ngắn như Gió đỏ
hay Con rắn màu xanh da trời hoặc hàng chục bài hát về cao nguyên, người đọc
có thể nhận biết ở Linh Nga, chính là một cô gái Hà Nội say đắm với quê hương
của mình đến như thế nào” [40]. Trong bài viết Hiểu đúng mới bảo tồn được văn
hóa Tây Nguyên (in trên báo Lao động năm 2013), tác giả Đặng Bá Tiến vừa đánh giá về Linh Nga Niê Kdam vừa bày tỏ sự yêu thích với một số đặc điểm văn chương
của chị: “Tôi đã sống ở Tây Nguyên 20 năm, nên biết khá nhiều về chị. Đó là một
người đàn bà đa cảm, đa tài: Đã tốt nghiệp Đại học Thanh nhạc & Đại học Sáng
tác âm nhạc, từng là giọng đơn ca chính của Đoàn Ca múa Tây Nguyên, nhưng sau
đó "nhảy" cả vào văn chương, báo chí và nghiên cứu... Đọc văn chị, tôi rất thích lối
viết dân dã, bộc trực, đầy hình ảnh kiểu như thế này “Rượu chưa uống, bụng kiến
đã bò. Rượu chưa thử, ruột lửa đã cháy” (Gió vẫn thổi từ rừng) và thích sự mượt
mà, tinh tế, đầy ắp cảm xúc: “Đêm choàng nhanh chiếc áo đen lên vạn vật, nhưng
trăng mười sáu vẫn trong trẻo xanh giữa trời... Có phải trăng là nhân chứng duy
nhất hàng ngàn đời nay đồng hành cùng mọi lễ, hội Tây Nguyên? Ôi, nếu không
còn những đêm như thế này, những câu hát tuyệt vời thế kia còn không, nhịp chiêng náo nức ấy còn không, và bàn tay dịu mềm của em, của chị, của bao người phụ nữ
Tây Nguyên có còn được bay lên như cánh chim Ch’rao...?” (Trăng Xí Thoại). Có thể
gọi, chị là “người đàn bà không bao giờ chịu ngồi yên, không bao giờ chịu rảnh rang”
[45] ... Còn nhà thơ, nhà nghiên cứu Lò Ngân Sủn trong bài Có phải H’Linh Niê là tình yêu (in lại trong cuốn Phái đẹp, cuộc đời và cây bút, NXB Hội Nhà Văn Việt Nam 2015) lại có những phát hiện rất thú vị sau khi đọc xong Tập truyện ngắn Con Rắn màu xanh da trời của H’Linh Niê: “H’Linh Niê không những tả tình rất giỏi,
các đoạn tả tình của chị rất cụ thể, chi li mà không bị sa vào phàm tục, gian dâm …
mà còn tả người đẹp, cảnh đẹp cũng hay, cũng hấp dẫn” [39, tr.374-376]. Tác giả Lò Ngân Sủn còn phát hiện ra cái hay trong truyện của chị: “Tác giả đã khắc họa
được các nhân vật, cốt truyện có hình hài, đường nét, được thể hiện trong một cấu
tứ, bố cục hợp lý, ngôn ngữ uyển chuyển, hài hòa, tỏa hương. Đặc biệt, tác giả hòa
7
lẫn, pha trộn được cái chất cổ tích, dân ca, tục ngữ, thành ngữ cũng như phong tục tập quán Tây Nguyên trong nội dung, cốt truyện hiện đại” [39, tr.377].
Nhà văn Linh Nga Niê Kdam không chỉ được các tác giả nhắc đến trong các
bài viết, chị còn được giới thiệu trên Đài tiếng nói Việt Nam. Khi giới thiệu về chị
(trên Đài tiếng nói Việt Nam năm 2012), trong bài Niềm hạnh phúc đáng trân trọng, tác giả Võ Thị Hà viết: “Linh Nga Niê Kdam luôn đau đáu về sự mất mát theo tháng,
theo ngày những vẻ đẹp tinh khiết, nguyên sơ, hoang dã mà riêng biệt của không gian
văn hóa Tây Nguyên. Linh Nga Niê Kdăm đã dành trọn cuộc đời mình cho những
hoạt động văn hóa nghệ thuật chuyên biệt về Tây Nguyên. Những gì mà Linh Nga Niê
Kdam đã sáng tạo, gìn giữ, quảng bá cho văn hóa Tây Nguyên thực sự là những cống
hiến hết sức thầm lặng và có ý nghĩa to lớn” [15].
Một số Luận án, Luận văn Tiến sĩ, Thạc sĩ Ngữ văn, Khóa luận tốt nghiệp Đại học nghiên cứu về văn xuôi DTTS cũng có nhắc đến cây bút Linh Nga Niê Kdam.
Trong Luận án Tiến sĩ: Văn hóa và con người Tây Nguyên trong văn xuôi nghệ
thuật 1945 - 2000 (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí
Minh), tác giả Đặng Văn Vũ nhắc tới Linh Nga Niê Kdam như một đại diện tiêu biểu
của văn xuôi Tây Nguyên giai đoạn này. Khóa luận tốt nghiệp Đại học: Truyện ngắn
H’Linh Niê của Chu Thị Dạ Thảo (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Thành phố Hồ Chí Minh) đã nghiên cứu trực tiếp về truyện ngắn của nhà văn Linh
Nga Niê Kdam và đưa ra những nhận xét khá xác đáng như: “Được khơi nguồn cảm
hứng từ tình yêu tha thiết đối với mảnh đất và con người Tây Nguyên, truyện ngắn
của H’Linh Niê tập trung thể hiện những đề tài chính như : tình yêu đôi lứa, tình cảm
gia đình, cộng đồng của những con người trong buôn làng. Ở mỗi mảng đề tài, tác giả lại đi vào khám phá những khía cạnh tinh tế nhất, đặc sắc nhất, từ đó khái quát
nên tính nhân văn cao cả hoặc rút ra bài học kinh nghiệm quý báu” [41] …
Không chỉ có các nhà phê bình, các nhà văn, các tác giả Luận án, Luận văn
Tiến sĩ, Thạc sĩ Ngữ văn, Khóa luận tốt nghiệp Đại học tìm hiểu về văn xuôi DTTS nhắc đến cây bút Linh Nga Niê Kdam hoặc nghiên cứu trực tiếp về văn xuôi của chị mà ngay cả những sinh viên Đại học cũng đã tìm đến và rất yêu thích văn xuôi H’Linh Niê. Trong bài Đọc truyện ngắn Gió trên đỉnh Ngok Linh, YDu La Niê
(sinh viên Trường Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh năm
2012) đã có nhận xét khá tinh tế: “Ngôn ngữ truyện giản dị, trong sáng, mang dáng dấp ngôn ngữ vùng Tây Nguyên. Ở câu chữ thể hiện một cái gì đó chất phác, đơn
giản. Câu chữ không đặt nặng vấn đề biểu trưng nhiều. Phù hợp với phong cách
vùng miền. Một phong cách miêu tả riêng với sự so sánh đặc biệt… Xét trên góc độ
8
văn học, có thể thấy tác phẩm được tác giả miêu tả một cách chân thực. Tình tiết được xây dựng một cách xuyên suốt, không có sự trùng lặp; mang lại cho độc giả
một cái nhìn mới cho nội dung tác phẩm” [60]…
Qua khảo sát bước đầu những bài nghiên cứu, bài viết, những nhận xét về tác
giả Linh Nga Niê Kdam cùng những sáng tác của chị, chúng tôi nhận thấy: Tuy là một nhà văn nữ Tây Nguyên tiêu biểu nhưng việc nghiên cứu về tác giả nói chung
cũng như nghiên cứu về văn xuôi của Linh Nga Niê Kdam nói riêng hiện vẫn còn ở
mức độ khiêm tốn, chưa xứng với tầm vóc và những đóng góp của chị. Vì vậy, rất
cần thiết phải có một công trình nghiên cứu hệ thống, tương đối đầy đủ về những
sáng tác của cây bút văn xuôi Tây Nguyên này. Thứ nhất là: để góp phần phác hoạ
bức chân dung nhà văn nữ Linh Nga Niê Kdam; thứ hai là: chỉ ra những đặc điểm
nổi bật trong văn xuôi của nhà văn để thấy được những nét riêng, những sáng tạo cũng như thấy được những đóng góp đáng ghi nhận của chị trong đời sống văn học
Tây Nguyên nói riêng, văn học các DTTS Việt Nam hiện đại nói chung.
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: những tác phẩm văn xuôi của nhà
văn Tây Nguyên Linh Nga Niê Kdam, bao gồm: 03 tập truyện ngắn (Con rắn màu
xanh da trời, Gió đỏ, Pơ Thi mênh mang mùa gió) và 05 tập bút ký (Trăng Xí
Thoại, Đi tìm hồn chiêng, Nhân danh ai ?, Chân dung văn nghệ sĩ Tây Nguyên,
Tại gió mà nhớ)
- Bên cạnh đó, chúng tôi khảo sát một số tác phẩm văn xuôi của một số cây
bút DTTS Tây Nguyên khác để có cái nhìn tổng thể về văn học Tây Nguyên và để so sánh đối chiếu với văn xuôi của tác giả Linh Nga Niê Kdam (ví dụ như các sáng
của các nhà văn: Y Điêng, Kim Nhất, Niê Thanh Mai …)
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn cố gắng làm rõ những đặc điểm cơ bản về nội dung, nghệ thuật trong sáng tác văn xuôi của Linh Nga Niê Kdam và chỉ ra những đóng góp của nhà văn với văn học Tây Nguyên nói riêng, văn học DTTS Việt Nam nói chung.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện đề tài Luận văn, chúng tôi xác định những nhiệm vụ cần phải
giải quyết là:
- Nêu những đặc điểm khái quát về văn xuôi Tây Nguyên thời kì hiện đại
(làm cơ sở thực tiễn để giới thiệu cây bút văn xuôi Linh Nga Niê Kdam).
9
- Nêu những đặc điểm cơ bản trong văn xuôi của Linh Nga Niê Kdam và làm sáng tỏ các đặc điểm đó ở cả hai phương diện: nội dung và nghệ thuật (cả thành tựu
và hạn chế - nếu có).
- Chỉ ra những nét đặc sắc, những đóng góp đáng trân trọng của nữ nhà văn
Tây Nguyên này đối với văn học Tây Nguyên nói riêng và đối với văn học DTTS Việt Nam hiện đại nói chung.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu cơ bản sau:
- Phương pháp nghiên cứu tác giả, tác phẩm (theo đặc trưng thể loại).
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp so sánh đối chiếu. - Phương pháp nghiên cứu liên ngành (Văn học với Văn hoá học, Lịch sử và
Dân tộc học).
- Vận dụng Lý thuyết Phê bình sinh thái.
5. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những đặc điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật trong
các tác phẩm văn xuôi của Linh Nga Niê Kdam, cụ thể là trong 8 cuốn văn xuôi (3
tập truyện ngắn và 5 tập bút ký đã đề cập ở trên).
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần Nội dung chính của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Vài nét về văn xuôi Tây Nguyên thời kì hiện đại và nữ nhà văn
Linh Nga Niê Kdam.
Chương 2: Cảm hứng về cuộc sống và con người Tây Nguyên.
Chương 3: Một số đặc điểm về nghệ thuật.
7. Đóng góp mới của luận văn
- Phác hoạ chân dung về nhà văn nữ Tây Nguyên Linh Nga Niê Kdam. - Chỉ ra những đặc điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật trong sáng tác văn
xuôi của Linh Nga Niê Kdam.
- Khẳng định những giá trị và đóng góp đáng trân trọng của nữ nhà văn Tây
Nguyên này đối với văn học các DTTS Việt Nam thời kì hiện đại.
10
Chương 1
VÀI NÉT VỀ VĂN XUÔI TÂY NGUYÊN THỜI KÌ HIỆN ĐẠI
VÀ NỮ NHÀ VĂN LINH NGA NIÊ KDAM
1.1. Vài nét về văn xuôi Tây Nguyên thời kì hiện đại
1.1.1. Văn xuôi Tây Nguyên trước Đổi Mới (1986)
Mảnh đất Tây Nguyên là một bình nguyên trên cao rộng lớn, tươi đẹp. Nói
như nhà nghiên cứu văn hoá dân gian, nhà văn Linh Nga Niê Kdam thì: Từ cực Bắc
là cụm núi Atouat với đỉnh Ngok Linh cao 2598m của người Sê Đăng giỏi rèn giáo
mác đến cực Nam là dãy Chư Yang Sin cao 2402m (đỉnh cao nguyên Lang Biang)
đậm chất văn hóa K’ho, qua xứ sở của điệu chinh arap Jrai đắm đuối nhịp vòng
xoang, qua quê hương Đăm San lắng nghe điệu arei Êđê rạo rực, qua những cánh
đồng rập rờn xanh sóng cỏ của đất Mnông, qua cả chân núi Hà Giăng của người
Chăm Hroaih đấu trống… đâu đâu ta cũng thấy dấu ấn của một bản sắc văn hóa đậm
đà tính dân tộc. Để có những buôn, bon, kon, plei trầm bổng tiếng ching chiêng, Tây
Nguyên đã phải trải qua nhiều cuộc xung đột và di cư của nhiều bộ tộc. Đời sống
kinh tế của con người trên mảnh đất này trước đây phụ thuộc vào nương rẫy nên họ
vừa gần gũi vừa lệ thuộc vào thiên nhiên và rất coi trọng mối quan hệ cộng đồng. Do
cuộc sống khó khăn, trình độ khoa học kĩ thuật chưa phát triển nên đời sống văn hóa
tín ngưỡng của họ phong phú và duy trì được nhiều dấu ấn văn hóa cổ. Bên cạnh đó,
người Tây Nguyên còn có năng khiếu nghệ thuật, ưa thích ca hát nhảy múa, họ lại gìn
giữ được khối lượng truyện cổ và thần thoại rất độc đáo. Tất cả những yếu tố trên là
mạch nguồn góp phần hình thành và nuôi dưỡng những nhà văn Tây Nguyên thời kì
hiện đại cùng các tác phẩm đậm bản sắc văn hoá bản địa.
Như chúng ta đã biết, văn học dân gian Tây Nguyên có một thành tựu vô
cùng rực rỡ. Nhà văn Linh Nga Niê Kdam cũng từng khẳng định: Văn học dân gian
Tây Nguyên, đặc biệt là sử thi “phong phú về giai điệu, giàu có về nội dung, đồ sộ
về khối lượng, độc đáo về hình thức trình diễn”, từng đạt đến đỉnh cao không kém
bất cứ một dân tộc nào thậm chí ngang bằng văn học cổ phương Tây. Từ những
năm 20 của thế kỉ XX, khi Sabatier (một công sứ người Pháp) lần đầu tiên công bố
sử thi Đăm San bằng tiếng Pháp, đến nay chúng ta đã tìm ra và công bố thêm nhiều
tác phẩm sử thi khác. Theo kết quả điều tra sưu tầm của Dự án Điều tra, sưu tầm,
bảo quản, biên dịch và xuất bản Kho tàng sử thi Tây Nguyên (2001 - 2007), một
11
số lượng lớn tác phẩm sử thi Tây Nguyên đã được sưu tầm và giới thiệu: Đăm Di,
Kinh Dú, Đăm Droăn, Mơ Hiêng, Y Prao, Chi Gri, Mrong Đăm, Hdung Y Thu,
Đăm Thía, Đăm San, Hơbia Mơtao Grăn Mđrông (dân tộc Êđê); Đăm Noi, Giông
nghèo tám vợ, Tre vắt nghen nghét Giông, Sử thi Bana Kriêm, Grăn Hơlăn xấu bụng
(dân tộc Ba Na); Đăm Duông bị bắt làm tôi tớ/ Đăm Duông cứu nàng Bar Ma, Dăm
Duông hóa cọp, Dăm Duông trong lốt ông già (dân tộc Xơ Đăng); Udai Ujàc, Amã
Chisa, Ama Cuvau Vong Cơi, Sa Ea, Awơi Nãi Tilơr (dân tộc Ra Glai); Đêva Mưnô,
Intra Patra, Pram Dit - Pram Lak, Ưm Mưrup (dân tộc Chăm); Chi Bri - Chibrit, Tiếng
cồng của ông bà Hbia Lơ Đă (dân tộc Chăm Hơroi); H’Điêu, Xinh Nhã, Chi Lơ
Khôngk (dân tộc Gia Rai); Cướp chiêng cổ Bon Tiăng, Lêng nghịch đá thần của Yang,
Bắt con lươn ở suối Dak Husch, Thuốc cá ở hồ Bầu Trời - Mặt Trăng (dân tộc
M’Nông) [53, tr.288] … Tên những tác phẩm đã công bố trên còn ít hơn nhiều so với
số lượng sưu tầm được và ít hơn nhiều so với thực tế. Trong cuốn Giáo trình Văn học
dân gian (GS.TS. Vũ Anh Tuấn chủ biên), các tác giả khẳng định: “Đặc biệt chúng ta
còn phát hiện ra ba bộ sử thi liên hoàn đồ sộ là Ót ndrông của người M’Nông, Đăm
Giông của người Ba Na và Dông của người Xê Đăng; mỗi bộ trên dưới một trăm tác
phẩm. Điều này khiến cho các bộ sử thi nói trên đứng vào loại các bộ sử thi có độ dài
nhất thế giới như Ramayana của Ấn Độ, Cách Tát Nhĩ của Tây Tạng, Giang Cách Nhĩ
của Nội Mông…” [53, tr.287]. Như vậy, Sử thi Tây Nguyên đã minh chứng được đầy
đủ sức sáng tạo của con người Tây Nguyên, sức sống của một “vùng thể loại sử thi” và
sự phát triển vượt bậc của văn học DTTS Việt Nam ở miền đất Bazan nóng bỏng.
Nghiên cứu về văn hóa dân gian Tây Nguyên, nhà văn Linh Nga Niê Kdam cũng từng
nói: Đã một thời, trường ca Tây Nguyên khiến “hàng ngàn người vui, buồn, hồi hộp
cùng người hát - kể lể về tâm trạng yêu thương, hờn dỗi, căm giận… của hàng
trăm nhân vật là dũng sĩ, người đẹp, thần linh, kẻ ác hay quái thú”; “Người nghe
càng chăm chú, người kể càng thăng hoa, dẫn dắt không chỉ nhân vật của mình, mà cả
khán thính giả, bay lượn khắp ba tầng trời, đất và dưới đất, dưới nước” [25].
Có thể khẳng định: Văn học dân gian Tây Nguyên được coi là giàu có, phong
phú, đồ sộ và hấp dẫn nhất trong văn học dân gian DTTS Việt Nam. Bộ sử thi
Trường ca Tây Nguyên đã được công nhận là: Di sản văn hóa Quốc gia.
Mặc dù văn học dân gian Tây Nguyên phát triển phong phú như vậy nhưng
văn học hiện đại ở Tây Nguyên đến trước năm 1986 lại chưa phát triển mạnh, chưa
tương xứng với nền văn học truyền thống. Giai đoạn này, văn học Tây Nguyên
12
thiếu vắng những tên tuổi và những sáng tác của các nhà văn - dù họ là chủ nhân
của kho tàng văn học dân gian đồ sộ này. Văn học các DTTS ở Tây Nguyên dường
như còn “chậm chân” hơn so với những dân tộc khác ở miền núi phía Bắc nước ta.
Vì sao lại như vậy? Trong cuốn Văn học các dân tộc thiểu số Trường Sơn - Tây
Nguyên 1975 - 2010, tác giả Linh Nga Niê Kdam và một số tác giả khác cho rằng:
có 6 nguyên nhân lí giải cho điều đó:
Thứ nhất, trong thời Pháp thuộc, thanh thiếu niên Tây Nguyên theo học tại các
trường Tiểu học (Pháp - Êđê, Pháp - Jrai, Pháp - K’Ho…) mở tại Buôn Ma Thuột,
Plei Ku, Đà Lạt … chỉ được học tiếng Pháp và tiếng dân tộc chứ không được học tiếng
Việt. Trước năm 1975, hệ thống các trường Phổ thông ở Tây Nguyên rất ít, cả thị xã
Buôn Ma Thuột thời chính quyền cũ chỉ có một trường Phổ thông Trung học và một
trường Sư phạm tương đương Trung cấp đào tạo giáo viên ra dạy cấp Tiểu học.
Thứ hai, sau năm 1975, môi trường diễn xướng các loại hình văn học truyền
miệng độc đáo như trường ca, sử thi ở ngay tại các bản làng trên khắp Trường Sơn -
Tây Nguyên có một thời gian khá dài bị đứt gãy do bị đánh đồng cùng các lễ nghi,
lễ hội truyền thống dân gian, với phong trào bài trừ mê tín dị đoan. Điều này khiến
cho sự tiếp nối truyền thống bị gián đoạn, đồng nghĩa với sự phát triển năng khiếu
sáng tạo văn vần và nghệ thuật diễn xướng cũng bị chặn đứt.
Thứ ba, việc tôn trọng và giáo dục văn học truyền thống bản địa của vùng
DTTS không được các cơ quan chức năng thật sự coi trọng. Lượng tri thức thanh
thiếu niên các DTTS, đặc biệt ở Tây Nguyên tiếp thu trong suốt 12 năm học ở
trường Phổ thông thiếu hẳn một “phần mềm” cần thiết, nên càng dẫn tâm hồn, năng
khiếu lớp người này xa rời với kho tàng văn học truyền thống phong phú và đậm đà
bản sắc vốn có của mình; chỉ để tiếp thu gần như hoàn toàn văn hóa miền xuôi,
thậm chí là văn học nước ngoài.
Thứ tư, sự giao lưu văn hóa với các vùng miền được mở rộng một cách tự phát
theo những đợt sóng di dân và xây dựng vùng kinh tế mới; cùng với sự xâm nhập ồ ạt,
khó kiểm soát của các tín ngưỡng thờ phụng mới, thay thế cho tín ngưỡng đa thần cổ
truyền, khiến cho một bộ phận không nhỏ, đặc biệt là đối tượng thanh thiếu niên, một
cách vô thức, quay lưng lại với sinh hoạt văn hóa truyền thống của tộc người.
Thứ năm, nhiều thập niên trước đây, các Hội Văn học Nghệ thuật chuyên
ngành ở Trung ương lẫn Hội Văn nghệ địa phương chưa quan tâm tích cực đến việc
bồi dưỡng đào tạo đội ngũ tác giả người DTTS. Những tác giả đã và đang cầm bút
13
từ những năm 1985 trở về trước, hầu hết đều khởi đầu tự phát rồi mới được đón nhận và tập hợp lại. Việc bồi dưỡng lực lượng sáng tác người DTTS chỉ mới thực
sự được quan tâm từ sau khi Hội Văn học Nghệ thuật các DTTS Việt Nam ra đời.
Thứ sáu, đời sống kinh tế các vùng đồng bào dân tộc còn nhiều thiếu thốn,
khiến ngay cả những trí thức, học sinh, sinh viên người dân tộc rất có năng khiếu cũng không muốn chọn sự gắn bó với văn chương làm con đường chính đi suốt
cuộc đời mình.
Như vậy, theo cách lí giải của tác giả Linh Nga Niê Kdam và một số tác giả
như trên, chúng ta có thể hiểu hơn lý do vì sao đội ngũ sáng tạo văn học khu vực
các DTTS bản địa Tây Nguyên lại phát triển chậm và ít như vậy.
Văn học Tây Nguyên nói chung trước năm 1975 gần như không có gì nhiều.
Đội ngũ sáng tác viết về đề tài DTTS Tây Nguyên chỉ có vài ba tác giả. Hầu hết các tác giả viết trực tiếp về Tây Nguyên đều là người miền xuôi như: nhà văn Nguyên
Ngọc với tác phẩm Đất nước đứng lên, nhà thơ Thu Bồn với trường ca Bài ca chim
Chrao, nhà văn Vũ Hạnh với tiểu thuyết Lửa rừng, nhà văn Phạm Kim Anh với
Lãng đãng mây ngàn và một số tác phẩm khác. Người đầu tiên viết về đồng tộc
mình lúc bấy giờ chỉ có Y Điêng Kpă Hô Dí (dân tộc Êđê) với truyện ngắn có dấu
ấn là Em chờ bộ đội Wa Hồ. Tiếp đến là Mlô Y Choi (cũng là người dân tộc Êđê,
tên bút danh là Mlô Y Cla Vi) với bài thơ Cô gái vót chông (đã được nhạc sĩ Hoàng
Hiệp phổ nhạc trở thành một ca khúc xanh mãi với thời gian). Cuối cùng là cây bút
làm thơ nghiệp dư Kpă Y Lăng (La Mai Chửng) vốn là một nhạc sĩ người dân tộc
Bahnar Chăm với bài thơ đậm nét dân ca Jrai Bác Hồ sống mãi với Tây Nguyên
(được nhạc sĩ Lê Lôi phổ nhạc thành ca khúc cùng tên).
Văn xuôi Tây Nguyên đặt trong sự phát triển chung của văn học Tây Nguyên
như đã nói trên cũng có thể khẳng định là chưa có nhiều thành tựu. Người viết văn
xuôi dân tộc đầu tiên ở Tây Nguyên là Y Điêng Kpă Hô Dí (sinh năm 1928 tại buôn
Thung, xã Đức Bình Đông, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên). Bản thân Y Điêng là người sớm tham gia cách mạng và cống hiến trọn đời cho cách mạng. Năm 1962, sau khi đi học lớp Viết văn khóa I tại Quảng Bá, ông mới bắt đầu sự nghiệp văn học với tác phẩm Em chờ bộ đội Wa Hồ. Mặc dù ngay sau khi ra đời, truyện ngắn này
đã được trao Giải ba Cuộc thi Truyện ngắn do báo Thống Nhất tổ chức nhưng thành
tựu của nó cũng chưa thể thúc đẩy sức sáng tạo dồi dào của Y Điêng cũng như của các nhà văn DTTS khác ở Tây Nguyên. Hai năm sau (năm 1964), ông cho ra đời tác
phẩm Ông già Krao. Mười năm sau (1974), ông mới cho ra đời thêm tác phẩm Như
14
cánh chim Kway. Nhìn chung, sáng tác văn chương của Y Điêng đến năm 1975 vẫn còn thưa thớt.
Năm 1972, văn xuôi Tây Nguyên xuất hiện thêm một gương mặt mới, đó là
Nay Nô. Nay Nô (tên khai sinh là Rchom Dray, dân tộc Jrai, sinh năm 1948, quê ở
xã Ia Tun, A Yun Pa, Gia Lai) nguyên là Phóng viên chiến trường Quân khu 5 thời kháng chiến chống Mĩ, sau đó công tác tại Ty Văn hóa - Thông tin Gia Lai, Sở Giáo
dục và Đào tạo Gia Lai. Giai đoạn đến năm 1975, Nay Nô cũng cho ra đời ba tác
phẩm: một phóng sự Dưới chân núi Ngọc Tụ (1972) và hai bút ký: Ta-man Rơh
(1973), Mùa xuân sôi động (1975).
Có thể thấy, văn xuôi Tây Nguyên giai đoạn này, vì nhiều lý do, các tác giả
đều ít sáng tác và ít công bố tác phẩm.
Giai đoạn sau 1975 đến trước năm 1986, Y Điêng nhận thấy: “Nhà văn người DTTS ít lắm, trong khi đó vốn văn hóa buôn làng sẽ dần mất đi nếu không kịp
viết lại, nhiều chuyện còn trong bụng của người già phải chép lại cho bà con bằng
cả tiếng Việt lẫn tiếng Êđê” nên ông đã tích cực viết và cho ra đời hai tác phẩm
được bạn đọc quan tâm, chú ý: tập truyện dài H’Giang (1978 - viết bằng hai thứ
tiếng Việt và Êđê được Ủy ban Dân tộc Trung ương và Hội nhà văn Việt Nam tặng
Giải thưởng) và tập bút ký Drai Hlinh đi về phía sáng (1985). Còn Nay Nô, giai
đoạn này, ông hoàn toàn im lặng, không công bố tác phẩm.
Tóm lại, giai đoạn từ 1975 đến trước Đổi Mới, văn xuôi Tây Nguyên tuy đã
có một số tác phẩm xuất hiện nhưng thực sự chưa để lại dấu ấn đáng kể. Đúng như
cuốn Văn học các dân tộc thiểu số Trường Sơn - Tây Nguyên 1975 - 2010 khẳng
định: “Bức tranh văn học khu vực Trường Sơn - Tây Nguyên giai đoạn này mới chỉ là những đường nét phác họa mảnh mai và thật sự chưa có gì nổi bật”.
1.1.2. Văn xuôi Tây Nguyên sau Đổi Mới (1986)
Từ năm 1986, được sự quan tâm tạo điều kiện của Đảng và Nhà nước, Hội
Văn học Nghệ thuật các DTTS Việt Nam được thành lập. Đặc biệt, năm 1990 Hội Văn học Nghệ thuật Đăk Lăk ra đời, văn học Tây Nguyên mới từng bước được khởi sắc, số lượng tác giả và tác phẩm tăng lên nhanh chóng. Mở đầu cho sự sôi động của văn học Tây Nguyên giai đoạn này là sự xuất hiện của nhà văn Kim Nhất. Nhà
văn Kim Nhất (sinh năm 1945) nguyên là một nữ diễn viên, người dân tộc Bahnar
(xã Bok Tới, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định). Sau khi theo chồng về sống tại Buôn Ma Thuột, bà sáng tác truyện ngắn đầu tay: Mụ Xoặi (1994). Từ khi tác phẩm Mụ Xoặi xuất hiện, đời sống văn học dân tộc ở Tây Nguyên như được tăng thêm nhuệ khí để phát triển. Cụ thể: nhà văn Y Điêng sau một thời gian im lặng đã tiếp tục cầm bút,
15
Kpă Y Lăng (dân tộc Bahnar Chăm) quay lại làm thơ, Ka Sô Liễng (dân tộc Chăm Hroaih) ngoài đạo diễn sân khấu đã bắt đầu quan tâm đến sáng tác, Mlô Y Cla Vi
(dân tộc Êđê) âm thầm lặng lẽ sáng tạo, H’Linh Niê (dân tộc Êđê) xuất hiện; tiếp đó là
sự ra đời và tích cực, hồ hởi sáng tác của các tác giả: Đinh Xăng Hiền, Nga Ri Vê (dân
tộc Hrê), Hồ Chư (dân tộc Vân Kiều), Niê Thanh Mai (dân tộc Êđê), Hoàng Thanh Hương (dân tộc Mường sống ở Tây Nguyên).
Từ năm 2000 trở đi, văn học Tây Nguyên “nở rộ”. Bên cạnh các tác giả thực
sự đã định hình, văn đàn Tây Nguyên có thêm nhiều gương mặt mới: K’Ra Zan Plin
(dân tộc K’Ho), H’Trem Knul (dân tộc Êđê), Đinh Su Giang (dân tộc Ka Dong),
Ksor Bi Tô (dân tộc Jrai), Hoàng Nhật Rlayang (dân tộc M’nông), Y Việt Sa (dân
tộc Bahnar Rngao), H’Lứt Mlô (dân tộc Êđê), H’Siêu Buôn Yă (dân tộc Êđê),
H’Xíu H’Mok (dân tộc Êđê), Y Du La Niê (dân tộc Êđê)… Trong số các tác giả mới đó, Tây Nguyên tự hào đón nhận hai cô gái Êđê: H’Phi La Niê và H’Wê Ra là
hai nhà văn DTTS Tây Nguyên được đào tạo chuyên nghiệp. Nhìn lại các thế hệ
nhà văn Tây Nguyên, ta thấy hầu như họ đều là các trí thức. Đội ngũ những người
viết văn DTTS vùng Tây Nguyên ngày càng được bổ sung đông đảo. Dù họ có thể
còn chưa thực sự được độc giả cả nước biết đến nhưng họ đều đã chính thức gia
nhập vào làng văn Tây Nguyên, góp phần làm nên diện mạo văn học một vùng quê
hương luôn vang tiếng suối reo, gió hát và thấm đẫm âm hưởng cồng chiêng.
Nằm trong không khí sôi động của sự phát triển văn chương ở Tây Nguyên, văn
xuôi Tây Nguyên cũng bắt đầu trở nên phong phú kể từ khi Tạp chí Cư Yang Sin của
Hội Văn học Nghệ thuật Đăk Lăk ra số đầu tiên năm 1986 (số có in truyện ngắn
Mụ Xoặi của Kim Nhất). Từ đó, Kim Nhất liên tục gây bất ngờ với văn xuôi Tây Nguyên bằng hàng loạt các tác phẩm liên tiếp ra đời. Có thể kể đến những tác phẩm
là Truyện ngắn: Ly hôn (1998), Động rừng (1999), Hồn ma núi (2003), Huyền
thoại Bok Kron (2005); Tiểu thuyết: Chuyện lạ (2007), Luật của rừng (2009), Hoa
đại ngàn (2010), Truyện cổ và Truyện viết cho thiếu nhi: Truyện cổ Bahnar (1991), Truyện cổ Bahnar 2 (2000), Y Sanh và Y Rá (2002), Chúa sơn lâm mắc bẫy (2003), Người chăn dê (2005), Tôi được gặp Bác Hồ (2008) và các bài Bút ký khác, tiêu biểu nhất là Bút ký Về với Ban Mê (1996). Dù sáng tác của Kim Nhất có
người nhận xét là: “Phần lớn chủ yếu ghi chép lại người thật, việc thật; ít chú ý đến
nghệ thuật thể hiện” nhưng cũng có người nhận xét: “Truyện viết về buôn làng và truyện kì quái của Kim Nhất là hay nhất” và Kim Nhất cũng đã khẳng định được sự
có mặt của mình trong đời sống văn học Tây Nguyên với lối viết đậm chất dân tộc
từ nội dung tác phẩm đến các yếu tố nghệ thuật.
16
Nhà văn Y Điêng sau một thời gian im lặng, ông liên tục hoàn thành các bản thảo truyện - ký ghi lại những câu chuyện từ thời kháng chiến chống Mĩ và những
câu chuyện về người anh hùng Mnông. Ông cho ra đời hàng loạt Tiểu thuyết,
Truyện ký: Chuyện bên bờ sông Hinh (1994), Sông Hinh, con sông quê hương
(1995), N’Trang Lơng (2004), Lửa trong tay chúng tôi (2005), Trung đội người Bahnar (2010). Khi sáng tác, ông ý thức rõ trách nhiệm của mình đối với quê
hương Tây Nguyên: “Chuyện của dân tộc mình phải chính mình viết. Mình không
viết, không nói là mình mắc nợ với quê hương, với người thân”. Cuối cùng, với
những lao động nghệ thuật bền bỉ, ông đã đem lại cho văn xuôi Tây Nguyên một
dòng mạch riêng, đầy ắp hình ảnh quê hương, cuộc sống con người trên mỗi bản
làng bằng một giọng văn dung dị. Ông xứng đáng là Cây Xà nu lớn trong làng văn
xuôi Tây Nguyên.
Sau Kim Nhất và Y Điêng phải kể đến nhà văn hoá, nhà văn Tây Nguyên đa
tài H’Linh Niê. Với tác phẩm đầu tay Gió vẫn thổi từ rừng (1994), và Tập truyện ngắn
Con rắn màu xanh da trời (1996), H’Linh Niê chính thức bước vào làng văn Tây
Nguyên. Từ đấy, H’Linh Niê không ngừng sáng tạo, chị liên tiếp cho ra đời nhiều tác
phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau. Sau thành công của Con rắn màu xanh da trời
(đạt Giải B Hội Văn học Nghệ thuật DTTS Việt Nam 1998), H’Linh Niê tiếp tục khẳng
định mình bằng 2 tập truyện ngắn: Gió đỏ (2004), Pơ Thi mênh mang mùa gió (2009)
và 5 tập bút ký Trăng Xí Thoại (1999), Đi tìm hồn chiêng (2003), Chân dung văn nghệ
sĩ Tây Nguyên (2005), Nhân danh ai ? (2008), Tại gió mà nhớ (2015) cùng một loạt tác
phẩm sưu tầm, chỉnh lý văn học: Sử thi Êđê Đam San thời thơ ấu (1998), Trường ca
Bahnar Nàng Bia Lúi (2000), Truyền thuyết Mnông Núi Nâm Nung (2001), Thành ngữ dân gian Mnông (2010), Luật tục K’Ho (2011)... Bằng những sáng tạo của mình,
H’Linh Niê giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện về đời sống người dân ở các buôn làng
Tây Nguyên thời kì hiện đại với tất cả những khó khăn, thuận lợi cũng như những cuộc
đấu tranh vật vã để chống lại hủ tục, tư tưởng cũ; chống lại những tiêu cực, tệ nạn xã hội… để thoát khỏi cuộc sống đói nghèo, lạc hậu; vươn lên no ấm, làm giàu và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong thời đại mới.
Sau lớp nhà văn trên là một thế hệ nhà văn mới, rất trẻ, đại diện cho tiếng nói
văn xuôi Tây Nguyên đương đại. Đó là các cây bút: Niê Thanh Mai, H’ Phi La Niê,
H’Siêu Buôn Yă … Trong đó, nổi bật là nhà văn nữ: Niê Thanh Mai. Là một người con dân tộc Êđê trưởng thành từ cao nguyên phố thị lại là một giáo viên giảng dạy
Ngữ văn tại trường Trung học Phổ thông Dân tộc Nội trú N’Trang Lơng nên Niê
Thanh Mai thấu hiểu tâm tư tình cảm và sự đổi thay trong lối sống, cách nghĩ của
17
lớp thanh niên dân tộc đương đại. Vì thế, chị có điều kiện phản ánh tất cả những điều đó trong các tác phẩm văn xuôi của mình. Với 3 tập truyện ngắn Suối của
rừng (2005), Về bên kia núi (2007), Ngày mai sáng rỡ (2010), Niê Thanh Mai đã
hình thành một lối viết riêng, một tiếng nói mới cho văn xuôi Tây Nguyên.
Nhìn chung, văn xuôi Tây Nguyên sau 1986 trở đi thực sự có một diện mạo riêng với một đội ngũ các nhà văn đầy nhiệt huyết, đam mê, sung sức và đầy trách
nhiệm với tiếng nói văn chương của dân tộc. Văn xuôi của họ đã bắt đầu có dấu ấn và
mang đặc trưng của văn học DTTS vùng cao nguyên, có khả năng thu hút bạn đọc bởi
sự phong phú đa dạng và màu sắc riêng biệt vừa quen vừa lạ. Đó là những áng văn
xuôi mang hơi thở của văn học dân gian Tây Nguyên với những trường ca, sử thi vĩ
đại; thể hiện bản lĩnh, khí phách, tâm hồn phóng khoáng của con người và chất chứa
bản sắc dân tộc độc đáo trong phong tục tập quán, nếp sống, nếp nghĩ và cả tình yêu rất riêng, rất mãnh liệt cùng những lo lắng trở trăn trong đời sống còn nhiều khó khăn
thách thức của con người Tây Nguyên trên dải đất xanh tươi, hùng vĩ này. Có thể nói,
văn xuôi Tây Nguyên nói riêng, văn học DTTS Tây Nguyên nói chung đã góp phần
làm nên diện mạo của một nền văn học DTTS Việt Nam giàu bản sắc thời kì hiện đại.
1.2. Nhà văn nữ Linh Nga Niê Kdam
1.2.1. Vài nét về tiểu sử
Linh Nga Niê Kdam sinh ngày 08 tháng 08 năm 1948, tên bút danh là H’Linh Niê,
hiện đang sống tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk. Chị xuất thân trong
một gia đình trí thức, quê ở thị trấn Ea Pok, huyện Cư M’Gar, tỉnh Đắc Lắc. Mặc dù
là một người con dân tộc Êđê nhưng chị được sinh ra và lớn lên tại Miền Bắc (cha
chị là một trí thức Tây Nguyên tập kết, công tác tại Miền Bắc).
Con chim hoạ mi Tây Nguyên Linh Nga Niê Kdam tham gia vào lĩnh vực
Văn hóa Nghệ thuật từ rất sớm. Sau khi tốt nghiệp Phổ thông Trung học (1966), chị
đã theo Đoàn Ca Múa Tây Nguyên đi biểu diễn khắp miền Bắc và phục vụ chiến
trường Đường 9 - Nam Lào (1971). Tốt nghiệp Đại học Thanh nhạc (1979), chị về công tác tại Buôn Ma Thuột và đã từng giữ nhiều cương vị trong lĩnh vực văn hoá, xã hội, nghệ thuật dân tộc như: Phó trưởng Đoàn Ca múa Đăk Lăk; Hiệu trưởng Trường Văn hoá nghệ thuật Đăk Lăk; Phó Giám đốc Cơ quan thường trú Đài Tiếng nói Việt
Nam tại Tây Nguyên; Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhạc sỹ Việt Nam khóa VI, VII;
Phó Tổng thư ký Hội Văn học Nghệ thuật DTTS Việt Nam khoá II, III; Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đăk Lăk khóa III; Ủy viên Ban chấp hành Hội Văn nghệ dân
gian Việt Nam khoá II, III, IV, V, VI, VIII; Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên
Hội Nhà báo Việt Nam ...
18
Là một nghệ sĩ, một nhà hoạt động văn hoá, văn nghệ ở Tây Nguyên được đào
tạo bài bản, Linh Nga Niê Kdam có hiểu biết sâu rộng về nghệ thuật, văn hóa, văn học
Tây Nguyên. Chị đã được Nhà nước trao tặng nhiều huy chương: Huy chương Vì sự
nghiệp Văn hoá Việt Nam (1990), Huy chương Vì sự nghiệp Văn học Nghệ thuật
Việt Nam (1999), Huy chương Vì sự nghiệp Văn nghệ dân gian Việt Nam (2001), Huy chương Vì sự nghiệp Âm Nhạc Việt Nam (2002), Huân chương lao động hạng Ba (2013)… cùng nhiều bằng khen của Uỷ ban Nhân dân tỉnh Đăk Lăk, Liên hiệp các
Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam & Đài Tiếng nói Việt Nam cùng các Giải thưởng
chuyên môn uy tín của ngành Báo chí, Nghiên cứu văn hóa. Trong lĩnh vực bút ký
báo chí, chị từng đạt các giải thưởng: Giải C bút ký Mất còn Folklore Tây Nguyên
(Đài Tiếng nói Việt Nam - 1993), Giải B bút ký Về quê chồng mùa nước nổi (Báo
Nông nghiệp - 1996), Giải C bút ký Chuyện lạ ở Mường Hoong (Hội Nhà báo Việt
Nam - 2000), Giải B tập bút ký Đi tìm hồn chiêng (Liên hiệp Văn học Nghệ thuật -
2004), Giải A bút ký Nhân danh ai? (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - 2005), Giải B
bút ký Nhân danh ai? (Hội Nhà báo Việt Nam - 2005), Giải A bút ký Tôi đã được
Bác Hồ dạy dỗ (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - 2007), Giải Tôn vinh Cư Yang Sin
(Uỷ ban Nhân dân tỉnh Đăk Lăk lần thứ I - 2009), Giải A Cư Yang Sin bút ký Tại
gió mà nhớ (Ủy ban Nhân dân tỉnh Đăk Lăk lần II - 2015)… Trong lĩnh vực sưu
tầm, nghiên cứu, chị cũng từng đạt các giải thưởng: Giải C Hội Văn nghệ Dân gian
Việt Nam tập Nghiên cứu văn hoá Tây Nguyên (2006), Giải C Hội Nhạc sỹ Việt
Nam tuyển Những bài báo giới thiệu nhạc cụ các dân tộc Tây Nguyên (2006),
Giải A Hội Văn học Nghệ thuật Đăk Lăk tập Trường ca trong môi trường văn hoá
Tây Nguyên (2006). Giải C Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam Già làng Tây
Nguyên (2008), Giải tôn vinh các đóng góp về Văn hoá Nghệ thuật - Giải Cư Yang
Sin - Đăk Lăk (2009), Giải B Hội Nhạc sĩ Việt Nam Bàn về âm nhạc Tây Nguyên
(2014)…. Bằng những cống hiến của mình trong các lĩnh vực, chị đã trở thành động
lực, là người tạo điều kiện và trực tiếp góp phần đào tạo, xây dựng đội ngũ nhà văn
kế tiếp như: Niê Thanh Mai, H’ Phi La Niê, H’Siêu Buôn Yă … và góp phần không
nhỏ vào sự phát triển của văn học Tây Nguyên thời kì hiện đại.
Linh Nga Niê Kdam sinh ra trong một gia đình trí thức, cha là bác sĩ Y
Ngông Niê Kdam - một người trí thức DTTS lớn, một nhà hoạt động chính trị có uy tín của quốc gia, người duy nhất ở Việt Nam là đại biểu Quốc hội 9 khóa liên tục. Ông luôn có ý thức sâu sắc trong việc giáo dục Linh Nga Niê Kdam về lòng yêu
nước, về truyền thống dân tộc, về ý thức bảo tồn bản sắc văn hóa cũng như ngôn
19
ngữ, tiếng nói của quê hương. Ngay từ khi học lớp 3, chị đã được cha dẫn theo tham
gia lễ hội ở các “chi” trong Trường Dân tộc tại Gia Thượng (Gia Lâm), nghe các
nghệ nhân kể k’han cho cán bộ sưu tầm văn học ghi chép. Vì vậy, dù chưa một lần
về Buôn Ma Thuột nhưng chị đã biết và yêu từng ngọn núi, con sông cùng những
câu chuyện huyền thoại về quê hương tươi đẹp. Lên lớp 5, chị được cha cho theo
học lớp dạy chữ Êđê. Tình yêu dân tộc, niềm tự hào về quê hương của chị bắt nguồn
từ đó. Sau này, đã có lần chị tâm sự: “Không sinh ra ở Đăk Lăk, nhưng hạt mầm
của tình yêu và niềm tự hào dân tộc ba gieo lớn dần tâm hồn tôi theo tháng năm”.
