ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

VŨ THANH LOAN

VĂN XUÔI LINH NGA NIÊ KDAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2017

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

VŨ THANH LOAN

VĂN XUÔI LINH NGA NIÊ KDAM

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã ngành: 60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN THỊ VIỆT TRUNG

THÁI NGUYÊN - 2017

i

LỜI CẢM ƠN

Sau một thời gian học tập và nghiên cứu, đến nay tôi đã hoàn thành Luận

văn Thạc sĩ khoa học với đề tài: Văn xuôi Linh Nga Niê Kdam (H’Linh Niê).

Với tình cảm chân thành, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc với PGS.TS.

Trần Thị Việt Trung - người đã tận tình hướng dẫn tôi thực hiện và hoàn

thành Luận văn.

Tôi xin cảm ơn nhà văn Linh Nga Niê Kdam đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi

về tư liệu để tôi hoàn thành phần nghiên cứu của mình.

Tôi xin cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng Quản lý khoa học, khoa Sau đại

học, khoa Ngữ văn, các thầy cô trong tổ Văn học Việt Nam - Trường Đại học

khoa học - Đại học Thái Nguyên, các thầy cô công tác tại Viện Văn học đã

giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.

Tôi cũng xin cảm ơn Ban giám hiệu Trường THPT Vũ Văn Hiếu, các

đồng nghiệp, gia đình và bạn bè đã giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tôi

hoàn thành tốt khóa học này.

Thái Nguyên, tháng 05 năm 2017

Tác giả luận văn

Vũ Thanh Loan

ii

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................. i

MỤC LỤC .................................................................................................................. ii

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 1

2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................... 2

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ..................................................................... 8

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ............................................................... 8

5. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................ 9

6. Cấu trúc của luận văn.......................................................................................... 9

7. Đóng góp mới của luận văn .......................................................................... 9

Chương 1. VÀI NÉT VỀ VĂN XUÔI TÂY NGUYÊN THỜI KÌ HIỆN

ĐẠI VÀ NỮ NHÀ VĂN LINH NGA NIÊ KDAM ......................... 10

1.1. Vài nét về văn xuôi Tây Nguyên thời kì hiện đại .......................................... 10

1.1.1. Văn xuôi Tây Nguyên trước Đổi Mới (1986) ........................................ 10

1.1.2. Văn xuôi Tây Nguyên sau Đổi Mới (1986) ........................................... 14

1.2. Nhà văn nữ Linh Nga Niê Kdam ................................................................... 17

1.2.1. Vài nét về tiểu sử .................................................................................... 17

1.2.2. Linh Nga Niê Kdam - người con luôn hướng về nguồn cội .................. 20

Tiểu kết chương 1...................................................................................................... 22 Chương 2. CẢM HỨNG VỀ CUỘC SỐNG VÀ CON NGƯỜI TÂY NGUYÊN ... 24

2.1. Tình yêu, niềm tự hào về mảnh đất, con người Tây Nguyên ........................ 24

2.1.1. Một vùng đất hùng vĩ, lãng mạn............................................................. 24

2.1.2. Một cộng đồng dân tộc giàu bản sắc văn hoá ........................................ 34

2.1.3. Những con người dũng cảm, tài hoa và khát khao đổi thay cuộc sống ...... 47

2.2. Nỗi niềm cùng những dự cảm về cuộc sống, con người và bản sắc văn hóa

quê hương .............................................................................................................. 53

2.2.1. Những khó khăn, thách thức của cuộc sống thời kì hiện đại .......................... 53

2.2.2. Sự tha hoá của con người bản địa........................................................... 60

iii

2.2.3. Sự phai nhạt bản sắc văn hoá, sự tổn thương môi trường sinh thái

Tây Nguyên ...................................................................................................... 66

Tiểu kết chương 2...................................................................................................... 73

Chương 3. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ NGHỆ THUẬT ........................................ 74

3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật đậm chất Tây Nguyên ................................................. 74

3.1.1. Ngôn ngữ nghệ thuật đậm dấu ấn dân tộc .............................................. 74

3.1.2. Ngôn ngữ nghệ thuật đậm chất trữ tình .................................................. 84

3.2. Cốt truyện, tình huống truyện giàu kịch tính, mang màu sắc hiện đại .......... 92

Tiểu kết chương 3.................................................................................................... 100

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 101

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 104

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Tây Nguyên là một vùng địa - văn hóa đặc biệt: vùng cao nguyên đất đỏ Bazan với những cánh rừng bạt ngàn xanh bất tận, những thác nước vừa dữ dội vừa

rất đỗi nên thơ, những mặt hồ trên cao, những dòng sông, con suối luôn ầm ào cuồn

cuộn chảy… Vùng cao nguyên đó còn có những buôn làng với mái nhà Rông cao

vút và những nhà dài, những dàn cồng chiêng, những hũ rượu cần luôn luôn đầy ắp…, đặc biệt là những người cư dân khỏe mạnh, dũng cảm, tài hoa; rất ưa nhảy

múa, ưa nghe già làng kể chuyện… Nơi đây, chứa đựng bao huyền thoại, huyền

tích, bao câu chuyện cổ và bao pho sử thi đồ sộ của các dân tộc Tây Nguyên đã có

tự ngàn đời. Nói một cách khác: Tây Nguyên chính là một vùng đất giàu bản sắc

văn hóa và có một kho tàng văn học dân gian phong phú vào loại bậc nhất trong các dân tộc thiểu số (DTTS) Việt Nam. Hai yếu tố này là cội nguồn, là nền tảng vững

chắc cho văn học Tây Nguyên thời kì hiện đại hình thành và phát triển.

Văn học Tây Nguyên thời kì hiện đại đã có hơn nửa thế kỷ hình thành và

phát triển, đến nay cũng đã có những thành tựu nhất định đáng được ghi nhận. Trên

mảnh đất cao nguyên rộng lớn ấy, các thế hệ nhà văn Tây Nguyên đã nối tiếp nhau

cầm bút viết về quê hương; về cuộc sống, con người… của một vùng núi non hùng

vĩ, thơ mộng và khắc nghiệt. Nhưng việc nghiên cứu văn học Tây Nguyên và

nghiên cứu từng tác giả là người DTTS viết văn ở nơi đây còn hết sức khiêm tốn. Vì

vậy, mảng văn học Tây Nguyên vẫn rất cần được nhiều người chú ý, tìm hiểu,

nghiên cứu để thấy được những nét đặc sắc, đặc trưng cùng những đóng góp quan

trọng của bộ phận văn học này trong việc làm phong phú hơn, đa sắc màu hơn đối

với văn học DTTS Việt Nam nói riêng và đối với văn học Việt Nam nói chung.

Trong các nhà văn Tây Nguyên thời kì hiện đại, Linh Nga Niê Kdam (tên bút danh: H’Linh Niê) là một nhà văn có sức viết dồi dào, viết nhiều thể loại (sáng tác, nghiên cứu sưu tầm, phê bình văn học - nghệ thuật) và thể loại nào chị cũng có những thành công nhất định. Nổi bật nhất, có nhiều đóng góp nhất là lĩnh vực sáng tác văn xuôi. Chị đã xuất bản 3 tập truyện ngắn và 5 tập bút ký. Văn xuôi của chị có màu sắc riêng biệt, mang đậm chất Tây Nguyên và chiếm được nhiều cảm tình của độc giả. Với những sáng tác văn xuôi của mình, Linh Nga Niê Kdam được đánh giá là một trong “Bốn cây Knia” văn học - nghệ thuật của vùng đất đỏ Tây Nguyên

giàu bản sắc. Tuy nhiên, cho đến nay việc nghiên cứu một cách hệ thống, thấu đáo

về nữ nhà văn Linh Nga Niê Kdam còn rất hạn chế. Vì vậy, rất cần có một công

2

trình nghiên cứu cụ thể, hệ thống và đầy đủ về trường hợp nhà văn Tây Nguyên tiêu biểu này. Bởi nghiên cứu về nhà văn Linh Nga Niê Kdam có nghĩa là đã nghiên cứu

một trường hợp nhà văn tiêu biểu của văn học Tây Nguyên thời kì hiện đại; là chỉ ra

được những thành công (cũng như hạn chế) của văn học khu vực này. Đồng thời

phác họa rõ nét bức chân dung của một cây bút văn xuôi tiêu biểu cùng những đóng góp của chị đối với văn học Tây Nguyên nói riêng và văn học DTTS Việt Nam hiện

đại nói chung.

Chính vì các lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài: “Văn xuôi Linh Nga Niê

Kdam” làm đề tài Luận văn Thạc sỹ của mình.

2. Lịch sử vấn đề

Linh Nga Niê Kdam là một hiện tượng văn xuôi nổi trội của văn học Tây

Nguyên thời kì hiện đại, đặc biệt là những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI. Chị đã có một số lượng tác phẩm văn xuôi đáng kể trong đó có những tác phẩm được

đánh giá cao như: Con rắn màu xanh da trời, Gió đỏ, Pơ Thi mênh mang mùa

gió, Trăng Xí Thoại, Đi tìm hồn chiêng, Nhân danh ai ?... Chị từng được nhận

Giải thưởng của Hội Văn học Nghệ thuật Dân tộc thiểu số Việt Nam và Giải thưởng của Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Chị trở thành một trong “Bốn cây Knia” của đời sống văn học - nghệ thuật Tây Nguyên. Chính vì vậy, những

sáng tác của chị, những cống hiến của chị đã được khá nhiều nhà nghiên cứu, phê

bình, nhà văn nhắc tới. Theo khảo sát của chúng tôi, đã có hàng chục bài báo, cuốn

sách có viết về chị (hoặc có nhắc đến chị với những nhận xét đánh giá cụ thể). Chị

được coi là một nhà văn Tây Nguyên tiêu biểu, một trí thức, một nhà văn hóa có uy

tín của dải đất cao nguyên rộng lớn này.

Trong các công trình, các tuyển tập nghiên cứu và giới thiệu về văn học

DTTS Việt Nam của các nhà nghiên cứu, phê bình, các nhà văn, trong đó có nhiều

nhà văn là người DTTS như: Lâm Tiến, Hoàng An, Hoàng Triều Ân, Mai Liễu, Lò

Ngân Sủn, Vương Trung, Phạm Quang Trung, Trần Thị Việt Trung, Phạm Duy Nghĩa, Nguyễn Đức Hạnh, Đào Thuỷ Nguyên, Cao Thị Hảo… và của Hội Văn học DTTS Việt Nam hay trong các Tuyển tập, các Kỷ yếu Hội thảo về văn học DTTS, ta đều thấy xuất hiện tên của nữ nhà văn Linh Nga Niê Kdam. Có thể kể tên một số

công trình nghiên cứu tiêu biểu như: Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện

đại (Lâm Tiến), Bản sắc văn hóa dân tộc trong văn xuôi của các nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam (PGS.TS. Đào Thủy Nguyên (chủ biên) - TS. Dương Thu Hằng),

Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam - Truyền thống và hiện đại (PGS.TS Trần Thị

Việt Trung và PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh đồng chủ biên), Văn học dân tộc thiểu

3

số Việt Nam thời kì hiện đại - Một số đặc điểm (PGS.TS. Trần Thị Việt Trung - PGS.TS. Cao Thị Hảo đồng chủ biên)…

Trong công trình nghiên cứu Bản sắc văn hóa dân tộc trong văn xuôi của

các nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam (PGS.TS. Đào Thủy Nguyên (chủ biên) -

TS. Dương Thu Hằng), các tác giả đã chỉ ra khá rõ nét đặc điểm văn chương của nhà văn Linh Nga Niê Kdam (H’Linh Niê): “Trong các sáng tác H’Linh Niê, người đọc

được sống với không khí âm nhạc của con người và núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ bởi

âm thanh cồng chiêng, bởi những đêm kể Khan truyền thống, bởi lời ca tiếng hát luôn

ngập tràn bất tận trong cuộc sống con người Tây Nguyên” [29, tr.100-101]; ở đó,

“Những ngôi nhà sàn, nhà gác bị bán đổ, bán tháo để theo kịp trào lưu xây nhà

gạch, nhà ngói, nhà tầng hiện đại; những lễ hội truyền thống bị thương mại hóa đến

trở thành nhạt nhẽo, trơ trẽn trước mắt mọi người; sự lấn chiếm ghê gớm của văn minh đô thị đối với đời sống miền núi vốn yên ả, thanh bình… Những thực tế đau

lòng đó đang là “báo động đỏ” trên những trang văn của các nhà văn DTTS. Đặc

biệt là trong sáng tác của Cao Duy Sơn, Hà Thị Cẩm Anh, Inrasara, H’Linh Niê”

[29, tr.151]. Cũng trong công trình nghiên cứu này, các tác giả nêu bật đặc điểm nội

dung của tập bút ký Trăng Xí Thoại: “Trăng Xí Thoại của H’Linh Niê vừa ca ngợi

sự chuyển mình của những thành phố ở Tây Nguyên như Buôn Ma Thuột, Pleiku,

Kon Tum; sự đổi dời của người Dao Cư Suê, của các dân tộc ở làng Hà Giăng, ở

buôn Yung, ở Pa Sao huyện Chư Pah… vừa trăn trở trước thực trạng Tây Nguyên

trong thời kì mới. Cái xấu, cái lạc hậu chưa gột rửa hết và cái tốt đẹp, cái bản sắc

văn hóa tộc người cũng đang có nguy cơ mất mát, mai một dần” [29, tr.59]. Còn

nhận định về nghệ thuật viết truyện ngắn của chị, các tác giả viết: “Với tinh thần tìm tòi thể nghiệm, gần đây trên văn đàn đã thấp thoáng xuất hiện một số hình thức

cốt truyện mới lạ mang hơi hướng hậu hiện đại. Đó là kiểu kết truyện huyễn ảo

(đan xen các yếu tố hoang đường với các yếu tố hiện thực) như Nước soi bóng ai,

Dòng sông tóc, Hoa Pơ Lang của H’Linh Niê” [29, tr.183].

Trong công trình nghiên cứu Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại - Một số đặc điểm (PGS.TS Trần Thị Việt Trung và PGS.TS Cao Thị Hảo đồng chủ biên), các tác giả đã có những nhìn nhận, đánh giá thấu đáo về những nét

đặc sắc trong văn xuôi của nữ nhà văn DTTS Linh Nga Niê Kdam như: “H’Linh

Niê đã biết kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa chất huyền thoại và sử thi khi viết về con người, cuộc sống ở Tây Nguyên. Tác giả giới thiệu kho tàng folklore độc đáo với

những ngôi nhà Rông, những hình hoa văn, chim thú được lưu giữ trên nóc các nhà

mồ, về nghệ thuật ẩm thực xứ Tây Nguyên…, miêu tả sắc nét lễ hội đâm trâu, lễ hội

4

cồng chiêng, những nét hoa văn thổ cẩm Tây Nguyên phối hợp hài hòa giữa các gam: xanh, vàng, đỏ để làm nổi bật hai màu chủ đạo: đen và trắng (Về đâu hỡi thổ

cẩm Tây Nguyên, Trăng Xí Thoại). Tác giả ngợi ca cuộc sống mới đang chuyển

mình của dân tộc Tây Nguyên trong thời đại mới. Một bộ phận người dân đã vươn

lên trong làm kinh tế, thoát khỏi cuộc sống thiếu thốn nghèo khổ, được hưởng thụ cuộc sống mới, văn minh, có điện, có tiện nghi (Du xuân Tây Nguyên, Làng mặt

trời, Bình Minh người Dao Cư Suê, Buôn Yung mùa hoa trắng…). Người con

của núi rừng Tây Nguyên này không chỉ trăn trở trước những luật tục lạc hậu vẫn

tồn tại mà còn đau đớn, xót xa trước những di sản văn hóa đang bị mai một dần”

[52, tr.63]. Các tác giả cũng đưa ra những nhận xét rất sâu sắc và tinh tế về nghệ

thuật văn xuôi của nhà văn Tây Nguyên này: “Văn xuôi H’Linh Niê lại mang màu

sắc sử thi Tây Nguyên với chất huyền thoại khi đậm đặc lúc mờ nhạt, đan cài nhuần nhuyễn trong hình tượng nhân vật, cốt truyện hay các chi tiết sự kiện thực mà như

ảo. Đặc biệt ngôn ngữ giàu hình ảnh, giầu nhịp điệu, phép so sánh và phóng đại

được sử dụng có hiệu quả rất rõ rệt, đó là chất lãng mạn và sự bay bổng của lời

văn, câu văn. Điều này cho thấy, nguồn cội văn hóa dân gian trực tiếp tác động

sâu sắc tới tác giả chính là: kho tàng sử thi đồ sộ của các dân tộc Êđê, Bana”

[52, tr.125]. Không chỉ đánh giá về mặt nghệ thuật trong sáng tác của chị, các tác

giả còn cho chúng ta thấy thêm cả vẻ đẹp nội dung ẩn sâu trong từng sáng tác đó:

“Trong Dòng sông tóc, tác giả đã miêu tả đồng hiện đan cài giữa câu chuyện thần

thoại của con trai thần sông Srêpôk và hai người con gái của Đất và Rừng là Rinh

và Rao - trong một câu chuyện có thực về mối tình không lời của một cô gái thời

hiện đại. Qua tác phẩm này, thông điệp mà tác giả muốn gửi tới người đọc là: Tình yêu ở thời nào cũng vậy - nó có một sức mạnh diệu kì - làm cho người con trai và

người con gái đẹp rực rỡ trong mắt nhau; vì thế nếu không còn tình yêu nữa con

người sẽ trở nên khô cằn và đầy thù hận. Chính tình yêu đã nuôi dưỡng những trái

tim nhân hậu, làm sống lại những tâm hồn sỏi đá” [52, tr.84-85].

Qua các công trình nghiên cứu đó, ta đều thấy cái tên Linh Nga Niê Kdam được nhắc đến như một nhà văn nữ Tây Nguyên tiêu biểu; nội dung và nghệ thuật văn xuôi của chị luôn có sự kết hợp nhuần nhuyễn tính truyền thống và hiện đại.

Chị là một nhà văn có nhiều đóng góp cho văn học Tây Nguyên nói riêng và văn

học DTTS Việt Nam thời kì hiện đại nói chung.

Bên cạnh các công trình nghiên cứu kể trên, còn có một số bài báo, bài giới

thiệu, nhận xét, đánh giá, bình luận của một số nhà phê bình, nhà văn viết trực tiếp

về Linh Nga Niê Kdam và các sáng tác của chị. Có thể kể đến bài bút ký Thư ngỏ

5

gửi nữ nhà văn H’Linh Niê (in trong cuốn Trăng Xí Thoại xuất bản năm 1999), tác giả Y Hoan Drai Êban viết: “Trăng Xí Thoại không giống trăng trung thu,

không phải trăng rằm vằng vặc. Càng không phải thứ trăng suông nhạt nhẽo. Nó là

bức họa nhân tình của người viết, ánh lên ý tưởng của văn, của người” [7, tr.252];

“Đọc Trăng Xí Thoại càng quý thứ văn không mời gọi bạn đọc theo mình. Bằng những hình ảnh, hình tượng ở những khách thể quanh mình, dường như tác giả chỉ cốt ghi lại

cho chính mình. Song người đọc lại tìm ra ý tưởng văn chương - nhiệm vụ văn học - ý

tưởng của người cầm bút luôn hướng tới việc của quê hương” [7, tr.252]. Cũng nhận

xét về tập bút ký Trăng Xí Thoại nhưng trong bài Số phận của Folklore Tây

Nguyên và cái tâm của một nhà văn nữ Êđê (in trong cuốn Tiểu luận - Phê bình

văn chương Hồn cây sắc núi, NXB Hội Nhà văn 2010), tác giả Phạm Quang Trung

lại nhìn thấy: dù có rất nhiều vấn đề ngổn ngang đang đặt ra ở Tây Nguyên nhưng H’Linh Niê chọn riêng vấn đề folklore để viết vì nó phù hợp với sở trường của chị

và nó thể hiện được sự hiểu biết, niềm tin cũng như tiếng gọi thiết tha của chị về

việc bảo tồn văn hóa Tây Nguyên. Ông viết: “H’Linh Niê đã thực sự nhập vào văn

hóa các tộc người Tây Nguyên để mỗi lời chị thốt ra như lôi kéo, như mời gọi bạn

đọc, khó mà cưỡng lại nổi sức lôi cuốn của những lời như vậy! Xem ra, không ai có

đủ thẩm quyền như H’Linh Niê - đứa con ruột rà của núi rừng Cao nguyên - khi

làm cái công việc rất khó khăn mà cũng thật ý nghĩa là giới thiệu nền văn hóa dân

gian Tây Nguyên lạ lẫm và độc đáo để thế giới tinh thần của cả cộng đồng các dân

tộc Việt Nam giàu có thêm lên” [48, tr.158-159]. Trên Báo điện tử Toquoc.vn năm

2010, tác giả Phạm Duy Nghĩa trong bài Văn xuôi về dân tộc và miền núi từ 1986

đến nay, đã nhận xét riêng về ký của H’Linh Niê: “Ký của H’Linh Niê sắc sảo, tâm huyết, đào sâu vào các mặt đời sống của các dân tộc Tây Nguyên làm rạng lên

những nét riêng độc đáo trong lễ hội, nhà cửa, folklore, thổ cẩm ... đậm bản sắc;

chỉ ra cái xấu chưa lụi tàn, cái tốt đang khởi sắc và cả cái đẹp đang mai một. Nhiều

bài kí của nữ nhà văn - nhạc sĩ này là những thông điệp SOS trước hiện tượng mất mát từng ngày của văn hoá truyền thống ở Tây Nguyên” [26]. Khái quát hơn, nhà lý luận phê bình văn học DTTS Lâm Tiến trong bài Gian nan về với cội nguồn (in trên báo Văn nghệ năm 2011) đã chỉ ra những nét riêng đặc sắc của cả hai thể loại

văn xuôi: truyện và ký Linh Nga Niê Kdam như: “Đọc truyện, ký của H'Linh Niê,

người đọc như được ngắm một bức tranh toàn cảnh về văn hóa, con người, cuộc sống Tây Nguyên từ xa xưa cho tới nay, từ cái chung cho tới cái riêng độc đáo, cụ

thể, hấp dẫn. Sức hấp dẫn của các truyện ký H'Linh Niê không phải chỉ ở nội dung,

con người, cuộc sống thiên nhiên đẹp đẽ, thơ mộng, nguyên sơ của nó mà còn ở

6

cách viết. Một cách viết vừa giống vừa khác với các nhà văn dân tộc thiểu số miền Bắc. Cái khác của H'Linh Niê là bắt đầu từ nguồn gốc của dân tộc mình, từ văn hóa

Êđê. Đó là chất huyền thoại sử thi mà các nhà văn miền Bắc không thể nào có

được” [46]. Tác giả Vương Tâm trong bài báo Có một người Hà Nội ở Ban Mê (in

trên báo Người Hà Nội năm 2013), đã chỉ ra một phong cách riêng của nhà văn Tây Nguyên này: “Với một phong cách lịch lãm và lãng mạn, đậm chất Hà Nội, Linh

Nga sáng tác ca khúc hay viết truyện ngắn, với bút danh H’Linh Niê, đều chất chứa

cảm xúc da diết trong một cấu trúc hiện đại. Với những tập truyện ngắn như Gió đỏ

hay Con rắn màu xanh da trời hoặc hàng chục bài hát về cao nguyên, người đọc

có thể nhận biết ở Linh Nga, chính là một cô gái Hà Nội say đắm với quê hương

của mình đến như thế nào” [40]. Trong bài viết Hiểu đúng mới bảo tồn được văn

hóa Tây Nguyên (in trên báo Lao động năm 2013), tác giả Đặng Bá Tiến vừa đánh giá về Linh Nga Niê Kdam vừa bày tỏ sự yêu thích với một số đặc điểm văn chương

của chị: “Tôi đã sống ở Tây Nguyên 20 năm, nên biết khá nhiều về chị. Đó là một

người đàn bà đa cảm, đa tài: Đã tốt nghiệp Đại học Thanh nhạc & Đại học Sáng

tác âm nhạc, từng là giọng đơn ca chính của Đoàn Ca múa Tây Nguyên, nhưng sau

đó "nhảy" cả vào văn chương, báo chí và nghiên cứu... Đọc văn chị, tôi rất thích lối

viết dân dã, bộc trực, đầy hình ảnh kiểu như thế này “Rượu chưa uống, bụng kiến

đã bò. Rượu chưa thử, ruột lửa đã cháy” (Gió vẫn thổi từ rừng) và thích sự mượt

mà, tinh tế, đầy ắp cảm xúc: “Đêm choàng nhanh chiếc áo đen lên vạn vật, nhưng

trăng mười sáu vẫn trong trẻo xanh giữa trời... Có phải trăng là nhân chứng duy

nhất hàng ngàn đời nay đồng hành cùng mọi lễ, hội Tây Nguyên? Ôi, nếu không

còn những đêm như thế này, những câu hát tuyệt vời thế kia còn không, nhịp chiêng náo nức ấy còn không, và bàn tay dịu mềm của em, của chị, của bao người phụ nữ

Tây Nguyên có còn được bay lên như cánh chim Ch’rao...?” (Trăng Xí Thoại). Có thể

gọi, chị là “người đàn bà không bao giờ chịu ngồi yên, không bao giờ chịu rảnh rang”

[45] ... Còn nhà thơ, nhà nghiên cứu Lò Ngân Sủn trong bài Có phải H’Linh Niê là tình yêu (in lại trong cuốn Phái đẹp, cuộc đời và cây bút, NXB Hội Nhà Văn Việt Nam 2015) lại có những phát hiện rất thú vị sau khi đọc xong Tập truyện ngắn Con Rắn màu xanh da trời của H’Linh Niê: “H’Linh Niê không những tả tình rất giỏi,

các đoạn tả tình của chị rất cụ thể, chi li mà không bị sa vào phàm tục, gian dâm …

mà còn tả người đẹp, cảnh đẹp cũng hay, cũng hấp dẫn” [39, tr.374-376]. Tác giả Lò Ngân Sủn còn phát hiện ra cái hay trong truyện của chị: “Tác giả đã khắc họa

được các nhân vật, cốt truyện có hình hài, đường nét, được thể hiện trong một cấu

tứ, bố cục hợp lý, ngôn ngữ uyển chuyển, hài hòa, tỏa hương. Đặc biệt, tác giả hòa

7

lẫn, pha trộn được cái chất cổ tích, dân ca, tục ngữ, thành ngữ cũng như phong tục tập quán Tây Nguyên trong nội dung, cốt truyện hiện đại” [39, tr.377].

Nhà văn Linh Nga Niê Kdam không chỉ được các tác giả nhắc đến trong các

bài viết, chị còn được giới thiệu trên Đài tiếng nói Việt Nam. Khi giới thiệu về chị

(trên Đài tiếng nói Việt Nam năm 2012), trong bài Niềm hạnh phúc đáng trân trọng, tác giả Võ Thị Hà viết: “Linh Nga Niê Kdam luôn đau đáu về sự mất mát theo tháng,

theo ngày những vẻ đẹp tinh khiết, nguyên sơ, hoang dã mà riêng biệt của không gian

văn hóa Tây Nguyên. Linh Nga Niê Kdăm đã dành trọn cuộc đời mình cho những

hoạt động văn hóa nghệ thuật chuyên biệt về Tây Nguyên. Những gì mà Linh Nga Niê

Kdam đã sáng tạo, gìn giữ, quảng bá cho văn hóa Tây Nguyên thực sự là những cống

hiến hết sức thầm lặng và có ý nghĩa to lớn” [15].

Một số Luận án, Luận văn Tiến sĩ, Thạc sĩ Ngữ văn, Khóa luận tốt nghiệp Đại học nghiên cứu về văn xuôi DTTS cũng có nhắc đến cây bút Linh Nga Niê Kdam.

Trong Luận án Tiến sĩ: Văn hóa và con người Tây Nguyên trong văn xuôi nghệ

thuật 1945 - 2000 (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí

Minh), tác giả Đặng Văn Vũ nhắc tới Linh Nga Niê Kdam như một đại diện tiêu biểu

của văn xuôi Tây Nguyên giai đoạn này. Khóa luận tốt nghiệp Đại học: Truyện ngắn

H’Linh Niê của Chu Thị Dạ Thảo (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

Thành phố Hồ Chí Minh) đã nghiên cứu trực tiếp về truyện ngắn của nhà văn Linh

Nga Niê Kdam và đưa ra những nhận xét khá xác đáng như: “Được khơi nguồn cảm

hứng từ tình yêu tha thiết đối với mảnh đất và con người Tây Nguyên, truyện ngắn

của H’Linh Niê tập trung thể hiện những đề tài chính như : tình yêu đôi lứa, tình cảm

gia đình, cộng đồng của những con người trong buôn làng. Ở mỗi mảng đề tài, tác giả lại đi vào khám phá những khía cạnh tinh tế nhất, đặc sắc nhất, từ đó khái quát

nên tính nhân văn cao cả hoặc rút ra bài học kinh nghiệm quý báu” [41] …

Không chỉ có các nhà phê bình, các nhà văn, các tác giả Luận án, Luận văn

Tiến sĩ, Thạc sĩ Ngữ văn, Khóa luận tốt nghiệp Đại học tìm hiểu về văn xuôi DTTS nhắc đến cây bút Linh Nga Niê Kdam hoặc nghiên cứu trực tiếp về văn xuôi của chị mà ngay cả những sinh viên Đại học cũng đã tìm đến và rất yêu thích văn xuôi H’Linh Niê. Trong bài Đọc truyện ngắn Gió trên đỉnh Ngok Linh, YDu La Niê

(sinh viên Trường Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh năm

2012) đã có nhận xét khá tinh tế: “Ngôn ngữ truyện giản dị, trong sáng, mang dáng dấp ngôn ngữ vùng Tây Nguyên. Ở câu chữ thể hiện một cái gì đó chất phác, đơn

giản. Câu chữ không đặt nặng vấn đề biểu trưng nhiều. Phù hợp với phong cách

vùng miền. Một phong cách miêu tả riêng với sự so sánh đặc biệt… Xét trên góc độ

8

văn học, có thể thấy tác phẩm được tác giả miêu tả một cách chân thực. Tình tiết được xây dựng một cách xuyên suốt, không có sự trùng lặp; mang lại cho độc giả

một cái nhìn mới cho nội dung tác phẩm” [60]…

Qua khảo sát bước đầu những bài nghiên cứu, bài viết, những nhận xét về tác

giả Linh Nga Niê Kdam cùng những sáng tác của chị, chúng tôi nhận thấy: Tuy là một nhà văn nữ Tây Nguyên tiêu biểu nhưng việc nghiên cứu về tác giả nói chung

cũng như nghiên cứu về văn xuôi của Linh Nga Niê Kdam nói riêng hiện vẫn còn ở

mức độ khiêm tốn, chưa xứng với tầm vóc và những đóng góp của chị. Vì vậy, rất

cần thiết phải có một công trình nghiên cứu hệ thống, tương đối đầy đủ về những

sáng tác của cây bút văn xuôi Tây Nguyên này. Thứ nhất là: để góp phần phác hoạ

bức chân dung nhà văn nữ Linh Nga Niê Kdam; thứ hai là: chỉ ra những đặc điểm

nổi bật trong văn xuôi của nhà văn để thấy được những nét riêng, những sáng tạo cũng như thấy được những đóng góp đáng ghi nhận của chị trong đời sống văn học

Tây Nguyên nói riêng, văn học các DTTS Việt Nam hiện đại nói chung.

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: những tác phẩm văn xuôi của nhà

văn Tây Nguyên Linh Nga Niê Kdam, bao gồm: 03 tập truyện ngắn (Con rắn màu

xanh da trời, Gió đỏ, Pơ Thi mênh mang mùa gió) và 05 tập bút ký (Trăng Xí

Thoại, Đi tìm hồn chiêng, Nhân danh ai ?, Chân dung văn nghệ sĩ Tây Nguyên,

Tại gió mà nhớ)

- Bên cạnh đó, chúng tôi khảo sát một số tác phẩm văn xuôi của một số cây

bút DTTS Tây Nguyên khác để có cái nhìn tổng thể về văn học Tây Nguyên và để so sánh đối chiếu với văn xuôi của tác giả Linh Nga Niê Kdam (ví dụ như các sáng

của các nhà văn: Y Điêng, Kim Nhất, Niê Thanh Mai …)

3.2. Mục tiêu nghiên cứu

Luận văn cố gắng làm rõ những đặc điểm cơ bản về nội dung, nghệ thuật trong sáng tác văn xuôi của Linh Nga Niê Kdam và chỉ ra những đóng góp của nhà văn với văn học Tây Nguyên nói riêng, văn học DTTS Việt Nam nói chung.

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện đề tài Luận văn, chúng tôi xác định những nhiệm vụ cần phải

giải quyết là:

- Nêu những đặc điểm khái quát về văn xuôi Tây Nguyên thời kì hiện đại

(làm cơ sở thực tiễn để giới thiệu cây bút văn xuôi Linh Nga Niê Kdam).

9

- Nêu những đặc điểm cơ bản trong văn xuôi của Linh Nga Niê Kdam và làm sáng tỏ các đặc điểm đó ở cả hai phương diện: nội dung và nghệ thuật (cả thành tựu

và hạn chế - nếu có).

- Chỉ ra những nét đặc sắc, những đóng góp đáng trân trọng của nữ nhà văn

Tây Nguyên này đối với văn học Tây Nguyên nói riêng và đối với văn học DTTS Việt Nam hiện đại nói chung.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng một số phương pháp

nghiên cứu cơ bản sau:

- Phương pháp nghiên cứu tác giả, tác phẩm (theo đặc trưng thể loại).

- Phương pháp phân tích tổng hợp.

- Phương pháp so sánh đối chiếu. - Phương pháp nghiên cứu liên ngành (Văn học với Văn hoá học, Lịch sử và

Dân tộc học).

- Vận dụng Lý thuyết Phê bình sinh thái.

5. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu những đặc điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật trong

các tác phẩm văn xuôi của Linh Nga Niê Kdam, cụ thể là trong 8 cuốn văn xuôi (3

tập truyện ngắn và 5 tập bút ký đã đề cập ở trên).

6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần Nội dung chính của đề tài gồm 3 chương:

Chương 1: Vài nét về văn xuôi Tây Nguyên thời kì hiện đại và nữ nhà văn

Linh Nga Niê Kdam.

Chương 2: Cảm hứng về cuộc sống và con người Tây Nguyên.

Chương 3: Một số đặc điểm về nghệ thuật.

7. Đóng góp mới của luận văn

- Phác hoạ chân dung về nhà văn nữ Tây Nguyên Linh Nga Niê Kdam. - Chỉ ra những đặc điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật trong sáng tác văn

xuôi của Linh Nga Niê Kdam.

- Khẳng định những giá trị và đóng góp đáng trân trọng của nữ nhà văn Tây

Nguyên này đối với văn học các DTTS Việt Nam thời kì hiện đại.

10

Chương 1

VÀI NÉT VỀ VĂN XUÔI TÂY NGUYÊN THỜI KÌ HIỆN ĐẠI

VÀ NỮ NHÀ VĂN LINH NGA NIÊ KDAM

1.1. Vài nét về văn xuôi Tây Nguyên thời kì hiện đại

1.1.1. Văn xuôi Tây Nguyên trước Đổi Mới (1986)

Mảnh đất Tây Nguyên là một bình nguyên trên cao rộng lớn, tươi đẹp. Nói

như nhà nghiên cứu văn hoá dân gian, nhà văn Linh Nga Niê Kdam thì: Từ cực Bắc

là cụm núi Atouat với đỉnh Ngok Linh cao 2598m của người Sê Đăng giỏi rèn giáo

mác đến cực Nam là dãy Chư Yang Sin cao 2402m (đỉnh cao nguyên Lang Biang)

đậm chất văn hóa K’ho, qua xứ sở của điệu chinh arap Jrai đắm đuối nhịp vòng

xoang, qua quê hương Đăm San lắng nghe điệu arei Êđê rạo rực, qua những cánh

đồng rập rờn xanh sóng cỏ của đất Mnông, qua cả chân núi Hà Giăng của người

Chăm Hroaih đấu trống… đâu đâu ta cũng thấy dấu ấn của một bản sắc văn hóa đậm

đà tính dân tộc. Để có những buôn, bon, kon, plei trầm bổng tiếng ching chiêng, Tây

Nguyên đã phải trải qua nhiều cuộc xung đột và di cư của nhiều bộ tộc. Đời sống

kinh tế của con người trên mảnh đất này trước đây phụ thuộc vào nương rẫy nên họ

vừa gần gũi vừa lệ thuộc vào thiên nhiên và rất coi trọng mối quan hệ cộng đồng. Do

cuộc sống khó khăn, trình độ khoa học kĩ thuật chưa phát triển nên đời sống văn hóa

tín ngưỡng của họ phong phú và duy trì được nhiều dấu ấn văn hóa cổ. Bên cạnh đó,

người Tây Nguyên còn có năng khiếu nghệ thuật, ưa thích ca hát nhảy múa, họ lại gìn

giữ được khối lượng truyện cổ và thần thoại rất độc đáo. Tất cả những yếu tố trên là

mạch nguồn góp phần hình thành và nuôi dưỡng những nhà văn Tây Nguyên thời kì

hiện đại cùng các tác phẩm đậm bản sắc văn hoá bản địa.

Như chúng ta đã biết, văn học dân gian Tây Nguyên có một thành tựu vô

cùng rực rỡ. Nhà văn Linh Nga Niê Kdam cũng từng khẳng định: Văn học dân gian

Tây Nguyên, đặc biệt là sử thi “phong phú về giai điệu, giàu có về nội dung, đồ sộ

về khối lượng, độc đáo về hình thức trình diễn”, từng đạt đến đỉnh cao không kém

bất cứ một dân tộc nào thậm chí ngang bằng văn học cổ phương Tây. Từ những

năm 20 của thế kỉ XX, khi Sabatier (một công sứ người Pháp) lần đầu tiên công bố

sử thi Đăm San bằng tiếng Pháp, đến nay chúng ta đã tìm ra và công bố thêm nhiều

tác phẩm sử thi khác. Theo kết quả điều tra sưu tầm của Dự án Điều tra, sưu tầm,

bảo quản, biên dịch và xuất bản Kho tàng sử thi Tây Nguyên (2001 - 2007), một

11

số lượng lớn tác phẩm sử thi Tây Nguyên đã được sưu tầm và giới thiệu: Đăm Di,

Kinh Dú, Đăm Droăn, Mơ Hiêng, Y Prao, Chi Gri, Mrong Đăm, Hdung Y Thu,

Đăm Thía, Đăm San, Hơbia Mơtao Grăn Mđrông (dân tộc Êđê); Đăm Noi, Giông

nghèo tám vợ, Tre vắt nghen nghét Giông, Sử thi Bana Kriêm, Grăn Hơlăn xấu bụng

(dân tộc Ba Na); Đăm Duông bị bắt làm tôi tớ/ Đăm Duông cứu nàng Bar Ma, Dăm

Duông hóa cọp, Dăm Duông trong lốt ông già (dân tộc Xơ Đăng); Udai Ujàc, Amã

Chisa, Ama Cuvau Vong Cơi, Sa Ea, Awơi Nãi Tilơr (dân tộc Ra Glai); Đêva Mưnô,

Intra Patra, Pram Dit - Pram Lak, Ưm Mưrup (dân tộc Chăm); Chi Bri - Chibrit, Tiếng

cồng của ông bà Hbia Lơ Đă (dân tộc Chăm Hơroi); H’Điêu, Xinh Nhã, Chi Lơ

Khôngk (dân tộc Gia Rai); Cướp chiêng cổ Bon Tiăng, Lêng nghịch đá thần của Yang,

Bắt con lươn ở suối Dak Husch, Thuốc cá ở hồ Bầu Trời - Mặt Trăng (dân tộc

M’Nông) [53, tr.288] … Tên những tác phẩm đã công bố trên còn ít hơn nhiều so với

số lượng sưu tầm được và ít hơn nhiều so với thực tế. Trong cuốn Giáo trình Văn học

dân gian (GS.TS. Vũ Anh Tuấn chủ biên), các tác giả khẳng định: “Đặc biệt chúng ta

còn phát hiện ra ba bộ sử thi liên hoàn đồ sộ là Ót ndrông của người M’Nông, Đăm

Giông của người Ba Na và Dông của người Xê Đăng; mỗi bộ trên dưới một trăm tác

phẩm. Điều này khiến cho các bộ sử thi nói trên đứng vào loại các bộ sử thi có độ dài

nhất thế giới như Ramayana của Ấn Độ, Cách Tát Nhĩ của Tây Tạng, Giang Cách Nhĩ

của Nội Mông…” [53, tr.287]. Như vậy, Sử thi Tây Nguyên đã minh chứng được đầy

đủ sức sáng tạo của con người Tây Nguyên, sức sống của một “vùng thể loại sử thi” và

sự phát triển vượt bậc của văn học DTTS Việt Nam ở miền đất Bazan nóng bỏng.

Nghiên cứu về văn hóa dân gian Tây Nguyên, nhà văn Linh Nga Niê Kdam cũng từng

nói: Đã một thời, trường ca Tây Nguyên khiến “hàng ngàn người vui, buồn, hồi hộp

cùng người hát - kể lể về tâm trạng yêu thương, hờn dỗi, căm giận… của hàng

trăm nhân vật là dũng sĩ, người đẹp, thần linh, kẻ ác hay quái thú”; “Người nghe

càng chăm chú, người kể càng thăng hoa, dẫn dắt không chỉ nhân vật của mình, mà cả

khán thính giả, bay lượn khắp ba tầng trời, đất và dưới đất, dưới nước” [25].

Có thể khẳng định: Văn học dân gian Tây Nguyên được coi là giàu có, phong

phú, đồ sộ và hấp dẫn nhất trong văn học dân gian DTTS Việt Nam. Bộ sử thi

Trường ca Tây Nguyên đã được công nhận là: Di sản văn hóa Quốc gia.

Mặc dù văn học dân gian Tây Nguyên phát triển phong phú như vậy nhưng

văn học hiện đại ở Tây Nguyên đến trước năm 1986 lại chưa phát triển mạnh, chưa

tương xứng với nền văn học truyền thống. Giai đoạn này, văn học Tây Nguyên

12

thiếu vắng những tên tuổi và những sáng tác của các nhà văn - dù họ là chủ nhân

của kho tàng văn học dân gian đồ sộ này. Văn học các DTTS ở Tây Nguyên dường

như còn “chậm chân” hơn so với những dân tộc khác ở miền núi phía Bắc nước ta.

Vì sao lại như vậy? Trong cuốn Văn học các dân tộc thiểu số Trường Sơn - Tây

Nguyên 1975 - 2010, tác giả Linh Nga Niê Kdam và một số tác giả khác cho rằng:

có 6 nguyên nhân lí giải cho điều đó:

Thứ nhất, trong thời Pháp thuộc, thanh thiếu niên Tây Nguyên theo học tại các

trường Tiểu học (Pháp - Êđê, Pháp - Jrai, Pháp - K’Ho…) mở tại Buôn Ma Thuột,

Plei Ku, Đà Lạt … chỉ được học tiếng Pháp và tiếng dân tộc chứ không được học tiếng

Việt. Trước năm 1975, hệ thống các trường Phổ thông ở Tây Nguyên rất ít, cả thị xã

Buôn Ma Thuột thời chính quyền cũ chỉ có một trường Phổ thông Trung học và một

trường Sư phạm tương đương Trung cấp đào tạo giáo viên ra dạy cấp Tiểu học.

Thứ hai, sau năm 1975, môi trường diễn xướng các loại hình văn học truyền

miệng độc đáo như trường ca, sử thi ở ngay tại các bản làng trên khắp Trường Sơn -

Tây Nguyên có một thời gian khá dài bị đứt gãy do bị đánh đồng cùng các lễ nghi,

lễ hội truyền thống dân gian, với phong trào bài trừ mê tín dị đoan. Điều này khiến

cho sự tiếp nối truyền thống bị gián đoạn, đồng nghĩa với sự phát triển năng khiếu

sáng tạo văn vần và nghệ thuật diễn xướng cũng bị chặn đứt.

Thứ ba, việc tôn trọng và giáo dục văn học truyền thống bản địa của vùng

DTTS không được các cơ quan chức năng thật sự coi trọng. Lượng tri thức thanh

thiếu niên các DTTS, đặc biệt ở Tây Nguyên tiếp thu trong suốt 12 năm học ở

trường Phổ thông thiếu hẳn một “phần mềm” cần thiết, nên càng dẫn tâm hồn, năng

khiếu lớp người này xa rời với kho tàng văn học truyền thống phong phú và đậm đà

bản sắc vốn có của mình; chỉ để tiếp thu gần như hoàn toàn văn hóa miền xuôi,

thậm chí là văn học nước ngoài.

Thứ tư, sự giao lưu văn hóa với các vùng miền được mở rộng một cách tự phát

theo những đợt sóng di dân và xây dựng vùng kinh tế mới; cùng với sự xâm nhập ồ ạt,

khó kiểm soát của các tín ngưỡng thờ phụng mới, thay thế cho tín ngưỡng đa thần cổ

truyền, khiến cho một bộ phận không nhỏ, đặc biệt là đối tượng thanh thiếu niên, một

cách vô thức, quay lưng lại với sinh hoạt văn hóa truyền thống của tộc người.

Thứ năm, nhiều thập niên trước đây, các Hội Văn học Nghệ thuật chuyên

ngành ở Trung ương lẫn Hội Văn nghệ địa phương chưa quan tâm tích cực đến việc

bồi dưỡng đào tạo đội ngũ tác giả người DTTS. Những tác giả đã và đang cầm bút

13

từ những năm 1985 trở về trước, hầu hết đều khởi đầu tự phát rồi mới được đón nhận và tập hợp lại. Việc bồi dưỡng lực lượng sáng tác người DTTS chỉ mới thực

sự được quan tâm từ sau khi Hội Văn học Nghệ thuật các DTTS Việt Nam ra đời.

Thứ sáu, đời sống kinh tế các vùng đồng bào dân tộc còn nhiều thiếu thốn,

khiến ngay cả những trí thức, học sinh, sinh viên người dân tộc rất có năng khiếu cũng không muốn chọn sự gắn bó với văn chương làm con đường chính đi suốt

cuộc đời mình.

Như vậy, theo cách lí giải của tác giả Linh Nga Niê Kdam và một số tác giả

như trên, chúng ta có thể hiểu hơn lý do vì sao đội ngũ sáng tạo văn học khu vực

các DTTS bản địa Tây Nguyên lại phát triển chậm và ít như vậy.

Văn học Tây Nguyên nói chung trước năm 1975 gần như không có gì nhiều.

Đội ngũ sáng tác viết về đề tài DTTS Tây Nguyên chỉ có vài ba tác giả. Hầu hết các tác giả viết trực tiếp về Tây Nguyên đều là người miền xuôi như: nhà văn Nguyên

Ngọc với tác phẩm Đất nước đứng lên, nhà thơ Thu Bồn với trường ca Bài ca chim

Chrao, nhà văn Vũ Hạnh với tiểu thuyết Lửa rừng, nhà văn Phạm Kim Anh với

Lãng đãng mây ngàn và một số tác phẩm khác. Người đầu tiên viết về đồng tộc

mình lúc bấy giờ chỉ có Y Điêng Kpă Hô Dí (dân tộc Êđê) với truyện ngắn có dấu

ấn là Em chờ bộ đội Wa Hồ. Tiếp đến là Mlô Y Choi (cũng là người dân tộc Êđê,

tên bút danh là Mlô Y Cla Vi) với bài thơ Cô gái vót chông (đã được nhạc sĩ Hoàng

Hiệp phổ nhạc trở thành một ca khúc xanh mãi với thời gian). Cuối cùng là cây bút

làm thơ nghiệp dư Kpă Y Lăng (La Mai Chửng) vốn là một nhạc sĩ người dân tộc

Bahnar Chăm với bài thơ đậm nét dân ca Jrai Bác Hồ sống mãi với Tây Nguyên

(được nhạc sĩ Lê Lôi phổ nhạc thành ca khúc cùng tên).

Văn xuôi Tây Nguyên đặt trong sự phát triển chung của văn học Tây Nguyên

như đã nói trên cũng có thể khẳng định là chưa có nhiều thành tựu. Người viết văn

xuôi dân tộc đầu tiên ở Tây Nguyên là Y Điêng Kpă Hô Dí (sinh năm 1928 tại buôn

Thung, xã Đức Bình Đông, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên). Bản thân Y Điêng là người sớm tham gia cách mạng và cống hiến trọn đời cho cách mạng. Năm 1962, sau khi đi học lớp Viết văn khóa I tại Quảng Bá, ông mới bắt đầu sự nghiệp văn học với tác phẩm Em chờ bộ đội Wa Hồ. Mặc dù ngay sau khi ra đời, truyện ngắn này

đã được trao Giải ba Cuộc thi Truyện ngắn do báo Thống Nhất tổ chức nhưng thành

tựu của nó cũng chưa thể thúc đẩy sức sáng tạo dồi dào của Y Điêng cũng như của các nhà văn DTTS khác ở Tây Nguyên. Hai năm sau (năm 1964), ông cho ra đời tác

phẩm Ông già Krao. Mười năm sau (1974), ông mới cho ra đời thêm tác phẩm Như

14

cánh chim Kway. Nhìn chung, sáng tác văn chương của Y Điêng đến năm 1975 vẫn còn thưa thớt.

