ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGÔ THỊ HÀ
CUỘC VẬN ĐỘNG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
HUYỆN NÔNG CỐNG, TỈNH THANH HÓA
(2009 - 2013)
LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN
Thái Nguyên - 2015
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGÔ THỊ HÀ
CUỘC VẬN ĐỘNG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
HUYỆN NÔNG CỐNG, TỈNH THANH HÓA
(2009 - 2013)
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.03.13
LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Xuân Minh
Thái Nguyên - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu: Cuộc vận động xây dựng nông
thôn mới huyện Nông Cống tỉnh Thanh Hóa (2009- 2013), dưới sự hướng dẫn
của TS. Nguyễn Xuân Minh là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số liệu
nêu trong Luận văn là trung thực. Những chỗ sử dụng kết quả nghiên cứu của
các tác giả khác đều được tác giả trích dẫn rõ ràng.
Tôi xin chịu trách nhiệm trước Hội đồng chấm Luận văn và Nhà trường
về sự cam đoan này.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2015
Tác giả
Ngô Thị Hà
i
LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến Nhà giáo
Ưu tú – Tiến sĩ Nguyễn Xuân Minh đã tận tình hướng dẫn và động viên tinh
thần cho tác giả trong quá trình hoàn thành Luận văn.
Tác giả xin cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong khoa Lịch sử Trường
ĐHSP – Đại học Thái Nguyên, Phòng tư liệu Viện Sử học Việt Nam, Thư viện
Quốc gia, Trung tâm học liệu, Thư viện trường ĐHSP, … đã tạo điều kiện để
tác giả hoàn thành Luận văn này.
Tác giả cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè,
đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập và hoàn
thành Luận văn này.
Tác giả xin cảm ơn những đánh giá, nhận xét của Hội đồng khoa học bảo
vệ Luận văn.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2015
Tác giả
Ngô Thị Hà
ii
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục bảng biểu iv
Danh mục các chữ viết tắt v
1 MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài 8
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu 8
5. Đóng góp mới của Luận văn 9
6. Kết cấu của Luận văn 9
Chương 1. KHÁI QUÁT HUYỆN NÔNG CỐNG TRƯỚC CUỘC
11 VẬN ĐỘNG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1.1. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên và các nguồn tài nguyên thiên nhiên 11
1.1.1. Vị trí địa lí 11
1.1.2. Điều kiện tự nhiên 11
1.1.3. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên 14
1.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội huyện Nông Cống 16
1.2.1. Đặc điểm kinh tế 16
1.2.2. Đặc điểm xã hội 21
Chương 2. CUỘC VẬN ĐỘNG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
28 Ở HUYỆN NÔNG CỐNG (2009 - 2013)
2.1. Chủ trương của Đảng, Nhà nước về xây dựng nông thôn mới 28
iii
2.2. Sự vận dụng của Đảng bộ, Chính quyền địa phương về xây dựng
nông thôn mới 32
2.2.1. Sự vận dụng của Đảng bộ, Chính quyền tỉnh Thanh Hóa 32
2.2.2. Sự vận dụng của Đảng bộ, Chính quyền huyện Nông Cống và quá
trình thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới 37
Chương 3. NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG CUỘC
VẬN ĐỘNG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN NÔNG
CỐNG (2009 -2013) 55
3.1. Thành tựu 55
55
3.1.1. Sản xuất phát triển, thu nhập của người dân được nâng cao 3.1.2. Đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn được nâng cao 58
60
63
72 3.1.3. Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội được tăng cường 3.1.4. Số tiêu chí đạt chuẩn theo Bộ Tiêu chí Quốc gia về nông thôn mới được nâng lên 3.2. Hạn chế
77 KẾT LUẬN
83 TÀI LIỆU THAM KHẢO
89 PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Trang Danh mục các bảng
Bảng 2.1. Danh sách 11 xã điểm xây dựng nông thôn mới tỉnh Thanh 35 Hoá
Bảng 2.2. Bộ máy tổ chức thực hiện chương trình 38
Bảng 2.3. Tổng hợp các xã đăng kí phấn đấu đạt chuẩn nông thôn mới 47 đến năm 2015, định hướng đến năm 2020