Rõ ràng, tình yêu, niềm tự hào dân tộc lớn dần lên trong chị là sự tiếp nối và phát
triển của một tình yêu, niềm tự hào dân tộc đã khắc sâu trong tâm khảm của cha chị
- một người con Tây Nguyên xa quê nhưng luôn hướng về quê hương với tất cả tấm
lòng và trái tim yêu thương sâu sắc.
Trong suốt cuộc đời mình, Linh Nga Niê Kdam không ngừng tìm tòi, nghiên
cứu, sáng tạo. Chị gửi vào các sáng tác của mình tình yêu thiết tha với quê hương Tây
Nguyên hùng vĩ. Ở lĩnh vực sáng tác văn chương, chị đến khá muộn màng nhưng lại
rất chắc chắn và sớm ghi được dấu ấn trong đời sống văn học Tây Nguyên. Chỉ trong
vòng hơn 20 năm, chị đã có một sự nghiệp văn chương đáng nể trọng với hàng chục
tác phẩm đã xuất bản được nhiều người biết đến, trong đó có 3 tập truyện ngắn: Con
rắn màu xanh da trời, Gió đỏ, Pơ Thi mênh mang mùa gió và 5 tập bút ký: Trăng
Xí Thoại, Đi tìm hồn chiêng, Nhân danh ai?, Chân dung văn nghệ sĩ Tây Nguyên, Tại gió mà nhớ cùng hàng loạt tác phẩm sưu tầm, chỉnh lý văn học, nghiên cứu văn hóa dân gian Tây Nguyên: Sử thi Êđê Đam San thời thơ ấu, Trường ca Bahnar
Nàng Bia Lúi, Truyền thuyết Mnông Núi Nâm Nung, Thành ngữ dân gian
Mnông, Văn hóa dân gian các dân tộc K’Ho, Ê Đê - Bih, Rmam và nhiều tác phẩm
thuộc các thể loại khác mới in như: Tiểu luận Văn học dân tộc thiểu số Trường Sơn
- Tây Nguyên 1975 - 2010, Tản văn Bến nước ơi, Chân dung bè bạn Chân dung văn
nghệ sỹ Tây Nguyên. Riêng về truyện ngắn và bút ký, chị cũng đã có những tác
phẩm được trao Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam, của Ủy ban toàn quốc các
Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, của Hội Văn học Nghệ thuật các DTTS Việt Nam.
Tác phẩm văn chương của chị luôn thấm đẫm chất Tây Nguyên từ đề tài, chủ
đề, thế giới nhân vật đến không gian nghệ thuật, ngôn ngữ nghệ thuật... Đọc văn
chương của chị ta hiểu hơn về con người, cuộc sống, thiên nhiên núi rừng Tây
Nguyên; thấy được những nét đẹp văn hóa của các tộc người cùng những chuyển
biến về kinh tế và những đổi thay chóng mặt của thời cuộc với bao thuận lợi cũng
20
như bao khó khăn, thách thức mà con người Tây Nguyên cần phải đối mặt và phải
vượt qua.
Tất cả những yếu tố đã nói trên: không khí sôi động của sự phát trển văn
chương Tây Nguyên từ sau năm 1986, nguồn cội gia đình, tài năng nghệ thuật, niềm
say mê sáng tạo nghệ thuật, những hiểu biết sâu rộng về văn hóa truyền thống dân
tộc, đặc biệt là tình yêu quê hương, niềm tự hào về quê hương chính là tiền đề làm
nên một cá tính sáng tạo, một lối viết riêng của nhà văn Linh Nga Niê Kdam. Việc
gia nhập vào làng văn Tây Nguyên, đem tiếng nói người Tây Nguyên hòa vào tiếng
nói chung của văn xuôi các dân tộc Việt Nam, Linh Nga Niê Kdam đã khẳng định
được tài năng của mình đồng thời góp phần khẳng định được sức sống, phát huy
được truyền thống văn chương đã có từ lâu đời trên mảnh đất Tây Nguyên tươi đẹp.
Linh Nga Niê Kdam thực sự trở thành một cây bút văn xuôi tiêu biểu của Tây
Nguyên sau Đổi Mới.
1.2.2. Linh Nga Niê Kdam - người con luôn hướng về nguồn cội
Nhà văn Linh Nga Niê Kdam (H’Linh Niê) là người con đích thực của Tây
Nguyên (cho dù chị không sinh ra tại Tây Nguyên do điều kiện công tác của cha mẹ
chị). Vì vậy, dòng máu Êđê luôn cuộn chảy trong con người chị và luôn thôi thúc chị
trở về, gắn bó với vùng đất thiêng - quê hương, nguồn cội của chị. Chị đã dồn tâm
huyết, trí tuệ, tình cảm và tài năng của mình để viết về quê hương, nghiên cứu về bản
sắc văn hoá Tây Nguyên; sưu tầm, khai thác vốn văn hoá, nghệ thuật truyền thống của
Tây Nguyên.
Riêng trong các tác phẩm văn xuôi của chị, hình ảnh thiên nhiên, cuộc sống,
con người Tây Nguyên với những phong tục tập quán, những nếp nghĩ, lối sống,
những sinh hoạt của cộng đồng, của các gia đình, các cá nhân trong buôn làng cũng
như những đổi thay của vùng đất, con người nơi đây trong cuộc sống thời kì hiện
đại… đều được chị phản ánh một cách chân thực, sinh động vào trang văn của
mình. Có thể dễ nhận thấy một điều: cảm hứng bao trùm trong các sáng tác của Linh Nga Niê Kdam chính là cuộc sống, con người Tây Nguyên với những nét bản sắc riêng biệt của các DTTS trên mảnh đất cao nguyên lộng gió.
Quê hương Tây Nguyên hiện lên qua những trang văn của H’Linh Niê trước hết là hình ảnh của thiên nhiên, núi rừng rộng lớn vừa hùng vĩ vừa tràn đầy chất thơ.
Một thiên nhiên bao giờ cũng đẹp đẽ và thấm đượm tình người. Nhưng đồng thời hình ảnh thiên nhiên trong văn xuôi của chị cũng hết sức đa dạng, nhiều màu sắc khác nhau. Có lúc, thiên nhiên được nhìn nhận như một đối tượng khách quan mang đậm dấu ấn miền núi, có lúc lại được nhìn nhận như một sinh thể sống có tâm tư
21
tình cảm như con người, gắn bó hòa hợp với con người, thấu hiểu, chở che cho con người. Đôi khi, thiên nhiên giống như một nạn nhân, bị con người tàn phá kiệt quệ
đến mức trở thành hung dữ.
Trở về với cội nguồn dân tộc, H’Linh Niê cũng phát hiện ra bao nhiêu nét đẹp
trong văn hóa, đời sống, nếp nghĩ… của người dân trên quê hương. Chị tin rằng, truyền
thống văn hóa thiêng liêng của dân tộc chính là cội nguồn sức mạnh, là chỗ dựa tinh
thần, là sự kết nối mọi buồn vui của cộng đồng dân tộc. Chính vì phát hiện ra biết bao
vẻ đẹp trên quê hương nên những trang viết của chị thường say sưa ca ngợi con người,
cuộc sống, phong tục, tập quán đẹp của các DTTS ở Tây Nguyên. Chị cảm nhận rất rõ
cuộc sống đang chuyển mình mạnh mẽ trên quê hương chị - thành phố Buôn Ma
Thuột, Pleiku, Kon Tum: “đang vươn lên lồng lộng vóc dáng của những thành phố
hừng hực sức trẻ như dũng sĩ Đam San, Xing Nhã, Đam Gyông thuở nào” (Mùa xuân,
ơi Ban mê của tôi) [11, tr.55]. Cùng với sự chuyển mình kinh tế, chị còn thấy Tây
Nguyên cũng đang khởi sắc, thăng hoa về văn hóa. Biết bao giá trị văn hóa vật chất, tinh
thần được chị phản ánh sâu đậm trong các sáng tác văn xuôi của mình. Nhất là âm thanh
của những tiếng chiêng, điệu múa, tiếng ca mang bản sắc quê hương không thể
trộn lẫn, có sức hấp dẫn, lôi cuốn lòng người và tất nhiên trước hết làm đắm say
lòng chị: “Tiếng Đinh năm dìu dặt, Đinh buốt cok nỉ non. Tak tak mênh mông. Đinh tút
phập phồng bồng bềnh như hơi thở, hòa với những câu hát chảy trong đêm sâu thẳm
cao nguyên” (Đêm Dliê Ya ngàn xanh) [6, tr.170]. Nổi bật trong không gian văn hóa
đó, tâm điểm mà H’Linh Niê hướng tới là con người, những chàng trai: “thân hình
cao chắc săn bóng dẻo dai như cây cate bên suối”, những cô gái: “đẹp như mặt
trời ban mai, như mặt trăng giữa tháng, như cái hoa mới hé nở vậy” (Cầu vồng
lung linh) [6, tr.100-103]. Họ có thể là những người lao động, cũng có thể là nhân vật
trí thức tiến bộ, thậm chí là cả người dân tộc sống ở nước ngoài. Dù con người
trong tác phẩm của mình là ai đi nữa thì chị vẫn nhận thấy họ là những người
hăng hái, nhiệt tình, tài hoa, dũng cảm, giàu khát vọng, tình yêu và tuổi trẻ cùng
những khát khao đổi thay cuộc sống.
Tuy đặc biệt yêu quê hương, H’Linh Niê dành không ít trang văn hào hứng, say
sưa ngợi ca cái giàu, cái đẹp, cái hay, nét độc đáo của các DTTS Tây Nguyên nhưng
chị vẫn khách quan, trung thực mà nhận thấy những mảng khuất lấp, những khía cạnh
còn hạn chế ở quê hương chị. Chị cũng rất bức xúc với những khó khăn, vất vả, kém
cỏi, nghèo nàn và lạc hậu của nó. Chị vô cùng xót xa trước sự mất mát, mai một, tàn lụi
theo tháng ngày những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc mình: “Chiêng Gia
22
Rai, Êđê Barnar chảy thành máu trong các lò nấu đồng”, “việc bán chiêng, đập ché
đang phát triển thành một nạn dịch” với “những chiếc ché Yang Sung, Yang Rlung …
xưa kia phải đổi bằng mấy con trâu, nay bị vứt bỏ không thương tiếc ngoài vườn, mặc
cho mưa gội, nắng thiêu” (Đi tìm hồn chiêng) [8, tr.14]. Gửi gắm tha thiết trong
những trang văn của mình, H’ Linh Niê mong mỏi : “Mong sao những phong tục đẹp,
những nét độc đáo của văn hóa cổ truyền được bảo tồn, phát huy và truyền lại cho con
cháu muôn đời sau, cho tiếng chiêng Tây Nguyên mãi mãi bay cao, bay xa trong xanh
cao thăm thẳm của bầu trời cao nguyên bao la” (Lời chiêng Tây Nguyên) [8, tr.62].
Cũng qua những trang văn ấy, chị cất lên tiếng kêu khẩn thiết với các thế hệ Tây
Nguyên: “Dù chỉ một lời nói, một việc làm, bạn cũng sẽ giúp chúng tôi gìn giữ được
kho báu ấy một cách vững vàng. Thời gian nào có chờ một ai. Hãy giữ lấy bạn bè ơi,
giúp chúng tôi giữ lấy: Nhịp của thiêng liêng núi rừng vọng lại/ Nhịp của cha ông bao
đời để lại/ Cho sống mãi ngàn năm, sáng mãi ngàn năm tâm hồn cao nguyên”
(Folklore Tây Nguyên - độc đáo và giàu có - còn chăng?) [7, tr.45].
Có thể nói, Linh Nga Niê Kdam là một nhà văn có vốn sống vô cùng phong
phú, vốn văn hóa dồi dào kết tinh từ văn hóa Êđê và văn hóa Việt. Đã có lần chị tâm
sự: “Tôi là người may mắn vì được thấm đẫm văn hóa đủ các vùng miền Việt Nam:
sinh ra trên quê hương Việt Bắc, tiếp thu học vấn trên nền văn minh Sông Hồng,
hoạt động văn hóa nghệ thuật ở Tây Nguyên; lấy chồng người Khơmer Nam bộ”.
Không chỉ có thế, chị còn là một nhà văn có ý thức trách nhiệm bảo tồn văn hóa truyền
thống của dân tộc và có ý thức trách nhiệm với nghề nên chị mới có thể viết khỏe, viết
sâu và viết một cách tràn đầy nhiệt huyết về dân tộc mình đến vậy. Là một nhà văn yêu
quê hương tha thiết, chị luôn nâng niu trân trọng nguồn gốc, văn hóa dân tộc và lấy đó
làm nguồn cảm hứng để sáng tác các tác phẩm văn học. Với những gì đã đạt được
trong sự nghiệp sáng tác và nghiên cứu sưu tầm văn hoá, văn học dân gian của mình,
Linh Nga Niê Kdam xứng đáng là nữ nhà văn tiêu biểu của vùng đất đỏ Bazan thời kì
Đổi Mới.
Tiểu kết chương 1
Tìm hiểu quá trình phát triển của văn xuôi Tây Nguyên thời kì hiện đại, chúng
tôi nhận thấy: Mặc dù tốc độ phát triển của văn xuôi Tây Nguyên còn chậm và muộn
so với văn xuôi các dân tộc miền núi phía Bắc, song đội ngũ sáng tác ở Tây Nguyên
từng bước đã có sự phát triển, ngày càng đông đảo hơn với sự tiếp nối của nhiều thế hệ.
Số lượng tác phẩm tăng lên nhanh chóng. Nội dung các tác phẩm có sự mở rộng,
23
phong phú về đề tài và chủ đề. Nghệ thuật viết văn luôn có sự hài hoà giữa tính truyền
thống và hiện đại. Văn xuôi Tây Nguyên đã khẳng định được bản sắc riêng của mình
và hòa nhập vào dòng chảy chung của văn học các DTTS Việt Nam. Trong số các nhà
văn Tây Nguyên thời kì hiện đại, Linh Nga Niê Kdam nổi lên như một gương mặt tiêu
biểu. Bằng trái tim ấm áp tình yêu và chứa chan niềm tự hào về dân tộc, chị đã thành
công trong việc sáng tác những tác phẩm văn học có giá trị, phản ánh sâu sắc cuộc
sống, con người và văn hóa Tây Nguyên; góp phần phát triển và làm phong phú thêm,
đa sắc màu thêm cho văn học các DTTS Việt Nam hiện đại.
24
Chương 2 CẢM HỨNG VỀ CUỘC SỐNG VÀ CON NGƯỜI TÂY NGUYÊN
2.1. Tình yêu, niềm tự hào về mảnh đất, con người Tây Nguyên
2.1.1. Một vùng đất hùng vĩ, lãng mạn
Từ khi nhà văn Linh Nga Niê Kdam được trở về nguồn cội, tình yêu và niềm tự
hào sẵn có với mảnh đất Tây Nguyên đầy nắng, gió, bạt ngàn màu xanh của núi rừng
ngày càng lớn dần lên trong trái tim chị. Chình tình yêu và niềm tự hào ấy đã thôi thúc
chị cầm bút viết về quê hương. Có lần chị tự bạch: “Dường như Tây Nguyên chọn tôi,
giao cho tôi gánh nặng văn chương mà tôi phải mang suốt cuộc đời, như là một món
nợ không trả nổi. Con đường văn học thật nhọc nhằn, mà mình thì lực bất tòng tâm.
Thôi đành viết được gì thì viết và bắt buộc phải viết. Vậy thôi!”. Mặc dù rất khiêm tốn khi nói về mình nhưng sự nghiệp văn học của chị đã chứng minh: Không phải chị “viết
được gì thì viết và bắt buộc phải viết” mà chị đã làm được hơn thế rất nhiều. Chị đã
viết, đã giới thiệu, đã phản ánh được rất nhiều điều về mảnh đất cao nguyên yêu dấu
của chị. Trước chị, hai nhà văn lớp đàn anh, đàn chị là: Y Điêng và Kim Nhất đã viết
khá nhiều về con người và mảnh đất Tây Nguyên nhưng Linh Nga Niê Kdam lại viết
về quê hương bằng một tâm thức đặc biệt, với một tình cảm đặc biệt của một người con
xa quê mới được trở về. Hình ảnh Tây Nguyên cùng những con người, cuộc sống giàu
bản sắc văn hóa hiện lên rất rõ trong những trang văn mượt mà, nồng nàn hơi thở của
sử thi, huyền thoại mà vẫn rất hiện đại, chân thực. Tất cả được sàng lọc qua tâm hồn và
trái tim yêu thương mãnh liệt của một nữ nghệ sĩ lịch lãm, sâu sắc, dịu dàng, lãng mạn. Dấu ấn của tình yêu, niềm tự hào về mảnh đất, con người Tây Nguyên trong văn
chương Linh Nga Niê Kdam trước hết thể hiện qua những trang viết tái hiện sinh
động bức tranh thiên nhiên vùng Tây Nguyên rộng lớn, xanh thẳm, gần gũi mà bí
ẩn, hùng vĩ và lãng mạn. Hình ảnh thiên nhiên dưới ngòi bút của nữ nhà văn hiện lên đa dạng, phong phú và nhiều màu vẻ. Cảnh sắc thiên nhiên ở đây có khi rất trong trẻo, tinh khôi, thơ mộng; có khi lại vô cùng hùng vĩ, dữ dội, hoang sơ; có khi rất hào phóng, mang đậm khí thiêng sông núi; có khi lại là biểu tượng về những mối tình bất tử của con người... Thiên nhiên Tây Nguyên đa sắc thái ấy lại được nhà văn
nhìn ngắm từ nhiều chiều kích, nhiều thời điểm khác nhau. Dù được nhìn ngắm ở
góc độ và thời điểm nào thì phần lớn thiên nhiên đều hiện lên hết sức đẹp đẽ, trong lành, gần gũi mà bí ẩn, hùng vĩ và lãng mạn, dữ dội và hào phóng… tạo nên một
không gian đậm chất Tây Nguyên. Dễ dàng nhận thấy, trong nhiều tác phẩm, nhà
văn tái hiện thiên nhiên như một đối tượng nghệ thuật khách quan và cũng trong
25
nhiều tác phẩm, nhà văn tái hiện thiên nhiên mang đậm màu sắc tâm lý. Trong hầu hết các sáng tác của nhà văn, thiên nhiên hiện lên như một sinh thể sống có tâm hồn, tình cảm, biết yêu thương, chở che, hòa hợp với con người đúng như cách cảm, cách nghĩ của đồng bào DTTS Tây Nguyên về thiên nhiên.
Khi nghĩ về mảnh đất cao nguyên nắng cháy, chúng ta thường nghĩ ngay đến núi đồi, rừng cây điệp trùng cao vút, xanh xa tít tắp và những con đường bụi đỏ mù
vương. Quả đúng như vậy, viết về quê hương Tây Nguyên của mình, nhà văn Linh
Nga Niê Kdam đã nhiều lần miêu tả vẻ đẹp của những ngọn đồi, ngọn núi yêu thương:
“Mặt trời chưa mọc nhưng tít trên cao, một vòm xanh ngọc đang lan rộng dần, đẩy lùi
những đám mây xám, hứa hẹn một ngày nắng đẹp. Đỉnh Ngok Linh vẫn thường khuất
trong mây trắng, bỗng hiện rõ, dáng núi mềm mại tạc vào chân trời đang hé lên màu
hồng. Quả đồi thấp như gò ngực người đàn bà nằm duỗi dài dưới chân núi ven hồ phập phồng thở trong sương sớm” (Con trai của rừng Xà Nu) [9, tr.141]. Trong cảm
nhận của Linh Nga Niê Kdam, đỉnh núi Ngok Linh cao vợi, sừng sững đứng giữa trời
cùng những quả đồi thấp “nằm duỗi dài” ngủ quanh chân núi là hình ảnh đẹp đẽ nhất,
gợi cảm nhất “tạc vào chân trời”, tô điểm cho bức tranh thiên nhiên buổi sáng tinh
khôi, đầy màu sắc. Vẻ đẹp của núi, của đồi giống như vẻ đẹp cơ thể tràn đầy sức sống
của người phụ nữ vùng cao. Cảm nhận về thiên nhiên như thế thật đáng yêu và táo bạo.
Rừng núi Tây Nguyên trong những trang viết của Linh Nga Niê Kdam mang
một vẻ đẹp riêng, vô cùng quyến rũ, lãng mạn nhưng cũng rất gần gũi, thân quen, tỏa
ngát hương thơm và luôn chắt chiu dâng hiến cho cuộc sống con người: “Những cánh
rừng cà phê đơm đầy hoa trắng muốt, thơm ngào ngạt. Dòng nước từ các dàn phun
trong các rừng cà phê tỏa lên trời như những đóa hoa mưa, rơi rào rào trên cành lá… Xen giữa cà phê xanh là rừng cao su già nua trút lớp áo cũ trải thảm dày quanh thân,
chắt chiu dồn nhựa trắng về cho người. Thông xanh với những búp non óng ả tựa hàng
ngàn ngọn nến nhỏ đong đưa đón gió” (Du xuân Tây Nguyên) [7, tr.63]. Trong nhiều
tác phẩm, nhà văn đã dụng công tái hiện cảnh rừng khộp Tây Nguyên. Cảnh rừng khộp - loài cây đặc trưng của đại ngàn nơi đây - ở thời điểm nào trong năm cũng làm nhà văn Linh Nga Niê Kdam say đắm. Dưới ngòi bút của chị, rừng khộp hiện lên thật ấn tượng, đẹp đẽ, khỏe khoắn và tràn đầy sức sống: “Đón những giọt nước
mát lành của ông trời ban tặng, cánh rừng khộp toàn cành khô trơ trụi suốt mùa
khô cạnh buôn nảy lá xanh biếc, khắp cả một vùng mênh mông chỉ một màu xanh ngăn ngắt đến sướng con mắt nhìn. Mỗi chiếc lá to bằng ba bốn bàn tay chụm lại,
không chỉ dùng để gói xôi, gói thịt gà mỗi lúc có việc đi xa, mà còn có thể che đầu
nếu lỡ gặp mưa bất chợt giữa rừng” (Srêpôk sáng nay yên tĩnh) [12, tr.43-44].
26
Cảnh rừng khộp thay lá nhà văn từng bắt gặp khi đến thăm đồn biên phòng Bo Heng có thể coi là những trang bút ký toàn mĩ về vẻ đẹp của rừng: “Rừng khộp Tây
Nguyên có hai lần thay áo, phô phang hết vẻ đẹp rực rỡ của mình trước đất trời cao
nguyên. Lần thứ nhất là vào khoảng tháng con rồng đem nước về hạ giới, khi mưa
đã tưới đẫm khắp những cánh rừng, dòng sông, con suối. Tấm áo xanh nõn nà của rừng khộp nhìn thật thích mắt. Không phải màu lá cây thẫm như rừng cao su sau
khi bật lên những mầm non đo đỏ. Sắc xanh rừng khộp mùa mưa có một chút màu
mạ non, một chút màu lá cây sáng, trên một thảm cỏ ống xanh đậm. Điều đó làm
say đắm ánh mắt không chỉ của mặt trời mỗi ngày treo trên ngọn rừng, mà còn cả
sự ngưỡng mộ của con người trước sự mỡ màng, mươn mướt của cả một cánh rừng
bạt ngàn, dường như còn rất ngay hàng thẳng lối nữa. Màu xanh tươi tắn đó khiến
cho tâm hồn trở nên thư thái lạ lùng.
Thời gian thứ hai là cuối mùa đông, khi gió xuân tràn về len lỏi vào từng
ngóc ngách của đại ngàn. Rừng khộp rủ rê nhau thay chiếc áo màu đỏ tươi, cháy
rừng rực hết mình dâng đón chúa xuân về bằng tất cả vẻ đẹp của đất trời cao
nguyên, trước khi trút hết lá, trơ lại những cành khẳng khiu chờ đợi mùa mưa đến”
(Đi đón mùa xuân) [11, tr.34-35].
Nhà văn Tây Nguyên ấy không chỉ khắc họa rừng cây, đồi núi trong bức
tranh thiên nhiên tươi đẹp mà còn chú ý khắc họa cả những dải đất bình nguyên cùng những mặt hồ trên núi miền Tây bắc rất đỗi nên thơ: “Từ trên đỉnh đồi, chỗ bọn trẻ con chăn bò, chăn dê nhìn xuống, cánh đồng lớn rực một tấm thảm vàng
mênh mông. Bước chân gió đuổi nhau chạy trên những ngọn lúa trĩu bông, làm
thành những đợt sóng cứ mãi rung rinh, rung rinh. Phía xa xa hơi khuất sau núi, giữa rừng trúc, mặt nước hồ U Va - nơi các nàng tiên nữ nhà trời hay xuống tắm,
lóng lánh hắt bóng mặt trời vàng rực. Cả một vạt hoa bó khiu vàng, nhạn lai hồng
đỏ, chen chúc nhau dập dềnh trong gió, chạy dài từ chân đồi đến tận đầu bản”
(Hoa bó khiu) [14, tr.62]. Chỉ trong một đoạn văn ngắn, Linh Nga đã khắc hoạ một cảnh sắc thiên nhiên thật ấn tượng, bình yên, đẫm những ánh vàng: thảm vàng của đồng lúa, màu vàng của rừng trúc, sắc vàng của hồ nước lóng lánh hắt bóng mặt trời và vạt vàng của hoa bó khiu chen bên “nhạn lai hồng đỏ”.
Nhà văn còn tỏ rõ niềm cảm hứng đặc biệt khi viết về cảnh bình minh và
cảnh hoàng hôn trên mảnh đất cao nguyên yêu dấu. Bình minh trong con mắt của người nghệ sĩ thuộc về phái đẹp thật đa sắc, đa tình: “Bình minh. Bây giờ là lúc Mẹ
Đất bắt đầu vẽ bức tranh của ngày. Đầu tiên là một màu hồng mờ mờ hiện trên
toàn bộ nền trời. Dãy Cư Yang Sin xanh thẫm nổi bật lên một cách vững chắc giữa
27
cái vòm khổng lồ ấy. Tiếp theo là một mảng màu vàng xuất hiện phía bên trái cái chóp núi tròn tròn. Rồi đến một vệt hồng đậm hơn hiện lên bên phải, loang dần
loang dần ra khắp đường chân trời. Thêm những mảng áo xám, áo xanh của các
nàng tiên nữ vừa thức giấc bung ra. Lũ chim sẻ dậy sớm nhất, vội vàng, cuống quýt
bay loạn xạ trong cái vòm hồng hồng ràng rạng”(Bóng chiều bảng lảng) [12, tr.5]; “Bình minh âu yếm nâng nhẹ tấm khăn sương che chiếc gương bạc của nàng tiên
H’Lung dát ngang đỉnh trời tròn, từ từ hiện ra hàng ngàn đóa sen trắng, sen hồng
đung đưa trên mặt nước biêng biếc. Đang giữa mùa sen, gió đẫm hương mát ngọt.
Đỉnh Cư Yang Sin hiện dần như vóc dáng chàng Lawk cường tráng đang trìu mến ấp
ủ, chở che gương mặt xinh đẹp của người tình” (Tìm về bến nước) [6, tr.43]. Hoàng
hôn cũng thật đẹp đẽ và gợi nhiều liên tưởng: “Chiều như cô gái tắm, hờ hững buông
rơi tấm choàng hoàng hôn. Hàng đàn chim qíu quáo gọi nhau về tổ, cánh chấp chới chao nghiêng in trên nền trời đỏ. Xa xa, những cành thủy tùng khô khỏng, tạc vào
chiều như bao nhiêu cánh tay níu kéo, kêu gọi” (Tìm về bến nước) [6, tr.55].
Ngòi bút của Linh Nga Niê Kdam mê say đắm đuối khi miêu tả, khắc hoạ
bức tranh thiên nhiên Tây Nguyên rực rỡ, lãng mạn và tươi đẹp. Vì thế, trong những
áng văn xuôi của chị, ta thấy chị rất hay chú ý đến việc miêu tả nắng và gió - hai
yếu tố đặc trưng của vùng cao nguyên này - bởi ở trên cao nguyên, nắng luôn rực rỡ
chói loà, nắng làm cho lá, cho hoa, cho cây toả ra hương thơm dịu nhẹ, ngọt ngào
của núi rừng và gió chuyên trở những hương thơm ấy, mang đi khắp đất trời làm
nên hương vị riêng của mảnh đất cao nguyên. Đây là sắc nắng vàng tỏa lan trên
những ngọn núi, mặt hồ, lọt cả vào những cánh rừng Xà nu quen thuộc, làm vạn vật
phải trở dậy tỏa ngát hương thơm: “Nắng trải chiếc chiếu vàng lên mặt hồ mặt ruộng lung linh, nhưng chỉ lọt thành những tia sáng xanh trong đám lá Xà nu dày
đặc. Dưới tán rừng, tiếng ong bay vi vu hòa trong lời xào xạc của gió, lẫn với tiếng
suối róc rách chảy. Thứ hương lá, hương nhựa, hương hoa đặc biệt của Xà nu nhè
nhẹ lan trong không gian” (Con trai của rừng Xa Nu) [9, tr.128]. Nắng còn vô cùng rực rỡ, ấm áp, chan hòa khắp không gian, mang trong mình sức trai khỏe khoắn, thổi sinh khí cho đất trời vạn vật: “Mặt trời hồng tròn xoe nhảy vụt lên đỉnh Cư Pông. Một cột lửa lớn sáng lòa rạng ngời trên mặt nước. Núi rừng, sông suối
bừng tỉnh chan hòa trong ánh nắng vàng ấm áp hào phóng của mặt trời” (Dòng
sông Tóc) [6, tr.118]; “Chiếc mâm vàng khổng lồ nhảy lên khỏi ngọn núi. Ánh sáng chói loà chan hoà rực rỡ khắp bầu trời, xua tan hết mọi vệt màu u sầu mới đó còn
bảng lảng” (Bóng chiều bảng lảng) [12, tr.5-6]. Gió trên cao nguyên cũng được
nhà văn chú ý khắc họa với những nét cá tính: mạnh mẽ, phóng túng, hồn nhiên,
28
tinh nghịch: “Có lẽ bị giam hãm đâu đó suốt chín lần trăng vơi đầy, nên năm nào trở lại, gió cao nguyên cũng vội vàng, ào ạt, không lồng lộn phá phách giật mái
nhà, bẻ cây cối; thì cũng nghịch ngợm bốc đất đỏ tạt vô mặt, tung tẩy những đám lá vàng trên đường trêu chọc con người” (Tại gió mà nhớ) [13, tr.179-180]; “Gió đè rạp rồi lại nâng niu nâng lên đung đưa như chao võng những vầng hoa dã quỳ và ng như á nh nắ ng, ken dà y đặc quanh sân bay. Gió à o tớ i giật tung chiếc mũ dạ rộng và nh, quất rà n rạt và o má i đầu trần, và o mặt, và o thân thể ông. Vừ a như đứ a trẻ trêu chọc ngườ i mình yêu quý , vừ a như quấn quý t chà o đó n” (Cầm cao nguyên) [9, tr.145]. Rõ ràng, tác phẩm của Linh Nga Niê Kdam không chỉ miêu tả gió như một
khách thể thẩm mĩ mà còn miêu tả gió có sắc thái tâm lý như con người. Trong Gió
đỏ, nhân vật em - người thiếu phụ “có thời gian dài phải chia đôi sự cầm dao mổ và
cầm cuốc để tính cuộc mưu sinh”, người có “đôi chân trần lầm bụi đỏ cao nguyên, trên những nẻo đường tìm cách làm giảm bớt đớn đau cho các sinh linh đồng tộc” -
với tấm lòng cảm thông và vị tha trong sáng đã trở thành người cứu cánh, chỗ tựa
nương của tâm hồn “tôi” - một người đàn ông đơn côi, “một kẻ mỏng manh dễ bị
tổn thương” đang phải trải qua “sự sống hiu hắt như ngọn lửa giữa rừng đêm” có
đủ sức mạnh chống chọi lại căn bệnh ung thư vòm họng mà chị không hề biết. Sau
khi anh mất gần một tháng chị mới được hay tin. Chị đau xót khi nghĩ về anh và chị
cảm nhận thấy anh trở về bên chị, trở về cao nguyên như ước vọng trong cơn gió quay
cuồng: “Người thiếu phụ khẽ rùng mình. Làn gió nóng vờn quanh khuôn mặt mỗi lúc
một tái dần của chị. Tận cuối con đường hun hút, một vầng gió đỏ bốc cao, quay cuồng
trên không trung. Đám gió bụi đỏ xa dần, che mờ cả những tàn cây Blang trĩu đầy hoa
đỏ, cháy rực trên đầu con đường rẽ vào plei. Tiếng ve wai jut wai tê nghe chao chác đến xé lòng trong những vòm phượng” (Gió đỏ) [9, tr.14]. Hay trong tác phẩm Ngày
Chúa đi vắng, amí Nu sau khi trải qua những đớn đau của bệnh tật, những giờ phút
mê man chống lại thần chết, những băn khoăn đi về nước Chúa hay về với bến nước
ông bà, những giằng xé đớn đau lo cho các con rồi đây mất mẹ nhưng cuối cùng vẫn phải chấp nhận cái chết. Khi bóng amí Nu “chập chờn đi nhanh ra khỏi cửa nhà sàn”, gió nắng Tây Nguyên vào thời khắc cuối cùng của một đời người cũng đớn đau như con người vậy: “Gió đớn đau vật vã vặn xoắn tơi tả đám lá cây rừng.
Nắng đổ từng nồi lửa tung tóe xuống cao nguyên. Hôm nay ngày Chúa đi vắng”
(Ngày chúa đi vắng) [12, tr.28]. Nếu trong văn xuôi Y Điêng người đọc bị ám ảnh bởi gió núi Xiăng như một sinh thể bạo liệt, cuồng nộ: “Gió thổi vun vút. Gió thổi
như người cắm đầu chạy, như con hổ giật mình cố chạy bán sống bán chết. Gió từ
các dãy núi chung quanh thả những hơi thở dài, thở ập xuống những nơi trống trải
29
của vùng đồi cỏ tranh thấp hơn mình” (Chuyện bên bờ sông Hinh) [56, tr.77]; gió và nắng mang theo cái khắc nghiệt của thiên nhiên: “Gió và nắng quyện vào
nhau, nóng hừng hực, cỏ cây xơ xác, nước không trông thấy… gió thở càng lạnh và khô,
không khốc… Những ngọn cây, chùm hoa không còn soi bóng nữa. Ngọn cây hết cúi
xuống lại ngẩng lên và hoa cây dừng màu hồng, hoa cây su màu vàng tươi lả tả rơi xuống mặt nước” (Chuyện bên bờ sông Hinh) [56, tr.82] thì gió trong văn xuôi của
H’Linh Niê cũng có lúc đã mang lại cho người đọc ấn tượng về một thiên nhiên bạo
liệt và khắc nghiệt không kém: “Ngoài khung cửa nhà dài, gió quất tả tơi những
hàng cây, bốc bụi đỏ vung vãi khắp nơi. Cao nguyên đang giữa mùa gió. Gió như lũ
ngựa hoang không biết tự kiềm chế, tung vó phi nước đại trên vòm trời cao nguyên”
(Con đường đã chọn) [12, tr.186]. Ấn tượng mãi về sự dữ dội của gió núi Tây
Nguyên, sau này nhà văn còn nhiều lần nữa khắc họa nó trong những tác phẩm mới của mình: “Gió rít veo véo trong không gian mênh mông đen thẫm. Trên đỉnh núi
Ngok Linh gió lúc nào cũng dữ dội. Ào ạt. Mạnh mẽ và quyết liệt. Cứ như muốn bốc
thẳng mọi vật lên, quẳng đi đến nơi nào xa lắc, nếu không thật sự cắm sâu, bám
chắc gốc rễ vào đất” (Gió trên đỉnh Ngok Linh ) [14, tr.45].
Trên bình nguyên xanh cao Tây Nguyên, thiên nhiên không chỉ có nắng gió
và núi rừng mà thiên nhiên còn có suối sông và thác vực. Dòng suối, con sông góp
phần mang lại cho thiên nhiên vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ của đại ngàn. Sông Srêpôk
là hình ảnh thiên nhiên rất thường gặp trong sáng tác Linh Nga. Con sông cá tính ấy
chẳng bao giờ chịu theo bạn bè về biển Đông mà ngỗ ngược vượt Trường Sơn vươn
về phía mặt trời: “Sông Srêpôk cho dù nước đầy nước vơi vẫn cứ chảy ngược về
phía mặt trời lặn chẳng ai ngăn nổi” (Srêpôk sáng nay yên tĩnh) [12, tr.52] để làm thành trăm bậc ghềnh thác. Suối thác lúc nào cũng mạnh mẽ, dữ dội đổ xuống vách
đá nhưng vẫn không quên phô khoe vẻ đẹp rất đỗi huyền ảo, long lanh: “Dòng nước
đổ xuống vách đá dựng đứng, tung lên cả ngàn vạn giọt nhỏ li ti, tạo thành bức màn
như khói trên mặt nước”, “Dòng nước như đàn ngựa hoang tung bờm trắng trên đồng cỏ ào ào đổ ập xuống. Cầu vồng bảy sắc lung linh, ẩn hiện trên đầu vầng sóng trắng” (Cầu vồng lung linh) [6, tr.107-111]. Nếu sông Srêpôk đầy cá tính bướng bỉnh thì sông Krông Buk đầy bí ẩn dữ dằn, mang hồn thiêng dân tộc, vừa ghê sợ
vừa đẹp đẽ đáng yêu: “Con sông rộng đen đặc, lúc nhúc đầy những cá. Dẫn đầu là
một con thuồng luồng khổng lồ, có chiếc mào đỏ chót. Theo sau là hàng trăm loài cá, mỗi loài bám theo một con đồi mồi lưng to như chiếc nong phơi lúa, cõng một
chiếc hòm lớn khảm xà cừ lóng lánh. Cá bé bơi trong, cá lớn hộ tống dọc hai bên
ngoài. Hàng ngàn cành san hô đỏ vàng và những nhánh tảo xanh, dương lên che
30
rợp mặt nước. Muôn ngàn sắc màu lộng lẫy được ánh nắng mặt trời nâng niu tỏa thành vầng hào quang suốt dọc con sông lớn. Đàn cá ngược về đầu nguồn sông
Srêpôk. Tiếng quẫy đuôi ầm ầm vang động cả rừng đại ngàn” (Dòng sông Tóc) [6,
tr.119]. Bên cạnh những con sông, con thác lớn, Tây Nguyên còn có bao dòng suối
nhỏ rất đỗi hiền hòa, trong trẻo, thanh bình đến kì lạ: “Chảy róc rách giữa đôi bờ cỏ hoa dại mọc đầy, đôi chỗ còn vươn ra trùm lấp cả mặt nước, con suối nhỏ chở theo
hương hoa rừng khiến dòng nước trong veo cũng man mác thơm. Vòm cây chỗ này
xà xuống la đà, gần sát mặt nước, tỏ bóng mát rượi” (Chiếc bầu nước của H’Lâm)
[9, tr.189]. Linh Nga Niê Kdam quả là một người có tình yêu sâu sắc với thiên
nhiên, chị yêu từng ngọn núi con sông, trìu mến nâng niu từng cảnh sắc nên núi
sông quê hương chị mới đẹp đẽ nên thơ đến vậy.
Truyện - ký Linh Nga Niê Kdam có một sức hút đặc biệt bởi chị có khả năng khắc họa thiên nhiên làm say đắm lòng người. Hãy cùng thưởng thức bức tranh
thiên nhiên Tây Nguyên trong bốn mùa luân chuyển dưới ngòi bút tài hoa của người
nữ sĩ: “Tháng hai, những trái sung còn sót lại trên cành cố đỏ rực lên lần cuối
trong nắng chiều, rồi đành lòng lộp độp rụng xuống, nát bét dưới bước chân người.
Mỗi khi làn gió hoang trêu ghẹo, đám hoa bơ, hoa nhãn rào rào trút xuống đầu
người qua lại những cơn mưa nhỏ li ti ngà ngà vàng.
Tháng ba, những bông sứ trắng, tím đầu tiên, cùng với đám búp đa mỏng
manh, nhẹ nhàng đáp xuống lặng lẽ nằm im toả hương trên bồn cỏ… Một vài ca sỹ
ve sầu lãnh trách nhiệm báo hết mùa gió rừng, đã bắt đầu khởi giọng.
Tháng tư, khi những trái blang khô tách vỏ, nâng niu trao cho gió những búp bông trắng xoá, mang đi dạo chơi khắp đất trời, vương lại trên cành dương xanh
những túm muôn muốt mỏng manh; cũng là lúc hoa lekima nhàn nhạt xanh trải dọc
con đường. Hoa hoàng hậu vàng rực như áo bào của các vua chúa thả mình đung đưa
trong gió. Lác đác những chùm phượng sớm đỏ chói, gọi lũ ve tháng năm ồn ĩ…
Hết hè sang thu, hương hoa sữa nồng nàn ban phát vô tư cho khứu giác con người. Áp tết Nguyên đán, những cây đỗ quyên phơn phớt hồng rực rỡ cả bốn cửa. Khắp vườn, hoa trà trắng, hoa ban tím, dâm bụt hồng, hoa cánh bướm đủ màu, mẫu đơn và dương liễu đỏ… hớn hở đung đưa cùng chào đón chúa xuân” (Rưng rưng cỏ hát) [12, tr.30-31]. Nhà văn Linh Nga Niê Kdam tỏ ra rất tinh tế và nhạy cảm
trước sự chuyển giao của đất trời. Vì vậy, không ít lần trong những tác phẩm của mình, chị đã thể hiện sự nhạy cảm của trái tim. Hai mùa chính trên quê hương chị -
mùa xuân và mùa mưa - theo thời gian mải miết chảy trôi, nhờ trang văn mượt mà
của chị mà mãi neo đậu lại với cuộc đời. Nếu mùa xuân đến trên các buôn, bon,
31
kon, plei ở Tây Nguyên gợi lên bao náo nức, gọi thức rộn ràng mùa lễ hội: “Lại mùa xuân đến. Trên khắp các nẻo đường cao nguyên, dã quỳ, loài hoa báo mùa thu
hoạch, mùa no đủ của Tây Nguyên đang vàng rực, đong đưa. Nghe trong gió tiếng
chiêng của mùa “ăn năm uống tháng” vang dội khắp buôn làng, rừng suối. Những
cơn mưa rừng đã tạnh, cái lạnh se se đủ làm hồng đôi má, làm lúng liếng ánh mắt các em gái Tây Nguyên trong những ngày lễ hội, đang theo gió xuân tràn về, thêm
náo nức mời gọi những chuyến đi xa đi gần” (Lời chiêng Tây Nguyên) [8, tr.53] thì
mùa mưa ở nơi đây lại buồn bã đến nao lòng, đất trời và con người chìm trong khí
lạnh âm u: “Mùa mưa ở rừng già bao giờ cũng âm u. Có những ngày mưa ào ạt cả
buổi sáng, rồi lại tầm tã trắng trời suốt tất cả những buổi trưa hoặc chiều. Mưa nát
rừng, mưa thối đất. Khí lạnh trùm lên mặt suối, bạc cả nước. Những tảng đá lớn
nhỏ tê tái đến sạm đen lại” (Điều ông ấy không tính đến) [6, tr.149-150].
Khi nhắc đến cảnh sắc thiên nhiên, nhà văn còn đặc biệt chú ý tới việc khắc
họa hình ảnh trăng ở xứ sở cao nguyên yêu dấu này. Dưới ngòi bút của Linh Nga
Niê Kdam, trăng Tây Nguyên thật đẹp, thật kì diệu. Trăng như người bạn tri âm tri
kỷ, luôn sẻ chia mọi buồn vui với con người. Trăng cũng như có mắt để đăm đắm
sáng soi, để rung động theo tiếng chiêng tiếng trống: “Trăng mười bốn đăm đắm
xanh, lung linh huyền ảo. Tiếng trống đối đáp, tiếng chiêng bay lên ngân nga trong
không gian cao nguyên xanh thăm thẳm, vời vợi, lay động cả mảnh trăng mỏng
trong suốt” (Trăng Xí Thoại) [7, tr.12]; “Trăng sà xuống nhà Rông bập bùng ánh
đuốc nghe câu adoh, adây. Trăng bồng bềnh trong câu hát giao duyên” nên chị đã
thiết tha nhắn hỏi: “Có phải trăng là nhân chứng duy nhất hàng ngàn đời nay đồng
hành cùng mọi lễ, hội Tây Nguyên? Ôi, nếu không còn những đêm như thế này, những câu hát tuyệt vời thế kia còn không, nhịp chiêng náo nức ấy còn không, và bàn
tay dịu mềm của em, của chị, của bao phụ nữ Tây Nguyên có còn được bay lên như
cánh chim Ch’rao?” (Trăng Xí Thoại) [7, tr.20]. Ánh trăng lung linh, huyền ảo, thân
thiết ấy còn thêm trong trẻo, rạng ngời và viên mãn trong cảm nhận tinh tế của nhà văn: “Đêm choàng nhanh chiếc áo đen lên vạn vật, nhưng trăng mười sáu vẫn trong trẻo xanh giữa trời” (Trăng Xí Thoại) [7, tr.19]; “Trăng mười sáu lơ lửng giữa trời khi chúng tôi uống cạn ché rượu nhỏ nhà Amĩ Thúy. Mặt sông và những con đường sáng
rờ rỡ dưới trăng chẳng hề làm mất vẻ huyền bí và thơ mộng của con sông Ayun, đúng
như tôi từng hoài niệm về nó” (Đâu là đáp số cho bài toán Ya Tul ?) [7, tr.143].