Năm 1972, văn xuôi Tây Nguyên xuất hiện thêm một gương mặt mới, đó là

Nay Nô. Nay Nô (tên khai sinh là Rchom Dray, dân tộc Jrai, sinh năm 1948, quê ở

xã Ia Tun, A Yun Pa, Gia Lai) nguyên là Phóng viên chiến trường Quân khu 5 thời kháng chiến chống Mĩ, sau đó công tác tại Ty Văn hóa - Thông tin Gia Lai, Sở Giáo

dục và Đào tạo Gia Lai. Giai đoạn đến năm 1975, Nay Nô cũng cho ra đời ba tác

phẩm: một phóng sự Dưới chân núi Ngọc Tụ (1972) và hai bút ký: Ta-man Rơh

(1973), Mùa xuân sôi động (1975).

Có thể thấy, văn xuôi Tây Nguyên giai đoạn này, vì nhiều lý do, các tác giả

đều ít sáng tác và ít công bố tác phẩm.

Giai đoạn sau 1975 đến trước năm 1986, Y Điêng nhận thấy: “Nhà văn người DTTS ít lắm, trong khi đó vốn văn hóa buôn làng sẽ dần mất đi nếu không kịp

viết lại, nhiều chuyện còn trong bụng của người già phải chép lại cho bà con bằng

cả tiếng Việt lẫn tiếng Êđê” nên ông đã tích cực viết và cho ra đời hai tác phẩm

được bạn đọc quan tâm, chú ý: tập truyện dài H’Giang (1978 - viết bằng hai thứ

tiếng Việt và Êđê được Ủy ban Dân tộc Trung ương và Hội nhà văn Việt Nam tặng

Giải thưởng) và tập bút ký Drai Hlinh đi về phía sáng (1985). Còn Nay Nô, giai

đoạn này, ông hoàn toàn im lặng, không công bố tác phẩm.

Tóm lại, giai đoạn từ 1975 đến trước Đổi Mới, văn xuôi Tây Nguyên tuy đã

có một số tác phẩm xuất hiện nhưng thực sự chưa để lại dấu ấn đáng kể. Đúng như

cuốn Văn học các dân tộc thiểu số Trường Sơn - Tây Nguyên 1975 - 2010 khẳng

định: “Bức tranh văn học khu vực Trường Sơn - Tây Nguyên giai đoạn này mới chỉ là những đường nét phác họa mảnh mai và thật sự chưa có gì nổi bật”.

1.1.2. Văn xuôi Tây Nguyên sau Đổi Mới (1986)

Từ năm 1986, được sự quan tâm tạo điều kiện của Đảng và Nhà nước, Hội

Văn học Nghệ thuật các DTTS Việt Nam được thành lập. Đặc biệt, năm 1990 Hội Văn học Nghệ thuật Đăk Lăk ra đời, văn học Tây Nguyên mới từng bước được khởi sắc, số lượng tác giả và tác phẩm tăng lên nhanh chóng. Mở đầu cho sự sôi động của văn học Tây Nguyên giai đoạn này là sự xuất hiện của nhà văn Kim Nhất. Nhà

văn Kim Nhất (sinh năm 1945) nguyên là một nữ diễn viên, người dân tộc Bahnar

(xã Bok Tới, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định). Sau khi theo chồng về sống tại Buôn Ma Thuột, bà sáng tác truyện ngắn đầu tay: Mụ Xoặi (1994). Từ khi tác phẩm Mụ Xoặi xuất hiện, đời sống văn học dân tộc ở Tây Nguyên như được tăng thêm nhuệ khí để phát triển. Cụ thể: nhà văn Y Điêng sau một thời gian im lặng đã tiếp tục cầm bút,

15

Kpă Y Lăng (dân tộc Bahnar Chăm) quay lại làm thơ, Ka Sô Liễng (dân tộc Chăm Hroaih) ngoài đạo diễn sân khấu đã bắt đầu quan tâm đến sáng tác, Mlô Y Cla Vi

(dân tộc Êđê) âm thầm lặng lẽ sáng tạo, H’Linh Niê (dân tộc Êđê) xuất hiện; tiếp đó là

sự ra đời và tích cực, hồ hởi sáng tác của các tác giả: Đinh Xăng Hiền, Nga Ri Vê (dân

tộc Hrê), Hồ Chư (dân tộc Vân Kiều), Niê Thanh Mai (dân tộc Êđê), Hoàng Thanh Hương (dân tộc Mường sống ở Tây Nguyên).

Từ năm 2000 trở đi, văn học Tây Nguyên “nở rộ”. Bên cạnh các tác giả thực

sự đã định hình, văn đàn Tây Nguyên có thêm nhiều gương mặt mới: K’Ra Zan Plin

(dân tộc K’Ho), H’Trem Knul (dân tộc Êđê), Đinh Su Giang (dân tộc Ka Dong),

Ksor Bi Tô (dân tộc Jrai), Hoàng Nhật Rlayang (dân tộc M’nông), Y Việt Sa (dân

tộc Bahnar Rngao), H’Lứt Mlô (dân tộc Êđê), H’Siêu Buôn Yă (dân tộc Êđê),

H’Xíu H’Mok (dân tộc Êđê), Y Du La Niê (dân tộc Êđê)… Trong số các tác giả mới đó, Tây Nguyên tự hào đón nhận hai cô gái Êđê: H’Phi La Niê và H’Wê Ra là

hai nhà văn DTTS Tây Nguyên được đào tạo chuyên nghiệp. Nhìn lại các thế hệ

nhà văn Tây Nguyên, ta thấy hầu như họ đều là các trí thức. Đội ngũ những người

viết văn DTTS vùng Tây Nguyên ngày càng được bổ sung đông đảo. Dù họ có thể

còn chưa thực sự được độc giả cả nước biết đến nhưng họ đều đã chính thức gia

nhập vào làng văn Tây Nguyên, góp phần làm nên diện mạo văn học một vùng quê

hương luôn vang tiếng suối reo, gió hát và thấm đẫm âm hưởng cồng chiêng.

Nằm trong không khí sôi động của sự phát triển văn chương ở Tây Nguyên, văn

xuôi Tây Nguyên cũng bắt đầu trở nên phong phú kể từ khi Tạp chí Cư Yang Sin của

Hội Văn học Nghệ thuật Đăk Lăk ra số đầu tiên năm 1986 (số có in truyện ngắn

Mụ Xoặi của Kim Nhất). Từ đó, Kim Nhất liên tục gây bất ngờ với văn xuôi Tây Nguyên bằng hàng loạt các tác phẩm liên tiếp ra đời. Có thể kể đến những tác phẩm

là Truyện ngắn: Ly hôn (1998), Động rừng (1999), Hồn ma núi (2003), Huyền

thoại Bok Kron (2005); Tiểu thuyết: Chuyện lạ (2007), Luật của rừng (2009), Hoa

đại ngàn (2010), Truyện cổ và Truyện viết cho thiếu nhi: Truyện cổ Bahnar (1991), Truyện cổ Bahnar 2 (2000), Y Sanh và Y Rá (2002), Chúa sơn lâm mắc bẫy (2003), Người chăn dê (2005), Tôi được gặp Bác Hồ (2008) và các bài Bút ký khác, tiêu biểu nhất là Bút ký Về với Ban Mê (1996). Dù sáng tác của Kim Nhất có

người nhận xét là: “Phần lớn chủ yếu ghi chép lại người thật, việc thật; ít chú ý đến

nghệ thuật thể hiện” nhưng cũng có người nhận xét: “Truyện viết về buôn làng và truyện kì quái của Kim Nhất là hay nhất” và Kim Nhất cũng đã khẳng định được sự

có mặt của mình trong đời sống văn học Tây Nguyên với lối viết đậm chất dân tộc

từ nội dung tác phẩm đến các yếu tố nghệ thuật.

16

Nhà văn Y Điêng sau một thời gian im lặng, ông liên tục hoàn thành các bản thảo truyện - ký ghi lại những câu chuyện từ thời kháng chiến chống Mĩ và những

câu chuyện về người anh hùng Mnông. Ông cho ra đời hàng loạt Tiểu thuyết,

Truyện ký: Chuyện bên bờ sông Hinh (1994), Sông Hinh, con sông quê hương

(1995), N’Trang Lơng (2004), Lửa trong tay chúng tôi (2005), Trung đội người Bahnar (2010). Khi sáng tác, ông ý thức rõ trách nhiệm của mình đối với quê

hương Tây Nguyên: “Chuyện của dân tộc mình phải chính mình viết. Mình không

viết, không nói là mình mắc nợ với quê hương, với người thân”. Cuối cùng, với

những lao động nghệ thuật bền bỉ, ông đã đem lại cho văn xuôi Tây Nguyên một

dòng mạch riêng, đầy ắp hình ảnh quê hương, cuộc sống con người trên mỗi bản

làng bằng một giọng văn dung dị. Ông xứng đáng là Cây Xà nu lớn trong làng văn

xuôi Tây Nguyên.

Sau Kim Nhất và Y Điêng phải kể đến nhà văn hoá, nhà văn Tây Nguyên đa

tài H’Linh Niê. Với tác phẩm đầu tay Gió vẫn thổi từ rừng (1994), và Tập truyện ngắn

Con rắn màu xanh da trời (1996), H’Linh Niê chính thức bước vào làng văn Tây

Nguyên. Từ đấy, H’Linh Niê không ngừng sáng tạo, chị liên tiếp cho ra đời nhiều tác

phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau. Sau thành công của Con rắn màu xanh da trời

(đạt Giải B Hội Văn học Nghệ thuật DTTS Việt Nam 1998), H’Linh Niê tiếp tục khẳng

định mình bằng 2 tập truyện ngắn: Gió đỏ (2004), Pơ Thi mênh mang mùa gió (2009)

và 5 tập bút ký Trăng Xí Thoại (1999), Đi tìm hồn chiêng (2003), Chân dung văn nghệ

sĩ Tây Nguyên (2005), Nhân danh ai ? (2008), Tại gió mà nhớ (2015) cùng một loạt tác

phẩm sưu tầm, chỉnh lý văn học: Sử thi Êđê Đam San thời thơ ấu (1998), Trường ca

Bahnar Nàng Bia Lúi (2000), Truyền thuyết Mnông Núi Nâm Nung (2001), Thành ngữ dân gian Mnông (2010), Luật tục K’Ho (2011)... Bằng những sáng tạo của mình,

H’Linh Niê giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện về đời sống người dân ở các buôn làng

Tây Nguyên thời kì hiện đại với tất cả những khó khăn, thuận lợi cũng như những cuộc

đấu tranh vật vã để chống lại hủ tục, tư tưởng cũ; chống lại những tiêu cực, tệ nạn xã hội… để thoát khỏi cuộc sống đói nghèo, lạc hậu; vươn lên no ấm, làm giàu và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong thời đại mới.

Sau lớp nhà văn trên là một thế hệ nhà văn mới, rất trẻ, đại diện cho tiếng nói

văn xuôi Tây Nguyên đương đại. Đó là các cây bút: Niê Thanh Mai, H’ Phi La Niê,

H’Siêu Buôn Yă … Trong đó, nổi bật là nhà văn nữ: Niê Thanh Mai. Là một người con dân tộc Êđê trưởng thành từ cao nguyên phố thị lại là một giáo viên giảng dạy

Ngữ văn tại trường Trung học Phổ thông Dân tộc Nội trú N’Trang Lơng nên Niê

Thanh Mai thấu hiểu tâm tư tình cảm và sự đổi thay trong lối sống, cách nghĩ của

17

lớp thanh niên dân tộc đương đại. Vì thế, chị có điều kiện phản ánh tất cả những điều đó trong các tác phẩm văn xuôi của mình. Với 3 tập truyện ngắn Suối của

rừng (2005), Về bên kia núi (2007), Ngày mai sáng rỡ (2010), Niê Thanh Mai đã

hình thành một lối viết riêng, một tiếng nói mới cho văn xuôi Tây Nguyên.

Nhìn chung, văn xuôi Tây Nguyên sau 1986 trở đi thực sự có một diện mạo riêng với một đội ngũ các nhà văn đầy nhiệt huyết, đam mê, sung sức và đầy trách

nhiệm với tiếng nói văn chương của dân tộc. Văn xuôi của họ đã bắt đầu có dấu ấn và

mang đặc trưng của văn học DTTS vùng cao nguyên, có khả năng thu hút bạn đọc bởi

sự phong phú đa dạng và màu sắc riêng biệt vừa quen vừa lạ. Đó là những áng văn

xuôi mang hơi thở của văn học dân gian Tây Nguyên với những trường ca, sử thi vĩ

đại; thể hiện bản lĩnh, khí phách, tâm hồn phóng khoáng của con người và chất chứa

bản sắc dân tộc độc đáo trong phong tục tập quán, nếp sống, nếp nghĩ và cả tình yêu rất riêng, rất mãnh liệt cùng những lo lắng trở trăn trong đời sống còn nhiều khó khăn

thách thức của con người Tây Nguyên trên dải đất xanh tươi, hùng vĩ này. Có thể nói,

văn xuôi Tây Nguyên nói riêng, văn học DTTS Tây Nguyên nói chung đã góp phần

làm nên diện mạo của một nền văn học DTTS Việt Nam giàu bản sắc thời kì hiện đại.

1.2. Nhà văn nữ Linh Nga Niê Kdam

1.2.1. Vài nét về tiểu sử

Linh Nga Niê Kdam sinh ngày 08 tháng 08 năm 1948, tên bút danh là H’Linh Niê,

hiện đang sống tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk. Chị xuất thân trong

một gia đình trí thức, quê ở thị trấn Ea Pok, huyện Cư M’Gar, tỉnh Đắc Lắc. Mặc dù

là một người con dân tộc Êđê nhưng chị được sinh ra và lớn lên tại Miền Bắc (cha

chị là một trí thức Tây Nguyên tập kết, công tác tại Miền Bắc).

Con chim hoạ mi Tây Nguyên Linh Nga Niê Kdam tham gia vào lĩnh vực

Văn hóa Nghệ thuật từ rất sớm. Sau khi tốt nghiệp Phổ thông Trung học (1966), chị

đã theo Đoàn Ca Múa Tây Nguyên đi biểu diễn khắp miền Bắc và phục vụ chiến

trường Đường 9 - Nam Lào (1971). Tốt nghiệp Đại học Thanh nhạc (1979), chị về công tác tại Buôn Ma Thuột và đã từng giữ nhiều cương vị trong lĩnh vực văn hoá, xã hội, nghệ thuật dân tộc như: Phó trưởng Đoàn Ca múa Đăk Lăk; Hiệu trưởng Trường Văn hoá nghệ thuật Đăk Lăk; Phó Giám đốc Cơ quan thường trú Đài Tiếng nói Việt

Nam tại Tây Nguyên; Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhạc sỹ Việt Nam khóa VI, VII;

Phó Tổng thư ký Hội Văn học Nghệ thuật DTTS Việt Nam khoá II, III; Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đăk Lăk khóa III; Ủy viên Ban chấp hành Hội Văn nghệ dân

gian Việt Nam khoá II, III, IV, V, VI, VIII; Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên

Hội Nhà báo Việt Nam ...

18

Là một nghệ sĩ, một nhà hoạt động văn hoá, văn nghệ ở Tây Nguyên được đào

tạo bài bản, Linh Nga Niê Kdam có hiểu biết sâu rộng về nghệ thuật, văn hóa, văn học

Tây Nguyên. Chị đã được Nhà nước trao tặng nhiều huy chương: Huy chương Vì sự

nghiệp Văn hoá Việt Nam (1990), Huy chương Vì sự nghiệp Văn học Nghệ thuật

Việt Nam (1999), Huy chương Vì sự nghiệp Văn nghệ dân gian Việt Nam (2001), Huy chương Vì sự nghiệp Âm Nhạc Việt Nam (2002), Huân chương lao động hạng Ba (2013)… cùng nhiều bằng khen của Uỷ ban Nhân dân tỉnh Đăk Lăk, Liên hiệp các

Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam & Đài Tiếng nói Việt Nam cùng các Giải thưởng

chuyên môn uy tín của ngành Báo chí, Nghiên cứu văn hóa. Trong lĩnh vực bút ký

báo chí, chị từng đạt các giải thưởng: Giải C bút ký Mất còn Folklore Tây Nguyên

(Đài Tiếng nói Việt Nam - 1993), Giải B bút ký Về quê chồng mùa nước nổi (Báo

Nông nghiệp - 1996), Giải C bút ký Chuyện lạ ở Mường Hoong (Hội Nhà báo Việt

Nam - 2000), Giải B tập bút ký Đi tìm hồn chiêng (Liên hiệp Văn học Nghệ thuật -

2004), Giải A bút ký Nhân danh ai? (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - 2005), Giải B

bút ký Nhân danh ai? (Hội Nhà báo Việt Nam - 2005), Giải A bút ký Tôi đã được

Bác Hồ dạy dỗ (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - 2007), Giải Tôn vinh Cư Yang Sin

(Uỷ ban Nhân dân tỉnh Đăk Lăk lần thứ I - 2009), Giải A Cư Yang Sin bút ký Tại

gió mà nhớ (Ủy ban Nhân dân tỉnh Đăk Lăk lần II - 2015)… Trong lĩnh vực sưu

tầm, nghiên cứu, chị cũng từng đạt các giải thưởng: Giải C Hội Văn nghệ Dân gian

Việt Nam tập Nghiên cứu văn hoá Tây Nguyên (2006), Giải C Hội Nhạc sỹ Việt

Nam tuyển Những bài báo giới thiệu nhạc cụ các dân tộc Tây Nguyên (2006),

Giải A Hội Văn học Nghệ thuật Đăk Lăk tập Trường ca trong môi trường văn hoá

Tây Nguyên (2006). Giải C Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam Già làng Tây

Nguyên (2008), Giải tôn vinh các đóng góp về Văn hoá Nghệ thuật - Giải Cư Yang

Sin - Đăk Lăk (2009), Giải B Hội Nhạc sĩ Việt Nam Bàn về âm nhạc Tây Nguyên

(2014)…. Bằng những cống hiến của mình trong các lĩnh vực, chị đã trở thành động

lực, là người tạo điều kiện và trực tiếp góp phần đào tạo, xây dựng đội ngũ nhà văn

kế tiếp như: Niê Thanh Mai, H’ Phi La Niê, H’Siêu Buôn Yă … và góp phần không

nhỏ vào sự phát triển của văn học Tây Nguyên thời kì hiện đại.

Linh Nga Niê Kdam sinh ra trong một gia đình trí thức, cha là bác sĩ Y

Ngông Niê Kdam - một người trí thức DTTS lớn, một nhà hoạt động chính trị có uy tín của quốc gia, người duy nhất ở Việt Nam là đại biểu Quốc hội 9 khóa liên tục. Ông luôn có ý thức sâu sắc trong việc giáo dục Linh Nga Niê Kdam về lòng yêu

nước, về truyền thống dân tộc, về ý thức bảo tồn bản sắc văn hóa cũng như ngôn

19

ngữ, tiếng nói của quê hương. Ngay từ khi học lớp 3, chị đã được cha dẫn theo tham

gia lễ hội ở các “chi” trong Trường Dân tộc tại Gia Thượng (Gia Lâm), nghe các

nghệ nhân kể k’han cho cán bộ sưu tầm văn học ghi chép. Vì vậy, dù chưa một lần

về Buôn Ma Thuột nhưng chị đã biết và yêu từng ngọn núi, con sông cùng những

câu chuyện huyền thoại về quê hương tươi đẹp. Lên lớp 5, chị được cha cho theo

học lớp dạy chữ Êđê. Tình yêu dân tộc, niềm tự hào về quê hương của chị bắt nguồn

từ đó. Sau này, đã có lần chị tâm sự: “Không sinh ra ở Đăk Lăk, nhưng hạt mầm

của tình yêu và niềm tự hào dân tộc ba gieo lớn dần tâm hồn tôi theo tháng năm”.

Rõ ràng, tình yêu, niềm tự hào dân tộc lớn dần lên trong chị là sự tiếp nối và phát

triển của một tình yêu, niềm tự hào dân tộc đã khắc sâu trong tâm khảm của cha chị

- một người con Tây Nguyên xa quê nhưng luôn hướng về quê hương với tất cả tấm

lòng và trái tim yêu thương sâu sắc.

Trong suốt cuộc đời mình, Linh Nga Niê Kdam không ngừng tìm tòi, nghiên

cứu, sáng tạo. Chị gửi vào các sáng tác của mình tình yêu thiết tha với quê hương Tây

Nguyên hùng vĩ. Ở lĩnh vực sáng tác văn chương, chị đến khá muộn màng nhưng lại

rất chắc chắn và sớm ghi được dấu ấn trong đời sống văn học Tây Nguyên. Chỉ trong

vòng hơn 20 năm, chị đã có một sự nghiệp văn chương đáng nể trọng với hàng chục

tác phẩm đã xuất bản được nhiều người biết đến, trong đó có 3 tập truyện ngắn: Con

rắn màu xanh da trời, Gió đỏ, Pơ Thi mênh mang mùa gió và 5 tập bút ký: Trăng

Xí Thoại, Đi tìm hồn chiêng, Nhân danh ai?, Chân dung văn nghệ sĩ Tây Nguyên, Tại gió mà nhớ cùng hàng loạt tác phẩm sưu tầm, chỉnh lý văn học, nghiên cứu văn hóa dân gian Tây Nguyên: Sử thi Êđê Đam San thời thơ ấu, Trường ca Bahnar

Nàng Bia Lúi, Truyền thuyết Mnông Núi Nâm Nung, Thành ngữ dân gian

Mnông, Văn hóa dân gian các dân tộc K’Ho, Ê Đê - Bih, Rmam và nhiều tác phẩm

thuộc các thể loại khác mới in như: Tiểu luận Văn học dân tộc thiểu số Trường Sơn

- Tây Nguyên 1975 - 2010, Tản văn Bến nước ơi, Chân dung bè bạn Chân dung văn

nghệ sỹ Tây Nguyên. Riêng về truyện ngắn và bút ký, chị cũng đã có những tác

phẩm được trao Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam, của Ủy ban toàn quốc các

Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, của Hội Văn học Nghệ thuật các DTTS Việt Nam.

Tác phẩm văn chương của chị luôn thấm đẫm chất Tây Nguyên từ đề tài, chủ

đề, thế giới nhân vật đến không gian nghệ thuật, ngôn ngữ nghệ thuật... Đọc văn

chương của chị ta hiểu hơn về con người, cuộc sống, thiên nhiên núi rừng Tây

Nguyên; thấy được những nét đẹp văn hóa của các tộc người cùng những chuyển

biến về kinh tế và những đổi thay chóng mặt của thời cuộc với bao thuận lợi cũng

20

như bao khó khăn, thách thức mà con người Tây Nguyên cần phải đối mặt và phải

vượt qua.

Tất cả những yếu tố đã nói trên: không khí sôi động của sự phát trển văn

chương Tây Nguyên từ sau năm 1986, nguồn cội gia đình, tài năng nghệ thuật, niềm

say mê sáng tạo nghệ thuật, những hiểu biết sâu rộng về văn hóa truyền thống dân

tộc, đặc biệt là tình yêu quê hương, niềm tự hào về quê hương chính là tiền đề làm

nên một cá tính sáng tạo, một lối viết riêng của nhà văn Linh Nga Niê Kdam. Việc

gia nhập vào làng văn Tây Nguyên, đem tiếng nói người Tây Nguyên hòa vào tiếng

nói chung của văn xuôi các dân tộc Việt Nam, Linh Nga Niê Kdam đã khẳng định

được tài năng của mình đồng thời góp phần khẳng định được sức sống, phát huy

được truyền thống văn chương đã có từ lâu đời trên mảnh đất Tây Nguyên tươi đẹp.

Linh Nga Niê Kdam thực sự trở thành một cây bút văn xuôi tiêu biểu của Tây

Nguyên sau Đổi Mới.

1.2.2. Linh Nga Niê Kdam - người con luôn hướng về nguồn cội

Nhà văn Linh Nga Niê Kdam (H’Linh Niê) là người con đích thực của Tây

Nguyên (cho dù chị không sinh ra tại Tây Nguyên do điều kiện công tác của cha mẹ

chị). Vì vậy, dòng máu Êđê luôn cuộn chảy trong con người chị và luôn thôi thúc chị

trở về, gắn bó với vùng đất thiêng - quê hương, nguồn cội của chị. Chị đã dồn tâm

huyết, trí tuệ, tình cảm và tài năng của mình để viết về quê hương, nghiên cứu về bản

sắc văn hoá Tây Nguyên; sưu tầm, khai thác vốn văn hoá, nghệ thuật truyền thống của

Tây Nguyên.

Riêng trong các tác phẩm văn xuôi của chị, hình ảnh thiên nhiên, cuộc sống,

con người Tây Nguyên với những phong tục tập quán, những nếp nghĩ, lối sống,

những sinh hoạt của cộng đồng, của các gia đình, các cá nhân trong buôn làng cũng

như những đổi thay của vùng đất, con người nơi đây trong cuộc sống thời kì hiện

đại… đều được chị phản ánh một cách chân thực, sinh động vào trang văn của

mình. Có thể dễ nhận thấy một điều: cảm hứng bao trùm trong các sáng tác của Linh Nga Niê Kdam chính là cuộc sống, con người Tây Nguyên với những nét bản sắc riêng biệt của các DTTS trên mảnh đất cao nguyên lộng gió.

Quê hương Tây Nguyên hiện lên qua những trang văn của H’Linh Niê trước hết là hình ảnh của thiên nhiên, núi rừng rộng lớn vừa hùng vĩ vừa tràn đầy chất thơ.

Một thiên nhiên bao giờ cũng đẹp đẽ và thấm đượm tình người. Nhưng đồng thời hình ảnh thiên nhiên trong văn xuôi của chị cũng hết sức đa dạng, nhiều màu sắc khác nhau. Có lúc, thiên nhiên được nhìn nhận như một đối tượng khách quan mang đậm dấu ấn miền núi, có lúc lại được nhìn nhận như một sinh thể sống có tâm tư

21

tình cảm như con người, gắn bó hòa hợp với con người, thấu hiểu, chở che cho con người. Đôi khi, thiên nhiên giống như một nạn nhân, bị con người tàn phá kiệt quệ

đến mức trở thành hung dữ.

Trở về với cội nguồn dân tộc, H’Linh Niê cũng phát hiện ra bao nhiêu nét đẹp

trong văn hóa, đời sống, nếp nghĩ… của người dân trên quê hương. Chị tin rằng, truyền

thống văn hóa thiêng liêng của dân tộc chính là cội nguồn sức mạnh, là chỗ dựa tinh

thần, là sự kết nối mọi buồn vui của cộng đồng dân tộc. Chính vì phát hiện ra biết bao

vẻ đẹp trên quê hương nên những trang viết của chị thường say sưa ca ngợi con người,

cuộc sống, phong tục, tập quán đẹp của các DTTS ở Tây Nguyên. Chị cảm nhận rất rõ

cuộc sống đang chuyển mình mạnh mẽ trên quê hương chị - thành phố Buôn Ma

Thuột, Pleiku, Kon Tum: “đang vươn lên lồng lộng vóc dáng của những thành phố

hừng hực sức trẻ như dũng sĩ Đam San, Xing Nhã, Đam Gyông thuở nào” (Mùa xuân,

ơi Ban mê của tôi) [11, tr.55]. Cùng với sự chuyển mình kinh tế, chị còn thấy Tây

Nguyên cũng đang khởi sắc, thăng hoa về văn hóa. Biết bao giá trị văn hóa vật chất, tinh

thần được chị phản ánh sâu đậm trong các sáng tác văn xuôi của mình. Nhất là âm thanh

của những tiếng chiêng, điệu múa, tiếng ca mang bản sắc quê hương không thể

trộn lẫn, có sức hấp dẫn, lôi cuốn lòng người và tất nhiên trước hết làm đắm say

lòng chị: “Tiếng Đinh năm dìu dặt, Đinh buốt cok nỉ non. Tak tak mênh mông. Đinh tút

phập phồng bồng bềnh như hơi thở, hòa với những câu hát chảy trong đêm sâu thẳm

cao nguyên” (Đêm Dliê Ya ngàn xanh) [6, tr.170]. Nổi bật trong không gian văn hóa

đó, tâm điểm mà H’Linh Niê hướng tới là con người, những chàng trai: “thân hình

cao chắc săn bóng dẻo dai như cây cate bên suối”, những cô gái: “đẹp như mặt

trời ban mai, như mặt trăng giữa tháng, như cái hoa mới hé nở vậy” (Cầu vồng

lung linh) [6, tr.100-103]. Họ có thể là những người lao động, cũng có thể là nhân vật

trí thức tiến bộ, thậm chí là cả người dân tộc sống ở nước ngoài. Dù con người

trong tác phẩm của mình là ai đi nữa thì chị vẫn nhận thấy họ là những người

hăng hái, nhiệt tình, tài hoa, dũng cảm, giàu khát vọng, tình yêu và tuổi trẻ cùng

những khát khao đổi thay cuộc sống.

Tuy đặc biệt yêu quê hương, H’Linh Niê dành không ít trang văn hào hứng, say

sưa ngợi ca cái giàu, cái đẹp, cái hay, nét độc đáo của các DTTS Tây Nguyên nhưng

chị vẫn khách quan, trung thực mà nhận thấy những mảng khuất lấp, những khía cạnh

còn hạn chế ở quê hương chị. Chị cũng rất bức xúc với những khó khăn, vất vả, kém

cỏi, nghèo nàn và lạc hậu của nó. Chị vô cùng xót xa trước sự mất mát, mai một, tàn lụi

theo tháng ngày những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc mình: “Chiêng Gia

22

Rai, Êđê Barnar chảy thành máu trong các lò nấu đồng”, “việc bán chiêng, đập ché

đang phát triển thành một nạn dịch” với “những chiếc ché Yang Sung, Yang Rlung …

xưa kia phải đổi bằng mấy con trâu, nay bị vứt bỏ không thương tiếc ngoài vườn, mặc

cho mưa gội, nắng thiêu” (Đi tìm hồn chiêng) [8, tr.14]. Gửi gắm tha thiết trong

những trang văn của mình, H’ Linh Niê mong mỏi : “Mong sao những phong tục đẹp,

những nét độc đáo của văn hóa cổ truyền được bảo tồn, phát huy và truyền lại cho con

cháu muôn đời sau, cho tiếng chiêng Tây Nguyên mãi mãi bay cao, bay xa trong xanh

cao thăm thẳm của bầu trời cao nguyên bao la” (Lời chiêng Tây Nguyên) [8, tr.62].

Cũng qua những trang văn ấy, chị cất lên tiếng kêu khẩn thiết với các thế hệ Tây

Nguyên: “Dù chỉ một lời nói, một việc làm, bạn cũng sẽ giúp chúng tôi gìn giữ được

kho báu ấy một cách vững vàng. Thời gian nào có chờ một ai. Hãy giữ lấy bạn bè ơi,

giúp chúng tôi giữ lấy: Nhịp của thiêng liêng núi rừng vọng lại/ Nhịp của cha ông bao

đời để lại/ Cho sống mãi ngàn năm, sáng mãi ngàn năm tâm hồn cao nguyên”

(Folklore Tây Nguyên - độc đáo và giàu có - còn chăng?) [7, tr.45].

Có thể nói, Linh Nga Niê Kdam là một nhà văn có vốn sống vô cùng phong

phú, vốn văn hóa dồi dào kết tinh từ văn hóa Êđê và văn hóa Việt. Đã có lần chị tâm

sự: “Tôi là người may mắn vì được thấm đẫm văn hóa đủ các vùng miền Việt Nam:

sinh ra trên quê hương Việt Bắc, tiếp thu học vấn trên nền văn minh Sông Hồng,

hoạt động văn hóa nghệ thuật ở Tây Nguyên; lấy chồng người Khơmer Nam bộ”.

Không chỉ có thế, chị còn là một nhà văn có ý thức trách nhiệm bảo tồn văn hóa truyền

thống của dân tộc và có ý thức trách nhiệm với nghề nên chị mới có thể viết khỏe, viết

sâu và viết một cách tràn đầy nhiệt huyết về dân tộc mình đến vậy. Là một nhà văn yêu

quê hương tha thiết, chị luôn nâng niu trân trọng nguồn gốc, văn hóa dân tộc và lấy đó

làm nguồn cảm hứng để sáng tác các tác phẩm văn học. Với những gì đã đạt được

trong sự nghiệp sáng tác và nghiên cứu sưu tầm văn hoá, văn học dân gian của mình,

Linh Nga Niê Kdam xứng đáng là nữ nhà văn tiêu biểu của vùng đất đỏ Bazan thời kì

Đổi Mới.

Tiểu kết chương 1

Tìm hiểu quá trình phát triển của văn xuôi Tây Nguyên thời kì hiện đại, chúng

tôi nhận thấy: Mặc dù tốc độ phát triển của văn xuôi Tây Nguyên còn chậm và muộn

so với văn xuôi các dân tộc miền núi phía Bắc, song đội ngũ sáng tác ở Tây Nguyên

từng bước đã có sự phát triển, ngày càng đông đảo hơn với sự tiếp nối của nhiều thế hệ.

Số lượng tác phẩm tăng lên nhanh chóng. Nội dung các tác phẩm có sự mở rộng,

23

phong phú về đề tài và chủ đề. Nghệ thuật viết văn luôn có sự hài hoà giữa tính truyền

thống và hiện đại. Văn xuôi Tây Nguyên đã khẳng định được bản sắc riêng của mình

và hòa nhập vào dòng chảy chung của văn học các DTTS Việt Nam. Trong số các nhà

văn Tây Nguyên thời kì hiện đại, Linh Nga Niê Kdam nổi lên như một gương mặt tiêu

biểu. Bằng trái tim ấm áp tình yêu và chứa chan niềm tự hào về dân tộc, chị đã thành

công trong việc sáng tác những tác phẩm văn học có giá trị, phản ánh sâu sắc cuộc

sống, con người và văn hóa Tây Nguyên; góp phần phát triển và làm phong phú thêm,

đa sắc màu thêm cho văn học các DTTS Việt Nam hiện đại.

24

Chương 2 CẢM HỨNG VỀ CUỘC SỐNG VÀ CON NGƯỜI TÂY NGUYÊN

2.1. Tình yêu, niềm tự hào về mảnh đất, con người Tây Nguyên

2.1.1. Một vùng đất hùng vĩ, lãng mạn

Từ khi nhà văn Linh Nga Niê Kdam được trở về nguồn cội, tình yêu và niềm tự

hào sẵn có với mảnh đất Tây Nguyên đầy nắng, gió, bạt ngàn màu xanh của núi rừng

ngày càng lớn dần lên trong trái tim chị. Chình tình yêu và niềm tự hào ấy đã thôi thúc

chị cầm bút viết về quê hương. Có lần chị tự bạch: “Dường như Tây Nguyên chọn tôi,

giao cho tôi gánh nặng văn chương mà tôi phải mang suốt cuộc đời, như là một món

nợ không trả nổi. Con đường văn học thật nhọc nhằn, mà mình thì lực bất tòng tâm.

Thôi đành viết được gì thì viết và bắt buộc phải viết. Vậy thôi!”. Mặc dù rất khiêm tốn khi nói về mình nhưng sự nghiệp văn học của chị đã chứng minh: Không phải chị “viết

được gì thì viết và bắt buộc phải viết” mà chị đã làm được hơn thế rất nhiều. Chị đã

viết, đã giới thiệu, đã phản ánh được rất nhiều điều về mảnh đất cao nguyên yêu dấu

của chị. Trước chị, hai nhà văn lớp đàn anh, đàn chị là: Y Điêng và Kim Nhất đã viết

khá nhiều về con người và mảnh đất Tây Nguyên nhưng Linh Nga Niê Kdam lại viết

về quê hương bằng một tâm thức đặc biệt, với một tình cảm đặc biệt của một người con

xa quê mới được trở về. Hình ảnh Tây Nguyên cùng những con người, cuộc sống giàu

bản sắc văn hóa hiện lên rất rõ trong những trang văn mượt mà, nồng nàn hơi thở của

sử thi, huyền thoại mà vẫn rất hiện đại, chân thực. Tất cả được sàng lọc qua tâm hồn và

trái tim yêu thương mãnh liệt của một nữ nghệ sĩ lịch lãm, sâu sắc, dịu dàng, lãng mạn. Dấu ấn của tình yêu, niềm tự hào về mảnh đất, con người Tây Nguyên trong văn

chương Linh Nga Niê Kdam trước hết thể hiện qua những trang viết tái hiện sinh

động bức tranh thiên nhiên vùng Tây Nguyên rộng lớn, xanh thẳm, gần gũi mà bí

ẩn, hùng vĩ và lãng mạn. Hình ảnh thiên nhiên dưới ngòi bút của nữ nhà văn hiện lên đa dạng, phong phú và nhiều màu vẻ. Cảnh sắc thiên nhiên ở đây có khi rất trong trẻo, tinh khôi, thơ mộng; có khi lại vô cùng hùng vĩ, dữ dội, hoang sơ; có khi rất hào phóng, mang đậm khí thiêng sông núi; có khi lại là biểu tượng về những mối tình bất tử của con người... Thiên nhiên Tây Nguyên đa sắc thái ấy lại được nhà văn

nhìn ngắm từ nhiều chiều kích, nhiều thời điểm khác nhau. Dù được nhìn ngắm ở

góc độ và thời điểm nào thì phần lớn thiên nhiên đều hiện lên hết sức đẹp đẽ, trong lành, gần gũi mà bí ẩn, hùng vĩ và lãng mạn, dữ dội và hào phóng… tạo nên một

không gian đậm chất Tây Nguyên. Dễ dàng nhận thấy, trong nhiều tác phẩm, nhà

văn tái hiện thiên nhiên như một đối tượng nghệ thuật khách quan và cũng trong

25

nhiều tác phẩm, nhà văn tái hiện thiên nhiên mang đậm màu sắc tâm lý. Trong hầu hết các sáng tác của nhà văn, thiên nhiên hiện lên như một sinh thể sống có tâm hồn, tình cảm, biết yêu thương, chở che, hòa hợp với con người đúng như cách cảm, cách nghĩ của đồng bào DTTS Tây Nguyên về thiên nhiên.

Khi nghĩ về mảnh đất cao nguyên nắng cháy, chúng ta thường nghĩ ngay đến núi đồi, rừng cây điệp trùng cao vút, xanh xa tít tắp và những con đường bụi đỏ mù

vương. Quả đúng như vậy, viết về quê hương Tây Nguyên của mình, nhà văn Linh

Nga Niê Kdam đã nhiều lần miêu tả vẻ đẹp của những ngọn đồi, ngọn núi yêu thương:

“Mặt trời chưa mọc nhưng tít trên cao, một vòm xanh ngọc đang lan rộng dần, đẩy lùi

những đám mây xám, hứa hẹn một ngày nắng đẹp. Đỉnh Ngok Linh vẫn thường khuất

trong mây trắng, bỗng hiện rõ, dáng núi mềm mại tạc vào chân trời đang hé lên màu

hồng. Quả đồi thấp như gò ngực người đàn bà nằm duỗi dài dưới chân núi ven hồ phập phồng thở trong sương sớm” (Con trai của rừng Xà Nu) [9, tr.141]. Trong cảm

nhận của Linh Nga Niê Kdam, đỉnh núi Ngok Linh cao vợi, sừng sững đứng giữa trời

cùng những quả đồi thấp “nằm duỗi dài” ngủ quanh chân núi là hình ảnh đẹp đẽ nhất,

gợi cảm nhất “tạc vào chân trời”, tô điểm cho bức tranh thiên nhiên buổi sáng tinh

khôi, đầy màu sắc. Vẻ đẹp của núi, của đồi giống như vẻ đẹp cơ thể tràn đầy sức sống

của người phụ nữ vùng cao. Cảm nhận về thiên nhiên như thế thật đáng yêu và táo bạo.

Rừng núi Tây Nguyên trong những trang viết của Linh Nga Niê Kdam mang

một vẻ đẹp riêng, vô cùng quyến rũ, lãng mạn nhưng cũng rất gần gũi, thân quen, tỏa

ngát hương thơm và luôn chắt chiu dâng hiến cho cuộc sống con người: “Những cánh

rừng cà phê đơm đầy hoa trắng muốt, thơm ngào ngạt. Dòng nước từ các dàn phun

trong các rừng cà phê tỏa lên trời như những đóa hoa mưa, rơi rào rào trên cành lá… Xen giữa cà phê xanh là rừng cao su già nua trút lớp áo cũ trải thảm dày quanh thân,

chắt chiu dồn nhựa trắng về cho người. Thông xanh với những búp non óng ả tựa hàng

ngàn ngọn nến nhỏ đong đưa đón gió” (Du xuân Tây Nguyên) [7, tr.63]. Trong nhiều

tác phẩm, nhà văn đã dụng công tái hiện cảnh rừng khộp Tây Nguyên. Cảnh rừng khộp - loài cây đặc trưng của đại ngàn nơi đây - ở thời điểm nào trong năm cũng làm nhà văn Linh Nga Niê Kdam say đắm. Dưới ngòi bút của chị, rừng khộp hiện lên thật ấn tượng, đẹp đẽ, khỏe khoắn và tràn đầy sức sống: “Đón những giọt nước

mát lành của ông trời ban tặng, cánh rừng khộp toàn cành khô trơ trụi suốt mùa

khô cạnh buôn nảy lá xanh biếc, khắp cả một vùng mênh mông chỉ một màu xanh ngăn ngắt đến sướng con mắt nhìn. Mỗi chiếc lá to bằng ba bốn bàn tay chụm lại,

không chỉ dùng để gói xôi, gói thịt gà mỗi lúc có việc đi xa, mà còn có thể che đầu

nếu lỡ gặp mưa bất chợt giữa rừng” (Srêpôk sáng nay yên tĩnh) [12, tr.43-44].

26

Cảnh rừng khộp thay lá nhà văn từng bắt gặp khi đến thăm đồn biên phòng Bo Heng có thể coi là những trang bút ký toàn mĩ về vẻ đẹp của rừng: “Rừng khộp Tây

Nguyên có hai lần thay áo, phô phang hết vẻ đẹp rực rỡ của mình trước đất trời cao

nguyên. Lần thứ nhất là vào khoảng tháng con rồng đem nước về hạ giới, khi mưa

đã tưới đẫm khắp những cánh rừng, dòng sông, con suối. Tấm áo xanh nõn nà của rừng khộp nhìn thật thích mắt. Không phải màu lá cây thẫm như rừng cao su sau

khi bật lên những mầm non đo đỏ. Sắc xanh rừng khộp mùa mưa có một chút màu

mạ non, một chút màu lá cây sáng, trên một thảm cỏ ống xanh đậm. Điều đó làm

say đắm ánh mắt không chỉ của mặt trời mỗi ngày treo trên ngọn rừng, mà còn cả

sự ngưỡng mộ của con người trước sự mỡ màng, mươn mướt của cả một cánh rừng

bạt ngàn, dường như còn rất ngay hàng thẳng lối nữa. Màu xanh tươi tắn đó khiến

cho tâm hồn trở nên thư thái lạ lùng.

Thời gian thứ hai là cuối mùa đông, khi gió xuân tràn về len lỏi vào từng

ngóc ngách của đại ngàn. Rừng khộp rủ rê nhau thay chiếc áo màu đỏ tươi, cháy

rừng rực hết mình dâng đón chúa xuân về bằng tất cả vẻ đẹp của đất trời cao

nguyên, trước khi trút hết lá, trơ lại những cành khẳng khiu chờ đợi mùa mưa đến”

(Đi đón mùa xuân) [11, tr.34-35].

Nhà văn Tây Nguyên ấy không chỉ khắc họa rừng cây, đồi núi trong bức

tranh thiên nhiên tươi đẹp mà còn chú ý khắc họa cả những dải đất bình nguyên cùng những mặt hồ trên núi miền Tây bắc rất đỗi nên thơ: “Từ trên đỉnh đồi, chỗ bọn trẻ con chăn bò, chăn dê nhìn xuống, cánh đồng lớn rực một tấm thảm vàng

mênh mông. Bước chân gió đuổi nhau chạy trên những ngọn lúa trĩu bông, làm

thành những đợt sóng cứ mãi rung rinh, rung rinh. Phía xa xa hơi khuất sau núi, giữa rừng trúc, mặt nước hồ U Va - nơi các nàng tiên nữ nhà trời hay xuống tắm,

lóng lánh hắt bóng mặt trời vàng rực. Cả một vạt hoa bó khiu vàng, nhạn lai hồng

đỏ, chen chúc nhau dập dềnh trong gió, chạy dài từ chân đồi đến tận đầu bản”

(Hoa bó khiu) [14, tr.62]. Chỉ trong một đoạn văn ngắn, Linh Nga đã khắc hoạ một cảnh sắc thiên nhiên thật ấn tượng, bình yên, đẫm những ánh vàng: thảm vàng của đồng lúa, màu vàng của rừng trúc, sắc vàng của hồ nước lóng lánh hắt bóng mặt trời và vạt vàng của hoa bó khiu chen bên “nhạn lai hồng đỏ”.

Nhà văn còn tỏ rõ niềm cảm hứng đặc biệt khi viết về cảnh bình minh và

cảnh hoàng hôn trên mảnh đất cao nguyên yêu dấu. Bình minh trong con mắt của người nghệ sĩ thuộc về phái đẹp thật đa sắc, đa tình: “Bình minh. Bây giờ là lúc Mẹ

Đất bắt đầu vẽ bức tranh của ngày. Đầu tiên là một màu hồng mờ mờ hiện trên

toàn bộ nền trời. Dãy Cư Yang Sin xanh thẫm nổi bật lên một cách vững chắc giữa

27

cái vòm khổng lồ ấy. Tiếp theo là một mảng màu vàng xuất hiện phía bên trái cái chóp núi tròn tròn. Rồi đến một vệt hồng đậm hơn hiện lên bên phải, loang dần

loang dần ra khắp đường chân trời. Thêm những mảng áo xám, áo xanh của các

nàng tiên nữ vừa thức giấc bung ra. Lũ chim sẻ dậy sớm nhất, vội vàng, cuống quýt

bay loạn xạ trong cái vòm hồng hồng ràng rạng”(Bóng chiều bảng lảng) [12, tr.5]; “Bình minh âu yếm nâng nhẹ tấm khăn sương che chiếc gương bạc của nàng tiên

H’Lung dát ngang đỉnh trời tròn, từ từ hiện ra hàng ngàn đóa sen trắng, sen hồng

đung đưa trên mặt nước biêng biếc. Đang giữa mùa sen, gió đẫm hương mát ngọt.

Đỉnh Cư Yang Sin hiện dần như vóc dáng chàng Lawk cường tráng đang trìu mến ấp

ủ, chở che gương mặt xinh đẹp của người tình” (Tìm về bến nước) [6, tr.43]. Hoàng

hôn cũng thật đẹp đẽ và gợi nhiều liên tưởng: “Chiều như cô gái tắm, hờ hững buông

rơi tấm choàng hoàng hôn. Hàng đàn chim qíu quáo gọi nhau về tổ, cánh chấp chới chao nghiêng in trên nền trời đỏ. Xa xa, những cành thủy tùng khô khỏng, tạc vào

chiều như bao nhiêu cánh tay níu kéo, kêu gọi” (Tìm về bến nước) [6, tr.55].