Bảng 3.1. Tổng hợp các tiêu chí xây dựng nông thôn mới đã đạt của 65 toàn huyện đến 12/2013
Bảng 3.2. Tổng hợp kết quả các tiêu chí nông thôn mới đã đạt (Tính 68 đến tháng 12/2013)
Bảng 3.3. Tổng hợp kết quả nông thôn mới sau 5 năm thực hiện (Tính 69 đến tháng 12/2013)
Bảng 3.4. Tiến độ xây dựng nông thôn mới huyện Nông Cống sau 5 70 năm 2009 - 2013
Biểu 3.1. Cơ cấu nguồn lực tài chính huyện Nông Cống 61
iv
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT GIẢI NGHĨA
Ban Chỉ đạo BCĐ
Ủy ban Nhân dân UBND
Nông thôn mới NTM
Mặt trận Tổ quốc MTTQ
Chủ nghĩa xã hội CNXH
Hội đồng Nhân dân HĐND
Mục tiêu Quốc gia MTQG
Trung ương TW
Quyết định QĐ
Nghị quyết NQ
Chính phủ CP
CNH - HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Khoa học kĩ thuật KHKT
Phát triển nông thôn PTNT
Hợp tác xã HTX
Trung học cơ sở THCS
v
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong lịch sử Việt Nam, nông nghiệp, nông thôn và nông dân luôn đóng
vai trò to lớn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Việt Nam là một nước sống về
nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây
dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông
nghiệp một phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh
thì nước ta thịnh" [31, Tr. 542].
Kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới đất nước (1986), dưới sự lãnh
đạo của Đảng, nền nông nghiệp nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn;
đời sống nông dân có những chuyển biến rõ rệt và diện mạo nông thôn có
nhiều thay đổi. Ngày nay, kinh tế nông thôn là bộ phận quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân. Phát triển nông thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
người nông dân là nhiệm vụ chiến lược, là cơ sở để đảm bảo ổn định tình hình
chính trị - xã hội, sự phát triển hài hoà và bền vững theo định hướng xã hội chủ
nghĩa của đất nước. Do vậy, trong sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất
nước, vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân luôn được Đảng ta xác định
là nhiệm vụ quan trọng đặc biệt cả về tổng kết lí luận, thực tiễn và đầu tư cho
phát triển.
Một trong những chủ trương quan trọng có tầm chiến lược đặc biệt quan
trọng của Đảng và Nhà nước những năm gần đây là xây dựng nông thôn mới.
Chủ trương này nhằm cụ thể hóa việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần 7
BCH Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Chương
trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới (MTQG XDNTM) đã được cả
hệ thống chính trị và toàn bộ xã hội, nhất là cư dân nông thôn đồng tình tích
cực đón nhận.
Thanh Hóa là một tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung Bộ. "Trong tiến trình phát
triển của lịch sử Việt Nam, xứ Thanh là một trong những tỉnh có vị trí cực kì
1
quan trọng, có truyền thống văn hóa lâu đời, là một trong những cái nôi của
người xưa, nơi sản sinh ra nhiều anh hùng hào kiệt, là tỉnh đất rộng, người
đông, nhân dân có truyền thống đấu tranh anh dũng và cần cù lao động”[32,
Tr. 66 ]. Sau ngày đất nước thống nhất, cùng với sự phát triển chung của cả nước,
nông nghiệp, nông dân, nông thôn của tỉnh đã đạt được những thành tựu đáng kể:
Nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng khá; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tập
trung xây dựng và củng cố; đời sống vật chất và tinh thần của người dân từng bước
được cải thiện; công tác xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm thu được một số
kết quả nhất định; hệ thống chính trị cơ sở được tăng cường, quyền dân chủ được
phát huy, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội nông thôn được giữ vững.
Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập và đổi mới, cũng đặt ra nhiều vấn đề
cần được giải quyết: Kiến trúc nông thôn phát triển tự phát và thiếu định hướng
quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất và
đời sống, chênh lệch về mức sống giữa thành thị và nông thôn ngày càng xa...