Thiên nhiên trong truyện - ký H’Linh Niê quả là độc đáo và hết sức xinh đẹp,
dệt nên một không gian sống đậm phong vị Tây Nguyên. Với góc nhìn thiên nhiên
ở nhiều chiều kích khác nhau nên H’Linh Niê không chỉ thấy thiên nhiên là thế giới
32
tự nhiên mà còn là môi trường sống, là không gian sinh tồn, là nguồn nuôi dưỡng, chở che, bao bọc con người: “Những đứa con của núi rừng, không bao giờ chết
giữa rừng, bởi không chỉ chở che mà rừng còn cho họ sự sống. Cây để làm nhà,
suối cho nước uống, đất gieo trồng nảy mầm sinh sôi, chim thú trong rừng, cá suối
làm con thịt trong bữa ăn…” (Thung lũng Yang Hruê) [12, tr.103]. Thiên nhiên còn có khả năng bồi đắp tình cảm, thanh lọc tâm hồn và là tiếng gọi của quê hương
tha thiết với những người con xa xứ. Hai mươi năm xa quê, nay mới được trở về,
được cảm nhận và ngắm nhìn cảnh sắc thiên nhiên thân thuộc chứa chan bao nỗi
nhớ, H’My đã có một quyết định dứt khoát: “Cao tít trên bầu trời đã bắt đầu ửng
hồng bình minh của một ngày mới. Có đôi chim ktrâo đang chao cánh liệng vòng,
thoắt một cái chúng lao vút lên tận cao xanh, hình dạng chỉ còn nhỏ xíu. Gió hôn
nhẹ trên từng chồi non mươn mướt khẳng khiu của rừng cây Y Minh trồng quanh buôn. Rung rinh, lay động, lá như những bàn tay nhỏ thân thương đang vẫy gọi.
Chưa ở đâu H’My thấy màu trời xanh đến thế, gió lồng lộng đến thế như ở cao
nguyên mình. Tiếng sáo đinh buốt của ai da diết xa xôi, bổng trầm mơ hồ tan trong
vòm cây vàng nắng. Hít một hơi thật sâu hương vị trong lành sớm mai nơi giếng
nước, H’My cười thật tươi: Thế nào rồi em cũng sẽ lại trở về!” (Long lanh giếng
nước buôn Nui) [9, tr.180].
Thiên nhiên được cảm nhận, được phản chiếu qua lăng kính tâm hồn con
người nên giữa thiên nhiên và con người hầu như luôn có mối quan hệ gần gũi, gắn
bó, thân thiết. Thiên nhiên buồn vui theo con người và cũng là biểu tượng về tình
yêu bất tử của con người.
Trong truyện Hoa Pơ lang, thiên nhiên biến đổi theo tâm trạng nhân vật. Thiên nhiên là minh chứng cho tình yêu sáng trong, mãnh liệt nhưng đắng cay,
đau đớn của nàng H’Bia với chàng Đam San. Khi H’Bia và Đam San bên nhau,
thiên nhiên vui tươi, e ấp, nhí nhảnh và ngân nga ca hát: “Đam San cũng say trong
nhịp điệu của câu hát ai rei. Người chàng lắc lư, đôi chân và cả thân mình nhấc lên, nhún xuống, tua khố tung bay. Những con chim kơtia mỏ đỏ, chim nhông mỏ vàng kéo hàng đàn ríu rít sà xuống theo hai người. Góc rừng, anh công kiêu hãnh xòe hết chiếc đuôi lóng lánh những hình mặt trời xanh, khoe mẽ với nàng công
đang yểu điệu rón rén từng bước. Tiếng suối róc rách ngân nga đâu đây trong bài
ca bất tận của núi rừng và tình yêu. Từng chùm hoa xoài trắng đung đưa trong nắng…” (Hoa Pơ lang) [6, tr.9-10]. Khi H’Bia và Đam San bị luật tục chia cắt,
H’Bia biến thành cây Blang. Hoa Blang là máu của H’Bia, máu của trái tim đớn
đau, tan nát, đi theo Đam San tới cuối đất cùng trời: “Rồi tất cả nhòa đi, chỉ còn
33
một thân cây cao lớn sừng sững vươn những cánh tay dài lên bầu trời thăm thẳm cao, xa vời vợi. Những người đàn bà gọi đó là cây Blang. Cây Blang có hoa đỏ mùa
hè, kết thành bông trắng mùa đông. Cánh đỏ như máu của hoa chính là từng mảnh
trái tim đầy yêu thương đã tan nát của nàng H’Bia. Gió đông tách những chùm
bông trắng xóa, mang tình yêu của H’Bia theo Đam San tới tận cuối đất cùng trời. Các cô gái Radeh nhặt bông ấy xe chỉ, nhuộm nước lá rừng, dệt những tấm chăn,
đắp ấm mọi lứa đôi yêu nhau” (Hoa Pơ lang) [6, tr.17-18].
Thiên nhiên nơi đây không chỉ biết sẻ chia buồn đau mà còn biết nhân đôi niềm vui, niềm tự hào của con người. Khi Y Sang “học kỳ nà y vừ a đạt học sinh xuất sắ c, lại cò n đi thi học sinh giỏi trên tỉnh cũng già nh giả i ba nữa” thì thiên nhiên rực rỡ, vui mừng, hòa cùng niềm vui lớn của cả gia đình Y Sang: “Nắng và ng đến tươi cả những cà nh cà phê trá i chín đỏ mọng trong mả nh vườ n nhà . Gió mả i đù a chơi vớ i gió , có lú c mê ̣t quá phả i nghỉ ngơi nên lặng phắ c. Tiếng nó i cườ i ồ n à o của đá m mấy cô chá u đang nấu ăn ngoà i sân là m nắ ng cũng e ngại không dá m bướ c vô nhà nữa”. Và khi Y Sang đi lãnh thưởng ở tỉnh về thì: “Bầu trời trong veo đến lóa mắt. Ghen với những đám mây trắng la cà dạo chơi khắp miền. Những cành hoa vông
cứ cao vống lên, đỏ đến cháy cả nắng. Hoa cà phê cuối vụ ra sức cháy hết mình và tỏa
hết hương thơm ngát đến từng sợi gió. Đám lá non được xuân mát lành gọi thức, khe
khẽ hé những cặp mắt ngơ ngác giữa các nách cành. Tự dưng con gà trống đập cách
phành phạch, nhảy phắt lên ngọn cây mãng cầu xiêm, kiêu hãnh vươn cao cái cổ gáy
một hồi dài ò ó o… Mùa xuân ơi tới đi! (Mùa xuân ơi tới đi!) [9, tr.78].
Thiên nhiên còn luôn đồng cảm, yêu thương, bảo vệ cho những mối tình say
đắm của những chàng trai cô gái Tây Nguyên. Truyện ngắn Chiếu bầu nước của H’Lâm là một câu chuyện hết sức lãng mạn kể về mối tình của một chàng trai và cô
gái dưới chân núi Cư M’gar. Mối tình của họ đẹp như dòng sông, con suối, như câu hát
dân ca. Vượt qua được mối thù truyền kiếp, cuối cùng họ đã đến bên nhau ngập tràn
hạnh phúc, có thiên nhiên cảm thông và che chở: “Y Nhay bật cười khoe hàng răng trắng đều như bắp non, sà xuống ngồi bên người yêu, nắm đôi tay H’Lâm âu yếm đặt lên hai bên má mình. Mắt lặn trong mắt, môi sát bờ môi, hai con tim cùng chung một nhịp như tiếng trống hgơr ngày hội. Vòng tay chắc khỏe của chàng trai từ từ, từ từ siết
chặt. Đám lá cành sà xuống, sà xuống mãi, kín đáo ôm ấp, chở che. Chòm mây trắng
ngừng không trôi giữa bầu trời xanh ngắt, che bớt đi con mắt ngó của mặt trời, khiến cho ánh nắng chói chang bỗng dịu lại. Bầy chim tao vao trong vòm cây bỗng dưng im
bặt, nín thở. Dường như chúng không muốn làm rộn cuộc gặp gỡ của đôi trai giỏi gái
xinh của hai buôn” (Chiếu bầu nước của H’Lâm) [9, tr.189].
34
Rồi cũng chính thiên nhiên ấy lại trở nên héo úa, tàn lụi khi chứng kiến hạnh phúc
con người tan vỡ; khi người con gái xinh đẹp, nhẹ dạ cả tin phải vào tù, nằm trong bốn
vách nhà giam: “Những bông lau trắng lảo đảo, phất phơ trong gió. Những vạt hoa bó
khiu vàng, héo úa rũ cánh, cố gượng trỗi dậy rồi lại bị gió hoang lồng lộn đè nghiến
xuống. Những quả núi trọc lóc như chiếc nón úp ngược trơ sỏi đá đỏ quạch, vun vút, vun
vút, lần lượt lướt qua” (Hoa Bó khiu) [14, tr.69].
Có thể thấy, hình ảnh thiên nhiên trong mỗi tác phẩm của Linh Nga Niê
Kdam đều mang một dụng ý nghệ thuật nhất định. Mỗi cảnh thiên nhiên đều mang
những đường nét, màu sắc, cung bậc tình cảm khác nhau: khi vui - khi buồn, khi u
ám - khi bừng sáng, khi hạnh phúc - khi đau khổ … tất cả đều phù hợp với tâm
trạng của con người. Thiên nhiên vừa là đối tượng để miêu tả, để bộc lộ cảm xúc lại
vừa là phông nền tôn lên vẻ đẹp cuộc sống, vẻ đẹp con người; góp phần bộc lộ tâm
trạng, tâm tư, tình cảm của con người và của chính nhà văn - người nghệ sĩ, đứa con
của đại ngàn Tây Nguyên.
Nói tóm lại, dưới ngòi bút tài hoa, đầy đắm say của Linh Nga Niê Kdam,
mảnh đất Tây Nguyên hiện lên với vẻ đẹp hùng vĩ, rực rỡ sắc màu, dữ dội, huyền
bí, hoang sơ nhưng cũng rất lãng mạn, nên thơ. Vẻ đẹp đó của thiên nhiên càng trở
nên cuốn hút bởi bàn tay tô vẽ của một người con có một tình yêu đậm sâu với quê
hương xứ sở. Người đọc có thể cảm nhận rất rõ tình yêu quê hương và niềm tự hào
về mảnh đất quê hương qua cái nhìn say đắm, qua sự rung động và cảm nhận tinh
tế, sâu sắc của nhà văn. Do đó, dù có thể chưa một lần được đến Tây Nguyên nhưng
khi đọc những trang văn tài hoa của chị, người ta cũng có thể phần nào hình dung ra
cảnh sắc độc đáo, hùng tráng, nên thơ ở nơi này. Gửi gắm và lan truyền bấy nhiêu
tình cảm vào trong trang viết, Linh Nga Niê Kdam đã xứng đáng là một người con
đáng tự hào của núi rừng cao nguyên.
2.1.2. Một cộng đồng dân tộc giàu bản sắc văn hoá
Bản sắc văn hóa Tây Nguyên được hình thành từ chính những nét văn hóa
độc đáo riêng biệt đã có tự ngàn đời của con người nơi đây. Vì thế, khi nói về vẻ
đẹp độc đáo của bản sắc văn hóa dân tộc mình, nhà văn Linh Nga Niê Kdam luôn
rất tự hào. Đó là niềm tự hào chính đáng của một con người luôn có ý thức khám
phá và sưu tầm, lưu giữ mọi vẻ đẹp của nền văn hóa giàu bản sắc trên quê hương.
Qua từng trang viết, Linh Nga Niê Kdam đã cố gắng làm sáng lên những giá trị văn
hóa quý báu của cộng đồng dân tộc mình để mọi người được biết, được tiếp cận và
trân trọng những giá trị văn hóa đó.
35
Nét văn hóa đậm dấu ấn Tây Nguyên đầu tiên mà nữ tác giả thường nhấn
mạnh đó là những ngôi nhà sàn dài Tây Nguyên. Ngôi nhà dài đã trở thành biểu
tượng văn hóa của dân tộc bởi kiến trúc của ngôi nhà đó chất chứa trong nó cả một
tầng văn hóa thiêng liêng. Nhà văn Linh Nga Niê Kdam dành rất nhiều câu chữ say sưa
giới thiệu hình dáng, kiến trúc đặc biệt của những ngôi nhà dài trên cao nguyên nắng
gió. Ngôi nhà sàn của người Êđê “dài như một tiếng chiêng” là biểu hiện cho lối sống
của vùng cao nguyên: “Cái sàn cao vừa làm chỗ nhốt bò heo, vừa tạo một khoảng
cách ngăn với mặt đất, không sợ cả rắn rết lẫn những loài thú hoang dại. Vách nứa,
mái tranh không chỉ giữ nhiệt mùa mưa, mà còn mát mẻ mùa nắng. Cầu thang đằng
trước để đàn ông vịn vào bầu vú gỗ bước vào không gian bí ẩn trên ngôi nhà dài trong
gian đinh gar. Cầu thang đằng sau kín đáo hơn dành cho những người phụ nữ ngự trị
trong gian ôk của chủ đặc quánh quyền uy mẫu hệ. Trong gian này, mỗi gia đình riêng
lại có một ngăn nhỏ. Nhà dài cứ nối dài thêm mãi, mỗi khi có một cô con gái bắt
chồng” (Thung lũng Yang Hruê) [12, tr.121-122]. Không chỉ giới thiệu kiến trúc ngôi
nhà sàn dài của người Êđê, tác giả còn so sánh nó với kiến trúc ngôi nhà của người
Mnông trong cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên để người đọc thấy rõ sự khác biệt:
“Người Êđê ở những nhà sàn mang hình dáng con thuyền, dài đến “một hơi ngựa
chạy”. Cả buôn dựng nhà theo hướng Bắc - Nam, san sát nhau như các con thuyền độc
mộc chiều về neo lại nơi bến nước. Bon làng Mnông lại là những căn nhà trệt nằm kề
nhau, mái tranh dài lợp rủ sát đất, trông như những chiếc nấm mối. Khách muốn vào
nhà Êđê phải leo cầu thang đằng trước, vịn tay lên bầu vú gỗ để đến được với
không gian mẫu hệ. Nhà Mnông lại có hai cửa hình vòng cung cùng mở về
hướng đông, thấp lè tè. Bước qua cửa nào cũng gặp bếp lửa cháy quanh năm.
Nhà dài Êđê mỗi bếp lửa, mỗi ngăn là một cặp vợ chồng con cái. Người Mnông
chỉ có hai bếp lửa chung. Một sạp nứa dài suốt chiều ngang nhà, kêu răng rắc
mỗi khi có người bước lên bước xuống. Đây là chỗ ngủ chung của đại gia đình lẫn
khách” (Tìm về bến nước) [6, tr.45-46].
Kiến trúc nhà ở của đồng bào Tây Nguyên đã độc đáo, kiến trúc nhà mồ của
của họ cũng đặc biệt khác lạ: “Mái mồ lợp bằng những tấm gỗ hình nửa mặt trăng.
Hai đỉnh là hai vầng trăng khuyết tượng trưng cho ngôi nhà ở cõi âm xa xôi. Đầu
hồi và hai bên thành trang trí những hình con rùa bò, thỏ chạy, chim chóc, chuồn
chuồn bay, hoa cỏ và các hình hoa văn. Cuối mộ, là bốn con công trống mái, liên
kết với nhau thành một bệ gỗ để ché, gùi, chén, đĩa… những vật dụng chia thêm cho
người đi hẳn về cõi âm. Bầy công, hai con khỉ và hai chiếc đầu voi trên bốn cột
36
gơng kút quanh mồ, sẽ thay người thân làm bạn với người đã khuất và canh giữ nhà
mồ” (Đêm Dliê Ya ngàn xanh) [6, tr.168].
Đối với người Tây Nguyên, tài sản quý giá nhất mà ông bà để lại cho con cháu
chính là những chiếc ching (chiêng). Ching là linh hồn dân tộc. Từ ngàn xưa, người
Tây Nguyên đã sớm biết chế tác ra các loại nhạc cụ, trong đó có ching. Ban đầu là
ching đá, rồi ching gỗ, ching tre, sau đó mua ching đồng của người Lào, người
Campuchia, người Kinh ở miền xuôi về chỉnh âm. Theo thời gian, dưới bàn tay khéo
léo của các nghệ nhân, ching dần biến đổi và dần hoàn thiện, đẹp hơn, phong phú hơn,
chất lượng âm thanh đa dạng, độc đáo hơn. Ching của người Tây Nguyên lấy chất liệu
đồng đen là chính, pha thêm bạc. Đó là chất liệu khiến tiếng ching âm vang nhất, trầm
hùng nhất, thể hiện được tính cách, tâm hồn, phẩm chất người dân Tây Nguyên. Qua
bài ký Lời chiêng Tây Nguyên, tác giả đã đem đến cho chúng ta nhiều hiểu biết về văn
hóa cồng chiêng của người DTTS bản địa: “Chưa ai tìm ra xuất xứ của những dàn
ching, có hầu như ở khắp các tộc người trên Tây Nguyên. Nhưng bà con thì vẫn chia rõ
“đẳng cấp”, phân loại ching. Ching Juăn (chiêng của người Kinh), ching Lao (chiêng
của người Lào), ching Kur (của người Cămpuchia)... Những ching quý có giá trị kinh
tế ngang bằng hàng chục con trâu, là những chiếc có pha đồng đen, pha bạc. Tiếng
ching không chỉ thanh, mà còn ấm hơn” (Lời chiêng Tây Nguyên) [8, tr.59-60].
Nhà văn không chỉ giúp chúng ta phân loại ching mà chị còn giúp chúng ta hiểu
thấu đáo hơn về số lượng các dàn ching và cách diễn tấu của các dàn ching quê chị:
“Ching Mạ, K’Ho thường có từ 3-6 chiếc. Ching Banar có từ 6-9 chiếc. Ching Arap
Jrai ngày nay được bà con tăng thêm phần đệm là những ching núm lớn nhỏ, khiến
biên chế dàn ching có nơi lên đến 21 chiếc. Dàn ching Êđê đủ bộ thường có 10 chiếc
lớn nhỏ, lần lượt bỏ lọt trong nhau. Có thể coi chiếc trống cái H’Gơr (một mặt bịt da
trâu đực, mặt kia bịt da trâu cái), là nhạc trưởng điều khiển sự ra vào, ngừng nghỉ,
chuyển bài bản của cả dàn. Ching Tây Nguyên, kể cả trong đám tang hay lễ bỏ mả, bè
trì tục giữ nhịp trong toàn bộ thời gian diễn tấu. Cả dàn ching cùng một lúc tấu lên, có
ít nhất từ ba đến năm chiếc cùng đánh một nhịp, sẽ tạo ra nhiều hồi âm, khiến hoà
thanh dàn ching cực kỳ phong phú. Hình thành những mảng âm thanh lóng lánh, sang
trọng và cả đôi khi mạnh mẽ đến cao ngạo. Tiếng nói các dàn ching, chính là tâm hồn
trữ tình rực lửa của cộng đồng những cư dân bản địa đích thực của miền Tây Nguyên
đất đỏ bazan” (Lời chiêng Tây Nguyên) [8, tr.60] .
Mỗi khi tiếng ching của cao nguyên đất đỏ vang lên, dù ở bất kì đâu, Linh Nga Niê Kdam cũng không thể giấu nổi niềm tự hào. Nói về cồng chiêng quê mình, niềm tự
37
hào mãnh liệt của chị tràn ra từng câu chữ, từng lời nói: “Dàn ching Kna buôn Kó Siêr thành phố Buôn Ma Thuột đã hơn một lần thay mặt “họ hàng nhà ching” Tây Nguyên,
góp mặt với âm nhạc dân gian thế giới. Để rồi được công nhận là “tinh hoa văn hóa dân
gian khu vực Châu Á - Thái Bình Dương”, “ di sản văn hóa dân gian phi vật thể truyền
khẩu thế giới” như giá trị tinh thần lớn lao đích thực vốn có của nó đối với toàn thể cộng đồng các sắc dân Tây Nguyên” (Lời chiêng Tây Nguyên) [8, tr.61].
Niềm tự hào của nhà văn Linh Nga Niê Kdam về văn hóa dân tộc còn thể
hiện qua việc chị ca ngợi những trang phục truyền thống và các nghề thủ công tinh
xảo dưới bàn tay khéo léo của những người dân Tây Nguyên. Màu sắc trang phục thổ
cẩm được nhà văn phản ánh rất rõ: “Khác với màu chàm ở một vài dân tộc phía Bắc,
màu sắc Tây Nguyên chủ yếu là gam màu nóng: đen, đỏ, vàng…; lấy màu đen làm nền
chủ đạo. Một số dân tộc sử dụng nền đỏ như người Bih, trắng như Mnông Barna, chàm nhạt như Stiêng, Mạ” (Đi về đâu hỡi… thổ cẩm Tây Nguyên) [7, tr.26]. Những
sắc màu ấy không chỉ làm đẹp cho cuộc sống hàng ngày mà nó đã trở thành nỗi nhớ
không thể nào quên của những người con nơi đây mỗi khi nghĩ về mảnh đất quê
hương. Trong niềm thương nhớ buôn Nui của cô họa sĩ thành danh bên xứ người,
sắc màu thổ cẩm là kí ức in hằn sâu đậm nhất bên cạnh những câu kể k’han đêm
bập bùng ánh lửa, những điệu kèn u buồn da diết, những tiếng chiêng lễ hội cúng
bến nước cầu mưa: “Nhất là hình ảnh các tấm thổ cẩm rực rỡ trên khung dệt của
aduôn và amí. Bốn màu đen, đỏ, trắng, vàng tưởng như đối chọi nhau mà lại hoà
hợp đến yên bình trên những mảng hoa văn độc đáo. Chị đã chọn bốn sắc màu ấy,
làm gam chủ đạo cho toàn bộ những sáng tác mĩ thuật của mình” (Long lanh giếng
nước buôn Nui ) [9, tr.176]. Cũng chính những sắc màu tưởng như đối chọi mà hòa hợp ấy đã làm nên biết bao hoa văn, trang phục đẹp, đậm đà bản sắc văn hóa. Linh
Nga Niê Kdam đã giới thiệu thật tỉ mỉ đặc trưng của từng bộ trang phục của từng
tộc người nơi đây. Trang phục của người Banar Chăm thì: “Nam, áo thổ cẩm
mặc ngoài quần áo trắng; nữ, apăn tự dệt, áo bà ba các màu với chiếc khăn môôk ch’rai đính những hạt cườm duyên dáng” (Trăng Xí Thoại) [7, tr.15]. Trang phục của người Êđê thì: “Áo nam cổ tròn, áo nữ cổ thuyền, tay dài, hoặc tay trần khoe hàng chục chiếc vòng đồng rung rinh, leng keng nơi cổ tay xinh
xắn” (Đi về đâu hỡi… thổ cẩm Tây Nguyên) [7, tr.26]. Trang phục của phụ nữ
Xê Đăng là: “tay trần, đính thêm một tấm thổ cẩm bề ngang bằng bàn tay, thả dài từ vai xuống” (Đi về đâu hỡi… thổ cẩm Tây Nguyên) [7, tr.27]. Còn đây: “Cô
gái Banar rất điệu đàng trong tấm váy ngắn ngang bắp chân, buông lơi chiếc tay
áo sau lưng, để lộ đôi vai trần nâu hồng. Thiếu nữ Jrai duyên dáng với bộ váy áo
38
dài, nhưng dường như để khoe sự uyển chuyển của đôi hông, nên thêm cả nhiều đường hoa văn phía sau cặp mông tròn. Rất ý tứ, những người phụ nữ Jrai đã kéo
dài thêm vạt tấm áo nam, để chỉ còn khoe thấp thoáng chiếc khố bên đôi chân trần
nâu bóng” (Diệu kỳ Pleiku) [8, tr.80]. Những trang phục Tây Nguyên, nhất là
những chiếc váy của người phụ nữ, dù ở dân tộc nào cũng vậy, tuy không trang trí hoa văn cầu kì: “Phụ nữ Êđê mặc váy dài, chỉ có vài đường hoa văn trên bờ vai,
gấu áo và ngang trên váy. Phụ nữ Bih mặc áo cộc tay, váy ngắn ngang bắp vế. Hoa
văn tập trung dày đặc ở gấu áo, gấu váy” (Lời chiêng Tây Nguyên) [8, tr.57]
nhưng vẫn quyến rũ mê hồn: “Váy nữ quấn ngang thân, dắt mối bên hông. Tấm vải
chỉ vừa vặn kín thân, khi bước đi để lộ bắp vế trong mắt những người lần đầu đến
Tây Nguyên. Có loại váy mặc ngắn ngang bắp chân, có váy dài chấm gót. Độ dài
váy bao giờ cũng hơn mức cần thiết chừng 20cm. Đủ để khi tắm suối, chị em bỏ áo, kéo váy quấn ngang bầu ngực. Bạn cứ hình dung mà xem, chiều về hàng chục đôi
vai trần nâu, mịn màng khoe bên bờ suối hay nơi bến nước. Đố bước chân các
chàng trai ở rừng về và du khách vãng lai nhấc đi nổi đó…” (Đi về đâu hỡi… thổ
cẩm Tây Nguyên) [7, tr.27]. Nữ nhà văn còn giới thiệu rất cụ thể nghệ thuật đan lát
mây tre của người Tây Nguyên với những sản phẩm phục vụ cho cuộc sống hàng
ngày: “Những chiếc gùi, rổ rá, vách liếp… làm công phu lắm. Không chỉ vót nhẵn
mà còn nhuộm nan để có được những hoa văn đen nâu tinh xảo trên sản vật. Đặc
biệt là tấm phên dùng để phơi nông sản hay lót nhà sàn. Bà con cài đặt theo một
cách khác hẳn lối đan nong mốt, nong đôi quen mắt ở các vùng. Bền và đẹp không
kém gì hàng ngoại” (Làng mặt trời) [7, tr.57].
Nói đến bản sắc văn hóa trên mảnh đất cao nguyên, ta không thể không nói đến rượu. Rượu là một nét văn hóa ẩm thực. Rượu là sợi dây gắn kết con người, là chất men
say để con người thăng hoa và thấu hiểu lòng nhau trong các ngày lễ trọng. Rượu bao giờ
cũng được các bà, các mẹ ủ từ những gùi lúa thơm đầu tiên sau khi gặt và lá men rừng,
đựng trong các ché: “ché Yang Rang cao ngang đầu đứa nhỏ mười mùa rẫy, ché Tang keh quanh miệng có tám chiếc tai có mấu, ché Rlung, Yang Suh… ông bà trước đây phải đổi tới vài chục con trâu” (Đi hội Tăm Nghét cùng em) [8, tr.33]. Vì thế, rượu cần Tây Nguyên có hương vị đắng ngọt làm say lòng người: “Cái lâng châng của men rượu cần
đến lạ, chỉ đủ làm nghiêng ngả để thấy người và cảnh mỗi lúc một đẹp hơn” (Lời mời
gọi của Kon H’Ring) [8, tr.75] và bay lên những bước chân tiếp nối vòng xoang, níu giữ biết bao tâm hồn ở lại.
Bằng tấm lòng thành kính ngưỡng vọng, nhà văn không chỉ khắc chạm hồn
cốt quê hương ở những giá trị văn hóa vật chất mà chị còn phản ánh bản sắc văn
39
hóa dân tộc một cách sâu đậm trên bức tranh phong tục tập quán đã có tự ngàn đời của quê hương mình. Phong tục tập quán “là những thói quen ăn sâu vào đời sống
xã hội từ lâu đời, được đại đa số mọi người thừa nhận và làm theo” [242, tr.143].
Trên mỗi một vùng đất, phong tục tập quán lại có những nét đẹp riêng. Ở mỗi nhà
văn, nét đẹp của phong tục tập quán lại được phản ánh ở các phương diện khác nhau phụ thuộc vào cảm quan hiện thực của từng tác giả. Nhà văn Y Điêng chú ý cảm
nhận về không gian phong tục trên mọi phương diện tồn tại: từ phong tục đến hủ
tục, từ nét đẹp văn hóa đến những sinh hoạt lạc hậu, ấu trĩ. Nhà văn Linh Nga Niê
Kdam chú ý đến nét đẹp bản sắc của phong tục với tư cách một người con xa xứ
được trở về để đắm mình trong không gian văn hóa quê hương. Nói về tư cách trở
về quê hương của chị, trong bài Gian nan về với cội nguồn, nhà lý luận phê bình
Lâm Tiến viết: “Trở lại quê hương vừa với ý thức lấp đầy phần văn hoá, ngôn ngữ Êđê còn trống, vừa với ý thức tìm tòi, khám phá, phát hiện cội nguồn của dân tộc
mình và dân tộc khác; cả hai hợp lực đó tạo nên lòng say mê, nhiệt tình mạnh mẽ
trong con người chị. Về với Tây Nguyên dường như chị trở về với vùng trời riêng
của mình, được dang rộng cánh bay trong một không gian văn hoá Tây Nguyên bao
la, hùng vĩ. Một không gian văn hoá với những con người thực, việc thực với một
cuộc sống muôn hình muôn vẻ hài hoà trong một thiên nhiên hoang sơ, đầy thơ
mộng” (Gian nan về với cội nguồn) [46].
Trong đời sống văn hóa tinh thần của các tộc người trên mảnh đất Tây
Nguyên, lễ hội là một hình thức văn hóa truyền thống có quy mô lớn nhất. Lễ hội là
nơi lưu giữ và thể hiện đậm nét nhất bản sắc văn hóa tinh thần của cộng đồng: “Mỗi
lễ hội là một dịp con người sống hết mình với nhau, với thiên nhiên. Mối liên kết ràng buộc cộng đồng cũng bắt nguồn từ đó” (Đi tìm hồn chiêng) [8, tr.15].
Mỗi năm, đồng bào Tây Nguyên có một mùa lễ hội gọi là mùa “ăn năm uống tháng” - thường tổ chức từ tháng 11 đến tháng 3. Mùa lễ hội “ăn năm uống tháng” được tiến hành không theo ngày giờ cụ thể, chỉ được diễn ra vào lúc cả buôn làng “mùa màng đã xuốt, bẻ xong xuôi”. Trong mùa “ăn năm uống tháng”, có rất nhiều lễ hội khác nhau được tổ chức. Và cũng rất nhiều lần trong các trang truyện - ký, nhà văn say sưa giới thiệu về các lễ hội Tây Nguyên. Đặc trưng nhất, đậm màu sắc Tây Nguyên nhất phải kể đến Lễ hội ăn trâu. Nhà văn tỏ ra rất am hiểu về lễ hội quan trọng này của đồng bào Tây Nguyên. Lễ hội ăn trâu được chị miêu tả khá tường tận từng công việc từ khâu chuẩn bị trong truyện ngắn Nước soi bóng ai: “Từ hai ba lần mặt trời dậy ngủ, Khoa plơi đã cắt cử bọn con gái mạnh chân, khỏe tay trong làng, vô rừng tìm chặt cây chuẩn bị làm lễ ăn trâu”. Cây ấy phải là “cây
40
Blang hoa trắng” để làm cột Goong drai. Còn “việc của bọn con trai là trồng chéo xung quanh cột goong drai tám cái cọc khác, cao chừng bảy, tám cùi tay, buộc nối nhau cho chắc chắn. Mỗi cọc đều có một sợi dây rừng buộc từ ngọn thả xuống tận đất. Trên mỗi sợi dây lại treo những mảnh gỗ nhỏ vẽ nhiều màu sắc, để chào đón tổ tiên, ông bà về dự hội. Ai khéo tay nhất sẽ làm một chiếc đàn nhỏ gác lên trên đỉnh cột goong. Phải làm cẩn thận lắm, vì đó là nơi để hồn tổ tiên, ông bà, cha mẹ nghỉ ngơi khi về cùng con cháu. Chung quanh đàn phải cắm nhiều lưỡi dao nhọn bằng gỗ và một mảnh hình trăng lưỡi liềm, tượng trưng cho quyền tối cao của các Yang atâo”. Vì đây là một ngày lễ trọng nên cả buôn đều phải quét dọn sạch sẽ, mặc những trang phục đẹp, nhất là đàn bà con gái còn đeo cả những chiếc vòng cổ, vòng tay, vòng chân kêu leng keng theo mỗi bước đi. Ngày hội được mở ra bằng việc già làng mang: “bộ ching Arap pha đồng đen rất quý, có tiếng ngân rất vang, rất xa, cùng với trống hgơr lớn” tới. Cùng lúc ấy là: “Bốn con trâu đực có những bộ sừng đen bóng, cong vòng sắp chạm nhau được dắt tới cột vô bốn cây nêu nhỏ. Bên cạnh đó đặt một chiếc nia có bày các lễ vật khác như cơm, bầu rượu, bắp, các loại đậu, cả những trái bí bầu…vừa mới hái trên rẫy về”. “Khoa plơi và mấy cụ già làng cùng đi tới nhà thày cúng Po ieo tơ pai , mời ông ra làm lễ. Những thanh niên giỏi việc săn bắn nhất, đã được cắt cử để chuẩn bị lễ đâm trâu. Mỗi con hai ba người, chờ sẵn ngay bên cột buộc trâu đó” (Nước soi bóng ai) [9].
Lễ hội ăn trâu bắt đầu với tiếng cồng chiêng vang xa, sau đó là Pô ieo tơ pai khấn: “tạ ơn các Yang vì việc làm ăn tốt đẹp trong năm; cầu xin mùa màng năm tới cũng lớn bông, nhiều trái; trâu bò, heo gà sinh sôi, người vật không ốm đau, bệnh tật”. Tiếp theo là “tiếng hát khóc con trâu” và cả dân làng cùng bước vào vòng múa xoang trong tiếng ching trống bing bong: “Vòng xoang đã bắt đầu tự lúc nào. Hai con trai khiêng trống đi trước, mỗi người một ching, gần hai chục chiếc lớn nhỏ, nối bước nhau. Những bước chân tiến lên, lùi xuống xoay xung quanh cột goong. Lâu lâu lại một tiếng hú sảng khoái kéo dài, hàng trăm người cùng hòa theo đáp lời”. Nhà văn đã mô tả rất cụ thể quá trình đâm trâu của các thanh niên khỏe mạnh, tài giỏi trong plơi: “Tám thanh niên ngực nâu trần vạm vỡ, bóng láng, vung tròn vũ khí trong tay, dẫn đầu đoàn ching trống đi vòng quanh những con trâu và cột nêu. Lựa được khoảng cách tốt nhất, họ phải đâm một nhát lao hay kiếm, cho trúng ngay tim con vật. Sau đó chém tiếp vô khuỷu chân trái phía sau, rồi khuỷu chân phải, cho trâu khuỵu xuống. Vừa múa vòng tròn, vừa tiếp tục đâm, chém, cho đến khi con vật tắt thở”. “Tiếng hò reo cổ vũ những chàng trai tài giỏi, đem may mắn tới cho cả plơi, rộn rã khắp sân Rông”. Cứ thế, cứ thế lễ hội mỗi lúc lại thêm sôi nổi: “Ching trống càng thêm dồn dập. Vòng xoang mỗi lúc một rộng ra, bởi có thêm nhiều những bàn tay quen lạ nối tay. Rượu
41
chảy tràn trề như nước sông Ayun. Gió đẫm mùi thịt nướng thơm phức. Ching cứ bing boong, bing boong ngân xa và những bước chân trong vòng xoang vẫn cứ rầm rập, rầm rập”. (Nước soi bóng ai) [9].
Lễ hội “ăn năm uống tháng” trong đó có Lễ hội ăn trâu của đồng bào Tây Nguyên thường do một nhà đứng ra tổ chức nhưng đã thành ngày hội của tất cả buôn
làng, của cả vùng, cả tổng. Mọi người khắp nơi cùng đến chung vui với nhà chủ, hòa
nhập niềm vui chung với cộng đồng. Buổi lễ này cuốn hút mọi người chính bởi vẻ đẹp của sức mạnh con người, vẻ đẹp của tinh thần đoàn kết cộng đồng, vẻ đẹp của
tình người Tây Nguyên. Nhà văn Y Điêng cũng từng ca ngợi: “Ngày hội, ngày ăn
năm uống tháng người không đẹp cũng đẹp, người không xinh cũng xinh. Họ gặp nhau là vì tình người. Mời khách uống rượu ăn cơm, ăn cơm no rồi cũng phải ăn
thêm, uống rượu say rồi cũng không được từ chối bởi những lời nói, nụ cười uyển
chuyển dễ nghe, dễ thông cảm” (Chuyện trên bờ sông Hinh) [56, tr.197].
Sau Lễ hội ăn trâu, phải kể đến một số lễ hội khác cũng đậm sắc màu Tây
Nguyên như: Lễ hội Tăm Nghét, Lễ hội Xoay cột đâm trâu cầu mùa… Hội Tăm
Nghét của người Pu Noong Noong ở Quảng Trực tổ chức: “khi lúa đã ngủ trong
kho, bắp treo lủng liểng đầy xà nhà, năm cũ với những buồn vui cũ đã bay đi cùng
những cơn gió của rừng già tràn về” để xin chính thức mở cửa kho lúa và sum họp gia
đình đầu năm mới. Ngày hội Tăm Nghét thường vui chơi trong bốn ngày: Ngày đầu,
“những người đàn ông đi chặt cây Blang để làm cột mới buộc trâu” và “dùng gỗ
Blang thay những chiếc khung D’rang dạy vẽ hoa văn màu đen, nẹp chung quanh giàn
kho lúa trên hai bếp lửa và hai chiếc giá để bầu cơm ở trong nhà”; còn các chị phụ nữ
thì “tíu tít chuẩn bị lương thực, thực phẩm”. “Dựng cột đâm trâu Gơng rga và cột nêu
Gơng la là công việc quan trọng nhất trong ngày thứ hai”. Sau khi thầy cúng làm lễ thì
chủ nhà cùng dàn chiêng ra tận đầu làng đón khách. Cơm nước xong xuôi, các dàn chiêng thi nhau đua tài quanh đống lửa sáng rực giữa sân, hòa với tiếng chiêng là
những “tiếng Nung, Wao, Mbuôt… du dương, tiếng hát Tăm pơt, câu đối đáp Tăm ơh prơ chao qua liệng lại”. “Ngày thứ ba là ngày chính thức của lễ hội. Mọi nghi thức khẩn cầu được lặp lại, trước khi hiến tế”. Sau đó là đâm trâu, thịt trâu được chia đều cho mọi người đến tham gia lễ hội. Rồi “những câu hát Tăm ơh prơ gửi qua chao lại” trong đêm đầy sao lửa nồng nàn. Ngày thứ tư, ngày cuối cùng của lễ
hội, mọi người cùng ăn bữa cơm tiễn biệt rồi “tiếng chiêng bung boong đưa tiễn cho bàn tay níu kéo những bàn tay” (Đi hội Tăm Nghét cùng em) [8].
Lễ hội Xoay cột đâm trâu cầu mùa theo phong tục cũng diễn ra trong bốn ngày
đêm: “Ngày thứ nhất: thịt một heo năm gang, xin Yang cho dọn dẹp sân bãi, chặt cây
42
về đẽo gọt, vẽ vời hoa văn, dựng cột Loong kmuôn”.“Sáng ngày thứ hai lại mổ tiếp
một heo nữa, xin các Yang cho dựng cột lên làm chỗ đón các Yang về nghỉ ngơi uống
rượu”. Dựng cột xong, trâu lựa chọn hiến sinh được mang tới. Thầy cúng làm lễ tạ ơn
các Yang đã cho một vụ mùa no đủ, bình an, cầu xin mưa thuận gió hòa trong tiếng
chiêng ngân nga bay xa. Chiều nắng nhạt là lúc các chàng trai cô gái trong plơi đua tài.
Rồi “Bảy người phụ nữ dắt trâu đi xoay quanh cột nêu bảy vòng. Với hai lá trầu xé
tròn sấp ngửa, các thầy cúng đã xin được chấp thuận của các Yang”. Đến nửa đêm,
“Giữa thời khắc chuyển giao thiêng liêng của đất trời, lễ rước các Yang về dự hội
được tiến hành qua ba lần mời gọi với đủ rượu, trầu, thuốc, gà…”. “Ngày thứ ba chém
trâu, được coi như ngày chính của lễ hội Xoay cột đâm trâu”. Từ sáng sớm, các “già
làng cao tuổi nhất dẫn đầu, chiêng trống nổi lên cho bước chân rộn ràng trong điệu
múa đón khách. Khách cũng vừa tấu chiêng vừa múa tiến dần vào làng”. Chủ và
khách cùng khoe tài tấu chiêng từ lúc nắng mới lên tới khi mặt trời nghiêng hẳn
về phía Tây. Sau khi thầy cúng làm lễ khấn các thần linh và chém mỗi bên mông
trâu một nhát, chiêng trống lại nổi lên để trai gái bước vào vòng xoang nhảy múa
và ca hát. “Ngày thứ tư, người ta rước đầu trâu xoay quanh cột nêu và nhà Rông
bảy vòng. Đến khi nào đầu trâu lên tới nhà Rông coi như lễ nghi chấm dứt. Các
già làng đãi đằng khách nào đến muộn và đưa tiễn khách xa với tất cả sự bịn
rịn, lưu luyến” (Trăng Xí Thoại ) [7]…
Các lễ hội được nhà văn quan sát, tái hiện sinh động, tự nhiên trên từng trang
truyện - ký. Các lễ hội ấy phản ánh rõ nét sự gắn kết cộng đồng, sự tài hoa, lãng
mạn, phóng khoáng của người dân Tây Nguyên. Linh Nga Niê Kdam xem và miêu
tả các lễ hội trên quê hương không chỉ bằng hiểu biết mà còn bằng cả niềm tin
thiêng liêng bắt nguồn từ truyền thống và tín ngưỡng dân tộc. Từ xa xưa người Tây
Nguyên đã có truyền thống: Nuôi trâu hàng đàn, béo mượt không phải để đi cày,
kéo xe, chở gỗ mà chỉ để làm vật hiến sinh. Sau khi lễ tạ các thần linh, những người dự
lễ cùng nhau ăn uống, rồi chia đều phần thịt cho mỗi “bếp” trong làng như là để sẻ
chia vui buồn của cộng đồng dân tộc. Vì thế mà có lần nhà văn đã lý giải rất thấu đáo
về những lễ hội có đâm trâu: “Dân tộc nào cũng có đời sống cội nguồn tâm linh.
Người Tây Nguyên cũng vậy. Yàng ở khắp mọi nơi. Mưa thuận, gió hòa, mùa màng
sinh sôi, gia súc nảy nở, con người không ốm đau, dịch bệnh, ấy là nhờ ơn các Yàng.
Phải lễ tạ. Lễ vật có giá trị cao nhất, trong sạch nhất là con trâu”. (Số phận của
folklore Tây Nguyên và cái tâm của một nhà văn nữ Êđê ) [48, tr.157].
Điều đặc biệt là: trong các ngày lễ hội của đồng bào Tây Nguyên, cồng
chiêng không bao giờ vắng bóng. Cồng chiêng đối với người dân Tây Nguyên có
43
một ý nghĩa vô cùng quan trọng và hết sức linh thiêng. Không chỉ có lễ hội mà bất cứ một sinh hoạt trọng đại nào của người dân nơi đây đều không thể thiếu tiếng
cồng chiêng. Nhà văn Linh Nga Niê Kdam đã nói một cách rất cụ thể: “Chiêng gắn
với người Tây Nguyên từ lúc mới chào đời, amí hứng nước sương trong chiếc bát
đồng, ama cột ché rượu cần, dóng lên tiếng chiêng làm lễ thổi tai. Trước tiên là báo với các Yang, với cộng đồng về thành viên mới của gia đình, sau là chọn một cái
tên như mong ước của cha mẹ để đặt cho con. Một con người bắt đầu vòng đời thứ
nhất trong tín ngưỡng 7 lần đầu thai của người Tây Nguyên. Đến ngày lễ cắt việc,
được làm một thành viên chính thức, có trách nhiệm, có nghĩa vụ với cộng đồng.
Rồi bắt chồng, cưới vợ, dựng nhà cho người trẻ, mừng sức khoẻ cho người già, đón
bạn bè buôn gần buôn xa tới chơi nhà, các lễ nghi cầu mưa, dọn rẫy, làm cỏ, đón
lúa, mừng năm mới…” (Lời chiêng Tây Nguyên) [8, tr.56]. Chị còn khẳng định âm thanh của mỗi tiếng chiêng của mỗi tộc người lại có nét độc đáo riêng biệt: “Sự gắn
bó mật thiết với tiếng chiêng hầu như thống nhất trong mọi dân tộc sinh sống trên
dãy Trường Sơn. Nghe tiếng chiêng có thể hiểu phong cách sống và xử thế của mỗi
một dân tộc. Đó không chỉ là tâm linh mà còn là đặc trưng của từng tộc người. Mỗi
tộc người một làn điệu, một cách diễn tấu. Chiêng Bahnar trầm hùng như làn gió
ầm ào thổi qua rừng già. Chiêng Jrai náo nức mời gọi con gái, con trai nắm tay
nhau bước vào vòng xoang, cho vai sát vai và hông sát hông. Chiêng Xê Đăng rạo
rực như bước chân những chàng dũng sĩ cao nguyên. Chiêng Mạ, Mnông nói điều
gì trong nhịp buồn đến thổn thức? Chiêng Êđê dồn dập, mạnh mẽ như mưa đá, như
thác reo, như khát vọng của tù trưởng Đăm Săn thuở nào, dám chống lại luật tục
mẫu hệ ngàn đời của dòng tộc, ước mơ bắt cả nữ thần về làm vợ” (Lời chiêng Tây Nguyên) [8, tr.58]. Âm thanh của những tiếng cồng chiêng là âm thanh kết nối,
hối thúc mọi người sát lại bên nhau bước vào những điệu múa xoang vui tươi, uyển
chuyển trong tình yêu thương, đoàn kết: “Bàn tay nối bàn tay. Những thân hình con
gái mát rượi, sát bên hông con trai bốc lửa. Bước chân rậm rịch trong nhịp xoang xoay quanh những ché rượu, mỗi lúc một thêm dồn dập” (Đêm Dliê Ya ngàn xanh) [6, tr.179]; “Bất kể bụi tung mù mịt và cái nóng nung người cuối mùa khô còn bốc lên từ đất, rầm rập, rầm rập hàng trăm bước chân con trai con gái mê mải sát hông
bên nhau trong vòng múa dường như bất tận. Không có động tác, chỉ có tay nắm
tay, hông chạm vào hông và những bước chân đều tăm tắp. Xoay vòng, xoay vòng, xoay vòng …” (Pơ thi mênh mang mùa gió) [12, tr.81]. Hẳn phải là người con dân
tộc từng được chứng kiến và tham gia, yêu và say thiết tha các hoạt động văn hóa
phong tục tập quán của quê hương thì nhà văn mới có thể rung động đến từng âm
44
thanh chiêng hội và cảm nhận tinh tế về vẻ đẹp thần thái, sức mạnh gắn kết con người của âm thanh cồng chiêng như thế.