Ngòi bút của Linh Nga Niê Kdam mê say đắm đuối khi miêu tả, khắc hoạ

bức tranh thiên nhiên Tây Nguyên rực rỡ, lãng mạn và tươi đẹp. Vì thế, trong những

áng văn xuôi của chị, ta thấy chị rất hay chú ý đến việc miêu tả nắng và gió - hai

yếu tố đặc trưng của vùng cao nguyên này - bởi ở trên cao nguyên, nắng luôn rực rỡ

chói loà, nắng làm cho lá, cho hoa, cho cây toả ra hương thơm dịu nhẹ, ngọt ngào

của núi rừng và gió chuyên trở những hương thơm ấy, mang đi khắp đất trời làm

nên hương vị riêng của mảnh đất cao nguyên. Đây là sắc nắng vàng tỏa lan trên

những ngọn núi, mặt hồ, lọt cả vào những cánh rừng Xà nu quen thuộc, làm vạn vật

phải trở dậy tỏa ngát hương thơm: “Nắng trải chiếc chiếu vàng lên mặt hồ mặt ruộng lung linh, nhưng chỉ lọt thành những tia sáng xanh trong đám lá Xà nu dày

đặc. Dưới tán rừng, tiếng ong bay vi vu hòa trong lời xào xạc của gió, lẫn với tiếng

suối róc rách chảy. Thứ hương lá, hương nhựa, hương hoa đặc biệt của Xà nu nhè

nhẹ lan trong không gian” (Con trai của rừng Xa Nu) [9, tr.128]. Nắng còn vô cùng rực rỡ, ấm áp, chan hòa khắp không gian, mang trong mình sức trai khỏe khoắn, thổi sinh khí cho đất trời vạn vật: “Mặt trời hồng tròn xoe nhảy vụt lên đỉnh Cư Pông. Một cột lửa lớn sáng lòa rạng ngời trên mặt nước. Núi rừng, sông suối

bừng tỉnh chan hòa trong ánh nắng vàng ấm áp hào phóng của mặt trời” (Dòng

sông Tóc) [6, tr.118]; “Chiếc mâm vàng khổng lồ nhảy lên khỏi ngọn núi. Ánh sáng chói loà chan hoà rực rỡ khắp bầu trời, xua tan hết mọi vệt màu u sầu mới đó còn

bảng lảng” (Bóng chiều bảng lảng) [12, tr.5-6]. Gió trên cao nguyên cũng được

nhà văn chú ý khắc họa với những nét cá tính: mạnh mẽ, phóng túng, hồn nhiên,

28

tinh nghịch: “Có lẽ bị giam hãm đâu đó suốt chín lần trăng vơi đầy, nên năm nào trở lại, gió cao nguyên cũng vội vàng, ào ạt, không lồng lộn phá phách giật mái

nhà, bẻ cây cối; thì cũng nghịch ngợm bốc đất đỏ tạt vô mặt, tung tẩy những đám lá vàng trên đường trêu chọc con người” (Tại gió mà nhớ) [13, tr.179-180]; “Gió đè rạp rồi lại nâng niu nâng lên đung đưa như chao võng những vầng hoa dã quỳ và ng như á nh nắ ng, ken dà y đặc quanh sân bay. Gió à o tớ i giật tung chiếc mũ dạ rộng và nh, quất rà n rạt và o má i đầu trần, và o mặt, và o thân thể ông. Vừ a như đứ a trẻ trêu chọc ngườ i mình yêu quý , vừ a như quấn quý t chà o đó n” (Cầm cao nguyên) [9, tr.145]. Rõ ràng, tác phẩm của Linh Nga Niê Kdam không chỉ miêu tả gió như một

khách thể thẩm mĩ mà còn miêu tả gió có sắc thái tâm lý như con người. Trong Gió

đỏ, nhân vật em - người thiếu phụ “có thời gian dài phải chia đôi sự cầm dao mổ và

cầm cuốc để tính cuộc mưu sinh”, người có “đôi chân trần lầm bụi đỏ cao nguyên, trên những nẻo đường tìm cách làm giảm bớt đớn đau cho các sinh linh đồng tộc” -

với tấm lòng cảm thông và vị tha trong sáng đã trở thành người cứu cánh, chỗ tựa

nương của tâm hồn “tôi” - một người đàn ông đơn côi, “một kẻ mỏng manh dễ bị

tổn thương” đang phải trải qua “sự sống hiu hắt như ngọn lửa giữa rừng đêm” có

đủ sức mạnh chống chọi lại căn bệnh ung thư vòm họng mà chị không hề biết. Sau

khi anh mất gần một tháng chị mới được hay tin. Chị đau xót khi nghĩ về anh và chị

cảm nhận thấy anh trở về bên chị, trở về cao nguyên như ước vọng trong cơn gió quay

cuồng: “Người thiếu phụ khẽ rùng mình. Làn gió nóng vờn quanh khuôn mặt mỗi lúc

một tái dần của chị. Tận cuối con đường hun hút, một vầng gió đỏ bốc cao, quay cuồng

trên không trung. Đám gió bụi đỏ xa dần, che mờ cả những tàn cây Blang trĩu đầy hoa

đỏ, cháy rực trên đầu con đường rẽ vào plei. Tiếng ve wai jut wai tê nghe chao chác đến xé lòng trong những vòm phượng” (Gió đỏ) [9, tr.14]. Hay trong tác phẩm Ngày

Chúa đi vắng, amí Nu sau khi trải qua những đớn đau của bệnh tật, những giờ phút

mê man chống lại thần chết, những băn khoăn đi về nước Chúa hay về với bến nước

ông bà, những giằng xé đớn đau lo cho các con rồi đây mất mẹ nhưng cuối cùng vẫn phải chấp nhận cái chết. Khi bóng amí Nu “chập chờn đi nhanh ra khỏi cửa nhà sàn”, gió nắng Tây Nguyên vào thời khắc cuối cùng của một đời người cũng đớn đau như con người vậy: “Gió đớn đau vật vã vặn xoắn tơi tả đám lá cây rừng.

Nắng đổ từng nồi lửa tung tóe xuống cao nguyên. Hôm nay ngày Chúa đi vắng”

(Ngày chúa đi vắng) [12, tr.28]. Nếu trong văn xuôi Y Điêng người đọc bị ám ảnh bởi gió núi Xiăng như một sinh thể bạo liệt, cuồng nộ: “Gió thổi vun vút. Gió thổi

như người cắm đầu chạy, như con hổ giật mình cố chạy bán sống bán chết. Gió từ

các dãy núi chung quanh thả những hơi thở dài, thở ập xuống những nơi trống trải

29

của vùng đồi cỏ tranh thấp hơn mình” (Chuyện bên bờ sông Hinh) [56, tr.77]; gió và nắng mang theo cái khắc nghiệt của thiên nhiên: “Gió và nắng quyện vào

nhau, nóng hừng hực, cỏ cây xơ xác, nước không trông thấy… gió thở càng lạnh và khô,

không khốc… Những ngọn cây, chùm hoa không còn soi bóng nữa. Ngọn cây hết cúi

xuống lại ngẩng lên và hoa cây dừng màu hồng, hoa cây su màu vàng tươi lả tả rơi xuống mặt nước” (Chuyện bên bờ sông Hinh) [56, tr.82] thì gió trong văn xuôi của

H’Linh Niê cũng có lúc đã mang lại cho người đọc ấn tượng về một thiên nhiên bạo

liệt và khắc nghiệt không kém: “Ngoài khung cửa nhà dài, gió quất tả tơi những

hàng cây, bốc bụi đỏ vung vãi khắp nơi. Cao nguyên đang giữa mùa gió. Gió như lũ

ngựa hoang không biết tự kiềm chế, tung vó phi nước đại trên vòm trời cao nguyên”

(Con đường đã chọn) [12, tr.186]. Ấn tượng mãi về sự dữ dội của gió núi Tây

Nguyên, sau này nhà văn còn nhiều lần nữa khắc họa nó trong những tác phẩm mới của mình: “Gió rít veo véo trong không gian mênh mông đen thẫm. Trên đỉnh núi

Ngok Linh gió lúc nào cũng dữ dội. Ào ạt. Mạnh mẽ và quyết liệt. Cứ như muốn bốc

thẳng mọi vật lên, quẳng đi đến nơi nào xa lắc, nếu không thật sự cắm sâu, bám

chắc gốc rễ vào đất” (Gió trên đỉnh Ngok Linh ) [14, tr.45].

Trên bình nguyên xanh cao Tây Nguyên, thiên nhiên không chỉ có nắng gió

và núi rừng mà thiên nhiên còn có suối sông và thác vực. Dòng suối, con sông góp

phần mang lại cho thiên nhiên vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ của đại ngàn. Sông Srêpôk

là hình ảnh thiên nhiên rất thường gặp trong sáng tác Linh Nga. Con sông cá tính ấy

chẳng bao giờ chịu theo bạn bè về biển Đông mà ngỗ ngược vượt Trường Sơn vươn

về phía mặt trời: “Sông Srêpôk cho dù nước đầy nước vơi vẫn cứ chảy ngược về

phía mặt trời lặn chẳng ai ngăn nổi” (Srêpôk sáng nay yên tĩnh) [12, tr.52] để làm thành trăm bậc ghềnh thác. Suối thác lúc nào cũng mạnh mẽ, dữ dội đổ xuống vách

đá nhưng vẫn không quên phô khoe vẻ đẹp rất đỗi huyền ảo, long lanh: “Dòng nước

đổ xuống vách đá dựng đứng, tung lên cả ngàn vạn giọt nhỏ li ti, tạo thành bức màn

như khói trên mặt nước”, “Dòng nước như đàn ngựa hoang tung bờm trắng trên đồng cỏ ào ào đổ ập xuống. Cầu vồng bảy sắc lung linh, ẩn hiện trên đầu vầng sóng trắng” (Cầu vồng lung linh) [6, tr.107-111]. Nếu sông Srêpôk đầy cá tính bướng bỉnh thì sông Krông Buk đầy bí ẩn dữ dằn, mang hồn thiêng dân tộc, vừa ghê sợ

vừa đẹp đẽ đáng yêu: “Con sông rộng đen đặc, lúc nhúc đầy những cá. Dẫn đầu là

một con thuồng luồng khổng lồ, có chiếc mào đỏ chót. Theo sau là hàng trăm loài cá, mỗi loài bám theo một con đồi mồi lưng to như chiếc nong phơi lúa, cõng một

chiếc hòm lớn khảm xà cừ lóng lánh. Cá bé bơi trong, cá lớn hộ tống dọc hai bên

ngoài. Hàng ngàn cành san hô đỏ vàng và những nhánh tảo xanh, dương lên che

30

rợp mặt nước. Muôn ngàn sắc màu lộng lẫy được ánh nắng mặt trời nâng niu tỏa thành vầng hào quang suốt dọc con sông lớn. Đàn cá ngược về đầu nguồn sông

Srêpôk. Tiếng quẫy đuôi ầm ầm vang động cả rừng đại ngàn” (Dòng sông Tóc) [6,

tr.119]. Bên cạnh những con sông, con thác lớn, Tây Nguyên còn có bao dòng suối

nhỏ rất đỗi hiền hòa, trong trẻo, thanh bình đến kì lạ: “Chảy róc rách giữa đôi bờ cỏ hoa dại mọc đầy, đôi chỗ còn vươn ra trùm lấp cả mặt nước, con suối nhỏ chở theo

hương hoa rừng khiến dòng nước trong veo cũng man mác thơm. Vòm cây chỗ này

xà xuống la đà, gần sát mặt nước, tỏ bóng mát rượi” (Chiếc bầu nước của H’Lâm)

[9, tr.189]. Linh Nga Niê Kdam quả là một người có tình yêu sâu sắc với thiên

nhiên, chị yêu từng ngọn núi con sông, trìu mến nâng niu từng cảnh sắc nên núi

sông quê hương chị mới đẹp đẽ nên thơ đến vậy.

Truyện - ký Linh Nga Niê Kdam có một sức hút đặc biệt bởi chị có khả năng khắc họa thiên nhiên làm say đắm lòng người. Hãy cùng thưởng thức bức tranh

thiên nhiên Tây Nguyên trong bốn mùa luân chuyển dưới ngòi bút tài hoa của người

nữ sĩ: “Tháng hai, những trái sung còn sót lại trên cành cố đỏ rực lên lần cuối

trong nắng chiều, rồi đành lòng lộp độp rụng xuống, nát bét dưới bước chân người.

Mỗi khi làn gió hoang trêu ghẹo, đám hoa bơ, hoa nhãn rào rào trút xuống đầu

người qua lại những cơn mưa nhỏ li ti ngà ngà vàng.

Tháng ba, những bông sứ trắng, tím đầu tiên, cùng với đám búp đa mỏng

manh, nhẹ nhàng đáp xuống lặng lẽ nằm im toả hương trên bồn cỏ… Một vài ca sỹ

ve sầu lãnh trách nhiệm báo hết mùa gió rừng, đã bắt đầu khởi giọng.

Tháng tư, khi những trái blang khô tách vỏ, nâng niu trao cho gió những búp bông trắng xoá, mang đi dạo chơi khắp đất trời, vương lại trên cành dương xanh

những túm muôn muốt mỏng manh; cũng là lúc hoa lekima nhàn nhạt xanh trải dọc

con đường. Hoa hoàng hậu vàng rực như áo bào của các vua chúa thả mình đung đưa

trong gió. Lác đác những chùm phượng sớm đỏ chói, gọi lũ ve tháng năm ồn ĩ…

Hết hè sang thu, hương hoa sữa nồng nàn ban phát vô tư cho khứu giác con người. Áp tết Nguyên đán, những cây đỗ quyên phơn phớt hồng rực rỡ cả bốn cửa. Khắp vườn, hoa trà trắng, hoa ban tím, dâm bụt hồng, hoa cánh bướm đủ màu, mẫu đơn và dương liễu đỏ… hớn hở đung đưa cùng chào đón chúa xuân” (Rưng rưng cỏ hát) [12, tr.30-31]. Nhà văn Linh Nga Niê Kdam tỏ ra rất tinh tế và nhạy cảm

trước sự chuyển giao của đất trời. Vì vậy, không ít lần trong những tác phẩm của mình, chị đã thể hiện sự nhạy cảm của trái tim. Hai mùa chính trên quê hương chị -

mùa xuân và mùa mưa - theo thời gian mải miết chảy trôi, nhờ trang văn mượt mà

của chị mà mãi neo đậu lại với cuộc đời. Nếu mùa xuân đến trên các buôn, bon,

31

kon, plei ở Tây Nguyên gợi lên bao náo nức, gọi thức rộn ràng mùa lễ hội: “Lại mùa xuân đến. Trên khắp các nẻo đường cao nguyên, dã quỳ, loài hoa báo mùa thu

hoạch, mùa no đủ của Tây Nguyên đang vàng rực, đong đưa. Nghe trong gió tiếng

chiêng của mùa “ăn năm uống tháng” vang dội khắp buôn làng, rừng suối. Những

cơn mưa rừng đã tạnh, cái lạnh se se đủ làm hồng đôi má, làm lúng liếng ánh mắt các em gái Tây Nguyên trong những ngày lễ hội, đang theo gió xuân tràn về, thêm

náo nức mời gọi những chuyến đi xa đi gần” (Lời chiêng Tây Nguyên) [8, tr.53] thì

mùa mưa ở nơi đây lại buồn bã đến nao lòng, đất trời và con người chìm trong khí

lạnh âm u: “Mùa mưa ở rừng già bao giờ cũng âm u. Có những ngày mưa ào ạt cả

buổi sáng, rồi lại tầm tã trắng trời suốt tất cả những buổi trưa hoặc chiều. Mưa nát

rừng, mưa thối đất. Khí lạnh trùm lên mặt suối, bạc cả nước. Những tảng đá lớn

nhỏ tê tái đến sạm đen lại” (Điều ông ấy không tính đến) [6, tr.149-150].

Khi nhắc đến cảnh sắc thiên nhiên, nhà văn còn đặc biệt chú ý tới việc khắc

họa hình ảnh trăng ở xứ sở cao nguyên yêu dấu này. Dưới ngòi bút của Linh Nga

Niê Kdam, trăng Tây Nguyên thật đẹp, thật kì diệu. Trăng như người bạn tri âm tri

kỷ, luôn sẻ chia mọi buồn vui với con người. Trăng cũng như có mắt để đăm đắm

sáng soi, để rung động theo tiếng chiêng tiếng trống: “Trăng mười bốn đăm đắm

xanh, lung linh huyền ảo. Tiếng trống đối đáp, tiếng chiêng bay lên ngân nga trong

không gian cao nguyên xanh thăm thẳm, vời vợi, lay động cả mảnh trăng mỏng

trong suốt” (Trăng Xí Thoại) [7, tr.12]; “Trăng sà xuống nhà Rông bập bùng ánh

đuốc nghe câu adoh, adây. Trăng bồng bềnh trong câu hát giao duyên” nên chị đã

thiết tha nhắn hỏi: “Có phải trăng là nhân chứng duy nhất hàng ngàn đời nay đồng

hành cùng mọi lễ, hội Tây Nguyên? Ôi, nếu không còn những đêm như thế này, những câu hát tuyệt vời thế kia còn không, nhịp chiêng náo nức ấy còn không, và bàn

tay dịu mềm của em, của chị, của bao phụ nữ Tây Nguyên có còn được bay lên như

cánh chim Ch’rao?” (Trăng Xí Thoại) [7, tr.20]. Ánh trăng lung linh, huyền ảo, thân

thiết ấy còn thêm trong trẻo, rạng ngời và viên mãn trong cảm nhận tinh tế của nhà văn: “Đêm choàng nhanh chiếc áo đen lên vạn vật, nhưng trăng mười sáu vẫn trong trẻo xanh giữa trời” (Trăng Xí Thoại) [7, tr.19]; “Trăng mười sáu lơ lửng giữa trời khi chúng tôi uống cạn ché rượu nhỏ nhà Amĩ Thúy. Mặt sông và những con đường sáng

rờ rỡ dưới trăng chẳng hề làm mất vẻ huyền bí và thơ mộng của con sông Ayun, đúng

như tôi từng hoài niệm về nó” (Đâu là đáp số cho bài toán Ya Tul ?) [7, tr.143].

Thiên nhiên trong truyện - ký H’Linh Niê quả là độc đáo và hết sức xinh đẹp,

dệt nên một không gian sống đậm phong vị Tây Nguyên. Với góc nhìn thiên nhiên

ở nhiều chiều kích khác nhau nên H’Linh Niê không chỉ thấy thiên nhiên là thế giới

32

tự nhiên mà còn là môi trường sống, là không gian sinh tồn, là nguồn nuôi dưỡng, chở che, bao bọc con người: “Những đứa con của núi rừng, không bao giờ chết

giữa rừng, bởi không chỉ chở che mà rừng còn cho họ sự sống. Cây để làm nhà,

suối cho nước uống, đất gieo trồng nảy mầm sinh sôi, chim thú trong rừng, cá suối

làm con thịt trong bữa ăn…” (Thung lũng Yang Hruê) [12, tr.103]. Thiên nhiên còn có khả năng bồi đắp tình cảm, thanh lọc tâm hồn và là tiếng gọi của quê hương

tha thiết với những người con xa xứ. Hai mươi năm xa quê, nay mới được trở về,

được cảm nhận và ngắm nhìn cảnh sắc thiên nhiên thân thuộc chứa chan bao nỗi

nhớ, H’My đã có một quyết định dứt khoát: “Cao tít trên bầu trời đã bắt đầu ửng

hồng bình minh của một ngày mới. Có đôi chim ktrâo đang chao cánh liệng vòng,

thoắt một cái chúng lao vút lên tận cao xanh, hình dạng chỉ còn nhỏ xíu. Gió hôn

nhẹ trên từng chồi non mươn mướt khẳng khiu của rừng cây Y Minh trồng quanh buôn. Rung rinh, lay động, lá như những bàn tay nhỏ thân thương đang vẫy gọi.

Chưa ở đâu H’My thấy màu trời xanh đến thế, gió lồng lộng đến thế như ở cao

nguyên mình. Tiếng sáo đinh buốt của ai da diết xa xôi, bổng trầm mơ hồ tan trong

vòm cây vàng nắng. Hít một hơi thật sâu hương vị trong lành sớm mai nơi giếng

nước, H’My cười thật tươi: Thế nào rồi em cũng sẽ lại trở về!” (Long lanh giếng

nước buôn Nui) [9, tr.180].

Thiên nhiên được cảm nhận, được phản chiếu qua lăng kính tâm hồn con

người nên giữa thiên nhiên và con người hầu như luôn có mối quan hệ gần gũi, gắn

bó, thân thiết. Thiên nhiên buồn vui theo con người và cũng là biểu tượng về tình

yêu bất tử của con người.

Trong truyện Hoa Pơ lang, thiên nhiên biến đổi theo tâm trạng nhân vật. Thiên nhiên là minh chứng cho tình yêu sáng trong, mãnh liệt nhưng đắng cay,

đau đớn của nàng H’Bia với chàng Đam San. Khi H’Bia và Đam San bên nhau,

thiên nhiên vui tươi, e ấp, nhí nhảnh và ngân nga ca hát: “Đam San cũng say trong

nhịp điệu của câu hát ai rei. Người chàng lắc lư, đôi chân và cả thân mình nhấc lên, nhún xuống, tua khố tung bay. Những con chim kơtia mỏ đỏ, chim nhông mỏ vàng kéo hàng đàn ríu rít sà xuống theo hai người. Góc rừng, anh công kiêu hãnh xòe hết chiếc đuôi lóng lánh những hình mặt trời xanh, khoe mẽ với nàng công

đang yểu điệu rón rén từng bước. Tiếng suối róc rách ngân nga đâu đây trong bài

ca bất tận của núi rừng và tình yêu. Từng chùm hoa xoài trắng đung đưa trong nắng…” (Hoa Pơ lang) [6, tr.9-10]. Khi H’Bia và Đam San bị luật tục chia cắt,

H’Bia biến thành cây Blang. Hoa Blang là máu của H’Bia, máu của trái tim đớn

đau, tan nát, đi theo Đam San tới cuối đất cùng trời: “Rồi tất cả nhòa đi, chỉ còn

33

một thân cây cao lớn sừng sững vươn những cánh tay dài lên bầu trời thăm thẳm cao, xa vời vợi. Những người đàn bà gọi đó là cây Blang. Cây Blang có hoa đỏ mùa

hè, kết thành bông trắng mùa đông. Cánh đỏ như máu của hoa chính là từng mảnh

trái tim đầy yêu thương đã tan nát của nàng H’Bia. Gió đông tách những chùm

bông trắng xóa, mang tình yêu của H’Bia theo Đam San tới tận cuối đất cùng trời. Các cô gái Radeh nhặt bông ấy xe chỉ, nhuộm nước lá rừng, dệt những tấm chăn,

đắp ấm mọi lứa đôi yêu nhau” (Hoa Pơ lang) [6, tr.17-18].

Thiên nhiên nơi đây không chỉ biết sẻ chia buồn đau mà còn biết nhân đôi niềm vui, niềm tự hào của con người. Khi Y Sang “học kỳ nà y vừ a đạt học sinh xuất sắ c, lại cò n đi thi học sinh giỏi trên tỉnh cũng già nh giả i ba nữa” thì thiên nhiên rực rỡ, vui mừng, hòa cùng niềm vui lớn của cả gia đình Y Sang: “Nắng và ng đến tươi cả những cà nh cà phê trá i chín đỏ mọng trong mả nh vườ n nhà . Gió mả i đù a chơi vớ i gió , có lú c mê ̣t quá phả i nghỉ ngơi nên lặng phắ c. Tiếng nó i cườ i ồ n à o của đá m mấy cô chá u đang nấu ăn ngoà i sân là m nắ ng cũng e ngại không dá m bướ c vô nhà nữa”. Và khi Y Sang đi lãnh thưởng ở tỉnh về thì: “Bầu trời trong veo đến lóa mắt. Ghen với những đám mây trắng la cà dạo chơi khắp miền. Những cành hoa vông

cứ cao vống lên, đỏ đến cháy cả nắng. Hoa cà phê cuối vụ ra sức cháy hết mình và tỏa

hết hương thơm ngát đến từng sợi gió. Đám lá non được xuân mát lành gọi thức, khe

khẽ hé những cặp mắt ngơ ngác giữa các nách cành. Tự dưng con gà trống đập cách

phành phạch, nhảy phắt lên ngọn cây mãng cầu xiêm, kiêu hãnh vươn cao cái cổ gáy

một hồi dài ò ó o… Mùa xuân ơi tới đi! (Mùa xuân ơi tới đi!) [9, tr.78].

Thiên nhiên còn luôn đồng cảm, yêu thương, bảo vệ cho những mối tình say

đắm của những chàng trai cô gái Tây Nguyên. Truyện ngắn Chiếu bầu nước của H’Lâm là một câu chuyện hết sức lãng mạn kể về mối tình của một chàng trai và cô

gái dưới chân núi Cư M’gar. Mối tình của họ đẹp như dòng sông, con suối, như câu hát

dân ca. Vượt qua được mối thù truyền kiếp, cuối cùng họ đã đến bên nhau ngập tràn

hạnh phúc, có thiên nhiên cảm thông và che chở: “Y Nhay bật cười khoe hàng răng trắng đều như bắp non, sà xuống ngồi bên người yêu, nắm đôi tay H’Lâm âu yếm đặt lên hai bên má mình. Mắt lặn trong mắt, môi sát bờ môi, hai con tim cùng chung một nhịp như tiếng trống hgơr ngày hội. Vòng tay chắc khỏe của chàng trai từ từ, từ từ siết

chặt. Đám lá cành sà xuống, sà xuống mãi, kín đáo ôm ấp, chở che. Chòm mây trắng

ngừng không trôi giữa bầu trời xanh ngắt, che bớt đi con mắt ngó của mặt trời, khiến cho ánh nắng chói chang bỗng dịu lại. Bầy chim tao vao trong vòm cây bỗng dưng im

bặt, nín thở. Dường như chúng không muốn làm rộn cuộc gặp gỡ của đôi trai giỏi gái

xinh của hai buôn” (Chiếu bầu nước của H’Lâm) [9, tr.189].

34

Rồi cũng chính thiên nhiên ấy lại trở nên héo úa, tàn lụi khi chứng kiến hạnh phúc

con người tan vỡ; khi người con gái xinh đẹp, nhẹ dạ cả tin phải vào tù, nằm trong bốn

vách nhà giam: “Những bông lau trắng lảo đảo, phất phơ trong gió. Những vạt hoa bó

khiu vàng, héo úa rũ cánh, cố gượng trỗi dậy rồi lại bị gió hoang lồng lộn đè nghiến

xuống. Những quả núi trọc lóc như chiếc nón úp ngược trơ sỏi đá đỏ quạch, vun vút, vun

vút, lần lượt lướt qua” (Hoa Bó khiu) [14, tr.69].

Có thể thấy, hình ảnh thiên nhiên trong mỗi tác phẩm của Linh Nga Niê

Kdam đều mang một dụng ý nghệ thuật nhất định. Mỗi cảnh thiên nhiên đều mang

những đường nét, màu sắc, cung bậc tình cảm khác nhau: khi vui - khi buồn, khi u

ám - khi bừng sáng, khi hạnh phúc - khi đau khổ … tất cả đều phù hợp với tâm

trạng của con người. Thiên nhiên vừa là đối tượng để miêu tả, để bộc lộ cảm xúc lại

vừa là phông nền tôn lên vẻ đẹp cuộc sống, vẻ đẹp con người; góp phần bộc lộ tâm

trạng, tâm tư, tình cảm của con người và của chính nhà văn - người nghệ sĩ, đứa con

của đại ngàn Tây Nguyên.

Nói tóm lại, dưới ngòi bút tài hoa, đầy đắm say của Linh Nga Niê Kdam,

mảnh đất Tây Nguyên hiện lên với vẻ đẹp hùng vĩ, rực rỡ sắc màu, dữ dội, huyền

bí, hoang sơ nhưng cũng rất lãng mạn, nên thơ. Vẻ đẹp đó của thiên nhiên càng trở

nên cuốn hút bởi bàn tay tô vẽ của một người con có một tình yêu đậm sâu với quê

hương xứ sở. Người đọc có thể cảm nhận rất rõ tình yêu quê hương và niềm tự hào

về mảnh đất quê hương qua cái nhìn say đắm, qua sự rung động và cảm nhận tinh

tế, sâu sắc của nhà văn. Do đó, dù có thể chưa một lần được đến Tây Nguyên nhưng

khi đọc những trang văn tài hoa của chị, người ta cũng có thể phần nào hình dung ra

cảnh sắc độc đáo, hùng tráng, nên thơ ở nơi này. Gửi gắm và lan truyền bấy nhiêu

tình cảm vào trong trang viết, Linh Nga Niê Kdam đã xứng đáng là một người con

đáng tự hào của núi rừng cao nguyên.

2.1.2. Một cộng đồng dân tộc giàu bản sắc văn hoá

Bản sắc văn hóa Tây Nguyên được hình thành từ chính những nét văn hóa

độc đáo riêng biệt đã có tự ngàn đời của con người nơi đây. Vì thế, khi nói về vẻ

đẹp độc đáo của bản sắc văn hóa dân tộc mình, nhà văn Linh Nga Niê Kdam luôn

rất tự hào. Đó là niềm tự hào chính đáng của một con người luôn có ý thức khám

phá và sưu tầm, lưu giữ mọi vẻ đẹp của nền văn hóa giàu bản sắc trên quê hương.

Qua từng trang viết, Linh Nga Niê Kdam đã cố gắng làm sáng lên những giá trị văn

hóa quý báu của cộng đồng dân tộc mình để mọi người được biết, được tiếp cận và

trân trọng những giá trị văn hóa đó.

35

Nét văn hóa đậm dấu ấn Tây Nguyên đầu tiên mà nữ tác giả thường nhấn

mạnh đó là những ngôi nhà sàn dài Tây Nguyên. Ngôi nhà dài đã trở thành biểu

tượng văn hóa của dân tộc bởi kiến trúc của ngôi nhà đó chất chứa trong nó cả một

tầng văn hóa thiêng liêng. Nhà văn Linh Nga Niê Kdam dành rất nhiều câu chữ say sưa

giới thiệu hình dáng, kiến trúc đặc biệt của những ngôi nhà dài trên cao nguyên nắng

gió. Ngôi nhà sàn của người Êđê “dài như một tiếng chiêng” là biểu hiện cho lối sống

của vùng cao nguyên: “Cái sàn cao vừa làm chỗ nhốt bò heo, vừa tạo một khoảng

cách ngăn với mặt đất, không sợ cả rắn rết lẫn những loài thú hoang dại. Vách nứa,

mái tranh không chỉ giữ nhiệt mùa mưa, mà còn mát mẻ mùa nắng. Cầu thang đằng

trước để đàn ông vịn vào bầu vú gỗ bước vào không gian bí ẩn trên ngôi nhà dài trong

gian đinh gar. Cầu thang đằng sau kín đáo hơn dành cho những người phụ nữ ngự trị

trong gian ôk của chủ đặc quánh quyền uy mẫu hệ. Trong gian này, mỗi gia đình riêng

lại có một ngăn nhỏ. Nhà dài cứ nối dài thêm mãi, mỗi khi có một cô con gái bắt

chồng” (Thung lũng Yang Hruê) [12, tr.121-122]. Không chỉ giới thiệu kiến trúc ngôi

nhà sàn dài của người Êđê, tác giả còn so sánh nó với kiến trúc ngôi nhà của người

Mnông trong cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên để người đọc thấy rõ sự khác biệt:

“Người Êđê ở những nhà sàn mang hình dáng con thuyền, dài đến “một hơi ngựa

chạy”. Cả buôn dựng nhà theo hướng Bắc - Nam, san sát nhau như các con thuyền độc

mộc chiều về neo lại nơi bến nước. Bon làng Mnông lại là những căn nhà trệt nằm kề

nhau, mái tranh dài lợp rủ sát đất, trông như những chiếc nấm mối. Khách muốn vào

nhà Êđê phải leo cầu thang đằng trước, vịn tay lên bầu vú gỗ để đến được với

không gian mẫu hệ. Nhà Mnông lại có hai cửa hình vòng cung cùng mở về

hướng đông, thấp lè tè. Bước qua cửa nào cũng gặp bếp lửa cháy quanh năm.

Nhà dài Êđê mỗi bếp lửa, mỗi ngăn là một cặp vợ chồng con cái. Người Mnông

chỉ có hai bếp lửa chung. Một sạp nứa dài suốt chiều ngang nhà, kêu răng rắc

mỗi khi có người bước lên bước xuống. Đây là chỗ ngủ chung của đại gia đình lẫn

khách” (Tìm về bến nước) [6, tr.45-46].

Kiến trúc nhà ở của đồng bào Tây Nguyên đã độc đáo, kiến trúc nhà mồ của

của họ cũng đặc biệt khác lạ: “Mái mồ lợp bằng những tấm gỗ hình nửa mặt trăng.

Hai đỉnh là hai vầng trăng khuyết tượng trưng cho ngôi nhà ở cõi âm xa xôi. Đầu

hồi và hai bên thành trang trí những hình con rùa bò, thỏ chạy, chim chóc, chuồn

chuồn bay, hoa cỏ và các hình hoa văn. Cuối mộ, là bốn con công trống mái, liên

kết với nhau thành một bệ gỗ để ché, gùi, chén, đĩa… những vật dụng chia thêm cho

người đi hẳn về cõi âm. Bầy công, hai con khỉ và hai chiếc đầu voi trên bốn cột

36

gơng kút quanh mồ, sẽ thay người thân làm bạn với người đã khuất và canh giữ nhà

mồ” (Đêm Dliê Ya ngàn xanh) [6, tr.168].

Đối với người Tây Nguyên, tài sản quý giá nhất mà ông bà để lại cho con cháu

chính là những chiếc ching (chiêng). Ching là linh hồn dân tộc. Từ ngàn xưa, người

Tây Nguyên đã sớm biết chế tác ra các loại nhạc cụ, trong đó có ching. Ban đầu là

ching đá, rồi ching gỗ, ching tre, sau đó mua ching đồng của người Lào, người

Campuchia, người Kinh ở miền xuôi về chỉnh âm. Theo thời gian, dưới bàn tay khéo

léo của các nghệ nhân, ching dần biến đổi và dần hoàn thiện, đẹp hơn, phong phú hơn,

chất lượng âm thanh đa dạng, độc đáo hơn. Ching của người Tây Nguyên lấy chất liệu

đồng đen là chính, pha thêm bạc. Đó là chất liệu khiến tiếng ching âm vang nhất, trầm

hùng nhất, thể hiện được tính cách, tâm hồn, phẩm chất người dân Tây Nguyên. Qua

bài ký Lời chiêng Tây Nguyên, tác giả đã đem đến cho chúng ta nhiều hiểu biết về văn

hóa cồng chiêng của người DTTS bản địa: “Chưa ai tìm ra xuất xứ của những dàn

ching, có hầu như ở khắp các tộc người trên Tây Nguyên. Nhưng bà con thì vẫn chia rõ

“đẳng cấp”, phân loại ching. Ching Juăn (chiêng của người Kinh), ching Lao (chiêng

của người Lào), ching Kur (của người Cămpuchia)... Những ching quý có giá trị kinh

tế ngang bằng hàng chục con trâu, là những chiếc có pha đồng đen, pha bạc. Tiếng

ching không chỉ thanh, mà còn ấm hơn” (Lời chiêng Tây Nguyên) [8, tr.59-60].

Nhà văn không chỉ giúp chúng ta phân loại ching mà chị còn giúp chúng ta hiểu

thấu đáo hơn về số lượng các dàn ching và cách diễn tấu của các dàn ching quê chị:

“Ching Mạ, K’Ho thường có từ 3-6 chiếc. Ching Banar có từ 6-9 chiếc. Ching Arap

Jrai ngày nay được bà con tăng thêm phần đệm là những ching núm lớn nhỏ, khiến

biên chế dàn ching có nơi lên đến 21 chiếc. Dàn ching Êđê đủ bộ thường có 10 chiếc

lớn nhỏ, lần lượt bỏ lọt trong nhau. Có thể coi chiếc trống cái H’Gơr (một mặt bịt da

trâu đực, mặt kia bịt da trâu cái), là nhạc trưởng điều khiển sự ra vào, ngừng nghỉ,

chuyển bài bản của cả dàn. Ching Tây Nguyên, kể cả trong đám tang hay lễ bỏ mả, bè

trì tục giữ nhịp trong toàn bộ thời gian diễn tấu. Cả dàn ching cùng một lúc tấu lên, có

ít nhất từ ba đến năm chiếc cùng đánh một nhịp, sẽ tạo ra nhiều hồi âm, khiến hoà

thanh dàn ching cực kỳ phong phú. Hình thành những mảng âm thanh lóng lánh, sang

trọng và cả đôi khi mạnh mẽ đến cao ngạo. Tiếng nói các dàn ching, chính là tâm hồn

trữ tình rực lửa của cộng đồng những cư dân bản địa đích thực của miền Tây Nguyên

đất đỏ bazan” (Lời chiêng Tây Nguyên) [8, tr.60] .

Mỗi khi tiếng ching của cao nguyên đất đỏ vang lên, dù ở bất kì đâu, Linh Nga Niê Kdam cũng không thể giấu nổi niềm tự hào. Nói về cồng chiêng quê mình, niềm tự

37

hào mãnh liệt của chị tràn ra từng câu chữ, từng lời nói: “Dàn ching Kna buôn Kó Siêr thành phố Buôn Ma Thuột đã hơn một lần thay mặt “họ hàng nhà ching” Tây Nguyên,

góp mặt với âm nhạc dân gian thế giới. Để rồi được công nhận là “tinh hoa văn hóa dân

gian khu vực Châu Á - Thái Bình Dương”, “ di sản văn hóa dân gian phi vật thể truyền

khẩu thế giới” như giá trị tinh thần lớn lao đích thực vốn có của nó đối với toàn thể cộng đồng các sắc dân Tây Nguyên” (Lời chiêng Tây Nguyên) [8, tr.61].

Niềm tự hào của nhà văn Linh Nga Niê Kdam về văn hóa dân tộc còn thể

hiện qua việc chị ca ngợi những trang phục truyền thống và các nghề thủ công tinh

xảo dưới bàn tay khéo léo của những người dân Tây Nguyên. Màu sắc trang phục thổ

cẩm được nhà văn phản ánh rất rõ: “Khác với màu chàm ở một vài dân tộc phía Bắc,

màu sắc Tây Nguyên chủ yếu là gam màu nóng: đen, đỏ, vàng…; lấy màu đen làm nền

chủ đạo. Một số dân tộc sử dụng nền đỏ như người Bih, trắng như Mnông Barna, chàm nhạt như Stiêng, Mạ” (Đi về đâu hỡi… thổ cẩm Tây Nguyên) [7, tr.26]. Những

sắc màu ấy không chỉ làm đẹp cho cuộc sống hàng ngày mà nó đã trở thành nỗi nhớ

không thể nào quên của những người con nơi đây mỗi khi nghĩ về mảnh đất quê

hương. Trong niềm thương nhớ buôn Nui của cô họa sĩ thành danh bên xứ người,

sắc màu thổ cẩm là kí ức in hằn sâu đậm nhất bên cạnh những câu kể k’han đêm

bập bùng ánh lửa, những điệu kèn u buồn da diết, những tiếng chiêng lễ hội cúng

bến nước cầu mưa: “Nhất là hình ảnh các tấm thổ cẩm rực rỡ trên khung dệt của

aduôn và amí. Bốn màu đen, đỏ, trắng, vàng tưởng như đối chọi nhau mà lại hoà

hợp đến yên bình trên những mảng hoa văn độc đáo. Chị đã chọn bốn sắc màu ấy,

làm gam chủ đạo cho toàn bộ những sáng tác mĩ thuật của mình” (Long lanh giếng

nước buôn Nui ) [9, tr.176]. Cũng chính những sắc màu tưởng như đối chọi mà hòa hợp ấy đã làm nên biết bao hoa văn, trang phục đẹp, đậm đà bản sắc văn hóa. Linh

Nga Niê Kdam đã giới thiệu thật tỉ mỉ đặc trưng của từng bộ trang phục của từng

tộc người nơi đây. Trang phục của người Banar Chăm thì: “Nam, áo thổ cẩm

mặc ngoài quần áo trắng; nữ, apăn tự dệt, áo bà ba các màu với chiếc khăn môôk ch’rai đính những hạt cườm duyên dáng” (Trăng Xí Thoại) [7, tr.15]. Trang phục của người Êđê thì: “Áo nam cổ tròn, áo nữ cổ thuyền, tay dài, hoặc tay trần khoe hàng chục chiếc vòng đồng rung rinh, leng keng nơi cổ tay xinh

xắn” (Đi về đâu hỡi… thổ cẩm Tây Nguyên) [7, tr.26]. Trang phục của phụ nữ

Xê Đăng là: “tay trần, đính thêm một tấm thổ cẩm bề ngang bằng bàn tay, thả dài từ vai xuống” (Đi về đâu hỡi… thổ cẩm Tây Nguyên) [7, tr.27]. Còn đây: “Cô

gái Banar rất điệu đàng trong tấm váy ngắn ngang bắp chân, buông lơi chiếc tay

áo sau lưng, để lộ đôi vai trần nâu hồng. Thiếu nữ Jrai duyên dáng với bộ váy áo

38

dài, nhưng dường như để khoe sự uyển chuyển của đôi hông, nên thêm cả nhiều đường hoa văn phía sau cặp mông tròn. Rất ý tứ, những người phụ nữ Jrai đã kéo

dài thêm vạt tấm áo nam, để chỉ còn khoe thấp thoáng chiếc khố bên đôi chân trần

nâu bóng” (Diệu kỳ Pleiku) [8, tr.80]. Những trang phục Tây Nguyên, nhất là

những chiếc váy của người phụ nữ, dù ở dân tộc nào cũng vậy, tuy không trang trí hoa văn cầu kì: “Phụ nữ Êđê mặc váy dài, chỉ có vài đường hoa văn trên bờ vai,

gấu áo và ngang trên váy. Phụ nữ Bih mặc áo cộc tay, váy ngắn ngang bắp vế. Hoa

văn tập trung dày đặc ở gấu áo, gấu váy” (Lời chiêng Tây Nguyên) [8, tr.57]

nhưng vẫn quyến rũ mê hồn: “Váy nữ quấn ngang thân, dắt mối bên hông. Tấm vải

chỉ vừa vặn kín thân, khi bước đi để lộ bắp vế trong mắt những người lần đầu đến

Tây Nguyên. Có loại váy mặc ngắn ngang bắp chân, có váy dài chấm gót. Độ dài

váy bao giờ cũng hơn mức cần thiết chừng 20cm. Đủ để khi tắm suối, chị em bỏ áo, kéo váy quấn ngang bầu ngực. Bạn cứ hình dung mà xem, chiều về hàng chục đôi

vai trần nâu, mịn màng khoe bên bờ suối hay nơi bến nước. Đố bước chân các

chàng trai ở rừng về và du khách vãng lai nhấc đi nổi đó…” (Đi về đâu hỡi… thổ

cẩm Tây Nguyên) [7, tr.27]. Nữ nhà văn còn giới thiệu rất cụ thể nghệ thuật đan lát

mây tre của người Tây Nguyên với những sản phẩm phục vụ cho cuộc sống hàng

ngày: “Những chiếc gùi, rổ rá, vách liếp… làm công phu lắm. Không chỉ vót nhẵn

mà còn nhuộm nan để có được những hoa văn đen nâu tinh xảo trên sản vật. Đặc

biệt là tấm phên dùng để phơi nông sản hay lót nhà sàn. Bà con cài đặt theo một

cách khác hẳn lối đan nong mốt, nong đôi quen mắt ở các vùng. Bền và đẹp không

kém gì hàng ngoại” (Làng mặt trời) [7, tr.57].

Nói đến bản sắc văn hóa trên mảnh đất cao nguyên, ta không thể không nói đến rượu. Rượu là một nét văn hóa ẩm thực. Rượu là sợi dây gắn kết con người, là chất men

say để con người thăng hoa và thấu hiểu lòng nhau trong các ngày lễ trọng. Rượu bao giờ

cũng được các bà, các mẹ ủ từ những gùi lúa thơm đầu tiên sau khi gặt và lá men rừng,

đựng trong các ché: “ché Yang Rang cao ngang đầu đứa nhỏ mười mùa rẫy, ché Tang keh quanh miệng có tám chiếc tai có mấu, ché Rlung, Yang Suh… ông bà trước đây phải đổi tới vài chục con trâu” (Đi hội Tăm Nghét cùng em) [8, tr.33]. Vì thế, rượu cần Tây Nguyên có hương vị đắng ngọt làm say lòng người: “Cái lâng châng của men rượu cần

đến lạ, chỉ đủ làm nghiêng ngả để thấy người và cảnh mỗi lúc một đẹp hơn” (Lời mời

gọi của Kon H’Ring) [8, tr.75] và bay lên những bước chân tiếp nối vòng xoang, níu giữ biết bao tâm hồn ở lại.

Bằng tấm lòng thành kính ngưỡng vọng, nhà văn không chỉ khắc chạm hồn

cốt quê hương ở những giá trị văn hóa vật chất mà chị còn phản ánh bản sắc văn

39

hóa dân tộc một cách sâu đậm trên bức tranh phong tục tập quán đã có tự ngàn đời của quê hương mình. Phong tục tập quán “là những thói quen ăn sâu vào đời sống

xã hội từ lâu đời, được đại đa số mọi người thừa nhận và làm theo” [242, tr.143].

Trên mỗi một vùng đất, phong tục tập quán lại có những nét đẹp riêng. Ở mỗi nhà

văn, nét đẹp của phong tục tập quán lại được phản ánh ở các phương diện khác nhau phụ thuộc vào cảm quan hiện thực của từng tác giả. Nhà văn Y Điêng chú ý cảm

nhận về không gian phong tục trên mọi phương diện tồn tại: từ phong tục đến hủ

tục, từ nét đẹp văn hóa đến những sinh hoạt lạc hậu, ấu trĩ. Nhà văn Linh Nga Niê

Kdam chú ý đến nét đẹp bản sắc của phong tục với tư cách một người con xa xứ

được trở về để đắm mình trong không gian văn hóa quê hương. Nói về tư cách trở

về quê hương của chị, trong bài Gian nan về với cội nguồn, nhà lý luận phê bình

Lâm Tiến viết: “Trở lại quê hương vừa với ý thức lấp đầy phần văn hoá, ngôn ngữ Êđê còn trống, vừa với ý thức tìm tòi, khám phá, phát hiện cội nguồn của dân tộc

mình và dân tộc khác; cả hai hợp lực đó tạo nên lòng say mê, nhiệt tình mạnh mẽ

trong con người chị. Về với Tây Nguyên dường như chị trở về với vùng trời riêng

của mình, được dang rộng cánh bay trong một không gian văn hoá Tây Nguyên bao

la, hùng vĩ. Một không gian văn hoá với những con người thực, việc thực với một

cuộc sống muôn hình muôn vẻ hài hoà trong một thiên nhiên hoang sơ, đầy thơ

mộng” (Gian nan về với cội nguồn) [46].

Trong đời sống văn hóa tinh thần của các tộc người trên mảnh đất Tây

Nguyên, lễ hội là một hình thức văn hóa truyền thống có quy mô lớn nhất. Lễ hội là

nơi lưu giữ và thể hiện đậm nét nhất bản sắc văn hóa tinh thần của cộng đồng: “Mỗi

lễ hội là một dịp con người sống hết mình với nhau, với thiên nhiên. Mối liên kết ràng buộc cộng đồng cũng bắt nguồn từ đó” (Đi tìm hồn chiêng) [8, tr.15].

Mỗi năm, đồng bào Tây Nguyên có một mùa lễ hội gọi là mùa “ăn năm uống tháng” - thường tổ chức từ tháng 11 đến tháng 3. Mùa lễ hội “ăn năm uống tháng” được tiến hành không theo ngày giờ cụ thể, chỉ được diễn ra vào lúc cả buôn làng “mùa màng đã xuốt, bẻ xong xuôi”. Trong mùa “ăn năm uống tháng”, có rất nhiều lễ hội khác nhau được tổ chức. Và cũng rất nhiều lần trong các trang truyện - ký, nhà văn say sưa giới thiệu về các lễ hội Tây Nguyên. Đặc trưng nhất, đậm màu sắc Tây Nguyên nhất phải kể đến Lễ hội ăn trâu. Nhà văn tỏ ra rất am hiểu về lễ hội quan trọng này của đồng bào Tây Nguyên. Lễ hội ăn trâu được chị miêu tả khá tường tận từng công việc từ khâu chuẩn bị trong truyện ngắn Nước soi bóng ai: “Từ hai ba lần mặt trời dậy ngủ, Khoa plơi đã cắt cử bọn con gái mạnh chân, khỏe tay trong làng, vô rừng tìm chặt cây chuẩn bị làm lễ ăn trâu”. Cây ấy phải là “cây

40

Blang hoa trắng” để làm cột Goong drai. Còn “việc của bọn con trai là trồng chéo xung quanh cột goong drai tám cái cọc khác, cao chừng bảy, tám cùi tay, buộc nối nhau cho chắc chắn. Mỗi cọc đều có một sợi dây rừng buộc từ ngọn thả xuống tận đất. Trên mỗi sợi dây lại treo những mảnh gỗ nhỏ vẽ nhiều màu sắc, để chào đón tổ tiên, ông bà về dự hội. Ai khéo tay nhất sẽ làm một chiếc đàn nhỏ gác lên trên đỉnh cột goong. Phải làm cẩn thận lắm, vì đó là nơi để hồn tổ tiên, ông bà, cha mẹ nghỉ ngơi khi về cùng con cháu. Chung quanh đàn phải cắm nhiều lưỡi dao nhọn bằng gỗ và một mảnh hình trăng lưỡi liềm, tượng trưng cho quyền tối cao của các Yang atâo”. Vì đây là một ngày lễ trọng nên cả buôn đều phải quét dọn sạch sẽ, mặc những trang phục đẹp, nhất là đàn bà con gái còn đeo cả những chiếc vòng cổ, vòng tay, vòng chân kêu leng keng theo mỗi bước đi. Ngày hội được mở ra bằng việc già làng mang: “bộ ching Arap pha đồng đen rất quý, có tiếng ngân rất vang, rất xa, cùng với trống hgơr lớn” tới. Cùng lúc ấy là: “Bốn con trâu đực có những bộ sừng đen bóng, cong vòng sắp chạm nhau được dắt tới cột vô bốn cây nêu nhỏ. Bên cạnh đó đặt một chiếc nia có bày các lễ vật khác như cơm, bầu rượu, bắp, các loại đậu, cả những trái bí bầu…vừa mới hái trên rẫy về”. “Khoa plơi và mấy cụ già làng cùng đi tới nhà thày cúng Po ieo tơ pai , mời ông ra làm lễ. Những thanh niên giỏi việc săn bắn nhất, đã được cắt cử để chuẩn bị lễ đâm trâu. Mỗi con hai ba người, chờ sẵn ngay bên cột buộc trâu đó” (Nước soi bóng ai) [9].