Cách nay 67 năm (1947-2014), khi lần đầu tiên vào thăm tỉnh Thanh
Hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: "Thanh Hóa phải trở nên một tỉnh kiểu
mẫu” (32,tr.65). Thực hiện tâm nguyện của Người, trong xây dựng nông thôn
mới, Đảng bộ, chính quyền tỉnh Thanh đã đặt ra mục tiêu đến năm 2015 đạt
20% số xã (tương ứng với 117 xã) và đến năm 2020 đạt 60% số xã (tương ứng
với 344 xã) đạt chuẩn nông thôn mới. Đây là nhiệm vụ hết sức to lớn và có
nhiều thách thức.
Nông Cống là huyện thuần nông nằm ở phía Tây Nam tỉnh Thanh Hóa.
Từ xa xưa cho tới nay, trong dân gian đã lưu truyền câu ca: “Được mùa Nông
Cống, sống mọi nơi; mất mùa Nông Cống, tả tơi mọi vùng”. Với gần 90% dân
số làm nông nghiệp, vươn lên làm giàu từ đồng ruộng, được trực tiếp thụ hưởng
những chính sách của Trung ương, địa phương, những người nông dân nơi đây
thấm thía rõ sự đổi thay nhờ chính sách của Đảng, Nhà nước đối với nông
nghiệp, nông dân và nông thôn.
2
Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới đã được các
cấp ủy đảng, chính quyền và nhân dân trong huyện đồng thuận hưởng ứng,
quyết tâm thực hiện. Đến năm 2013, toàn huyện đã có 2 xã đạt chuẩn nông thôn
mới; bình quân toàn huyện đạt 10,8 tiêu chí.
Có thể nói, chương trình xây dựng nông thôn mới như một luồng sinh
khí mới đối với người nông dân ở địa bàn nông thôn. Sau 5 năm thực hiện cuộc
vận động xây dựng nông thôn mới, Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân huyện
Nông Cống đã đạt được nhiều kết quả quan trọng; bước đầu đánh giá được mặt
tích cực, hạn chế và bài học kinh nghiệm cho giai đoạn tiếp theo.
Để góp phần đánh giá đúng thực trạng vấn đề này, bằng tâm huyết của
người con sinh ra và lớn lên ở huyện Nông Cống tỉnh Thanh Hóa, tôi chọn đề
tài “Cuộc vận động xây dựng nông thôn mới huyện Nông Cống tỉnh Thanh Hoá
(2009-2013)” làm Luận văn Thạc sĩ Sử học.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Phát triển nông nghiệp, nông thôn là vấn đề không mới. Trong mỗi giai
đoạn khác nhau của cách mạng, vấn đề này lại được đặt ra một cách khác nhau
mặc dù chúng đều có những mục tiêu chung là làm thay đổi diện mạo nông
thôn, thúc đẩy nông nghiệp phát triển, đưa lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc, văn
minh cho người nông dân.
Nông thôn mới và chương trình xây dựng nông thôn mới đã và đang được
các nhà khoa học rất quan tâm. Từ trước tới nay, đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu ít nhiều liên quan đến vấn đề này. Có thể nêu ra đây một số công
trình, đó là:
Năm 1994, Nxb Chính trị Quốc gia ấn hành công trình: “Kinh nghiệm tổ
chức quản lí nông thôn Việt Nam trong lịch sử” do GS. Phan Đại Doãn và
PGS. Nguyễn Quang Ngọc (đồng chủ biên), công trình nghiên cứu những vấn
đề trong lịch sử phát triển nông thôn nước ta. Các tác giả đã trình bày khá toàn
3
diện về quản lí nông thôn nước ta trong lịch sử; nghiên cứu mô hình làng xã,
nông thôn Việt Nam ở các vùng cụ thể, cung cấp những sử liệu rất có giá trị về
vai trò của Nhà nước, tính cộng đồng và tính bền vững của mô hình làng xã
Việt Nam...