Bên cạnh các lễ hội, tác giả còn chỉ rõ nét đẹp văn hóa tinh thần của các tộc
người sống trên cao nguyên đất đỏ trong các phong tục tập quán sinh hoạt thường
ngày như nghi lễ khi sinh nở, cưới xin, bỏ mả…
Nghi lễ sau khi sinh nở của người phụ nữ Tây Nguyên được Linh Nga miêu tả
rất rõ trong sáng tác của mình. Nghi lễ đó thể hiện rõ nét đẹp của lòng biết ơn, trân
trọng cha trời mẹ đất và những ước mong tốt đẹp cho đứa bé mới sinh: Khi đứa bé
vừa chào đời được bà đỡ “lấy chiếc cật nứa cắt rún”, “đổ nước trong bầu ra lau
sạch thân hình nhỏ bé, lấy chiếc apăn khác quấn chặt lại” thì đứa bé ấy tiếp tục được
bà đỡ nâng lên ngang đầu, quỳ xuống, quay mặt về hướng đông, lầm rầm khẩn cầu :
“Ơ Yang ! Xin hãy mở rộng các cánh cửa đón nhận con gái của H’Ny và Y Min được vô cuộc sống. Cho tim nó biết đập nhịp cùng với buôn sang, linh hồn của nó biết
buồn, biết vui, cho đời của nó được no cái bụng, ấm cái lưng. Nhau nó đây tui treo
lên cành cây làm vật chứng. Ơ Yang !”. Sau đó, hai mẹ con được đưa ra suối tắm.
“Đó là một nghi lễ quan trọng phải làm sau khi sinh nở. Quỳ xuống giữa dòng cho
đến khi tắm rửa sạch sẽ, H’Ny sẽ phải uống từ từ một ngụm nước. Dòng nước mát
ngọt của núi rừng, buôn sang không chỉ làm sạch sẽ cho ruột gan và thân thể người
mẹ, mà còn tiếp thêm sức lực của cha trời, mẹ đất, của Yang bến nước cho hai mẹ
con và cho cuộc sống tiếp tục sinh sôi nảy nở” (Thung lũng Yang Hruê) [12, tr.105].
Nghi lễ cưới xin của người Tây Nguyên cũng rất độc đáo. Trước hết, trai gái
Tây Nguyên yêu nhau họ trao vòng đồng cho nhau thay lời đính ước. Nếu đi được
đến hôn nhân thì bên nhà gái phải chủ động mời mối lái hoặc dăm dei (cậu của cô dâu) mang vòng đồng đến nhà trai chính thức hỏi chồng. Theo tục lệ, khi người con
gái bắt chồng: “kpi ung mố đều do nhà gái đứng ra chi phí, phải lần lượt qua bốn
lễ. Đầu tiên là lễ hỏi, tiếp theo sẽ là lễ thoả thuận đồ dẫn cưới, nhà trai có quyền
được đòi hỏi. Sau đó là lễ gọi chồng iêo ung và rước rể về nhà gái. Cuối cùng là lễ trở lại nhà trai để mẹ chồng trao một số vật dụng cần thiết như dao, cuốc và chén bát cho chú rể mang về nhà vợ”. “Con trai Êđê ở nhà mình chỉ là ở tạm, khi có người con gái nào chịu bắt về, nhà vợ mới là nơi là nơi ở vĩnh viễn” (Con đường
đã chọn) [12, tr.175]. Lễ vật cưới đều là những vật dụng tự tay cô dâu làm lấy, có
thể có nhiều thứ khác nhau tùy theo hoàn cảnh giàu nghèo của cô gái nhưng đám cưới nào lễ vật cũng nhất thiết phải có: vòng đồng, tấm apăn, áo, khố cho người
chồng. Nghi lễ rước rể cũng tùy thuộc vào hoàn cảnh của hai gia đình. Đây là cảnh
rước rể của đôi vợ chồng nghèo: “Sáng sớm, đoàn rước rể đã rời nhà, mang theo
45
một ghè rượu , một con gà và hai chiếc vòng đồng. Ông mối trịnh trọng trong bộ áo khố mới bước vô nhà người bà con của Y Blum. Từ lâu, H’Nuai đã dệt xong tấm
váy, áo đẹp cho mình, bộ áo knuky và khố kpin cho người sẽ làm chồng, nghĩa là
chỉ còn chờ đợi đến đám cưới này. Bây giờ Ama, Amí cô chỉ cần lo heo gà, gạo …
đãi khách, chứ nhà Y Blum không còn ai, nên đâu phải đền trâu, bò cho cha mẹ, không cần nhiều vòng đồng mua đường đi của bọn trẻ con” (Con đường đã chọn)
[12, tr.176]. Còn đây là cảnh rước rể của hai gia đình giàu có, quyền thế: “Nhà
H’Lâm đưa cả đàn voi chín con đi rước rể. Thậm thịch, thậm thịch bước chân voi đi
như tiếng trống hgơr vui mùa lễ hội. Tiếp theo là sầm sập, sầm sập bước chân
người và hàng đàn trâu bò. Rung rinh, rung rinh trên vai những người khiêng heo,
rượu cần, gánh các lễ vật. Lễ cưới đông chưa từng thấy. Trâu, bò, heo, gà thi nhau
ngã xuống những đống lửa thiêu. Những lỗ mũi thơm điếc mùi thịt nướng, khói bốc cao che mờ cả đỉnh núi xanh. Rượu cần tràn như con suối Ea Pook” (Chiếc bầu
nước của H’Lâm) [9, tr.195]. Dù là con nhà quyền thế hay con nhà nghèo, để chuẩn bị cho lễ cưới của mình, từ lâu các cô gái Sê Đăng hay Jẻ Triêng đều phải vào rừng kiếm củi, bó thành những bó đầy đặn, chắc, đẹp, chất dưới gầm sàn chờ
ngày kết hôn đem ra đốt nấu ăn hay đốt thành những đống lửa lớn múa xoang. Các
em gái được bà và mẹ dạy dệt, dạy thêu thành thạo những tấm váy, áo, khố dày đặc
hoa văn hình chéo, hình sao hay con bướm, con chim làm lễ vật cưới chồng và điệu
hát Tăm pớt đối đáp với bạn trai mỗi mùa lễ hội.
Bên cạnh việc miêu tả nghi lễ cưới xin hấp dẫn, đậm bản sắc dân tộc, H’Linh
Niê còn chú ý miêu tả Lễ Pơ thi (bỏ mả) từ biệt hẳn với người đã khuất của các gia
đình Tây Nguyên. Lễ Pơ thi mang một giá trị văn hóa tâm linh hết sức linh thiêng và nhân bản, lễ kéo dài ba ngày: “Ngày thứ nhất đón khách xa khách gần. Ngày thứ
hai bàn việc chia của cải và nối dây. Xong việc thì ăn uống vui chơi cho sáng đêm,
ngày thứ ba tiễn khách và thu dọn”. Dưới trang văn của mình, tác giả H’Linh Niê
làm sống dậy không khí và phong tục bỏ mả rất đặc sắc của đồng bào nơi đây. Buổi Lễ Pơ thi khởi đầu từ tờ mờ sáng với một loạt nghi lễ trang nghiêm: “Theo hiệu lệnh Kypah của bặc gru ama Công mái tóc bạc phơ rủ xuống phủ đầy bờ vai, bầy voi đồng loạt từ từ bước xuống sông. Chúng đứng quanh thành vòng tròn, tất cả
cùng dương vòi lên trời. Lại một hồi kypah nữa rúc lên, những nài ngồi trên cổ voi
nâng những chiếc vòng kết sẵn bằng hoa lá rừng thả xuống mặt nước. Mjâo cũng nghiêng mình đổ rượu trong chiếc bình bạc xuống sông: “Hãy trôi đi, trôi đi, đưa
linh hồn Aê Phi về với đất nước ông bà. Từ nay ở xa hồn uống nước Yang sông
Blang, hồn ăn cơm Yang núi Mlan, người sống, người chết chúng ta không còn có
46
gì liên hệ với nhau nữa… Ơ Yang Atâo”. Bầy voi hạ vòi hút nước, rồi lại đồng loạt dương lên, chụm vào làm một cùng phun lên cao. Những vòi nước tỏa xuống như
một bông hoa lớn. Tiếng chiêng trong khu nhà mồ nổi lên ngân nga lan trên mặt
sông, đuổi theo những vòng hoa đang dập dềnh trôi về nơi vô tận” (Pơ thi mênh
mang mùa gió) [12, tr.78]. Thế rồi, suốt từ lúc bóng tối mới trùm xuống cho đến đêm rất sâu, trai gái cùng nắm tay nhau nhảy múa, ca hát trong nhịp chiêng bồng
bênh, bồng bênh. Nửa đêm, bỗng tiếng chiêng bồng bênh im bặt và gái trai ngừng
múa, Lễ Pơ thi lại tiếp tục diễn ra: “một tiếng chiêng rất trầm, rất ấm vang lên.
Điệu chiêng chầm chậm trang trọng và rất vang, rất đầm của một bộ chiêng lớn, do
bảy tám người đàn ông đã lớn tuổi vừa đi vừa đánh quanh nhà mồ. Cũng rất trang
trọng như thế, ba bà lão mặc trang phục Jrai áo dài tay, váy kín gót, không phải là
bước mà lướt đi rất chậm theo nhịp chiêng ngân nga, hai cánh tay chắp lại trước ngực đung đưa lên xuống rất nhẹ nhàng. Dường như họ không nghe thấy gì, không
nhìn thấy gì ở chung quanh ngoài nhịp chiêng và sự đối diện tâm linh trong cuộc
trò chuyện với người đã khuất. Tiếng Y Khoan nho nhỏ bên tai: điệu chinh và múa
tiễn đưa linh hồn lần cuối cùng đấy. Suzana nhìn vội lên mặt đồng hồ: Gần hai giờ
sáng” (Pơ thi mênh mang mùa gió) [12, tr.83]. Nhà văn thật tài tình khi tái hiện
trong “đêm trăng xanh xa xôi” một buổi Lễ Pơ thi lạ lùng, đầy hấp dẫn, đặc biệt
linh thiêng và huyền ảo, nửa hư nửa thực. Trong buổi lễ tiễn đưa người đã khuất
này, cồng chiêng cũng có mặt, góp phần làm nên không khí trang trọng, linh thiêng,
kết nối tâm linh người còn sống với người đã khuất. Âm thanh cồng chiêng lúc này
là “một thứ âm nhạc nghi lễ”: “Tiếng chiêng xoay xoáy vào bóng đêm, trôi lang
thang vô tận giữa rừng già, lặn xuống đáy dòng sông Srêpôk sâu thẳm. Âm thanh binh boong ấy không phải là tiếng than khóc, vẫn là tiếc thương, vẫn là níu kéo đấy
nhưng lại lịch lãm và trang trọng dành cho sự tiễn biệt vĩnh viễn” (Pơ thi mênh
mang mùa gió) [12, tr.84]. Cảm nhận những nét đẹp văn hóa và không khí của buổi
lễ, độc giả cũng như cô gái Thụy Sỹ Suzana trong truyện ngắn ấy đều phải đồng lòng cùng tác giả: “Lạ cho sự trường tồn của văn hóa bản địa, sức cuốn hút của nó không từ bất cứ đối tượng nào” (Pơ thi mênh mang mùa gió) [12, tr.82].
Tây Nguyên không chỉ có những phong tục tập quán kể trên thể hiện được
bản sắc văn hóa dân tộc, nhà văn còn giới thiệu, mô tả những nét đặc trưng riêng
trong bản sắc văn hóa của cộng đồng người Tây Nguyên qua một số phong tục tập
quán, tín ngưỡng khác trong cuộc sống như: tục nối dây, tục đón khách, tục trao
vòng, tục xử phạt, đặt tên con, đặt tên voi… Tập tục nào cũng mang đậm bản sắc văn hóa độc đáo của các tộc người Tây Nguyên.
47
Tóm lại, Linh Nga Niê Kdam là nhà văn có sự am hiểu sâu sắc về văn hóa
Tây Nguyên và có vốn sống thực tế vô cùng phong phú. Đó là kết quả của một quá
trình dày công tìm hiểu, nghiên cứu công phu về văn hóa dân tộc vùng Tây Nguyên
của chị. Những nét đẹp văn hóa quê hương được chị phản ánh hết sức hấp dẫn, tự
nhiên trong các tác phẩm, góp phần tôn vinh văn hoá dân tộc và minh chứng cho tài
năng, tình cảm cùng những hiểu biết của nhà văn. Rõ ràng, với nữ tác giả này, Tây
Nguyên là một vùng quê tươi đẹp và giàu bản sắc văn hóa. Vì vậy, trong mỗi trang
văn của chị đều chất chứa lời ước mong tha thiết: “Mong sao những phong tục đẹp,
những nét độc đáo của văn hóa cổ truyền được bảo tồn, phát huy và truyền lại cho
con cháu muôn đời sau, cho tiếng chiêng Tây Nguyên mãi mãi bay cao bay xa trong
cái xanh cao thăm thẳm của bầu trời cao nguyên bao la” (Lời chiêng Tây Nguyên)
[8, tr.62]. Đây cũng chính là nguyện ước của các dân tộc Tây Nguyên khi bước vào
thời kì hiện đại và hội nhập.
2.1.3. Những con người dũng cảm, tài hoa và khát khao đổi thay cuộc sống
Người dân Tây Nguyên từ ngàn đời đã gắn bó với núi rừng, đã từng chống
chọi lại bao hiểm nguy, khắc nghiệt của thế giới tự nhiên, lại đã trải qua bao cuộc
chiến tranh để gìn giữ quê hương nên sức mạnh của thiên nhiên, của những vị thần
linh, của cha trời mẹ đất, của những người anh hùng từ trong các pho sử thi đồ sộ …
hình như đã thấm vào tâm hồn, tính cách họ. Trong cuộc sống thời kì hiện đại hôm
nay, họ vẫn là những người con của núi, vẫn dũng mãnh, kiên cường, rất mực tài hoa
và luôn khát khao xây dựng, đổi thay cuộc sống, thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu.
Trong các tác phẩm của Linh Nga Niê Kdam, con người Tây Nguyên hiện
lên qua những lời miêu tả hết sức sinh động là hình ảnh những con người cụ thể với
những dáng hình cụ thể, mang tính đặc trưng của các DTTS Tây Nguyên. Họ có thể
là những cụ ông nhỏ thó, nghèo khổ nhưng vô cùng thông thái: “Tóc ông loăn xoăn
trắng như bông Blang, xòa xuống tận cổ, viền quanh khuôn mặt đen cháy, đầy nếp
nhăn xếp nếp như thân cây bằng lăng cỗi. Hai bàn chân khô đét đầy bụi đường,
ngón cái xòe ra tách hẳn với những ngón chân kia, kẹp chặt chiếc dép bằng da bò,
co hết lên trên chiếc ghế nhỏ. Tẩu thuốc đen bóng dính chặt trên môi. Đôi mắt ông
đã sùm sụp nhưng vẫn ánh lên vẻ tinh anh của người già được coi là thông thái
trong buôn” (Tìm về bến nước) [6, tr.50]; họ có thể là các cụ bà: “Đã xấp xỉ bảy
mươi mùa rẫy, nhưng nét duyên và vẻ đẹp mặn mà của một phụ nữ dòng dõi tù
trưởng còn in đậm trên gương mặt, vóc dáng và cách ứng xử” (Những người giữ
hồn của rừng) [8, tr.99]; họ cũng có thể là những chàng trai: “Thân hình cao chắc
48
săn bóng dẻo dai như cây cate bên suối, vòng ngực căng chắc như gỗ lim, đôi tay
cuồn cuộn như bó mây vặn xoắn, mái tóc đen nhánh loăn xoăn xõa trên vai, rủ
xuống cả vầng trán nâu thông minh. Đôi mắt sáng quắc như mắt thợ săn đêm lúc
nào cũng nhìn thẳng người trước mặt” (Cầu vồng lung linh) [6, tr.100]; những cô
gái: “Da ngăm ngăm hồng như bình minh mới rạng, hoa nở thua miệng xinh. Con
mắt chim k’trao cũng chỉ sáng đẹp như mắt nàng là cùng. Mái tóc thì … úi chao!
Trôi trong dòng nước cứ như có thêm một dòng suối xanh, chảy ở giữa làn nước
trong vắt vậy” (Dòng sông tóc) [6, tr.115]… Họ còn có thể là những người trí thức,
những người lãnh đạo, những người lính chống Pháp năm xưa, những anh bộ đội cụ
Hồ cắm rễ buôn làng, ngày đêm bảo vệ biên giới hôm nay, hay là những sinh viên,
học sinh trong thời đại mới, những người dân khắp các vùng miền cả nước đến đây
khai hoang, làm ăn kinh tế… Dù họ là ai nhưng họ đều có chung một đặc điểm: Là
những cư dân chất phác, hiền lành; rất mực tài hoa, phóng khoáng; được tôi luyện
trên cao nguyên nắng cháy, được tắm trong không gian văn hóa cồng chiêng, được
nuôi dưỡng trong “chiếc nôi của rừng, của núi, trong lời ru của gió ngàn và câu
klei khan của ông bà” - họ đều là những con người của mảnh đất Tây Nguyên hùng
vĩ, đầy bí hiểm, hoang sơ và cũng đầy lãng mạn, mộng mơ.
Chất tài hoa nghệ sĩ của con người Tây Nguyên trong truyện và ký của
Linh Nga Niê Kdam khiến độc giả càng thêm yêu quý, khâm phục họ. Anh chàng
Y Tam nghèo khó trong truyện ngắn Srêpôk sáng nay yên tĩnh đã hút hồn cô gái
mang tên thần lúa H’Ri (con tù trưởng giàu có nhất buôn Ea Suop) bởi: “Anh
chàng Y Tam đó không chỉ làm chủ tiếng đinh buốt nỉ non, lời đinh năm dìu dặt,
giọng đing tăk tar ngọt ngào ấp áp, mà còn cả ngón đàn bro tài hoa tưng tửng
những đêm trăng sáng. Cũng khác lũ trai trong buôn nữa kìa, khi những vật dụng
bình thường trong nhà, ngoài rẫy như ống nứa, ống tre, vỏ bầu, tơ dứa dại … qua
tay Y Tam bỗng thành lời vui lời buồn, cả tiếng nhớ, tiếng thương ai đó. Không
những thế, Y Tam còn có một thân hình cao lớn, khỏe mạnh, đủ sức phát một hơi
cái rẫy to đi mỏi chân mới giáp vòng” (Srêpôk sáng nay yên tĩnh) [12, tr.38].
Anh chàng Y Nhay trong Chiếc bầu nước của H’Lâm lại làm say đắm cô gái
H’Lâm - con gái yêu của tù trưởng Ama Lâm (có mối thù truyền đời với buôn
sang mình) bởi: “Đôi tay anh chặt đổ phăm phăm cả những thân cây gỗ lớn hơn
một vòng ôm trong rừng, đẽo lên trên xà nhà những con chim, con rùa như đang
động đậy sắp bay lên, bò đi. Ghế Jhưng ama ngủ, ghế kpan liền thân liền chân đặt
suốt dọc hướng tây căn nhà sàn dài cho dàn chiêng ngồi gọi Yang mỗi mùa lễ hội,
49
con thuyền độc mộc với cây sào dài len lỏi trên dòng suối … tất cả đều từ những nhát rìu
khéo léo của anh góp phần làm nên” (Chiếc bầu nước của H’Lâm) [9, tr.187]. Có
được anh chàng Y Khăm trẻ trung bên suối Ea Sao nối dòng khiến cho bà amĩ Xóa
“lắm chiêng, nhiều ché, thóc lúa đầy bồ, trâu bò, heo gà đầy vườn” càng thêm
hãnh diện: “Tuổi hai mươi cường tráng như cây knia, giỏi làm rẫy, tài đi săn,
khéo tay đan gùi xúc cá, lại học xong trung học, thuộc loại sáng giá nhất lũ con
trai bến nước” (Nối dòng) [6, tr.25]. Còn anh chàng YRít dưới chân núi Mblim lại
làm điêu đứng bọn con gái mấy buôn và nàng H’Linh xinh đẹp vì chàng “hiếm hoi
như trái trên cành mùa gió vậy”: “Lũ con trai ước được tài luyện voi, săn thú như
chàng. Voi nào dữ lắm, đến tay YRít chỉ một vài tuần trăng là trở nên ngoan hiền
như chú bé. Chàng gài bẫy ở đâu, tất phải có con thú sa ở đó. Đã xách ná lên
rừng, thể nào bếp lửa cũng thơm nức mùi thịt nướng. Khỏe, nhanh, một mình YRít
với chiếc xà gạc phát rẫy, hai ba người theo dọn không kịp. Chàng lại còn hát hay
nữa chớ. Những ngày lễ hội, bên nào có Y Rít theo hát đối đáp, bên đó chỉ có
thắng cuộc. Chàng chứa đầy trong đầu hàng trăm câu chuyện cổ, chắc từ đời ông
cụ nội truyền lại” (Cầu vồng lung linh) [6, tr.101]…
Các chàng trai Tây Nguyên tài hoa là thế, các cô gái nơi đây cũng hết sức
đáng yêu với đôi bàn tay khéo léo: biết dệt may khố áo, ủ ché rượu cần và múa hát
như cánh chim Ch’rao. Tài năng của người phụ nữ thể hiện rõ nhất trong việc dệt
may từ bông sợi cây Blang. Lúc còn rất nhỏ, các em gái đã biết: “kteh những rẻo
hoa văn ở đuôi khố, vạt áo, những sợi dây đeo, dây buộc ngang trán”; lớn lên chút
nữa các chị, các em bật bông, se chỉ, dệt thành: “những tấm thổ cẩm tuy đơn sơ thô
ráp nhưng tuyệt đẹp”, rực rỡ sắc màu. Nhà văn ca ngợi: “Bàn tay tài hoa của người
phụ nữ Tây Nguyên “đụng lên khung cửi chỉ thành hoa”. Vải dệt hàng chục năm
sắc không phai, màu không thôi sang áo quần cùng giặt. Hàng trăm hoa văn hình
con bướm, hình thoi, gấp khúc, chim thú, người, các kiểu chạy chữ … được phối
hợp màu sắc một cách hài hòa, tạo ra những đường nét rực rỡ” (Đi về đâu hỡi …
thổ cẩm Tây Nguyên) [7, tr.26]. Những bộ trang phục truyền thống của mỗi dân tộc
Tây Nguyên đều bắt nguồn từ chính những đôi bàn tay cần cù, khéo léo, tài hoa ấy
của những cô gái trên cao nguyên đất đỏ.
Là một người con dân tộc Tây Nguyên, tuy nhà văn không sinh ra và lớn lên
ở nơi đây nhưng hơi thở cao nguyên, mạch nguồn nhựa sống, khí chất dân tộc vẫn
ngập tràn trong trái tim và trang văn của chị. Chị có khả năng cảm nhận và phán ánh
50
sâu sắc, chân thực phẩm chất anh dũng, kiên cường cùng biết bao tấm gương nghị
lực, khát khao đổi thay cuộc sống của con người Tây Nguyên hôm nay.
Cuộc sống vốn thật tươi đẹp nhưng cũng đầy khó khăn với muôn vàn thử
thách khắc nghiệt, nếu không có lòng dũng cảm và ý chí nghị lực thì con người
không thể vượt qua. Mảnh đất Tây Nguyên giàu đẹp về bản sắc văn hóa nhưng dấu
vết của những hủ tục lạc hậu vẫn còn in hằn. Những hủ tục lạc hậu ấy làm cho biết
bao con người Tây Nguyên phải lâm vào cảnh khốn cùng bất hạnh. Tục “nối dây”
được nhắc tới không ít trong các tác phẩm H’Linh Niê. Vì phải “nối dây” theo tập
tục mà tình yêu sáng trong của Y Khăm và HMai trong truyện ngắn Nối dòng tan
vỡ; Y Khăm thành chủ bến nước Ea Knăt giàu có nhất nhì ven thị xã cao nguyên
nhưng cả đời vẫn không thôi tiếc nuối, căm hận và đớn đau day dứt.
Là người nghiên cứu văn hóa, văn học dân gian Tây Nguyên, nhà văn còn tái
hiện những hủ tục đã có tự ngàn đời ở vùng đất giàu huyền thoại, huyền tích này qua
các truyện kể về sự tích các loài hoa, các thác, các hồ ...; cùng với đó là quá trình đấu
tranh dũng cảm chống lại những tập tục đã trở thành hủ tục lạc hậu của con người
Tây Nguyên. Trong tác phẩm Hoa Pơ lang, nhà văn đã kể lại sự tích cây Blang theo
câu chuyện xưa (trong Trường ca Đam San) đồng thời cũng nói lên cuộc đấu tranh dữ
dội và quyết liệt chống lại tục “nối dây” của Đam San và H’Bia. Đam San và H’Bia
yêu nhau say đắm, H’Bia đã dệt xong tấm áo khố và cả tấm apăn đợi ngày họ kết đôi.
Vậy mà, theo tập tục, Đam San phải “nối dây” với H’Nhí và H’Bhí để trở thành tù
trưởng giàu mạnh. Dù H’Bia mạnh mẽ đứng lên chống lại tập tục, mang sính lễ sang
nhà chính thức hỏi cưới Đam San; dù Đam San không muốn “nối dây” theo luật tục
Radeh nhưng chàng vẫn không gạt đi được sức nặng của luật tục ngàn đời. Tình yêu
mãnh liệt cuối cùng vẫn chưa đủ sức chống lại tập tục, Đam San lên voi từ biệt
H’Bia. Đau xót và đơn độc, H’Bia biến thành cây Blang mùa hè hoa đỏ, dõi theo
Đam San đến cuối đất cùng trời. Câu chuyện về sự tích thác H’Linh trong tác phẩm
Cầu vồng lung linh cũng vậy. Y Rít và H’Linh yêu nhau, tình yêu của họ đẹp đẽ,
lung linh như cầu vồng bảy sắc. Tình yêu ấy đã bị chia cắt bởi hủ tục “môn đăng hộ
đối”. H’Linh đau đớn gieo mình ra giữa dòng sông Srêpôk để chống lại tập tục, còn
Y Rít băng rừng lao xuống khúc sông quanh đón người yêu. Nơi họ gặp nhau biến
thành con thác, người Êđê gọi là thác H’Linh. Con thác H’Linh đẹp đẽ, lung linh
trong cả ngày mưa hay nắng nhưng ngày đêm vẫn dữ dội, quằn quại trong nỗi đau
tình yêu bị cắt chia. Con thác ấy là minh chứng cho sự đấu tranh chống lại hủ tục và
tình yêu bất tử của đôi trai gái vùng cao Tây Nguyên này.
51
Những con người Tây Nguyên “da nâu, mắt sáng, vóc dáng hiền hòa” ấy
không chỉ dũng cảm chống lại luật tục để cho những lứa đôi sau hạnh phúc mà họ
còn ngoan cường, dũng cảm trong cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù xâm lược, trong
công cuộc lao động để dựng xây cuộc sống hàng ngày giàu có, tươi đẹp hơn.
Đằm sâu trong các tập bút ký của Linh Nga là nỗi xúc động sâu lắng và tình cảm
trân trọng, mến yêu của nhà văn khi nói về những con người thật, việc thật mà chị đã có
dịp gặp gỡ, tiếp xúc, tìm hiểu ở khắp mọi buôn làng Tây Nguyên. Đó là những người anh
hùng chống Pháp như anh hùng Núp - người con của núi Yă Dôk, của suối K’Drăk -
người đầu tiên “bắn Pháp chảy máu” dưới gốc đa, từng đặt bẫy đá, cài chông thò, chông
treo, từng hướng dẫn người Kông Hoa: “làm lui bước chân những kẻ thù xâm lược trang
bị súng ống đầy đủ” (Đến thăm làng bác Núp) [11, tr.120]. Đó là người nữ anh hùng
chống Mĩ - chị Y Buông: “dân tộc Sê Đăng, người nữ anh hùng đầu tiên của Tây
Nguyên. Năm xưa, bất chấp bom đạn thù dội lửa kinh hoàng xuống núi rừng Đăk Tô,
người chiến sĩ nuôi quân ấy vẫn đảm bảo hàng trăm suất cơm cho chiến sĩ ăn no mà mà
đánh thắng giặc Mỹ” (Lâng lâng bước chân về nguồn) [8, tr.48]. Đó là người cựu chiến
binh - đại tá Ysok Niê buôn Lê Bêc mới mười bảy mùa phát rẫy đã theo bộ đội Wa Hồ
chiến đấu kiên cường vào Nam ra Bắc, nay nghỉ hưu rồi, ông vẫn cùng huyện đội tham
gia chống Phulro: “Lời khuyên giải có tình, có lý của ông và các già làng đã gọi được
120 người lầm đường lạc lối, buông súng quay về với cuộc sống đời thường của Bon
lan”. Ông còn: “rủ ông bà sui cùng học cán bộ khuyến nông khai hoang ruộng nước,
trỉa trồng lúa cạn ngắn ngày, vỡ đất trồng thử cà phê”, cùng với bà con làm kinh tế mới,
sản xuất giỏi, xóa đói giảm nghèo cho mình và cho cả Bon lan (Nỗi niềm đại tá Y Sok
Niê Kdam) [8, tr.134]. Đó còn là những người trí thức dân tộc như vợ chồng thầy cô giáo
dạy giỏi Săm Ly - Yến biết vượt lên đói nghèo: “Ít đất nhưng làm ăn có tính toán, có
tiếp thu khoa học” (Người Vân Kiều trên cao nguyên Đăk Lăk) [8, tr.141]. Đó còn là
chị amĩ Thúy - thành viên Hội đồng nhân dân, Hội Phụ nữ, Phó ban Dân số - Kế hoạch
hóa gia đình xã Ya Tun, Giarai. Chị đã dũng cảm đi đầu trong việc thực hiện nếp sống
văn minh, vận động chị em giảm tỉ lệ sinh đẻ, “đi đầu trong lao động sản xuất và tích
lũy, để từ hai bàn tay trắng trở thành triệu phú, với hơn 1,2 héc ta ruộng nước hai vụ, 7
héc ta đào lộn hột, 60 con bò, cùng đầy đủ các máy công cụ phục vụ cho sản xuất” (Đâu
là đáp số của bài toán Ya Tul ) [7, tr.142].
Những con người thật, việc thật, luôn kiên cường, giàu khát vọng ấy cũng được nhà văn phản ánh sinh động vào các tác phẩm truyện ngắn của mình. Trong
tác phẩm Con đường đã chọn, nhà văn kể về con đường thực hiện khát vọng vươn
lên làm giàu của đôi vợ chồng trẻ (con gái và con rể đại tá Y Blum): “Cặp vợ chồng
52
mới cưới dọn ngay đến khu tập thể của nông trường để đi làm cho gần. H’Thai thôi làm giáo viên, nhận công tác là cán bộ phụ nữ xã Ea Sin. Y Lăn còn kiêm thêm chức
đội trưởng một đội sản xuất. Một thời gian sau, họ nhận khoán hơn 2 ha cà phê
theo chủ trương liên kết với đồng bào dân tộc của tỉnh uỷ, Y Lăn học cách nghĩ của
cha, làm việc gì cũng tính toán kỹ càng, nên việc nông trường, việc gia đình đều xuôi chèo, mát mái. Vườn cà và ruộng lúa nước của nhà vợ chồng anh cho năng
suất cao nhất buôn, đời sống gia đình dần dần ổn định, mua được mảnh đất làm
nhà riêng, không còn phải ở tập thể nữa. Anh cũng bàn với vợ, không làm nhà xây,
mà dựng căn nhà dài to, cho các con có chỗ nhớ về cội nguồn dân tộc” (Con
đường đã chọn) [12, tr.192]. Hay trong truyện ngắn Mùa xuân ơi, tới đi, nhà văn
cũng vạch ra con đường người dân Tây Nguyên đi tới tương lai tươi sáng. Đây là một trong những cách ama, amí Sang đã chọn để thoát khỏi đói nghèo: “Thờ i gian sau nà y, anh vô là m Công ty Cà phê, được tín nhiê ̣m bầu là Chủ ti ̣ch Công đoà n, chi ̣ vừ a dạy học vừ a là m thêm công tá c Dân số - Kế hoạch hó a gia đình của xã. Nên anh chi ̣ quyết tâm chỉ sanh hai đứ a thôi. Chồng chi ̣ nhận khoá n của Công ty một hé c ta cà phê, vừ a mà y mò học thêm kỹ thuật trồng những giống lú a, bắ p cao sả n mớ i. Nhà ít trẻ con, nhiều lao động nên mấy năm nay không bao giờ phả i lo thiế u ăn” (Mùa xuân ơi, tới đi) [9, tr.75].
Một trong những giá trị nổi bật ở các sáng tác của H’Linh Niê là chị không
chỉ nhìn thấy những phẩm chất tốt đẹp: dũng cảm, khao khát vươn lên chống lại cái
xấu, cái ác, cái đói nghèo lạc hậu; luôn hướng về cái đẹp, cái thiện của chính đồng
bào đang sống trên quê hương mà chị còn thấy những phẩm chất tốt đẹp ấy ở những
người con Tây Nguyên đang phải sống nơi xa xứ. Điều này được tác giả thể hiện trong câu chuyện về một người phụ nữ Êđê mang tên H’My. Người họa sĩ tự do:
“Vừa cất tiếng khóc chào đời đã được bà ngoại tắm sạch sẽ bằng bầu nước mát
trong lành lúc sớm mai lấy từ cái giếng nhỏ bên cây Blang đang bừng nở những
vầng hoa đỏ” của bến nước buôn Nui ấy đã 20 năm lưu lạc nơi đất khách quê người, nhưng chị vẫn mang vẻ đẹp tâm hồn của người dân Tây Nguyên dũng cảm vượt lên số phận. Dù đã bao đêm: “thổn thức thầm trong ngôi nhà dành cho những người phụ nữ bị bạo hành ở Canada, bao ngày cặm cụi bên giường bệnh trẻ em ở
các trại tị nạn Đông Timo, bao buổi sáng thức dậy đón mặt trời nơi cửa ngôi nhà
bằng vỏ cây cuốn tròn của thổ dân miền Nam Úc” [9, tr.174], bao đêm noel, lễ tết cô đơn trống vắng nhưng chị vẫn cố gắng sống, cố gắng vươn lên để cuộc sống
buộc phải đổi thay. Chị nỗ lực làm việc: “tự kiếm đồng tiền để nuôi mình, dành lại
quyền nuôi con, để hai mẹ con được đến lớp, được đứng trên bục cao nhận tấm huy
53
chương danh dự dành cho những nghệ sỹ xuất sắc, trong những cuộc triển lãm Mỹ thuật quốc tế” [9, tr.174]. Và dù đã có địa vị nhất định bên phương trời xa cách
nhưng chị vẫn luôn khát khao được trở về, được đặt những bước chân bập bễnh lên
bề mặt đất đỏ, được hít thở không khí trong lành của quê hương lồng lộng gió Tây
Nguyên, nơi đã sinh thành, chở che, nơi tiếp thêm sinh lực và là ngọn nguồn cảm hứng sáng tác của chị (Long lanh giếng nước buôn Nui) [9]…
Chính vì lòng yêu mến, sự tin tưởng vào con người Tây Nguyên vốn mạnh
mẽ, can trường, luôn có khát vọng làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời nên nhà
văn đã xiết bao vui mừng khi tận mắt nhìn thấy sự “thay da đổi thịt” của cuộc sống
nơi đây: “Sông Đăk Bla như một dải khăn lụa xanh, choàng làm duyên cho cô gái
Kon Tum. Trước mắt chúng tôi là một thị xã nhỏ, mới tinh khôi với những con
đường rộng thẳng tắp, những dãy phố kính màu lấp loá trong nắng ban mai. Tôi ngỡ ngàng như vừa gặp lại một người bạn thân thủa nhỏ, nay hoá thành một thiếu
nữ xinh tươi mơn mởn, đẹp lộng lẫy” (Du xuân Tây Nguyên) [7, tr.65]; “Cùng với
Buôn Ma Thuột, từ trong lòng đại ngàn xanh dáng núi Trường Sơn, Pleicu và
Kon Tum cũng đang vươn lên, lồng lộng vóc dáng của những thành phố hừng
hực sức trẻ như dũng sĩ Đam San, Xing Nhã, Đam Gyông huyền thoại thủa nào”
(Mùa xuân, ơi Ban Mê của tôi) [11, tr.55]…
Có thể thấy, trong các tác phẩm truyện và ký của Linh Nga Niê Kdam, hình ảnh những con người Tây Nguyên dũng cảm, mạnh mẽ, quyết liệt, tài hoa với bao
khát vọng: Chinh phục thiên nhiên, xoá bỏ hủ tục, đấu tranh chống kẻ thù xâm lược,
dựng xây quê hương, làm giàu, làm đẹp thêm cho quê hương đã được thể hiện một
cách cụ thể, sinh động. Qua những trang văn của chị, người đọc cảm nhận rất rõ:
tình yêu quê hương, lòng tự hào về con người, về mảnh đất cao nguyên tươi đẹp,
hùng vĩ, đầy huyền thoại của chị. Đồng thời, người đọc cũng có thể hiểu rõ hơn, sâu
hơn, đa chiều hơn về con người, về cuộc sống ở nơi đại ngàn xa xôi này.
2.2. Nỗi niềm cùng những dự cảm về cuộc sống, con người và bản sắc văn hóa quê hương 2.2.1. Những khó khăn, thách thức của cuộc sống thời kì hiện đại
Như chúng ta đã biết, tác phẩm văn học chỉ có giá trị khi nó phản ánh được
hiện thực cuộc sống một cách đa chiều và góp phần cải tạo đời sống theo hướng tích
cực. Thực tế cuộc sống phong phú, phức tạp cùng nền văn hóa đa sắc màu ở Tây Nguyên đã góp phần quan trọng làm nên những tác phẩm văn chương có ý nghĩa
nhân văn sâu sắc của Linh Nga Niê Kdam. Nhà văn lặn sâu vào thực tiễn cuộc sống
đồng bào Tây Nguyên và đời sống văn hoá tinh thần của họ để viết lên những trang
54
văn giàu tính hiện thực và giàu giá trị nhân bản. Vậy thực tiễn cuộc sống ở Tây Nguyên hiện nay là gì? Chị đã đi rất nhiều, tiếp xúc rất nhiều, ghi chép và lắng nghe
rất nhiều để khắc hoạ một bức tranh toàn cảnh về cuộc sống con người Tây Nguyên
trong thời kì đổi mới. Đúng như nhà nghiên cứu văn học DTTS Lâm Tiến nhận xét:
“Ký của chị thường gắn với những chuyến đi, chủ yếu là những chuyến đi về với cội nguồn, về với đồng bào dân tộc Tây Nguyên: Đi tìm hồn chiêng, Đi hội Tăm Nghét
cùng em, Đêm Nam Nung với người Mnông ở Đắk Nông; Lời gọi mời của Kon
H’Ring, Có một Đắc Hà xanh của các làng Xê đăng, Strá tại Kon Tum; Diệu kỳ
Plei Ku, Gập ghềnh con đường Krông Pa với các tộc người Bâhnar, Jrai ở Gia
Lai; Chuyện ghi ở Phi Liêng với người K’Ho ở Lâm Đồng; Người Vân Kiều trên
cao nguyên Đăk Lăk, Ban Mê cội nguồn và huyền thoại … Đọc truyện, ký của
H’Linh Niê, người đọc như được ngắm một bức tranh toàn cảnh về văn hoá, con người, cuộc sống Tây Nguyên từ xa xưa cho tới nay, từ cái chung cho tới cái riêng
độc đáo, cụ thể, hấp dẫn” (Gian nan về với cội nguồn) [46].
Thông qua các chuyến đi về với cội nguồn, Linh Nga Niê Kdam mới thấy hết
thực tế khó khăn, đói nghèo mà bà con các dân tộc Tây Nguyên đang phải đối mặt.
Đến với Quảng Tín, nhà văn ngậm ngùi chứng kiến: “Mặc dù đã thực sự định cư,
gắn bó với vườn điều nhưng dân Quảng Tín vẫn còn nghèo và thiếu ăn hai, ba
tháng trong năm. Điều đó toát lên từ mọi căn nhà lụp xụp ở chân núi, lẫn ven
đường quốc lộ; từ mấy ống lồ ô nấu canh lá rừng với trái ớt, mà tôi nếm trong bếp
của một bà mẹ; từ việc kiếm hết năm mới được hai ché rượu cần cho đoàn tìm đàn
đá tổ chức đêm văn nghệ dân gian…” (Một ngày với Quảng Tín) [7, tr.114]. Đến
Mường Hoong, tận mắt nhìn thấy sự khó khăn, gian khổ của hai xã “đặc biệt khó
khăn” là Ia Puch và Đăk Nhoong, chị đau đáu xót xa trước hiện thực này của đồng
bào: “Năm 1995, huyện cho bà con vay 2 triệu đồng/ hộ, cả xã vay 168 triệu để
thực hiện dự án trồng mì. Bà con hăng hái khai hoang, trồng được 30ha. Nhưng
chờ dài từ mùa nắng sang mùa mưa, lại chờ tiếp từ mùa mưa sang mùa nắng,
không thấy ai đến thu mua. Đường giao thông quá xấu, mì nát chỉ bán được 200
đồng/kg, tư nhân cũng chẳng thèm vào nhòm ngó. Nợ ngân hàng đến nay chưa gia
đình nào trả được. Năm 1999, cả 100% dân trong xã đều “đủ tiêu chuẩn” xếp vào
diện đói nghèo” (Chuyện lạ ở Mường Hoong) [8, tr.25]. Phải là người sâu sắc và
đồng cảm lắm chị mới có thể viết nên những dòng chữ đầy ắp tâm tư như thế.
Có một thực tế trớ trêu nữa mà nhà văn thấy rõ ở xứ núi này là: một số con em
DTTS Tây Nguyên đi học nghề, học Đại học về nhưng không thể xin được việc làm
trên quê hương mình. Tệ nạn “tham nhũng” đã bò đến tận nơi đây khiến cho cuộc sống
55
bao người đã khó khăn càng thêm điêu đứng. “Con trai của rừng Xà nu” muốn có việc
làm phải nộp 15 triệu đồng bởi đang trong thời kỳ “giảm biên chế”, “làm gì còn định
biên để nhận người mới”. 15 triệu đồng xin việc là một tài sản quá lớn không chỉ đối
với gia đình A Siêng: “Cả một năm cắm mặt xuống ruộng mới thu được vài chục bao
lúa, chưa đủ ăn hết năm cho cả bảy tám người gia đình chị gái. Nhà chỉ có chiếc xe
đạp là đáng tiền nhất, anh chị giao cho A Siêng đi học, để có phương tiện lúc rảnh
chạy làm thuê, hay ngày nghỉ về làm rẫy giúp anh chị. Cả làng không nhà nào có nổi
vài trăm ngàn đồng cất giữ trong nhà, nói gì tới 15 triệu” (Con trai của rừng Xà nu)
[9, tr.139]. Sự khó khăn của gia đình A Siêng ở làng Kon Riêng cũng như sự đói nghèo
của người dân khắp mọi buôn làng đều được nhà văn quan sát tỉ mỉ và chiêm nghiệm
nghiêm túc. Là một trí thức trách nhiệm, yêu quê hương, chị luôn có ý thức nhận diện,
phân tích, truy tìm căn nguyên sâu xa dẫn tới đói nghèo với hi vọng góp tiếng nói khắc
phục, cải tạo tình hình thực tiễn đó.
Nguyên nhân đầu tiên, theo chị, là do yếu tố khách quan mang lại. Điều kiện
tự nhiên hết sức khó khăn là một trong những thách thức không nhỏ đối với đời
sống người dân miền núi này. Với đặc điểm tự nhiên: sáu tháng mùa mưa, sáu tháng
mùa khô nên Tây Nguyên thường xuyên phải gánh chịu lũ lụt và khô hạn: “Hai con
sông nước trong, nước đục thay nhau hàng năm dâng nước ngập cánh đồng Ea
Yang, năm nào cả xã cũng gặt lúa non chạy lụt. Đến mùa khô cái nắng nơi này
cũng dữ dội lắm. Mặt ruộng nứt nẻ, các con suối cạn khô chỉ còn là những dòng
bùn loãng. Cá tôm cạn kiệt, họa may chỉ còn vài con lươn, trạch rúc sâu dưới bùn
đất còn sống được. Người Ea Yang năm nào cũng phải nhận cứu trợ của huyện là
thế” (Con trai của rừng Xà Nu) [9, tr.140].
Những khó khăn về điều kiện thiên nhiên xuất hiện liên tiếp khắp các trang
bút ký của chị. Địa phương nào trên Tây Nguyên cũng thấy: không khô hạn thì mưa
lũ, người dân phải đối mặt với thiên tai liên tiếp giáng xuống cũng đủ khốn khó
quanh năm. Mảnh đất Hà Giăng tươi đẹp, nơi đã ghi dấu bao chiến tích anh hùng
trong hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc, nơi bao liệt sĩ đã góp máu xương
để giữ lấy, có những tháng ngày thiếu nước đến cạn khô: “Dầm chân trong làn
nước mát rượi, khó tin nổi mùa khô nơi đây khát đến tầm trọng. Nhưng đó lại là sự
thật. Dân có lúc phải đào hố cát sâu đến tận ngực để gạn lấy nước. Những chiếc
“giếng” nhỏ xếp bằng đá để chắt nước, chúng tôi nhìn thấy không ít ở mọi chiếc
ngầm hai bên đường” (Làng mặt trời) [7, tr.55].