Lễ hội ăn trâu bắt đầu với tiếng cồng chiêng vang xa, sau đó là Pô ieo tơ pai khấn: “tạ ơn các Yang vì việc làm ăn tốt đẹp trong năm; cầu xin mùa màng năm tới cũng lớn bông, nhiều trái; trâu bò, heo gà sinh sôi, người vật không ốm đau, bệnh tật”. Tiếp theo là “tiếng hát khóc con trâu” và cả dân làng cùng bước vào vòng múa xoang trong tiếng ching trống bing bong: “Vòng xoang đã bắt đầu tự lúc nào. Hai con trai khiêng trống đi trước, mỗi người một ching, gần hai chục chiếc lớn nhỏ, nối bước nhau. Những bước chân tiến lên, lùi xuống xoay xung quanh cột goong. Lâu lâu lại một tiếng hú sảng khoái kéo dài, hàng trăm người cùng hòa theo đáp lời”. Nhà văn đã mô tả rất cụ thể quá trình đâm trâu của các thanh niên khỏe mạnh, tài giỏi trong plơi: “Tám thanh niên ngực nâu trần vạm vỡ, bóng láng, vung tròn vũ khí trong tay, dẫn đầu đoàn ching trống đi vòng quanh những con trâu và cột nêu. Lựa được khoảng cách tốt nhất, họ phải đâm một nhát lao hay kiếm, cho trúng ngay tim con vật. Sau đó chém tiếp vô khuỷu chân trái phía sau, rồi khuỷu chân phải, cho trâu khuỵu xuống. Vừa múa vòng tròn, vừa tiếp tục đâm, chém, cho đến khi con vật tắt thở”. “Tiếng hò reo cổ vũ những chàng trai tài giỏi, đem may mắn tới cho cả plơi, rộn rã khắp sân Rông”. Cứ thế, cứ thế lễ hội mỗi lúc lại thêm sôi nổi: “Ching trống càng thêm dồn dập. Vòng xoang mỗi lúc một rộng ra, bởi có thêm nhiều những bàn tay quen lạ nối tay. Rượu

41

chảy tràn trề như nước sông Ayun. Gió đẫm mùi thịt nướng thơm phức. Ching cứ bing boong, bing boong ngân xa và những bước chân trong vòng xoang vẫn cứ rầm rập, rầm rập”. (Nước soi bóng ai) [9].

Lễ hội “ăn năm uống tháng” trong đó có Lễ hội ăn trâu của đồng bào Tây Nguyên thường do một nhà đứng ra tổ chức nhưng đã thành ngày hội của tất cả buôn

làng, của cả vùng, cả tổng. Mọi người khắp nơi cùng đến chung vui với nhà chủ, hòa

nhập niềm vui chung với cộng đồng. Buổi lễ này cuốn hút mọi người chính bởi vẻ đẹp của sức mạnh con người, vẻ đẹp của tinh thần đoàn kết cộng đồng, vẻ đẹp của

tình người Tây Nguyên. Nhà văn Y Điêng cũng từng ca ngợi: “Ngày hội, ngày ăn

năm uống tháng người không đẹp cũng đẹp, người không xinh cũng xinh. Họ gặp nhau là vì tình người. Mời khách uống rượu ăn cơm, ăn cơm no rồi cũng phải ăn

thêm, uống rượu say rồi cũng không được từ chối bởi những lời nói, nụ cười uyển

chuyển dễ nghe, dễ thông cảm” (Chuyện trên bờ sông Hinh) [56, tr.197].

Sau Lễ hội ăn trâu, phải kể đến một số lễ hội khác cũng đậm sắc màu Tây

Nguyên như: Lễ hội Tăm Nghét, Lễ hội Xoay cột đâm trâu cầu mùa… Hội Tăm

Nghét của người Pu Noong Noong ở Quảng Trực tổ chức: “khi lúa đã ngủ trong

kho, bắp treo lủng liểng đầy xà nhà, năm cũ với những buồn vui cũ đã bay đi cùng

những cơn gió của rừng già tràn về” để xin chính thức mở cửa kho lúa và sum họp gia

đình đầu năm mới. Ngày hội Tăm Nghét thường vui chơi trong bốn ngày: Ngày đầu,

“những người đàn ông đi chặt cây Blang để làm cột mới buộc trâu” và “dùng gỗ

Blang thay những chiếc khung D’rang dạy vẽ hoa văn màu đen, nẹp chung quanh giàn

kho lúa trên hai bếp lửa và hai chiếc giá để bầu cơm ở trong nhà”; còn các chị phụ nữ

thì “tíu tít chuẩn bị lương thực, thực phẩm”. “Dựng cột đâm trâu Gơng rga và cột nêu

Gơng la là công việc quan trọng nhất trong ngày thứ hai”. Sau khi thầy cúng làm lễ thì

chủ nhà cùng dàn chiêng ra tận đầu làng đón khách. Cơm nước xong xuôi, các dàn chiêng thi nhau đua tài quanh đống lửa sáng rực giữa sân, hòa với tiếng chiêng là

những “tiếng Nung, Wao, Mbuôt… du dương, tiếng hát Tăm pơt, câu đối đáp Tăm ơh prơ chao qua liệng lại”. “Ngày thứ ba là ngày chính thức của lễ hội. Mọi nghi thức khẩn cầu được lặp lại, trước khi hiến tế”. Sau đó là đâm trâu, thịt trâu được chia đều cho mọi người đến tham gia lễ hội. Rồi “những câu hát Tăm ơh prơ gửi qua chao lại” trong đêm đầy sao lửa nồng nàn. Ngày thứ tư, ngày cuối cùng của lễ

hội, mọi người cùng ăn bữa cơm tiễn biệt rồi “tiếng chiêng bung boong đưa tiễn cho bàn tay níu kéo những bàn tay” (Đi hội Tăm Nghét cùng em) [8].

Lễ hội Xoay cột đâm trâu cầu mùa theo phong tục cũng diễn ra trong bốn ngày

đêm: “Ngày thứ nhất: thịt một heo năm gang, xin Yang cho dọn dẹp sân bãi, chặt cây

42

về đẽo gọt, vẽ vời hoa văn, dựng cột Loong kmuôn”.“Sáng ngày thứ hai lại mổ tiếp

một heo nữa, xin các Yang cho dựng cột lên làm chỗ đón các Yang về nghỉ ngơi uống

rượu”. Dựng cột xong, trâu lựa chọn hiến sinh được mang tới. Thầy cúng làm lễ tạ ơn

các Yang đã cho một vụ mùa no đủ, bình an, cầu xin mưa thuận gió hòa trong tiếng

chiêng ngân nga bay xa. Chiều nắng nhạt là lúc các chàng trai cô gái trong plơi đua tài.

Rồi “Bảy người phụ nữ dắt trâu đi xoay quanh cột nêu bảy vòng. Với hai lá trầu xé

tròn sấp ngửa, các thầy cúng đã xin được chấp thuận của các Yang”. Đến nửa đêm,

“Giữa thời khắc chuyển giao thiêng liêng của đất trời, lễ rước các Yang về dự hội

được tiến hành qua ba lần mời gọi với đủ rượu, trầu, thuốc, gà…”. “Ngày thứ ba chém

trâu, được coi như ngày chính của lễ hội Xoay cột đâm trâu”. Từ sáng sớm, các “già

làng cao tuổi nhất dẫn đầu, chiêng trống nổi lên cho bước chân rộn ràng trong điệu

múa đón khách. Khách cũng vừa tấu chiêng vừa múa tiến dần vào làng”. Chủ và

khách cùng khoe tài tấu chiêng từ lúc nắng mới lên tới khi mặt trời nghiêng hẳn

về phía Tây. Sau khi thầy cúng làm lễ khấn các thần linh và chém mỗi bên mông

trâu một nhát, chiêng trống lại nổi lên để trai gái bước vào vòng xoang nhảy múa

và ca hát. “Ngày thứ tư, người ta rước đầu trâu xoay quanh cột nêu và nhà Rông

bảy vòng. Đến khi nào đầu trâu lên tới nhà Rông coi như lễ nghi chấm dứt. Các

già làng đãi đằng khách nào đến muộn và đưa tiễn khách xa với tất cả sự bịn

rịn, lưu luyến” (Trăng Xí Thoại ) [7]…

Các lễ hội được nhà văn quan sát, tái hiện sinh động, tự nhiên trên từng trang

truyện - ký. Các lễ hội ấy phản ánh rõ nét sự gắn kết cộng đồng, sự tài hoa, lãng

mạn, phóng khoáng của người dân Tây Nguyên. Linh Nga Niê Kdam xem và miêu

tả các lễ hội trên quê hương không chỉ bằng hiểu biết mà còn bằng cả niềm tin

thiêng liêng bắt nguồn từ truyền thống và tín ngưỡng dân tộc. Từ xa xưa người Tây

Nguyên đã có truyền thống: Nuôi trâu hàng đàn, béo mượt không phải để đi cày,

kéo xe, chở gỗ mà chỉ để làm vật hiến sinh. Sau khi lễ tạ các thần linh, những người dự

lễ cùng nhau ăn uống, rồi chia đều phần thịt cho mỗi “bếp” trong làng như là để sẻ

chia vui buồn của cộng đồng dân tộc. Vì thế mà có lần nhà văn đã lý giải rất thấu đáo

về những lễ hội có đâm trâu: “Dân tộc nào cũng có đời sống cội nguồn tâm linh.

Người Tây Nguyên cũng vậy. Yàng ở khắp mọi nơi. Mưa thuận, gió hòa, mùa màng

sinh sôi, gia súc nảy nở, con người không ốm đau, dịch bệnh, ấy là nhờ ơn các Yàng.

Phải lễ tạ. Lễ vật có giá trị cao nhất, trong sạch nhất là con trâu”. (Số phận của

folklore Tây Nguyên và cái tâm của một nhà văn nữ Êđê ) [48, tr.157].

Điều đặc biệt là: trong các ngày lễ hội của đồng bào Tây Nguyên, cồng

chiêng không bao giờ vắng bóng. Cồng chiêng đối với người dân Tây Nguyên có

43

một ý nghĩa vô cùng quan trọng và hết sức linh thiêng. Không chỉ có lễ hội mà bất cứ một sinh hoạt trọng đại nào của người dân nơi đây đều không thể thiếu tiếng

cồng chiêng. Nhà văn Linh Nga Niê Kdam đã nói một cách rất cụ thể: “Chiêng gắn

với người Tây Nguyên từ lúc mới chào đời, amí hứng nước sương trong chiếc bát

đồng, ama cột ché rượu cần, dóng lên tiếng chiêng làm lễ thổi tai. Trước tiên là báo với các Yang, với cộng đồng về thành viên mới của gia đình, sau là chọn một cái

tên như mong ước của cha mẹ để đặt cho con. Một con người bắt đầu vòng đời thứ

nhất trong tín ngưỡng 7 lần đầu thai của người Tây Nguyên. Đến ngày lễ cắt việc,

được làm một thành viên chính thức, có trách nhiệm, có nghĩa vụ với cộng đồng.

Rồi bắt chồng, cưới vợ, dựng nhà cho người trẻ, mừng sức khoẻ cho người già, đón

bạn bè buôn gần buôn xa tới chơi nhà, các lễ nghi cầu mưa, dọn rẫy, làm cỏ, đón

lúa, mừng năm mới…” (Lời chiêng Tây Nguyên) [8, tr.56]. Chị còn khẳng định âm thanh của mỗi tiếng chiêng của mỗi tộc người lại có nét độc đáo riêng biệt: “Sự gắn

bó mật thiết với tiếng chiêng hầu như thống nhất trong mọi dân tộc sinh sống trên

dãy Trường Sơn. Nghe tiếng chiêng có thể hiểu phong cách sống và xử thế của mỗi

một dân tộc. Đó không chỉ là tâm linh mà còn là đặc trưng của từng tộc người. Mỗi

tộc người một làn điệu, một cách diễn tấu. Chiêng Bahnar trầm hùng như làn gió

ầm ào thổi qua rừng già. Chiêng Jrai náo nức mời gọi con gái, con trai nắm tay

nhau bước vào vòng xoang, cho vai sát vai và hông sát hông. Chiêng Xê Đăng rạo

rực như bước chân những chàng dũng sĩ cao nguyên. Chiêng Mạ, Mnông nói điều

gì trong nhịp buồn đến thổn thức? Chiêng Êđê dồn dập, mạnh mẽ như mưa đá, như

thác reo, như khát vọng của tù trưởng Đăm Săn thuở nào, dám chống lại luật tục

mẫu hệ ngàn đời của dòng tộc, ước mơ bắt cả nữ thần về làm vợ” (Lời chiêng Tây Nguyên) [8, tr.58]. Âm thanh của những tiếng cồng chiêng là âm thanh kết nối,

hối thúc mọi người sát lại bên nhau bước vào những điệu múa xoang vui tươi, uyển

chuyển trong tình yêu thương, đoàn kết: “Bàn tay nối bàn tay. Những thân hình con

gái mát rượi, sát bên hông con trai bốc lửa. Bước chân rậm rịch trong nhịp xoang xoay quanh những ché rượu, mỗi lúc một thêm dồn dập” (Đêm Dliê Ya ngàn xanh) [6, tr.179]; “Bất kể bụi tung mù mịt và cái nóng nung người cuối mùa khô còn bốc lên từ đất, rầm rập, rầm rập hàng trăm bước chân con trai con gái mê mải sát hông

bên nhau trong vòng múa dường như bất tận. Không có động tác, chỉ có tay nắm

tay, hông chạm vào hông và những bước chân đều tăm tắp. Xoay vòng, xoay vòng, xoay vòng …” (Pơ thi mênh mang mùa gió) [12, tr.81]. Hẳn phải là người con dân

tộc từng được chứng kiến và tham gia, yêu và say thiết tha các hoạt động văn hóa

phong tục tập quán của quê hương thì nhà văn mới có thể rung động đến từng âm

44

thanh chiêng hội và cảm nhận tinh tế về vẻ đẹp thần thái, sức mạnh gắn kết con người của âm thanh cồng chiêng như thế.

Bên cạnh các lễ hội, tác giả còn chỉ rõ nét đẹp văn hóa tinh thần của các tộc

người sống trên cao nguyên đất đỏ trong các phong tục tập quán sinh hoạt thường

ngày như nghi lễ khi sinh nở, cưới xin, bỏ mả…

Nghi lễ sau khi sinh nở của người phụ nữ Tây Nguyên được Linh Nga miêu tả

rất rõ trong sáng tác của mình. Nghi lễ đó thể hiện rõ nét đẹp của lòng biết ơn, trân

trọng cha trời mẹ đất và những ước mong tốt đẹp cho đứa bé mới sinh: Khi đứa bé

vừa chào đời được bà đỡ “lấy chiếc cật nứa cắt rún”, “đổ nước trong bầu ra lau

sạch thân hình nhỏ bé, lấy chiếc apăn khác quấn chặt lại” thì đứa bé ấy tiếp tục được

bà đỡ nâng lên ngang đầu, quỳ xuống, quay mặt về hướng đông, lầm rầm khẩn cầu :

“Ơ Yang ! Xin hãy mở rộng các cánh cửa đón nhận con gái của H’Ny và Y Min được vô cuộc sống. Cho tim nó biết đập nhịp cùng với buôn sang, linh hồn của nó biết

buồn, biết vui, cho đời của nó được no cái bụng, ấm cái lưng. Nhau nó đây tui treo

lên cành cây làm vật chứng. Ơ Yang !”. Sau đó, hai mẹ con được đưa ra suối tắm.

“Đó là một nghi lễ quan trọng phải làm sau khi sinh nở. Quỳ xuống giữa dòng cho

đến khi tắm rửa sạch sẽ, H’Ny sẽ phải uống từ từ một ngụm nước. Dòng nước mát

ngọt của núi rừng, buôn sang không chỉ làm sạch sẽ cho ruột gan và thân thể người

mẹ, mà còn tiếp thêm sức lực của cha trời, mẹ đất, của Yang bến nước cho hai mẹ

con và cho cuộc sống tiếp tục sinh sôi nảy nở” (Thung lũng Yang Hruê) [12, tr.105].

Nghi lễ cưới xin của người Tây Nguyên cũng rất độc đáo. Trước hết, trai gái

Tây Nguyên yêu nhau họ trao vòng đồng cho nhau thay lời đính ước. Nếu đi được

đến hôn nhân thì bên nhà gái phải chủ động mời mối lái hoặc dăm dei (cậu của cô dâu) mang vòng đồng đến nhà trai chính thức hỏi chồng. Theo tục lệ, khi người con

gái bắt chồng: “kpi ung mố đều do nhà gái đứng ra chi phí, phải lần lượt qua bốn

lễ. Đầu tiên là lễ hỏi, tiếp theo sẽ là lễ thoả thuận đồ dẫn cưới, nhà trai có quyền

được đòi hỏi. Sau đó là lễ gọi chồng iêo ung và rước rể về nhà gái. Cuối cùng là lễ trở lại nhà trai để mẹ chồng trao một số vật dụng cần thiết như dao, cuốc và chén bát cho chú rể mang về nhà vợ”. “Con trai Êđê ở nhà mình chỉ là ở tạm, khi có người con gái nào chịu bắt về, nhà vợ mới là nơi là nơi ở vĩnh viễn” (Con đường

đã chọn) [12, tr.175]. Lễ vật cưới đều là những vật dụng tự tay cô dâu làm lấy, có

thể có nhiều thứ khác nhau tùy theo hoàn cảnh giàu nghèo của cô gái nhưng đám cưới nào lễ vật cũng nhất thiết phải có: vòng đồng, tấm apăn, áo, khố cho người

chồng. Nghi lễ rước rể cũng tùy thuộc vào hoàn cảnh của hai gia đình. Đây là cảnh

rước rể của đôi vợ chồng nghèo: “Sáng sớm, đoàn rước rể đã rời nhà, mang theo

45

một ghè rượu , một con gà và hai chiếc vòng đồng. Ông mối trịnh trọng trong bộ áo khố mới bước vô nhà người bà con của Y Blum. Từ lâu, H’Nuai đã dệt xong tấm

váy, áo đẹp cho mình, bộ áo knuky và khố kpin cho người sẽ làm chồng, nghĩa là

chỉ còn chờ đợi đến đám cưới này. Bây giờ Ama, Amí cô chỉ cần lo heo gà, gạo …

đãi khách, chứ nhà Y Blum không còn ai, nên đâu phải đền trâu, bò cho cha mẹ, không cần nhiều vòng đồng mua đường đi của bọn trẻ con” (Con đường đã chọn)

[12, tr.176]. Còn đây là cảnh rước rể của hai gia đình giàu có, quyền thế: “Nhà

H’Lâm đưa cả đàn voi chín con đi rước rể. Thậm thịch, thậm thịch bước chân voi đi

như tiếng trống hgơr vui mùa lễ hội. Tiếp theo là sầm sập, sầm sập bước chân

người và hàng đàn trâu bò. Rung rinh, rung rinh trên vai những người khiêng heo,

rượu cần, gánh các lễ vật. Lễ cưới đông chưa từng thấy. Trâu, bò, heo, gà thi nhau

ngã xuống những đống lửa thiêu. Những lỗ mũi thơm điếc mùi thịt nướng, khói bốc cao che mờ cả đỉnh núi xanh. Rượu cần tràn như con suối Ea Pook” (Chiếc bầu

nước của H’Lâm) [9, tr.195]. Dù là con nhà quyền thế hay con nhà nghèo, để chuẩn bị cho lễ cưới của mình, từ lâu các cô gái Sê Đăng hay Jẻ Triêng đều phải vào rừng kiếm củi, bó thành những bó đầy đặn, chắc, đẹp, chất dưới gầm sàn chờ

ngày kết hôn đem ra đốt nấu ăn hay đốt thành những đống lửa lớn múa xoang. Các

em gái được bà và mẹ dạy dệt, dạy thêu thành thạo những tấm váy, áo, khố dày đặc

hoa văn hình chéo, hình sao hay con bướm, con chim làm lễ vật cưới chồng và điệu

hát Tăm pớt đối đáp với bạn trai mỗi mùa lễ hội.

Bên cạnh việc miêu tả nghi lễ cưới xin hấp dẫn, đậm bản sắc dân tộc, H’Linh

Niê còn chú ý miêu tả Lễ Pơ thi (bỏ mả) từ biệt hẳn với người đã khuất của các gia

đình Tây Nguyên. Lễ Pơ thi mang một giá trị văn hóa tâm linh hết sức linh thiêng và nhân bản, lễ kéo dài ba ngày: “Ngày thứ nhất đón khách xa khách gần. Ngày thứ

hai bàn việc chia của cải và nối dây. Xong việc thì ăn uống vui chơi cho sáng đêm,

ngày thứ ba tiễn khách và thu dọn”. Dưới trang văn của mình, tác giả H’Linh Niê

làm sống dậy không khí và phong tục bỏ mả rất đặc sắc của đồng bào nơi đây. Buổi Lễ Pơ thi khởi đầu từ tờ mờ sáng với một loạt nghi lễ trang nghiêm: “Theo hiệu lệnh Kypah của bặc gru ama Công mái tóc bạc phơ rủ xuống phủ đầy bờ vai, bầy voi đồng loạt từ từ bước xuống sông. Chúng đứng quanh thành vòng tròn, tất cả

cùng dương vòi lên trời. Lại một hồi kypah nữa rúc lên, những nài ngồi trên cổ voi

nâng những chiếc vòng kết sẵn bằng hoa lá rừng thả xuống mặt nước. Mjâo cũng nghiêng mình đổ rượu trong chiếc bình bạc xuống sông: “Hãy trôi đi, trôi đi, đưa

linh hồn Aê Phi về với đất nước ông bà. Từ nay ở xa hồn uống nước Yang sông

Blang, hồn ăn cơm Yang núi Mlan, người sống, người chết chúng ta không còn có

46

gì liên hệ với nhau nữa… Ơ Yang Atâo”. Bầy voi hạ vòi hút nước, rồi lại đồng loạt dương lên, chụm vào làm một cùng phun lên cao. Những vòi nước tỏa xuống như

một bông hoa lớn. Tiếng chiêng trong khu nhà mồ nổi lên ngân nga lan trên mặt

sông, đuổi theo những vòng hoa đang dập dềnh trôi về nơi vô tận” (Pơ thi mênh

mang mùa gió) [12, tr.78]. Thế rồi, suốt từ lúc bóng tối mới trùm xuống cho đến đêm rất sâu, trai gái cùng nắm tay nhau nhảy múa, ca hát trong nhịp chiêng bồng

bênh, bồng bênh. Nửa đêm, bỗng tiếng chiêng bồng bênh im bặt và gái trai ngừng

múa, Lễ Pơ thi lại tiếp tục diễn ra: “một tiếng chiêng rất trầm, rất ấm vang lên.

Điệu chiêng chầm chậm trang trọng và rất vang, rất đầm của một bộ chiêng lớn, do

bảy tám người đàn ông đã lớn tuổi vừa đi vừa đánh quanh nhà mồ. Cũng rất trang

trọng như thế, ba bà lão mặc trang phục Jrai áo dài tay, váy kín gót, không phải là

bước mà lướt đi rất chậm theo nhịp chiêng ngân nga, hai cánh tay chắp lại trước ngực đung đưa lên xuống rất nhẹ nhàng. Dường như họ không nghe thấy gì, không

nhìn thấy gì ở chung quanh ngoài nhịp chiêng và sự đối diện tâm linh trong cuộc

trò chuyện với người đã khuất. Tiếng Y Khoan nho nhỏ bên tai: điệu chinh và múa

tiễn đưa linh hồn lần cuối cùng đấy. Suzana nhìn vội lên mặt đồng hồ: Gần hai giờ

sáng” (Pơ thi mênh mang mùa gió) [12, tr.83]. Nhà văn thật tài tình khi tái hiện

trong “đêm trăng xanh xa xôi” một buổi Lễ Pơ thi lạ lùng, đầy hấp dẫn, đặc biệt

linh thiêng và huyền ảo, nửa hư nửa thực. Trong buổi lễ tiễn đưa người đã khuất

này, cồng chiêng cũng có mặt, góp phần làm nên không khí trang trọng, linh thiêng,

kết nối tâm linh người còn sống với người đã khuất. Âm thanh cồng chiêng lúc này

là “một thứ âm nhạc nghi lễ”: “Tiếng chiêng xoay xoáy vào bóng đêm, trôi lang

thang vô tận giữa rừng già, lặn xuống đáy dòng sông Srêpôk sâu thẳm. Âm thanh binh boong ấy không phải là tiếng than khóc, vẫn là tiếc thương, vẫn là níu kéo đấy

nhưng lại lịch lãm và trang trọng dành cho sự tiễn biệt vĩnh viễn” (Pơ thi mênh

mang mùa gió) [12, tr.84]. Cảm nhận những nét đẹp văn hóa và không khí của buổi

lễ, độc giả cũng như cô gái Thụy Sỹ Suzana trong truyện ngắn ấy đều phải đồng lòng cùng tác giả: “Lạ cho sự trường tồn của văn hóa bản địa, sức cuốn hút của nó không từ bất cứ đối tượng nào” (Pơ thi mênh mang mùa gió) [12, tr.82].

Tây Nguyên không chỉ có những phong tục tập quán kể trên thể hiện được

bản sắc văn hóa dân tộc, nhà văn còn giới thiệu, mô tả những nét đặc trưng riêng

trong bản sắc văn hóa của cộng đồng người Tây Nguyên qua một số phong tục tập

quán, tín ngưỡng khác trong cuộc sống như: tục nối dây, tục đón khách, tục trao

vòng, tục xử phạt, đặt tên con, đặt tên voi… Tập tục nào cũng mang đậm bản sắc văn hóa độc đáo của các tộc người Tây Nguyên.

47

Tóm lại, Linh Nga Niê Kdam là nhà văn có sự am hiểu sâu sắc về văn hóa

Tây Nguyên và có vốn sống thực tế vô cùng phong phú. Đó là kết quả của một quá

trình dày công tìm hiểu, nghiên cứu công phu về văn hóa dân tộc vùng Tây Nguyên

của chị. Những nét đẹp văn hóa quê hương được chị phản ánh hết sức hấp dẫn, tự

nhiên trong các tác phẩm, góp phần tôn vinh văn hoá dân tộc và minh chứng cho tài

năng, tình cảm cùng những hiểu biết của nhà văn. Rõ ràng, với nữ tác giả này, Tây

Nguyên là một vùng quê tươi đẹp và giàu bản sắc văn hóa. Vì vậy, trong mỗi trang

văn của chị đều chất chứa lời ước mong tha thiết: “Mong sao những phong tục đẹp,

những nét độc đáo của văn hóa cổ truyền được bảo tồn, phát huy và truyền lại cho

con cháu muôn đời sau, cho tiếng chiêng Tây Nguyên mãi mãi bay cao bay xa trong

cái xanh cao thăm thẳm của bầu trời cao nguyên bao la” (Lời chiêng Tây Nguyên)

[8, tr.62]. Đây cũng chính là nguyện ước của các dân tộc Tây Nguyên khi bước vào

thời kì hiện đại và hội nhập.

2.1.3. Những con người dũng cảm, tài hoa và khát khao đổi thay cuộc sống

Người dân Tây Nguyên từ ngàn đời đã gắn bó với núi rừng, đã từng chống

chọi lại bao hiểm nguy, khắc nghiệt của thế giới tự nhiên, lại đã trải qua bao cuộc

chiến tranh để gìn giữ quê hương nên sức mạnh của thiên nhiên, của những vị thần

linh, của cha trời mẹ đất, của những người anh hùng từ trong các pho sử thi đồ sộ …

hình như đã thấm vào tâm hồn, tính cách họ. Trong cuộc sống thời kì hiện đại hôm

nay, họ vẫn là những người con của núi, vẫn dũng mãnh, kiên cường, rất mực tài hoa

và luôn khát khao xây dựng, đổi thay cuộc sống, thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu.

Trong các tác phẩm của Linh Nga Niê Kdam, con người Tây Nguyên hiện

lên qua những lời miêu tả hết sức sinh động là hình ảnh những con người cụ thể với

những dáng hình cụ thể, mang tính đặc trưng của các DTTS Tây Nguyên. Họ có thể

là những cụ ông nhỏ thó, nghèo khổ nhưng vô cùng thông thái: “Tóc ông loăn xoăn

trắng như bông Blang, xòa xuống tận cổ, viền quanh khuôn mặt đen cháy, đầy nếp

nhăn xếp nếp như thân cây bằng lăng cỗi. Hai bàn chân khô đét đầy bụi đường,

ngón cái xòe ra tách hẳn với những ngón chân kia, kẹp chặt chiếc dép bằng da bò,

co hết lên trên chiếc ghế nhỏ. Tẩu thuốc đen bóng dính chặt trên môi. Đôi mắt ông

đã sùm sụp nhưng vẫn ánh lên vẻ tinh anh của người già được coi là thông thái

trong buôn” (Tìm về bến nước) [6, tr.50]; họ có thể là các cụ bà: “Đã xấp xỉ bảy

mươi mùa rẫy, nhưng nét duyên và vẻ đẹp mặn mà của một phụ nữ dòng dõi tù

trưởng còn in đậm trên gương mặt, vóc dáng và cách ứng xử” (Những người giữ

hồn của rừng) [8, tr.99]; họ cũng có thể là những chàng trai: “Thân hình cao chắc

48

săn bóng dẻo dai như cây cate bên suối, vòng ngực căng chắc như gỗ lim, đôi tay

cuồn cuộn như bó mây vặn xoắn, mái tóc đen nhánh loăn xoăn xõa trên vai, rủ

xuống cả vầng trán nâu thông minh. Đôi mắt sáng quắc như mắt thợ săn đêm lúc

nào cũng nhìn thẳng người trước mặt” (Cầu vồng lung linh) [6, tr.100]; những cô

gái: “Da ngăm ngăm hồng như bình minh mới rạng, hoa nở thua miệng xinh. Con

mắt chim k’trao cũng chỉ sáng đẹp như mắt nàng là cùng. Mái tóc thì … úi chao!

Trôi trong dòng nước cứ như có thêm một dòng suối xanh, chảy ở giữa làn nước

trong vắt vậy” (Dòng sông tóc) [6, tr.115]… Họ còn có thể là những người trí thức,

những người lãnh đạo, những người lính chống Pháp năm xưa, những anh bộ đội cụ

Hồ cắm rễ buôn làng, ngày đêm bảo vệ biên giới hôm nay, hay là những sinh viên,

học sinh trong thời đại mới, những người dân khắp các vùng miền cả nước đến đây

khai hoang, làm ăn kinh tế… Dù họ là ai nhưng họ đều có chung một đặc điểm: Là

những cư dân chất phác, hiền lành; rất mực tài hoa, phóng khoáng; được tôi luyện

trên cao nguyên nắng cháy, được tắm trong không gian văn hóa cồng chiêng, được

nuôi dưỡng trong “chiếc nôi của rừng, của núi, trong lời ru của gió ngàn và câu

klei khan của ông bà” - họ đều là những con người của mảnh đất Tây Nguyên hùng

vĩ, đầy bí hiểm, hoang sơ và cũng đầy lãng mạn, mộng mơ.

Chất tài hoa nghệ sĩ của con người Tây Nguyên trong truyện và ký của

Linh Nga Niê Kdam khiến độc giả càng thêm yêu quý, khâm phục họ. Anh chàng

Y Tam nghèo khó trong truyện ngắn Srêpôk sáng nay yên tĩnh đã hút hồn cô gái

mang tên thần lúa H’Ri (con tù trưởng giàu có nhất buôn Ea Suop) bởi: “Anh

chàng Y Tam đó không chỉ làm chủ tiếng đinh buốt nỉ non, lời đinh năm dìu dặt,

giọng đing tăk tar ngọt ngào ấp áp, mà còn cả ngón đàn bro tài hoa tưng tửng

những đêm trăng sáng. Cũng khác lũ trai trong buôn nữa kìa, khi những vật dụng

bình thường trong nhà, ngoài rẫy như ống nứa, ống tre, vỏ bầu, tơ dứa dại … qua

tay Y Tam bỗng thành lời vui lời buồn, cả tiếng nhớ, tiếng thương ai đó. Không

những thế, Y Tam còn có một thân hình cao lớn, khỏe mạnh, đủ sức phát một hơi

cái rẫy to đi mỏi chân mới giáp vòng” (Srêpôk sáng nay yên tĩnh) [12, tr.38].

Anh chàng Y Nhay trong Chiếc bầu nước của H’Lâm lại làm say đắm cô gái

H’Lâm - con gái yêu của tù trưởng Ama Lâm (có mối thù truyền đời với buôn

sang mình) bởi: “Đôi tay anh chặt đổ phăm phăm cả những thân cây gỗ lớn hơn

một vòng ôm trong rừng, đẽo lên trên xà nhà những con chim, con rùa như đang

động đậy sắp bay lên, bò đi. Ghế Jhưng ama ngủ, ghế kpan liền thân liền chân đặt

suốt dọc hướng tây căn nhà sàn dài cho dàn chiêng ngồi gọi Yang mỗi mùa lễ hội,

49

con thuyền độc mộc với cây sào dài len lỏi trên dòng suối … tất cả đều từ những nhát rìu

khéo léo của anh góp phần làm nên” (Chiếc bầu nước của H’Lâm) [9, tr.187]. Có

được anh chàng Y Khăm trẻ trung bên suối Ea Sao nối dòng khiến cho bà amĩ Xóa

“lắm chiêng, nhiều ché, thóc lúa đầy bồ, trâu bò, heo gà đầy vườn” càng thêm

hãnh diện: “Tuổi hai mươi cường tráng như cây knia, giỏi làm rẫy, tài đi săn,

khéo tay đan gùi xúc cá, lại học xong trung học, thuộc loại sáng giá nhất lũ con

trai bến nước” (Nối dòng) [6, tr.25]. Còn anh chàng YRít dưới chân núi Mblim lại

làm điêu đứng bọn con gái mấy buôn và nàng H’Linh xinh đẹp vì chàng “hiếm hoi

như trái trên cành mùa gió vậy”: “Lũ con trai ước được tài luyện voi, săn thú như

chàng. Voi nào dữ lắm, đến tay YRít chỉ một vài tuần trăng là trở nên ngoan hiền

như chú bé. Chàng gài bẫy ở đâu, tất phải có con thú sa ở đó. Đã xách ná lên

rừng, thể nào bếp lửa cũng thơm nức mùi thịt nướng. Khỏe, nhanh, một mình YRít

với chiếc xà gạc phát rẫy, hai ba người theo dọn không kịp. Chàng lại còn hát hay

nữa chớ. Những ngày lễ hội, bên nào có Y Rít theo hát đối đáp, bên đó chỉ có

thắng cuộc. Chàng chứa đầy trong đầu hàng trăm câu chuyện cổ, chắc từ đời ông

cụ nội truyền lại” (Cầu vồng lung linh) [6, tr.101]…

Các chàng trai Tây Nguyên tài hoa là thế, các cô gái nơi đây cũng hết sức

đáng yêu với đôi bàn tay khéo léo: biết dệt may khố áo, ủ ché rượu cần và múa hát

như cánh chim Ch’rao. Tài năng của người phụ nữ thể hiện rõ nhất trong việc dệt

may từ bông sợi cây Blang. Lúc còn rất nhỏ, các em gái đã biết: “kteh những rẻo

hoa văn ở đuôi khố, vạt áo, những sợi dây đeo, dây buộc ngang trán”; lớn lên chút

nữa các chị, các em bật bông, se chỉ, dệt thành: “những tấm thổ cẩm tuy đơn sơ thô

ráp nhưng tuyệt đẹp”, rực rỡ sắc màu. Nhà văn ca ngợi: “Bàn tay tài hoa của người

phụ nữ Tây Nguyên “đụng lên khung cửi chỉ thành hoa”. Vải dệt hàng chục năm

sắc không phai, màu không thôi sang áo quần cùng giặt. Hàng trăm hoa văn hình

con bướm, hình thoi, gấp khúc, chim thú, người, các kiểu chạy chữ … được phối

hợp màu sắc một cách hài hòa, tạo ra những đường nét rực rỡ” (Đi về đâu hỡi …

thổ cẩm Tây Nguyên) [7, tr.26]. Những bộ trang phục truyền thống của mỗi dân tộc

Tây Nguyên đều bắt nguồn từ chính những đôi bàn tay cần cù, khéo léo, tài hoa ấy

của những cô gái trên cao nguyên đất đỏ.

Là một người con dân tộc Tây Nguyên, tuy nhà văn không sinh ra và lớn lên

ở nơi đây nhưng hơi thở cao nguyên, mạch nguồn nhựa sống, khí chất dân tộc vẫn

ngập tràn trong trái tim và trang văn của chị. Chị có khả năng cảm nhận và phán ánh

50

sâu sắc, chân thực phẩm chất anh dũng, kiên cường cùng biết bao tấm gương nghị

lực, khát khao đổi thay cuộc sống của con người Tây Nguyên hôm nay.

Cuộc sống vốn thật tươi đẹp nhưng cũng đầy khó khăn với muôn vàn thử

thách khắc nghiệt, nếu không có lòng dũng cảm và ý chí nghị lực thì con người

không thể vượt qua. Mảnh đất Tây Nguyên giàu đẹp về bản sắc văn hóa nhưng dấu

vết của những hủ tục lạc hậu vẫn còn in hằn. Những hủ tục lạc hậu ấy làm cho biết

bao con người Tây Nguyên phải lâm vào cảnh khốn cùng bất hạnh. Tục “nối dây”

được nhắc tới không ít trong các tác phẩm H’Linh Niê. Vì phải “nối dây” theo tập

tục mà tình yêu sáng trong của Y Khăm và HMai trong truyện ngắn Nối dòng tan

vỡ; Y Khăm thành chủ bến nước Ea Knăt giàu có nhất nhì ven thị xã cao nguyên

nhưng cả đời vẫn không thôi tiếc nuối, căm hận và đớn đau day dứt.

Là người nghiên cứu văn hóa, văn học dân gian Tây Nguyên, nhà văn còn tái

hiện những hủ tục đã có tự ngàn đời ở vùng đất giàu huyền thoại, huyền tích này qua

các truyện kể về sự tích các loài hoa, các thác, các hồ ...; cùng với đó là quá trình đấu

tranh dũng cảm chống lại những tập tục đã trở thành hủ tục lạc hậu của con người

Tây Nguyên. Trong tác phẩm Hoa Pơ lang, nhà văn đã kể lại sự tích cây Blang theo

câu chuyện xưa (trong Trường ca Đam San) đồng thời cũng nói lên cuộc đấu tranh dữ

dội và quyết liệt chống lại tục “nối dây” của Đam San và H’Bia. Đam San và H’Bia

yêu nhau say đắm, H’Bia đã dệt xong tấm áo khố và cả tấm apăn đợi ngày họ kết đôi.

Vậy mà, theo tập tục, Đam San phải “nối dây” với H’Nhí và H’Bhí để trở thành tù

trưởng giàu mạnh. Dù H’Bia mạnh mẽ đứng lên chống lại tập tục, mang sính lễ sang

nhà chính thức hỏi cưới Đam San; dù Đam San không muốn “nối dây” theo luật tục

Radeh nhưng chàng vẫn không gạt đi được sức nặng của luật tục ngàn đời. Tình yêu

mãnh liệt cuối cùng vẫn chưa đủ sức chống lại tập tục, Đam San lên voi từ biệt

H’Bia. Đau xót và đơn độc, H’Bia biến thành cây Blang mùa hè hoa đỏ, dõi theo

Đam San đến cuối đất cùng trời. Câu chuyện về sự tích thác H’Linh trong tác phẩm

Cầu vồng lung linh cũng vậy. Y Rít và H’Linh yêu nhau, tình yêu của họ đẹp đẽ,

lung linh như cầu vồng bảy sắc. Tình yêu ấy đã bị chia cắt bởi hủ tục “môn đăng hộ

đối”. H’Linh đau đớn gieo mình ra giữa dòng sông Srêpôk để chống lại tập tục, còn

Y Rít băng rừng lao xuống khúc sông quanh đón người yêu. Nơi họ gặp nhau biến

thành con thác, người Êđê gọi là thác H’Linh. Con thác H’Linh đẹp đẽ, lung linh

trong cả ngày mưa hay nắng nhưng ngày đêm vẫn dữ dội, quằn quại trong nỗi đau

tình yêu bị cắt chia. Con thác ấy là minh chứng cho sự đấu tranh chống lại hủ tục và

tình yêu bất tử của đôi trai gái vùng cao Tây Nguyên này.

51

Những con người Tây Nguyên “da nâu, mắt sáng, vóc dáng hiền hòa” ấy

không chỉ dũng cảm chống lại luật tục để cho những lứa đôi sau hạnh phúc mà họ

còn ngoan cường, dũng cảm trong cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù xâm lược, trong

công cuộc lao động để dựng xây cuộc sống hàng ngày giàu có, tươi đẹp hơn.

Đằm sâu trong các tập bút ký của Linh Nga là nỗi xúc động sâu lắng và tình cảm

trân trọng, mến yêu của nhà văn khi nói về những con người thật, việc thật mà chị đã có

dịp gặp gỡ, tiếp xúc, tìm hiểu ở khắp mọi buôn làng Tây Nguyên. Đó là những người anh

hùng chống Pháp như anh hùng Núp - người con của núi Yă Dôk, của suối K’Drăk -

người đầu tiên “bắn Pháp chảy máu” dưới gốc đa, từng đặt bẫy đá, cài chông thò, chông

treo, từng hướng dẫn người Kông Hoa: “làm lui bước chân những kẻ thù xâm lược trang

bị súng ống đầy đủ” (Đến thăm làng bác Núp) [11, tr.120]. Đó là người nữ anh hùng

chống Mĩ - chị Y Buông: “dân tộc Sê Đăng, người nữ anh hùng đầu tiên của Tây

Nguyên. Năm xưa, bất chấp bom đạn thù dội lửa kinh hoàng xuống núi rừng Đăk Tô,

người chiến sĩ nuôi quân ấy vẫn đảm bảo hàng trăm suất cơm cho chiến sĩ ăn no mà mà

đánh thắng giặc Mỹ” (Lâng lâng bước chân về nguồn) [8, tr.48]. Đó là người cựu chiến

binh - đại tá Ysok Niê buôn Lê Bêc mới mười bảy mùa phát rẫy đã theo bộ đội Wa Hồ

chiến đấu kiên cường vào Nam ra Bắc, nay nghỉ hưu rồi, ông vẫn cùng huyện đội tham

gia chống Phulro: “Lời khuyên giải có tình, có lý của ông và các già làng đã gọi được

120 người lầm đường lạc lối, buông súng quay về với cuộc sống đời thường của Bon

lan”. Ông còn: “rủ ông bà sui cùng học cán bộ khuyến nông khai hoang ruộng nước,

trỉa trồng lúa cạn ngắn ngày, vỡ đất trồng thử cà phê”, cùng với bà con làm kinh tế mới,

sản xuất giỏi, xóa đói giảm nghèo cho mình và cho cả Bon lan (Nỗi niềm đại tá Y Sok

Niê Kdam) [8, tr.134]. Đó còn là những người trí thức dân tộc như vợ chồng thầy cô giáo

dạy giỏi Săm Ly - Yến biết vượt lên đói nghèo: “Ít đất nhưng làm ăn có tính toán, có

tiếp thu khoa học” (Người Vân Kiều trên cao nguyên Đăk Lăk) [8, tr.141]. Đó còn là

chị amĩ Thúy - thành viên Hội đồng nhân dân, Hội Phụ nữ, Phó ban Dân số - Kế hoạch

hóa gia đình xã Ya Tun, Giarai. Chị đã dũng cảm đi đầu trong việc thực hiện nếp sống

văn minh, vận động chị em giảm tỉ lệ sinh đẻ, “đi đầu trong lao động sản xuất và tích

lũy, để từ hai bàn tay trắng trở thành triệu phú, với hơn 1,2 héc ta ruộng nước hai vụ, 7

héc ta đào lộn hột, 60 con bò, cùng đầy đủ các máy công cụ phục vụ cho sản xuất” (Đâu

là đáp số của bài toán Ya Tul ) [7, tr.142].

Những con người thật, việc thật, luôn kiên cường, giàu khát vọng ấy cũng được nhà văn phản ánh sinh động vào các tác phẩm truyện ngắn của mình. Trong

tác phẩm Con đường đã chọn, nhà văn kể về con đường thực hiện khát vọng vươn

lên làm giàu của đôi vợ chồng trẻ (con gái và con rể đại tá Y Blum): “Cặp vợ chồng

52

mới cưới dọn ngay đến khu tập thể của nông trường để đi làm cho gần. H’Thai thôi làm giáo viên, nhận công tác là cán bộ phụ nữ xã Ea Sin. Y Lăn còn kiêm thêm chức

đội trưởng một đội sản xuất. Một thời gian sau, họ nhận khoán hơn 2 ha cà phê

theo chủ trương liên kết với đồng bào dân tộc của tỉnh uỷ, Y Lăn học cách nghĩ của

cha, làm việc gì cũng tính toán kỹ càng, nên việc nông trường, việc gia đình đều xuôi chèo, mát mái. Vườn cà và ruộng lúa nước của nhà vợ chồng anh cho năng

suất cao nhất buôn, đời sống gia đình dần dần ổn định, mua được mảnh đất làm

nhà riêng, không còn phải ở tập thể nữa. Anh cũng bàn với vợ, không làm nhà xây,

mà dựng căn nhà dài to, cho các con có chỗ nhớ về cội nguồn dân tộc” (Con

đường đã chọn) [12, tr.192]. Hay trong truyện ngắn Mùa xuân ơi, tới đi, nhà văn

cũng vạch ra con đường người dân Tây Nguyên đi tới tương lai tươi sáng. Đây là một trong những cách ama, amí Sang đã chọn để thoát khỏi đói nghèo: “Thờ i gian sau nà y, anh vô là m Công ty Cà phê, được tín nhiê ̣m bầu là Chủ ti ̣ch Công đoà n, chi ̣ vừ a dạy học vừ a là m thêm công tá c Dân số - Kế hoạch hó a gia đình của xã. Nên anh chi ̣ quyết tâm chỉ sanh hai đứ a thôi. Chồng chi ̣ nhận khoá n của Công ty một hé c ta cà phê, vừ a mà y mò học thêm kỹ thuật trồng những giống lú a, bắ p cao sả n mớ i. Nhà ít trẻ con, nhiều lao động nên mấy năm nay không bao giờ phả i lo thiế u ăn” (Mùa xuân ơi, tới đi) [9, tr.75].