Năm 1996, Nxb Chính trị Quốc gia ấn hành công trình nghiên cứu của
PGS.TS. Nguyễn Văn Bích và TS. Chu Tiến Quang với tiêu đề: “Chính sách
kinh tế và vai trò của nó đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam”.
Công trình đã luận giải nhiều nội dung liên quan đến chủ đề nghiên cứu, như
khái niệm về chính sách, các nội dung của chính sách kinh tế và quá trình thay
đổi chính sách nông nghiệp Việt Nam trong 10 năm đổi mới và những tác động
của chúng.
Tác phẩm: “Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kì đổi mới” do Nxb
Thống kê phát hành năm 2003, là một công trình nghiên cứu rất công phu của
các tác giả. Ngoài những phân tích có tính thuyết phục về quá trình đổi mới
nông nghiệp sau gần 20 năm, các tác giả còn cung cấp hệ thống tư liệu về phát
triển nông nghiệp, nông thôn nước ta. Công trình đã luận giải rõ quá trình đổi
mới, hoàn thiện chính sách nông nghiệp, nông thôn nước ta trong những năm
đổi mới, thành tựu và những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển nông
nghiệp, nông thôn Việt Nam. Những gợi mở về quá trình phát triển nông
nghiệp, nông thôn nước ta, như vấn đề vốn đầu tư, vấn đề phân hóa giàu nghèo,
vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh, xuất khẩu nông sản... đã được các tác giả
lí giải với nhiều luận cứ có tính thuyết phục.
Đặc biệt, cuốn sách: “Tổng kết và xây dựng mô hình phát triển kinh tế- xã
hội nông thôn mới, kết hợp truyền thống làng xã với văn minh thời đại” do
PGS.TS. Vũ Trọng Khải chủ biên, được Nxb Nông nghiệp ấn hành năm 2004, là
một công trình nghiên cứu công phu về mô hình phát triển nông thôn Việt Nam.
Việc hội nhập kinh tế quốc tế của nông nghiệp Việt Nam cũng đã được
nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam quan tâm. Điển hình là công trình nghiên
4
cứu: “Hội nhập kinh tế quốc tế và tác động của nó đến phát triển nông
nghiệp Việt Nam” là một dự án nghiên cứu tập thể do TS. Nguyễn Từ phụ
trách. Trong công trình này, các tác giả đã tập trung phân tích các liên kết
kinh tế quốc tế về thương mại và đầu tư trong nông nghiệp; đánh giá chính
sách phát triển nông nghiệp và khả năng cạnh tranh của nông nghiệp Việt
Nam; đồng thời khuyến nghị những giải pháp chủ yếu đề phát triển nông
nghiệp, nông thôn Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Công
trình nghiên cứu đã phân tích những quy định của WTO về chính sách nông
nghiệp của các nước đang phát triển và nêu những hướng bổ sung, sửa đổi
chính sách nông nghiệp của Việt Nam để hội nhập thành công.
Khóa luận tốt nghiệp “Đánh giá tình hình thực hiện chủ trương xây dựng
nông thôn mới của Nhà nước tại xã Thụy Lâm huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh”
(2010) của Đỗ Thị Hà, lưu tại Thư viện Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội,
cũng là một đề tài được tác giả Luận văn quan tâm. Trong đề tài, tác giả đã hệ
thống hóa cơ sở lí luận, thực tiễn về xây dựng mô hình nông thôn mới; đánh giá
kết quả xây dựng mô hình nông thôn mới và bước đầu đề xuất những giải pháp
kiến nghị để góp phần xây dựng mô hình nông thôn mới ở địa phương.
Trong Luận văn Thạc sĩ: “Giải pháp xây dựng và phát triển nông thôn
mới huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn” (2012), tác giả Phạm Khắc Dũng đã trình
bày cơ sở lí luận, thực tiễn, thực trạng và đề xuất giải pháp xây dựng nông thôn
mới ở huyện chợ Mới tỉnh Bắc Kạn.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Đại học Thái Nguyên năm 2013: “Giải
pháp thúc đẩy quá trình xây dựng nông thôn mới tại thị xã Sông Công tỉnh Thái
Nguyên” của Bùi Nữ Hoàng Anh đã tập trung làm rõ thực trạng, đề xuất giải
pháp xây dựng nông thôn mới ở thị xã Sông Công, tỉnh Thái Nguyên. Đề tài
không chỉ có ý nghĩa ở địa bàn thị xã Sông Công, mà còn có thể áp dụng, nhân
rộng ra các địa phương khác.