Mùa khô thì hạn, người còn thiếu nước nói chi đến cây trồng. Làm sao dân
không nghèo đói? Mùa mưa, có nước nhưng người dân cũng chẳng sung sướng gì
56
hơn vì phải chống chọi với lũ lụt: “Nằm giữa hai con sông Ayun và sông Ba thơ
mộng, Ya Tul quả là “vời vợi” tuy chỉ cách huyện lỵ chưa đầy bảy kilômét. Mùa lũ,
nước hai con sông dâng ngập quá cả chân tủ hồ sơ trong uỷ ban. Giao thông ở đây
cực kì nan giải. Tất cả chỉ trông chờ vào cái gùi và đôi chân. Kể cả phương tiện xe
đạp cũng đành phải treo lên xà nhà, chờ cho qua con nước.” (Đâu là đáp số của
bài toán Ia Tul) [7, tr.134]…
Đâu chỉ có khô hạn, lũ lụt, chỉ cần sương sớm rơi xuống và vài ba chú voi
rừng đi lạc, bà con Tây Nguyên cũng đã gặp khó khăn trong trồng cấy rồi. Đây cũng
chính là bài toán cần phải giải quyết, là niềm trăn trở của các nhà lãnh đạo và của
chính nhà văn khi chị đặt ra những câu hỏi khẩn thiết cần có lời đáp cho bà con
thoát khỏi đói nghèo: “Làm gì cho 1.600 dân Quảng Tín, mà trong đó có 99% là
đồng bào người dân tộc Mnông thoát khỏi đói nghèo? Phải làm gì khi cánh đồng
Đăk Ka thường xuyên bị voi rừng về dày phá? Làm gì khi bà con trỉa lúa ở đất rừng
Lồ ô chỉ thu được sáu đến bảy tạ một héc ta trong khi vụ lúa trên đất phá rừng già
thường đạt hơn một tấn một héc ta? Còn canh tác trên đất rừng non, chỉ sau vụ thứ
ba là hoà vốn? Làm gì cho dân khi các loại cây hoa màu, lương thực khác không
sống nổi với sương muối Quảng Tín? Cái đói cứ lang thang thách đố. Phải làm gì
trong mỗi bước đường đi?” (Một ngày với Quảng Tín) [7, tr.108].
Một nguyên nhân khách quan nữa dẫn tới đói nghèo của bà con các vùng dân
tộc nhà văn nhận thấy là: sự khó khăn về đường xá giao thông mà một phần là do
đặc điểm tự nhiên mang lại: “Không thể nghĩ là đường đến Krông Pa lại xấu đến
như vậy. Thế mà lần này, phải mất tới hơn bốn tiếng, xe mới vượt con đường 95 km
từ ngã ba Cư Sê đến thị trấn Phú Túc. Dồn xóc liên tục, khiến không ai còn thư thả
để ngắm con sông A Yun trong leo lẻo uốn lượn theo con đường gấp khúc, cũng như
những cánh đồng trải dài đến tận chân núi xanh thẫm. Trừ 3km con đường đèo
Tona quanh co được rải nhựa, còn hầu hết là sự lượn sóng trên mặt đường cấp
phối. Nhưng cũng không đáng ngại bằng hai cái vũng voi đầm cách nhau chừng
chục km. Đất A Yun Pa, Krông Pa pha cát, nên dù có nén đến thế nào, thì chỉ sau
vài cơn mưa là rã trôi rất nhanh. Đường luôn luôn hỏng là vì thế.” (Ghập ghềnh
con đường Krông Pa) [8, tr.152].
Nhưng điều khiến tác giả đau xót hơn cả, nguyên nhân dẫn tới đói nghèo là
do yếu tố chủ quan của con người mang lại. Con người thiếu ý thức bảo vệ môi trường sống, vô tình gây thêm bao khó khăn cho chính mình và tạo thêm nhiều thách thức đối với cả cộng đồng. Việc đường xá giao thông khó khăn không chỉ vì đất có pha cát mà còn vì nổ mìn phá rừng, phá cả chính con đường huyết mạch dẫn
57
vào trung tâm xã: “Là một trong 21 xã của tỉnh Kon Tum được hưởng chương trình 135 của chính phủ, con đường đến Mường Hoong đã được cấp phối 1/3. Vậy mà
cũng mất đến năm tiếng, vượt rừng, vượt đèo chúng tôi mới qua được 75km để tới
trung tâm xã. Phải kể thêm chuyện lúc ra, cả nhóm chúng tôi vác đá mở đường cho
xe qua, bởi đêm trước đó người ta nổ mìn, cả một vách đá lớn ập xuống” (Chuyện lạ ở Mường Hoong) [8, tr.22].
Đời sống người dân đã khó khăn, lại càng đói nghèo hơn nữa bởi tập quán du
canh du cư, phá rừng làm nương rẫy khiến cho đất đai bị bạc màu, kiệt quệ. Krông
Nô là một địa phương hứng chịu hậu quả đó: “Con đường khiến tôi ngỡ ngàng bởi
sự lùi xa của rừng già, rừng nứa. Trơ trơ hai bên đường những vạt đất bạc phếch
cỗi cằn, loang lổ tro xám, đầy những thân cây bị cưa đốn nằm ngổn ngang. Tôi
chẳng hề ngạc nhiên chút nào với những con suối hẹp lại, những mặt đầm mênh
mông, bùn khô nứt nẻ chỉ còn vài vũng trâu đằm. Krông Nô cũng là một địa chỉ để
làn sóng di cư tràn tới bởi cái “sự” rừng còn nhiều nhất ở Đăk Lăk. Nay thì thấy
trước mắt đó: vụt qua cửa xe những vạt ruộng khô, những đám cà phê lá quắt
queo, không hiểu màu lá úa hay màu bụi đỏ, chẳng còn đủ sức rung lên trong gió”
(Ấn tượng Krông Nô) [7, tr.98]. Ở xã Đăk Nhong, bà con còn khốn khổ hơn vì tập
quán du canh du cư này: “Đời sống bà con ngày ấy vừa lạc hậu, vừa đói nghèo,
đông con. Sinh sống rải rác trong rừng, trong những chòi tranh vách nứa, chưa kịp
mục mái lều, đất bạc màu là cả làng đã lại rời đi tìm rẫy mới. Uống nước ngay từ
những con suối, ăn những món nướng sơ qua trên lửa, nấu canh rau rừng trong ống
nứa … Bệnh sốt rét, tiêu chảy thường xuyên đe doạ. Chỉ có lúa rẫy là nguồn lương
thực chính” (Bình yên một vùng biên) [8, tr.146].
Một trong những khó khăn, thách thức đối với người đồng bào DTTS mà ta
thấy rõ trong các trang bút ký của nhà văn là do Tây Nguyên “đói thông tin”.
“Đói thông tin” cũng có thể dẫn tới đói nghèo: “Còn bây giờ, Ea Drăng vẫn cứ
phải chịu không chỉ đói nghèo, mà cả đói thông tin nữa. Vì nếu Krông Pa không
“bắt” được cả sóng phát thanh lẫn truyền hình Gia Lai, phải nghe và xem nhờ
Phú Yên và Đăk Lăk; thì Ea Drăng là vùng lõm, chẳng thể dò được bất cứ sóng
phát thanh truyền hình nào”; nhà văn còn mượn lời ông Êban Lá để nhắc nhở:
“Nếu đài tiếng nói Việt Nam không mau chóng phát tiếng dân tộc lên trên vệ tinh
cho bà con khắp nơi được nghe, thì không chừng công trình đưa thông tin về cơ sở
ở Krông Pa lại có tác dụng ngược lại đấy, bởi radio cấp phát chỉ nghe được đài
nước ngoài thôi” (Gập ghềnh con đường Krông Pa) [8, tr.153].
58
Ấn tượng buồn nhất với chị chính là những khó khăn thách thức trong cuộc sống đến từ sự lạc hậu, trình độ dân trí thấp khiến người dân nơi đây dễ rơi vào các
tệ nạn xã hội, dễ bị kẻ xấu lợi dụng, tuyên truyền tư tưởng phản động, bỏ làng theo
Phulro hoặc bỏ tín ngưỡng bản địa theo đạo lạ ở phương Tây, xa rời các phong tục
tập quán của cộng đồng dân tộc… Sự phân tích những nguyên nhân dẫn tới khó khăn, đói nghèo của bà con Tây Nguyên rất đúng đắn, sâu sắc của chị cho thấy: chị
có cái nhìn thấu đáo, đa chiều và có một tấm lòng luôn hướng về cộng đồng dân tộc.
Linh Nga Niê Kdam không hề né tránh thực tế, chị đã chỉ ra rất rõ sự lạc hậu
và trình độ dân trí thấp của phần lớn người dân Tây Nguyên. Chị trăn trở trước thực
trạng người dân không biết cách làm ăn kinh tế, có tư tưởng ỷ lại nên dẫu đã được
Nhà nước cho người về hướng dẫn và cho vay vốn nhưng cũng không thể ngay lập
tức thay đổi, tiếp thu: “Đời sống kinh tế khó khăn kéo theo sự thất học của trẻ em. Xã chỉ có các trường tiểu học, 11 em lên cấp II phải về trường nội trú huyện. Cán
bộ xã chỉ có 3 người đã học hết cấp II. Theo chủ tịch xã Siu Neo: “Dân đói nghèo
có 3 nguyên nhân: không có vốn, không có người hướng dẫn kĩ thuật sản xuất và
không có văn hoá để học hỏi, còn nặng tính ỷ lại, có được vay vốn cũng không biết
dùng để làm gì” (Chuyện lạ ở Mường Hoong) [8, tr.26]. Người dân lại quá quen
với tập quán canh tác nương rẫy theo lối xưa, lạc hậu nên khó chấp nhận làm theo
phương thức canh tác mới: “Thay đổi được tập quán canh tác quản canh và tư duy
sản xuất manh mún của bà con các DTTS không dễ, nếu không nắm được đặc điểm
tâm lý: do hàng trăm năm nay theo phương thức luân canh và độc canh cây lúa rẫy
trên đất rừng mênh mông, hết màu nơi này lại chuyển đi nơi khác, đồng bào chưa
quen với các biện pháp thâm canh, áp dụng kĩ thuật để có năng xuất cao. Nên rất hay dễ làm, khó bỏ. Thất bại một lần bà con dễ nản, nhưng lại ưa làm theo nhau,
nếu được nhìn thấy tận mắt kết quả” (Có một Đăk Hà xanh) [8, tr.167]. Hay đáng
buồn hơn là ở chỗ khi có điều kiện tự nhiên thuận lợi nhưng người dân cũng không
tích cực học hỏi, thay đổi cách làm ăn: “Mãi đến năm 1982-1983 dân Hà Giăng Trên mới rời núi về định canh định cư ở chỗ hiện giờ, cách thị trấn Vân Canh 5km. Làng có 47 hộ, hơn 250 nhân khẩu. Trong tổng số diện tích tự nhiên 1.500 hecta, chỉ có không đầy 140 hecta đất đã canh tác. Chủ yếu trồng lúa rẫy (hơn 70 hecta),
mì và mía (gần 70 hécta). Mặc dù có nhiều vùng đất bằng, gần suối, nhưng bà con
vẫn chưa biết cày bừa và làm lúa nước. Công cụ sản xuất vẫn chỉ là cày cuốc, chọc lỗ tra hạt lúa rẫy” (Làng mặt trời) [7, tr.50].
Chính các thực trạng ấy dẫn tới việc các tệ nạn xã hội có điều kiện để tồn tại.
Nhà văn cũng thẳng thắn nói lên sự tồn tại của các tệ nạn xã hội trong đời sống
59
đồng bào mình. Đó là nạn mù chữ khiến người dân Tây Nguyên khó tiếp thu khoa học kĩ thuật: “Ya Tul còn nhiều khó khăn. Mặc dù có hơn 20 thanh niên đã học qua
lới 9 hoặc lớp 12, nhưng cả xã vẫn có tới 60% dân mù chữ. Đây là một trở ngại
không nhỏ cho việc tiếp thu cái mới, nhất là khoa học kĩ thuật” (Đâu là đáp số của
bài toán Ya Tul) [7, tr.138]; nạn thất học không chỉ ảnh hưởng đến đời sống kinh tế, dẫn đến đói nghèo, lạc hậu mà hơn hết còn làm người dân không thể thoát khỏi
tình trạng mông muội đến mức suy kiệt cả nòi giống. Chị ghi lại tâm sự của Bí thư
chi bộ xã Đăk Blao về tình trạng này mà buồn bã và đau xót: “Các anh chị có nghĩ
được chuyện này không? Mỗi bon là một dòng họ. Cứ lấy nhau quanh quẩn trong
một dòng giống, con cái đẻ ra èo èo như cái lá bị lửa ăn, chết lần lần hết. Hồi xưa
hay có lễ hội mùa cúng Yang, xa mấy cũng rủ nhau đi. Trước là đáp nghĩa, sau thì
tìm duyên tình. Nay làm gì còn lễ hội nữa …” (Rừng ơi! Giàu nghèo ai đó?) [7, tr.218]. Đã thế lại còn nạn cúng triền miên, góp phần làm kiệt quệ kinh tế của từng
gia đình: “Cái gì cũng cúng. Một tuần chúng tôi ở lại trong bon, hầu như ngày nào
cũng thấy có cúng. Dài thì năm bảy ngày, ngắn thì một ngày. Nhiều, hàng chục ché
rượu, vài tạ gạo. Ít, cũng một ché, một gà. Cúng đến nỗi có gia đình vì không còn
lương thực theo đuổi đóng góp những lễ cúng liên miên, đã phải cải theo đạo Tin
Lành” (Ấn tượng Krông Nô) [7, tr.100]. Trước hiện tượng bà con rời xa các phong
tục tập quán cổ truyền tốt đẹp của dân tộc để đi theo đạo Tin lành, nhà văn không
khỏi băn khoăn, đau xót: “Bà con người Mnông ở Đăk Mon bây giờ đã có tới 80%
theo đạo Tin Lành. Thay đổi tín ngưỡng đồng nghĩa với xoá bỏ nhiều phong tục đẹp
của dân tộc” (Nỗi niềm của đại tá Y Sok Niê Kdam) [8, tr.135].
Những thách thức bà con Tây Nguyên đang phải đối mặt không chỉ là các tệ
nạn xã hội mà còn là sự tuyên truyền kích động của bọn người xấu khiến cho vùng
đất Tây Nguyên vốn êm ấm thơ mộng trở thành sục sôi, phức tạp. Ví dụ: việc thanh
niên dân tộc nghe theo lời kẻ xấu, tụ tập nhau trong rừng Đăk Min để vượt biên giới
trái phép, khai thác lâm sản trái phép, tự do mang theo súng tự tạo từ phía Bắc vào
(Đi đón mùa xuân) [11]; hay người dân bị kẻ xấu lợi dụng, tuyên truyền kích động
bạo loạn với lý lẽ: “Tây Nguyên mình là một đất nước riêng” có tên là: “Nhà nước
Đê Gar”; Tây Nguyên được vua nhà Nguyễn ban cho tên đất là: “Hoàng triều
cương thổ”; người dân cần phải đứng lên “đấu tranh đòi quyền lợi”. Vì một số
người dân tin theo điều đó nên ở Tây Nguyên có thời điểm đã xảy ra những vụ việc
đòi “độc lập tự do cho nhà nước Đê Gar”, người dân bỏ tín ngưỡng ông bà đi theo
“Đạo Tin lành Đê Gar”… (Nhân danh ai?) [11]…
60
Có thể thấy rất rõ: bao nhiêu khó khăn, thử thách trong thực tế đời sống của người dân Tây Nguyên thời kì hiện đại hôm nay hầu hết đều được Linh Nga Niê
Kdam đề cập tới trong các tác phẩm truyện - ký của mình. Chị viết về những khó
khăn, thách thức ấy bằng một giọng văn thoạt nghe tưởng rất khách quan nhưng
thực chất thì đằng sau mỗi sự kiện, mỗi hiện tượng xã hội mà nhà văn phản ánh, người ta nhận ra được một nỗi niềm buồn đau, day dứt, một sự trăn trở khôn nguôi
của tác giả. Dù đến với các xã vùng cao Tây Nguyên với tư cách là một nhà văn,
một người làm công tác phát thanh truyền hình hay một nhà nghiên cứu sưu tầm
văn hóa dân tộc, Linh Nga Niê Kdam cũng luôn giành cả tình cảm và tâm huyết của
mình với mảnh đất yêu thương này. Những câu hỏi: “Làm thế nào …? Làm thế
nào…?” luôn được chị đặt ra sau mỗi sự kiện, mỗi câu chuyện là một minh chứng
cho tấm lòng, tinh thần trách nhiệm của người con gái Êđê với cộng đồng dân tộc. Và sau mỗi trang viết ấy đều như toát ra, vút lên câu hỏi đòi lời giải đáp từ nhiều
phía - từ phía những người dân, từ phía các nhà quản lý, các nhà khoa học, các nhà
văn hóa xã hội… để giải quyết bài toán giúp nhân dân Tây Nguyên thoát khỏi
những đói nghèo, lạc hậu này.
2.2.2. Sự tha hoá của con người bản địa
Trên thực tế, đời sống người dân Tây Nguyên vì nhiều lí do (như đã nêu
trên) nên còn rất nhiều khó khăn, nghèo đói. Cái khó khăn, nghèo đói ấy góp phần
tác động xấu đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của con người. Cộng thêm vào đó là
những tình huống éo le, đưa đẩy của cuộc sống mà con người không thể lường
trước khi tiếp cận với những mặt trái của xã hội thời kì hội nhập, mở cửa, giao lưu
kinh tế, văn hóa… làm cho một bộ phận người dân Tây Nguyên không có đủ bản lĩnh bị sa ngã, trượt dài trên con dốc của sự tha hóa, băng hoại đạo đức, quên đi
những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Ngòi bút của Linh Nga Niê
Kdam cũng đã hướng vào những góc tối, vào phần khuất lấp trong cuộc sống, trong
tình cảm của con người Tây Nguyên thời kì hiện đại.
Trong truyện ngắn Cánh hồng rụng, nhà văn kể lại tình cảnh đau lòng của một bà mẹ cô đơn, lỡ dở, cả cuộc đời dồn hết tình yêu và nhựa sống cho đứa con gái bé bỏng của mình. Người con gái càng lớn lên càng xinh đẹp: “nước da mịn màng
như sữa dê, vóc dáng thanh mảnh của cây bạch đàn liễu, lẫn gương mặt vầng trăng
mười sáu. Cánh môi hồng nhỏ xinh hơi nhếch lên hai bên khóe, khiến khuôn mặt rạng lên một nụ cười. Riêng cặp mắt thì, bọn con trai trường nghệ thuật tỉnh bình
luận rằng “bí ẩn tựa đêm Italia”, màu đen thăm thẳm và ánh lúng liếng, ướt rượt
sau hàng mi dài rất hay chớp chớp”; còn người mẹ nhiều khi rất tự hào về con, vì
61
quá yêu thương con nên bà đã chiều chuộng con quá mức. Người con gái ngày càng trở nên ích kỷ, lười nhác, chỉ muốn sống dựa vào người khác. Mới học lớp 9, cô đã
“mang bụng” về nhà và dọa mẹ nếu không cho cô cưới chồng thì cô sẽ “cắn lưỡi”
tự tử. Chồng cô - một gã trai hơn cô gần chục tuổi: “có thân hình dặt dẹo, mặt xám
ngoét, mỗi khi lên cơn động kinh lại lăn đùng ra giãy giụa, sùi cả đám bọt mép hai bên trắng nhởn”, lại đã có thời “già nhân ngãi, non vợi chồng” với một cô bên kia
sông. Nỗi xót xa tủi nhục của người mẹ dày vò bà đến phát ốm nhưng người con gái
không hề quan tâm. Sau tuần trăng mật “tuyệt làm sao”, người con gái ấy không thể
sống bên nhà chồng vì phải đối mặt với hiện thực khó khăn, túng thiếu lại không
biết làm gì nên đã chủ động bỏ chồng vào Tây Nguyên với mẹ. Vào đây, cuộc sống
lao động lam lũ một lần nữa khiến kẻ quen sống dựa dẫm, buông thả không thể
thích nghi, cô ta ra sức trách mẹ: “Thế mà mẹ lại bắt con làm cấp dưỡng. Lại còn mắng con cặp hết thằng này đến thằng khác. Chúng nó dại gái thì kệ chúng nó, con
có mất gì đâu. Thôi con đành mang tội bất hiếu mà ra đi vậy”. Sau đó, cô ta đang
tâm vứt bỏ đứa con đỏ hỏn của mình cho người mẹ đau khổ, “dứt áo” ra đi kiếm
tìm một nơi dựa dẫm mới: “Con biết mẹ đau lòng lắm, nhưng còn cách nào khác
nữa đâu, mẹ hãy trông cháu hộ con. Còn nếu mẹ vì giận con mà không muốn nuôi
cháu, có ai ra Bắc, mẹ mang trả bố nó hộ con. Nó làm hỏng cả đời con, thì con
cũng chẳng thiết gì nuôi con nó” (Cánh hồng rụng) [6, tr.71].
Hay trong truyện ngắn Hoa dại, nhà văn kể lại số phận của nhân vật “nó” - một
người con gái Tây Nguyên trẻ trung, tài năng và xinh đẹp: “Hiếm con gái Tây Nguyên
có nước da trắng mát đến nao lòng như thế, sống mũi cao, đôi môi mỏng xinh như nụ
hoa êpang buổi sáng. Cặp mắt trong veo như mắt nai con với hàng mi dày cong, lúc nào cũng mở to ngỡ ngàng của một cô gái chưa quen giao tiếp. Chắc ông trời bà đất
quá yêu cái tạo vật xinh xắn ấy, nên cho nó thêm cả giọng hát trong veo như nước suối
lẫn đôi tay dẻo mềm như sợi mây và đôi chân tựa con sóc nhảy”. Bông hoa rừng ngây
thơ, trong trắng, tươi rói ấy, vừa mới 15 tuổi đã bị ông nhạc sĩ lợi dụng, chiếm đoạt. Nhưng thay vì cảm thấy bị xúc phạm, tổn thương, “nó” lại thích thú đón nhận: “Ân cần và dịu dàng, người đàn ông đánh thức nỗi đam mê điên cuồng, mà nó khám phá ra rằng dường như có sẵn trong máu nó tự thuở nào. Để rồi, như dòng nước được dỡ bỏ
vật cản, băng băng lao tới những bến bờ xa lạ mà kì thú”. Từ đó, “nó” ngày càng trở
nên hư hỏng, sa đọa: “rất tự nhiên, nó lần lượt làm bạn qua đêm của mọi gã đàn ông trong cái khu tập thể khép kín”; “nó” mặc sức: “thả mình theo cơn khát bản năng của
da thịt, con mắt sáng rỡ, đôi má đỏ au, người lúc nào cũng bừng bừng như có lửa. Nó
công khai nói toạc trong đám tán gẫu của những mụ vịt giời hôm nào cũng tụ tập
62
không ở phòng này thì ở phòng khác: Một ngày không được hưởng thụ là tao ăn mất ngon, ngủ mất say, người tao nó cứ run run, giần giật làm sao ấy”. Cuối cùng, “nó”
phải trả giá cho lối sống buông thả, sa đọa của mình - khi mới “bốn mươi hơn chứ
mấy”, “nó” đã phải sống trong cảnh không chồng, bị bệnh phụ khoa nặng, một mình
bươn trải nuôi sáu con, hai cháu, rồi mất vì bệnh ung thư (Hoa dại) [6, tr.131].
Ước mơ có một cuộc sống giàu sang là một ước mơ chính đáng. Nhiều người
dân Tây Nguyên giàu nghị lực đã thoát khỏi đói nghèo, quyết tâm vươn lên làm giàu
rất đáng khâm phục. Nhưng vẫn còn những người muốn có cuộc sống giàu sang mà
không phải lao động cực nhọc. Họ đã đánh mất hết lòng tự trọng, đánh mất nhân phẩm,
đạo đức và đánh mất cả tình cảm gia đình thiêng liêng. Họ như con thiêu thân lao vào
thế giới sáng rực ánh đèn nơi thành phố. Họ để lại phía sau cha mẹ, con cái, cả truyền
thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc để sống gấp, sống vội, sống hưởng thụ mọi thứ của
người khác. Nhân vật người con trong truyện ngắn Cánh hồng rụng là kiểu người như
vậy: “Con đã mơ tới vùng đất nơi mẹ ở với bao hình ảnh đẹp đẽ. Nào là nhà cao cửa
rộng, vải vóc quần áo lộng lẫy, muốn ăn gì có nấy. Mỗi ngày đi chợ, con ngắm không
chán các toà nhà như các lâu đài trong chuyện cổ tích mẹ kể cho con nghe. Ôi những
hàng vải như cả một rừng hoa đến loá cả mắt. Còn con người, sao họ đẹp thế, sang
thế. Trên những chiếc ô tô, xe máy bóng loáng chạy đầy đường. Ước gì con …”; “Con
mà thèm trở về cái xó rừng nghèo xác ấy nữa ư? Có về cũng phải thật giàu. Mẹ đừng
cho người tìm con. Có thấy con cũng không về đâu mà. Rồi mẹ xem, chắc chắn con sẽ
có tất cả …”. Công việc mà con làm để “thật giàu” là tiếp viên của một quán cà phê,
“giúp người ta thư giãn” (Cánh hồng rụng) [6, tr.83].
Lại có những người do nhẹ dạ cả tin, hám lợi trước mắt, từ bỏ cả những thứ
đẹp đẽ, cao quý mình đang có để chạy theo danh vọng, chạy theo đồng tiền, cuối
cùng phải đánh đổi cả mạng sống. HLy Êban trong truyện ngắn Cây Knia cô độc là một diễn viên múa có khả năng cháy hết mình cho nghệ thuật. Nàng đẹp “vẻ đẹp đầy bí ẩn của nàng sơn nữ”. Khi còn ở núi rừng, cô yêu say đắm Y Lang. Họ đã lớn lên bên nhau rất hồn nhiên rồi tình yêu đến đẹp đẽ, chân thành, đầy kỉ niệm gắn với thảo nguyên, đồng cỏ MDrăk và bóng cây Knia cổ thụ. Họ cũng đã cùng nhau trao hẹn ước thề “chỉ chờ ngày làm lễ knăm và iêo ung nữa thôi”. Nhưng HLy đã nghe theo lời rủ rê, lừa phỉnh, hứa hẹn suông của Nhã mà cô cứ tưởng sẽ
là “mạnh thường quân” đưa cô tới tỉnh cao vinh quang nghệ thuật. Cô rời bỏ buôn
làng cùng trái tim Y Lang để chạy theo danh vọng và mười năm ròng phải làm vợ
hờ, làm công cụ kiếm tiền, biểu diễn lót sân, dọn bãi cho những cuộc lưu diễn
triền miên của “ông bầu” Nhã. Dù vất vả, cực nhọc, lại còn sinh con cho Nhã
63
nhưng cô cũng chỉ được Nhã cho đủ tiền ăn hàng ngày, không có cả tiền để trở về đồng cỏ năm xưa. Trong nỗi đau đớn, nhục nhã, tủi thân, căm giận lẫn ân hận;
trong nỗi khát khao được trở về gặp lại Y Lang, từ trên xe ô tô, cô đã vươn mình
về phía cầu vồng, nắm cho được kỉ niệm đẹp đẽ lung linh trong quá khứ. Để rồi
mãi mãi nằm lại nơi đây, ngóng trông đồng cỏ cao nguyên, nơi đỉnh ngọn đồi có bóng cây Knia cô độc và một dáng người cao lớn lấp lóa trong bảy sắc cầu vồng
(Cây Knia cô độc) [6, tr.180].
Sự tha hóa đạo đức của con người không chỉ biểu hiện ở cái nhìn thấy, ở vẻ bên
ngoài, ở phương diện bản năng tính dục dễ nhận biết mà biểu hiện của nó còn rất phức
tạp. Sự tha hóa đạo đức có thể ẩn nấp ở những người có vẻ bề ngoài hào hoa, thanh lịch,
đạo mạo, đĩnh đạc và nó còn có thể khoác trên mình chiếc áo ngoài công lý, chính nghĩa.
Chỉ khi nào sự thật được phanh phui thì ta mới nhận thấy sự hèn nhát, lừa dối, trốn chạy,
vô trách nhiệm, vì danh lợi mà có thể phủ nhận quá khứ, phũ phàng phản bội chính
người mình từng trân trọng, yêu thương của những con người vốn tưởng là chân chính
đó. Truyện ngắn Gió vẫn thổi từ rừng kể một câu chuyện rất đáng trách của một người
trí thức: Cô gái H’Dung buôn Ea Păm xinh đẹp, hồn nhiên, hiền lành, trong sáng, có
giọng hát tuyệt vời đã khiến cho anh chàng Trịnh Nguyên - thành viên của một đội công
tác ở Hà Nội về làm việc tại buôn - đem lòng yêu ngay từ cái nhìn đầu tiên: “Anh như bị
thần sét đánh tan tác ngay từ lúc cô cất tiếng hát. Lời hát Êđê nói gì? Sao như có luồng
điện chạy từ ngón chân lên tới những sợi tóc trên đỉnh đầu khiến anh quên hết, chỉ còn
H’Dung ẩn hiện bay bay trong làn khói, trong ánh lửa và trong làn suối ngọt ngào của
tiếng hát em”. Họ yêu nhau đắm say đến mức cả hai người đã cùng trao vòng đồng,
được mẹ cha H’Dung cột ché rượu, thầy cúng làm lễ báo với Yàng từ nay họ kết đôi.
H’Dung nào có ngờ, Trịnh Nguyên lừa dối H’Dung, anh đã có vợ và con trai ở Hà Nội.
Từ khi nhận được điện của vợ, anh vội vã trở về, bỏ lại H’Dung. Hai mươi năm trôi qua,
anh không một lần trở lại cũng không hề viết một lá thư. Anh để lại cho H’Dung một đứa
con mà anh không bao giờ biết mặt. Anh cũng để lại cho đời một số phận đau khổ, mồ
côi nên cô bé Hmin Êban kia dù “con mắt nó như giọt sương trên cành hoa eđắp”
nhưng “lúc nào cũng buồn thăm thẳm như rừng đêm, giống y mắt mẹ”. Trước sự bao
dung của H’Dung: “Bao bạn bè tôi đến đó rồi ra, ai cũng gặp em. Vậy mà chưa hề nghe
em nhắn trách một câu. Em ra Hà Nội thuyết minh triển lãm cũng không hề tìm tôi”,
Trịnh Nguyên thấy mình thật là hèn hạ, ngàn lần ân hận nhưng anh vẫn một đời trốn
chạy, không dám đối mặt với người con gái Tây Nguyên trong sáng, cao thượng đó để
nhận lỗi về mình. (Gió vẫn thổi từ rừng) [6].
64
Truyện ngắn Điều ông ấy không tính đến cũng phê phán sự lừa dối, hèn nhát, thất hứa, thiếu tình người của một cán bộ mà nay đang giữ cương vị Chánh án
- hàng ngày cầm cân nảy mực, phán xét con người trong khi bản thân không đủ tư
cách làm người. Khi phiên tòa xét xử đã kết luận, kết án xong xuôi, ông mới chết
lặng đi khi nhận ra chính mình đã đang tâm làm điều ác với chính người vợ năm xưa và đứa con trai ruột thịt. Mai là một người phụ nữ cả tin, yêu bằng tất cả tấm
lòng chân thành với “anh” khi hai người cùng sống trên Tây Nguyên bên dòng suối
Ea Yong những ngày giặc giã. Họ đã có với nhau đứa con trai xinh đẹp, khoẻ mạnh,
phổng phao, “giống anh y hệt”. Mai đã rất tin tưởng khi “anh” nói: “Anh sẽ cố xin
cho em về hợp pháp thôi. Định kỳ này báo cáo tổ chức chuyện của tụi mình. Nhưng
anh Chín có lệnh tăng cường về khu, anh được tạm thay ảnh, tình hình vầy làm sao
nói chuyện cưới xin được. Không thể để con tụi mình sinh ra trong cảnh chạy càn, bom đạn, mưa gió thế này được đâu. Đừng có lo! Em cứ tạm về quê với má, anh sẽ
giữ liên lạc với em. Sắp hoà bình rồi, chúng mình sẽ sống bên nhau”. Thế nhưng
chị đã phải một mình cùng con trải qua bao khó khăn, vừa kiếm tìm “anh” vừa tự
bươn trải kiếm sống. Có lúc con thương mẹ quá, “theo bạn đi móc cua, móc rắn,
kiếm đồ ăn phụ má” bị rắn cắn tưởng mất đi tính mạng. Dù vậy, “trong tâm tưởng hai
má con, anh cao lớn, đầy lòng yêu thương và dũng cảm vô song, đang ngày đêm xả
thân cho hạnh phúc của đất nước và của cả hai mẹ con họ. Sự cực khổ ở nhà đâu có
thấm tháp gì so với cha”. Chị đâu có ngờ, “anh” đã quên mẹ con chị. Giờ “anh” là
ông Chủ toạ phiên toà, chủ nhân của “toà biệt thự đá đỏ bóng láng”, nơi cả chục lần
chị ngồi chầu trước cửa hàng buổi để mong được gặp, để cầu xin “anh” cứu lấy đứa
con của chị. Đứa con ấy trót phạm tội đánh trọng thương con trai “anh” chỉ vì con “anh” chửi nó là “đồ con hoang không cha”. Chính “anh” đã xử nó năm năm tù vì nó
“không có cha”, “mẹ buôn bán rong kiếm sống” và “y thiếu hụt nghiêm trọng sự giáo
dục thường xuyên của gia đình” (Điều ông ấy không tính đến) [6]. Ai đã cho nó một
gia đình như thế? Một “phẩm chất” như thế? Nhà văn không cất lên câu hỏi nhưng câu trả lời đã xoáy tận tâm can.
Một thực tế nữa không thể trốn chạy, một nguyên nhân thường thấy dẫn tới sự tha hóa nhân cách con người được các thế hệ nhà văn đề cập đến từ xưa đến nay
là sức mạnh của đồng tiền. Nền kinh tế thị trường với những đổi thay chóng mặt,
ảnh hưởng sâu sắc tới nhận thức con người. Thói hám tiền, vì tiền có thể làm tất cả cũng là một hiện thực trăn trở của nhà văn khi viết về nhân cách con người. Đối với
người Tây Nguyên, con Voi được coi là con vật quý, là người bạn thân thiết, và khi
được thuần hóa, nó trở thành một thành viên trong gia đình. Từ khi Y Nang (ông
65
của Y Thơm) còn là một chú bé, voi Trut đã là một thành viên gắn bó với gia đình. Bây giờ, voi Trut đã quá già, lại ngày đêm thương nhớ rừng xa, khát khao muốn
sống cùng vợ mà nó yêu thương. Nhưng tất cả đều không thể thực hiện được. Vì
tiền, cháu của Nang đã không thương tiếc bóc lột sức lao động cùng kiệt của voi: “Y
Thơm, cháu của Nang là một đứa tham tiền đến kì quặc. Nó làm nài mà ngồi lên cổ voi nào là không hề tiếc dùng uy lực của kreo để trấn áp voi đó. Nó chỉ biết làm sao
một ngày chở được càng nhiều đoàn khách càng tốt. Nhiều ngày Trut mệt. Ôi ! tính
theo cách của con người thì gần một trăm mùa rẫy trôi qua trên cái đầu Trut rồi
còn gì nữa. Sức cũng đã cạn. Nhưng vì miếng cơm của nhà Âe Thơm nên Trut vẫn
cố gắng lắm… Gần đây, có mấy gã đàn ông mặt mũi khó coi quá, đến hỏi thuê hết
cả đàn voi của buôn để đêm đi kéo gỗ trong rừng về. Âe Thơm không đồng ý, nói
“Trut già bằng nhau với ông rồi, ban đêm để cho nó nghỉ ngơi”. Nhưng thằng Y Thơm đâu có nghe, nó còn mắng “ông già rồi, biết gì. Để cháu kiếm tiền mua xe
máy chở mấy đứa con gái chớ”. Nói đến tiền là mắt nó sáng quắc lên như lửa vậy
đó” (Bóng chiều bảng lảng) [12, tr.12-13].
Trong truyện Hoa Bó khiu, nhân vật Nhan là một người con gái Thái dịu
dàng, đảm đang, có trách nhiệm. Nhưng cũng vì nhẹ dạ cả tin nên cô đem lòng yêu
và dâng hiến hết mình cho chàng sinh viên Hà Nội. Mười chín tuổi đầu đã một mình
ẵm bế con thơ. Hoàn cảnh đưa đẩy, dù có xinh đẹp nhưng không ai hỏi cưới, cô
đành theo về làm vợ một người lái xe. Sống trong no đủ và sung sướng, Nhan dần
quen rồi theo chồng cải trang qua biên giới buôn hàng lậu. Sau một thời gian phất
lên nhanh chóng, chồng Nhan bị công an bắt, bị kết án tử hình, của nả bị tịch thu vì
có liên quan đến đường dây buôn bán ma túy xuyên quốc gia. Nhan gắng gượng một mình làm lại từ đầu nuôi các con nhưng không tự làm ăn chân chính mà quay lại biên
giới buôn hàng cấm. Cuối cùng, chỉ một năm sau ngày chồng thi hành án tử hình,
Nhan cũng tra tay vào còng số 8 ngay tại cửa khẩu (Hoa bó khiu) [14, tr.61].
Có thể nói, đứng trước sự tha hóa, biến chất của con người trong thời kì hiện đại, nhà văn Linh Nga Niê Kdam bộc lộ nỗi niềm chua xót, buồn đau. Xung quanh những vấn đề tha hóa, biến chất đó, nhà văn còn đề cập đến rất nhiều vấn đề khác liên quan như: văn hóa, giáo dục, môi trường sống, cách hành xử giữa con
người với con người…và cái cuối cùng lắng lại dưới mỗi trang văn của chị vẫn là
thân phận con người. Nhà văn đã thấu hiểu, chia sẻ được cùng dân tộc mình nỗi thống khổ của phận người. Nhà văn cũng nhận thấy: cái tốt, cái đẹp trong đời sống
ở vùng cao nguyên Tây Nguyên còn nhiều nhưng cái xấu, cái ác vẫn đang hiện hữu
nơi đây. Cuộc đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác trong xã hội hay trong từng con
66
người là cuộc đấu tranh cam go, gian khổ và không thể một sớm một chiều có thể giải quyết. Viết về cái xấu, cái ác với một thái độ phê phán, chứng tỏ nhà văn
không hề dửng dưng với nó. Qua mỗi hiện tượng, qua mỗi số phận con người
trong sáng tác của mình, nhà văn đều thể hiện được tinh thần trách nhiệm của chị
với cuộc đời, với cộng đồng dân tộc Tây Nguyên yêu dấu. Đứng trên phương diện nghệ thuật, ngòi bút Linh Nga Niê Kdam thực sự đã đổi mới, có tính đương
đại rõ rệt khi hiện thực cuộc sống được tác giả quan sát, chiêm nghiệm và thể
hiện một cách đa chiều, nhiều góc khuất đã được soi chiếu một cách chân thực
và khách quan.
2.2.3. Sự phai nhạt bản sắc văn hoá, sự tổn thương môi trường sinh thái
Tây Nguyên
Nhà văn Linh Nga Niê Kdam là một trí thức say mê nghiên cứu, sưu tầm văn hóa nghệ thuật các dân tộc. Chị cũng là một người nghệ sĩ có điều kiện được đi nhiều
nơi nên chị có vốn kiến thức thực tế phong phú, rất am hiểu môi trường sống của người
dân nơi đại ngàn cao nguyên và rất tự hào, trân trọng những nét đẹp truyền thống của
bản sắc văn hóa các dân tộc Tây Nguyên; thiết tha mong mỏi những giá trị văn hóa quý
báu trên quê hương có thể được bảo tồn cho con cháu muôn đời sau. Hơn ai hết, với sự
lo lắng, bất an tận đáy tâm hồn và sâu thẳm trái tim, chị đã nhận ra sự phai nhạt, sự mai
một của bản sắc văn hóa truyền thống cũng như sự tổn thương môi trường sống, môi
trường tự nhiên của cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên trong thời kì hiện đại và hội
nhập quốc tế với cơ chế thị trường đầy linh hoạt, khốc liệt, tàn bạo. Điều này đã trở
thành mối quan tâm lớn nhất của chị, trở thành một chủ đề lớn trong các tác phẩm
truyện ngắn và bút ký của chị.
Tha thiết yêu quê hương, nhà văn tha thiết yêu những tiếng hát, lời ca, điệu
múa, yêu tiếng cồng chiêng, yêu những trang phục thổ cẩm, những mái nhà Rông, nhà
tranh rủ dài sát đất…; yêu những phong tục tập quán với những lễ hội rộn ràng, yêu lối
sống, lối ứng xử đậm nét văn hóa cao nguyên. Càng yêu thương, nâng niu, trân trọng những giá trị văn hóa cổ truyền, nhà văn càng ngỡ ngàng, xót xa, đau đớn trước sự phai nhạt, sự mai một của nó trong cuộc sống hôm nay. Chị đã từng khẳng định: “Nghệ thuật Tây Nguyên không chỉ là niềm vui trong sinh hoạt của cả cộng đồng dân tộc, mà
còn làm say đắm bao nhiêu văn nghệ sĩ, bạn bè Tây Nguyên” và: “Mỗi một lần trở lại
Tây Nguyên, lại thấy như được về với cội nguồn. Sống trong không khí lễ hội này, tôi thấy mình như tràn đầy sức sống, muốn sáng tác, muốn hòa vào trong vòng xoang, bên
ché rượu để say cùng mọi người” (Diệu kỳ Pleiku) [8, tr.84]… Vì vậy, khi thấy nền
văn hóa cổ truyền của dân tộc đang dần bị phai nhạt, bị lãng quên, bị biến tướng hoặc
67
bị thương mại hóa, nhà văn buồn bã với những dự cảm chẳng lành: “Ngày nay, người Tây Nguyên được khuyến khích chuyển đổi từ quản canh cây lúa rẫy sang chuyên canh
lúa nước và thâm canh cây công nghiệp. Phương thức sản xuất thay đổi, văn minh
công nghiệp ùa vào Tây Nguyên không có sự chọn lọc, môi trường diễn xướng của văn
hoá dân tộc không còn “đất” tồn tại. Thêm vào đó là sự áp đặt, sự hướng dẫn khiên cưỡng, bỏ qua các tập tục văn hoá (ví như tổ chức lễ hội vào giữa lúc mùa màng đang
rộ vụ thu hoạch, hay chuyện mang dàn chiêng ra đánh bên suối nước để quay phim,
hay việc phản đối lễ đâm trâu…) đã góp nhau khiến cho nền văn hoá cồng chiêng có
nguy cơ lụi tàn” (Lời chiêng Tây Nguyên) [8, tr.62].
Các lễ hội ở Tây Nguyên là một nét đẹp văn hóa rất đặc biệt: “Mỗi lễ hội là
một dịp con người sống hết mình với nhau, với thiên nhiên. Mối liên kết ràng buộc
bắt nguồn từ đó”(Đi tìm hồn chiêng) [8, tr.15]. Theo chị, lễ hội là: “sản phẩm của nền văn minh nương rẫy, các lễ hội Tây Nguyên gắn với nông lịch, với đời sống và
tâm linh con người, như rừng cây, con suối, núi đồi hữu hình, cùng nắng, gió và
những âm thanh vô hình của dàn chiêng, điệu hát, tiếng đàn, tạo nên bức tranh
hùng vĩ của một diện mạo văn hoá Tây Nguyên” (Diệu kỳ Pleiku) [8, tr.78] nhưng
trong thời kỳ hiện đại, chị xót xa nhận thấy: “Đã có một thời, sự chuyển đổi của
phương thức sản xuất từ luân canh sang thâm canh, sự khắc nghiệt của cơ chế thị
trường, cả bởi sự thay đổi tín ngưỡng, lẫn thiếu hiểu biết, mà nhiều lễ hội Tây
Nguyên gần như tàn lụi” (Diệu kỳ Pleiku) [8, tr.78]. Vậy, nếu không còn lễ hội thì
những tiếng chiêng, nhịp trống, điệu múa, vòng xoang, câu hát giao duyên đối đáp,
những điệu hát eirei, hát k’ưt, những điệu kachoi, tulêu, những tiếng kèn đinh năm,
tiếng sáo đinh buốt với những chuyện klei k’han… biết biểu diễn vào những dịp nào? Nếu lớp lớp cháu con người dân tộc Tây Nguyên không còn yêu nền văn hóa
truyền thống của ông bà tổ tiên nữa, cũng không có ý thức bảo tồn văn hóa dân tộc
nữa thì bao vốn quý về văn hóa, nghệ thuật đặc sắc kia biết truyền dạy cho ai? Nỗi
niềm ấy cứ khắc khoải, da diết, cứ vang vọng trên khắp các trang văn của chị: “Già K’Ngân ở Đăk Nông đã bước sang mùa thứ tám ba, chưa biết trao cây đàn PRlet có tiếng ngân da diết vào bàn tay nào? Lớp người hơn bốn mươi mùa bẻ bắp có ai còn biết kể khan, kể hmon đâu để già A Tung Vesh truyền dạy bài “khóc trâu” Katu khi
ông năm nay đã bảy nhăm lần rừng thay lá. Con trai không biết thổi đinh năm. Con
gái không hiểu lời yêu của kanis, nói gì đến biết hòa nhịp đinh tút với các bạn cùng trang lứa. Có phải tại cây đàn Ghita có điệu hay hơn không. PRlet - Ghita! Hai đứa
mày ai có lỗi hơn ai?” (Folklore Tây Nguyên: độc đáo và giàu có - còn chăng?)