Một trong những giá trị nổi bật ở các sáng tác của H’Linh Niê là chị không

chỉ nhìn thấy những phẩm chất tốt đẹp: dũng cảm, khao khát vươn lên chống lại cái

xấu, cái ác, cái đói nghèo lạc hậu; luôn hướng về cái đẹp, cái thiện của chính đồng

bào đang sống trên quê hương mà chị còn thấy những phẩm chất tốt đẹp ấy ở những

người con Tây Nguyên đang phải sống nơi xa xứ. Điều này được tác giả thể hiện trong câu chuyện về một người phụ nữ Êđê mang tên H’My. Người họa sĩ tự do:

“Vừa cất tiếng khóc chào đời đã được bà ngoại tắm sạch sẽ bằng bầu nước mát

trong lành lúc sớm mai lấy từ cái giếng nhỏ bên cây Blang đang bừng nở những

vầng hoa đỏ” của bến nước buôn Nui ấy đã 20 năm lưu lạc nơi đất khách quê người, nhưng chị vẫn mang vẻ đẹp tâm hồn của người dân Tây Nguyên dũng cảm vượt lên số phận. Dù đã bao đêm: “thổn thức thầm trong ngôi nhà dành cho những người phụ nữ bị bạo hành ở Canada, bao ngày cặm cụi bên giường bệnh trẻ em ở

các trại tị nạn Đông Timo, bao buổi sáng thức dậy đón mặt trời nơi cửa ngôi nhà

bằng vỏ cây cuốn tròn của thổ dân miền Nam Úc” [9, tr.174], bao đêm noel, lễ tết cô đơn trống vắng nhưng chị vẫn cố gắng sống, cố gắng vươn lên để cuộc sống

buộc phải đổi thay. Chị nỗ lực làm việc: “tự kiếm đồng tiền để nuôi mình, dành lại

quyền nuôi con, để hai mẹ con được đến lớp, được đứng trên bục cao nhận tấm huy

53

chương danh dự dành cho những nghệ sỹ xuất sắc, trong những cuộc triển lãm Mỹ thuật quốc tế” [9, tr.174]. Và dù đã có địa vị nhất định bên phương trời xa cách

nhưng chị vẫn luôn khát khao được trở về, được đặt những bước chân bập bễnh lên

bề mặt đất đỏ, được hít thở không khí trong lành của quê hương lồng lộng gió Tây

Nguyên, nơi đã sinh thành, chở che, nơi tiếp thêm sinh lực và là ngọn nguồn cảm hứng sáng tác của chị (Long lanh giếng nước buôn Nui) [9]…

Chính vì lòng yêu mến, sự tin tưởng vào con người Tây Nguyên vốn mạnh

mẽ, can trường, luôn có khát vọng làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời nên nhà

văn đã xiết bao vui mừng khi tận mắt nhìn thấy sự “thay da đổi thịt” của cuộc sống

nơi đây: “Sông Đăk Bla như một dải khăn lụa xanh, choàng làm duyên cho cô gái

Kon Tum. Trước mắt chúng tôi là một thị xã nhỏ, mới tinh khôi với những con

đường rộng thẳng tắp, những dãy phố kính màu lấp loá trong nắng ban mai. Tôi ngỡ ngàng như vừa gặp lại một người bạn thân thủa nhỏ, nay hoá thành một thiếu

nữ xinh tươi mơn mởn, đẹp lộng lẫy” (Du xuân Tây Nguyên) [7, tr.65]; “Cùng với

Buôn Ma Thuột, từ trong lòng đại ngàn xanh dáng núi Trường Sơn, Pleicu và

Kon Tum cũng đang vươn lên, lồng lộng vóc dáng của những thành phố hừng

hực sức trẻ như dũng sĩ Đam San, Xing Nhã, Đam Gyông huyền thoại thủa nào”

(Mùa xuân, ơi Ban Mê của tôi) [11, tr.55]…

Có thể thấy, trong các tác phẩm truyện và ký của Linh Nga Niê Kdam, hình ảnh những con người Tây Nguyên dũng cảm, mạnh mẽ, quyết liệt, tài hoa với bao

khát vọng: Chinh phục thiên nhiên, xoá bỏ hủ tục, đấu tranh chống kẻ thù xâm lược,

dựng xây quê hương, làm giàu, làm đẹp thêm cho quê hương đã được thể hiện một

cách cụ thể, sinh động. Qua những trang văn của chị, người đọc cảm nhận rất rõ:

tình yêu quê hương, lòng tự hào về con người, về mảnh đất cao nguyên tươi đẹp,

hùng vĩ, đầy huyền thoại của chị. Đồng thời, người đọc cũng có thể hiểu rõ hơn, sâu

hơn, đa chiều hơn về con người, về cuộc sống ở nơi đại ngàn xa xôi này.

2.2. Nỗi niềm cùng những dự cảm về cuộc sống, con người và bản sắc văn hóa quê hương 2.2.1. Những khó khăn, thách thức của cuộc sống thời kì hiện đại

Như chúng ta đã biết, tác phẩm văn học chỉ có giá trị khi nó phản ánh được

hiện thực cuộc sống một cách đa chiều và góp phần cải tạo đời sống theo hướng tích

cực. Thực tế cuộc sống phong phú, phức tạp cùng nền văn hóa đa sắc màu ở Tây Nguyên đã góp phần quan trọng làm nên những tác phẩm văn chương có ý nghĩa

nhân văn sâu sắc của Linh Nga Niê Kdam. Nhà văn lặn sâu vào thực tiễn cuộc sống

đồng bào Tây Nguyên và đời sống văn hoá tinh thần của họ để viết lên những trang

54

văn giàu tính hiện thực và giàu giá trị nhân bản. Vậy thực tiễn cuộc sống ở Tây Nguyên hiện nay là gì? Chị đã đi rất nhiều, tiếp xúc rất nhiều, ghi chép và lắng nghe

rất nhiều để khắc hoạ một bức tranh toàn cảnh về cuộc sống con người Tây Nguyên

trong thời kì đổi mới. Đúng như nhà nghiên cứu văn học DTTS Lâm Tiến nhận xét:

“Ký của chị thường gắn với những chuyến đi, chủ yếu là những chuyến đi về với cội nguồn, về với đồng bào dân tộc Tây Nguyên: Đi tìm hồn chiêng, Đi hội Tăm Nghét

cùng em, Đêm Nam Nung với người Mnông ở Đắk Nông; Lời gọi mời của Kon

H’Ring, Có một Đắc Hà xanh của các làng Xê đăng, Strá tại Kon Tum; Diệu kỳ

Plei Ku, Gập ghềnh con đường Krông Pa với các tộc người Bâhnar, Jrai ở Gia

Lai; Chuyện ghi ở Phi Liêng với người K’Ho ở Lâm Đồng; Người Vân Kiều trên

cao nguyên Đăk Lăk, Ban Mê cội nguồn và huyền thoại … Đọc truyện, ký của

H’Linh Niê, người đọc như được ngắm một bức tranh toàn cảnh về văn hoá, con người, cuộc sống Tây Nguyên từ xa xưa cho tới nay, từ cái chung cho tới cái riêng

độc đáo, cụ thể, hấp dẫn” (Gian nan về với cội nguồn) [46].

Thông qua các chuyến đi về với cội nguồn, Linh Nga Niê Kdam mới thấy hết

thực tế khó khăn, đói nghèo mà bà con các dân tộc Tây Nguyên đang phải đối mặt.

Đến với Quảng Tín, nhà văn ngậm ngùi chứng kiến: “Mặc dù đã thực sự định cư,

gắn bó với vườn điều nhưng dân Quảng Tín vẫn còn nghèo và thiếu ăn hai, ba

tháng trong năm. Điều đó toát lên từ mọi căn nhà lụp xụp ở chân núi, lẫn ven

đường quốc lộ; từ mấy ống lồ ô nấu canh lá rừng với trái ớt, mà tôi nếm trong bếp

của một bà mẹ; từ việc kiếm hết năm mới được hai ché rượu cần cho đoàn tìm đàn

đá tổ chức đêm văn nghệ dân gian…” (Một ngày với Quảng Tín) [7, tr.114]. Đến

Mường Hoong, tận mắt nhìn thấy sự khó khăn, gian khổ của hai xã “đặc biệt khó

khăn” là Ia Puch và Đăk Nhoong, chị đau đáu xót xa trước hiện thực này của đồng

bào: “Năm 1995, huyện cho bà con vay 2 triệu đồng/ hộ, cả xã vay 168 triệu để

thực hiện dự án trồng mì. Bà con hăng hái khai hoang, trồng được 30ha. Nhưng

chờ dài từ mùa nắng sang mùa mưa, lại chờ tiếp từ mùa mưa sang mùa nắng,

không thấy ai đến thu mua. Đường giao thông quá xấu, mì nát chỉ bán được 200

đồng/kg, tư nhân cũng chẳng thèm vào nhòm ngó. Nợ ngân hàng đến nay chưa gia

đình nào trả được. Năm 1999, cả 100% dân trong xã đều “đủ tiêu chuẩn” xếp vào

diện đói nghèo” (Chuyện lạ ở Mường Hoong) [8, tr.25]. Phải là người sâu sắc và

đồng cảm lắm chị mới có thể viết nên những dòng chữ đầy ắp tâm tư như thế.

Có một thực tế trớ trêu nữa mà nhà văn thấy rõ ở xứ núi này là: một số con em

DTTS Tây Nguyên đi học nghề, học Đại học về nhưng không thể xin được việc làm

trên quê hương mình. Tệ nạn “tham nhũng” đã bò đến tận nơi đây khiến cho cuộc sống

55

bao người đã khó khăn càng thêm điêu đứng. “Con trai của rừng Xà nu” muốn có việc

làm phải nộp 15 triệu đồng bởi đang trong thời kỳ “giảm biên chế”, “làm gì còn định

biên để nhận người mới”. 15 triệu đồng xin việc là một tài sản quá lớn không chỉ đối

với gia đình A Siêng: “Cả một năm cắm mặt xuống ruộng mới thu được vài chục bao

lúa, chưa đủ ăn hết năm cho cả bảy tám người gia đình chị gái. Nhà chỉ có chiếc xe

đạp là đáng tiền nhất, anh chị giao cho A Siêng đi học, để có phương tiện lúc rảnh

chạy làm thuê, hay ngày nghỉ về làm rẫy giúp anh chị. Cả làng không nhà nào có nổi

vài trăm ngàn đồng cất giữ trong nhà, nói gì tới 15 triệu” (Con trai của rừng Xà nu)

[9, tr.139]. Sự khó khăn của gia đình A Siêng ở làng Kon Riêng cũng như sự đói nghèo

của người dân khắp mọi buôn làng đều được nhà văn quan sát tỉ mỉ và chiêm nghiệm

nghiêm túc. Là một trí thức trách nhiệm, yêu quê hương, chị luôn có ý thức nhận diện,

phân tích, truy tìm căn nguyên sâu xa dẫn tới đói nghèo với hi vọng góp tiếng nói khắc

phục, cải tạo tình hình thực tiễn đó.

Nguyên nhân đầu tiên, theo chị, là do yếu tố khách quan mang lại. Điều kiện

tự nhiên hết sức khó khăn là một trong những thách thức không nhỏ đối với đời

sống người dân miền núi này. Với đặc điểm tự nhiên: sáu tháng mùa mưa, sáu tháng

mùa khô nên Tây Nguyên thường xuyên phải gánh chịu lũ lụt và khô hạn: “Hai con

sông nước trong, nước đục thay nhau hàng năm dâng nước ngập cánh đồng Ea

Yang, năm nào cả xã cũng gặt lúa non chạy lụt. Đến mùa khô cái nắng nơi này

cũng dữ dội lắm. Mặt ruộng nứt nẻ, các con suối cạn khô chỉ còn là những dòng

bùn loãng. Cá tôm cạn kiệt, họa may chỉ còn vài con lươn, trạch rúc sâu dưới bùn

đất còn sống được. Người Ea Yang năm nào cũng phải nhận cứu trợ của huyện là

thế” (Con trai của rừng Xà Nu) [9, tr.140].

Những khó khăn về điều kiện thiên nhiên xuất hiện liên tiếp khắp các trang

bút ký của chị. Địa phương nào trên Tây Nguyên cũng thấy: không khô hạn thì mưa

lũ, người dân phải đối mặt với thiên tai liên tiếp giáng xuống cũng đủ khốn khó

quanh năm. Mảnh đất Hà Giăng tươi đẹp, nơi đã ghi dấu bao chiến tích anh hùng

trong hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc, nơi bao liệt sĩ đã góp máu xương

để giữ lấy, có những tháng ngày thiếu nước đến cạn khô: “Dầm chân trong làn

nước mát rượi, khó tin nổi mùa khô nơi đây khát đến tầm trọng. Nhưng đó lại là sự

thật. Dân có lúc phải đào hố cát sâu đến tận ngực để gạn lấy nước. Những chiếc

“giếng” nhỏ xếp bằng đá để chắt nước, chúng tôi nhìn thấy không ít ở mọi chiếc

ngầm hai bên đường” (Làng mặt trời) [7, tr.55].

Mùa khô thì hạn, người còn thiếu nước nói chi đến cây trồng. Làm sao dân

không nghèo đói? Mùa mưa, có nước nhưng người dân cũng chẳng sung sướng gì

56

hơn vì phải chống chọi với lũ lụt: “Nằm giữa hai con sông Ayun và sông Ba thơ

mộng, Ya Tul quả là “vời vợi” tuy chỉ cách huyện lỵ chưa đầy bảy kilômét. Mùa lũ,

nước hai con sông dâng ngập quá cả chân tủ hồ sơ trong uỷ ban. Giao thông ở đây

cực kì nan giải. Tất cả chỉ trông chờ vào cái gùi và đôi chân. Kể cả phương tiện xe

đạp cũng đành phải treo lên xà nhà, chờ cho qua con nước.” (Đâu là đáp số của

bài toán Ia Tul) [7, tr.134]…

Đâu chỉ có khô hạn, lũ lụt, chỉ cần sương sớm rơi xuống và vài ba chú voi

rừng đi lạc, bà con Tây Nguyên cũng đã gặp khó khăn trong trồng cấy rồi. Đây cũng

chính là bài toán cần phải giải quyết, là niềm trăn trở của các nhà lãnh đạo và của

chính nhà văn khi chị đặt ra những câu hỏi khẩn thiết cần có lời đáp cho bà con

thoát khỏi đói nghèo: “Làm gì cho 1.600 dân Quảng Tín, mà trong đó có 99% là

đồng bào người dân tộc Mnông thoát khỏi đói nghèo? Phải làm gì khi cánh đồng

Đăk Ka thường xuyên bị voi rừng về dày phá? Làm gì khi bà con trỉa lúa ở đất rừng

Lồ ô chỉ thu được sáu đến bảy tạ một héc ta trong khi vụ lúa trên đất phá rừng già

thường đạt hơn một tấn một héc ta? Còn canh tác trên đất rừng non, chỉ sau vụ thứ

ba là hoà vốn? Làm gì cho dân khi các loại cây hoa màu, lương thực khác không

sống nổi với sương muối Quảng Tín? Cái đói cứ lang thang thách đố. Phải làm gì

trong mỗi bước đường đi?” (Một ngày với Quảng Tín) [7, tr.108].

Một nguyên nhân khách quan nữa dẫn tới đói nghèo của bà con các vùng dân

tộc nhà văn nhận thấy là: sự khó khăn về đường xá giao thông mà một phần là do

đặc điểm tự nhiên mang lại: “Không thể nghĩ là đường đến Krông Pa lại xấu đến

như vậy. Thế mà lần này, phải mất tới hơn bốn tiếng, xe mới vượt con đường 95 km

từ ngã ba Cư Sê đến thị trấn Phú Túc. Dồn xóc liên tục, khiến không ai còn thư thả

để ngắm con sông A Yun trong leo lẻo uốn lượn theo con đường gấp khúc, cũng như

những cánh đồng trải dài đến tận chân núi xanh thẫm. Trừ 3km con đường đèo

Tona quanh co được rải nhựa, còn hầu hết là sự lượn sóng trên mặt đường cấp

phối. Nhưng cũng không đáng ngại bằng hai cái vũng voi đầm cách nhau chừng

chục km. Đất A Yun Pa, Krông Pa pha cát, nên dù có nén đến thế nào, thì chỉ sau

vài cơn mưa là rã trôi rất nhanh. Đường luôn luôn hỏng là vì thế.” (Ghập ghềnh

con đường Krông Pa) [8, tr.152].

Nhưng điều khiến tác giả đau xót hơn cả, nguyên nhân dẫn tới đói nghèo là

do yếu tố chủ quan của con người mang lại. Con người thiếu ý thức bảo vệ môi trường sống, vô tình gây thêm bao khó khăn cho chính mình và tạo thêm nhiều thách thức đối với cả cộng đồng. Việc đường xá giao thông khó khăn không chỉ vì đất có pha cát mà còn vì nổ mìn phá rừng, phá cả chính con đường huyết mạch dẫn

57

vào trung tâm xã: “Là một trong 21 xã của tỉnh Kon Tum được hưởng chương trình 135 của chính phủ, con đường đến Mường Hoong đã được cấp phối 1/3. Vậy mà

cũng mất đến năm tiếng, vượt rừng, vượt đèo chúng tôi mới qua được 75km để tới

trung tâm xã. Phải kể thêm chuyện lúc ra, cả nhóm chúng tôi vác đá mở đường cho

xe qua, bởi đêm trước đó người ta nổ mìn, cả một vách đá lớn ập xuống” (Chuyện lạ ở Mường Hoong) [8, tr.22].

Đời sống người dân đã khó khăn, lại càng đói nghèo hơn nữa bởi tập quán du

canh du cư, phá rừng làm nương rẫy khiến cho đất đai bị bạc màu, kiệt quệ. Krông

Nô là một địa phương hứng chịu hậu quả đó: “Con đường khiến tôi ngỡ ngàng bởi

sự lùi xa của rừng già, rừng nứa. Trơ trơ hai bên đường những vạt đất bạc phếch

cỗi cằn, loang lổ tro xám, đầy những thân cây bị cưa đốn nằm ngổn ngang. Tôi

chẳng hề ngạc nhiên chút nào với những con suối hẹp lại, những mặt đầm mênh

mông, bùn khô nứt nẻ chỉ còn vài vũng trâu đằm. Krông Nô cũng là một địa chỉ để

làn sóng di cư tràn tới bởi cái “sự” rừng còn nhiều nhất ở Đăk Lăk. Nay thì thấy

trước mắt đó: vụt qua cửa xe những vạt ruộng khô, những đám cà phê lá quắt

queo, không hiểu màu lá úa hay màu bụi đỏ, chẳng còn đủ sức rung lên trong gió”

(Ấn tượng Krông Nô) [7, tr.98]. Ở xã Đăk Nhong, bà con còn khốn khổ hơn vì tập

quán du canh du cư này: “Đời sống bà con ngày ấy vừa lạc hậu, vừa đói nghèo,

đông con. Sinh sống rải rác trong rừng, trong những chòi tranh vách nứa, chưa kịp

mục mái lều, đất bạc màu là cả làng đã lại rời đi tìm rẫy mới. Uống nước ngay từ

những con suối, ăn những món nướng sơ qua trên lửa, nấu canh rau rừng trong ống

nứa … Bệnh sốt rét, tiêu chảy thường xuyên đe doạ. Chỉ có lúa rẫy là nguồn lương

thực chính” (Bình yên một vùng biên) [8, tr.146].

Một trong những khó khăn, thách thức đối với người đồng bào DTTS mà ta

thấy rõ trong các trang bút ký của nhà văn là do Tây Nguyên “đói thông tin”.

“Đói thông tin” cũng có thể dẫn tới đói nghèo: “Còn bây giờ, Ea Drăng vẫn cứ

phải chịu không chỉ đói nghèo, mà cả đói thông tin nữa. Vì nếu Krông Pa không

“bắt” được cả sóng phát thanh lẫn truyền hình Gia Lai, phải nghe và xem nhờ

Phú Yên và Đăk Lăk; thì Ea Drăng là vùng lõm, chẳng thể dò được bất cứ sóng

phát thanh truyền hình nào”; nhà văn còn mượn lời ông Êban Lá để nhắc nhở:

“Nếu đài tiếng nói Việt Nam không mau chóng phát tiếng dân tộc lên trên vệ tinh

cho bà con khắp nơi được nghe, thì không chừng công trình đưa thông tin về cơ sở

ở Krông Pa lại có tác dụng ngược lại đấy, bởi radio cấp phát chỉ nghe được đài

nước ngoài thôi” (Gập ghềnh con đường Krông Pa) [8, tr.153].

58

Ấn tượng buồn nhất với chị chính là những khó khăn thách thức trong cuộc sống đến từ sự lạc hậu, trình độ dân trí thấp khiến người dân nơi đây dễ rơi vào các

tệ nạn xã hội, dễ bị kẻ xấu lợi dụng, tuyên truyền tư tưởng phản động, bỏ làng theo

Phulro hoặc bỏ tín ngưỡng bản địa theo đạo lạ ở phương Tây, xa rời các phong tục

tập quán của cộng đồng dân tộc… Sự phân tích những nguyên nhân dẫn tới khó khăn, đói nghèo của bà con Tây Nguyên rất đúng đắn, sâu sắc của chị cho thấy: chị

có cái nhìn thấu đáo, đa chiều và có một tấm lòng luôn hướng về cộng đồng dân tộc.

Linh Nga Niê Kdam không hề né tránh thực tế, chị đã chỉ ra rất rõ sự lạc hậu

và trình độ dân trí thấp của phần lớn người dân Tây Nguyên. Chị trăn trở trước thực

trạng người dân không biết cách làm ăn kinh tế, có tư tưởng ỷ lại nên dẫu đã được

Nhà nước cho người về hướng dẫn và cho vay vốn nhưng cũng không thể ngay lập

tức thay đổi, tiếp thu: “Đời sống kinh tế khó khăn kéo theo sự thất học của trẻ em. Xã chỉ có các trường tiểu học, 11 em lên cấp II phải về trường nội trú huyện. Cán

bộ xã chỉ có 3 người đã học hết cấp II. Theo chủ tịch xã Siu Neo: “Dân đói nghèo

có 3 nguyên nhân: không có vốn, không có người hướng dẫn kĩ thuật sản xuất và

không có văn hoá để học hỏi, còn nặng tính ỷ lại, có được vay vốn cũng không biết

dùng để làm gì” (Chuyện lạ ở Mường Hoong) [8, tr.26]. Người dân lại quá quen

với tập quán canh tác nương rẫy theo lối xưa, lạc hậu nên khó chấp nhận làm theo

phương thức canh tác mới: “Thay đổi được tập quán canh tác quản canh và tư duy

sản xuất manh mún của bà con các DTTS không dễ, nếu không nắm được đặc điểm

tâm lý: do hàng trăm năm nay theo phương thức luân canh và độc canh cây lúa rẫy

trên đất rừng mênh mông, hết màu nơi này lại chuyển đi nơi khác, đồng bào chưa

quen với các biện pháp thâm canh, áp dụng kĩ thuật để có năng xuất cao. Nên rất hay dễ làm, khó bỏ. Thất bại một lần bà con dễ nản, nhưng lại ưa làm theo nhau,

nếu được nhìn thấy tận mắt kết quả” (Có một Đăk Hà xanh) [8, tr.167]. Hay đáng

buồn hơn là ở chỗ khi có điều kiện tự nhiên thuận lợi nhưng người dân cũng không

tích cực học hỏi, thay đổi cách làm ăn: “Mãi đến năm 1982-1983 dân Hà Giăng Trên mới rời núi về định canh định cư ở chỗ hiện giờ, cách thị trấn Vân Canh 5km. Làng có 47 hộ, hơn 250 nhân khẩu. Trong tổng số diện tích tự nhiên 1.500 hecta, chỉ có không đầy 140 hecta đất đã canh tác. Chủ yếu trồng lúa rẫy (hơn 70 hecta),

mì và mía (gần 70 hécta). Mặc dù có nhiều vùng đất bằng, gần suối, nhưng bà con

vẫn chưa biết cày bừa và làm lúa nước. Công cụ sản xuất vẫn chỉ là cày cuốc, chọc lỗ tra hạt lúa rẫy” (Làng mặt trời) [7, tr.50].

Chính các thực trạng ấy dẫn tới việc các tệ nạn xã hội có điều kiện để tồn tại.

Nhà văn cũng thẳng thắn nói lên sự tồn tại của các tệ nạn xã hội trong đời sống

59

đồng bào mình. Đó là nạn mù chữ khiến người dân Tây Nguyên khó tiếp thu khoa học kĩ thuật: “Ya Tul còn nhiều khó khăn. Mặc dù có hơn 20 thanh niên đã học qua

lới 9 hoặc lớp 12, nhưng cả xã vẫn có tới 60% dân mù chữ. Đây là một trở ngại

không nhỏ cho việc tiếp thu cái mới, nhất là khoa học kĩ thuật” (Đâu là đáp số của

bài toán Ya Tul) [7, tr.138]; nạn thất học không chỉ ảnh hưởng đến đời sống kinh tế, dẫn đến đói nghèo, lạc hậu mà hơn hết còn làm người dân không thể thoát khỏi

tình trạng mông muội đến mức suy kiệt cả nòi giống. Chị ghi lại tâm sự của Bí thư

chi bộ xã Đăk Blao về tình trạng này mà buồn bã và đau xót: “Các anh chị có nghĩ

được chuyện này không? Mỗi bon là một dòng họ. Cứ lấy nhau quanh quẩn trong

một dòng giống, con cái đẻ ra èo èo như cái lá bị lửa ăn, chết lần lần hết. Hồi xưa

hay có lễ hội mùa cúng Yang, xa mấy cũng rủ nhau đi. Trước là đáp nghĩa, sau thì

tìm duyên tình. Nay làm gì còn lễ hội nữa …” (Rừng ơi! Giàu nghèo ai đó?) [7, tr.218]. Đã thế lại còn nạn cúng triền miên, góp phần làm kiệt quệ kinh tế của từng

gia đình: “Cái gì cũng cúng. Một tuần chúng tôi ở lại trong bon, hầu như ngày nào

cũng thấy có cúng. Dài thì năm bảy ngày, ngắn thì một ngày. Nhiều, hàng chục ché

rượu, vài tạ gạo. Ít, cũng một ché, một gà. Cúng đến nỗi có gia đình vì không còn

lương thực theo đuổi đóng góp những lễ cúng liên miên, đã phải cải theo đạo Tin

Lành” (Ấn tượng Krông Nô) [7, tr.100]. Trước hiện tượng bà con rời xa các phong

tục tập quán cổ truyền tốt đẹp của dân tộc để đi theo đạo Tin lành, nhà văn không

khỏi băn khoăn, đau xót: “Bà con người Mnông ở Đăk Mon bây giờ đã có tới 80%

theo đạo Tin Lành. Thay đổi tín ngưỡng đồng nghĩa với xoá bỏ nhiều phong tục đẹp

của dân tộc” (Nỗi niềm của đại tá Y Sok Niê Kdam) [8, tr.135].

Những thách thức bà con Tây Nguyên đang phải đối mặt không chỉ là các tệ

nạn xã hội mà còn là sự tuyên truyền kích động của bọn người xấu khiến cho vùng

đất Tây Nguyên vốn êm ấm thơ mộng trở thành sục sôi, phức tạp. Ví dụ: việc thanh

niên dân tộc nghe theo lời kẻ xấu, tụ tập nhau trong rừng Đăk Min để vượt biên giới

trái phép, khai thác lâm sản trái phép, tự do mang theo súng tự tạo từ phía Bắc vào

(Đi đón mùa xuân) [11]; hay người dân bị kẻ xấu lợi dụng, tuyên truyền kích động

bạo loạn với lý lẽ: “Tây Nguyên mình là một đất nước riêng” có tên là: “Nhà nước

Đê Gar”; Tây Nguyên được vua nhà Nguyễn ban cho tên đất là: “Hoàng triều

cương thổ”; người dân cần phải đứng lên “đấu tranh đòi quyền lợi”. Vì một số

người dân tin theo điều đó nên ở Tây Nguyên có thời điểm đã xảy ra những vụ việc

đòi “độc lập tự do cho nhà nước Đê Gar”, người dân bỏ tín ngưỡng ông bà đi theo

“Đạo Tin lành Đê Gar”… (Nhân danh ai?) [11]…

60

Có thể thấy rất rõ: bao nhiêu khó khăn, thử thách trong thực tế đời sống của người dân Tây Nguyên thời kì hiện đại hôm nay hầu hết đều được Linh Nga Niê

Kdam đề cập tới trong các tác phẩm truyện - ký của mình. Chị viết về những khó

khăn, thách thức ấy bằng một giọng văn thoạt nghe tưởng rất khách quan nhưng

thực chất thì đằng sau mỗi sự kiện, mỗi hiện tượng xã hội mà nhà văn phản ánh, người ta nhận ra được một nỗi niềm buồn đau, day dứt, một sự trăn trở khôn nguôi

của tác giả. Dù đến với các xã vùng cao Tây Nguyên với tư cách là một nhà văn,

một người làm công tác phát thanh truyền hình hay một nhà nghiên cứu sưu tầm

văn hóa dân tộc, Linh Nga Niê Kdam cũng luôn giành cả tình cảm và tâm huyết của

mình với mảnh đất yêu thương này. Những câu hỏi: “Làm thế nào …? Làm thế

nào…?” luôn được chị đặt ra sau mỗi sự kiện, mỗi câu chuyện là một minh chứng

cho tấm lòng, tinh thần trách nhiệm của người con gái Êđê với cộng đồng dân tộc. Và sau mỗi trang viết ấy đều như toát ra, vút lên câu hỏi đòi lời giải đáp từ nhiều

phía - từ phía những người dân, từ phía các nhà quản lý, các nhà khoa học, các nhà

văn hóa xã hội… để giải quyết bài toán giúp nhân dân Tây Nguyên thoát khỏi

những đói nghèo, lạc hậu này.

2.2.2. Sự tha hoá của con người bản địa

Trên thực tế, đời sống người dân Tây Nguyên vì nhiều lí do (như đã nêu

trên) nên còn rất nhiều khó khăn, nghèo đói. Cái khó khăn, nghèo đói ấy góp phần

tác động xấu đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của con người. Cộng thêm vào đó là

những tình huống éo le, đưa đẩy của cuộc sống mà con người không thể lường

trước khi tiếp cận với những mặt trái của xã hội thời kì hội nhập, mở cửa, giao lưu

kinh tế, văn hóa… làm cho một bộ phận người dân Tây Nguyên không có đủ bản lĩnh bị sa ngã, trượt dài trên con dốc của sự tha hóa, băng hoại đạo đức, quên đi

những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Ngòi bút của Linh Nga Niê

Kdam cũng đã hướng vào những góc tối, vào phần khuất lấp trong cuộc sống, trong

tình cảm của con người Tây Nguyên thời kì hiện đại.

Trong truyện ngắn Cánh hồng rụng, nhà văn kể lại tình cảnh đau lòng của một bà mẹ cô đơn, lỡ dở, cả cuộc đời dồn hết tình yêu và nhựa sống cho đứa con gái bé bỏng của mình. Người con gái càng lớn lên càng xinh đẹp: “nước da mịn màng

như sữa dê, vóc dáng thanh mảnh của cây bạch đàn liễu, lẫn gương mặt vầng trăng

mười sáu. Cánh môi hồng nhỏ xinh hơi nhếch lên hai bên khóe, khiến khuôn mặt rạng lên một nụ cười. Riêng cặp mắt thì, bọn con trai trường nghệ thuật tỉnh bình

luận rằng “bí ẩn tựa đêm Italia”, màu đen thăm thẳm và ánh lúng liếng, ướt rượt

sau hàng mi dài rất hay chớp chớp”; còn người mẹ nhiều khi rất tự hào về con, vì

61

quá yêu thương con nên bà đã chiều chuộng con quá mức. Người con gái ngày càng trở nên ích kỷ, lười nhác, chỉ muốn sống dựa vào người khác. Mới học lớp 9, cô đã

“mang bụng” về nhà và dọa mẹ nếu không cho cô cưới chồng thì cô sẽ “cắn lưỡi”

tự tử. Chồng cô - một gã trai hơn cô gần chục tuổi: “có thân hình dặt dẹo, mặt xám

ngoét, mỗi khi lên cơn động kinh lại lăn đùng ra giãy giụa, sùi cả đám bọt mép hai bên trắng nhởn”, lại đã có thời “già nhân ngãi, non vợi chồng” với một cô bên kia

sông. Nỗi xót xa tủi nhục của người mẹ dày vò bà đến phát ốm nhưng người con gái

không hề quan tâm. Sau tuần trăng mật “tuyệt làm sao”, người con gái ấy không thể

sống bên nhà chồng vì phải đối mặt với hiện thực khó khăn, túng thiếu lại không

biết làm gì nên đã chủ động bỏ chồng vào Tây Nguyên với mẹ. Vào đây, cuộc sống

lao động lam lũ một lần nữa khiến kẻ quen sống dựa dẫm, buông thả không thể

thích nghi, cô ta ra sức trách mẹ: “Thế mà mẹ lại bắt con làm cấp dưỡng. Lại còn mắng con cặp hết thằng này đến thằng khác. Chúng nó dại gái thì kệ chúng nó, con

có mất gì đâu. Thôi con đành mang tội bất hiếu mà ra đi vậy”. Sau đó, cô ta đang

tâm vứt bỏ đứa con đỏ hỏn của mình cho người mẹ đau khổ, “dứt áo” ra đi kiếm

tìm một nơi dựa dẫm mới: “Con biết mẹ đau lòng lắm, nhưng còn cách nào khác

nữa đâu, mẹ hãy trông cháu hộ con. Còn nếu mẹ vì giận con mà không muốn nuôi

cháu, có ai ra Bắc, mẹ mang trả bố nó hộ con. Nó làm hỏng cả đời con, thì con

cũng chẳng thiết gì nuôi con nó” (Cánh hồng rụng) [6, tr.71].

Hay trong truyện ngắn Hoa dại, nhà văn kể lại số phận của nhân vật “nó” - một

người con gái Tây Nguyên trẻ trung, tài năng và xinh đẹp: “Hiếm con gái Tây Nguyên

có nước da trắng mát đến nao lòng như thế, sống mũi cao, đôi môi mỏng xinh như nụ

hoa êpang buổi sáng. Cặp mắt trong veo như mắt nai con với hàng mi dày cong, lúc nào cũng mở to ngỡ ngàng của một cô gái chưa quen giao tiếp. Chắc ông trời bà đất

quá yêu cái tạo vật xinh xắn ấy, nên cho nó thêm cả giọng hát trong veo như nước suối

lẫn đôi tay dẻo mềm như sợi mây và đôi chân tựa con sóc nhảy”. Bông hoa rừng ngây

thơ, trong trắng, tươi rói ấy, vừa mới 15 tuổi đã bị ông nhạc sĩ lợi dụng, chiếm đoạt. Nhưng thay vì cảm thấy bị xúc phạm, tổn thương, “nó” lại thích thú đón nhận: “Ân cần và dịu dàng, người đàn ông đánh thức nỗi đam mê điên cuồng, mà nó khám phá ra rằng dường như có sẵn trong máu nó tự thuở nào. Để rồi, như dòng nước được dỡ bỏ

vật cản, băng băng lao tới những bến bờ xa lạ mà kì thú”. Từ đó, “nó” ngày càng trở

nên hư hỏng, sa đọa: “rất tự nhiên, nó lần lượt làm bạn qua đêm của mọi gã đàn ông trong cái khu tập thể khép kín”; “nó” mặc sức: “thả mình theo cơn khát bản năng của

da thịt, con mắt sáng rỡ, đôi má đỏ au, người lúc nào cũng bừng bừng như có lửa. Nó

công khai nói toạc trong đám tán gẫu của những mụ vịt giời hôm nào cũng tụ tập

62

không ở phòng này thì ở phòng khác: Một ngày không được hưởng thụ là tao ăn mất ngon, ngủ mất say, người tao nó cứ run run, giần giật làm sao ấy”. Cuối cùng, “nó”

phải trả giá cho lối sống buông thả, sa đọa của mình - khi mới “bốn mươi hơn chứ

mấy”, “nó” đã phải sống trong cảnh không chồng, bị bệnh phụ khoa nặng, một mình

bươn trải nuôi sáu con, hai cháu, rồi mất vì bệnh ung thư (Hoa dại) [6, tr.131].

Ước mơ có một cuộc sống giàu sang là một ước mơ chính đáng. Nhiều người

dân Tây Nguyên giàu nghị lực đã thoát khỏi đói nghèo, quyết tâm vươn lên làm giàu

rất đáng khâm phục. Nhưng vẫn còn những người muốn có cuộc sống giàu sang mà

không phải lao động cực nhọc. Họ đã đánh mất hết lòng tự trọng, đánh mất nhân phẩm,

đạo đức và đánh mất cả tình cảm gia đình thiêng liêng. Họ như con thiêu thân lao vào

thế giới sáng rực ánh đèn nơi thành phố. Họ để lại phía sau cha mẹ, con cái, cả truyền

thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc để sống gấp, sống vội, sống hưởng thụ mọi thứ của

người khác. Nhân vật người con trong truyện ngắn Cánh hồng rụng là kiểu người như

vậy: “Con đã mơ tới vùng đất nơi mẹ ở với bao hình ảnh đẹp đẽ. Nào là nhà cao cửa

rộng, vải vóc quần áo lộng lẫy, muốn ăn gì có nấy. Mỗi ngày đi chợ, con ngắm không

chán các toà nhà như các lâu đài trong chuyện cổ tích mẹ kể cho con nghe. Ôi những

hàng vải như cả một rừng hoa đến loá cả mắt. Còn con người, sao họ đẹp thế, sang

thế. Trên những chiếc ô tô, xe máy bóng loáng chạy đầy đường. Ước gì con …”; “Con

mà thèm trở về cái xó rừng nghèo xác ấy nữa ư? Có về cũng phải thật giàu. Mẹ đừng

cho người tìm con. Có thấy con cũng không về đâu mà. Rồi mẹ xem, chắc chắn con sẽ

có tất cả …”. Công việc mà con làm để “thật giàu” là tiếp viên của một quán cà phê,

“giúp người ta thư giãn” (Cánh hồng rụng) [6, tr.83].

Lại có những người do nhẹ dạ cả tin, hám lợi trước mắt, từ bỏ cả những thứ

đẹp đẽ, cao quý mình đang có để chạy theo danh vọng, chạy theo đồng tiền, cuối

cùng phải đánh đổi cả mạng sống. HLy Êban trong truyện ngắn Cây Knia cô độc là một diễn viên múa có khả năng cháy hết mình cho nghệ thuật. Nàng đẹp “vẻ đẹp đầy bí ẩn của nàng sơn nữ”. Khi còn ở núi rừng, cô yêu say đắm Y Lang. Họ đã lớn lên bên nhau rất hồn nhiên rồi tình yêu đến đẹp đẽ, chân thành, đầy kỉ niệm gắn với thảo nguyên, đồng cỏ MDrăk và bóng cây Knia cổ thụ. Họ cũng đã cùng nhau trao hẹn ước thề “chỉ chờ ngày làm lễ knăm và iêo ung nữa thôi”. Nhưng HLy đã nghe theo lời rủ rê, lừa phỉnh, hứa hẹn suông của Nhã mà cô cứ tưởng sẽ

là “mạnh thường quân” đưa cô tới tỉnh cao vinh quang nghệ thuật. Cô rời bỏ buôn

làng cùng trái tim Y Lang để chạy theo danh vọng và mười năm ròng phải làm vợ

hờ, làm công cụ kiếm tiền, biểu diễn lót sân, dọn bãi cho những cuộc lưu diễn

triền miên của “ông bầu” Nhã. Dù vất vả, cực nhọc, lại còn sinh con cho Nhã

63

nhưng cô cũng chỉ được Nhã cho đủ tiền ăn hàng ngày, không có cả tiền để trở về đồng cỏ năm xưa. Trong nỗi đau đớn, nhục nhã, tủi thân, căm giận lẫn ân hận;

trong nỗi khát khao được trở về gặp lại Y Lang, từ trên xe ô tô, cô đã vươn mình

về phía cầu vồng, nắm cho được kỉ niệm đẹp đẽ lung linh trong quá khứ. Để rồi

mãi mãi nằm lại nơi đây, ngóng trông đồng cỏ cao nguyên, nơi đỉnh ngọn đồi có bóng cây Knia cô độc và một dáng người cao lớn lấp lóa trong bảy sắc cầu vồng

(Cây Knia cô độc) [6, tr.180].

Sự tha hóa đạo đức của con người không chỉ biểu hiện ở cái nhìn thấy, ở vẻ bên

ngoài, ở phương diện bản năng tính dục dễ nhận biết mà biểu hiện của nó còn rất phức

tạp. Sự tha hóa đạo đức có thể ẩn nấp ở những người có vẻ bề ngoài hào hoa, thanh lịch,

đạo mạo, đĩnh đạc và nó còn có thể khoác trên mình chiếc áo ngoài công lý, chính nghĩa.

Chỉ khi nào sự thật được phanh phui thì ta mới nhận thấy sự hèn nhát, lừa dối, trốn chạy,

vô trách nhiệm, vì danh lợi mà có thể phủ nhận quá khứ, phũ phàng phản bội chính

người mình từng trân trọng, yêu thương của những con người vốn tưởng là chân chính

đó. Truyện ngắn Gió vẫn thổi từ rừng kể một câu chuyện rất đáng trách của một người

trí thức: Cô gái H’Dung buôn Ea Păm xinh đẹp, hồn nhiên, hiền lành, trong sáng, có

giọng hát tuyệt vời đã khiến cho anh chàng Trịnh Nguyên - thành viên của một đội công

tác ở Hà Nội về làm việc tại buôn - đem lòng yêu ngay từ cái nhìn đầu tiên: “Anh như bị

thần sét đánh tan tác ngay từ lúc cô cất tiếng hát. Lời hát Êđê nói gì? Sao như có luồng

điện chạy từ ngón chân lên tới những sợi tóc trên đỉnh đầu khiến anh quên hết, chỉ còn

H’Dung ẩn hiện bay bay trong làn khói, trong ánh lửa và trong làn suối ngọt ngào của

tiếng hát em”. Họ yêu nhau đắm say đến mức cả hai người đã cùng trao vòng đồng,

được mẹ cha H’Dung cột ché rượu, thầy cúng làm lễ báo với Yàng từ nay họ kết đôi.

H’Dung nào có ngờ, Trịnh Nguyên lừa dối H’Dung, anh đã có vợ và con trai ở Hà Nội.

Từ khi nhận được điện của vợ, anh vội vã trở về, bỏ lại H’Dung. Hai mươi năm trôi qua,

anh không một lần trở lại cũng không hề viết một lá thư. Anh để lại cho H’Dung một đứa

con mà anh không bao giờ biết mặt. Anh cũng để lại cho đời một số phận đau khổ, mồ

côi nên cô bé Hmin Êban kia dù “con mắt nó như giọt sương trên cành hoa eđắp”

nhưng “lúc nào cũng buồn thăm thẳm như rừng đêm, giống y mắt mẹ”. Trước sự bao

dung của H’Dung: “Bao bạn bè tôi đến đó rồi ra, ai cũng gặp em. Vậy mà chưa hề nghe

em nhắn trách một câu. Em ra Hà Nội thuyết minh triển lãm cũng không hề tìm tôi”,

Trịnh Nguyên thấy mình thật là hèn hạ, ngàn lần ân hận nhưng anh vẫn một đời trốn

chạy, không dám đối mặt với người con gái Tây Nguyên trong sáng, cao thượng đó để

nhận lỗi về mình. (Gió vẫn thổi từ rừng) [6].

64

Truyện ngắn Điều ông ấy không tính đến cũng phê phán sự lừa dối, hèn nhát, thất hứa, thiếu tình người của một cán bộ mà nay đang giữ cương vị Chánh án

- hàng ngày cầm cân nảy mực, phán xét con người trong khi bản thân không đủ tư

cách làm người. Khi phiên tòa xét xử đã kết luận, kết án xong xuôi, ông mới chết

lặng đi khi nhận ra chính mình đã đang tâm làm điều ác với chính người vợ năm xưa và đứa con trai ruột thịt. Mai là một người phụ nữ cả tin, yêu bằng tất cả tấm

lòng chân thành với “anh” khi hai người cùng sống trên Tây Nguyên bên dòng suối

Ea Yong những ngày giặc giã. Họ đã có với nhau đứa con trai xinh đẹp, khoẻ mạnh,

phổng phao, “giống anh y hệt”. Mai đã rất tin tưởng khi “anh” nói: “Anh sẽ cố xin

cho em về hợp pháp thôi. Định kỳ này báo cáo tổ chức chuyện của tụi mình. Nhưng

anh Chín có lệnh tăng cường về khu, anh được tạm thay ảnh, tình hình vầy làm sao

nói chuyện cưới xin được. Không thể để con tụi mình sinh ra trong cảnh chạy càn, bom đạn, mưa gió thế này được đâu. Đừng có lo! Em cứ tạm về quê với má, anh sẽ

giữ liên lạc với em. Sắp hoà bình rồi, chúng mình sẽ sống bên nhau”. Thế nhưng

chị đã phải một mình cùng con trải qua bao khó khăn, vừa kiếm tìm “anh” vừa tự

bươn trải kiếm sống. Có lúc con thương mẹ quá, “theo bạn đi móc cua, móc rắn,

kiếm đồ ăn phụ má” bị rắn cắn tưởng mất đi tính mạng. Dù vậy, “trong tâm tưởng hai

má con, anh cao lớn, đầy lòng yêu thương và dũng cảm vô song, đang ngày đêm xả

thân cho hạnh phúc của đất nước và của cả hai mẹ con họ. Sự cực khổ ở nhà đâu có

thấm tháp gì so với cha”. Chị đâu có ngờ, “anh” đã quên mẹ con chị. Giờ “anh” là

ông Chủ toạ phiên toà, chủ nhân của “toà biệt thự đá đỏ bóng láng”, nơi cả chục lần

chị ngồi chầu trước cửa hàng buổi để mong được gặp, để cầu xin “anh” cứu lấy đứa

con của chị. Đứa con ấy trót phạm tội đánh trọng thương con trai “anh” chỉ vì con “anh” chửi nó là “đồ con hoang không cha”. Chính “anh” đã xử nó năm năm tù vì nó

“không có cha”, “mẹ buôn bán rong kiếm sống” và “y thiếu hụt nghiêm trọng sự giáo

dục thường xuyên của gia đình” (Điều ông ấy không tính đến) [6]. Ai đã cho nó một

gia đình như thế? Một “phẩm chất” như thế? Nhà văn không cất lên câu hỏi nhưng câu trả lời đã xoáy tận tâm can.

Một thực tế nữa không thể trốn chạy, một nguyên nhân thường thấy dẫn tới sự tha hóa nhân cách con người được các thế hệ nhà văn đề cập đến từ xưa đến nay

là sức mạnh của đồng tiền. Nền kinh tế thị trường với những đổi thay chóng mặt,

ảnh hưởng sâu sắc tới nhận thức con người. Thói hám tiền, vì tiền có thể làm tất cả cũng là một hiện thực trăn trở của nhà văn khi viết về nhân cách con người. Đối với

người Tây Nguyên, con Voi được coi là con vật quý, là người bạn thân thiết, và khi

được thuần hóa, nó trở thành một thành viên trong gia đình. Từ khi Y Nang (ông

65

của Y Thơm) còn là một chú bé, voi Trut đã là một thành viên gắn bó với gia đình. Bây giờ, voi Trut đã quá già, lại ngày đêm thương nhớ rừng xa, khát khao muốn

sống cùng vợ mà nó yêu thương. Nhưng tất cả đều không thể thực hiện được. Vì

tiền, cháu của Nang đã không thương tiếc bóc lột sức lao động cùng kiệt của voi: “Y

Thơm, cháu của Nang là một đứa tham tiền đến kì quặc. Nó làm nài mà ngồi lên cổ voi nào là không hề tiếc dùng uy lực của kreo để trấn áp voi đó. Nó chỉ biết làm sao

một ngày chở được càng nhiều đoàn khách càng tốt. Nhiều ngày Trut mệt. Ôi ! tính

theo cách của con người thì gần một trăm mùa rẫy trôi qua trên cái đầu Trut rồi

còn gì nữa. Sức cũng đã cạn. Nhưng vì miếng cơm của nhà Âe Thơm nên Trut vẫn

cố gắng lắm… Gần đây, có mấy gã đàn ông mặt mũi khó coi quá, đến hỏi thuê hết

cả đàn voi của buôn để đêm đi kéo gỗ trong rừng về. Âe Thơm không đồng ý, nói

“Trut già bằng nhau với ông rồi, ban đêm để cho nó nghỉ ngơi”. Nhưng thằng Y Thơm đâu có nghe, nó còn mắng “ông già rồi, biết gì. Để cháu kiếm tiền mua xe

máy chở mấy đứa con gái chớ”. Nói đến tiền là mắt nó sáng quắc lên như lửa vậy

đó” (Bóng chiều bảng lảng) [12, tr.12-13].

Trong truyện Hoa Bó khiu, nhân vật Nhan là một người con gái Thái dịu

dàng, đảm đang, có trách nhiệm. Nhưng cũng vì nhẹ dạ cả tin nên cô đem lòng yêu

và dâng hiến hết mình cho chàng sinh viên Hà Nội. Mười chín tuổi đầu đã một mình

ẵm bế con thơ. Hoàn cảnh đưa đẩy, dù có xinh đẹp nhưng không ai hỏi cưới, cô

đành theo về làm vợ một người lái xe. Sống trong no đủ và sung sướng, Nhan dần

quen rồi theo chồng cải trang qua biên giới buôn hàng lậu. Sau một thời gian phất

lên nhanh chóng, chồng Nhan bị công an bắt, bị kết án tử hình, của nả bị tịch thu vì

có liên quan đến đường dây buôn bán ma túy xuyên quốc gia. Nhan gắng gượng một mình làm lại từ đầu nuôi các con nhưng không tự làm ăn chân chính mà quay lại biên

giới buôn hàng cấm. Cuối cùng, chỉ một năm sau ngày chồng thi hành án tử hình,

Nhan cũng tra tay vào còng số 8 ngay tại cửa khẩu (Hoa bó khiu) [14, tr.61].