5
Ngoài các công trình khoa học nêu trên, còn có công trình nghiên cứu về
huyện Nông Cống. Trong số đó, đáng chú ý là các công trình sau đây:
- “Việc làm và thu nhập của người lao động tại Nông Cống, Thanh
Hóa” của Vũ Ngọc Thanh, lưu tại Thư viện Trường Đại học Nông nghiệp Hà
Nội, 2013. Luận văn đã làm rõ thực trạng việc làm và thu nhập của người lao
động nông thôn ở huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hoá trong quá trình CNH,
HĐH; đề xuất phương hướng và giải pháp tạo việc làm và thu nhập gắn với quá
trình đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại, bảo
đảm phát triển bền vững trên địa bàn.
- “Huy động và sử dụng nguồn lực tài chính trong xây dựng Nông thôn
mới trên địa bàn huyện Nông Cống tỉnh Thanh Hóa” của Đồng Minh Quân,
lưu tại Thư viện Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, 2013. Tác giả nghiên
cứu thực trạng việc huy động các nguồn lực tài chính để tổ chức thực hiện
chương trình xây dựng nông thôn mới. Từ đó, Luận văn đề xuất các giải pháp
nâng cao hiệu quả huy động các nguồn lực tài chính góp phần đẩy nhanh tiến
độ thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Nông
Cống, tỉnh Thanh Hóa.
Những nghiên cứu chuyên sâu về xây dựng nông thôn mới cũng được tác
giả Việt Nam rất quan tâm. GS.TS. Nguyễn Tuấn Anh chuyên nghiên cứu về
Chương trình khoa học- công nghệ phục vụ xây dựng nông thôn mới giai đoạn
2011-2015; Thạc sĩ Châu Thị Minh Long với công trình “Nghiên cứu xây dựng
mô hình mẫu về nông thôn mới dựa vào cộng đồng tại của đồng bào dân tộc
tỉnh Lâm Đồng”; TS. Hoàng Trung Lập với công trình “Nghiên cứu hệ thống
các giải pháp phát triển mô hình nông thôn mới” ...Các công trình nghiên cứu
của các tác giả đã đề cập đến những mô hình, giải pháp trong xây dựng nông
thôn mới ở nước ta với những vùng, miền và lĩnh vực khác nhau.
Ngày 16/5/2014 tại Hà Nội, Ban Chỉ đạo Trung ương Chương trình Mục
tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới tổ chức Hội nghị Sơ kết 3 năm thực hiện
6
Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới 2010-2020. Hội nghị
đã đánh giá những kết quả bước đầu sau 3 năm triển khai thực hiện Chương
trình nông thôn mới trong cả nước, thẳng thắn nhìn nhận những hạn chế, yếu
kém trong lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện. Từ đó, rút ra bài học kinh nghiệm để
chỉ đạo thực hiện trong giai đoạn tiếp theo.
Ngoài những công trình khoa học nêu trên, còn có nhiều cuộc Hội thảo
khoa học và các hoạt động liên quan đến đề tài Luận văn. Đáng chú ý là ngày
5/6/2014, tại Trường Đại học Hồng Đức, Văn phòng Điều phối xây dựng nông
thôn mới tỉnh Thanh Hóa phối hợp với Nhà trường tổ chức Hội thảo khoa học
“Xây dựng nông thôn mới ở Thanh Hóa – Những vấn đề lí luận và thực tiễn”.