[7, tr.42] và: “Cái hay, cái đẹp từ những gì chân chất, nguyên sơ nhất của văn hóa
68
dân gian ai cũng cảm nhận thấy. Thế mà có một thời chúng ta đã lãng quên. Hàng trăm các nghệ nhân theo thời gian lặng lẽ nằm xuống. Hàng trăm nghề truyền
thống lụi tàn, hàng trăm cổ vật như có cánh bay. Hàng trăm công trình sưu tầm,
công sức và tâm huyết của bao người bị mối xông thành đất. Ở một số vùng Tây
Nguyên hiện nay còn sắp mất hết cả những nét đặc trưng độc đáo nhất của văn hóa dân tộc. Tục uống rượu không còn vì những chiếc ché cổ ba bốn đời của ông bà
cũng bị đập vỡ. Chiêng Giarai, Êđê, Barna chảy thành máu trong các lò nấu đồng”
(Folklore Tây Nguyên: độc đáo và giàu có - còn chăng?) [7, tr.39]…
Nhà văn đau xót, tiếc thương và dự cảm: sẽ có một ngày những nét đẹp văn
hóa đó mất đi không bao giờ trở lại nếu không biết giữ gìn, bảo vệ nó trước sự tấn
công mãnh liệt của nền văn minh đô thị, của cơ chế thị trường. Bên cạnh đó, chị
cũng đã chỉ ra một vấn đề khá nhạy cảm đó là việc thay đổi tín ngưỡng đối với đồng
bào DTTS Tây Nguyên: “Ở những vùng theo đạo Thiên Chúa, bà con không còn
uống rượu cần, đánh chiêng” (Đi tìm hồn chiêng) [8, tr.13]; “Có vùng, người
dân tộc mới cải đạo, lễ vật tặng cho nhà thờ được coi là có giá trị nhất, đó là
chiếc chiêng đồng. Thậm chí có nơi, Cha xứ mua hẳn bộ chiêng về trưng bày
trong nhà thờ. Nhưng chính ở các vùng kinh tế phát triển, đặc biệt là những
vùng chuyên canh cà phê, thì lễ hội cổ truyền cũng hầu như vắng bóng. Nơi nào
có nhiều bà con theo đạo Tin Lành, lại càng khó tìm thấy bóng dáng văn hoá
dân tộc” (Mất - còn của văn hoá dân gian Tây Nguyên và vấn đề đào tạo đội
ngũ cán bộ văn hoá - tác giả người dân tộc tây Nguyên) [7, tr.238]. Chính vì sự
thay đổi và thiếu hiểu biết đó, những chiếc chiêng quý, trước đây là “tiếng nói
tâm linh của dân tộc”, “Những tiếng chiêng như có hồn, có lời thương lời nhớ,
lời mời gọi. Không chỉ những đứa con xa bến nước trở về, mà còn cả bè bạn,
anh em gần xa” (Lời chiêng Tây Nguyên) [8, tr.55] nay phải chịu số phận thật
hẩm hiu. Chị đã kể lại 2 câu chuyện khiến chị rất đau lòng. Câu chuyện thứ
nhất: “Mấy năm trước nhà mình có bộ chiêng đâu rồi ama Toan?/ Bán rồi, mua
gạo ăn./ Hồi xưa ông bà đổi trâu bò mới có được bộ chiêng Lào hay vậy. Sao
bây giờ lại bán?/ Bán trâu bò còn mua được tôn lợp nhà. Bây giờ không ai đem
đổi chiêng đâu./ Người kinh, người nước ngoài còn thích nghe chiêng, sao mình
lại không nghe?/ Hồi trước đánh chiêng là để gọi Giàng. Nhưng không có Giàng
đâu, chỉ có Chúa thôi”. Câu chuyện thứ hai: “Chị mua chiêng hả? Em đưa đi,
có hàng trăm chiếc, tha hồ lựa./ Ở đâu nhiều vậy?/ Đầu mối gom phế liệu mà…”
(Folklore Tây Nguyên: độc đáo và giàu có - còn chăng?) [7, tr.40].
69
Lễ hội không còn, chiêng quý không còn thì những chiếc ché amí từng ủ
rượu cần thơm men lá rừng đắng ngọt: “chỉ đủ làm nghiêng ngả để thấy người và
cảnh mỗi lúc một đẹp hơn” có còn không? Nhà văn viết: “Ở những bon xa của các
xã Thuận An, Đắc Mâm, Đắc Găn… tôi đã thấy những chiếc ché Yang Sung, Yang
Rlung… xưa kia phải đổi bằng cả mấy con trâu, nay bị vứt bỏ không thương tiếc
ngoài vườn, mặc cho mưa gội nắng thiêu. Thậm chí cũng chẳng được dùng để đựng
nước nữa” (Đi tìm hồn chiêng) [8, tr.14].
Cùng với việc “bán chiêng, đập ché đang phát triển thành một nạn dịch”, sự
xâm chiếm của văn minh đô thị với những đồ điện tử ùa vào buôn làng đã góp phần
làm cho nền văn hóa truyền thống bị lãng quên hoặc bị phai nhạt nhanh chóng. Những
điều tác giả tận mắt trông thấy ở các buôn làng khiến chị không biết nên buồn hay nên
vui: “Nhà gạch, nhà biệt thự hai ba tầng thay thế nhà dài Êđê. Nhà sàn Êđê xuất hiện
ở hầu hết các vùng Mnông. Nhà tường trình bằng bùn và rơm của trung du Bắc Bộ
hiện diện trong vùng Rngao … Nhiều nơi bà con bán vườn, bán đất cố làm cho được
căn nhà ván một gian hai chái kiểu Nghệ Tĩnh … Bây giờ thì khó mà tìm được đâu đó
một nhà Rông tre nứa, hay căn nhà dài Êđê, hoặc một mái tranh nhà vòm Mnông cổ
xưa. Mất mát và biến dạng tất cả rồi” (Đi tìm hồn chiêng) [8, tr.14]. Chỉ một đêm ở
lại Nam Nung, nhà văn cũng đủ giật mình nhận ra sự thay đổi đến khốc liệt:
“Chúng tôi lang thang đi tìm những nhà vòm mái tranh rủ sát đất, kiến trúc cổ xưa
của nhà Mnông. Nhưng hiếm lắm! Lác đác đâu đó chỉ còn những cái khung nhà, trơ
ra như bộ xương khô rùng mình trong nắng gió” (Đêm Nam Nung) [8, tr.89]. Nhà
văn xa xót: “Bạn cũng chẳng tìm đâu thấy những tượng nhà mồ biết khóc, biết
cười, biết trêu ghẹo, nhờ bàn tay tài hoa xoay chiếc xà gạc nhỏ tạo nên. Bởi chỉ còn
những nghĩa địa chắc chắn, xây bằng xi măng, với cây thánh giá đọ sức cùng nắng
gió” (Folklore Tây Nguyên: độc đáo và giàu có - còn chăng?) [7, tr.4 2].
Còn đối với các nghề thủ công truyền thống - niềm tự hào của các dân tộc
Tây Nguyên rồi sẽ đến lúc: “Nghề dệt cổ truyền ở Tây Nguyên đang mất đi theo sự
thu hẹp của những cánh rừng đại ngàn, theo lớp lớp những bao cà phê chất chồng
góc những căn nhà kiểu biệt thự, thay thế nhà sàn ở mọi vùng cao nguyên. Đời sống
kinh tế càng phát triển, nhu cầu xài đồ “xịn” cũng tăng lên. Các chủng loại vải vừa
đa dạng, vừa hợp thời trang, hợp túi tiền, đẩy thổ cẩm dệt tay tốn công sức, mất
thời gian, thô ráp lùi dần vào quá khứ. Trang phục dân tộc, may lắm, sẽ còn trong
70
những lễ hội. Mà lễ hội có còn không, khi sản xuất không còn phụ thuộc vào quyền
lực của các Yang? Cả đến tín ngưỡng cũng đã đổi thay” (Đi về đâu hỡi… thổ cẩm
Tây Nguyên) [7, tr.30]. Cũng chính vì thế mà dẫn đến sự trớ trêu, sự khôi hài khi:
“Ở liên hoan Văn hóa cồng chiêng và đua voi Tây Nguyên tổ chức tại Buôn Ma
Thuột tháng 3 năm 1994, khi ban tổ chức ra quyết định dân tộc nào phải mặc đúng
trang phục dân tộc ấy thì đoàn Răk Lay (Khánh Hoà) không có trang phục dân tộc,
bởi cả những người già đếm số mùa rẫy như cây trong rừng, cũng không còn nhớ
nổi trang phục cổ truyền của mình hình dạng ra sao? Màu sắc thế nào? Nhóm dân
tộc Brâu (Kon Tum), đến liên hoan với trang phục là những chiếc… bao tải gạo
loại 50kg”; “Lễ bỏ mả của một dòng họ lớn người Êđê, họ Niêkdam và Êban, tại
buôn Sut (Cư Mgar - Đăk Lăk), tháng 11 năm 1994 nghe nói có khách xa đến dự,
con rể lớn phải đi 11km mới mượn được bảy bộ áo khố nguyên gốc mặc trong lễ”
(Đi về đâu hỡi… thổ cẩm Tây Nguyên tr.28) [7, tr.28].
Chứng kiến những cảnh ấy, chị đau đáu một niềm khắc khoải: “Nhà dài “như
một tiếng chiêng” hết rồi, còn chỗ nào để đặt chiếc kpan hình con thuyền độc mộc?
Những tộc người có hàng chục bản trường ca như sử thi, bộ luật tục thành văn, bộ gia
phả văn vần… mà con cháu lớn lên mù chính chữ mẹ đẻ cha sinh. Làm gì để bảo tồn và
phát triển truyền thống văn hóa tồn tại trong dân gian từ bao đời nay vẫn đang luôn bị
đặt trước nguy cơ tàn lụi?” (Folklore Tây Nguyên: độc đáo và giàu có - còn chăng?)
[7, tr.42]. Từng lời văn H’Linh Niê viết ra như ứa máu, xoáy sâu vào lòng độc giả
những câu hỏi cháy lòng. Chị buộc chúng ta phải nhìn nhận lại, phải có ý thức trách
nhiệm với cộng đồng, với văn hóa dân tộc không phải riêng trên quê hương chị mà ở
khắp mọi miền của Tổ quốc. Bên cạnh đó, chị còn đanh thép tố cáo bộ mặt giả dối,
phản lại Tổ quốc, phản lại đồng bào Tây Nguyên của ông Ksor Kơk - đứa con lạc loài,
từng chối bỏ dân tộc nay lại trở về kích động nhân dân làm điều xấu, phá hoại khối đại
đoàn kết, phá hoại nền văn hóa truyền thống của các cộng đồng dân tộc Tây Nguyên:
“Một đứa con bỏ amí già và quê hương không ngó ngàng gì đến, đi biệt xứ 40 năm
nay như ông, một người khuyến khích toàn thể cộng đồng mình từ bỏ truyền thống văn
hóa của ông bà ta xưa - kẻ vi phạm luật tục - Tơlơi bhian của dân tộc Jrai - có quyền
gì ? Nhân danh ai mà dám gây nên những xáo trộn trong đời sống buôn sang, đòi hỏi
quyền lợi cho người dân tộc thiểu số Tây Nguyên (trong đó có cả mẹ và các em ông)
chứ ? (Nhân danh ai ?) [11, tr.18].
71
Cũng từ những nỗi niềm tiếc nuối, xót xa, chị khẩn thiết kêu gọi, nhắn nhủ mọi
người dân Tây Nguyên hãy giữ lấy linh hồn dân tộc, hãy giữ lấy bản sắc dân tộc, quyết
không theo kẻ xấu mà xóa bỏ, chà đạp lên bản sắc văn hóa quê hương: “Ơ này những
ama, ami, ayong, amai, adei mình ơi. Cái ché chỉ là vật dụng trong nhà, chứ đâu có tội
gì để mà vứt bỏ nó? Hơn nữa, rượu cần của Tây Nguyên, cũng như bộ chiêng, không
chỉ là đặc sản, là một nhạc cụ độc đáo, được bạn bè trong và ngoài nước yêu thích, mà
còn là chính mình, của riêng mình, khác với người anh em miền xuôi là ở đó. Ngay cả
những “Klei khan - H’amon - Ot n’trông” cũng chỉ mới thấy người miền núi chúng ta
có. Sao không tự hào về điều ấy? Một dân tộc sẽ tự đánh mất chính mình khi đem vùi
chôn văn hoá cổ truyền đó. Lẽ nào chúng ta cam chịu để mất mình ư?” (Đi tìm hồn
chiêng) [8, tr.19]; “Thôi nhé, xa rồi cái thuở, tiếng hát của những dàn chiêng biến
thành tiếng khóc, khi bị hoá thành đồng nát, những chiếc ché cổ trị giá ngang vài chục
con trâu bị đập vỡ tan tành giữa rừng. Dù có theo đức tin nào, tôn thờ Thánh thần nào,
thì những gì đẹp nhất, hay nhất của cha ông ta gửi lại, cũng phải giữ gìn lấy. Không
chỉ cho chúng ta hôm nay, mà cho cả cháu con mai sau và mãi mãi. Có phải vậy không
ơi ama, amí, ayong, adơi? (Diệu kỳ Pleiku) [8, tr.85].
Các sáng tác văn xuôi của Linh Nga Niê Kdam không chỉ thể hiện những dự
cảm về sự mất mát, phai nhạt của bản sắc văn hóa quê hương mà còn thể hiện nỗi
niềm đau đớn, xót xa về sự tổn thương nghiêm trọng của môi trường sống, môi
trường thiên nhiên ở vùng cao Tây Nguyên này. Trong nhiều tác phẩm truyện - ký
của mình, chị đã đề cập đến vấn đề này một cách đầy tâm huyết. Chị nhấn mạnh:
môi trường thiên nhiên bị tàn phá, xâm hại, điều đó ảnh hưởng không nhỏ tới đời
sống con người và tác động xấu đến việc bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc. Môi
trường thiên thiên bị tổn thương, bị xâm hại nặng nề, các giá trị văn hóa truyền
thống không có không gian để tồn tại. Không còn núi rừng, nhà sàn dài Êđê, nhà
tranh mái lợp rủ dài sát đất có còn không? Không còn núi rừng, âm thanh cồng
chiêng vang vọng làm sao? Không còn núi rừng, lấy đâu bông cây Blang dệt tấm áo
thổ cẩm năm xưa? Còn đâu lễ hội, điệu múa, vòng xoang? Còn đâu những ngọn núi
để trai gái buôn làng hò hẹn, thổi sáo, thổi kèn? Còn đâu những con suối nước chảy
róc rách, ngân nga, khi chiều về nâng tấm váy dài em tắm? … Môi trường vùng cao
đang bị hủy hoại, đang bị làm biến dạng bởi sự khai thác tới mức tận diệt của con
người: “Đêm, mang cưa ra cưa cho gần đứt gốc, rồi để nguyên đó. Sáng ra, chỉ cần
một cơn gió mùa khô là cây đổ hàng loạt ngay trước mắt kiểm lâm. Nào có bắt
được ai là kẻ phá rừng đâu? Nhà cũng làm sẵn cột kèo ở đâu đó, tối chỉ việc hè
72
nhau dựng lên. Sáng ra đã có căn nhà khang trang sừng sững ngay bên đường”;
“Đồng bào di dân tự do ở huyện Krông Nô (Đăk Lăk) còn dặn nhau: “Rừng lộn
xộn cứ chặt tự nhiên, rừng có hàng chớ chặt (?)” chớ dọc hai bên quốc lộ 14, người
ta chặt ráo cả rừng có hàng (rừng trồng mới)” (Du xuân Tây Nguyên) [7, tr.64].
Trước đây, “Thuở rừng già còn bao bọc lấy cư dân Tây Nguyên, đàn voi là
một trong những biểu tượng cho sự giàu có của các tù trưởng oai phong lẫy lừng,
là phương tiện di chuyển cao cấp nhất từ cánh rừng này sang khu rừng khác cho dù
xa hay gần”. Nghề săn bắt, thuần dưỡng voi với đủ những phép tắc chuẩn mực đã
được nâng lên thành tầm văn hoá tâm linh: voi “sau khi được bắt từ rừng về, thuần
dưỡng xong, chủ nhà phải làm lễ cúng đặt tên cho voi. Từ đây, voi chính thức được
coi như một thành viên trong gia đình. Hàng năm phải có lễ cúng sức khỏe cho voi,
đối đãi như với người cao tuổi trong nhà”. Voi buôn Đôn dũng cảm, oai hùng, một
thời cùng con người bảo vệ đất nước đã trở thành “thương hiệu” của non ngàn Tây
Nguyên. Nhưng ngày nay, “rừng đều do các lâm trường chia khu vực quản lý hết,
quanh buôn Đôn là thuộc địa phận Vuờn Quốc gia Jook Đôn, chỗ thì bị lâm tặc và dân
di cư tự do chặt phá tan hoang, nguồn thức ăn tự kiếm của voi ngày một cạn kiệt”. Vì
thế, Voi không thể tự kiếm ăn trong môi trường thiên nhiên hoang dã, lại luôn luôn bị
kẻ xấu rình rập, cố tình bắn chết để lấy ngà. Số phận voi đi vào bế tắc khi không còn
rừng, cũng không còn cần thiết trong việc phục vụ nhu cầu đời sống của con người khi
các phương tiện di chuyển hiện đại xuất hiện, voi bỗng dưng thành thừa nếu không
tham gia dịch vụ du lịch. Giờ đây, “Voi ở quanh các khu du lịch Buôn Đôn, Hồ Lăk …
bị đem ra khai thác triệt để, không mấy khi được nghỉ ngơi”; ngày thì voi đưa khách lội
qua sông du lịch, “đêm xuống, những kẻ chuyên nghề phá rừng lại nghĩ ra chiêu tận
dụng đàn voi để kéo gỗ từ rừng sâu đến nơi tập kết, thay cho xe kéo dễ bị kiểm lâm
phát hiện”. “Những chú voi thì vẫn nhẫn nại đón đưa khách, âm thầm kéo gỗ lậu và
ngóng đợi tiếng tù và âm vang giữa đại ngàn của nài mỗi tháng ba về”. Thậm chí vào
mùa, voi cũng có nỗi nhớ và khát khao bạn tình nhưng không bao giờ được chú ý đến.
Rừng đã lùi xa, ngay cả nghề săn bắt, thuần dưỡng voi đầy kiêu hãnh của những Bặc
Xay (danh hiệu của người săn bắt được từ 5 voi trở lên), Bặc Gru (danh hiệu của người
săn bắt được từ 15 voi trở lên) của một vùng có bề dày văn hóa truyền thống cũng vì
môi trường bị tàn phá mà mai một dần và mất hẳn: những Bặc Xay, Bặc Gru “oai
phong lừng lẫy như cây đại thụ thuở nào, nay ngày ngày quanh quẩn trong Vườn quốc
gia cho du khách chiêm ngưỡng và trò chuyện, như một trong những … hiện vật trưng
bày” (Hợp tác xã voi … sao không?) [11, tr.145].
73
Những vấn đề nhà văn Linh Nga Niê Kdam viết với niềm tiếc thương, xa xót
ấy khiến chúng ta nhận ra niềm khát khao đau đáu của chị - người con của Tây
Nguyên, nhà văn hóa Tây Nguyên - về việc gìn giữ, bảo vệ “nguồn di sản” tinh thần
quý giá đó: “Mong sao những phong tục đẹp, những nét độc đáo của văn hóa cổ
truyền được bảo tồn, phát huy và truyền lại cho con cháu muôn đời sau, cho tiếng
chiêng Tây Nguyên mãi mãi bay cao, bay xa trong xanh cao thăm thẳm của bầu trời
cao nguyên bao la” (Lời chiêng Tây Nguyên) [8, tr.62].
Tiểu kết chương 2
Qua việc khảo sát những nội dung chính trong các sáng tác văn xuôi của
Linh Nga Niê Kdam, chúng tôi nhận thấy: nhà văn đã tập trung ngòi bút để thể hiện
tình yêu, lòng tự hào về vùng đất Tây Nguyên hùng vĩ, tươi đẹp và những phong tục
tập quán đậm đà bản sắc văn hóa cao nguyên; về những con người Tây Nguyên
khỏe khoắn, dũng cảm, tài hoa, luôn chung vai sát cánh bên nhau để xây dựng bản
làng với niềm khao khát khao đổi thay cuộc sống ngày càng no ấm, tốt đẹp hơn.
Bên cạnh đó, những tác phẩm của chị cũng đã chú ý đến việc phản ánh một cách
chân thực, cụ thể về những khó khăn thách thức, những mặt hạn chế, những khoảng
tối, những mặt trái… của cuộc sống vùng cao cùng những băn khoăn, day dứt, xót
xa… trước sự phai nhạt, mất mát, đổi thay về bản sắc văn hóa và sự tổn thương
nghiêm trọng về môi trường thiên nhiên, môi trường sống. Những trang văn của chị
còn bộc lộ nỗi buồn về sự xuống cấp của lối sống, của đạo đức, nhân cách… ở
những con người nơi đây trong thời kì cơ chế thị trường đang tồn tại cả điểm mạnh
và những hạn chế, tiêu cực của nó. Nhà văn đã dũng cảm nhìn thẳng vào hiện thực,
phê phán cái xấu, cái ác một cách nghiêm khắc; từ đó gióng lên một hồi chuông
cảnh báo: hãy giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống đẹp đẽ của
dân tộc, hãy giữ lấy nhân phẩm, đạo đức… của con người; đừng để con người bị tha
hóa, bị biến chất. Tuy số lượng tác phẩm không thật đồ sộ, đôi chỗ trình bày ý
tưởng còn dài dòng, trùng lặp nhưng các trang văn của chị đã đem lại cho người đọc
những hiểu biết sâu sắc, thú vị về mảnh đất, con người, về cuộc sống trên quê
hương chị và đã góp phần tôn vinh những giá trị văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các
dân tộc Tây Nguyên. Đó là những điều thành công đáng ghi nhận của nhà văn Linh
Nga Niê Kdam.
74
Chương 3
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ NGHỆ THUẬT
3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật đậm chất Tây Nguyên
Ngôn ngữ trong tác phẩm văn học là một loại hình ngôn ngữ đặc biệt. Mặc
dù lấy ngôn ngữ nhân dân làm cội nguồn nhưng ngôn ngữ trong tác phẩm văn học
đã được nhà văn chọn lọc, rèn giũa qua lao động nghệ thuật trở thành ngôn ngữ
nghệ thuật. Vì thế, ngôn ngữ nghệ thuật bao giờ cũng có tính hình tượng, tính thẩm
mĩ và thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn. Đồng thời ngôn
ngữ nghệ thuật góp phần bộc lộ giá trị nội dung, làm nổi bật bức tranh hiện thực
cuộc sống của tác phẩm, làm phong thú và nâng cao vốn ngôn ngữ dân tộc. Điểm
đáng chú ý là, ngôn ngữ nghệ thuật của mỗi loại hình nghệ thuật, mỗi tác phẩm văn
học, mỗi nhà văn khác nhau lại chịu sự ảnh hưởng của điều kiện sống, văn hóa vùng
miền bởi các nhà văn thường lấy chính chất liệu ngôn ngữ, cách sử dụng ngôn ngữ,
cách thể hiện của chính dân tộc mình vào sáng tác. Điều đó đã làm nên những màu
sắc riêng biệt, độc đáo, đậm đà bản sắc dân tộc và sức cuốn hút của các tác phẩm
văn học. Như vậy, ngôn ngữ nghệ thuật chính là chiếc cầu nối giữa tác giả với bạn
đọc, ngôn ngữ nghệ thuật còn là phương tiện thể hiện một cách chính xác, hàm súc,
đa nghĩa, tạo hình, biểu cảm hình tượng văn học và bản sắc văn hóa dân tộc.
Nhà văn Linh Nga niê Kdam là một người rất yêu quý, tự hào về nguồn cội,
luôn có ý thức giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc nên chị rất chú trọng đến
cách biểu đạt, cách sử dụng ngôn ngữ và cách tân, sáng tạo ngôn ngữ dân tộc trong
sáng tác của mình để độc giả vừa có thể nắm bắt được nội dung tác phẩm lại vừa có
thể nhận thấy những giá trị văn hóa đẹp đẽ và bản sắc dân tộc không thể trộn lẫn
trong mỗi trang văn. Có thể nói, ngôn ngữ nghệ thuật trong sáng tác của Linh Nga
Niê Kdam là ngôn ngữ nghệ thuật đậm chất Tây Nguyên.
3.1.1. Ngôn ngữ nghệ thuật đậm dấu ấn dân tộc
Trước hết, đọc các tác phẩm của Linh Nga Niê Kdam độc giả đều cảm nhận
rõ về việc nhà văn sử dụng một lớp ngôn ngữ dân tộc đậm đặc nhưng hết sức tự
nhiên, linh hoạt trong sáng tác của mình. Dù các tác phẩm truyện - ký của chị đều
viết bằng tiếng phổ thông nhưng chị đã rất khéo léo đưa ngôn ngữ DTTS Tây
Nguyên vào những lời văn tả, kể. Chị đan xen ngôn ngữ dân tộc vào văn uyển
chuyển đến mức khi tiếp cận tác phẩm, độc giả nghiễm nhiên chấp nhận nó như là
một tất yếu, không cần xem chú thích mà vẫn thấy được cái hay cái đẹp mà nó
75
mang lại. Trong các trang văn xuôi của chị, ta bắt gặp một hệ thống từ vựng bằng
ngôn ngữ dân tộc gắn liền với các tên địa danh, tên núi, tên sông, tên buôn làng, bến
nước, tên hoa lá, chim muông… Đâu đâu trên khắp mọi nẻo đường nhà văn chắp
bút ta đều thấy những cái tên tuy lạ lẫm xa xôi nhưng rồi lại rất đỗi thân thương.
Đây là tên những ngọn núi sớm chiều chìm trong sương trắng: núi Cư Yang Sin,
Lang Biang, Cư H’Lâm, Cư H’Rung, Cư Rbai, Cư Par, Tu M’rông, Cư M’gar, Cư
Suê, Cư Gu, Cư Drăng, Cư Rcăm, Cư Ngọc, Đăk Rế, Đăk Môm…; tên các con suối,
con sông, con thác luôn ầm ào chảy, ca hát giữa rừng già: suối Ea Bha, Ea Pôk, Ea
Nhay, Ea Siăr, Đăk Kar, thác Ia Ly, thác H’Linh, thác Drei Sap… sông Sêrêpôk,
sông Ayun, sông Pa… cùng những bến nước, buôn làng bình yên, thơ mộng: bến
nước Ea Sin, Ea Suop, Ea Pôk, Ea Knăt, Su Man,… buôn Ma Thuột, buôn Đôn,
buôn Nui, Yang Lang, Dliê Ya, Yung, Kó Siêr, Păn Lăn, Hruê, Sa Ra,… bon Pu
Dâp, Pu Sri, Pu Hara…. Còn đây là tên các xã: Đăk Nhoong, Đăk Rva, Đăk Blao,
Ia Puch, A Yun, Ea Bhôk, Ea Khit…; tên các huyện: Vân Canh, Krông Nô, Krông
Pa, Ayun Pa, Krông Ana, Nam Nung, Lawk…; tên các tộc người: Rngao, Xê Đăng,
Êđê, Mnông, Banar, Hrê, Jrai, Mạ, K’ho…; tên các loài cây cối, hoa lá, chim
muông: cây Blang hoa đỏ mùa hè bông trắng mùa đông, cây Knia bóng tròn sừng
sững, cây Xànu vững vàng, cây Cà phê xanh mát, cỏ Kmâo khẳng khiu khô khỏng;
hoa Mnga phí khe khẽ đung đưa, hoa Dã Quỳ rừng rực giữa mùa mưa, hoa Tăng pi
gửi hương cho gió, hoa Êpang trắng, hoa K’truôl fang tím, hoa Mnga Krich mỏng
manh; chim Tlang put, chim Ktrâo, chim Mling, chim Kơtia, chim Mlang ríu rít mỗi
xuân sang; ve Wai jut Wai tê chao chát gọi hè về … Tên tất cả các địa danh, các loài
chim muông, cây cối ấy đều mang dấu ấn Tây Nguyên, gợi liên tưởng về một không
gian núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ, đẹp đẽ, thơ mộng, đầy cuốn hút và kích thích trí
tò mò của người đọc.
Hệ thống từ vựng của ngôn ngữ dân tộc còn được nhà văn sử dụng liên tiếp
khi nhắc đến tên các vị thần, tên người, tên đồ vật, tên các nhạc cụ truyền thống,
cách thức xưng hô cùng các phong tục, tập quán… trong đời sống tinh thần của con
người Tây Nguyên. Các vị thần trong tín ngưỡng người dân Tây Nguyên có mối
quan hệ chặt chẽ với mọi sinh hoạt của cộng đồng dân tộc: nữ thần lúa Yang Hri,
thần gió Yang Kngin, thần nước Yang Ea, thần đất Yang Êlăn, vua lửa Ptao Pui, vua
nước Ptao Ya … Cùng với các vị thần, những con người sống trên cao nguyên đều
có tên riêng rất đẹp, phần lớn cha mẹ đặt tên con theo tên các vị thần. Ta vốn đã rất
quen thuộc với tên những con người đó trong các bộ sử thi đồ sộ của Tây Nguyên.
76
Tên các cô gái giỏi giang, xinh đẹp: HNhi, HBia, H’Sri, H’Nuai, H’Mai, H’Linh,
H’Rinh, H’Rao, H’Ny…; tên các chàng trai mạnh khỏe, bản lĩnh: Đam San, Y Thu,
Y Tam, Y Min, Y Khăm, Y Blum …. Ngay cả con voi đã được thuần hóa, trở thành
người thân trong nhà cũng có tên của mình: Y Trut, Y Thi, Y Dham, HBiăt…. Cách
xưng hô thân mật giữa các thành viên trong gia đình được nhà văn sử dụng để tạo
không khí, nhấn mạnh quan hệ gần gũi, chân thực giữa các nhân vật: Amí (mẹ),
Ama (bố), Aduôn (bà), Amuôn (cháu), Dăm dei (anh em trai của mẹ), Ih (anh, ông)
… Rồi nhà văn còn cung cấp cho ta hiểu biết về cách gọi tên những người giữ các
chức vụ quan trọng trong buôn làng: Mtao (tù trưởng), Khua pin ea (chủ bến nước),
Khua buôn (chủ buôn), Khua yang sang (chủ gia đình), Miâo (thầy cúng), Pô riu
yang (người khấn gọi thần linh), Bặc xay, Bặc Gru (dũng sĩ săn bắt và thuần dưỡng
voi)…; các luật tục ở Tây Nguyên cũng được nhắc tới: Cuê nuê (nối dây), Pơ thi
(bỏ mả)… Tên những con người cụ thể ấy gắn với các vật dụng sinh hoạt, nghi lễ và
các phong tục tập quán làm nên một phong vị cao nguyên đặc biệt của một cộng
đồng giàu bản sắc văn hóa. Để tô đậm màu sắc Tây Nguyên, nhà văn nhắc đến
nhiều lần tên các đồ vật biểu tượng cho văn hóa tộc người : chiếc Jhưng (giường
độc mộc dành cho chủ nhà), Wăng Wit (cuốc nhỏ làm cỏ), apăn, kpin, knuky (chăn,
áo, khố nam), m’yêng (váy dài phụ nữ), cột kmeh (cột chính đầu tiên của nhà dài),
cột gơng klao (cột ngoài nhà mồ)…; tên các ché đựng rượu: ché yang rang, yang
suh, ché tuk, ché tang …; tên các loại nhạc cụ: đàn goong, kèn đinh tăk tar, kèn
đinh năm, đinh buôt cok, đinh tút, tăk tăk …; tên các loại chiêng: chiêng Por raih,
chiêng Kur, chiêng Khok, chiêng Knah, chiêng Char …; tên các lễ hội: Lễ hội ăn
năm uống tháng, Lễ hội Tăm Nghét, Lễ hội đâm trâu, Lễ hội xoay cột cầu mùa, Lễ
ăn cơm mới, Lễ Pơ thi (bỏ mả)…; tên các làn điệu, câu hát dân ca: câu arei, câu
k’ưt munh, câu adoh, adây, điệu ntông, điệu srê, điệu k’ho, điệu múa chim grứ, điệu
múa pah kngan rông yang… Việc Linh Nga Niê Kdam đưa những tên riêng mang
sắc thái dân tộc thiểu số vào văn chương có hiệu quả nhất định. Nó xác lập trước
mắt độc giả một không gian văn hóa đặc biệt ấn tượng, làm nên nét riêng của đời
sống con người Tây Nguyên, tạo nền tảng cho những ý tưởng sáng tạo về đồng tộc
của nhà văn thăng hoa và góp thêm một nét hoa văn đẹp vào tấm thổ cẩm rực rỡ sắc
màu của các dân tộc trên một dải nước non đất Việt.
Giống rất nhiều các nhà văn DTTS khác, Linh Nga Niê Kdam cũng sử dụng
lối viết sóng đôi giữa hai loại ngôn ngữ: ngôn ngữ dân tộc Việt và ngôn ngữ DTTS
Tây Nguyên trong cùng một tác phẩm. Việc đưa ngôn ngữ mẹ đẻ vào tác phẩm của
77
các nhà văn DTTS đều hướng tới hai mục đích: vừa biểu hiện được tính dân tộc,
vừa chuyển tải được ý thức, trách nhiệm giữ gìn, bảo tồn tiếng nói quê hương. Ta
bắt gặp trong nhiều truyện ngắn, nhà văn Linh Nga Niê Kdam thỉnh thoảng xen
nguyên văn ngôn ngữ dân tộc vào lời đối thoại của các nhân vật để khắc họa cá tính
nhân vật và thể hiện đặc điểm riêng trong cách nói của con người nơi đây. Tất cả
các đoạn đan xen ngôn ngữ đó đều được nhà văn thực hiện một cách nhuần nhụy, tự
nhiên, gây ấn tượng. Ví dụ như: kể về tâm trạng của nhân vật Amí Nu lúc chị đang
đấu tranh giành giật sự sống trên giường bệnh vì lo cho chồng và cho con khi mình
phải về “bến nước ông bà”, nhà văn viết: “Chúa ơi! Các Yang ơi! Xin thương lấy lũ
trẻ nít được không? Người nam thiếu người nữ đã khổ lắm, người già đã từng nói:
“Hoă êsei amâo amâo djam, pit mlam amâo mâo mni” (ăn cơm không có canh như
ngủ đêm không có gái) đó sao. Lũ con nít đêm thiếu hơi ấm của mẹ còn khổ hơn nhiều
chồng ngủ không có vợ chứ?” (Ngày chúa đi vắng) [12, tr.19]. Hay, đoạn văn kể về
việc để hoàn thành sứ mệnh khai hóa của Giáo hội Pháp quốc và chiêu nạp được
nhiều con chiên ở vùng cao nguyên trung phần, cha Antonin đã phải tìm hiểu thật
sâu văn hóa bản địa, học tiếng dân tộc để giao tiếp nhằm rút ngắn khoảng cách, tạo
thuận lợi cho việc truyền đạo; vì thế khi nói chuyện với vợ chồng Ama Mlan về
việc trồng cà phê, ông đã sử dụng tiếng dân tộc để gây thiện cảm: “Cây giống trong
vườn ươm của nhà xứ đó rồi. Mấy anh em bảo nhau đào hố đi cho kịp, mưa tới là xuống
giống luôn. Jăk mơh hẹ? (được không?)” (Thung lũng Yang Hruê) [12, tr.139]. Cuộc
trò chuyện của hai người bạn cũ lâu ngày không gặp (một người là lính khố xanh,
một người là y sỹ Đông Dương ở Sài Gòn mới về) bắt đầu từ những lời đối thoại
bằng ngôn ngữ dân tộc rất thân mật: “Y Blum cắt cử và kiểm tra một vòng các điểm
gác xong, đã quá chín giờ tối. Anh vừa tắm rửa ngoài bến nước dành cho đàn ông
về, còn đang vừa bước lên sàn vừa lau tóc, thì nghe có tiếng ai đó gọi: Ơ Y Blum!
Wit ka (về chưa)? / Ơh! Kâo wit leh. Hlei iêo? (Tôi về rồi. Ai đó?) / Kâo (Tôi)! Y
Ngun!” (Con đường đã chọn) [12, tr.180]. Y Tlang là đứa con lưu lạc phải rời xa
bến nước buôn sang từ khi còn tấm bé, nay mới từ Pháp trở về tìm lại cội nguồn.
Anh và cô bạn trẻ HZen đã tìm hoài nhiều ngày mà không thấy, hôm nay may mắn
họ gặp được một người già bản địa cùng buôn xưa. Để tạo sự gần gũi thân thiết
tiện cho việc hỏi thăm, HZen đã thay YTlang bắt chuyện với ông già bằng tiếng
dân tộc: “Ti ih nao ? (Ông đi đâu vậy? (…) Ti anôk buôn? (Ông ở buôn nào?)”.
Còn ông già khi kể về hoàn cảnh của Y Lang lúc thơ bé đã thốt lên đau xót: “Păp
mnãi cái thằng! (Tội nghiệp cái thằng!)” (Tìm về bến nước) [6, tr.51]. Trong lời tỏ
78
tình vội vàng của Y Kơi với cô gái xinh đẹp HDung trên đường đi bẻ bắp trước khi
hắn muốn thực hiện ý đồ chiếm đoạt, tác giả đã đan cài ngôn ngữ dân tộc vào lời
nói của Y Kơi để làm tăng thêm sự khẩn khoản của nhân vật: “HDung ơi! Dung ơi!
Kao khăp adei! Kao khăp … (Tôi yêu em)” (Gió vẫn thổi từ rừng) [6, tr.65]. Diễn
tả niềm vui hồn nhiên, nhí nhảnh của H’Lâm khi người yêu của cô đã đến, tác giả
lồng ngôn ngữ dân tộc vào cả tiếng chim hót: “Tiếng chim mlinh nheo nhéo “Ti nao
mrâo wit, Ti nao mrâo wit?” (Đi đâu mới về?) báo tin sự có mặt của Y Nhay. Con
chim lúc nào cũng kè kè đậu trên vai anh, mắt chưa nhìn thấy người tai đã nghe
thấy tiếng chim hót. H’Lâm ngước mắt lên vui vẻ nhành miệng ra nhại giọng chim:
“Ih đi đâu mới về”…” (Chiếc bầu nước của HLâm) [9, tr.189]. Sử dụng lối viết
sóng đôi hai loại ngôn ngữ trong cùng một tác phẩm của các nhà văn DTTS, Linh
Nga Niê Kdam không phải là người đi tiên phong; nhưng dù sao, việc đưa nguyên
vẹn câu từ của đồng bào dân tộc Tây Nguyên vào sáng tác của mình, nhà văn cũng
đã đạt hiệu quả mong muốn. Chị đem được hồn cốt dân tộc, hơi thở Tây Nguyên
thổi vào trên mỗi trang văn.
Không chỉ đan cài nguyên vẹn hệ thống từ vựng, câu chữ đối thoại bằng
tiếng dân tộc vào tác phẩm mà nhà văn còn sử dụng cách diễn đạt giản gị, dân dã,
trong sáng, bộc trực của chính người Tây Nguyên trong lời văn của mình. Việc sử
dụng và diễn đạt ngôn ngữ dân tộc như thế góp phần làm nổi bật đặc điểm tính
cách, lối sống, phương thức cảm nhận đời sống của đồng bào nơi đây. Thành công
của Linh Nga Niê Kdam là sử dụng ngôn ngữ dân tộc và cách diễn đạt theo kiểu tư
duy dân tộc đạt được độ chính xác, độc đáo, đúng lúc, đúng chỗ.
Để thể hiện tính cách con người Tây Nguyên, nhà văn đặt nhân vật của mình
vào tình huống cụ thể buộc phải biểu hiện cảm xúc. Điểm chung của người Tây
Nguyên trong văn xuôi Linh Nga là khi biểu đạt suy nghĩ, cảm xúc, họ thường thêm
các thán từ vào câu nói, hoặc mượn các câu thành ngữ, tục ngữ dân gian giàu hình
ảnh để nói thay ý nghĩ của mình. Nếu người Kinh lúc thảng thốt hoặc đau xót
thường bật lên câu nói: Trời ơi! Ôi! thì người Tây Nguyên thốt lên là: Ơ buith! Ơ
Yang! Ơ Yàng! Yang á! Ơ ơh! Ôi chà! Úi da!... và cuối mỗi câu nói, câu hỏi thường
là: ừ hé, ừ há, chứ hè… Trong tác phẩm Dòng sông tóc, người mẹ già “suốt đời
quẩn quanh với khung dệt, nương rẫy và chia bôi lương thực cho cả chục bếp lửa
trong căn nhà dài” đã tinh ý nhận ra con gái mình đang dằn vặt đau khổ “cứ ngồi
lặng khuya hàng đêm bên bếp lửa” bởi chị đã có gia đình mà trái tim vẫn đổi nhịp,
79
gửi trao tình yêu cho người đàn ông khác; vì thương con nên mẹ đã thủ thỉ khuyên
ngăn: “Con gái ơi! Chim khôn lo giữ tổ cho mình. Nai khôn không lạc bước sang
rừng lạ đâu con ạ!” (Dòng sông tóc) [6, tr.121]. Người mẹ đã mượn câu nói dân
gian giàu hình ảnh để diễn tả lời khuyên ngăn con phải sống đúng đạo nghĩa vợ
chồng, tránh không vi phạm chuẩn mực đạo đức gia đình, không lạc bước để rồi đau
khổ. Lời nói của mẹ vừa dễ nghe, vừa thấu tình đạt lý mà vẫn chuyển tải được đầy
đủ ý nghĩa. Chắc chắn nó hay hơn và có giá trị thuyết phục hơn nhiều so với một lời
khuyên dạy trực tiếp thông thường. Tương tự như vậy, nhà văn dùng rất nhiều câu
thành ngữ, câu nói dân gian quen thuộc trong đời sống con người Tây Nguyên để
biểu đạt ý nghĩa cần nói của mình một cách sáng tạo, có dấu ấn phong cách riêng.
Trong tác phẩm Thung lũng Yang Hruê, khi Ama Mlan bị thủ lĩnh Pulrô cho người
tới ép, bắt ông phải nổi dậy giành lại “cái lưng” ông bà, ama Mlan đã khẳng khái từ
chối: “Mấy ông muốn gạo, cần thuốc bệnh tui sẽ cho! Nhưng chỉ một lần này thôi,
không có lần sau đâu đó. Tiền tui kiếm cho vợ con tui cũng là mồ hôi, sức lực tui,
chứ không phải lá nhặt trong rừng, đá lượm dưới suối, không dễ đem cho không
mấy người đâu” (Thung lũng Yang Hruê) [12, tr.169]. Việc vận dụng những câu
thành ngữ, tục ngữ dân gian vào lời nói nhân vật được nhà văn sử dụng rất đắc dụng
và linh hoạt. Có thể kể thêm một số ví dụ: Y Tam nói về sự khó nắm bắt trái tim và
tình yêu của H’Sry trong Srêpôk sáng nay yên tĩnh: “em như là cơn gió, sao có thể
nắm giữ được trong tay”; nói về sự dè bỉu của dân làng đối với H’Thai khi chị mới
lên làm chủ tịch xã trong Con đường đã chọn: “cáo mượn oai hùm”; nói về sự kiên
trì truyền đạo của cha Antoni trong Thung lũng Yang Hruê: “mưa lâu thấm đất”;
cô bạn thân trong Dòng sông tóc chê bai sự yếu ớt của loại đàn ông không đáng để
phụ nữ lấy làm chồng: “èo uột như tàu chuối hơ lửa”, “yêu đương bằng cả mồm
mép lẫn chân tay”; Y Rít nghĩ về người con trai èo uột xấu xí của tù trưởng: “cây
lim mục vẫn là gỗ lim”; câu nói khinh miệt của cha H’Linh đối với Y Tam trong
Cầu vồng lung linh: “gà rừng không thể sánh với công, chim fông không thể sánh
với quạ”; Amí Nu thấy mình mất đi là sự khó khăn, thiệt thòi lớn đối với chồng
trong Ngày Chúa đi vắng: “ăn cơm không có canh như ngủ đêm không có gái”;
ông bà đã khuất trở về trong lễ Pơ thi nhắc nhở Suzana hãy giữ cho Y Khoan đừng
quên đi truyền thống khi phải rời xa cánh tay mẹ: “con chim ngói tìm theo nắng,
con chim két tìm theo gió mà bỏ tổ”, “khi uống rượu ngon nó quên, lúc ăn trâu
uống heo nó không nhớ đến bố mẹ đẻ” (Pơ thi mênh mang mùa gió) …
80
Ngôn ngữ nghệ thuật trong văn xuôi Linh Nga Niê Kdam còn độc đáo ở chỗ
chị luôn xuất phát từ lối tư duy dân tộc theo kiểu trực giác và cảm tính, cụ thể hóa
những cái trừu tượng để thể hiện một cách chân thực, sinh động nhất về con người
Tây Nguyên. Mỗi khi cần biểu lộ nội tâm hay thái độ trước các sự kiện, người dân
tộc Tây Nguyên thường lấy hình ảnh cái “bụng” - một bộ phận cụ thể của cơ thể để
biểu đạt mọi sắc thái tâm lý. Khi đồng ý là “ưng cái bụng”; khi cáu giận: “tức cái
bụng”; khi đau xót: “bụng mình xót như có ai đem muối xát vô”; khi bồn chồn chờ
đợi: “bụng mình như có lửa đốt”; khi lo lắng thương yêu: “bụng chàng bên thương
bên lo”; khi bằng lòng: “ama Mlan hết bụng thương quý cô con dâu”; khi cần thấu
hiểu: “có ai hiểu cho bụng Y Tam không”… Qua ngôn ngữ nghệ thuật của H’Linh
Niê, người đọc còn có thể hiểu thêm cách nói về thời gian, khoảng cách rất cụ thể, trực quan, cảm tính người Tây Nguyên. Họ ước lượng thời gian và khoảng cách theo
các sự vật và theo sự biến đổi môi trường sống xung quanh. Cảm nhận khoảng cách
của Amí Nu khi muốn vươn người về phía hai đứa con mà sức lực lụi tàn không thể
thực hiện được, khoảng cách đó nói lên bi kịch của nhân vật thấu rõ nhất: “Từ chỗ
mình nằm tới cửa nhà sàn, nơi hai chị em nó đứng chỉ dài bằng hơn một đòn gánh,
mà sao xa vời vợi” (Ngày Chúa đi vắng) [12, tr.19]. Để nói về thời gian, người Tây
Nguyên trong văn xuôi H’Linh Niê có rất nhiều cách: nói về tuổi, họ thường đếm
bằng bao nhiêu mùa rẫy, bao nhiêu lần cây xoài rụng bông hoa trắng…; nói về năm,
họ ước lượng bằng bao nhiêu lần hoa tăng bi gửi hương cho gió, nước sông Krông
Blang đầy lên rồi cạn, mùa rừng thay lá, cà phê cho trái, mùa con ong ăn hoa, mùa
trồng cà tỉa bắp …; nói về tháng, họ ước lượng bằng bao nhiêu mùa mưa, mùa nắng,
mùa con trăng mọc, lần trăng…; ước lượng thời gian một ngày, họ tính từ lúc mặt
trời thức dậy tới khi mặt trời đi ngủ; ước lượng khoảng thời gian ngắn, cụ thể, họ tính
bằng thời gian người ta uống cạn mấy ống lồ ô rượu ché… Cách nói ước lượng
khoảng cách, thời gian được đo bằng mùa, bằng sự kiện, sự vật, hiện tượng quen
thuộc trong đời sống như trên của người Tây Nguyên là điểm gặp gỡ của nhiều nhà
văn DTTS khác. Ngay nhà văn Y Điêng khi viết về khoảng cách thời gian trong tác
phẩm của mình, ông cũng lấy sự vật cụ thể để đo: lúc thì chỉ trong một điếu thuốc, lúc
thì một sải tay nữa ông mặt trời mới đi ngủ, lúc lại con tôi mới mười một mùa rẫy …
Từ đó, ta có thể khẳng định (theo ai đó từng nói): việc lấy tư duy trực quan cảm tính
của con người làm nền tảng cho sáng tạo ngôn từ nghệ thuật, nhà văn vừa đúc kết
được các vỉa tầng văn hóa dân tộc lại vừa làm phát sáng được bản sắc dân tộc trong
tác phẩm văn chương.