Có thể nói, đứng trước sự tha hóa, biến chất của con người trong thời kì hiện đại, nhà văn Linh Nga Niê Kdam bộc lộ nỗi niềm chua xót, buồn đau. Xung quanh những vấn đề tha hóa, biến chất đó, nhà văn còn đề cập đến rất nhiều vấn đề khác liên quan như: văn hóa, giáo dục, môi trường sống, cách hành xử giữa con

người với con người…và cái cuối cùng lắng lại dưới mỗi trang văn của chị vẫn là

thân phận con người. Nhà văn đã thấu hiểu, chia sẻ được cùng dân tộc mình nỗi thống khổ của phận người. Nhà văn cũng nhận thấy: cái tốt, cái đẹp trong đời sống

ở vùng cao nguyên Tây Nguyên còn nhiều nhưng cái xấu, cái ác vẫn đang hiện hữu

nơi đây. Cuộc đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác trong xã hội hay trong từng con

66

người là cuộc đấu tranh cam go, gian khổ và không thể một sớm một chiều có thể giải quyết. Viết về cái xấu, cái ác với một thái độ phê phán, chứng tỏ nhà văn

không hề dửng dưng với nó. Qua mỗi hiện tượng, qua mỗi số phận con người

trong sáng tác của mình, nhà văn đều thể hiện được tinh thần trách nhiệm của chị

với cuộc đời, với cộng đồng dân tộc Tây Nguyên yêu dấu. Đứng trên phương diện nghệ thuật, ngòi bút Linh Nga Niê Kdam thực sự đã đổi mới, có tính đương

đại rõ rệt khi hiện thực cuộc sống được tác giả quan sát, chiêm nghiệm và thể

hiện một cách đa chiều, nhiều góc khuất đã được soi chiếu một cách chân thực

và khách quan.

2.2.3. Sự phai nhạt bản sắc văn hoá, sự tổn thương môi trường sinh thái

Tây Nguyên

Nhà văn Linh Nga Niê Kdam là một trí thức say mê nghiên cứu, sưu tầm văn hóa nghệ thuật các dân tộc. Chị cũng là một người nghệ sĩ có điều kiện được đi nhiều

nơi nên chị có vốn kiến thức thực tế phong phú, rất am hiểu môi trường sống của người

dân nơi đại ngàn cao nguyên và rất tự hào, trân trọng những nét đẹp truyền thống của

bản sắc văn hóa các dân tộc Tây Nguyên; thiết tha mong mỏi những giá trị văn hóa quý

báu trên quê hương có thể được bảo tồn cho con cháu muôn đời sau. Hơn ai hết, với sự

lo lắng, bất an tận đáy tâm hồn và sâu thẳm trái tim, chị đã nhận ra sự phai nhạt, sự mai

một của bản sắc văn hóa truyền thống cũng như sự tổn thương môi trường sống, môi

trường tự nhiên của cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên trong thời kì hiện đại và hội

nhập quốc tế với cơ chế thị trường đầy linh hoạt, khốc liệt, tàn bạo. Điều này đã trở

thành mối quan tâm lớn nhất của chị, trở thành một chủ đề lớn trong các tác phẩm

truyện ngắn và bút ký của chị.

Tha thiết yêu quê hương, nhà văn tha thiết yêu những tiếng hát, lời ca, điệu

múa, yêu tiếng cồng chiêng, yêu những trang phục thổ cẩm, những mái nhà Rông, nhà

tranh rủ dài sát đất…; yêu những phong tục tập quán với những lễ hội rộn ràng, yêu lối

sống, lối ứng xử đậm nét văn hóa cao nguyên. Càng yêu thương, nâng niu, trân trọng những giá trị văn hóa cổ truyền, nhà văn càng ngỡ ngàng, xót xa, đau đớn trước sự phai nhạt, sự mai một của nó trong cuộc sống hôm nay. Chị đã từng khẳng định: “Nghệ thuật Tây Nguyên không chỉ là niềm vui trong sinh hoạt của cả cộng đồng dân tộc, mà

còn làm say đắm bao nhiêu văn nghệ sĩ, bạn bè Tây Nguyên” và: “Mỗi một lần trở lại

Tây Nguyên, lại thấy như được về với cội nguồn. Sống trong không khí lễ hội này, tôi thấy mình như tràn đầy sức sống, muốn sáng tác, muốn hòa vào trong vòng xoang, bên

ché rượu để say cùng mọi người” (Diệu kỳ Pleiku) [8, tr.84]… Vì vậy, khi thấy nền

văn hóa cổ truyền của dân tộc đang dần bị phai nhạt, bị lãng quên, bị biến tướng hoặc

67

bị thương mại hóa, nhà văn buồn bã với những dự cảm chẳng lành: “Ngày nay, người Tây Nguyên được khuyến khích chuyển đổi từ quản canh cây lúa rẫy sang chuyên canh

lúa nước và thâm canh cây công nghiệp. Phương thức sản xuất thay đổi, văn minh

công nghiệp ùa vào Tây Nguyên không có sự chọn lọc, môi trường diễn xướng của văn

hoá dân tộc không còn “đất” tồn tại. Thêm vào đó là sự áp đặt, sự hướng dẫn khiên cưỡng, bỏ qua các tập tục văn hoá (ví như tổ chức lễ hội vào giữa lúc mùa màng đang

rộ vụ thu hoạch, hay chuyện mang dàn chiêng ra đánh bên suối nước để quay phim,

hay việc phản đối lễ đâm trâu…) đã góp nhau khiến cho nền văn hoá cồng chiêng có

nguy cơ lụi tàn” (Lời chiêng Tây Nguyên) [8, tr.62].

Các lễ hội ở Tây Nguyên là một nét đẹp văn hóa rất đặc biệt: “Mỗi lễ hội là

một dịp con người sống hết mình với nhau, với thiên nhiên. Mối liên kết ràng buộc

bắt nguồn từ đó”(Đi tìm hồn chiêng) [8, tr.15]. Theo chị, lễ hội là: “sản phẩm của nền văn minh nương rẫy, các lễ hội Tây Nguyên gắn với nông lịch, với đời sống và

tâm linh con người, như rừng cây, con suối, núi đồi hữu hình, cùng nắng, gió và

những âm thanh vô hình của dàn chiêng, điệu hát, tiếng đàn, tạo nên bức tranh

hùng vĩ của một diện mạo văn hoá Tây Nguyên” (Diệu kỳ Pleiku) [8, tr.78] nhưng

trong thời kỳ hiện đại, chị xót xa nhận thấy: “Đã có một thời, sự chuyển đổi của

phương thức sản xuất từ luân canh sang thâm canh, sự khắc nghiệt của cơ chế thị

trường, cả bởi sự thay đổi tín ngưỡng, lẫn thiếu hiểu biết, mà nhiều lễ hội Tây

Nguyên gần như tàn lụi” (Diệu kỳ Pleiku) [8, tr.78]. Vậy, nếu không còn lễ hội thì

những tiếng chiêng, nhịp trống, điệu múa, vòng xoang, câu hát giao duyên đối đáp,

những điệu hát eirei, hát k’ưt, những điệu kachoi, tulêu, những tiếng kèn đinh năm,

tiếng sáo đinh buốt với những chuyện klei k’han… biết biểu diễn vào những dịp nào? Nếu lớp lớp cháu con người dân tộc Tây Nguyên không còn yêu nền văn hóa

truyền thống của ông bà tổ tiên nữa, cũng không có ý thức bảo tồn văn hóa dân tộc

nữa thì bao vốn quý về văn hóa, nghệ thuật đặc sắc kia biết truyền dạy cho ai? Nỗi

niềm ấy cứ khắc khoải, da diết, cứ vang vọng trên khắp các trang văn của chị: “Già K’Ngân ở Đăk Nông đã bước sang mùa thứ tám ba, chưa biết trao cây đàn PRlet có tiếng ngân da diết vào bàn tay nào? Lớp người hơn bốn mươi mùa bẻ bắp có ai còn biết kể khan, kể hmon đâu để già A Tung Vesh truyền dạy bài “khóc trâu” Katu khi

ông năm nay đã bảy nhăm lần rừng thay lá. Con trai không biết thổi đinh năm. Con

gái không hiểu lời yêu của kanis, nói gì đến biết hòa nhịp đinh tút với các bạn cùng trang lứa. Có phải tại cây đàn Ghita có điệu hay hơn không. PRlet - Ghita! Hai đứa

mày ai có lỗi hơn ai?” (Folklore Tây Nguyên: độc đáo và giàu có - còn chăng?)

[7, tr.42] và: “Cái hay, cái đẹp từ những gì chân chất, nguyên sơ nhất của văn hóa

68

dân gian ai cũng cảm nhận thấy. Thế mà có một thời chúng ta đã lãng quên. Hàng trăm các nghệ nhân theo thời gian lặng lẽ nằm xuống. Hàng trăm nghề truyền

thống lụi tàn, hàng trăm cổ vật như có cánh bay. Hàng trăm công trình sưu tầm,

công sức và tâm huyết của bao người bị mối xông thành đất. Ở một số vùng Tây

Nguyên hiện nay còn sắp mất hết cả những nét đặc trưng độc đáo nhất của văn hóa dân tộc. Tục uống rượu không còn vì những chiếc ché cổ ba bốn đời của ông bà

cũng bị đập vỡ. Chiêng Giarai, Êđê, Barna chảy thành máu trong các lò nấu đồng”

(Folklore Tây Nguyên: độc đáo và giàu có - còn chăng?) [7, tr.39]…

Nhà văn đau xót, tiếc thương và dự cảm: sẽ có một ngày những nét đẹp văn

hóa đó mất đi không bao giờ trở lại nếu không biết giữ gìn, bảo vệ nó trước sự tấn

công mãnh liệt của nền văn minh đô thị, của cơ chế thị trường. Bên cạnh đó, chị

cũng đã chỉ ra một vấn đề khá nhạy cảm đó là việc thay đổi tín ngưỡng đối với đồng

bào DTTS Tây Nguyên: “Ở những vùng theo đạo Thiên Chúa, bà con không còn

uống rượu cần, đánh chiêng” (Đi tìm hồn chiêng) [8, tr.13]; “Có vùng, người

dân tộc mới cải đạo, lễ vật tặng cho nhà thờ được coi là có giá trị nhất, đó là

chiếc chiêng đồng. Thậm chí có nơi, Cha xứ mua hẳn bộ chiêng về trưng bày

trong nhà thờ. Nhưng chính ở các vùng kinh tế phát triển, đặc biệt là những

vùng chuyên canh cà phê, thì lễ hội cổ truyền cũng hầu như vắng bóng. Nơi nào

có nhiều bà con theo đạo Tin Lành, lại càng khó tìm thấy bóng dáng văn hoá

dân tộc” (Mất - còn của văn hoá dân gian Tây Nguyên và vấn đề đào tạo đội

ngũ cán bộ văn hoá - tác giả người dân tộc tây Nguyên) [7, tr.238]. Chính vì sự

thay đổi và thiếu hiểu biết đó, những chiếc chiêng quý, trước đây là “tiếng nói

tâm linh của dân tộc”, “Những tiếng chiêng như có hồn, có lời thương lời nhớ,

lời mời gọi. Không chỉ những đứa con xa bến nước trở về, mà còn cả bè bạn,

anh em gần xa” (Lời chiêng Tây Nguyên) [8, tr.55] nay phải chịu số phận thật

hẩm hiu. Chị đã kể lại 2 câu chuyện khiến chị rất đau lòng. Câu chuyện thứ

nhất: “Mấy năm trước nhà mình có bộ chiêng đâu rồi ama Toan?/ Bán rồi, mua

gạo ăn./ Hồi xưa ông bà đổi trâu bò mới có được bộ chiêng Lào hay vậy. Sao

bây giờ lại bán?/ Bán trâu bò còn mua được tôn lợp nhà. Bây giờ không ai đem

đổi chiêng đâu./ Người kinh, người nước ngoài còn thích nghe chiêng, sao mình

lại không nghe?/ Hồi trước đánh chiêng là để gọi Giàng. Nhưng không có Giàng

đâu, chỉ có Chúa thôi”. Câu chuyện thứ hai: “Chị mua chiêng hả? Em đưa đi,

có hàng trăm chiếc, tha hồ lựa./ Ở đâu nhiều vậy?/ Đầu mối gom phế liệu mà…”

(Folklore Tây Nguyên: độc đáo và giàu có - còn chăng?) [7, tr.40].

69

Lễ hội không còn, chiêng quý không còn thì những chiếc ché amí từng ủ

rượu cần thơm men lá rừng đắng ngọt: “chỉ đủ làm nghiêng ngả để thấy người và

cảnh mỗi lúc một đẹp hơn” có còn không? Nhà văn viết: “Ở những bon xa của các

xã Thuận An, Đắc Mâm, Đắc Găn… tôi đã thấy những chiếc ché Yang Sung, Yang

Rlung… xưa kia phải đổi bằng cả mấy con trâu, nay bị vứt bỏ không thương tiếc

ngoài vườn, mặc cho mưa gội nắng thiêu. Thậm chí cũng chẳng được dùng để đựng

nước nữa” (Đi tìm hồn chiêng) [8, tr.14].

Cùng với việc “bán chiêng, đập ché đang phát triển thành một nạn dịch”, sự

xâm chiếm của văn minh đô thị với những đồ điện tử ùa vào buôn làng đã góp phần

làm cho nền văn hóa truyền thống bị lãng quên hoặc bị phai nhạt nhanh chóng. Những

điều tác giả tận mắt trông thấy ở các buôn làng khiến chị không biết nên buồn hay nên

vui: “Nhà gạch, nhà biệt thự hai ba tầng thay thế nhà dài Êđê. Nhà sàn Êđê xuất hiện

ở hầu hết các vùng Mnông. Nhà tường trình bằng bùn và rơm của trung du Bắc Bộ

hiện diện trong vùng Rngao … Nhiều nơi bà con bán vườn, bán đất cố làm cho được

căn nhà ván một gian hai chái kiểu Nghệ Tĩnh … Bây giờ thì khó mà tìm được đâu đó

một nhà Rông tre nứa, hay căn nhà dài Êđê, hoặc một mái tranh nhà vòm Mnông cổ

xưa. Mất mát và biến dạng tất cả rồi” (Đi tìm hồn chiêng) [8, tr.14]. Chỉ một đêm ở

lại Nam Nung, nhà văn cũng đủ giật mình nhận ra sự thay đổi đến khốc liệt:

“Chúng tôi lang thang đi tìm những nhà vòm mái tranh rủ sát đất, kiến trúc cổ xưa

của nhà Mnông. Nhưng hiếm lắm! Lác đác đâu đó chỉ còn những cái khung nhà, trơ

ra như bộ xương khô rùng mình trong nắng gió” (Đêm Nam Nung) [8, tr.89]. Nhà

văn xa xót: “Bạn cũng chẳng tìm đâu thấy những tượng nhà mồ biết khóc, biết

cười, biết trêu ghẹo, nhờ bàn tay tài hoa xoay chiếc xà gạc nhỏ tạo nên. Bởi chỉ còn

những nghĩa địa chắc chắn, xây bằng xi măng, với cây thánh giá đọ sức cùng nắng

gió” (Folklore Tây Nguyên: độc đáo và giàu có - còn chăng?) [7, tr.4 2].

Còn đối với các nghề thủ công truyền thống - niềm tự hào của các dân tộc

Tây Nguyên rồi sẽ đến lúc: “Nghề dệt cổ truyền ở Tây Nguyên đang mất đi theo sự

thu hẹp của những cánh rừng đại ngàn, theo lớp lớp những bao cà phê chất chồng

góc những căn nhà kiểu biệt thự, thay thế nhà sàn ở mọi vùng cao nguyên. Đời sống

kinh tế càng phát triển, nhu cầu xài đồ “xịn” cũng tăng lên. Các chủng loại vải vừa

đa dạng, vừa hợp thời trang, hợp túi tiền, đẩy thổ cẩm dệt tay tốn công sức, mất

thời gian, thô ráp lùi dần vào quá khứ. Trang phục dân tộc, may lắm, sẽ còn trong

70

những lễ hội. Mà lễ hội có còn không, khi sản xuất không còn phụ thuộc vào quyền

lực của các Yang? Cả đến tín ngưỡng cũng đã đổi thay” (Đi về đâu hỡi… thổ cẩm

Tây Nguyên) [7, tr.30]. Cũng chính vì thế mà dẫn đến sự trớ trêu, sự khôi hài khi:

“Ở liên hoan Văn hóa cồng chiêng và đua voi Tây Nguyên tổ chức tại Buôn Ma

Thuột tháng 3 năm 1994, khi ban tổ chức ra quyết định dân tộc nào phải mặc đúng

trang phục dân tộc ấy thì đoàn Răk Lay (Khánh Hoà) không có trang phục dân tộc,

bởi cả những người già đếm số mùa rẫy như cây trong rừng, cũng không còn nhớ

nổi trang phục cổ truyền của mình hình dạng ra sao? Màu sắc thế nào? Nhóm dân

tộc Brâu (Kon Tum), đến liên hoan với trang phục là những chiếc… bao tải gạo

loại 50kg”; “Lễ bỏ mả của một dòng họ lớn người Êđê, họ Niêkdam và Êban, tại

buôn Sut (Cư Mgar - Đăk Lăk), tháng 11 năm 1994 nghe nói có khách xa đến dự,

con rể lớn phải đi 11km mới mượn được bảy bộ áo khố nguyên gốc mặc trong lễ”

(Đi về đâu hỡi… thổ cẩm Tây Nguyên tr.28) [7, tr.28].

Chứng kiến những cảnh ấy, chị đau đáu một niềm khắc khoải: “Nhà dài “như

một tiếng chiêng” hết rồi, còn chỗ nào để đặt chiếc kpan hình con thuyền độc mộc?

Những tộc người có hàng chục bản trường ca như sử thi, bộ luật tục thành văn, bộ gia

phả văn vần… mà con cháu lớn lên mù chính chữ mẹ đẻ cha sinh. Làm gì để bảo tồn và

phát triển truyền thống văn hóa tồn tại trong dân gian từ bao đời nay vẫn đang luôn bị

đặt trước nguy cơ tàn lụi?” (Folklore Tây Nguyên: độc đáo và giàu có - còn chăng?)

[7, tr.42]. Từng lời văn H’Linh Niê viết ra như ứa máu, xoáy sâu vào lòng độc giả

những câu hỏi cháy lòng. Chị buộc chúng ta phải nhìn nhận lại, phải có ý thức trách

nhiệm với cộng đồng, với văn hóa dân tộc không phải riêng trên quê hương chị mà ở

khắp mọi miền của Tổ quốc. Bên cạnh đó, chị còn đanh thép tố cáo bộ mặt giả dối,

phản lại Tổ quốc, phản lại đồng bào Tây Nguyên của ông Ksor Kơk - đứa con lạc loài,

từng chối bỏ dân tộc nay lại trở về kích động nhân dân làm điều xấu, phá hoại khối đại

đoàn kết, phá hoại nền văn hóa truyền thống của các cộng đồng dân tộc Tây Nguyên:

“Một đứa con bỏ amí già và quê hương không ngó ngàng gì đến, đi biệt xứ 40 năm

nay như ông, một người khuyến khích toàn thể cộng đồng mình từ bỏ truyền thống văn

hóa của ông bà ta xưa - kẻ vi phạm luật tục - Tơlơi bhian của dân tộc Jrai - có quyền

gì ? Nhân danh ai mà dám gây nên những xáo trộn trong đời sống buôn sang, đòi hỏi

quyền lợi cho người dân tộc thiểu số Tây Nguyên (trong đó có cả mẹ và các em ông)

chứ ? (Nhân danh ai ?) [11, tr.18].

71

Cũng từ những nỗi niềm tiếc nuối, xót xa, chị khẩn thiết kêu gọi, nhắn nhủ mọi

người dân Tây Nguyên hãy giữ lấy linh hồn dân tộc, hãy giữ lấy bản sắc dân tộc, quyết

không theo kẻ xấu mà xóa bỏ, chà đạp lên bản sắc văn hóa quê hương: “Ơ này những

ama, ami, ayong, amai, adei mình ơi. Cái ché chỉ là vật dụng trong nhà, chứ đâu có tội

gì để mà vứt bỏ nó? Hơn nữa, rượu cần của Tây Nguyên, cũng như bộ chiêng, không

chỉ là đặc sản, là một nhạc cụ độc đáo, được bạn bè trong và ngoài nước yêu thích, mà

còn là chính mình, của riêng mình, khác với người anh em miền xuôi là ở đó. Ngay cả

những “Klei khan - H’amon - Ot n’trông” cũng chỉ mới thấy người miền núi chúng ta

có. Sao không tự hào về điều ấy? Một dân tộc sẽ tự đánh mất chính mình khi đem vùi

chôn văn hoá cổ truyền đó. Lẽ nào chúng ta cam chịu để mất mình ư?” (Đi tìm hồn

chiêng) [8, tr.19]; “Thôi nhé, xa rồi cái thuở, tiếng hát của những dàn chiêng biến

thành tiếng khóc, khi bị hoá thành đồng nát, những chiếc ché cổ trị giá ngang vài chục

con trâu bị đập vỡ tan tành giữa rừng. Dù có theo đức tin nào, tôn thờ Thánh thần nào,

thì những gì đẹp nhất, hay nhất của cha ông ta gửi lại, cũng phải giữ gìn lấy. Không

chỉ cho chúng ta hôm nay, mà cho cả cháu con mai sau và mãi mãi. Có phải vậy không

ơi ama, amí, ayong, adơi? (Diệu kỳ Pleiku) [8, tr.85].

Các sáng tác văn xuôi của Linh Nga Niê Kdam không chỉ thể hiện những dự

cảm về sự mất mát, phai nhạt của bản sắc văn hóa quê hương mà còn thể hiện nỗi

niềm đau đớn, xót xa về sự tổn thương nghiêm trọng của môi trường sống, môi

trường thiên nhiên ở vùng cao Tây Nguyên này. Trong nhiều tác phẩm truyện - ký

của mình, chị đã đề cập đến vấn đề này một cách đầy tâm huyết. Chị nhấn mạnh:

môi trường thiên nhiên bị tàn phá, xâm hại, điều đó ảnh hưởng không nhỏ tới đời

sống con người và tác động xấu đến việc bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc. Môi

trường thiên thiên bị tổn thương, bị xâm hại nặng nề, các giá trị văn hóa truyền

thống không có không gian để tồn tại. Không còn núi rừng, nhà sàn dài Êđê, nhà

tranh mái lợp rủ dài sát đất có còn không? Không còn núi rừng, âm thanh cồng

chiêng vang vọng làm sao? Không còn núi rừng, lấy đâu bông cây Blang dệt tấm áo

thổ cẩm năm xưa? Còn đâu lễ hội, điệu múa, vòng xoang? Còn đâu những ngọn núi

để trai gái buôn làng hò hẹn, thổi sáo, thổi kèn? Còn đâu những con suối nước chảy

róc rách, ngân nga, khi chiều về nâng tấm váy dài em tắm? … Môi trường vùng cao

đang bị hủy hoại, đang bị làm biến dạng bởi sự khai thác tới mức tận diệt của con

người: “Đêm, mang cưa ra cưa cho gần đứt gốc, rồi để nguyên đó. Sáng ra, chỉ cần

một cơn gió mùa khô là cây đổ hàng loạt ngay trước mắt kiểm lâm. Nào có bắt

được ai là kẻ phá rừng đâu? Nhà cũng làm sẵn cột kèo ở đâu đó, tối chỉ việc hè

72

nhau dựng lên. Sáng ra đã có căn nhà khang trang sừng sững ngay bên đường”;

“Đồng bào di dân tự do ở huyện Krông Nô (Đăk Lăk) còn dặn nhau: “Rừng lộn

xộn cứ chặt tự nhiên, rừng có hàng chớ chặt (?)” chớ dọc hai bên quốc lộ 14, người

ta chặt ráo cả rừng có hàng (rừng trồng mới)” (Du xuân Tây Nguyên) [7, tr.64].

Trước đây, “Thuở rừng già còn bao bọc lấy cư dân Tây Nguyên, đàn voi là

một trong những biểu tượng cho sự giàu có của các tù trưởng oai phong lẫy lừng,

là phương tiện di chuyển cao cấp nhất từ cánh rừng này sang khu rừng khác cho dù

xa hay gần”. Nghề săn bắt, thuần dưỡng voi với đủ những phép tắc chuẩn mực đã

được nâng lên thành tầm văn hoá tâm linh: voi “sau khi được bắt từ rừng về, thuần

dưỡng xong, chủ nhà phải làm lễ cúng đặt tên cho voi. Từ đây, voi chính thức được

coi như một thành viên trong gia đình. Hàng năm phải có lễ cúng sức khỏe cho voi,

đối đãi như với người cao tuổi trong nhà”. Voi buôn Đôn dũng cảm, oai hùng, một

thời cùng con người bảo vệ đất nước đã trở thành “thương hiệu” của non ngàn Tây

Nguyên. Nhưng ngày nay, “rừng đều do các lâm trường chia khu vực quản lý hết,

quanh buôn Đôn là thuộc địa phận Vuờn Quốc gia Jook Đôn, chỗ thì bị lâm tặc và dân

di cư tự do chặt phá tan hoang, nguồn thức ăn tự kiếm của voi ngày một cạn kiệt”. Vì

thế, Voi không thể tự kiếm ăn trong môi trường thiên nhiên hoang dã, lại luôn luôn bị

kẻ xấu rình rập, cố tình bắn chết để lấy ngà. Số phận voi đi vào bế tắc khi không còn

rừng, cũng không còn cần thiết trong việc phục vụ nhu cầu đời sống của con người khi

các phương tiện di chuyển hiện đại xuất hiện, voi bỗng dưng thành thừa nếu không

tham gia dịch vụ du lịch. Giờ đây, “Voi ở quanh các khu du lịch Buôn Đôn, Hồ Lăk …

bị đem ra khai thác triệt để, không mấy khi được nghỉ ngơi”; ngày thì voi đưa khách lội

qua sông du lịch, “đêm xuống, những kẻ chuyên nghề phá rừng lại nghĩ ra chiêu tận

dụng đàn voi để kéo gỗ từ rừng sâu đến nơi tập kết, thay cho xe kéo dễ bị kiểm lâm

phát hiện”. “Những chú voi thì vẫn nhẫn nại đón đưa khách, âm thầm kéo gỗ lậu và

ngóng đợi tiếng tù và âm vang giữa đại ngàn của nài mỗi tháng ba về”. Thậm chí vào

mùa, voi cũng có nỗi nhớ và khát khao bạn tình nhưng không bao giờ được chú ý đến.

Rừng đã lùi xa, ngay cả nghề săn bắt, thuần dưỡng voi đầy kiêu hãnh của những Bặc

Xay (danh hiệu của người săn bắt được từ 5 voi trở lên), Bặc Gru (danh hiệu của người

săn bắt được từ 15 voi trở lên) của một vùng có bề dày văn hóa truyền thống cũng vì

môi trường bị tàn phá mà mai một dần và mất hẳn: những Bặc Xay, Bặc Gru “oai

phong lừng lẫy như cây đại thụ thuở nào, nay ngày ngày quanh quẩn trong Vườn quốc

gia cho du khách chiêm ngưỡng và trò chuyện, như một trong những … hiện vật trưng

bày” (Hợp tác xã voi … sao không?) [11, tr.145].

73

Những vấn đề nhà văn Linh Nga Niê Kdam viết với niềm tiếc thương, xa xót

ấy khiến chúng ta nhận ra niềm khát khao đau đáu của chị - người con của Tây

Nguyên, nhà văn hóa Tây Nguyên - về việc gìn giữ, bảo vệ “nguồn di sản” tinh thần

quý giá đó: “Mong sao những phong tục đẹp, những nét độc đáo của văn hóa cổ

truyền được bảo tồn, phát huy và truyền lại cho con cháu muôn đời sau, cho tiếng

chiêng Tây Nguyên mãi mãi bay cao, bay xa trong xanh cao thăm thẳm của bầu trời

cao nguyên bao la” (Lời chiêng Tây Nguyên) [8, tr.62].

Tiểu kết chương 2

Qua việc khảo sát những nội dung chính trong các sáng tác văn xuôi của

Linh Nga Niê Kdam, chúng tôi nhận thấy: nhà văn đã tập trung ngòi bút để thể hiện

tình yêu, lòng tự hào về vùng đất Tây Nguyên hùng vĩ, tươi đẹp và những phong tục

tập quán đậm đà bản sắc văn hóa cao nguyên; về những con người Tây Nguyên

khỏe khoắn, dũng cảm, tài hoa, luôn chung vai sát cánh bên nhau để xây dựng bản

làng với niềm khao khát khao đổi thay cuộc sống ngày càng no ấm, tốt đẹp hơn.

Bên cạnh đó, những tác phẩm của chị cũng đã chú ý đến việc phản ánh một cách

chân thực, cụ thể về những khó khăn thách thức, những mặt hạn chế, những khoảng

tối, những mặt trái… của cuộc sống vùng cao cùng những băn khoăn, day dứt, xót

xa… trước sự phai nhạt, mất mát, đổi thay về bản sắc văn hóa và sự tổn thương

nghiêm trọng về môi trường thiên nhiên, môi trường sống. Những trang văn của chị

còn bộc lộ nỗi buồn về sự xuống cấp của lối sống, của đạo đức, nhân cách… ở

những con người nơi đây trong thời kì cơ chế thị trường đang tồn tại cả điểm mạnh

và những hạn chế, tiêu cực của nó. Nhà văn đã dũng cảm nhìn thẳng vào hiện thực,

phê phán cái xấu, cái ác một cách nghiêm khắc; từ đó gióng lên một hồi chuông

cảnh báo: hãy giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống đẹp đẽ của

dân tộc, hãy giữ lấy nhân phẩm, đạo đức… của con người; đừng để con người bị tha

hóa, bị biến chất. Tuy số lượng tác phẩm không thật đồ sộ, đôi chỗ trình bày ý

tưởng còn dài dòng, trùng lặp nhưng các trang văn của chị đã đem lại cho người đọc

những hiểu biết sâu sắc, thú vị về mảnh đất, con người, về cuộc sống trên quê

hương chị và đã góp phần tôn vinh những giá trị văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các

dân tộc Tây Nguyên. Đó là những điều thành công đáng ghi nhận của nhà văn Linh

Nga Niê Kdam.

74

Chương 3

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ NGHỆ THUẬT

3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật đậm chất Tây Nguyên

Ngôn ngữ trong tác phẩm văn học là một loại hình ngôn ngữ đặc biệt. Mặc

dù lấy ngôn ngữ nhân dân làm cội nguồn nhưng ngôn ngữ trong tác phẩm văn học

đã được nhà văn chọn lọc, rèn giũa qua lao động nghệ thuật trở thành ngôn ngữ

nghệ thuật. Vì thế, ngôn ngữ nghệ thuật bao giờ cũng có tính hình tượng, tính thẩm

mĩ và thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn. Đồng thời ngôn

ngữ nghệ thuật góp phần bộc lộ giá trị nội dung, làm nổi bật bức tranh hiện thực

cuộc sống của tác phẩm, làm phong thú và nâng cao vốn ngôn ngữ dân tộc. Điểm

đáng chú ý là, ngôn ngữ nghệ thuật của mỗi loại hình nghệ thuật, mỗi tác phẩm văn

học, mỗi nhà văn khác nhau lại chịu sự ảnh hưởng của điều kiện sống, văn hóa vùng

miền bởi các nhà văn thường lấy chính chất liệu ngôn ngữ, cách sử dụng ngôn ngữ,

cách thể hiện của chính dân tộc mình vào sáng tác. Điều đó đã làm nên những màu

sắc riêng biệt, độc đáo, đậm đà bản sắc dân tộc và sức cuốn hút của các tác phẩm

văn học. Như vậy, ngôn ngữ nghệ thuật chính là chiếc cầu nối giữa tác giả với bạn

đọc, ngôn ngữ nghệ thuật còn là phương tiện thể hiện một cách chính xác, hàm súc,

đa nghĩa, tạo hình, biểu cảm hình tượng văn học và bản sắc văn hóa dân tộc.

Nhà văn Linh Nga niê Kdam là một người rất yêu quý, tự hào về nguồn cội,

luôn có ý thức giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc nên chị rất chú trọng đến

cách biểu đạt, cách sử dụng ngôn ngữ và cách tân, sáng tạo ngôn ngữ dân tộc trong

sáng tác của mình để độc giả vừa có thể nắm bắt được nội dung tác phẩm lại vừa có

thể nhận thấy những giá trị văn hóa đẹp đẽ và bản sắc dân tộc không thể trộn lẫn

trong mỗi trang văn. Có thể nói, ngôn ngữ nghệ thuật trong sáng tác của Linh Nga

Niê Kdam là ngôn ngữ nghệ thuật đậm chất Tây Nguyên.

3.1.1. Ngôn ngữ nghệ thuật đậm dấu ấn dân tộc

Trước hết, đọc các tác phẩm của Linh Nga Niê Kdam độc giả đều cảm nhận

rõ về việc nhà văn sử dụng một lớp ngôn ngữ dân tộc đậm đặc nhưng hết sức tự

nhiên, linh hoạt trong sáng tác của mình. Dù các tác phẩm truyện - ký của chị đều

viết bằng tiếng phổ thông nhưng chị đã rất khéo léo đưa ngôn ngữ DTTS Tây

Nguyên vào những lời văn tả, kể. Chị đan xen ngôn ngữ dân tộc vào văn uyển

chuyển đến mức khi tiếp cận tác phẩm, độc giả nghiễm nhiên chấp nhận nó như là

một tất yếu, không cần xem chú thích mà vẫn thấy được cái hay cái đẹp mà nó

75

mang lại. Trong các trang văn xuôi của chị, ta bắt gặp một hệ thống từ vựng bằng

ngôn ngữ dân tộc gắn liền với các tên địa danh, tên núi, tên sông, tên buôn làng, bến

nước, tên hoa lá, chim muông… Đâu đâu trên khắp mọi nẻo đường nhà văn chắp

bút ta đều thấy những cái tên tuy lạ lẫm xa xôi nhưng rồi lại rất đỗi thân thương.

Đây là tên những ngọn núi sớm chiều chìm trong sương trắng: núi Cư Yang Sin,

Lang Biang, Cư H’Lâm, Cư H’Rung, Cư Rbai, Cư Par, Tu M’rông, Cư M’gar, Cư

Suê, Cư Gu, Cư Drăng, Cư Rcăm, Cư Ngọc, Đăk Rế, Đăk Môm…; tên các con suối,

con sông, con thác luôn ầm ào chảy, ca hát giữa rừng già: suối Ea Bha, Ea Pôk, Ea

Nhay, Ea Siăr, Đăk Kar, thác Ia Ly, thác H’Linh, thác Drei Sap… sông Sêrêpôk,

sông Ayun, sông Pa… cùng những bến nước, buôn làng bình yên, thơ mộng: bến

nước Ea Sin, Ea Suop, Ea Pôk, Ea Knăt, Su Man,… buôn Ma Thuột, buôn Đôn,

buôn Nui, Yang Lang, Dliê Ya, Yung, Kó Siêr, Păn Lăn, Hruê, Sa Ra,… bon Pu

Dâp, Pu Sri, Pu Hara…. Còn đây là tên các xã: Đăk Nhoong, Đăk Rva, Đăk Blao,

Ia Puch, A Yun, Ea Bhôk, Ea Khit…; tên các huyện: Vân Canh, Krông Nô, Krông

Pa, Ayun Pa, Krông Ana, Nam Nung, Lawk…; tên các tộc người: Rngao, Xê Đăng,

Êđê, Mnông, Banar, Hrê, Jrai, Mạ, K’ho…; tên các loài cây cối, hoa lá, chim

muông: cây Blang hoa đỏ mùa hè bông trắng mùa đông, cây Knia bóng tròn sừng

sững, cây Xànu vững vàng, cây Cà phê xanh mát, cỏ Kmâo khẳng khiu khô khỏng;

hoa Mnga phí khe khẽ đung đưa, hoa Dã Quỳ rừng rực giữa mùa mưa, hoa Tăng pi

gửi hương cho gió, hoa Êpang trắng, hoa K’truôl fang tím, hoa Mnga Krich mỏng

manh; chim Tlang put, chim Ktrâo, chim Mling, chim Kơtia, chim Mlang ríu rít mỗi

xuân sang; ve Wai jut Wai tê chao chát gọi hè về … Tên tất cả các địa danh, các loài

chim muông, cây cối ấy đều mang dấu ấn Tây Nguyên, gợi liên tưởng về một không

gian núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ, đẹp đẽ, thơ mộng, đầy cuốn hút và kích thích trí

tò mò của người đọc.

Hệ thống từ vựng của ngôn ngữ dân tộc còn được nhà văn sử dụng liên tiếp

khi nhắc đến tên các vị thần, tên người, tên đồ vật, tên các nhạc cụ truyền thống,

cách thức xưng hô cùng các phong tục, tập quán… trong đời sống tinh thần của con

người Tây Nguyên. Các vị thần trong tín ngưỡng người dân Tây Nguyên có mối

quan hệ chặt chẽ với mọi sinh hoạt của cộng đồng dân tộc: nữ thần lúa Yang Hri,

thần gió Yang Kngin, thần nước Yang Ea, thần đất Yang Êlăn, vua lửa Ptao Pui, vua

nước Ptao Ya … Cùng với các vị thần, những con người sống trên cao nguyên đều

có tên riêng rất đẹp, phần lớn cha mẹ đặt tên con theo tên các vị thần. Ta vốn đã rất

quen thuộc với tên những con người đó trong các bộ sử thi đồ sộ của Tây Nguyên.

76

Tên các cô gái giỏi giang, xinh đẹp: HNhi, HBia, H’Sri, H’Nuai, H’Mai, H’Linh,

H’Rinh, H’Rao, H’Ny…; tên các chàng trai mạnh khỏe, bản lĩnh: Đam San, Y Thu,

Y Tam, Y Min, Y Khăm, Y Blum …. Ngay cả con voi đã được thuần hóa, trở thành

người thân trong nhà cũng có tên của mình: Y Trut, Y Thi, Y Dham, HBiăt…. Cách

xưng hô thân mật giữa các thành viên trong gia đình được nhà văn sử dụng để tạo

không khí, nhấn mạnh quan hệ gần gũi, chân thực giữa các nhân vật: Amí (mẹ),

Ama (bố), Aduôn (bà), Amuôn (cháu), Dăm dei (anh em trai của mẹ), Ih (anh, ông)

… Rồi nhà văn còn cung cấp cho ta hiểu biết về cách gọi tên những người giữ các

chức vụ quan trọng trong buôn làng: Mtao (tù trưởng), Khua pin ea (chủ bến nước),

Khua buôn (chủ buôn), Khua yang sang (chủ gia đình), Miâo (thầy cúng), Pô riu

yang (người khấn gọi thần linh), Bặc xay, Bặc Gru (dũng sĩ săn bắt và thuần dưỡng

voi)…; các luật tục ở Tây Nguyên cũng được nhắc tới: Cuê nuê (nối dây), Pơ thi

(bỏ mả)… Tên những con người cụ thể ấy gắn với các vật dụng sinh hoạt, nghi lễ và

các phong tục tập quán làm nên một phong vị cao nguyên đặc biệt của một cộng

đồng giàu bản sắc văn hóa. Để tô đậm màu sắc Tây Nguyên, nhà văn nhắc đến

nhiều lần tên các đồ vật biểu tượng cho văn hóa tộc người : chiếc Jhưng (giường

độc mộc dành cho chủ nhà), Wăng Wit (cuốc nhỏ làm cỏ), apăn, kpin, knuky (chăn,

áo, khố nam), m’yêng (váy dài phụ nữ), cột kmeh (cột chính đầu tiên của nhà dài),

cột gơng klao (cột ngoài nhà mồ)…; tên các ché đựng rượu: ché yang rang, yang

suh, ché tuk, ché tang …; tên các loại nhạc cụ: đàn goong, kèn đinh tăk tar, kèn

đinh năm, đinh buôt cok, đinh tút, tăk tăk …; tên các loại chiêng: chiêng Por raih,

chiêng Kur, chiêng Khok, chiêng Knah, chiêng Char …; tên các lễ hội: Lễ hội ăn

năm uống tháng, Lễ hội Tăm Nghét, Lễ hội đâm trâu, Lễ hội xoay cột cầu mùa, Lễ

ăn cơm mới, Lễ Pơ thi (bỏ mả)…; tên các làn điệu, câu hát dân ca: câu arei, câu

k’ưt munh, câu adoh, adây, điệu ntông, điệu srê, điệu k’ho, điệu múa chim grứ, điệu

múa pah kngan rông yang… Việc Linh Nga Niê Kdam đưa những tên riêng mang

sắc thái dân tộc thiểu số vào văn chương có hiệu quả nhất định. Nó xác lập trước

mắt độc giả một không gian văn hóa đặc biệt ấn tượng, làm nên nét riêng của đời

sống con người Tây Nguyên, tạo nền tảng cho những ý tưởng sáng tạo về đồng tộc

của nhà văn thăng hoa và góp thêm một nét hoa văn đẹp vào tấm thổ cẩm rực rỡ sắc

màu của các dân tộc trên một dải nước non đất Việt.

Giống rất nhiều các nhà văn DTTS khác, Linh Nga Niê Kdam cũng sử dụng

lối viết sóng đôi giữa hai loại ngôn ngữ: ngôn ngữ dân tộc Việt và ngôn ngữ DTTS

Tây Nguyên trong cùng một tác phẩm. Việc đưa ngôn ngữ mẹ đẻ vào tác phẩm của

77

các nhà văn DTTS đều hướng tới hai mục đích: vừa biểu hiện được tính dân tộc,

vừa chuyển tải được ý thức, trách nhiệm giữ gìn, bảo tồn tiếng nói quê hương. Ta

bắt gặp trong nhiều truyện ngắn, nhà văn Linh Nga Niê Kdam thỉnh thoảng xen

nguyên văn ngôn ngữ dân tộc vào lời đối thoại của các nhân vật để khắc họa cá tính

nhân vật và thể hiện đặc điểm riêng trong cách nói của con người nơi đây. Tất cả

các đoạn đan xen ngôn ngữ đó đều được nhà văn thực hiện một cách nhuần nhụy, tự

nhiên, gây ấn tượng. Ví dụ như: kể về tâm trạng của nhân vật Amí Nu lúc chị đang

đấu tranh giành giật sự sống trên giường bệnh vì lo cho chồng và cho con khi mình

phải về “bến nước ông bà”, nhà văn viết: “Chúa ơi! Các Yang ơi! Xin thương lấy lũ

trẻ nít được không? Người nam thiếu người nữ đã khổ lắm, người già đã từng nói:

“Hoă êsei amâo amâo djam, pit mlam amâo mâo mni” (ăn cơm không có canh như

ngủ đêm không có gái) đó sao. Lũ con nít đêm thiếu hơi ấm của mẹ còn khổ hơn nhiều

chồng ngủ không có vợ chứ?” (Ngày chúa đi vắng) [12, tr.19]. Hay, đoạn văn kể về

việc để hoàn thành sứ mệnh khai hóa của Giáo hội Pháp quốc và chiêu nạp được

nhiều con chiên ở vùng cao nguyên trung phần, cha Antonin đã phải tìm hiểu thật

sâu văn hóa bản địa, học tiếng dân tộc để giao tiếp nhằm rút ngắn khoảng cách, tạo

thuận lợi cho việc truyền đạo; vì thế khi nói chuyện với vợ chồng Ama Mlan về

việc trồng cà phê, ông đã sử dụng tiếng dân tộc để gây thiện cảm: “Cây giống trong

vườn ươm của nhà xứ đó rồi. Mấy anh em bảo nhau đào hố đi cho kịp, mưa tới là xuống

giống luôn. Jăk mơh hẹ? (được không?)” (Thung lũng Yang Hruê) [12, tr.139]. Cuộc

trò chuyện của hai người bạn cũ lâu ngày không gặp (một người là lính khố xanh,

một người là y sỹ Đông Dương ở Sài Gòn mới về) bắt đầu từ những lời đối thoại

bằng ngôn ngữ dân tộc rất thân mật: “Y Blum cắt cử và kiểm tra một vòng các điểm

gác xong, đã quá chín giờ tối. Anh vừa tắm rửa ngoài bến nước dành cho đàn ông

về, còn đang vừa bước lên sàn vừa lau tóc, thì nghe có tiếng ai đó gọi: Ơ Y Blum!

Wit ka (về chưa)? / Ơh! Kâo wit leh. Hlei iêo? (Tôi về rồi. Ai đó?) / Kâo (Tôi)! Y

Ngun!” (Con đường đã chọn) [12, tr.180]. Y Tlang là đứa con lưu lạc phải rời xa

bến nước buôn sang từ khi còn tấm bé, nay mới từ Pháp trở về tìm lại cội nguồn.

Anh và cô bạn trẻ HZen đã tìm hoài nhiều ngày mà không thấy, hôm nay may mắn

họ gặp được một người già bản địa cùng buôn xưa. Để tạo sự gần gũi thân thiết

tiện cho việc hỏi thăm, HZen đã thay YTlang bắt chuyện với ông già bằng tiếng

dân tộc: “Ti ih nao ? (Ông đi đâu vậy? (…) Ti anôk buôn? (Ông ở buôn nào?)”.

Còn ông già khi kể về hoàn cảnh của Y Lang lúc thơ bé đã thốt lên đau xót: “Păp

mnãi cái thằng! (Tội nghiệp cái thằng!)” (Tìm về bến nước) [6, tr.51]. Trong lời tỏ

78

tình vội vàng của Y Kơi với cô gái xinh đẹp HDung trên đường đi bẻ bắp trước khi

hắn muốn thực hiện ý đồ chiếm đoạt, tác giả đã đan cài ngôn ngữ dân tộc vào lời

nói của Y Kơi để làm tăng thêm sự khẩn khoản của nhân vật: “HDung ơi! Dung ơi!

Kao khăp adei! Kao khăp … (Tôi yêu em)” (Gió vẫn thổi từ rừng) [6, tr.65]. Diễn

tả niềm vui hồn nhiên, nhí nhảnh của H’Lâm khi người yêu của cô đã đến, tác giả

lồng ngôn ngữ dân tộc vào cả tiếng chim hót: “Tiếng chim mlinh nheo nhéo “Ti nao

mrâo wit, Ti nao mrâo wit?” (Đi đâu mới về?) báo tin sự có mặt của Y Nhay. Con

chim lúc nào cũng kè kè đậu trên vai anh, mắt chưa nhìn thấy người tai đã nghe

thấy tiếng chim hót. H’Lâm ngước mắt lên vui vẻ nhành miệng ra nhại giọng chim:

“Ih đi đâu mới về”…” (Chiếc bầu nước của HLâm) [9, tr.189]. Sử dụng lối viết

sóng đôi hai loại ngôn ngữ trong cùng một tác phẩm của các nhà văn DTTS, Linh

Nga Niê Kdam không phải là người đi tiên phong; nhưng dù sao, việc đưa nguyên

vẹn câu từ của đồng bào dân tộc Tây Nguyên vào sáng tác của mình, nhà văn cũng

đã đạt hiệu quả mong muốn. Chị đem được hồn cốt dân tộc, hơi thở Tây Nguyên

thổi vào trên mỗi trang văn.

Không chỉ đan cài nguyên vẹn hệ thống từ vựng, câu chữ đối thoại bằng

tiếng dân tộc vào tác phẩm mà nhà văn còn sử dụng cách diễn đạt giản gị, dân dã,

trong sáng, bộc trực của chính người Tây Nguyên trong lời văn của mình. Việc sử

dụng và diễn đạt ngôn ngữ dân tộc như thế góp phần làm nổi bật đặc điểm tính

cách, lối sống, phương thức cảm nhận đời sống của đồng bào nơi đây. Thành công

của Linh Nga Niê Kdam là sử dụng ngôn ngữ dân tộc và cách diễn đạt theo kiểu tư

duy dân tộc đạt được độ chính xác, độc đáo, đúng lúc, đúng chỗ.