81
Ngôn ngữ nghệ thuật trong sáng tác của Linh Nga Niê Kdam còn thể hiện
dấu ấn dân tộc ở chỗ nhà văn đưa vào ngôn ngữ văn chương của mình cách nói
ngắn gọn, nhiều so sánh, giàu chất triết lý; vừa mộc mạc, dễ hiểu vừa hồn nhiên,
chân thực của người Tây Nguyên. Ví dụ: để nói với con gái về vai trò, giá trị của
người phụ nữ trong gia đình truyền thống mẫu hệ, amí H’Sri vỗ vỗ tay nhè nhẹ lên
lưng con gái yêu, nói nho nhỏ đủ nghe: “Đàn bà Êđê như tấm chăn thổ cẩm, người
ta dùng từ lúc mới dệt đẹp cho tới khi sờn rách vẫn còn giữ, không nỡ vứt bỏ”
(Srêpôk sáng nay yên tĩnh) [12, tr.38]; chồng của amí Nu khi nói về vợ: “Người
đàn bà Êđê như lúa gạo trong nhà, ai cũng cần, ai cũng quý” (Ngày chúa đi vắng)
[12, tr.25]. Với cách so sánh này, nhà văn vừa làm nổi bật tầm quan trọng của người
phụ nữ trong gia đình Tây Nguyên vừa ghi dấu truyền thống tốt đẹp, nhân văn của
dân tộc: luôn trân trọng và đề cao giá trị của của người mẹ, người vợ trong nhà. Vì
rất yêu thương trân trọng người phụ nữ nên người đàn ông Tây Nguyên khi đã yêu
thì yêu hết lòng và trong đôi mắt của họ, người con gái mà họ yêu luôn đẹp đẽ, cao
quý, luôn là niềm khát khao, là nỗi nhung nhớ cháy bỏng ngày đêm. Chỉ một lúc
phải chờ đợi H’Sri mà Y Tam bồn chồn lo lắng miên man không kể xiết: “Sao mãi
không thấy K’Sri? Dường như Y Tam đã chờ ở đây từ mùa hoa xoài sang mùa hoa
phí rồi sao đó hè? Ôi! H’Sri, em như là cơn gió, sao có thể nắm giữ được trong
tay? Chiếc vòng đồng H’Sri đã trao, chuỗi cườm Y tam đã tặng, mà sao vẫn không
tin mình được bên nhau? Suối ơi, núi ơi! Có ai hiểu cho bụng Y Tam không”
(Srêpôk sáng nay yên tĩnh) [12, tr.45]; chỉ một ánh mắt nhìn, một nụ cười, một
giọng nói mà dường như cô gái có thể làm trái tim người yêu mình loạn nhịp, mọi
giác quan, sinh hoạt đều đổi thay: “Con mắt H’Ny nhìn làm trái tim trong vồng
ngực nở của Y Min đập dồn hơn cả lúc đi săn gặp con thú lớn. Giọng nói của H’Ny
ngọt ngào khiến Min nghĩ đến cô mà đi đường quên cơn khát. Ngày, Min nhớ H’Ny
ngẩn ngơ không biết đến cái ống điếu đang hút đã tắt lửa. Đêm, mới chia tay đó mà
Min về nhà nằm xuống ngồi lên miết con mắt không chịu khép” (Thung lũng Yang
Hruê) [12, tr.111]; “Tiếng cười trong vắt như tiếng chiêng có pha đồng pha bạc
của H’Sri, khiến trái tim Y Tam phồng to hơn. Ánh mắt H’Sri như nháng lửa mỗi
lúc cái nhìn của hai người gặp nhau” (Srêpôk sáng nay yên tĩnh) [12, tr.45].
Những đối tượng được đem ra so sánh đều là những hình ảnh gần gũi, gắn bó, quen
thuộc với cuộc sống của con người. Những đối tượng ấy có thể là hiện tượng thiên
nhiên, cũng có thể hiện tượng của cơ thể, cũng có thể là đồ vật trong cuộc sống sinh
hoạt…, tất cả đều làm cho cách diễn đạt của nhà văn về người Tây Nguyên mang
82
đúng chất Tây Nguyên. Đây là cách so sánh, nhân hóa rất dân dã, không cầu kì hoa mĩ nhưng vô cùng sinh động về đặc điểm thiên nhiên cao nguyên - âm thanh của
dòng sông Srêpôk chảy giữa đại ngàn hoang dại: “Trời còn tối như có ai lấy tay bịt
mắt lại. Trong bóng đêm. Srêpôk vật mình đập vô ghềnh đá, chắc là sự va đập quá
mạnh nên nghe nước đau la lên cái “ầm”” (Srêpôk sáng nay yên tĩnh) [12, tr.36];
cái nắng gay gắt ở thung lũng Yang Hruê: “Nắng. Mới sáng sớm mà đã nắng. Cái
nắng vàng rừng rực như lửa bếp, nhìn lâu con mắt nổ đầy hoa” (Thung lũng Yang
Hruê) [12, tr.155]. Hay nói về cảm giác của chàng trai Y Khăm trẻ tuổi trong đêm
đầu tiên “nối dòng” với Amĩ Xóa: “Trăng đã leo qua bên kia mái nhà dài. Ngột
ngạt, tối om, như hồi nhỏ anh đã lén amĩ chui trong chiếc ché tang” (Nối dòng) [6,
tr.26]; cảm nhận về rượu do bàn tay mẹ ủ của HDung: “Ché rượu mẹ trộn lẫn cả
men lá với men rượu cẩm. Thứ rượu chưa uống bụng đã kiến bò, mới thử ruột đã
cháy. Uống vài lần là ngả nghiêng chóng mày quay mặt, con mắt lúng liếng ngó
một thành hai”(Gió vẫn thổi từ rừng) [6, tr.66]; còn gì rõ hơn cảm giác lo lắng
mong ngóng đến buồn bực của Y Rít lúc chờ đợi người yêu: “Ôi, hoa blang thì đỏ,
hoa êpang trắng, hoa k’truol fang lại tím. Lòng người ta, Y Rít biết trắng hay xanh?
Lửa đâu đốt trong lồng ngực, kiến đâu bò trên từng mảng da thế này?” (Cầu vồng
lung linh) [6, tr.104]. Những hình ảnh so sánh giản dị này đã góp phần không nhỏ
làm nổi bật cảm xúc tinh tế, đáng yêu của con người miền cao Tây Nguyên và làm
cho tác phẩm văn học thêm thú vị, hấp dẫn.
Cái duyên thầm và nét riêng của nhà văn Linh Nga Niê Kdam khi viết những
tác phẩm về cuộc sống, con người Tây Nguyên còn là ở chỗ nhà văn đưa vào tác
phẩm của mình những triết lý và quan niệm sống rất nhẹ nhàng mà sâu sắc của con
người Tây Nguyên. Trải qua bao khó khăn vất vả để lập buôn sang và gây dựng
cuộc sống mới sau khi trốn đi khỏi buôn làng cũ để được chung sống với người
mình yêu, Y Min đã chiêm nghiệm thấu đáo về hạnh phúc: “Không có hạnh phúc
nào không phải đổi bằng gian khổ và nước mắt, nhất là thứ hạnh phúc do chính tay
mình tạo dựng” (Thung lũng Yang Hruê) [12, tr.101]. Chị còn mượn lời của Y
Min để nói quy luật của tình yêu: “Cái thương nhớ giữa người nam, người nữ với
nhau sao mà lạ? Nó làm cho ngực ấm giữa đêm khuya, xa nhau, ngồi như có lửa
đốt bên trong, bụng không biết đói, mắt không thèm ngủ. Nhất là khi thịt da đã sưởi
ấm cho nhau, lặn vô trong nhau quên cả đất trời, thì chỉ muốn cười, muốn hát,
muốn chạy tới bên để lại được mặt nhìn tận mặt, tay cầm lấy tay…” (Thung lũng
Yang Hruê) [12, tr.111]. Hay, để nói đến quy luật của cuộc đời, tâm linh của con
83
người: “Biết kiên nhẫn chờ đợi thời cơ cũng là một nghệ thuật đấy chứ. Con người
rất dễ đến với nhau trong những cơn hoạn nạn, nhất là khi có bàn tay giơ ra cứu
giúp. Lúc vô vọng, người ta sẵn sàng bấu víu vào mọi tia hy vọng, dù chỉ là le lói.
Tâm linh con người cũng vậy thôi, dù thể chất có mạnh mẽ đến đâu, cũng vẫn rất
cần một chỗ tựa nương, để giải toả những ẩn ức trong tâm trạng, của cuộc sống”
(Thung lũng Yang Hruê) [12, tr.118]. Trong tác phẩm Em chỉ là cơn gió thoảng,
tác giả lại mượn những băn khoăn của cô gái trí thức dân tộc trước tình yêu của
“anh” khi giữa hai người có sự vênh lệch học thức và không cùng phong tục tập
quán: “Người ta có thể đồng cảm với nhau về nhiều mặt, nhất là lúc đang yêu.
Nhưng đối mặt với cuộc sống, nhiều khi lại đánh mất nhau vì những lề thói, những
tập tục, hoặc chỉ tại những điều vô cùng đơn giản” để lý giải vì sao dù rất yêu “anh”
nhưng cô đã quyết định: với anh, em chỉ là cơn gió thoảng, “Cho em là một người bạn.
Mỗi lần ra Hà Nội em ghé thăm…” (Em chỉ là cơn gió thoảng) [6, tr.90]. Còn trong
tác phẩm Đêm Dliê Ya ngàn xanh, tác giả lại nêu ra một hiện tượng: “Ở đời, con
người càng giàu lên càng dễ quên, càng muốn quên những gì của ngày xưa khổ
cực” để làm sáng lên tình yêu chung thủy, nỗi thương nhớ của ama An với những
tháng năm sống có HLy - người vợ xinh đẹp, đảm đang, giờ đã quá cố của mình.
(Đêm Dliê Ya ngàn xanh) [6, tr.174]. Tất cả những quan niệm và triết lý mà nhân
vật hay nhà văn trực tiếp phát biểu đều thể hiện tầm hiểu biết sâu sắc và vốn sống
phong phú của Linh Nga Niê Kdam. Những triết lý đó đều rất mộc mạc, khái quát
cho những tư tưởng, quan niệm sống của người Tây Nguyên nói riêng, tất cả mọi
người nói chung. Vì thế, nó vừa thể hiện được đặc điểm tính cách, lối sống riêng
của người dân bản địa vừa có tầm phổ quát cao. Cái hay của văn Linh Nga Niê
Kdam là ở chỗ đó.
Nói tóm lại, ngôn ngữ nghệ thuật trong văn xuôi Linh Nga Niê Kdam là ngôn
ngữ nghệ thuật mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Tây Nguyên. Bản sắc văn hóa ấy
thể hiện qua việc tác giả sử dụng lớp từ vựng dân tộc, đưa nguyên văn câu nói của
người dân tộc vào văn chương, diễn đạt ngắn gọn, giản dị, dân dã phù hợp với lối tư
duy và diễn đạt của người dân tộc. Bằng việc sử dụng nhiều các biện pháp tu từ nhất
là lối so sánh, liên tưởng để diễn đạt điều muốn nói một cách hình ảnh, cụ thể, dễ
hiểu, đầy tính triết lý và có tính sáng tạo, gần gũi với cách nghĩ, cách nói của người
dân tộc, nhà văn đã góp phần nêu bật được những quan niệm, những đặc điểm tính
cách, lối sống của người dân trên quê hương cao nguyên. Với những gì đã làm được,
84
nhà văn Linh Nga Niê Kdam đã khẳng định được vị trí, tài năng và phong cách nghệ
thuật của mình trong đời sống văn xuôi các DTTS Việt Nam hiện đại.
3.1.2. Ngôn ngữ nghệ thuật đậm chất trữ tình
Linh Nga Niê Kdam là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn và bút ký. Sức
hấp dẫn của những tác phẩm văn chương của chị chính là ở chỗ: nhà văn đã sử dụng
ngôn ngữ rất tự nhiên, đậm chất dân tộc Tây Nguyên nhưng lại rất đằm thắm, trữ
tình. Chất trữ tình, đầy ắp cảm xúc được thể hiện trong những câu văn giàu hình
ảnh, màu sắc cùng với việc sử dụng dày đặc các thủ pháp so sánh, nhân hóa, điệp
ngữ, liên tưởng đầy bất ngờ thú vị và giàu mĩ cảm. Ngôn ngữ nghệ thuật ấy có sức
gợi lớn, kết đọng nhiều tầng ý nghĩa, dễ chiếm được cảm tình và để lại ấn tượng
trong trái tim độc giả các lứa tuổi.
Khi nói về thiên nhiên, về cuộc sống con người Tây Nguyên với những sự
kiện, sự việc, nhân vật cụ thể, tác giả luôn viết bằng một giọng văn đầy chất trữ
tình, tha thiết, lãng mạn, bay bổng, đôi khi đọc như những câu thơ văn xuôi tràn
đầy cảm xúc. Các thủ pháp: so sánh, nhân hóa, trùng điệp, láy… được chị vận
dụng triệt để và rất thành công, góp phần khẳng định nét độc đáo trong câu văn
của chị. Mùa khô trên cao nguyên hiện về dưới trang văn Linh Nga thật thơm
tho, đẹp đẽ và gợi bao nhung nhớ: “Mùa khô cũng là mùa gió, những cơn gió
cao nguyên lồng lộng lang thang đi khắp đất trời, gói ghém mang theo nhiều
loại mùi hương khác nhau: hương hoa cà phê những tháng cuối cùng của năm;
tháng ba mùa xuân về là hương các loại hoa rừng; mùi khói đốt rẫy vào những
tháng mùa khô bàn giao quyền lực thiên nhiên cho mùa mưa; mùi cà phê rang
ấm những con đường mùa đông se se hơi lạnh… Mùi thơm của cỏ cháy lẫn trong
mùi khen khét của khói lửa than mùa đốt rẫy, không biết vì sao vẫn thường ám
ảnh tâm trí người xa quê ghê lắm” (Pơ thi mênh mang mùa gió) [12, tr.53].
Với biện pháp nhân hóa giàu chất liên tưởng về gió, người đọc có thể cảm nhận
được nét riêng của gió cao nguyên. Đó là những cơn gió lớn, phóng khoáng, lồng lộng,
tự do tung hoành trên khắp đất trời Tây Nguyên bao la, rộng lớn. Gió có thể gói ghém,
chất chứa trong mình những mùi thơm đặc trưng của quê hương xứ sở, của cây, của
đất, của cuộc sống con người tỏa tới mọi miền xa xôi; gửi trao và dấy lên niềm tự hào
cùng khát khao trở về nhất là những người con xa xứ. Đoạn văn được tác giả sử dụng
điệp từ “hương” và “mùi” kết hợp với một loạt từ chỉ vật xác định: “cà phê, hoa rừng,
khói đốt rẫy, cỏ cháy, khói lửa than”… đã khắc sâu và để lại một ấn tượng khó quên
trong lòng độc giả về những mùi hương đặc trưng trên mảnh đất Tây Nguyên.
85
Thiên nhiên Tây Nguyên không chỉ được nhà văn cảm nhận bằng khứu giác
với mùi hương quyến rũ không thể nào quên mà còn được tác giả cảm nhận bằng thị
giác với những nét vẽ thơ mộng, đầy màu sắc dù đó là cảnh rừng khộp buôn Đôn
đầy ắp lá đỏ sắp sửa rụng rơi: “Trước khi trút hết tấm áo cũ xuống làm lá mục nuôi
đất, toàn bộ cây rừng chắt chiu chút sức lực cuối cùng của mình hóa thân thành
những chiếc lá màu đỏ, cố làm đẹp cho đời lần chót. Rừng rực, rừng rực như màu
tấm thổ cẩm amí dệt mỗi ngày. Có bài hát gì đấy rất hay nhỉ “rừng Trường Sơn ào
ào lá đỏ” ? Đúng như vậy đó, một cơn gió mùa đông ào ạt cuốn hàng ngàn chiếc lá
đỏ bay tít lên cao, rồi lại thả chúng chậm chạp liệng đáp xuống, phủ một tấm thảm
đỏ trên nền rừng. Cây bút kì diệu của thiên nhiên hoang dã đã dùng cành khô và lá
đỏ vẽ nên một khung cảnh tuyệt vời” (Pơ thi mênh mang mùa gió) [12, tr.71].
Đoạn văn sử dụng biện pháp so sánh, liên tưởng kết hợp với câu văn miêu tả giàu
hình ảnh, tác giả đã vẽ hoàn chỉnh một bức tranh sống động về màu sắc và sức sống
mãnh liệt của thiên nhiên Tây Nguyên ngút ngàn cỏ cây hoa lá. Trước khi lìa cành
trở về với đất, rừng khộp còn dâng hiến cho đời vẻ đẹp rạng rỡ nhất; cây đã sống
hết mình, không lãng phí một phút giây.
Để miêu tả khoảnh khắc giao tranh giữa bóng đêm và ngày mới của rừng,
nhà văn cũng sử dụng phép nhân hóa, liên tưởng rất sáng tạo, độc đáo cùng cách
diễn đạt mang dáng dấp thơ văn xuôi: “Cái giờ khắc ấy rừng còn chưa thức hẳn,
đám cây cối rũ lá đứng ngủ im phăng phắc. Gió chắc cũng đang dở giấc ngủ nướng
ở nơi nào, nên mặt trời cố đẩy những đám mây màu tro bếp đang che khuất mặt ra
mà không nổi. Những ngón tay dài thượt vàng choé chỉ xuyên chéo qua tấm màn
mây xám được một chút xíu rồi lại biến mất. Bầu trời đen ngòm đe doạ. Dãy núi Cư
Pah trầm tĩnh như ông già hiền hậu nghiêng mình cúi xuống lắng nghe. Đâu đó một
tiếng chim khắc khoải kêu khan, rồi lại bỗng lặng bặt, chẳng đủ để xua đi cơn ngái
ngủ của rừng” (Thung lũng Yang Hruê) [12, tr.108]. Với cách sử dụng ngôn ngữ
đầy những sáng tạo nghệ thuật như thế, nhà văn đã làm nổi bật lên thần thái của
buổi sớm tinh mơ ở rừng. Còn khi miêu tả khoảnh khắc rừng vào thời điểm cuối
ngày, nhà văn lại sử dụng nhiều từ láy gợi hình, gợi thanh rất chính xác và thú vị:
“Hoàng hôn nhuộm vàng những thân cỏ năn cỏ lác đang rung rinh theo từng cơn
gió chiều. Những bông lau trắng quật vào nhau xào xạc. Tiếng nước óc ách sau
những cú nhảy của bầy nhái bén và lũ chim nhao nhác tranh nhau chỗ ngủ đêm
giữa các vòm cây, khiến rừng chẳng thật sự lặng yên (Pơ thi mênh mang mùa gió)
[12, tr.74]. Trong đoạn văn, mỗi một đối tượng miêu tả đều được gắn với một từ láy
gợi hình hoặc gợi thanh: cỏ lác - rung rinh, lau trắng - xào xạc, nước - óc ách, bầy
86
nhái bén và lũ chim - nhao nhác… khiến rừng Tây Nguyên buổi chiều trở nên rất
xao động mà vẫn rất đỗi bình yên. Làm bật lên nét đặc trưng riêng của rừng như thế,
chứng tỏ tác giả thật sự là một người con của núi rừng Tây Nguyên có cái nhìn tinh tế, có khả năng quan sát tỉ mỉ và có sự cảm nhận đặc biệt về âm thanh của một người nghệ sĩ - nhạc sĩ .
Ngôn ngữ lãng mạn, bay bổng, giàu cảm xúc của chị thể hiện khá rõ trong
những trang văn miêu tả chân dung con người, những giá trị văn hóa đáng trân
trọng và sự phong phú, phức tạp, muôn sắc màu của cuộc sống vùng cao nguyên.
Miêu tả người con gái Tây Nguyên qua đôi mắt chàng trai đang yêu, nhà văn đã sử
dụng nhiều hình ảnh so sánh, thậm chí có tính cường điệu theo nguyên tắc lãng
mạn, lý tưởng hóa khiến người đọc có thể hình dung một cách khá rõ nét về cô gái
Tây Nguyên vừa khỏe khoắn, giỏi giang, vừa xinh đẹp, kiều diễm, vừa tài hoa, lãng
mạn: “H’Sri là con gái duy nhất của tù trưởng, không chỉ giàu có mà còn đẹp đến
hoa rừng cũng thua. Amí lấy hai ngôi sao lấp lánh giữa trời đêm làm đôi mắt, mượn
trái vú sữa vừa độ chín làm làn da nâu cho cô. Tấm váy dài phủ kín đôi gót chân
nâu hồng mịn màng, chỉ quen ngồi đạp khung dệt, khiến mỗi bước đi vừa khép nép
vừa uyển chuyển như đôi chim ktiă, làm cho không ít lũ con trai trong buôn đứng
ngẩn, quên bẵng xung quanh lúc nàng bước qua” (Srêpôk sáng nay yên tĩnh)
[12, tr.37]; “Yang cũng như thương H’Ny nghèo, cho cô những gì đẹp nhất mà núi
rừng có được. Chiếc m’yêng dù bạc hết đường chỉ màu, vẫn khoe tấm thân căng
đầy sức sinh sôi của đất của ngàn, tràn ra nơi cặp mắt long lanh, đôi má ửng hồng
và làn da mịn màng như trái chín. Miệng tươi, hàng răng bắp non, ánh mắt như có
lửa, nhìn vô mắt con trai nào, người ấy ngả nghiêng hai chân cứng lại không bước
đi nổi” (Thung lũng Yang Hruê ) [12, tr.109].
Ngôn từ trong sáng, linh hoạt, bay bổng, giàu giá trị tạo hình, giàu cảm xúc
cũng được nhà văn dành cho việc ngợi ca các chàng trai cao nguyên khỏe mạnh,
dũng mãnh, sôi nổi, nhiệt tình, tài hoa. Ta hãy xem tác giả ngợi ca sức sống của
chàng trai Y Min đầy bản lĩnh: “Anh như cái cây gỗ cate tốt mọc lên giữa đại ngàn,
uống nước nguồn suối, cắm sâu bộ rễ trong lòng đất rừng, cây chen cây cứ lớn vụt lên,
thẳng tắp, kiêu hãnh chống chọi với nắng táp, gió giông” (Thung lũng Yang Hruê)
[12, tr.110]; sức cuốn hút của tài năng anh chàng Y Tam: “Anh chàng Y Tam đó
không chỉ làm chủ tiếng đinh buốt nỉ non, lời đinh năm dìu dặt, giọng đinh tăk tar
ngọt ngào ấm áp, mà cả ngón đàn brố tài hoa tưng tửng những đêm trăng sáng”
(Srêpôk sáng nay yên tĩnh) [12, tr.38].
87
Khi viết về những nỗi niềm của những người con xa xứ, hay nỗi buồn, sự lo
lắng trước những khó khăn, thử thách trong cuộc sống của người dân bản địa, hay
những niềm vui, niềm tự hào về một Tây Nguyên tươi đẹp giàu bản sắc, giàu truyền
thống yêu nước … giọng văn của chị lại trở nên đằm thắm, tha thiết, sâu lắng, dịu
dàng, đúng chất phụ nữ vùng cao. Đoạn văn sau thể hiện nỗi khát khao của một
người con xa xứ mới trở về: “Ôi! Có biết bao nhiêu điều bí ẩn kỳ lạ mà ta chưa
từng thấy. Có phải quê hương ta thực đó không? Giá mà được sục chân vào đám
bùn mát rượi kia. Giá mà được lăn trên đám cỏ mịn dưới gốc cây Knia đơn độc
giữa đồng ấy. Giá mà được lắc lư trên bành voi đi trong bóng râm mát của rừng
đại ngàn?” (Tìm về bến nước) [6, tr.50]. Một loạt câu điệp cấu trúc “giá mà …”
được nhắc đi nhắc lại với thán từ và câu hỏi tu từ giàu giá trị biểu cảm, nhà văn đã
thể hiện được tình yêu tha thiết của nhân vật (cũng như của chính Linh Nga) đối với
quê hương yêu dấu, đầy bản sắc của mình.
Nếu khảo sát một cách hệ thống các truyện ngắn của Linh Nga, ta có thể thấy
xuất hiện khá nhiều câu văn, đoạn văn tả tình của chị là những đoạn văn được viết
bằng ngôn ngữ bay bổng và chứa chan cảm xúc rõ rệt nhất. Hầu như trong các
truyện ngắn của chị, đều có mặt tình yêu và dù tình yêu ấy có đến bến bờ hạnh phúc
hay đớn đau bất hạnh, trong sáng thủy chung hay khờ dại, bị lợi dụng hay không thì
vẫn có những phút giây sôi nổi, đầy bản năng, ngập tràn hạnh phúc, bay bổng lãng
mạn. Nhà văn quan niệm: tình yêu đích thực là sự hòa quyện cả thể xác lẫn tâm hồn
nên những người yêu nhau trong tác phẩm của chị luôn có khát vọng hòa quyện rất
“con người” đó. Chuyện tình mang hơi hướng sử thi giữa Đam San và HBia được
miêu tả bằng ngôn ngữ lãng mạn rất hiện đại và lối so sánh mộc mạc, chân chất của
người Tây Nguyên: “Im lặng úp mặt trong tóc, họ ôm riết lấy nhau, bện trong nhau
như con trăn quấn mồi, như đôi sam bơi trong biển. Nhà sàn rung rinh, bay, bay,
bồng bềnh trôi trong gió, mỗi lúc mỗi dào dạt. Đóa hoa mây khổng lồ trắng muốt,
sà xuống phủ kín căn nhà, bao bọc, ấp ủ, chở che. Đất trời, rừng suối, chòng chành
trên con thuyền căng buồm lướt sóng…” (Hoa Pơ lang) [6, tr.16]. Chuyện tình của
cô gái Tây Nguyên với chàng trai Hà Nội trong Em chỉ là cơn gió thoảng cũng có
những phút giây hạnh phúc như vậy: “Họ chỉ im lặng xiết lấy nhau. Hương cà phê bao
bọc quanh mình, nồng nàn đến nghẹt thở. Hương trong tóc, trong từng nếp áo, trên
gương mặt, hơi thở cô. Anh khao khát hít đầy lồng ngực thứ hương quyến rũ ấy. Môi
anh cuống cuồng tìm đôi môi cô, đôi môi chín mọng, mềm mại, nóng bỏng cũng khát
khao đợi chờ…” (Em chỉ là cơn gió thoảng) [6, tr.94]. Ngay cả khi miêu tả tình yêu
mãnh liệt, bất chấp phong tục tập quán, bất chấp không gian địa lý, bất chấp sự khác biệt
88
ngôn ngữ và sắc tộc, màu da của hai con người mang hai quốc tịch khác nhau, nhà văn
vẫn dành những câu văn tả tình hết sức lãng mạn, đầy gợi cảm để ngợi ca tình yêu chân
thành, say đắm của họ: “Không phải là chàng trai Êđê nước da sẫm màu đất, không
còn là người phụ nữ Châu Âu da trắng tóc vàng. Chỉ có hai kẻ yêu nhau, dìu nhau tới
tột đỉnh của khoái cảm hạnh phúc, thong thả, sít chặt và thành kính như một lời ước hẹn
thiêng liêng giữa đêm trăng xanh mênh mang, có hương đất trời và sóng sông nước
cao nguyên chứng giám” (Pơ thi mênh mang mùa gió) [12, tr.76]…
Viết về tình yêu nam nữ bằng ngôn ngữ lãng mạn, bay bổng, giàu cảm xúc
là đặc trưng dễ nhận thấy trong văn xuôi Linh Nga, nhưng bên cạnh đó chị vẫn sử
dụng chính chất liệu ngôn ngữ ấy để nói về vẻ đẹp muôn mặt của cuộc sống và
những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc. Trong bài bút ký Làng mặt trời, nhà
văn ghi lại cả những khó khăn thách thức lẫn những đổi thay của cuộc sống mới.
Chị xen vào đó là niềm vui không kể xiết cùng những ngỡ ngàng về mảnh đất Hà
Giăng hôm nay đã sáng đẹp vì có hệ thống pin mặt trời mà vẫn giữ được nét văn
hóa cổ truyền trong nghề thủ công làm từ tre nứa. Chị còn thêm cả niềm tự hào,
xúc động khi được nghe người nghệ nhân già kể h’amon dưới mái nhà Rông. Viết
về hiện thực cuộc sống, không màu mè, hư cấu mà ngôn ngữ nghệ thuật của chị
vẫn bay bổng, mộng mơ và tràn đầy xúc cảm: “Đêm càng sâu là lời h’amon cất
lên từ lồng ngực già nua xạm màu sương gió của nghệ nhân Đinh Biên. Mái đầu
đẫm màu mây núi nghiêng nghiêng cúi xuống, câu h’amon ngân nga uốn lượn,
rượu cần tuôn chảy. Nhưng bây giờ là thực, lại cũng là ảo trong màu sắc câu
chuyện cổ h’amon xa xưa … Quanh chúng tôi phải chăng là những chàng KNien
tài ba, nàng H’Rum xinh đẹp đang cùng kề vai, và đêm nay cùng ngủ lại trên nhà
Rông, theo tập tục từ bao đời của người Banar?” (Làng mặt trời) [7, tr.60] và:
“Xuân mở cửa dạo chơi trên mảnh đất cao nguyên, kính cẩn nghiêng mình trước
tầng thẳm sâu quá khứ của di chỉ Lung Leng, rạo rực với tiếng tuốc - bin rộn ràng
hát bài ca công nghiệp hoá nơi hầm máy thuỷ điện Ya Ly, Drai H’Linh, Buôn Kôp,
Tuor Sra … dòng nước như những đàn ngựa hoang sải vó tung bờm trắng trên
đồng cỏ. Say đắm ngắm nhìn cà phê, cao su, tiêu, bông đang tràn căng lộc nõn,
đùa rỡn cùng vũ điệu sóng dã quỳ vàng rực khắp triền miệng núi lửa Hàm Rồng.
Nụ cười già làng sáng bừng dưới ánh điện pin mặt trời, tiếng bé thơ đọc bài ê a
trong lớp học song ngữ Bana, Giarai, Sêđăng, Êđê - Việt, lẫn trong ngân nga
chuông chiều bình yên thong thả buông nơi mái vòm nhà thờ gỗ giữa lòng thị xã
Kon Tum hay nhà thờ Mẹ trung tâm thành phố Ban Mê” (Mùa xuân, ơi Ban Mê
của tôi) [11, tr.56] ...
89
Ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn trong truyện - ký còn độc đáo ở chỗ: chị đã
sáng tạo trong việc sử dụng từ và đưa nhạc tính vào văn bản. Nói cách khác, văn của
chị có hệ thống ngôn từ độc, lạ, đậm bản sắc dân tộc, giàu tính nhạc và có khả năng tạo
được khoái cảm thẩm mĩ cho người đọc (nhất là ở hệ thống từ láy vừa gợi hình, gợi
thanh, vừa gợi nhiều liên tưởng thú vị đúng với kiểu tư duy người DTTS). Chỉ trong
một tập truyện ngắn Con rắn màu xanh da trời, chúng ta có thể thống kê được rất
nhiều từ ngữ sáng tạo của Linh Nga Niê Kdam trên nền tảng ngôn ngữ chung của
Tiếng Việt. Cụ thể: trong truyện ngắn Hoa Pơ lang, nhà văn sử dụng, sáng tạo những
từ ngữ mới mẻ, độc đáo như: “Chim tao vao vắt vẻo trên cột gỗ đầu buôn chao chác
gọi bạn tình”, “Cơn gió ù ào luồn qua rừng khộp”, “Cuối cùng nàng lựa chiếc váy
nhóng nhánh như ánh trăng xanh”; trong Nối dòng: “Tiếng con gà rừng eo éo ngoài
xa”; trong Tìm về bến nước: “Thằng bé đang nhảy chồm chộp bắt dế trên bờ ruộng”,
“Một chiếc áo không tay dày cợm, cứng queo, luốc luốc màu đá khoác trên vai”, “Đôi
lúc bà lão đút tay vô miệng cho nó mút. Không nhận được chút gì, nó lại nhả ra la chói
lói”, “Hàng đàn chim kíu quáo gọi nhau về xây tổ, cánh chấp chới in trên nền trời
đỏ”; trong Gió vẫn thổi từ rừng: “Gió cũng rỉ rả nói lời mách lẻo”, “Tiếng chày đôi
chày ba bập bạp len lỏi trong sương sớm”; trong Cánh hồng rụng: “Đóa hoa nở sớm
mởn mơ trong sự ve vuốt của ánh mặt trời vùng cao”; trong Em chỉ là cơn gió
thoảng: “Tối thẫm bóng thông, vầng trăng non đã xeo xéo”, “Bước chân bập bỗng cứ
đưa cô về những đêm hò hẹn”; trong Cầu vồng lung linh: “Vài túm cỏ kmâo khẳng
khiu khô khỏng run bần bật trong gió”, “Chỉ có tiếng con chim tlông đuôi dài táo
tác”, “Bước chân voi bập bịch đưa tù trưởng mtao San đi xa dần”; trong Đêm Dliê Ya
ngàn xanh: “Nụ cười rạng nắng ấm giữa buổi trên khuôn mặt nhàu nhò giống bãi
ruộng mùa khô”, “Bầy chim chí chóe túc túc tao tao trong các vòm lá” …
Sức hấp dẫn của truyện - ký Linh Nga chính là vì sự sáng tạo độc đáo và sự
trải nghiệm thực tế phong phú của chị. Chị đã rất khéo léo giới thiệu vốn văn hóa dân
gian, dân tộc giàu có, phong phú của mình trong các tác phẩm. Để làm tăng thêm sự
cuốn hút, chị xác lập một phong cách riêng cho ngòi bút của mình, đó là những lời
văn như có tiết tấu, giai điệu, có khả năng hát ca về con người và cuộc đời. Nhạc tính
giàu có trong câu văn chị là vì thế, các khúc hát dân ca, khúc hát đối đáp giao
duyên… hay đi vào câu văn chị là vì thế. Cả một kho tàng nghệ thuật, dân ca, dân
vũ… Tây Nguyên xuất hiện trên trên những trang văn của Linh Nga. Đây là lời đối
đáp vui tươi của gái trai cao nguyên trong ngày lễ hội: “Anh có biết / Chiếu em nằm
một bên mốc/ Vì không người kề bên/ Ơ em/ Hãy đem anh theo về/ Cùng nằm bên
90
nhau/ Từ lúa xanh đến lúc lúa trĩu vàng” (Đêm Dliê Ya ngàn xanh) [6, tr.169]; đây
là lời khéo léo, khiêm tốn khi mới làm quen của đôi trai gái: “Thấy anh cũng muốn
hỏi/ Sợ anh là người sang/ Em chỉ gái buôn làng/ Không biết đường ăn nói…/ Em
như hoa chuối mới nở/ Lúa mới lên bông/ Nếu không được cùng nhau/ Ta vẫn là anh
em bè bạn” (Làng mặt trời ) [7, tr.60]; đây là lời mời rượu đầy khéo léo, lãng mạn,
đa tình: “Lá này của rừng/ Nước này của suối/ Men rượu từ rễ đất mẹ sinh em/ Uống
đi anh/ Uống say anh/ Trăng vẫn soi tỏ lối về” (Du xuân Tây Nguyên) [7, tr.78]; đây
lời tỏ tình bóng gió xa xôi: “Ktrâo bay vòng có đôi/ Con cá lội dưới sông có bạn/
Anh cũng muốn hai đứa mình thành đôi bướm dạo” (Nối dòng) [6, tr.24]; lời giãy
bày tình cảm nồng cháy, đầy chất cao nguyên nóng bỏng: “Ơ anh/ Dáng anh đi con
công xòe múa/ Cánh ná anh xuyên con thú rừng/ Khiêl anh vung xua quỷ dữ/ Tay anh
ấp ủ bầu ngực em/ Ơ em/ Em xinh như chim nhông chim phí/ Tay em kéo chỉ mềm tựa
sáp ong/ Môi em hoa mdung hồng/ Anh khát uống hạt sương trên cành” (Gió vẫn
thổi từ rừng) [6, tr.62]; “Ướt váy em treo cành cây tang/ Ướt khố anh phơi cành cây tung/
Ướt người ta cùng sưởi bên lửa hồng” (Pơ thi mênh mang mùa gió) [12, tr.68]; còn đây
là lời ca thán, buồn đau khi không được ở bên nhau như nguyện ước: “Tấm chăn
chưa nhuộm/ Sao thuốc đã phai/ Chiêng chưa treo/ Sao rượu cần đã nhạt/ Diều chưa
hát/ Sao dây bỗng đứt” (Nối dòng) [6, tr.24]; “Sống không được gần nhau/ Chết rồi
ta sẽ chôn chung một hòm/ Em hoá thành chớp sáng/ Anh hoá thành thần sét thét
vang” (Nối dòng) [6, tr.24]… Những lời ca, tiếng hát trong sáng tác của nhà văn
hầu hết đều là những khúc hát dân ca Tây Nguyên. Trong mỗi câu truyện, bài ký
của mình, nhà văn thường dẫn một vài câu dân ca, vài lời hát đối đáp phù hợp với
cảnh huống nhân vật. Tất cả những câu hát ấy đã góp phần làm nên chất thơ, chất
nhạc bay bổng diệu kì đậm bản sắc Tây Nguyên trong lời văn của chị.
Tính nhạc trong ngôn ngữ, trong câu văn của chị hình thành từ những tiết tấu
ngắt nghỉ, từ nghệ thuật phối thanh cùng cách diễn đạt linh hoạt giàu chất trữ tình.
Tính nhạc khiến cho câu văn xuôi trở lên êm ái, tình cảm, dễ đi vào lòng người.
Tính nhạc trong ngôn ngữ của chị làm cho lời văn thêm bay bổng, lãng mạn, ý văn
thêm dạt dào xúc cảm; giúp chuyển tải những vấn đề của đời sống, những thông
điệp của nhà văn muốn gửi gắm đến người đọc một cách thuận lợi. Gửi gắm tình
yêu và niềm tự hào về bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là chuyển tải tiếng nói tâm
hồn của dân tộc qua những tiếng đàn, tiếng sáo, tiếng chiêng, tiếng trống…là một
nét đặc sắc trong ngôn ngữ nghệ thuật của câu văn chị. Ví dụ, những câu, những
91
đoạn văn sau: “Gặp những đêm trăng sáng, hãy nín lặng mà nghe điệu nỉ non của
cây đàn kni đang nói đầu sàn lời yêu thương của chàng trai Giarai. Nghe tiếng
thủ thỉ mơ hồ của sáu phụ nữ Êđê với sáu ống nứa của đàn đinh tút, tiếng ân cần
gọi vợ giã gạo buổi sáng của cây mbuôt Mnông. Xa hơn, theo tiếng đinh năm
quấn quýt bước chân người nữ đi trước lên rẫy, bạn sẽ nghe tiếng t’rưng nứa
ngoài suối nước, tiếng đinh côk, tlung tlơ gỗ cột trong lều, tiếng kloong put, gong
reng tre, đinh buốt bằng cọng bí, cọng rạ lóc bóc, rỉ rả reo vui, xua tan cái mệt
mỏi của mặt trời cao nguyên gay gắt” (Folklore Tây Nguyên: độc đáo và giàu có -
còn chăng?) [7, tr.35]; “Cứ xanh đi nhé trăng, cho những câu hát Tăm ơh Prơ gửi
qua, trao lại của đám gái trai các Bon lan trong đêm đầy sao lửa thêm nồng nàn,
cho ánh mắt chung chiêng, làm sóng sánh chao nghiêng cả mặt nước ché rượu em
mời. Và đôi cánh của những tiếng chiêng khuya vỗ vào đêm sâu thẳm, gọi mặt trời
vì vội vàng đến hội mà thức dậy quá sớm trên đỉnh Jốk Nghi Pran…” (Đi hội Tăm
Nghét cùng em) [8, tr.41]; “Tắt tăt tăt… tiếng ching knah lúc ồn ào như thác nước
réo, lúc uốn lượn như làn gió, khi thổn thức như điệu arei trai gái đổi trao lời nhớ
lời thương. Ôi tiếng ching ông bà! … Tiếng ching gợi Y Min và H’ Ny nhớ biết bao
đồng cỏ M’Drăk mênh mông những đợt sóng xanh rờn… đồng cỏ mênh mông tiếng
kèn đinh tăk tar dặt dìu mỗi ngày, đồng cỏ ôm ấp hương thơm của hoa, kết trái ngọt
cho tình yêu của Y Min và H’Ny (Thung lũng Yang Hruê) [12, tr.107]; “Cả tiếng
kèn đinh buốt blé nỉ non của Y Lang trên rẫy, tiếng giã gạo thì thụp mỗi sớm mai,
lẫn tiếng mõ lóc cóc của con bò vàng yếm trắng. Và nhất là ánh cầu vồng sau đêm
mưa, lung linh trên sóng cỏ xanh rờn” (Cây knia cô độc) [6, tr.191]. Tính nhạc có
khả năng làm cho mọi thứ vốn quen thuộc trở nên mộng mơ. Nhà văn nắm bắt được
chất họa chất thơ ngay trong cuộc sống: “Chiều ở rừng sao xuống mau thế? Phố núi
mờ sương sao vắng tênh? Những hàng thông buồn hiu đổ liêu xiêu bóng nắng cuối
ngày. Gió mùa khô trên cao nguyên rít veo véo trên ngọn rừng như có điều gì hờn dỗi
mà không nói ra được. Tối thẫm bóng thông, vầng trăng non đã xeo xéo… (Em chỉ là
cơn gió thoảng) [6, tr.85].
Khảo sát và nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật trong sáng tác Linh Nga Niê
Kdam, bước đầu chúng tôi nhận thấy: văn xuôi của chị là một thứ văn xuôi nhiều
cảm xúc. Ngôn ngữ nghệ thuật trong tác phẩm của chị có sự mới lạ, sáng tạo độc
đáo; một thứ ngôn ngữ giàu tính nhạc và bay bổng lãng mạn. Ngôn ngữ nghệ thuật
ấy tạo được tính xác thực về địa danh, về nhân vật, về các đặc điểm của thiên nhiên,
92
của con người Tây Nguyên. Có được lớp ngôn ngữ nghệ thuật đậm dấu ấn Tây
Nguyên như thế xét cho cùng là do là do tài năng, sự nhiệt thành trong quá trình tìm
hiểu, nghiên cứu và tiếp thu vốn văn hoá dân tộc cùng với vốn phong phú, khả năng
quan sát tinh tế, trái tim nhạy cảm và trên hết là tình yêu, niềm say mê với nghệ
thuật, với văn hóa dân tộc của quê hương của nữ nhà văn - nữ nghệ sĩ - nhạc sĩ Êđê
- đứa con của Tây Nguyên hùng vĩ tươi đẹp này.
3.2. Cốt truyện, tình huống truyện giàu kịch tính, mang màu sắc hiện đại
Mỗi một thể loại văn học đều có đặc trưng cơ bản riêng. Nếu đặc điểm của ký là
tôn trọng sự thật, người thật việc thật, hạn chế hư cấu nghệ thuật; nhân vật trần thuật là
“tôi” ở ngôi thứ nhất (thường là tác giả) đóng vai trò là người chứng kiến, tham dự để
tăng cường tính xác thực trong việc miêu tả, bộc lộ cảm xúc và bình luận công khai thì
đặc điểm cơ bản của truyện là phản ánh hiện thực qua các biến cố, sự kiện; cốt truyện,
nhân vật thường có hư cấu tưởng tượng; người trần thuật linh hoạt, kết hợp nhiều ngôi
kể. Để làm nên thành công của tác phẩm tự sự (truyện), bao giờ nhà văn cũng phải chú
ý đến việc xây dựng cốt truyện và tình huống truyện. Cốt truyện là “hệ thống các sự
kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành biện
pháp cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức của tác phẩm văn học thuộc các thể loại
tự sự và kịch” [16, tr.99]. Đó “là yếu tố quan trọng bậc nhất, không thể thiếu trong bất
cứ hình thức tự sự nào. Loại bỏ cốt truyện, văn bản tự sự lập tức chuyển sang dạng văn
bản khác” [1, tr.179]. Như vậy, cốt truyện là hình thức của phương diện nghệ thuật, là
hệ thống sự kiện trong tác phẩm. Nói một cách đơn giản dễ hiểu, “cốt truyện là bộ
xương của cơ thể tác phẩm văn xuôi - yếu tố không thể thiếu, là lõi diễn biến của
truyện từ khởi đầu cho đến kết thúc, bao gồm toàn bộ các biến cố, sự kiện được nhà
văn kể ra và là cái mà người đọc có thể đem kể lại” [29, tr.174]. Thông thường cốt
truyện bắt đầu từ những sự kiện có vấn đề gọi là tình huống. Tình huống truyện là hoàn
cảnh bất bình thường mà con người buộc phải bộc lộ bản lĩnh, tính cách của mình.
Trong tác phẩm tự sự, tình huống truyện có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc thể
hiện số phận và tính cách nhân vật, là một trong những vấn đề cốt lõi, là chìa khóa
khám phá tác phẩm. Tình huống truyện chính là yếu tố tạo những bất ngờ và làm nên
nét độc đáo cho câu chuyện. Nói cách khác, tình huống chính là một lát cắt của cuộc
sống, tình huống gắn liền với cốt truyện và chủ đề tư tưởng tác phẩm. Qua cốt truyện
và tình huống truyện, nhà văn thể hiện các tính cách nhân vật, tái hiện các xung đột xã
hội và bộc lộ phong cách, tài năng của mình.
93
Trong sáng tác của các tác giả văn học DTTS, cốt truyện thường triển khai
theo kiểu truyền thống, miêu tả các sự kiện theo mạch thời gian tuyến tính, hệ thống
nhân vật xây dựng với lối kết cấu phân tuyến đối lập, kết thúc theo quy luật nhân
quả. Kết cấu truyện kiểu này trong văn chương khu vực Tây Nguyên đã có một số
nhà văn sử dụng trong tác phẩm của mình như: Kim Nhất, Y Điêng. Còn trong
truyện ngắn của Linh Nga Niê Kdam thì phần lớn chị lại không xây dựng cốt truyện
theo trật tự thời gian của các sự kiện cùng quy luật nhân quả trong phần kết thúc
truyện mà kết cấu truyện theo quy luật vận động tự nhiên với các ngả, các hướng
khác nhau nhằm chuyển tải tư tưởng, tình cảm, thông điệp nào đó đến với độc giả.
Theo khảo sát của chúng tôi, cốt truyện trong sáng tác của Linh Nga Niê Kdam hầu
hết đều là kiểu cốt truyện mang tính hiện đại. Có tác phẩm chị xây dựng cốt truyện
theo dòng chảy bất tận của tâm trạng: Gió đỏ, Ngày Chúa đi vắng… Có tác phẩm
xây dựng cốt truyện kiểu gấp khúc, đảo lộn thời gian như: Tìm về bến nước, Dòng
sông tóc, Đêm Dliê Ya ngàn xanh, Cây Knia cô độc, Srêpôk sáng nay yên tĩnh,
Bốn ngày, Rưng rưng cỏ hát…; có tác phẩm nhà văn xây dựng tình huống truyện
đầy kịch tính, các sự kiện xảy ra một cách bất ngờ, có lúc dừng lại ở thời điểm
người đọc không thể lường trước, kết thúc trong trạng thái bỏ lửng (kết thúc mở),
hoặc kết thúc không có hậu… tạo điều kiện cho người đọc phát huy vai trò đồng
sáng tạo như các tác phẩm: Cánh hồng rụng, Điều ông ấy không tính đến, Gió vẫn
thổi từ rừng, Hoa Pơ lang, Nối dòng, Cầu vồng lung linh…
Để chuyển tải thông điệp nào đó về tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình, hay
tình cảm cộng đồng, bản sắc văn hóa cổ truyền của dân tộc, hay những mặt trái của
đời sống xã hội…, Linh Nga Niê Kdam đều cố gắng đem đến cho người đọc một
kiểu kết cấu truyện mới mẻ, phảng phất nỗi u hoài trước những hoàn cảnh, số phận
nghiệt ngã của con người. Lối kết cấu truyện theo kiểu hiện đại đã đạt hiệu quả nhất
định. Những câu chuyện của chị thường được xây dựng diễn biến theo dòng chảy
bất tận của tâm trạng, của dòng ý thức (của chính tác giả hoặc của nhân vật).
Truyện Gió đỏ và Ngày Chúa đi vắng độc đáo ở chỗ câu chuyện hoàn toàn
không có cốt truyện mà chỉ là những mảnh ghép tâm trạng. Ở Gió đỏ, đó là tâm
trạng của một người đàn ông đang mang trọng bệnh, vào thời điểm khó khăn nhất
của cuộc đời, anh đã gặp một người phụ nữ giàu lòng trắc ẩn và đầy tình nhân ái.
94
Những bức thư cảm thông của chị chính là cái phao cứu sinh, là chỗ tựa nương cho
tâm hồn người đàn ông xấu số, giúp anh chống chọi lại căn bệnh ung thư. Chính vì
thế, anh luôn yêu thương trân trọng chị, khát khao được bên chị bước đi trên mọi
nẻo đường đời. Dù không thể sống tiếp, anh vẫn luôn nguyện cầu cho chị có một
người đàn ông yêu thương bằng tất cả tình yêu lẫn sự sống của anh. Tương tự như
thế, truyện Ngày Chúa đi vắng là những dằn vặt đau đớn níu kéo giữa sự sống và
cái chết trong tâm trạng của Amí Nu, nỗi ân hận tiếc thương của Ama Nu vì để vợ
sinh quá nhiều con mà bị hậu sản. Thương con, thương chồng, amí Nu không nỡ ra
đi nhưng cuối cùng cũng không thể chống lại số mệnh. Chị mong mỏi nhanh được
chồng con bỏ mả để được về với buôn sang, về với chồng con dù ở bất cứ hình hài
nào. Tình yêu thương gia đình của amí Nu rạng ngời hơn ánh hào quang của Chúa,
ấm nóng hơn cả ánh mặt trời, loang loáng khắp rừng cây con suối. Hai tác phẩm đều
không có cốt truyện mạch lạc, kết thúc là cái chết thương tâm của nhân vật nhưng
đều có khả năng thu hút sự chú ý, đồng cảm của người đọc.
Kiểu cốt truyện gấp khúc, đảo lộn thời gian, từng mảnh đời nhân vật bị chia
tách, phân tán trong hiện tại hay kí ức lộn xộn lại là kiểu kết cấu chiếm số lượng lớn
trong sáng tác Linh Nga. Truyện ngắn Tìm về bến nước kết cấu đan cài gấp khúc
đồng hiện hai dòng thời gian hiện tại và quá khứ. Hiện tại là thời điểm Y Tlang đã
trưởng thành, từ Pháp trở về cùng HZen trên hành trình đến các buôn làng tìm mảnh
đất chôn rau cắt rốn và cuối cùng anh cũng tìm thấy. Hiện tại này đồng hiện cùng
quá khứ lúc cha Francis sắp về nước Chúa, trăng trối lại cho Y Tlang biết để tìm về
nguồn cội, tìm về một thuở ấu thơ bất hạnh: cha bị hổ xé xác trong một đêm săn, mẹ
một mình mang nặng đẻ đau sinh ra anh trong tủi buồn nghèo khó rồi vì đẻ khó
cũng qua đời khi chưa thấy mặt con. Kết cấu đồng hiện hai khoảng thời gian như
vậy trong một tác phẩm làm cho diễn biến câu chuyện thay đổi liên tục, cùng lúc thể
hiện được nhiều nội dung ý nghĩa. Vừa ghi lại những rung động, cảm nhận sâu sắc
về quê hương của nhân vật vừa tái hiện được những cảnh ngộ khác nhau của các
thành viên trong gia đình nhân vật, vừa phản ánh được hủ tục lạc hậu (người mẹ
chết khi con chưa dứt sữa thì phải chôn con theo mẹ) vừa nói lên ý nghĩa, giá trị của
quê hương đối với con người. Truyện Srêpôk sáng nay yên tĩnh lại có cốt truyện
kết cấu theo kiểu đảo lộn thời gian. Mở đầu tác phẩm là cuộc sống hiện tại bình yên
95
của đôi vợ chồng nghệ nhân già đã 80 lần hoa xoài nở. Aduôn Minh bị âm thanh
dòng sông Srêpôk bướng bỉnh gọi thức trong không gian sớm mai tĩnh lặng, ngồi
một mình bên bếp lửa, tâm trí bà trôi bồng bềnh về quá khứ nhiều vui buồn, tự hào
lẫn cay đắng khi ông bà vì yêu nhau nên đã bỏ buôn làng ra đi, chống lại việc cha
mẹ ép duyên. Thông qua hồi ức của Aduôn Minh, người đọc được sống trong không
khí âm nhạc của những buổi hát đối đáp giao duyên, được lắng nghe âm thanh của
cây sáo đinh buốt buồn bã nỉ non bên suối, được chứng kiến sức mạnh của tình yêu,
được trải qua những đau đớn giằng xé tinh thần khi phải rời xa mẹ cha, bến nước,
được tiếp thêm niềm tin và nghị lực sống cho ngày mai. Kiểu kết cấu truyện đảo lộn
thời gian giúp cho tác phẩm không đơn điệu tẻ nhạt, nhân vật được đặt vào nhiều
tình huống gay cấn. Có tình huống buộc nhân vật phải bộc lộ tâm trạng, có tình
huống đặt nhân vật vào thử thách khốc liệt của tình yêu, có tình huống phải lựa
chọn và đối mặt với luật tục và có tình huống khó khăn, trở ngại, thử thách con
người trong cuộc sống. Cốt truyện này có khả năng khai thác triệt để đời tư của
nhân vật ở mọi không gian, thời gian, làm cho câu chuyện thêm chân thật, hấp dẫn.
Điều nổi bật cần khẳng định qua việc xem xét các yếu tố nghệ thuật trong sáng
tác Linh Nga Niê Kdam là: chị luôn có tinh thần học hỏi, tìm tòi, thể nghiệm, tích cực
đổi mới cốt truyện. Sức hấp dẫn trong truyện ngắn của chị không chỉ ở nội dung, con
người, cuộc sống thiên nhiên đẹp đẽ, mà còn ở cách viết vừa có nét tương đồng, vừa có
nét riêng biệt so với các nhà văn DTTS khác. Sự khác biệt Linh Nga Niê Kdam đem
đến cho độc giả là: chị lấy văn hóa, văn học dân gian Tây Nguyên làm phông nền cho
tác phẩm. Chị đan xen các câu truyện cổ tích, các yếu tố hoang đường vào hiện thực;
lấy không khí sử thi huyền thoại trùm phủ lên các tình huống, sự kiện để tạo không khí
đặc biệt cho tác phẩm. Có khi, trong một tác phẩm lại có hai câu chuyện đan cài vào
nhau, truyện lồng trong truyện. Kết truyện theo logic vận động của thực tế đời sống,
không có hậu. Tiêu biểu cho kiểu cốt truyện hậu hiện đại này là các tác phẩm: Hoa Pơ
lang, Tìm về bến nước, Dòng sông tóc, Hoa dại, Đêm Dliê Ya ngàn xanh, Pơ thi
mênh mang mùa gió, Thung lũng Yang Hruê, Gió đỏ, Nước soi bóng ai, Chiếc bầu
nước của H’Lâm…
Tác phẩm Pơ thi mênh mang mùa gió kể lại hai câu chuyện đan cài vào
nhau. Một là câu chuyện ama Phi quyết định làm lễ Pơ thi cho bố vợ, buổi lễ được
96
chuẩn bị chu đáo và được tiến hành trang nghiêm đúng theo phong tục. Một là câu
chuyện hồi ức về tình yêu lãng mạn của cô gái người Thụy Sỹ với người chồng
Êđê của mình khi họ cùng nhau từ Thụy Sỹ trở về làm lễ Pơ thi cho bố. Hai câu
chuyện mang hai nội dung và hai thông điệp khác nhau cùng lấy xuất phát điểm
chung là việc tổ chức lễ Pơ thi. Buổi lễ Pơ thi chính là tâm điểm, là tình huống để
các nhân vật bộc lộ quan điểm, cách nghĩ, cách ứng xử và khám phá văn hóa dân
tộc. Nó cũng là nền tảng, từ đó nhà văn ngợi ca phong tục tập quán đẹp đẽ, đầy
tính nhân văn của dân tộc (làm lễ Pơ thi tiễn biệt người đã khuất) đồng thời nói lên
hiện thực về sự phai nhạt bản sắc văn hóa trong đời sống người dân Tây Nguyên
thời kì hiện đại (việc xây dựng nhà mồ không theo truyền thống, xây nhà gạch đủ
màu đã phá vỡ đi cảnh quan hoang sơ và vẻ đẹp mộc mạc của buôn làng). Lễ Pơ
thi cũng chính là cơ hội để nhà văn ngợi ca tình yêu, một tình yêu đích thực vượt
qua mọi khoảng cách địa lý, mọi biên giới của màu da, sắc tộc, ngôn ngữ và văn
hóa, tập tục. Để thể hiện nội dung tư tưởng, tạo không khí linh thiêng cho buổi lễ
và làm tăng tính hấp dẫn cho câu truyện, nhà văn đan xen vào tác phẩm yếu tố
huyền ảo. Đó là cuộc gặp gỡ đối thoại giữa Suzana với bà tù trưởng hùng mạnh
Yă Wam cùng ông vua voi Y Thu Rnul khi họ trở về đón linh hồn Aê Phi trong
điệu chinh và điệu múa chầm chậm đưa tiễn linh hồn lần cuối: “Một áng mây đen
che khuất mặt trăng. Rừng tối lại. Gió dường như ngừng thổi. Vẳng tiếng nói
khiến Suzana giật mình quay lại, một bà lão trong bộ váy áo thổ cẩm, tóc bạc
trắng xoà dài đến tận gót chân, dáng vươn thẳng, uy nghiêm; bên cạnh là người
đàn ông mặc khố, ở trần, dáng thấp đậm cường tráng, đầu vấn khăn đỏ, tay chống
một chiếc lao dài” [12, tr.84]. Tước khi đón linh hồn A ê Phi đi, họ nhắc nhở con
cháu những điều tốt đẹp: “Luật tục chúng ta không cấm nam nữ chưa vợ chưa
chồng lấy nhau. Nhưng chúng ta luôn phải nhắc nhở con cháu không được rời xa
nhau, đồng lòng gìn giữ đất đai, cái nong cái nia, cái lưng ông bà, cả những tập
tục khác của dòng tộc. Chỉ có như thế buôn sang chúng ta mới sống mãi mãi hàng
ngàn năm nay” [12, tr.86]. Nhắc nhở xong rồi họ mới yên tâm ra đi: “Trăng ló ra
khỏi đám mây, mặt đất sáng rỡ. Dào dạt gió. Mơ hồ sương. Một làn khói mỏng
manh bay vút lên tan biến trong vòm xanh lơ mờ hun hút của bầu trời. Suzana giật
mình mở choàng mắt” (Pơ thi mênh mang mùa gió) [12].
97
Truyện Hoa Pơ lang là một trong số ít tác phẩm nhà văn xây dựng cốt truyện
theo kiểu truyền thống, diễn biến sự kiện theo dòng chảy thời gian nhưng lại mới mẻ
hiện đại ở chỗ nhà văn xây dựng tình huống rất kịch tính và lấy chất liệu sử thi: nội
dung, nhân vật, yếu tố hoang đường chỉ có trong truyện cổ để thổi hồn vào tác phẩm,
chuyển tải thông điệp về tình yêu. Tù trưởng Đam San giỏi giang, hùng mạnh, đem
lòng yêu tha thiết tù trưởng H’Bia giàu có, xinh đẹp nhưng theo luật tục, Đam San
phải nối dây với HNhí, HBhí. Khi H’Bia đem lễ vật đến cương quyết hỏi cưới Đam
San chống lại luật tục thì: “trời đất bỗng dưng tối sầm, nghiêng ngả, sấm sét ầm ầm
nổi lên từ bốn phía. Gió cuốn đất đá, cỏ cây bay mù mịt. Voi ngựa, trâu bò ngoài sân
gầm rống. Lũ con nít thét lên túm lấy váy mẹ. Tiếng ông Ykla oang oang trong sấm
rền: Nếu Đam San, HNhí, HBhí lấy nhau, họ sẽ là tù trưởng hùng mạnh, giàu có nhất
vùng. Ai làm ngược lại sẽ phải chịu thành nô lệ giữ bò, giữ ngựa cho người kia. Ô hô
hô hô … Yàng sét thu búa về. Yàng gió đẩy mây đen bay đi, trời lại xanh bao la yên
tĩnh” [6, tr.16]. Khi Đam San và H’Bia không thể bẻ gẫy được luật tục, chàng buộc
phải lên voi về nhà HNhí, HBhí, tác giả miêu tả: “Đam San ngoái lại nhìn H’Bia đơn
độc đứng chênh vênh nơi mép sàn, dõi theo bước chân voi. Chàng càng đi xa, hình
dáng nàng càng lớn lên , cao lên, tạc sâu vào nền trời xanh như ngọc. Rồi tất cả nhòa
đi, chỉ còn một thân cây cao lớn sừng sững vươn những cánh tay dài lên bầu trời
thăm thẳm cao, xa vời vợi. Những người đàn bà gọi đó là cây blang. Cây blang có
hoa đỏ mùa hè, kết thành bông trắng mùa đông. Cánh đỏ như máu của hoa chính là
từng mảnh trái tim đầy yêu thương đã tan nát của nàng H’Bia. Gió đông tách những
chùm bông trắng xóa, mang tình yêu của H’Bia theo Đam San tới tận cuối đất cùng
trời. Các cô gái Radeh nhặt bông ấy xe chỉ, nhuộm nước lá rừng, dệt những tấm
chăn, đắp ấm mọi lứa đôi yêu nhau” (Hoa Pơ lang) [6, tr.18]. Hình tượng Đam San
và H’Bia cuối truyện là một hình tượng đẹp nhưng đầy bi kịch, khắc sâu nỗi đau chia
cắt của những đôi lứa yêu nhau chỉ vì tập tục cuê nuê. Hình tượng ấy góp phần khẳng
định khát vọng yêu đương cháy bỏng của người dân Tây Nguyên thời kì hiện đại. Đó
là khát vọng yêu đương tự do, khát vọng hạnh phúc chính đáng của con người. Nhà
văn lấy kết thúc đau đớn không có hậu của nhân vật để phê phán hủ tục lạc hậu và
ngợi ca tấm lòng thủy chung trọn đời trọn kiếp của con người cũng như ngợi ca sự
bất tử của tình yêu.
98
Trong truyện Dòng sông tóc, tác giả miêu tả đồng hiện đan cài hai câu chuyện
thực và ảo. Câu chuyện hiện thực về một mối tình không lời giữa một cô gái Tây
Nguyên ngày đêm đi tìm vẻ đẹp văn hóa dân tộc trong ký ức của những nghệ nhân
già với một vị Tổng giám đốc tài ba, hết mình vì công việc và có một trái tim nhạy
cảm. Câu chuyện này đặt song hành cùng câu chuyện thần thoại về mối tình của con
trai thần sông Srêpôk với hai người con gái của Đất và Rừng là Rinh và Rao. Câu
chuyện hiện thực hướng người đọc đến cuộc tình thầm lặng, đầy éo le ngang trái, chỉ
có thể thấu hiểu nhau qua ánh mắt, trái tim của hai con người có tâm hồn đa cảm.
Ngàn sợi dây vô hình ràng buộc níu kéo khiến tình yêu hai người không thể cất cánh:
“Anh chị không bao giờ đủ cản đảm vứt bỏ tất cả để đến với nhau, dù chỉ một lần.
Ngàn sợi dây vô hình ràng buộc, níu kéo họ. Sống trên đời này, làm người tốt cũng
khổ lắm thay. Thi thoảng có tình cờ gặp nhau, vẫn chỉ những ánh mắt đằm thắm và
những câu chuyện vu vơ. Câu thơ anh đọc chị nghe một lần nào đó, đè trĩu lên trái
tim họ: Em là bài thơ không chép được/ Mà đành lòng anh phải thuộc từng câu” [6,
tr.125]. Câu chuyện thần thoại hướng vào việc giải thích về sự tích hoa mnga krih -
hoa Sen và hiện tượng dòng sông Srêpôk trào dâng thác lũ, sóng cuốn đi tất cả mọi
thứ hai bên bờ trong cuộc tranh giành tình yêu. Hai người con gái của đất với rừng là
Rinh, Rao và con trai thần sông Srêpôk yêu nhau; nhưng rồi con trai thần sông
Srêpôk không giữ vẹn được tiếng thề vì con gái của vua Hải Long ngoài biển lớn đã
đem lễ vật đến xin cưới chàng làm chồng. Rinh và Rao chờ chàng hoài nơi bến tắm
quen thuộc mà mãi chẳng thấy chàng đâu: “Trời đã tắt nắng từ lâu mà Ring Rao vẫn
ủ rũ ngồi bên bờ nước. Chợt một làn gió dữ dội ào qua, mặt sông trào sóng. Một cột
nước từ xa dồn tới, cuồn cuộn dâng cao, sầm sập như sắp đổ ập lên bờ. Từ trên đỉnh
ngọn sóng cao ngất, người yêu của hai nàng như lướt tới. Con sóng tan, chàng đã
đứng trước mặt họ” [6, tr.122]; thế rồi: “Trời quang, mây xanh trở lại nhởn nhơ trên
bầu trời. Chẳng ai còn nhìn thấy Ring Rao ở đâu. Trên mặt sông từ từ nổi lên hai cây
hoa lạ: thân thon dài mảnh mai, đầy những chấm gai nhỏ, nâng trên đầu hai búp hoa
màu hồng và màu trắng. Những cánh hoa mỏng mảnh xếp lớp, chở che cho chiếc đài
hoa vàng, tròn mịn màng như gương mặt của người con gái đẹp. Đôi ba chiếc lá
xanh tròn to xoà ra trên mặt sông, rung rinh những giọt nước hệt như nước mắt.
Chẳng đẹp rực rỡ như những loài hoa khác, nhưng hương thơm ấp ủ trong búp hoa,
theo gió lan tỏa đi bốn phương, dịu dàng kiếm tìm, nhắn gọi. Buôn làng gọi đó là
99
mnga krih (hoa sen). Dòng sông từ ngày đó mang tên Krông Buk - sông Tóc (dòng
sông tóc)”. “Vài năm một lần nhớ người yêu, con sông tóc lại ào ạt chở theo bao
nhiêu cấy cối ầm ầm lao về phía biển”, “để vỗ về an ủi chồng, công chúa Hải
Long dâng sóng cuốn đi bao nhiêu con người và của cải về đặt dưới chân chàng”
[6, tr.123-124]. Hai câu chuyện mang nội dung khác nhau nhưng thống nhất trong
cùng một cốt truyện và cùng chuyên chở một thông điệp: ở mọi thời, tình yêu bao giờ
cũng là điều tuyệt vời nhất của con người. Tình yêu có sức mạnh diệu kì, nó làm cho
con người đẹp đẽ, rực rỡ hơn lên và làm cho cuộc sống thêm ý nghĩa. Tình yêu chính
là nguồn sống, là chỗ dựa tinh thần của con người; “Tình yêu đã làm nên những điều
đẹp nhất của cuộc sống đại ngàn”. Nếu con người không còn tình yêu nữa thì sẽ trở
nên “khô cằn, đầy thù hận”. Vì vậy tình yêu rất cần, rất quan trọng để: “nuôi dưỡng
những trái tim” và “làm sống lại những tâm hồn sỏi đá”. Chiêm nghiệm về tình yêu,
đồng cảm với những đôi lứa yêu nhau nhưng gặp phải khó khăn trở ngại, nhà văn
bâng khuâng tự hỏi: “Có bao giờ hết không, những chuyện tình của mọi kiếp
người?”(Dòng sông tóc) [6, tr.125].
Rõ ràng, việc đưa yếu tố kì ảo, hoang đường, sử thi, huyền thoại đan cài vào
vào cốt truyện hay gắn các chi tiết sự kiện nửa hư nửa thực trong hình tượng nhân
vật, nhà văn đã tạo được tình huống truyện lạ lẫm, lôi cuốn, kích thích trí tò mò,
hứng thú của độc giả và làm tăng thêm sức hấp dẫn cho tác phẩm. Sự hư thực,
huyền ảo góp phần làm cho màu sắc sử thi Tây Nguyên hiện lên sâu đậm trên trang
văn, tạo cho chị một phong cách riêng rất ấn tượng trong lòng độc giả. Sau chị, ta
cũng bắt gặp đặc điểm văn chương này trong một số tác phẩm của Niê Thanh Mai
như: Về bên kia núi, Giữa cơn mưa trắng xóa, Buốt hơn sương đêm... song cách
thể hiện của hai nhà văn hoàn toàn khác biệt. Truyện H’Linh Niê đem đến cho ta
một sự nhẹ nhàng, thâm trầm, tinh tế, đầy trải nghiệm còn truyện của Niê Thanh
Mai đem đến cho ta một sự hồn nhiên, chân thành, dung dị, trẻ trung. Nhìn vào
điểm thành công của H’Linh Niê, ta có thể khẳng định: Nguồn gốc văn hóa dân gian
và tài năng sáng tạo của nhà văn hòa quyện làm một tạo nên những chỉnh thể nghệ
thuật hoàn thiện, có giá trị giáo dục, thẩm mĩ cao, và cũng là minh chứng thuyết
phục cho tình yêu cháy bỏng của nhà văn với thiên nhiên, con người,với cuộc đời
và quê hương đất nước.
100
Tiểu kết chương 3
Nghiên cứu một số phương diện nghệ thuật cơ bản trong truyện - ký Linh
Nga Niê Kdam, chúng tôi nhận thấy: nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trong văn
chương của chị vô cùng tinh tế, phong phú, đa dạng. Chị mở ra cả một kho tàng
ngôn ngữ mang đậm dấu ấn dân tộc Tây Nguyên. Việc sử dụng hệ thống từ vựng
dân tộc, giữ nguyên vẹn câu văn bằng tiếng dân tộc kết hợp với lớp ngôn từ vừa
mộc mạc giản dị vừa triết lý sâu sắc, gần gũi với lời ăn tiếng nói, tư duy người dân
tộc khiến cho ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn trở nên chân thực, mang đậm hồn
cốt Tây Nguyên. Chất riêng trong ngôn ngữ nghệ thuật của Linh Nga là chị đưa tiết
tấu, giai điệu, các khúc hát dân ca của âm nhạc dân gian truyền thống Tây Nguyên
vào những câu văn xuôi bay bổng, giàu hình ảnh, giàu tình cảm cảm xúc khiến mỗi
áng văn chương như một mảnh tâm tình đầy dịu ngọt, thẫm đẫm chất thơ, chất nhạc,
làm say đắm lòng người. Chị còn đưa vào văn xuôi của mình yếu tố huyền ảo, sử
thi, huyền thoại cùng các câu truyện cổ góp phần làm cho tác phẩm thêm phong phú
về nội dung, thêm đậm đà bản sắc dân tộc, tạo được phong cách riêng độc đáo. Bên
cạnh một số hạn chế như: còn sử dụng nhiều hình tượng, hình ảnh mang tính ước lệ,
tượng trưng nhất là khi miêu tả vẻ đẹp con người làm cho hình tượng nhân vật hiện
lên chưa thật sự nổi bật, cá tính, ít chất tạo hình cùng với việc đôi khi trong một tác
phẩm, nhà văn đưa vào quá nhiều yếu tố sử thi, huyền thoại khiến cho người đọc có
cảm giác tác phẩm đó thiếu sự tươi mới, hiện đại… thì chúng ta không thể không
khẳng định: Linh Nga Niê Kdam quả là một nhà văn tài hoa, đầy sáng tạo trong việc
kế thừa vốn văn hóa truyền thống và kết hợp lối viết có tính truyền thống với lối
viết hiện đại; luôn lao động nghệ thuật nghiêm túc, không ngừng tìm tòi đổi mới.
Chị đã thành công trong việc đưa vẻ đẹp văn hóa dân tộc Tây Nguyên hòa nhập vào
dòng văn hóa đất Việt. Thông qua các trang văn xuôi thấm đẫm chất dân tộc và
miền núi nhưng cũng rất hiện đại của mình, chị thật sự xứng đáng là nhà văn Tây
Nguyên tiêu biểu thời kì Đổi Mới.
101
KẾT LUẬN
1. Nhà văn Linh Nga Niê Kdam là một trong số những nhà văn DTTS ở Tây
Nguyên trưởng thành sau những năm Đổi Mới của đất nước. Mặc dù không sinh ra
và lớn lên trên mảnh đất Tây Nguyên nhưng trái tim chị vẫn luôn hướng về quê
hương, dòng tộc. Chị có một tình cảm sâu nặng với cuộc sống, con người, bản sắc
văn hóa Tây Nguyên bởi ngay thời thơ ấu chị đã được bồi đắp, giáo dục ý thức dân
tộc từ chính người cha Tây Nguyên kính yêu của chị. Vì thế, khi trưởng thành, hoàn
thiện học vấn, chị tự nguyện trở về quê hương, bắt đầu một con đường mới: sáng
tác, nghiên cứu, tìm hiểu, sưu tầm văn hóa, văn nghệ dân gian và dành hết tâm
huyết, cống hiến hết mình cho văn học nghệ thuật Tây Nguyên. Nói một cách khác,
chính văn hóa dân gian truyền thống Tây Nguyên đã tạo nên Linh Nga Niê Kdam
như lời chị thường nói nghiêm túc: “Theo quan niệm của người Tây Nguyên thì
chính các vị thần linh thiêng và những con người của mảnh đất cao nguyên này đã
ban, đã giao cho tôi tất cả những gì hiện có, như một nghĩa vụ, một sự bắt buộc
phải làm thế”. Tuy đến với văn chương hơi muộn (so với một số nhà văn khác)
song với sức viết dồi dào, với cảm hứng mãnh liệt, chị đã nhanh chóng đạt được
những thành tựu trong sự nghiệp sáng tác văn học. Đến nay, chị đã có nhiều tập
truyện ngắn và bút ký được công bố vừa có sự kế thừa tinh hoa văn hóa dân tộc lại
có nhiều sáng tạo độc đáo hấp dẫn, trong đó có một số tác phẩm được đánh giá cao.
Chị trở thành một trong những trí thức tiêu biểu, một nhà văn tiêu biểu của Tây
nguyên góp phần phát huy sự phát triển văn học dân tộc.
2. Nghiên cứu văn xuôi Linh Nga Niê Kdam chúng tôi nhận thấy: văn xuôi
của chị có mang một vài đặc điểm chung như những nhà văn DTTS khác nhưng lại
có đặc điểm riêng kể cả về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Các tập truyện và ký
của chị đều tập trung thể hiện tình yêu, niềm tự hào của một người con Tây Nguyên
về mảnh đất quê hương cao nguyên yêu dấu của mình. Đó là một vùng thảo nguyên
rộng lớn có cảnh sắc thiên nhiên vô cùng hùng vĩ, hoang sơ nhưng cũng rất đỗi lãng
mạn, mộng mơ. Bức tranh thiên nhiên trong văn chị rất gần gũi, thân thiết với con
người; mang đậm phong vị cao nguyên đất đỏ Bazan tràn đầy nắng, gió và hương
thơm tinh khiết của cỏ cây, hoa lá cùng sự dữ dội của suối, sông, thác, hồ trên núi
102
cao. Thiên nhiên ấy được cảm nhận từ tình yêu, sự gắn bó, trân trọng của chính nhà
văn và được viết nên bởi ngòi bút văn xuôi trữ tình, bay bổng, tràn đầy cảm xúc.
Bên cạnh đó, nét đặc sắc trong các sáng tác của Linh Nga Niê Kdam còn thể
hiện ở chỗ chị phản ánh rất sinh động chân dung, tính cách con người Tây Nguyên
cùng nền văn hóa đậm đà bản sắc các dân tộc Tây Nguyên. Đó là những con người
sống mạnh mẽ, quả cảm, rất mực tài hoa và luôn khao khát vươn lên đổi thay cuộc
sống. Họ sinh ra lớn lên, gắn bó với núi rừng nên cách nghĩ, lối tư duy cùng lối
sống, lối ứng xử rất giản dị, hồn nhiên, chân thực nhưng cũng rất phóng khoáng,
lãng mạn. Họ chính là chủ nhân, là người sáng tạo, lưu truyền và gìn giữ cảnh sắc
thiên nhiên cũng như những phong tục tập quán, văn hóa các dân tộc Tây Nguyên.
Qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay Tây Nguyên vẫn là một cộng đồng dân tộc
giàu bản sắc văn hóa. Nét đẹp văn hóa của họ thể hiện rõ trong kiến trúc nhà ở,
trong nghề thủ công, trang phục truyền thống, trong ẩm thực, các loại nhạc cụ dân
gian....; đặc biệt hơn là nét đẹp văn hóa thể hiện trong những ngày lễ hội, trong đời
sống tâm linh, những tục cưới xin, tang ma, sinh con đẻ cái… Tất cả những nét đẹp
văn hóa đó giúp độc giả có cài nhìn sâu sắc hơn về cuộc sống, con người trên mảnh
đất này thông qua các trang bút kí và truyện ngắn của nhà văn Linh Nga Niê Kdam.
Mặc dù rất tự hào về mảnh đất, con người Tây Nguyên giàu bản sắc văn hóa
nhưng Linh Nga Niê Kdam vẫn tỉnh táo nhận ra những khó khăn thách thức mới đối
với mảnh đất này: địa thế không thuận lợi, thời tiết khắc nghiệt, thiên tai bão lũ, đói
nghèo, lạc hậu, với những hủ tục nặng nề vẫn đang là rào cản con đường phát triển đi
lên của nhân dân Tây Nguyên trong thời kì hiện đại. Nhà văn cũng đau đớn nhận thấy
sự tha hóa trong lối sống, sự xuống cấp về đạo đức, nhân phẩm của một số những
người con bản địa ở nơi đây. Những tác động tiêu cực từ mặt trái của đời sống kinh tế
thị trường với lối sống thực dụng coi đồng tiền là trên hết; từ sự thay đổi tín ngưỡng,
tôn giáo một cách nhẹ dạ, cả tin, mù quáng là một trong nhiều nguyên nhân khiến cho
văn hóa Tây Nguyên ngày càng bị phai nhạt, mất mát, môi trường thiên nhiên, môi
trường xã hội ở vùng cao ngày càng bị tổn thương nghiêm trọng. Trăn trở, lo âu về
vấn đề này, nhà văn tha thiết kêu gọi tất cả mọi người - dù là ai chăng nữa cũng cần
có ý thức bảo vệ những giá trị văn hóa truyền thống quý báu của dân tộc và phát huy
những truyền thống ấy trong đời sống hôm nay để mãi mãi con cháu biết và tự hào về
cha ông, về dòng tộc, về quê hương đất nước của mình.
103
Để thể hiện được những nội dung đó một cách sâu sắc, nhà văn đã sử dụng
một số yếu tố nghệ thuật rất hiệu quả, góp phần mang lại những thành công nhất
định cho các tác phẩm văn xuôi của mình. Đó là nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ
đậm màu sắc Tây Nguyên, không thể trộn lẫn. Cùng với ngôn ngữ chuẩn mực
(toàn dân), nhà văn đan cài vào tác phẩm của mình một hệ thống ngôn ngữ bằng
tiếng dân tộc Ê đê, kết hợp sáng tạo một loạt các ngôn từ cùng một loạt các hình
ảnh và cách diễn đạt mới mẻ; đưa nhạc tính vào những câu văn xuôi khiến cho
văn chương của chị rất mượt mà, trữ tình, bay bổng, giàu cảm xúc và dễ đi vào
lòng người đọc. Cùng với ngôn ngữ nghệ thuật độc đáo vừa quen thuộc vừa mới
lạ, nhà văn còn dụng công trong việc xây dựng cốt truyện, tình huống truyện
(giàu kịch tính), lồng chất sử thi huyền thoại vào những trang văn… đem lại sự
mới mẻ, hứng thú cho người đọc.
3. Thông qua những tác phẩm truyện - ký giàu tính chân thực, phong phú về
nội dung phản ánh và có nhiều nét mới lạ, độc đáo về nghệ thuật, Linh Nga Niê
Kdam đã tự khẳng định được vị trí và những đóng góp quan trọng của mình trong
văn xuôi các dân tộc Tây Nguyên. Điểm thành công nhất trong văn xuôi của chị là
đã biết kế thừa tinh hoa văn hoá, văn học truyền thống một cách đầy sáng tạo. Văn
chương của chị vừa thể hiện được tư duy hiện đại lại vừa phảng phất hơi thở sử thi
huyền thoại; vừa chặt chẽ giàu triết lý vừa lãng mạn bay bổng thiết tha và dịu dàng
đầy nữ tính. Bằng sự nỗ lực, bằng sức sáng tạo và trên hết là bằng tình cảm, trái tim
nhiệt thành, luôn hướng về Tây Nguyên, Linh Nga Niê Kdam đã góp thêm một
tiếng nói tâm hồn của người vùng cao Tây Nguyên trong đời sống văn học các
DTTS thời kì hiện đại. Chị xứng đáng là nhà văn nữ DTTS tiêu biểu, là người có
nhiều cố gắng góp phần làm giàu có thêm bản sắc dân tộc đối với nền văn học Việt
Nam trong thời kì Đổi mới và Hội nhập.
104
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh, Bích Thu (chủ biên) (2001), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt
Nam giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945, NXB Văn học.
2. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, NXB ĐH Quốc gia.
3. Phạm Đăng Dư, Lê Lưu Oanh (1997), Giáo trình lý luận văn học, NXB Giáo dục.
4. Hà Minh Đức (2006), Lí luận văn học, NXB Giáo dục.
5. Hà Minh Đức, Lê Bá Hán (1995), Cơ sở lí luận văn học tập II, NXB Đại học
và Trung học chuyên nghiệp.
6. H’Linh Niê (1997), Con Rắn màu xanh da trời, Tập truyện ngắn, NXB Văn
hóa dân tộc.
7. H’Linh Niê (1999), Trăng Xí Thoại, Tập bút ký, NXB Quân đội.
8. H’Linh Niê (2003), Đi tìm hồn chiêng, Tập bút ký, NXB Quân đội.
9. H’Linh Niê (2004), Gió đỏ, Tập truyện ngắn, NXB Hội Nhà Văn.
10. H’Linh Niê (2005), Chân dung văn nghệ sĩ Tây Nguyên, Tập bút ký, NXB
Văn hóa dân tộc.
11. H’Linh Niê (2008), Nhân danh ai ?, Tập bút ký, NXB Quân đội.
12. H’Linh Niê (2009), Pơ Thi mênh mang mùa gió, Tập truyện ngắn, NXB Văn
hóa dân tộc.
13. H’Linh Niê (2015), Tại gió mà nhớ, NXB Văn hóa Dân tộc.
14. H’Linh Niê, Trần Hồng Lâm, Niê Thanh Mai, Siu H’Kết (2014), Bốn cây
Knia, NXB Văn hóa Dân tộc.
15. Võ Thị Hà (2012), Niềm hạnh phúc đáng trân trọng,
http://www.linhnganiekdam.vn/, ngày 09/05/2012.
16. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2001), Từ điển thuật ngữ văn
học, NXB Giáo dục.
17. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (chủ biên)
(2004), Từ điển văn học (bộ mới), NXB Thế giới.
18. Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (2007), Văn học nghệ
thuật các dân tộc thiểu số thời kì đổi mới, NXB Văn hóa dân tộc.
19. Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (2011), Văn xuôi dân
tộc và miền núi đầu thế kỷ XXI, NXB Văn hóa dân tộc.
105
20. Hoàng Ngọc La (chủ biên) (2002), Văn hóa dân gian Tày, Sở Văn hóa -
Thông tin Thái Nguyên
21. Phương Lựu (2006), Lí luận văn học, NXB Giáo dục.
22. Niê Thanh Mai (2005), Suối của rừng, NXB Văn hóa Dân tộc.
23. Niê Thanh Mai (2007), Về bên kia núi, NXB Văn hóa Dân tộc.
24. Niê Thanh Mai (2010), Ngày mai sáng rỡ, NXB Văn hóa Dân tộc.
25. Linh Nga Niê Kdam (chủ biên) (2015), Văn học các dân tộc thiểu số Trường
Sơn - Tây Nguyên, NXB Văn hóa Dân tộc.
26. Phạm Duy Nghĩa (2008), Văn xuôi miền núi và vấn đề truyền thống, hiện đại,
http://toquoc.vn/van-chuong-va-du-luan/van-xuoi-ve-dan-toc-va-mien-nui-tu-
1986-den-nay-105885.html, ngày 06/07/2010.
27. Nguồn http://kmacle.duytan.edu.vn, Bản sắc văn hóa Tây Nguyên - Những
biểu hiện đặc sắc.
28. Nguồn http://www.linhnganiekdam.vn/, Văn hóa dân gian Tây Nguyên.
29. Đào Thủy Nguyên, Dương Thu Hằng (2014), Bản sắc văn hóa dân tộc trong văn
xuôi của các nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam, NXB Đại học Thái Nguyên.
30. Nhà xuất bản Sự thật (1956), Văn hóa là gì, trích dịch trong bộ “Đại Bách
khoa toàn thư của Liên Xô”.
31. Kim Nhất (1994), Mụ Xoặi, Hội Văn hóa nghệ thuật Đăk Lăk.
32. Kim Nhất (1998), Ly hôn, NXB Văn hóa Dân tộc.
33. Kim Nhất (1999), Động rừng, NXB Văn hóa Dân tộc.
34. Kim Nhất (2003), Hồn ma núi, NXB Quân đội nhân dân.
35. Kim Nhất (2005), Huyền thoại Bok Kron, NXB Quân đội nhân dân.
36. Nhiều tác giả (1997), 40 năm văn hóa nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt
Nam (1945 - 1985), NXB Văn hóa.
37. Nhiều tác giả (1997), Tiếng nói các nhà văn Dân tộc thiểu số, NXB Văn hóa
Dân tộc.
38. Nhiều tác giả (2003), Bách khoa tri thức phổ thông, NXB Văn hóa thông tin.
39. Nhiều tác giả (2015), Phái đẹp, cuộc đời và cấy bút, NXB Hội Nhà văn.
40. Vương Tâm (2013), Có một người Hà Nội ở Ban Mê,
http://www.linhnganiekdam.vn/, ngày 06/07/2013.
41. Chu Thị Dạ Thảo (2012), http://www.linhnganiekdam.vn/, ngày 26/10/2012.
106
42. Trần Ngọc Thêm (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục
43. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm hiểu về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB TP HCM.
44. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam,
NXB Trẻ Tp. Hồ Chí Minh.
45. Đặng Bá Tiến (2013), Hiểu đúng mới bảo tồn được văn hóa Tây Nguyên,
http://www.linhnganiekdam.vn/, ngày 26/08/2013.
46. Lâm Tiến (2011), Gian nan về với cội nguồn, http://www.linhnganiekdam.vn/,
ngày 20/05/2012
47. Lâm Tiến (2011), Tiếp cận văn học dân tộc thiểu số, NXB Văn hóa thông tin.
48. Phạm Quang Trung (2010), Hồn cây sắc núi - Tiểu luận phê bình văn chương,
NXB Hội Nhà văn.
49. Trần Thị Việt Trung (2014), Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam - Truyền
thống và hiện đại, NXB Đại học Thái Nguyên.
50. Trần Thị Việt Trung (chủ biên) (2010), Bản sắc dân tộc trong thơ các dân tộc
thiểu số Việt Nam hiện đại, NXB Đại học Thái Nguyên
51. Trần Thị Việt Trung (chủ biên) (2013), Nghiên cứu, lí luận phê bình Văn học dân
tộc thiểu số Việt Nam - Diện mạo và đặc điểm, NXB Đại học Thái Nguyên.
52. Trần Thị Việt Trung, Cao Thị Hảo (đồng chủ biên) (2015), Văn học dân tộc thiểu
số Việt Nam thời kì hiện đại - Một số đặc điểm, NXB Đại học Thái Nguyên.
53. Vũ Anh Tuấn (chủ biên) (2014), Giáo trình Văn học dân gian, NXB Giáo dục.
54. Website văn học và nhà trường, Kết cấu trong văn xuôi dân tộc thiểu số.
55. Y Điêng (1985), Drai Hlinh đi về phía sáng, NXB Văn hóa dân tộc.
56. Y Điêng (1994), Chuyện bên bờ sông Hinh, NXB Văn hóa dân tộc.
57. Y Điêng (1995), Sông Hinh, con sông quê hương, NXB Văn hóa dân tộc.
58. Y Điêng (2001), Chuyện bên bờ sông Hinh, tập 1, NXB Văn hóa dân tộc.
59. Y Điêng (2005), Chúng tôi đốt lửa, Hội Văn hóa nghệ thuật Đăk Lăk.
60. Y Du La Niê (2012), Đọc truyện ngắn gió trên đỉnh Ngok Linh,
http://www.linhnganiekdam.vn/, ngày 30/07/2012.