Để thể hiện tính cách con người Tây Nguyên, nhà văn đặt nhân vật của mình

vào tình huống cụ thể buộc phải biểu hiện cảm xúc. Điểm chung của người Tây

Nguyên trong văn xuôi Linh Nga là khi biểu đạt suy nghĩ, cảm xúc, họ thường thêm

các thán từ vào câu nói, hoặc mượn các câu thành ngữ, tục ngữ dân gian giàu hình

ảnh để nói thay ý nghĩ của mình. Nếu người Kinh lúc thảng thốt hoặc đau xót

thường bật lên câu nói: Trời ơi! Ôi! thì người Tây Nguyên thốt lên là: Ơ buith! Ơ

Yang! Ơ Yàng! Yang á! Ơ ơh! Ôi chà! Úi da!... và cuối mỗi câu nói, câu hỏi thường

là: ừ hé, ừ há, chứ hè… Trong tác phẩm Dòng sông tóc, người mẹ già “suốt đời

quẩn quanh với khung dệt, nương rẫy và chia bôi lương thực cho cả chục bếp lửa

trong căn nhà dài” đã tinh ý nhận ra con gái mình đang dằn vặt đau khổ “cứ ngồi

lặng khuya hàng đêm bên bếp lửa” bởi chị đã có gia đình mà trái tim vẫn đổi nhịp,

79

gửi trao tình yêu cho người đàn ông khác; vì thương con nên mẹ đã thủ thỉ khuyên

ngăn: “Con gái ơi! Chim khôn lo giữ tổ cho mình. Nai khôn không lạc bước sang

rừng lạ đâu con ạ!” (Dòng sông tóc) [6, tr.121]. Người mẹ đã mượn câu nói dân

gian giàu hình ảnh để diễn tả lời khuyên ngăn con phải sống đúng đạo nghĩa vợ

chồng, tránh không vi phạm chuẩn mực đạo đức gia đình, không lạc bước để rồi đau

khổ. Lời nói của mẹ vừa dễ nghe, vừa thấu tình đạt lý mà vẫn chuyển tải được đầy

đủ ý nghĩa. Chắc chắn nó hay hơn và có giá trị thuyết phục hơn nhiều so với một lời

khuyên dạy trực tiếp thông thường. Tương tự như vậy, nhà văn dùng rất nhiều câu

thành ngữ, câu nói dân gian quen thuộc trong đời sống con người Tây Nguyên để

biểu đạt ý nghĩa cần nói của mình một cách sáng tạo, có dấu ấn phong cách riêng.

Trong tác phẩm Thung lũng Yang Hruê, khi Ama Mlan bị thủ lĩnh Pulrô cho người

tới ép, bắt ông phải nổi dậy giành lại “cái lưng” ông bà, ama Mlan đã khẳng khái từ

chối: “Mấy ông muốn gạo, cần thuốc bệnh tui sẽ cho! Nhưng chỉ một lần này thôi,

không có lần sau đâu đó. Tiền tui kiếm cho vợ con tui cũng là mồ hôi, sức lực tui,

chứ không phải lá nhặt trong rừng, đá lượm dưới suối, không dễ đem cho không

mấy người đâu” (Thung lũng Yang Hruê) [12, tr.169]. Việc vận dụng những câu

thành ngữ, tục ngữ dân gian vào lời nói nhân vật được nhà văn sử dụng rất đắc dụng

và linh hoạt. Có thể kể thêm một số ví dụ: Y Tam nói về sự khó nắm bắt trái tim và

tình yêu của H’Sry trong Srêpôk sáng nay yên tĩnh: “em như là cơn gió, sao có thể

nắm giữ được trong tay”; nói về sự dè bỉu của dân làng đối với H’Thai khi chị mới

lên làm chủ tịch xã trong Con đường đã chọn: “cáo mượn oai hùm”; nói về sự kiên

trì truyền đạo của cha Antoni trong Thung lũng Yang Hruê: “mưa lâu thấm đất”;

cô bạn thân trong Dòng sông tóc chê bai sự yếu ớt của loại đàn ông không đáng để

phụ nữ lấy làm chồng: “èo uột như tàu chuối hơ lửa”, “yêu đương bằng cả mồm

mép lẫn chân tay”; Y Rít nghĩ về người con trai èo uột xấu xí của tù trưởng: “cây

lim mục vẫn là gỗ lim”; câu nói khinh miệt của cha H’Linh đối với Y Tam trong

Cầu vồng lung linh: “gà rừng không thể sánh với công, chim fông không thể sánh

với quạ”; Amí Nu thấy mình mất đi là sự khó khăn, thiệt thòi lớn đối với chồng

trong Ngày Chúa đi vắng: “ăn cơm không có canh như ngủ đêm không có gái”;

ông bà đã khuất trở về trong lễ Pơ thi nhắc nhở Suzana hãy giữ cho Y Khoan đừng

quên đi truyền thống khi phải rời xa cánh tay mẹ: “con chim ngói tìm theo nắng,

con chim két tìm theo gió mà bỏ tổ”, “khi uống rượu ngon nó quên, lúc ăn trâu

uống heo nó không nhớ đến bố mẹ đẻ” (Pơ thi mênh mang mùa gió) …

80

Ngôn ngữ nghệ thuật trong văn xuôi Linh Nga Niê Kdam còn độc đáo ở chỗ

chị luôn xuất phát từ lối tư duy dân tộc theo kiểu trực giác và cảm tính, cụ thể hóa

những cái trừu tượng để thể hiện một cách chân thực, sinh động nhất về con người

Tây Nguyên. Mỗi khi cần biểu lộ nội tâm hay thái độ trước các sự kiện, người dân

tộc Tây Nguyên thường lấy hình ảnh cái “bụng” - một bộ phận cụ thể của cơ thể để

biểu đạt mọi sắc thái tâm lý. Khi đồng ý là “ưng cái bụng”; khi cáu giận: “tức cái

bụng”; khi đau xót: “bụng mình xót như có ai đem muối xát vô”; khi bồn chồn chờ

đợi: “bụng mình như có lửa đốt”; khi lo lắng thương yêu: “bụng chàng bên thương

bên lo”; khi bằng lòng: “ama Mlan hết bụng thương quý cô con dâu”; khi cần thấu

hiểu: “có ai hiểu cho bụng Y Tam không”… Qua ngôn ngữ nghệ thuật của H’Linh

Niê, người đọc còn có thể hiểu thêm cách nói về thời gian, khoảng cách rất cụ thể, trực quan, cảm tính người Tây Nguyên. Họ ước lượng thời gian và khoảng cách theo

các sự vật và theo sự biến đổi môi trường sống xung quanh. Cảm nhận khoảng cách

của Amí Nu khi muốn vươn người về phía hai đứa con mà sức lực lụi tàn không thể

thực hiện được, khoảng cách đó nói lên bi kịch của nhân vật thấu rõ nhất: “Từ chỗ

mình nằm tới cửa nhà sàn, nơi hai chị em nó đứng chỉ dài bằng hơn một đòn gánh,

mà sao xa vời vợi” (Ngày Chúa đi vắng) [12, tr.19]. Để nói về thời gian, người Tây

Nguyên trong văn xuôi H’Linh Niê có rất nhiều cách: nói về tuổi, họ thường đếm

bằng bao nhiêu mùa rẫy, bao nhiêu lần cây xoài rụng bông hoa trắng…; nói về năm,

họ ước lượng bằng bao nhiêu lần hoa tăng bi gửi hương cho gió, nước sông Krông

Blang đầy lên rồi cạn, mùa rừng thay lá, cà phê cho trái, mùa con ong ăn hoa, mùa

trồng cà tỉa bắp …; nói về tháng, họ ước lượng bằng bao nhiêu mùa mưa, mùa nắng,

mùa con trăng mọc, lần trăng…; ước lượng thời gian một ngày, họ tính từ lúc mặt

trời thức dậy tới khi mặt trời đi ngủ; ước lượng khoảng thời gian ngắn, cụ thể, họ tính

bằng thời gian người ta uống cạn mấy ống lồ ô rượu ché… Cách nói ước lượng

khoảng cách, thời gian được đo bằng mùa, bằng sự kiện, sự vật, hiện tượng quen

thuộc trong đời sống như trên của người Tây Nguyên là điểm gặp gỡ của nhiều nhà

văn DTTS khác. Ngay nhà văn Y Điêng khi viết về khoảng cách thời gian trong tác

phẩm của mình, ông cũng lấy sự vật cụ thể để đo: lúc thì chỉ trong một điếu thuốc, lúc

thì một sải tay nữa ông mặt trời mới đi ngủ, lúc lại con tôi mới mười một mùa rẫy …

Từ đó, ta có thể khẳng định (theo ai đó từng nói): việc lấy tư duy trực quan cảm tính

của con người làm nền tảng cho sáng tạo ngôn từ nghệ thuật, nhà văn vừa đúc kết

được các vỉa tầng văn hóa dân tộc lại vừa làm phát sáng được bản sắc dân tộc trong

tác phẩm văn chương.

81

Ngôn ngữ nghệ thuật trong sáng tác của Linh Nga Niê Kdam còn thể hiện

dấu ấn dân tộc ở chỗ nhà văn đưa vào ngôn ngữ văn chương của mình cách nói

ngắn gọn, nhiều so sánh, giàu chất triết lý; vừa mộc mạc, dễ hiểu vừa hồn nhiên,

chân thực của người Tây Nguyên. Ví dụ: để nói với con gái về vai trò, giá trị của

người phụ nữ trong gia đình truyền thống mẫu hệ, amí H’Sri vỗ vỗ tay nhè nhẹ lên

lưng con gái yêu, nói nho nhỏ đủ nghe: “Đàn bà Êđê như tấm chăn thổ cẩm, người

ta dùng từ lúc mới dệt đẹp cho tới khi sờn rách vẫn còn giữ, không nỡ vứt bỏ”

(Srêpôk sáng nay yên tĩnh) [12, tr.38]; chồng của amí Nu khi nói về vợ: “Người

đàn bà Êđê như lúa gạo trong nhà, ai cũng cần, ai cũng quý” (Ngày chúa đi vắng)

[12, tr.25]. Với cách so sánh này, nhà văn vừa làm nổi bật tầm quan trọng của người

phụ nữ trong gia đình Tây Nguyên vừa ghi dấu truyền thống tốt đẹp, nhân văn của

dân tộc: luôn trân trọng và đề cao giá trị của của người mẹ, người vợ trong nhà. Vì

rất yêu thương trân trọng người phụ nữ nên người đàn ông Tây Nguyên khi đã yêu

thì yêu hết lòng và trong đôi mắt của họ, người con gái mà họ yêu luôn đẹp đẽ, cao

quý, luôn là niềm khát khao, là nỗi nhung nhớ cháy bỏng ngày đêm. Chỉ một lúc

phải chờ đợi H’Sri mà Y Tam bồn chồn lo lắng miên man không kể xiết: “Sao mãi

không thấy K’Sri? Dường như Y Tam đã chờ ở đây từ mùa hoa xoài sang mùa hoa

phí rồi sao đó hè? Ôi! H’Sri, em như là cơn gió, sao có thể nắm giữ được trong

tay? Chiếc vòng đồng H’Sri đã trao, chuỗi cườm Y tam đã tặng, mà sao vẫn không

tin mình được bên nhau? Suối ơi, núi ơi! Có ai hiểu cho bụng Y Tam không”

(Srêpôk sáng nay yên tĩnh) [12, tr.45]; chỉ một ánh mắt nhìn, một nụ cười, một

giọng nói mà dường như cô gái có thể làm trái tim người yêu mình loạn nhịp, mọi

giác quan, sinh hoạt đều đổi thay: “Con mắt H’Ny nhìn làm trái tim trong vồng

ngực nở của Y Min đập dồn hơn cả lúc đi săn gặp con thú lớn. Giọng nói của H’Ny

ngọt ngào khiến Min nghĩ đến cô mà đi đường quên cơn khát. Ngày, Min nhớ H’Ny

ngẩn ngơ không biết đến cái ống điếu đang hút đã tắt lửa. Đêm, mới chia tay đó mà

Min về nhà nằm xuống ngồi lên miết con mắt không chịu khép” (Thung lũng Yang

Hruê) [12, tr.111]; “Tiếng cười trong vắt như tiếng chiêng có pha đồng pha bạc

của H’Sri, khiến trái tim Y Tam phồng to hơn. Ánh mắt H’Sri như nháng lửa mỗi

lúc cái nhìn của hai người gặp nhau” (Srêpôk sáng nay yên tĩnh) [12, tr.45].

Những đối tượng được đem ra so sánh đều là những hình ảnh gần gũi, gắn bó, quen

thuộc với cuộc sống của con người. Những đối tượng ấy có thể là hiện tượng thiên

nhiên, cũng có thể hiện tượng của cơ thể, cũng có thể là đồ vật trong cuộc sống sinh

hoạt…, tất cả đều làm cho cách diễn đạt của nhà văn về người Tây Nguyên mang

82

đúng chất Tây Nguyên. Đây là cách so sánh, nhân hóa rất dân dã, không cầu kì hoa mĩ nhưng vô cùng sinh động về đặc điểm thiên nhiên cao nguyên - âm thanh của

dòng sông Srêpôk chảy giữa đại ngàn hoang dại: “Trời còn tối như có ai lấy tay bịt

mắt lại. Trong bóng đêm. Srêpôk vật mình đập vô ghềnh đá, chắc là sự va đập quá

mạnh nên nghe nước đau la lên cái “ầm”” (Srêpôk sáng nay yên tĩnh) [12, tr.36];

cái nắng gay gắt ở thung lũng Yang Hruê: “Nắng. Mới sáng sớm mà đã nắng. Cái

nắng vàng rừng rực như lửa bếp, nhìn lâu con mắt nổ đầy hoa” (Thung lũng Yang

Hruê) [12, tr.155]. Hay nói về cảm giác của chàng trai Y Khăm trẻ tuổi trong đêm

đầu tiên “nối dòng” với Amĩ Xóa: “Trăng đã leo qua bên kia mái nhà dài. Ngột

ngạt, tối om, như hồi nhỏ anh đã lén amĩ chui trong chiếc ché tang” (Nối dòng) [6,

tr.26]; cảm nhận về rượu do bàn tay mẹ ủ của HDung: “Ché rượu mẹ trộn lẫn cả

men lá với men rượu cẩm. Thứ rượu chưa uống bụng đã kiến bò, mới thử ruột đã

cháy. Uống vài lần là ngả nghiêng chóng mày quay mặt, con mắt lúng liếng ngó

một thành hai”(Gió vẫn thổi từ rừng) [6, tr.66]; còn gì rõ hơn cảm giác lo lắng

mong ngóng đến buồn bực của Y Rít lúc chờ đợi người yêu: “Ôi, hoa blang thì đỏ,

hoa êpang trắng, hoa k’truol fang lại tím. Lòng người ta, Y Rít biết trắng hay xanh?

Lửa đâu đốt trong lồng ngực, kiến đâu bò trên từng mảng da thế này?” (Cầu vồng

lung linh) [6, tr.104]. Những hình ảnh so sánh giản dị này đã góp phần không nhỏ

làm nổi bật cảm xúc tinh tế, đáng yêu của con người miền cao Tây Nguyên và làm

cho tác phẩm văn học thêm thú vị, hấp dẫn.

Cái duyên thầm và nét riêng của nhà văn Linh Nga Niê Kdam khi viết những

tác phẩm về cuộc sống, con người Tây Nguyên còn là ở chỗ nhà văn đưa vào tác

phẩm của mình những triết lý và quan niệm sống rất nhẹ nhàng mà sâu sắc của con

người Tây Nguyên. Trải qua bao khó khăn vất vả để lập buôn sang và gây dựng

cuộc sống mới sau khi trốn đi khỏi buôn làng cũ để được chung sống với người

mình yêu, Y Min đã chiêm nghiệm thấu đáo về hạnh phúc: “Không có hạnh phúc

nào không phải đổi bằng gian khổ và nước mắt, nhất là thứ hạnh phúc do chính tay

mình tạo dựng” (Thung lũng Yang Hruê) [12, tr.101]. Chị còn mượn lời của Y

Min để nói quy luật của tình yêu: “Cái thương nhớ giữa người nam, người nữ với

nhau sao mà lạ? Nó làm cho ngực ấm giữa đêm khuya, xa nhau, ngồi như có lửa

đốt bên trong, bụng không biết đói, mắt không thèm ngủ. Nhất là khi thịt da đã sưởi

ấm cho nhau, lặn vô trong nhau quên cả đất trời, thì chỉ muốn cười, muốn hát,

muốn chạy tới bên để lại được mặt nhìn tận mặt, tay cầm lấy tay…” (Thung lũng

Yang Hruê) [12, tr.111]. Hay, để nói đến quy luật của cuộc đời, tâm linh của con

83

người: “Biết kiên nhẫn chờ đợi thời cơ cũng là một nghệ thuật đấy chứ. Con người

rất dễ đến với nhau trong những cơn hoạn nạn, nhất là khi có bàn tay giơ ra cứu

giúp. Lúc vô vọng, người ta sẵn sàng bấu víu vào mọi tia hy vọng, dù chỉ là le lói.

Tâm linh con người cũng vậy thôi, dù thể chất có mạnh mẽ đến đâu, cũng vẫn rất

cần một chỗ tựa nương, để giải toả những ẩn ức trong tâm trạng, của cuộc sống”

(Thung lũng Yang Hruê) [12, tr.118]. Trong tác phẩm Em chỉ là cơn gió thoảng,

tác giả lại mượn những băn khoăn của cô gái trí thức dân tộc trước tình yêu của

“anh” khi giữa hai người có sự vênh lệch học thức và không cùng phong tục tập

quán: “Người ta có thể đồng cảm với nhau về nhiều mặt, nhất là lúc đang yêu.

Nhưng đối mặt với cuộc sống, nhiều khi lại đánh mất nhau vì những lề thói, những

tập tục, hoặc chỉ tại những điều vô cùng đơn giản” để lý giải vì sao dù rất yêu “anh”

nhưng cô đã quyết định: với anh, em chỉ là cơn gió thoảng, “Cho em là một người bạn.

Mỗi lần ra Hà Nội em ghé thăm…” (Em chỉ là cơn gió thoảng) [6, tr.90]. Còn trong

tác phẩm Đêm Dliê Ya ngàn xanh, tác giả lại nêu ra một hiện tượng: “Ở đời, con

người càng giàu lên càng dễ quên, càng muốn quên những gì của ngày xưa khổ

cực” để làm sáng lên tình yêu chung thủy, nỗi thương nhớ của ama An với những

tháng năm sống có HLy - người vợ xinh đẹp, đảm đang, giờ đã quá cố của mình.

(Đêm Dliê Ya ngàn xanh) [6, tr.174]. Tất cả những quan niệm và triết lý mà nhân

vật hay nhà văn trực tiếp phát biểu đều thể hiện tầm hiểu biết sâu sắc và vốn sống

phong phú của Linh Nga Niê Kdam. Những triết lý đó đều rất mộc mạc, khái quát

cho những tư tưởng, quan niệm sống của người Tây Nguyên nói riêng, tất cả mọi

người nói chung. Vì thế, nó vừa thể hiện được đặc điểm tính cách, lối sống riêng

của người dân bản địa vừa có tầm phổ quát cao. Cái hay của văn Linh Nga Niê

Kdam là ở chỗ đó.

Nói tóm lại, ngôn ngữ nghệ thuật trong văn xuôi Linh Nga Niê Kdam là ngôn

ngữ nghệ thuật mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Tây Nguyên. Bản sắc văn hóa ấy

thể hiện qua việc tác giả sử dụng lớp từ vựng dân tộc, đưa nguyên văn câu nói của

người dân tộc vào văn chương, diễn đạt ngắn gọn, giản dị, dân dã phù hợp với lối tư

duy và diễn đạt của người dân tộc. Bằng việc sử dụng nhiều các biện pháp tu từ nhất

là lối so sánh, liên tưởng để diễn đạt điều muốn nói một cách hình ảnh, cụ thể, dễ

hiểu, đầy tính triết lý và có tính sáng tạo, gần gũi với cách nghĩ, cách nói của người

dân tộc, nhà văn đã góp phần nêu bật được những quan niệm, những đặc điểm tính

cách, lối sống của người dân trên quê hương cao nguyên. Với những gì đã làm được,

84

nhà văn Linh Nga Niê Kdam đã khẳng định được vị trí, tài năng và phong cách nghệ

thuật của mình trong đời sống văn xuôi các DTTS Việt Nam hiện đại.

3.1.2. Ngôn ngữ nghệ thuật đậm chất trữ tình

Linh Nga Niê Kdam là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn và bút ký. Sức

hấp dẫn của những tác phẩm văn chương của chị chính là ở chỗ: nhà văn đã sử dụng

ngôn ngữ rất tự nhiên, đậm chất dân tộc Tây Nguyên nhưng lại rất đằm thắm, trữ

tình. Chất trữ tình, đầy ắp cảm xúc được thể hiện trong những câu văn giàu hình

ảnh, màu sắc cùng với việc sử dụng dày đặc các thủ pháp so sánh, nhân hóa, điệp

ngữ, liên tưởng đầy bất ngờ thú vị và giàu mĩ cảm. Ngôn ngữ nghệ thuật ấy có sức

gợi lớn, kết đọng nhiều tầng ý nghĩa, dễ chiếm được cảm tình và để lại ấn tượng

trong trái tim độc giả các lứa tuổi.

Khi nói về thiên nhiên, về cuộc sống con người Tây Nguyên với những sự

kiện, sự việc, nhân vật cụ thể, tác giả luôn viết bằng một giọng văn đầy chất trữ

tình, tha thiết, lãng mạn, bay bổng, đôi khi đọc như những câu thơ văn xuôi tràn

đầy cảm xúc. Các thủ pháp: so sánh, nhân hóa, trùng điệp, láy… được chị vận

dụng triệt để và rất thành công, góp phần khẳng định nét độc đáo trong câu văn

của chị. Mùa khô trên cao nguyên hiện về dưới trang văn Linh Nga thật thơm

tho, đẹp đẽ và gợi bao nhung nhớ: “Mùa khô cũng là mùa gió, những cơn gió

cao nguyên lồng lộng lang thang đi khắp đất trời, gói ghém mang theo nhiều

loại mùi hương khác nhau: hương hoa cà phê những tháng cuối cùng của năm;

tháng ba mùa xuân về là hương các loại hoa rừng; mùi khói đốt rẫy vào những

tháng mùa khô bàn giao quyền lực thiên nhiên cho mùa mưa; mùi cà phê rang

ấm những con đường mùa đông se se hơi lạnh… Mùi thơm của cỏ cháy lẫn trong

mùi khen khét của khói lửa than mùa đốt rẫy, không biết vì sao vẫn thường ám

ảnh tâm trí người xa quê ghê lắm” (Pơ thi mênh mang mùa gió) [12, tr.53].

Với biện pháp nhân hóa giàu chất liên tưởng về gió, người đọc có thể cảm nhận

được nét riêng của gió cao nguyên. Đó là những cơn gió lớn, phóng khoáng, lồng lộng,

tự do tung hoành trên khắp đất trời Tây Nguyên bao la, rộng lớn. Gió có thể gói ghém,

chất chứa trong mình những mùi thơm đặc trưng của quê hương xứ sở, của cây, của

đất, của cuộc sống con người tỏa tới mọi miền xa xôi; gửi trao và dấy lên niềm tự hào

cùng khát khao trở về nhất là những người con xa xứ. Đoạn văn được tác giả sử dụng

điệp từ “hương” và “mùi” kết hợp với một loạt từ chỉ vật xác định: “cà phê, hoa rừng,

khói đốt rẫy, cỏ cháy, khói lửa than”… đã khắc sâu và để lại một ấn tượng khó quên

trong lòng độc giả về những mùi hương đặc trưng trên mảnh đất Tây Nguyên.

85

Thiên nhiên Tây Nguyên không chỉ được nhà văn cảm nhận bằng khứu giác

với mùi hương quyến rũ không thể nào quên mà còn được tác giả cảm nhận bằng thị

giác với những nét vẽ thơ mộng, đầy màu sắc dù đó là cảnh rừng khộp buôn Đôn

đầy ắp lá đỏ sắp sửa rụng rơi: “Trước khi trút hết tấm áo cũ xuống làm lá mục nuôi

đất, toàn bộ cây rừng chắt chiu chút sức lực cuối cùng của mình hóa thân thành

những chiếc lá màu đỏ, cố làm đẹp cho đời lần chót. Rừng rực, rừng rực như màu

tấm thổ cẩm amí dệt mỗi ngày. Có bài hát gì đấy rất hay nhỉ “rừng Trường Sơn ào

ào lá đỏ” ? Đúng như vậy đó, một cơn gió mùa đông ào ạt cuốn hàng ngàn chiếc lá

đỏ bay tít lên cao, rồi lại thả chúng chậm chạp liệng đáp xuống, phủ một tấm thảm

đỏ trên nền rừng. Cây bút kì diệu của thiên nhiên hoang dã đã dùng cành khô và lá

đỏ vẽ nên một khung cảnh tuyệt vời” (Pơ thi mênh mang mùa gió) [12, tr.71].

Đoạn văn sử dụng biện pháp so sánh, liên tưởng kết hợp với câu văn miêu tả giàu

hình ảnh, tác giả đã vẽ hoàn chỉnh một bức tranh sống động về màu sắc và sức sống

mãnh liệt của thiên nhiên Tây Nguyên ngút ngàn cỏ cây hoa lá. Trước khi lìa cành

trở về với đất, rừng khộp còn dâng hiến cho đời vẻ đẹp rạng rỡ nhất; cây đã sống

hết mình, không lãng phí một phút giây.

Để miêu tả khoảnh khắc giao tranh giữa bóng đêm và ngày mới của rừng,

nhà văn cũng sử dụng phép nhân hóa, liên tưởng rất sáng tạo, độc đáo cùng cách

diễn đạt mang dáng dấp thơ văn xuôi: “Cái giờ khắc ấy rừng còn chưa thức hẳn,

đám cây cối rũ lá đứng ngủ im phăng phắc. Gió chắc cũng đang dở giấc ngủ nướng

ở nơi nào, nên mặt trời cố đẩy những đám mây màu tro bếp đang che khuất mặt ra

mà không nổi. Những ngón tay dài thượt vàng choé chỉ xuyên chéo qua tấm màn

mây xám được một chút xíu rồi lại biến mất. Bầu trời đen ngòm đe doạ. Dãy núi Cư

Pah trầm tĩnh như ông già hiền hậu nghiêng mình cúi xuống lắng nghe. Đâu đó một

tiếng chim khắc khoải kêu khan, rồi lại bỗng lặng bặt, chẳng đủ để xua đi cơn ngái

ngủ của rừng” (Thung lũng Yang Hruê) [12, tr.108]. Với cách sử dụng ngôn ngữ

đầy những sáng tạo nghệ thuật như thế, nhà văn đã làm nổi bật lên thần thái của

buổi sớm tinh mơ ở rừng. Còn khi miêu tả khoảnh khắc rừng vào thời điểm cuối

ngày, nhà văn lại sử dụng nhiều từ láy gợi hình, gợi thanh rất chính xác và thú vị:

“Hoàng hôn nhuộm vàng những thân cỏ năn cỏ lác đang rung rinh theo từng cơn

gió chiều. Những bông lau trắng quật vào nhau xào xạc. Tiếng nước óc ách sau

những cú nhảy của bầy nhái bén và lũ chim nhao nhác tranh nhau chỗ ngủ đêm

giữa các vòm cây, khiến rừng chẳng thật sự lặng yên (Pơ thi mênh mang mùa gió)

[12, tr.74]. Trong đoạn văn, mỗi một đối tượng miêu tả đều được gắn với một từ láy

gợi hình hoặc gợi thanh: cỏ lác - rung rinh, lau trắng - xào xạc, nước - óc ách, bầy

86

nhái bén và lũ chim - nhao nhác… khiến rừng Tây Nguyên buổi chiều trở nên rất

xao động mà vẫn rất đỗi bình yên. Làm bật lên nét đặc trưng riêng của rừng như thế,

chứng tỏ tác giả thật sự là một người con của núi rừng Tây Nguyên có cái nhìn tinh tế, có khả năng quan sát tỉ mỉ và có sự cảm nhận đặc biệt về âm thanh của một người nghệ sĩ - nhạc sĩ .

Ngôn ngữ lãng mạn, bay bổng, giàu cảm xúc của chị thể hiện khá rõ trong

những trang văn miêu tả chân dung con người, những giá trị văn hóa đáng trân

trọng và sự phong phú, phức tạp, muôn sắc màu của cuộc sống vùng cao nguyên.

Miêu tả người con gái Tây Nguyên qua đôi mắt chàng trai đang yêu, nhà văn đã sử

dụng nhiều hình ảnh so sánh, thậm chí có tính cường điệu theo nguyên tắc lãng

mạn, lý tưởng hóa khiến người đọc có thể hình dung một cách khá rõ nét về cô gái

Tây Nguyên vừa khỏe khoắn, giỏi giang, vừa xinh đẹp, kiều diễm, vừa tài hoa, lãng

mạn: “H’Sri là con gái duy nhất của tù trưởng, không chỉ giàu có mà còn đẹp đến

hoa rừng cũng thua. Amí lấy hai ngôi sao lấp lánh giữa trời đêm làm đôi mắt, mượn

trái vú sữa vừa độ chín làm làn da nâu cho cô. Tấm váy dài phủ kín đôi gót chân

nâu hồng mịn màng, chỉ quen ngồi đạp khung dệt, khiến mỗi bước đi vừa khép nép

vừa uyển chuyển như đôi chim ktiă, làm cho không ít lũ con trai trong buôn đứng

ngẩn, quên bẵng xung quanh lúc nàng bước qua” (Srêpôk sáng nay yên tĩnh)

[12, tr.37]; “Yang cũng như thương H’Ny nghèo, cho cô những gì đẹp nhất mà núi

rừng có được. Chiếc m’yêng dù bạc hết đường chỉ màu, vẫn khoe tấm thân căng

đầy sức sinh sôi của đất của ngàn, tràn ra nơi cặp mắt long lanh, đôi má ửng hồng

và làn da mịn màng như trái chín. Miệng tươi, hàng răng bắp non, ánh mắt như có

lửa, nhìn vô mắt con trai nào, người ấy ngả nghiêng hai chân cứng lại không bước

đi nổi” (Thung lũng Yang Hruê ) [12, tr.109].

Ngôn từ trong sáng, linh hoạt, bay bổng, giàu giá trị tạo hình, giàu cảm xúc

cũng được nhà văn dành cho việc ngợi ca các chàng trai cao nguyên khỏe mạnh,

dũng mãnh, sôi nổi, nhiệt tình, tài hoa. Ta hãy xem tác giả ngợi ca sức sống của

chàng trai Y Min đầy bản lĩnh: “Anh như cái cây gỗ cate tốt mọc lên giữa đại ngàn,

uống nước nguồn suối, cắm sâu bộ rễ trong lòng đất rừng, cây chen cây cứ lớn vụt lên,

thẳng tắp, kiêu hãnh chống chọi với nắng táp, gió giông” (Thung lũng Yang Hruê)

[12, tr.110]; sức cuốn hút của tài năng anh chàng Y Tam: “Anh chàng Y Tam đó

không chỉ làm chủ tiếng đinh buốt nỉ non, lời đinh năm dìu dặt, giọng đinh tăk tar

ngọt ngào ấm áp, mà cả ngón đàn brố tài hoa tưng tửng những đêm trăng sáng”

(Srêpôk sáng nay yên tĩnh) [12, tr.38].

87

Khi viết về những nỗi niềm của những người con xa xứ, hay nỗi buồn, sự lo

lắng trước những khó khăn, thử thách trong cuộc sống của người dân bản địa, hay

những niềm vui, niềm tự hào về một Tây Nguyên tươi đẹp giàu bản sắc, giàu truyền

thống yêu nước … giọng văn của chị lại trở nên đằm thắm, tha thiết, sâu lắng, dịu

dàng, đúng chất phụ nữ vùng cao. Đoạn văn sau thể hiện nỗi khát khao của một

người con xa xứ mới trở về: “Ôi! Có biết bao nhiêu điều bí ẩn kỳ lạ mà ta chưa

từng thấy. Có phải quê hương ta thực đó không? Giá mà được sục chân vào đám

bùn mát rượi kia. Giá mà được lăn trên đám cỏ mịn dưới gốc cây Knia đơn độc

giữa đồng ấy. Giá mà được lắc lư trên bành voi đi trong bóng râm mát của rừng

đại ngàn?” (Tìm về bến nước) [6, tr.50]. Một loạt câu điệp cấu trúc “giá mà …”

được nhắc đi nhắc lại với thán từ và câu hỏi tu từ giàu giá trị biểu cảm, nhà văn đã

thể hiện được tình yêu tha thiết của nhân vật (cũng như của chính Linh Nga) đối với

quê hương yêu dấu, đầy bản sắc của mình.

Nếu khảo sát một cách hệ thống các truyện ngắn của Linh Nga, ta có thể thấy

xuất hiện khá nhiều câu văn, đoạn văn tả tình của chị là những đoạn văn được viết

bằng ngôn ngữ bay bổng và chứa chan cảm xúc rõ rệt nhất. Hầu như trong các

truyện ngắn của chị, đều có mặt tình yêu và dù tình yêu ấy có đến bến bờ hạnh phúc

hay đớn đau bất hạnh, trong sáng thủy chung hay khờ dại, bị lợi dụng hay không thì

vẫn có những phút giây sôi nổi, đầy bản năng, ngập tràn hạnh phúc, bay bổng lãng

mạn. Nhà văn quan niệm: tình yêu đích thực là sự hòa quyện cả thể xác lẫn tâm hồn

nên những người yêu nhau trong tác phẩm của chị luôn có khát vọng hòa quyện rất

“con người” đó. Chuyện tình mang hơi hướng sử thi giữa Đam San và HBia được

miêu tả bằng ngôn ngữ lãng mạn rất hiện đại và lối so sánh mộc mạc, chân chất của

người Tây Nguyên: “Im lặng úp mặt trong tóc, họ ôm riết lấy nhau, bện trong nhau

như con trăn quấn mồi, như đôi sam bơi trong biển. Nhà sàn rung rinh, bay, bay,

bồng bềnh trôi trong gió, mỗi lúc mỗi dào dạt. Đóa hoa mây khổng lồ trắng muốt,

sà xuống phủ kín căn nhà, bao bọc, ấp ủ, chở che. Đất trời, rừng suối, chòng chành

trên con thuyền căng buồm lướt sóng…” (Hoa Pơ lang) [6, tr.16]. Chuyện tình của

cô gái Tây Nguyên với chàng trai Hà Nội trong Em chỉ là cơn gió thoảng cũng có

những phút giây hạnh phúc như vậy: “Họ chỉ im lặng xiết lấy nhau. Hương cà phê bao

bọc quanh mình, nồng nàn đến nghẹt thở. Hương trong tóc, trong từng nếp áo, trên

gương mặt, hơi thở cô. Anh khao khát hít đầy lồng ngực thứ hương quyến rũ ấy. Môi

anh cuống cuồng tìm đôi môi cô, đôi môi chín mọng, mềm mại, nóng bỏng cũng khát

khao đợi chờ…” (Em chỉ là cơn gió thoảng) [6, tr.94]. Ngay cả khi miêu tả tình yêu

mãnh liệt, bất chấp phong tục tập quán, bất chấp không gian địa lý, bất chấp sự khác biệt

88

ngôn ngữ và sắc tộc, màu da của hai con người mang hai quốc tịch khác nhau, nhà văn

vẫn dành những câu văn tả tình hết sức lãng mạn, đầy gợi cảm để ngợi ca tình yêu chân

thành, say đắm của họ: “Không phải là chàng trai Êđê nước da sẫm màu đất, không

còn là người phụ nữ Châu Âu da trắng tóc vàng. Chỉ có hai kẻ yêu nhau, dìu nhau tới

tột đỉnh của khoái cảm hạnh phúc, thong thả, sít chặt và thành kính như một lời ước hẹn

thiêng liêng giữa đêm trăng xanh mênh mang, có hương đất trời và sóng sông nước

cao nguyên chứng giám” (Pơ thi mênh mang mùa gió) [12, tr.76]…

Viết về tình yêu nam nữ bằng ngôn ngữ lãng mạn, bay bổng, giàu cảm xúc

là đặc trưng dễ nhận thấy trong văn xuôi Linh Nga, nhưng bên cạnh đó chị vẫn sử

dụng chính chất liệu ngôn ngữ ấy để nói về vẻ đẹp muôn mặt của cuộc sống và

những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc. Trong bài bút ký Làng mặt trời, nhà

văn ghi lại cả những khó khăn thách thức lẫn những đổi thay của cuộc sống mới.

Chị xen vào đó là niềm vui không kể xiết cùng những ngỡ ngàng về mảnh đất Hà

Giăng hôm nay đã sáng đẹp vì có hệ thống pin mặt trời mà vẫn giữ được nét văn

hóa cổ truyền trong nghề thủ công làm từ tre nứa. Chị còn thêm cả niềm tự hào,

xúc động khi được nghe người nghệ nhân già kể h’amon dưới mái nhà Rông. Viết

về hiện thực cuộc sống, không màu mè, hư cấu mà ngôn ngữ nghệ thuật của chị

vẫn bay bổng, mộng mơ và tràn đầy xúc cảm: “Đêm càng sâu là lời h’amon cất

lên từ lồng ngực già nua xạm màu sương gió của nghệ nhân Đinh Biên. Mái đầu

đẫm màu mây núi nghiêng nghiêng cúi xuống, câu h’amon ngân nga uốn lượn,

rượu cần tuôn chảy. Nhưng bây giờ là thực, lại cũng là ảo trong màu sắc câu

chuyện cổ h’amon xa xưa … Quanh chúng tôi phải chăng là những chàng KNien

tài ba, nàng H’Rum xinh đẹp đang cùng kề vai, và đêm nay cùng ngủ lại trên nhà

Rông, theo tập tục từ bao đời của người Banar?” (Làng mặt trời) [7, tr.60] và:

“Xuân mở cửa dạo chơi trên mảnh đất cao nguyên, kính cẩn nghiêng mình trước

tầng thẳm sâu quá khứ của di chỉ Lung Leng, rạo rực với tiếng tuốc - bin rộn ràng

hát bài ca công nghiệp hoá nơi hầm máy thuỷ điện Ya Ly, Drai H’Linh, Buôn Kôp,

Tuor Sra … dòng nước như những đàn ngựa hoang sải vó tung bờm trắng trên

đồng cỏ. Say đắm ngắm nhìn cà phê, cao su, tiêu, bông đang tràn căng lộc nõn,

đùa rỡn cùng vũ điệu sóng dã quỳ vàng rực khắp triền miệng núi lửa Hàm Rồng.

Nụ cười già làng sáng bừng dưới ánh điện pin mặt trời, tiếng bé thơ đọc bài ê a

trong lớp học song ngữ Bana, Giarai, Sêđăng, Êđê - Việt, lẫn trong ngân nga

chuông chiều bình yên thong thả buông nơi mái vòm nhà thờ gỗ giữa lòng thị xã

Kon Tum hay nhà thờ Mẹ trung tâm thành phố Ban Mê” (Mùa xuân, ơi Ban Mê

của tôi) [11, tr.56] ...

89

Ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn trong truyện - ký còn độc đáo ở chỗ: chị đã

sáng tạo trong việc sử dụng từ và đưa nhạc tính vào văn bản. Nói cách khác, văn của

chị có hệ thống ngôn từ độc, lạ, đậm bản sắc dân tộc, giàu tính nhạc và có khả năng tạo

được khoái cảm thẩm mĩ cho người đọc (nhất là ở hệ thống từ láy vừa gợi hình, gợi

thanh, vừa gợi nhiều liên tưởng thú vị đúng với kiểu tư duy người DTTS). Chỉ trong

một tập truyện ngắn Con rắn màu xanh da trời, chúng ta có thể thống kê được rất

nhiều từ ngữ sáng tạo của Linh Nga Niê Kdam trên nền tảng ngôn ngữ chung của

Tiếng Việt. Cụ thể: trong truyện ngắn Hoa Pơ lang, nhà văn sử dụng, sáng tạo những

từ ngữ mới mẻ, độc đáo như: “Chim tao vao vắt vẻo trên cột gỗ đầu buôn chao chác

gọi bạn tình”, “Cơn gió ù ào luồn qua rừng khộp”, “Cuối cùng nàng lựa chiếc váy

nhóng nhánh như ánh trăng xanh”; trong Nối dòng: “Tiếng con gà rừng eo éo ngoài

xa”; trong Tìm về bến nước: “Thằng bé đang nhảy chồm chộp bắt dế trên bờ ruộng”,

“Một chiếc áo không tay dày cợm, cứng queo, luốc luốc màu đá khoác trên vai”, “Đôi

lúc bà lão đút tay vô miệng cho nó mút. Không nhận được chút gì, nó lại nhả ra la chói

lói”, “Hàng đàn chim kíu quáo gọi nhau về xây tổ, cánh chấp chới in trên nền trời

đỏ”; trong Gió vẫn thổi từ rừng: “Gió cũng rỉ rả nói lời mách lẻo”, “Tiếng chày đôi

chày ba bập bạp len lỏi trong sương sớm”; trong Cánh hồng rụng: “Đóa hoa nở sớm

mởn mơ trong sự ve vuốt của ánh mặt trời vùng cao”; trong Em chỉ là cơn gió

thoảng: “Tối thẫm bóng thông, vầng trăng non đã xeo xéo”, “Bước chân bập bỗng cứ

đưa cô về những đêm hò hẹn”; trong Cầu vồng lung linh: “Vài túm cỏ kmâo khẳng

khiu khô khỏng run bần bật trong gió”, “Chỉ có tiếng con chim tlông đuôi dài táo

tác”, “Bước chân voi bập bịch đưa tù trưởng mtao San đi xa dần”; trong Đêm Dliê Ya

ngàn xanh: “Nụ cười rạng nắng ấm giữa buổi trên khuôn mặt nhàu nhò giống bãi

ruộng mùa khô”, “Bầy chim chí chóe túc túc tao tao trong các vòm lá” …

Sức hấp dẫn của truyện - ký Linh Nga chính là vì sự sáng tạo độc đáo và sự

trải nghiệm thực tế phong phú của chị. Chị đã rất khéo léo giới thiệu vốn văn hóa dân

gian, dân tộc giàu có, phong phú của mình trong các tác phẩm. Để làm tăng thêm sự

cuốn hút, chị xác lập một phong cách riêng cho ngòi bút của mình, đó là những lời

văn như có tiết tấu, giai điệu, có khả năng hát ca về con người và cuộc đời. Nhạc tính

giàu có trong câu văn chị là vì thế, các khúc hát dân ca, khúc hát đối đáp giao

duyên… hay đi vào câu văn chị là vì thế. Cả một kho tàng nghệ thuật, dân ca, dân

vũ… Tây Nguyên xuất hiện trên trên những trang văn của Linh Nga. Đây là lời đối

đáp vui tươi của gái trai cao nguyên trong ngày lễ hội: “Anh có biết / Chiếu em nằm

một bên mốc/ Vì không người kề bên/ Ơ em/ Hãy đem anh theo về/ Cùng nằm bên

90

nhau/ Từ lúa xanh đến lúc lúa trĩu vàng” (Đêm Dliê Ya ngàn xanh) [6, tr.169]; đây

là lời khéo léo, khiêm tốn khi mới làm quen của đôi trai gái: “Thấy anh cũng muốn

hỏi/ Sợ anh là người sang/ Em chỉ gái buôn làng/ Không biết đường ăn nói…/ Em

như hoa chuối mới nở/ Lúa mới lên bông/ Nếu không được cùng nhau/ Ta vẫn là anh

em bè bạn” (Làng mặt trời ) [7, tr.60]; đây là lời mời rượu đầy khéo léo, lãng mạn,

đa tình: “Lá này của rừng/ Nước này của suối/ Men rượu từ rễ đất mẹ sinh em/ Uống

đi anh/ Uống say anh/ Trăng vẫn soi tỏ lối về” (Du xuân Tây Nguyên) [7, tr.78]; đây

lời tỏ tình bóng gió xa xôi: “Ktrâo bay vòng có đôi/ Con cá lội dưới sông có bạn/

Anh cũng muốn hai đứa mình thành đôi bướm dạo” (Nối dòng) [6, tr.24]; lời giãy

bày tình cảm nồng cháy, đầy chất cao nguyên nóng bỏng: “Ơ anh/ Dáng anh đi con

công xòe múa/ Cánh ná anh xuyên con thú rừng/ Khiêl anh vung xua quỷ dữ/ Tay anh

ấp ủ bầu ngực em/ Ơ em/ Em xinh như chim nhông chim phí/ Tay em kéo chỉ mềm tựa

sáp ong/ Môi em hoa mdung hồng/ Anh khát uống hạt sương trên cành” (Gió vẫn

thổi từ rừng) [6, tr.62]; “Ướt váy em treo cành cây tang/ Ướt khố anh phơi cành cây tung/

Ướt người ta cùng sưởi bên lửa hồng” (Pơ thi mênh mang mùa gió) [12, tr.68]; còn đây

là lời ca thán, buồn đau khi không được ở bên nhau như nguyện ước: “Tấm chăn

chưa nhuộm/ Sao thuốc đã phai/ Chiêng chưa treo/ Sao rượu cần đã nhạt/ Diều chưa

hát/ Sao dây bỗng đứt” (Nối dòng) [6, tr.24]; “Sống không được gần nhau/ Chết rồi

ta sẽ chôn chung một hòm/ Em hoá thành chớp sáng/ Anh hoá thành thần sét thét

vang” (Nối dòng) [6, tr.24]… Những lời ca, tiếng hát trong sáng tác của nhà văn

hầu hết đều là những khúc hát dân ca Tây Nguyên. Trong mỗi câu truyện, bài ký

của mình, nhà văn thường dẫn một vài câu dân ca, vài lời hát đối đáp phù hợp với

cảnh huống nhân vật. Tất cả những câu hát ấy đã góp phần làm nên chất thơ, chất

nhạc bay bổng diệu kì đậm bản sắc Tây Nguyên trong lời văn của chị.

Tính nhạc trong ngôn ngữ, trong câu văn của chị hình thành từ những tiết tấu

ngắt nghỉ, từ nghệ thuật phối thanh cùng cách diễn đạt linh hoạt giàu chất trữ tình.

Tính nhạc khiến cho câu văn xuôi trở lên êm ái, tình cảm, dễ đi vào lòng người.

Tính nhạc trong ngôn ngữ của chị làm cho lời văn thêm bay bổng, lãng mạn, ý văn

thêm dạt dào xúc cảm; giúp chuyển tải những vấn đề của đời sống, những thông

điệp của nhà văn muốn gửi gắm đến người đọc một cách thuận lợi. Gửi gắm tình

yêu và niềm tự hào về bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là chuyển tải tiếng nói tâm

hồn của dân tộc qua những tiếng đàn, tiếng sáo, tiếng chiêng, tiếng trống…là một

nét đặc sắc trong ngôn ngữ nghệ thuật của câu văn chị. Ví dụ, những câu, những

91

đoạn văn sau: “Gặp những đêm trăng sáng, hãy nín lặng mà nghe điệu nỉ non của

cây đàn kni đang nói đầu sàn lời yêu thương của chàng trai Giarai. Nghe tiếng

thủ thỉ mơ hồ của sáu phụ nữ Êđê với sáu ống nứa của đàn đinh tút, tiếng ân cần

gọi vợ giã gạo buổi sáng của cây mbuôt Mnông. Xa hơn, theo tiếng đinh năm

quấn quýt bước chân người nữ đi trước lên rẫy, bạn sẽ nghe tiếng t’rưng nứa

ngoài suối nước, tiếng đinh côk, tlung tlơ gỗ cột trong lều, tiếng kloong put, gong

reng tre, đinh buốt bằng cọng bí, cọng rạ lóc bóc, rỉ rả reo vui, xua tan cái mệt

mỏi của mặt trời cao nguyên gay gắt” (Folklore Tây Nguyên: độc đáo và giàu có -

còn chăng?) [7, tr.35]; “Cứ xanh đi nhé trăng, cho những câu hát Tăm ơh Prơ gửi

qua, trao lại của đám gái trai các Bon lan trong đêm đầy sao lửa thêm nồng nàn,

cho ánh mắt chung chiêng, làm sóng sánh chao nghiêng cả mặt nước ché rượu em

mời. Và đôi cánh của những tiếng chiêng khuya vỗ vào đêm sâu thẳm, gọi mặt trời

vì vội vàng đến hội mà thức dậy quá sớm trên đỉnh Jốk Nghi Pran…” (Đi hội Tăm

Nghét cùng em) [8, tr.41]; “Tắt tăt tăt… tiếng ching knah lúc ồn ào như thác nước

réo, lúc uốn lượn như làn gió, khi thổn thức như điệu arei trai gái đổi trao lời nhớ

lời thương. Ôi tiếng ching ông bà! … Tiếng ching gợi Y Min và H’ Ny nhớ biết bao

đồng cỏ M’Drăk mênh mông những đợt sóng xanh rờn… đồng cỏ mênh mông tiếng

kèn đinh tăk tar dặt dìu mỗi ngày, đồng cỏ ôm ấp hương thơm của hoa, kết trái ngọt

cho tình yêu của Y Min và H’Ny (Thung lũng Yang Hruê) [12, tr.107]; “Cả tiếng

kèn đinh buốt blé nỉ non của Y Lang trên rẫy, tiếng giã gạo thì thụp mỗi sớm mai,

lẫn tiếng mõ lóc cóc của con bò vàng yếm trắng. Và nhất là ánh cầu vồng sau đêm

mưa, lung linh trên sóng cỏ xanh rờn” (Cây knia cô độc) [6, tr.191]. Tính nhạc có

khả năng làm cho mọi thứ vốn quen thuộc trở nên mộng mơ. Nhà văn nắm bắt được

chất họa chất thơ ngay trong cuộc sống: “Chiều ở rừng sao xuống mau thế? Phố núi

mờ sương sao vắng tênh? Những hàng thông buồn hiu đổ liêu xiêu bóng nắng cuối

ngày. Gió mùa khô trên cao nguyên rít veo véo trên ngọn rừng như có điều gì hờn dỗi

mà không nói ra được. Tối thẫm bóng thông, vầng trăng non đã xeo xéo… (Em chỉ là

cơn gió thoảng) [6, tr.85].

Khảo sát và nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật trong sáng tác Linh Nga Niê

Kdam, bước đầu chúng tôi nhận thấy: văn xuôi của chị là một thứ văn xuôi nhiều

cảm xúc. Ngôn ngữ nghệ thuật trong tác phẩm của chị có sự mới lạ, sáng tạo độc

đáo; một thứ ngôn ngữ giàu tính nhạc và bay bổng lãng mạn. Ngôn ngữ nghệ thuật

ấy tạo được tính xác thực về địa danh, về nhân vật, về các đặc điểm của thiên nhiên,

92

của con người Tây Nguyên. Có được lớp ngôn ngữ nghệ thuật đậm dấu ấn Tây

Nguyên như thế xét cho cùng là do là do tài năng, sự nhiệt thành trong quá trình tìm

hiểu, nghiên cứu và tiếp thu vốn văn hoá dân tộc cùng với vốn phong phú, khả năng

quan sát tinh tế, trái tim nhạy cảm và trên hết là tình yêu, niềm say mê với nghệ

thuật, với văn hóa dân tộc của quê hương của nữ nhà văn - nữ nghệ sĩ - nhạc sĩ Êđê

- đứa con của Tây Nguyên hùng vĩ tươi đẹp này.

3.2. Cốt truyện, tình huống truyện giàu kịch tính, mang màu sắc hiện đại

Mỗi một thể loại văn học đều có đặc trưng cơ bản riêng. Nếu đặc điểm của ký là

tôn trọng sự thật, người thật việc thật, hạn chế hư cấu nghệ thuật; nhân vật trần thuật là

“tôi” ở ngôi thứ nhất (thường là tác giả) đóng vai trò là người chứng kiến, tham dự để

tăng cường tính xác thực trong việc miêu tả, bộc lộ cảm xúc và bình luận công khai thì

đặc điểm cơ bản của truyện là phản ánh hiện thực qua các biến cố, sự kiện; cốt truyện,

nhân vật thường có hư cấu tưởng tượng; người trần thuật linh hoạt, kết hợp nhiều ngôi

kể. Để làm nên thành công của tác phẩm tự sự (truyện), bao giờ nhà văn cũng phải chú

ý đến việc xây dựng cốt truyện và tình huống truyện. Cốt truyện là “hệ thống các sự

kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành biện

pháp cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức của tác phẩm văn học thuộc các thể loại

tự sự và kịch” [16, tr.99]. Đó “là yếu tố quan trọng bậc nhất, không thể thiếu trong bất

cứ hình thức tự sự nào. Loại bỏ cốt truyện, văn bản tự sự lập tức chuyển sang dạng văn

bản khác” [1, tr.179]. Như vậy, cốt truyện là hình thức của phương diện nghệ thuật, là

hệ thống sự kiện trong tác phẩm. Nói một cách đơn giản dễ hiểu, “cốt truyện là bộ

xương của cơ thể tác phẩm văn xuôi - yếu tố không thể thiếu, là lõi diễn biến của

truyện từ khởi đầu cho đến kết thúc, bao gồm toàn bộ các biến cố, sự kiện được nhà

văn kể ra và là cái mà người đọc có thể đem kể lại” [29, tr.174]. Thông thường cốt

truyện bắt đầu từ những sự kiện có vấn đề gọi là tình huống. Tình huống truyện là hoàn

cảnh bất bình thường mà con người buộc phải bộc lộ bản lĩnh, tính cách của mình.

Trong tác phẩm tự sự, tình huống truyện có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc thể

hiện số phận và tính cách nhân vật, là một trong những vấn đề cốt lõi, là chìa khóa

khám phá tác phẩm. Tình huống truyện chính là yếu tố tạo những bất ngờ và làm nên

nét độc đáo cho câu chuyện. Nói cách khác, tình huống chính là một lát cắt của cuộc

sống, tình huống gắn liền với cốt truyện và chủ đề tư tưởng tác phẩm. Qua cốt truyện

và tình huống truyện, nhà văn thể hiện các tính cách nhân vật, tái hiện các xung đột xã

hội và bộc lộ phong cách, tài năng của mình.

93

Trong sáng tác của các tác giả văn học DTTS, cốt truyện thường triển khai

theo kiểu truyền thống, miêu tả các sự kiện theo mạch thời gian tuyến tính, hệ thống

nhân vật xây dựng với lối kết cấu phân tuyến đối lập, kết thúc theo quy luật nhân

quả. Kết cấu truyện kiểu này trong văn chương khu vực Tây Nguyên đã có một số

nhà văn sử dụng trong tác phẩm của mình như: Kim Nhất, Y Điêng. Còn trong

truyện ngắn của Linh Nga Niê Kdam thì phần lớn chị lại không xây dựng cốt truyện

theo trật tự thời gian của các sự kiện cùng quy luật nhân quả trong phần kết thúc

truyện mà kết cấu truyện theo quy luật vận động tự nhiên với các ngả, các hướng

khác nhau nhằm chuyển tải tư tưởng, tình cảm, thông điệp nào đó đến với độc giả.

Theo khảo sát của chúng tôi, cốt truyện trong sáng tác của Linh Nga Niê Kdam hầu

hết đều là kiểu cốt truyện mang tính hiện đại. Có tác phẩm chị xây dựng cốt truyện

theo dòng chảy bất tận của tâm trạng: Gió đỏ, Ngày Chúa đi vắng… Có tác phẩm

xây dựng cốt truyện kiểu gấp khúc, đảo lộn thời gian như: Tìm về bến nước, Dòng

sông tóc, Đêm Dliê Ya ngàn xanh, Cây Knia cô độc, Srêpôk sáng nay yên tĩnh,

Bốn ngày, Rưng rưng cỏ hát…; có tác phẩm nhà văn xây dựng tình huống truyện

đầy kịch tính, các sự kiện xảy ra một cách bất ngờ, có lúc dừng lại ở thời điểm

người đọc không thể lường trước, kết thúc trong trạng thái bỏ lửng (kết thúc mở),

hoặc kết thúc không có hậu… tạo điều kiện cho người đọc phát huy vai trò đồng

sáng tạo như các tác phẩm: Cánh hồng rụng, Điều ông ấy không tính đến, Gió vẫn

thổi từ rừng, Hoa Pơ lang, Nối dòng, Cầu vồng lung linh…

Để chuyển tải thông điệp nào đó về tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình, hay

tình cảm cộng đồng, bản sắc văn hóa cổ truyền của dân tộc, hay những mặt trái của

đời sống xã hội…, Linh Nga Niê Kdam đều cố gắng đem đến cho người đọc một

kiểu kết cấu truyện mới mẻ, phảng phất nỗi u hoài trước những hoàn cảnh, số phận

nghiệt ngã của con người. Lối kết cấu truyện theo kiểu hiện đại đã đạt hiệu quả nhất

định. Những câu chuyện của chị thường được xây dựng diễn biến theo dòng chảy

bất tận của tâm trạng, của dòng ý thức (của chính tác giả hoặc của nhân vật).

Truyện Gió đỏ và Ngày Chúa đi vắng độc đáo ở chỗ câu chuyện hoàn toàn

không có cốt truyện mà chỉ là những mảnh ghép tâm trạng. Ở Gió đỏ, đó là tâm

trạng của một người đàn ông đang mang trọng bệnh, vào thời điểm khó khăn nhất

của cuộc đời, anh đã gặp một người phụ nữ giàu lòng trắc ẩn và đầy tình nhân ái.

94

Những bức thư cảm thông của chị chính là cái phao cứu sinh, là chỗ tựa nương cho

tâm hồn người đàn ông xấu số, giúp anh chống chọi lại căn bệnh ung thư. Chính vì

thế, anh luôn yêu thương trân trọng chị, khát khao được bên chị bước đi trên mọi

nẻo đường đời. Dù không thể sống tiếp, anh vẫn luôn nguyện cầu cho chị có một

người đàn ông yêu thương bằng tất cả tình yêu lẫn sự sống của anh. Tương tự như

thế, truyện Ngày Chúa đi vắng là những dằn vặt đau đớn níu kéo giữa sự sống và

cái chết trong tâm trạng của Amí Nu, nỗi ân hận tiếc thương của Ama Nu vì để vợ

sinh quá nhiều con mà bị hậu sản. Thương con, thương chồng, amí Nu không nỡ ra

đi nhưng cuối cùng cũng không thể chống lại số mệnh. Chị mong mỏi nhanh được

chồng con bỏ mả để được về với buôn sang, về với chồng con dù ở bất cứ hình hài

nào. Tình yêu thương gia đình của amí Nu rạng ngời hơn ánh hào quang của Chúa,

ấm nóng hơn cả ánh mặt trời, loang loáng khắp rừng cây con suối. Hai tác phẩm đều

không có cốt truyện mạch lạc, kết thúc là cái chết thương tâm của nhân vật nhưng

đều có khả năng thu hút sự chú ý, đồng cảm của người đọc.

Kiểu cốt truyện gấp khúc, đảo lộn thời gian, từng mảnh đời nhân vật bị chia

tách, phân tán trong hiện tại hay kí ức lộn xộn lại là kiểu kết cấu chiếm số lượng lớn

trong sáng tác Linh Nga. Truyện ngắn Tìm về bến nước kết cấu đan cài gấp khúc

đồng hiện hai dòng thời gian hiện tại và quá khứ. Hiện tại là thời điểm Y Tlang đã

trưởng thành, từ Pháp trở về cùng HZen trên hành trình đến các buôn làng tìm mảnh

đất chôn rau cắt rốn và cuối cùng anh cũng tìm thấy. Hiện tại này đồng hiện cùng

quá khứ lúc cha Francis sắp về nước Chúa, trăng trối lại cho Y Tlang biết để tìm về

nguồn cội, tìm về một thuở ấu thơ bất hạnh: cha bị hổ xé xác trong một đêm săn, mẹ

một mình mang nặng đẻ đau sinh ra anh trong tủi buồn nghèo khó rồi vì đẻ khó

cũng qua đời khi chưa thấy mặt con. Kết cấu đồng hiện hai khoảng thời gian như

vậy trong một tác phẩm làm cho diễn biến câu chuyện thay đổi liên tục, cùng lúc thể

hiện được nhiều nội dung ý nghĩa. Vừa ghi lại những rung động, cảm nhận sâu sắc

về quê hương của nhân vật vừa tái hiện được những cảnh ngộ khác nhau của các

thành viên trong gia đình nhân vật, vừa phản ánh được hủ tục lạc hậu (người mẹ

chết khi con chưa dứt sữa thì phải chôn con theo mẹ) vừa nói lên ý nghĩa, giá trị của

quê hương đối với con người. Truyện Srêpôk sáng nay yên tĩnh lại có cốt truyện

kết cấu theo kiểu đảo lộn thời gian. Mở đầu tác phẩm là cuộc sống hiện tại bình yên

95

của đôi vợ chồng nghệ nhân già đã 80 lần hoa xoài nở. Aduôn Minh bị âm thanh

dòng sông Srêpôk bướng bỉnh gọi thức trong không gian sớm mai tĩnh lặng, ngồi

một mình bên bếp lửa, tâm trí bà trôi bồng bềnh về quá khứ nhiều vui buồn, tự hào

lẫn cay đắng khi ông bà vì yêu nhau nên đã bỏ buôn làng ra đi, chống lại việc cha

mẹ ép duyên. Thông qua hồi ức của Aduôn Minh, người đọc được sống trong không

khí âm nhạc của những buổi hát đối đáp giao duyên, được lắng nghe âm thanh của

cây sáo đinh buốt buồn bã nỉ non bên suối, được chứng kiến sức mạnh của tình yêu,

được trải qua những đau đớn giằng xé tinh thần khi phải rời xa mẹ cha, bến nước,

được tiếp thêm niềm tin và nghị lực sống cho ngày mai. Kiểu kết cấu truyện đảo lộn

thời gian giúp cho tác phẩm không đơn điệu tẻ nhạt, nhân vật được đặt vào nhiều

tình huống gay cấn. Có tình huống buộc nhân vật phải bộc lộ tâm trạng, có tình

huống đặt nhân vật vào thử thách khốc liệt của tình yêu, có tình huống phải lựa

chọn và đối mặt với luật tục và có tình huống khó khăn, trở ngại, thử thách con

người trong cuộc sống. Cốt truyện này có khả năng khai thác triệt để đời tư của

nhân vật ở mọi không gian, thời gian, làm cho câu chuyện thêm chân thật, hấp dẫn.

Điều nổi bật cần khẳng định qua việc xem xét các yếu tố nghệ thuật trong sáng

tác Linh Nga Niê Kdam là: chị luôn có tinh thần học hỏi, tìm tòi, thể nghiệm, tích cực

đổi mới cốt truyện. Sức hấp dẫn trong truyện ngắn của chị không chỉ ở nội dung, con

người, cuộc sống thiên nhiên đẹp đẽ, mà còn ở cách viết vừa có nét tương đồng, vừa có

nét riêng biệt so với các nhà văn DTTS khác. Sự khác biệt Linh Nga Niê Kdam đem

đến cho độc giả là: chị lấy văn hóa, văn học dân gian Tây Nguyên làm phông nền cho

tác phẩm. Chị đan xen các câu truyện cổ tích, các yếu tố hoang đường vào hiện thực;

lấy không khí sử thi huyền thoại trùm phủ lên các tình huống, sự kiện để tạo không khí

đặc biệt cho tác phẩm. Có khi, trong một tác phẩm lại có hai câu chuyện đan cài vào

nhau, truyện lồng trong truyện. Kết truyện theo logic vận động của thực tế đời sống,

không có hậu. Tiêu biểu cho kiểu cốt truyện hậu hiện đại này là các tác phẩm: Hoa Pơ

lang, Tìm về bến nước, Dòng sông tóc, Hoa dại, Đêm Dliê Ya ngàn xanh, Pơ thi

mênh mang mùa gió, Thung lũng Yang Hruê, Gió đỏ, Nước soi bóng ai, Chiếc bầu

nước của H’Lâm…

Tác phẩm Pơ thi mênh mang mùa gió kể lại hai câu chuyện đan cài vào

nhau. Một là câu chuyện ama Phi quyết định làm lễ Pơ thi cho bố vợ, buổi lễ được

96

chuẩn bị chu đáo và được tiến hành trang nghiêm đúng theo phong tục. Một là câu

chuyện hồi ức về tình yêu lãng mạn của cô gái người Thụy Sỹ với người chồng

Êđê của mình khi họ cùng nhau từ Thụy Sỹ trở về làm lễ Pơ thi cho bố. Hai câu

chuyện mang hai nội dung và hai thông điệp khác nhau cùng lấy xuất phát điểm

chung là việc tổ chức lễ Pơ thi. Buổi lễ Pơ thi chính là tâm điểm, là tình huống để

các nhân vật bộc lộ quan điểm, cách nghĩ, cách ứng xử và khám phá văn hóa dân

tộc. Nó cũng là nền tảng, từ đó nhà văn ngợi ca phong tục tập quán đẹp đẽ, đầy

tính nhân văn của dân tộc (làm lễ Pơ thi tiễn biệt người đã khuất) đồng thời nói lên

hiện thực về sự phai nhạt bản sắc văn hóa trong đời sống người dân Tây Nguyên

thời kì hiện đại (việc xây dựng nhà mồ không theo truyền thống, xây nhà gạch đủ

màu đã phá vỡ đi cảnh quan hoang sơ và vẻ đẹp mộc mạc của buôn làng). Lễ Pơ

thi cũng chính là cơ hội để nhà văn ngợi ca tình yêu, một tình yêu đích thực vượt

qua mọi khoảng cách địa lý, mọi biên giới của màu da, sắc tộc, ngôn ngữ và văn

hóa, tập tục. Để thể hiện nội dung tư tưởng, tạo không khí linh thiêng cho buổi lễ

và làm tăng tính hấp dẫn cho câu truyện, nhà văn đan xen vào tác phẩm yếu tố

huyền ảo. Đó là cuộc gặp gỡ đối thoại giữa Suzana với bà tù trưởng hùng mạnh

Yă Wam cùng ông vua voi Y Thu Rnul khi họ trở về đón linh hồn Aê Phi trong

điệu chinh và điệu múa chầm chậm đưa tiễn linh hồn lần cuối: “Một áng mây đen

che khuất mặt trăng. Rừng tối lại. Gió dường như ngừng thổi. Vẳng tiếng nói

khiến Suzana giật mình quay lại, một bà lão trong bộ váy áo thổ cẩm, tóc bạc

trắng xoà dài đến tận gót chân, dáng vươn thẳng, uy nghiêm; bên cạnh là người

đàn ông mặc khố, ở trần, dáng thấp đậm cường tráng, đầu vấn khăn đỏ, tay chống

một chiếc lao dài” [12, tr.84]. Tước khi đón linh hồn A ê Phi đi, họ nhắc nhở con

cháu những điều tốt đẹp: “Luật tục chúng ta không cấm nam nữ chưa vợ chưa

chồng lấy nhau. Nhưng chúng ta luôn phải nhắc nhở con cháu không được rời xa

nhau, đồng lòng gìn giữ đất đai, cái nong cái nia, cái lưng ông bà, cả những tập

tục khác của dòng tộc. Chỉ có như thế buôn sang chúng ta mới sống mãi mãi hàng

ngàn năm nay” [12, tr.86]. Nhắc nhở xong rồi họ mới yên tâm ra đi: “Trăng ló ra

khỏi đám mây, mặt đất sáng rỡ. Dào dạt gió. Mơ hồ sương. Một làn khói mỏng

manh bay vút lên tan biến trong vòm xanh lơ mờ hun hút của bầu trời. Suzana giật

mình mở choàng mắt” (Pơ thi mênh mang mùa gió) [12].

97

Truyện Hoa Pơ lang là một trong số ít tác phẩm nhà văn xây dựng cốt truyện

theo kiểu truyền thống, diễn biến sự kiện theo dòng chảy thời gian nhưng lại mới mẻ

hiện đại ở chỗ nhà văn xây dựng tình huống rất kịch tính và lấy chất liệu sử thi: nội

dung, nhân vật, yếu tố hoang đường chỉ có trong truyện cổ để thổi hồn vào tác phẩm,

chuyển tải thông điệp về tình yêu. Tù trưởng Đam San giỏi giang, hùng mạnh, đem

lòng yêu tha thiết tù trưởng H’Bia giàu có, xinh đẹp nhưng theo luật tục, Đam San

phải nối dây với HNhí, HBhí. Khi H’Bia đem lễ vật đến cương quyết hỏi cưới Đam

San chống lại luật tục thì: “trời đất bỗng dưng tối sầm, nghiêng ngả, sấm sét ầm ầm

nổi lên từ bốn phía. Gió cuốn đất đá, cỏ cây bay mù mịt. Voi ngựa, trâu bò ngoài sân

gầm rống. Lũ con nít thét lên túm lấy váy mẹ. Tiếng ông Ykla oang oang trong sấm

rền: Nếu Đam San, HNhí, HBhí lấy nhau, họ sẽ là tù trưởng hùng mạnh, giàu có nhất

vùng. Ai làm ngược lại sẽ phải chịu thành nô lệ giữ bò, giữ ngựa cho người kia. Ô hô

hô hô … Yàng sét thu búa về. Yàng gió đẩy mây đen bay đi, trời lại xanh bao la yên

tĩnh” [6, tr.16]. Khi Đam San và H’Bia không thể bẻ gẫy được luật tục, chàng buộc

phải lên voi về nhà HNhí, HBhí, tác giả miêu tả: “Đam San ngoái lại nhìn H’Bia đơn

độc đứng chênh vênh nơi mép sàn, dõi theo bước chân voi. Chàng càng đi xa, hình

dáng nàng càng lớn lên , cao lên, tạc sâu vào nền trời xanh như ngọc. Rồi tất cả nhòa

đi, chỉ còn một thân cây cao lớn sừng sững vươn những cánh tay dài lên bầu trời

thăm thẳm cao, xa vời vợi. Những người đàn bà gọi đó là cây blang. Cây blang có

hoa đỏ mùa hè, kết thành bông trắng mùa đông. Cánh đỏ như máu của hoa chính là

từng mảnh trái tim đầy yêu thương đã tan nát của nàng H’Bia. Gió đông tách những

chùm bông trắng xóa, mang tình yêu của H’Bia theo Đam San tới tận cuối đất cùng

trời. Các cô gái Radeh nhặt bông ấy xe chỉ, nhuộm nước lá rừng, dệt những tấm

chăn, đắp ấm mọi lứa đôi yêu nhau” (Hoa Pơ lang) [6, tr.18]. Hình tượng Đam San

và H’Bia cuối truyện là một hình tượng đẹp nhưng đầy bi kịch, khắc sâu nỗi đau chia

cắt của những đôi lứa yêu nhau chỉ vì tập tục cuê nuê. Hình tượng ấy góp phần khẳng

định khát vọng yêu đương cháy bỏng của người dân Tây Nguyên thời kì hiện đại. Đó

là khát vọng yêu đương tự do, khát vọng hạnh phúc chính đáng của con người. Nhà

văn lấy kết thúc đau đớn không có hậu của nhân vật để phê phán hủ tục lạc hậu và

ngợi ca tấm lòng thủy chung trọn đời trọn kiếp của con người cũng như ngợi ca sự

bất tử của tình yêu.

98

Trong truyện Dòng sông tóc, tác giả miêu tả đồng hiện đan cài hai câu chuyện

thực và ảo. Câu chuyện hiện thực về một mối tình không lời giữa một cô gái Tây

Nguyên ngày đêm đi tìm vẻ đẹp văn hóa dân tộc trong ký ức của những nghệ nhân

già với một vị Tổng giám đốc tài ba, hết mình vì công việc và có một trái tim nhạy

cảm. Câu chuyện này đặt song hành cùng câu chuyện thần thoại về mối tình của con

trai thần sông Srêpôk với hai người con gái của Đất và Rừng là Rinh và Rao. Câu

chuyện hiện thực hướng người đọc đến cuộc tình thầm lặng, đầy éo le ngang trái, chỉ

có thể thấu hiểu nhau qua ánh mắt, trái tim của hai con người có tâm hồn đa cảm.

Ngàn sợi dây vô hình ràng buộc níu kéo khiến tình yêu hai người không thể cất cánh:

“Anh chị không bao giờ đủ cản đảm vứt bỏ tất cả để đến với nhau, dù chỉ một lần.

Ngàn sợi dây vô hình ràng buộc, níu kéo họ. Sống trên đời này, làm người tốt cũng

khổ lắm thay. Thi thoảng có tình cờ gặp nhau, vẫn chỉ những ánh mắt đằm thắm và

những câu chuyện vu vơ. Câu thơ anh đọc chị nghe một lần nào đó, đè trĩu lên trái

tim họ: Em là bài thơ không chép được/ Mà đành lòng anh phải thuộc từng câu” [6,

tr.125]. Câu chuyện thần thoại hướng vào việc giải thích về sự tích hoa mnga krih -

hoa Sen và hiện tượng dòng sông Srêpôk trào dâng thác lũ, sóng cuốn đi tất cả mọi

thứ hai bên bờ trong cuộc tranh giành tình yêu. Hai người con gái của đất với rừng là

Rinh, Rao và con trai thần sông Srêpôk yêu nhau; nhưng rồi con trai thần sông

Srêpôk không giữ vẹn được tiếng thề vì con gái của vua Hải Long ngoài biển lớn đã

đem lễ vật đến xin cưới chàng làm chồng. Rinh và Rao chờ chàng hoài nơi bến tắm

quen thuộc mà mãi chẳng thấy chàng đâu: “Trời đã tắt nắng từ lâu mà Ring Rao vẫn

ủ rũ ngồi bên bờ nước. Chợt một làn gió dữ dội ào qua, mặt sông trào sóng. Một cột

nước từ xa dồn tới, cuồn cuộn dâng cao, sầm sập như sắp đổ ập lên bờ. Từ trên đỉnh

ngọn sóng cao ngất, người yêu của hai nàng như lướt tới. Con sóng tan, chàng đã

đứng trước mặt họ” [6, tr.122]; thế rồi: “Trời quang, mây xanh trở lại nhởn nhơ trên

bầu trời. Chẳng ai còn nhìn thấy Ring Rao ở đâu. Trên mặt sông từ từ nổi lên hai cây

hoa lạ: thân thon dài mảnh mai, đầy những chấm gai nhỏ, nâng trên đầu hai búp hoa

màu hồng và màu trắng. Những cánh hoa mỏng mảnh xếp lớp, chở che cho chiếc đài

hoa vàng, tròn mịn màng như gương mặt của người con gái đẹp. Đôi ba chiếc lá

xanh tròn to xoà ra trên mặt sông, rung rinh những giọt nước hệt như nước mắt.

Chẳng đẹp rực rỡ như những loài hoa khác, nhưng hương thơm ấp ủ trong búp hoa,

theo gió lan tỏa đi bốn phương, dịu dàng kiếm tìm, nhắn gọi. Buôn làng gọi đó là

99

mnga krih (hoa sen). Dòng sông từ ngày đó mang tên Krông Buk - sông Tóc (dòng

sông tóc)”. “Vài năm một lần nhớ người yêu, con sông tóc lại ào ạt chở theo bao

nhiêu cấy cối ầm ầm lao về phía biển”, “để vỗ về an ủi chồng, công chúa Hải

Long dâng sóng cuốn đi bao nhiêu con người và của cải về đặt dưới chân chàng”

[6, tr.123-124]. Hai câu chuyện mang nội dung khác nhau nhưng thống nhất trong

cùng một cốt truyện và cùng chuyên chở một thông điệp: ở mọi thời, tình yêu bao giờ

cũng là điều tuyệt vời nhất của con người. Tình yêu có sức mạnh diệu kì, nó làm cho

con người đẹp đẽ, rực rỡ hơn lên và làm cho cuộc sống thêm ý nghĩa. Tình yêu chính

là nguồn sống, là chỗ dựa tinh thần của con người; “Tình yêu đã làm nên những điều

đẹp nhất của cuộc sống đại ngàn”. Nếu con người không còn tình yêu nữa thì sẽ trở

nên “khô cằn, đầy thù hận”. Vì vậy tình yêu rất cần, rất quan trọng để: “nuôi dưỡng

những trái tim” và “làm sống lại những tâm hồn sỏi đá”. Chiêm nghiệm về tình yêu,

đồng cảm với những đôi lứa yêu nhau nhưng gặp phải khó khăn trở ngại, nhà văn

bâng khuâng tự hỏi: “Có bao giờ hết không, những chuyện tình của mọi kiếp

người?”(Dòng sông tóc) [6, tr.125].

Rõ ràng, việc đưa yếu tố kì ảo, hoang đường, sử thi, huyền thoại đan cài vào

vào cốt truyện hay gắn các chi tiết sự kiện nửa hư nửa thực trong hình tượng nhân

vật, nhà văn đã tạo được tình huống truyện lạ lẫm, lôi cuốn, kích thích trí tò mò,

hứng thú của độc giả và làm tăng thêm sức hấp dẫn cho tác phẩm. Sự hư thực,

huyền ảo góp phần làm cho màu sắc sử thi Tây Nguyên hiện lên sâu đậm trên trang

văn, tạo cho chị một phong cách riêng rất ấn tượng trong lòng độc giả. Sau chị, ta

cũng bắt gặp đặc điểm văn chương này trong một số tác phẩm của Niê Thanh Mai

như: Về bên kia núi, Giữa cơn mưa trắng xóa, Buốt hơn sương đêm... song cách

thể hiện của hai nhà văn hoàn toàn khác biệt. Truyện H’Linh Niê đem đến cho ta

một sự nhẹ nhàng, thâm trầm, tinh tế, đầy trải nghiệm còn truyện của Niê Thanh

Mai đem đến cho ta một sự hồn nhiên, chân thành, dung dị, trẻ trung. Nhìn vào

điểm thành công của H’Linh Niê, ta có thể khẳng định: Nguồn gốc văn hóa dân gian

và tài năng sáng tạo của nhà văn hòa quyện làm một tạo nên những chỉnh thể nghệ

thuật hoàn thiện, có giá trị giáo dục, thẩm mĩ cao, và cũng là minh chứng thuyết

phục cho tình yêu cháy bỏng của nhà văn với thiên nhiên, con người,với cuộc đời

và quê hương đất nước.

100

Tiểu kết chương 3

Nghiên cứu một số phương diện nghệ thuật cơ bản trong truyện - ký Linh

Nga Niê Kdam, chúng tôi nhận thấy: nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trong văn

chương của chị vô cùng tinh tế, phong phú, đa dạng. Chị mở ra cả một kho tàng

ngôn ngữ mang đậm dấu ấn dân tộc Tây Nguyên. Việc sử dụng hệ thống từ vựng

dân tộc, giữ nguyên vẹn câu văn bằng tiếng dân tộc kết hợp với lớp ngôn từ vừa

mộc mạc giản dị vừa triết lý sâu sắc, gần gũi với lời ăn tiếng nói, tư duy người dân

tộc khiến cho ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn trở nên chân thực, mang đậm hồn

cốt Tây Nguyên. Chất riêng trong ngôn ngữ nghệ thuật của Linh Nga là chị đưa tiết

tấu, giai điệu, các khúc hát dân ca của âm nhạc dân gian truyền thống Tây Nguyên

vào những câu văn xuôi bay bổng, giàu hình ảnh, giàu tình cảm cảm xúc khiến mỗi

áng văn chương như một mảnh tâm tình đầy dịu ngọt, thẫm đẫm chất thơ, chất nhạc,

làm say đắm lòng người. Chị còn đưa vào văn xuôi của mình yếu tố huyền ảo, sử

thi, huyền thoại cùng các câu truyện cổ góp phần làm cho tác phẩm thêm phong phú

về nội dung, thêm đậm đà bản sắc dân tộc, tạo được phong cách riêng độc đáo. Bên

cạnh một số hạn chế như: còn sử dụng nhiều hình tượng, hình ảnh mang tính ước lệ,

tượng trưng nhất là khi miêu tả vẻ đẹp con người làm cho hình tượng nhân vật hiện

lên chưa thật sự nổi bật, cá tính, ít chất tạo hình cùng với việc đôi khi trong một tác

phẩm, nhà văn đưa vào quá nhiều yếu tố sử thi, huyền thoại khiến cho người đọc có

cảm giác tác phẩm đó thiếu sự tươi mới, hiện đại… thì chúng ta không thể không

khẳng định: Linh Nga Niê Kdam quả là một nhà văn tài hoa, đầy sáng tạo trong việc

kế thừa vốn văn hóa truyền thống và kết hợp lối viết có tính truyền thống với lối

viết hiện đại; luôn lao động nghệ thuật nghiêm túc, không ngừng tìm tòi đổi mới.

Chị đã thành công trong việc đưa vẻ đẹp văn hóa dân tộc Tây Nguyên hòa nhập vào

dòng văn hóa đất Việt. Thông qua các trang văn xuôi thấm đẫm chất dân tộc và

miền núi nhưng cũng rất hiện đại của mình, chị thật sự xứng đáng là nhà văn Tây

Nguyên tiêu biểu thời kì Đổi Mới.

101

KẾT LUẬN

1. Nhà văn Linh Nga Niê Kdam là một trong số những nhà văn DTTS ở Tây

Nguyên trưởng thành sau những năm Đổi Mới của đất nước. Mặc dù không sinh ra

và lớn lên trên mảnh đất Tây Nguyên nhưng trái tim chị vẫn luôn hướng về quê

hương, dòng tộc. Chị có một tình cảm sâu nặng với cuộc sống, con người, bản sắc

văn hóa Tây Nguyên bởi ngay thời thơ ấu chị đã được bồi đắp, giáo dục ý thức dân

tộc từ chính người cha Tây Nguyên kính yêu của chị. Vì thế, khi trưởng thành, hoàn

thiện học vấn, chị tự nguyện trở về quê hương, bắt đầu một con đường mới: sáng

tác, nghiên cứu, tìm hiểu, sưu tầm văn hóa, văn nghệ dân gian và dành hết tâm

huyết, cống hiến hết mình cho văn học nghệ thuật Tây Nguyên. Nói một cách khác,

chính văn hóa dân gian truyền thống Tây Nguyên đã tạo nên Linh Nga Niê Kdam

như lời chị thường nói nghiêm túc: “Theo quan niệm của người Tây Nguyên thì

chính các vị thần linh thiêng và những con người của mảnh đất cao nguyên này đã

ban, đã giao cho tôi tất cả những gì hiện có, như một nghĩa vụ, một sự bắt buộc

phải làm thế”. Tuy đến với văn chương hơi muộn (so với một số nhà văn khác)

song với sức viết dồi dào, với cảm hứng mãnh liệt, chị đã nhanh chóng đạt được

những thành tựu trong sự nghiệp sáng tác văn học. Đến nay, chị đã có nhiều tập

truyện ngắn và bút ký được công bố vừa có sự kế thừa tinh hoa văn hóa dân tộc lại

có nhiều sáng tạo độc đáo hấp dẫn, trong đó có một số tác phẩm được đánh giá cao.

Chị trở thành một trong những trí thức tiêu biểu, một nhà văn tiêu biểu của Tây

nguyên góp phần phát huy sự phát triển văn học dân tộc.

2. Nghiên cứu văn xuôi Linh Nga Niê Kdam chúng tôi nhận thấy: văn xuôi

của chị có mang một vài đặc điểm chung như những nhà văn DTTS khác nhưng lại

có đặc điểm riêng kể cả về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Các tập truyện và ký

của chị đều tập trung thể hiện tình yêu, niềm tự hào của một người con Tây Nguyên

về mảnh đất quê hương cao nguyên yêu dấu của mình. Đó là một vùng thảo nguyên

rộng lớn có cảnh sắc thiên nhiên vô cùng hùng vĩ, hoang sơ nhưng cũng rất đỗi lãng

mạn, mộng mơ. Bức tranh thiên nhiên trong văn chị rất gần gũi, thân thiết với con

người; mang đậm phong vị cao nguyên đất đỏ Bazan tràn đầy nắng, gió và hương

thơm tinh khiết của cỏ cây, hoa lá cùng sự dữ dội của suối, sông, thác, hồ trên núi

102

cao. Thiên nhiên ấy được cảm nhận từ tình yêu, sự gắn bó, trân trọng của chính nhà

văn và được viết nên bởi ngòi bút văn xuôi trữ tình, bay bổng, tràn đầy cảm xúc.

Bên cạnh đó, nét đặc sắc trong các sáng tác của Linh Nga Niê Kdam còn thể

hiện ở chỗ chị phản ánh rất sinh động chân dung, tính cách con người Tây Nguyên

cùng nền văn hóa đậm đà bản sắc các dân tộc Tây Nguyên. Đó là những con người

sống mạnh mẽ, quả cảm, rất mực tài hoa và luôn khao khát vươn lên đổi thay cuộc

sống. Họ sinh ra lớn lên, gắn bó với núi rừng nên cách nghĩ, lối tư duy cùng lối

sống, lối ứng xử rất giản dị, hồn nhiên, chân thực nhưng cũng rất phóng khoáng,

lãng mạn. Họ chính là chủ nhân, là người sáng tạo, lưu truyền và gìn giữ cảnh sắc

thiên nhiên cũng như những phong tục tập quán, văn hóa các dân tộc Tây Nguyên.

Qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay Tây Nguyên vẫn là một cộng đồng dân tộc

giàu bản sắc văn hóa. Nét đẹp văn hóa của họ thể hiện rõ trong kiến trúc nhà ở,

trong nghề thủ công, trang phục truyền thống, trong ẩm thực, các loại nhạc cụ dân

gian....; đặc biệt hơn là nét đẹp văn hóa thể hiện trong những ngày lễ hội, trong đời

sống tâm linh, những tục cưới xin, tang ma, sinh con đẻ cái… Tất cả những nét đẹp

văn hóa đó giúp độc giả có cài nhìn sâu sắc hơn về cuộc sống, con người trên mảnh

đất này thông qua các trang bút kí và truyện ngắn của nhà văn Linh Nga Niê Kdam.

Mặc dù rất tự hào về mảnh đất, con người Tây Nguyên giàu bản sắc văn hóa

nhưng Linh Nga Niê Kdam vẫn tỉnh táo nhận ra những khó khăn thách thức mới đối

với mảnh đất này: địa thế không thuận lợi, thời tiết khắc nghiệt, thiên tai bão lũ, đói

nghèo, lạc hậu, với những hủ tục nặng nề vẫn đang là rào cản con đường phát triển đi

lên của nhân dân Tây Nguyên trong thời kì hiện đại. Nhà văn cũng đau đớn nhận thấy

sự tha hóa trong lối sống, sự xuống cấp về đạo đức, nhân phẩm của một số những

người con bản địa ở nơi đây. Những tác động tiêu cực từ mặt trái của đời sống kinh tế

thị trường với lối sống thực dụng coi đồng tiền là trên hết; từ sự thay đổi tín ngưỡng,

tôn giáo một cách nhẹ dạ, cả tin, mù quáng là một trong nhiều nguyên nhân khiến cho

văn hóa Tây Nguyên ngày càng bị phai nhạt, mất mát, môi trường thiên nhiên, môi

trường xã hội ở vùng cao ngày càng bị tổn thương nghiêm trọng. Trăn trở, lo âu về

vấn đề này, nhà văn tha thiết kêu gọi tất cả mọi người - dù là ai chăng nữa cũng cần

có ý thức bảo vệ những giá trị văn hóa truyền thống quý báu của dân tộc và phát huy

những truyền thống ấy trong đời sống hôm nay để mãi mãi con cháu biết và tự hào về

cha ông, về dòng tộc, về quê hương đất nước của mình.

103

Để thể hiện được những nội dung đó một cách sâu sắc, nhà văn đã sử dụng

một số yếu tố nghệ thuật rất hiệu quả, góp phần mang lại những thành công nhất

định cho các tác phẩm văn xuôi của mình. Đó là nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ

đậm màu sắc Tây Nguyên, không thể trộn lẫn. Cùng với ngôn ngữ chuẩn mực

(toàn dân), nhà văn đan cài vào tác phẩm của mình một hệ thống ngôn ngữ bằng

tiếng dân tộc Ê đê, kết hợp sáng tạo một loạt các ngôn từ cùng một loạt các hình

ảnh và cách diễn đạt mới mẻ; đưa nhạc tính vào những câu văn xuôi khiến cho

văn chương của chị rất mượt mà, trữ tình, bay bổng, giàu cảm xúc và dễ đi vào

lòng người đọc. Cùng với ngôn ngữ nghệ thuật độc đáo vừa quen thuộc vừa mới

lạ, nhà văn còn dụng công trong việc xây dựng cốt truyện, tình huống truyện

(giàu kịch tính), lồng chất sử thi huyền thoại vào những trang văn… đem lại sự

mới mẻ, hứng thú cho người đọc.

3. Thông qua những tác phẩm truyện - ký giàu tính chân thực, phong phú về

nội dung phản ánh và có nhiều nét mới lạ, độc đáo về nghệ thuật, Linh Nga Niê

Kdam đã tự khẳng định được vị trí và những đóng góp quan trọng của mình trong

văn xuôi các dân tộc Tây Nguyên. Điểm thành công nhất trong văn xuôi của chị là

đã biết kế thừa tinh hoa văn hoá, văn học truyền thống một cách đầy sáng tạo. Văn

chương của chị vừa thể hiện được tư duy hiện đại lại vừa phảng phất hơi thở sử thi

huyền thoại; vừa chặt chẽ giàu triết lý vừa lãng mạn bay bổng thiết tha và dịu dàng

đầy nữ tính. Bằng sự nỗ lực, bằng sức sáng tạo và trên hết là bằng tình cảm, trái tim

nhiệt thành, luôn hướng về Tây Nguyên, Linh Nga Niê Kdam đã góp thêm một

tiếng nói tâm hồn của người vùng cao Tây Nguyên trong đời sống văn học các

DTTS thời kì hiện đại. Chị xứng đáng là nhà văn nữ DTTS tiêu biểu, là người có

nhiều cố gắng góp phần làm giàu có thêm bản sắc dân tộc đối với nền văn học Việt

Nam trong thời kì Đổi mới và Hội nhập.

104

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Tuấn Anh, Bích Thu (chủ biên) (2001), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt

Nam giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945, NXB Văn học.

2. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, NXB ĐH Quốc gia.

3. Phạm Đăng Dư, Lê Lưu Oanh (1997), Giáo trình lý luận văn học, NXB Giáo dục.

4. Hà Minh Đức (2006), Lí luận văn học, NXB Giáo dục.

5. Hà Minh Đức, Lê Bá Hán (1995), Cơ sở lí luận văn học tập II, NXB Đại học

và Trung học chuyên nghiệp.

6. H’Linh Niê (1997), Con Rắn màu xanh da trời, Tập truyện ngắn, NXB Văn

hóa dân tộc.

7. H’Linh Niê (1999), Trăng Xí Thoại, Tập bút ký, NXB Quân đội.

8. H’Linh Niê (2003), Đi tìm hồn chiêng, Tập bút ký, NXB Quân đội.

9. H’Linh Niê (2004), Gió đỏ, Tập truyện ngắn, NXB Hội Nhà Văn.

10. H’Linh Niê (2005), Chân dung văn nghệ sĩ Tây Nguyên, Tập bút ký, NXB

Văn hóa dân tộc.

11. H’Linh Niê (2008), Nhân danh ai ?, Tập bút ký, NXB Quân đội.

12. H’Linh Niê (2009), Pơ Thi mênh mang mùa gió, Tập truyện ngắn, NXB Văn

hóa dân tộc.

13. H’Linh Niê (2015), Tại gió mà nhớ, NXB Văn hóa Dân tộc.

14. H’Linh Niê, Trần Hồng Lâm, Niê Thanh Mai, Siu H’Kết (2014), Bốn cây

Knia, NXB Văn hóa Dân tộc.

15. Võ Thị Hà (2012), Niềm hạnh phúc đáng trân trọng,

http://www.linhnganiekdam.vn/, ngày 09/05/2012.

16. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2001), Từ điển thuật ngữ văn

học, NXB Giáo dục.

17. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (chủ biên)

(2004), Từ điển văn học (bộ mới), NXB Thế giới.

18. Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (2007), Văn học nghệ

thuật các dân tộc thiểu số thời kì đổi mới, NXB Văn hóa dân tộc.

19. Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (2011), Văn xuôi dân

tộc và miền núi đầu thế kỷ XXI, NXB Văn hóa dân tộc.

105

20. Hoàng Ngọc La (chủ biên) (2002), Văn hóa dân gian Tày, Sở Văn hóa -

Thông tin Thái Nguyên

21. Phương Lựu (2006), Lí luận văn học, NXB Giáo dục.

22. Niê Thanh Mai (2005), Suối của rừng, NXB Văn hóa Dân tộc.

23. Niê Thanh Mai (2007), Về bên kia núi, NXB Văn hóa Dân tộc.

24. Niê Thanh Mai (2010), Ngày mai sáng rỡ, NXB Văn hóa Dân tộc.

25. Linh Nga Niê Kdam (chủ biên) (2015), Văn học các dân tộc thiểu số Trường

Sơn - Tây Nguyên, NXB Văn hóa Dân tộc.

26. Phạm Duy Nghĩa (2008), Văn xuôi miền núi và vấn đề truyền thống, hiện đại,

http://toquoc.vn/van-chuong-va-du-luan/van-xuoi-ve-dan-toc-va-mien-nui-tu-

1986-den-nay-105885.html, ngày 06/07/2010.

27. Nguồn http://kmacle.duytan.edu.vn, Bản sắc văn hóa Tây Nguyên - Những

biểu hiện đặc sắc.

28. Nguồn http://www.linhnganiekdam.vn/, Văn hóa dân gian Tây Nguyên.

29. Đào Thủy Nguyên, Dương Thu Hằng (2014), Bản sắc văn hóa dân tộc trong văn

xuôi của các nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam, NXB Đại học Thái Nguyên.

30. Nhà xuất bản Sự thật (1956), Văn hóa là gì, trích dịch trong bộ “Đại Bách

khoa toàn thư của Liên Xô”.

31. Kim Nhất (1994), Mụ Xoặi, Hội Văn hóa nghệ thuật Đăk Lăk.

32. Kim Nhất (1998), Ly hôn, NXB Văn hóa Dân tộc.

33. Kim Nhất (1999), Động rừng, NXB Văn hóa Dân tộc.

34. Kim Nhất (2003), Hồn ma núi, NXB Quân đội nhân dân.

35. Kim Nhất (2005), Huyền thoại Bok Kron, NXB Quân đội nhân dân.

36. Nhiều tác giả (1997), 40 năm văn hóa nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt

Nam (1945 - 1985), NXB Văn hóa.

37. Nhiều tác giả (1997), Tiếng nói các nhà văn Dân tộc thiểu số, NXB Văn hóa

Dân tộc.

38. Nhiều tác giả (2003), Bách khoa tri thức phổ thông, NXB Văn hóa thông tin.

39. Nhiều tác giả (2015), Phái đẹp, cuộc đời và cấy bút, NXB Hội Nhà văn.

40. Vương Tâm (2013), Có một người Hà Nội ở Ban Mê,

http://www.linhnganiekdam.vn/, ngày 06/07/2013.

41. Chu Thị Dạ Thảo (2012), http://www.linhnganiekdam.vn/, ngày 26/10/2012.

106

42. Trần Ngọc Thêm (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục

43. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm hiểu về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB TP HCM.

44. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam,

NXB Trẻ Tp. Hồ Chí Minh.

45. Đặng Bá Tiến (2013), Hiểu đúng mới bảo tồn được văn hóa Tây Nguyên,

http://www.linhnganiekdam.vn/, ngày 26/08/2013.

46. Lâm Tiến (2011), Gian nan về với cội nguồn, http://www.linhnganiekdam.vn/,

ngày 20/05/2012

47. Lâm Tiến (2011), Tiếp cận văn học dân tộc thiểu số, NXB Văn hóa thông tin.

48. Phạm Quang Trung (2010), Hồn cây sắc núi - Tiểu luận phê bình văn chương,

NXB Hội Nhà văn.

49. Trần Thị Việt Trung (2014), Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam - Truyền

thống và hiện đại, NXB Đại học Thái Nguyên.

50. Trần Thị Việt Trung (chủ biên) (2010), Bản sắc dân tộc trong thơ các dân tộc

thiểu số Việt Nam hiện đại, NXB Đại học Thái Nguyên

51. Trần Thị Việt Trung (chủ biên) (2013), Nghiên cứu, lí luận phê bình Văn học dân

tộc thiểu số Việt Nam - Diện mạo và đặc điểm, NXB Đại học Thái Nguyên.

52. Trần Thị Việt Trung, Cao Thị Hảo (đồng chủ biên) (2015), Văn học dân tộc thiểu

số Việt Nam thời kì hiện đại - Một số đặc điểm, NXB Đại học Thái Nguyên.

53. Vũ Anh Tuấn (chủ biên) (2014), Giáo trình Văn học dân gian, NXB Giáo dục.

54. Website văn học và nhà trường, Kết cấu trong văn xuôi dân tộc thiểu số.

55. Y Điêng (1985), Drai Hlinh đi về phía sáng, NXB Văn hóa dân tộc.

56. Y Điêng (1994), Chuyện bên bờ sông Hinh, NXB Văn hóa dân tộc.

57. Y Điêng (1995), Sông Hinh, con sông quê hương, NXB Văn hóa dân tộc.

58. Y Điêng (2001), Chuyện bên bờ sông Hinh, tập 1, NXB Văn hóa dân tộc.

59. Y Điêng (2005), Chúng tôi đốt lửa, Hội Văn hóa nghệ thuật Đăk Lăk.

60. Y Du La Niê (2012), Đọc truyện ngắn gió trên đỉnh Ngok Linh,

http://www.linhnganiekdam.vn/, ngày 30/07/2012.