Ban Tổ chức đã nhận được gần 30 bài tham luận khoa học từ các nhà khoa học,
nhà quản lí, các cán bộ, giảng viên trong và ngoài trường; đã tuyển chọn 22 bài
tham luận có hàm lượng khoa học cao đăng kỉ yếu. Hội thảo xoay quanh các
vấn đề: Hệ thống hóa cơ sở lí luận về chương trình xây dựng nông thôn mới;
Đánh giá thực trạng quá trình thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới
trong thời gian vừa qua tại tỉnh Thanh Hóa; Học tập và áp dụng kinh nghiệm
xây dựng nông thôn mới ở các tỉnh, thành trong cả nước cũng như ở nước
ngoài; Tìm hiểu các vấn đề tác động trực tiếp đến hiệu quả của quá trình xây
dựng nông thôn mới, như: vấn đề quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các
xã nông thôn, mức độ tham gia của cộng đồng, sự tham gia của các doanh
nghiệp vào công cuộc xây dựng nông thôn mới, vấn đề đào tạo bồi dưỡng
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới ở Thanh Hóa…; Đề
xuất các giải pháp xây dựng nông thôn mới tại Thanh Hóa trong thời gian tới.
Hội thảo có ý nghĩa quan trong trong việc chỉ đạo, điều hành, thực hiện
Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới tại tỉnh Thanh Hóa
trong năm tiếp theo...
Tất cả những công trình khoa học nêu trên đã đề cập ở mức độ khác nhau
về quá trình chỉ đạo, triển khai và thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia
7
xây dựng nông thôn mới trong cả nước và tại địa phương. Tuy nhiên, cho đến
nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào đề cập có hệ thống về vấn đề
“Cuộc vận động xây dựng nông thôn mới huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa”
dưới góc độ khoa học lịch sử.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu quá trình thực hiện cuộc vận động xây dựng
nông thôn mới ở huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 2009-2013.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn về không gian: Huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hoá với diện
tích tự nhiên là 28.710 ha. Dân số 183.358 người, gồm 33 đơn vị hành chính
trong đó 31 xã; 2 thị trấn.
- Về thời gian: Từ khi Chính phủ ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xây
dựng nông thôn mới gồm 19 tiêu chí (2009) đến năm 2013. Tuy nhiên, để làm
nổi bật thành quả của huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa trong quá trình thực
hiện cuộc vận động xây dựng nông thôn mới, Luận văn đề cập tình hình kinh tế
- xã hội của huyện từ năm 2009 trở về trước.
3.3. Nhiệm vụ của đề tài
- Khái quát huyện Nông Cống trước cuộc vận động xây dựng nông thôn
mới.
- Làm rõ quá trình thực hiện cuộc vận động xây dựng nông thôn mới ở
huyện Nông Cống (2009 – 2013).
- Đánh giá những thành tựu, hạn chế trong cuộc vận động xây dựng nông
thôn mới ở huyện Nông Cống (2009-2013).
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã tham khảo các nguồn tài liệu sau:
8
- Các văn kiện của Đảng, Chính phủ, các bài viết, bài nói của Chủ tịch
Hồ Chí Minh; các chỉ thị, nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa, của Huyện
ủy, Ủy ban Nhân dân huyện Nông Cống.
- Các báo cáo tổng kết, sơ kết của Đảng bộ, Ủy ban Nhân dân, Hội đồng
Nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện Nông Cống.
- Các sách và bài báo khoa học liên quan đến đề tài.
- Khảo sát thực tế tại huyện Nông Cống.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những nội dung do yêu cầu đề tài đặt ra, Luận văn sử dụng
phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp logic là chủ yếu. Bằng phương
pháp lịch sử, dựa trên các nguồn tư liệu lịch sử có chọn lọc, Luận văn trình bày
có hệ thống quá trình triển khai thực hiện cuộc vận động xây dựng nông thôn
mới ở huyện Nông Cống. Trên cơ sở phân tích các sự kiện, Luận văn nêu nhận
xét, đánh giá những thành tựu và hạn chế của cuộc vận động, rút ra bản chất
của vấn đề nghiên cứu. Ngoài ra, các phương pháp so sánh, đối chiếu, thống kê
cũng được vận dụng trong Luận văn này.
5. Đóng góp mới của Luận văn
- Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên về quá trình thực hiện cuộc
vận động xây dựng nông thôn mới ở huyện Nông Cống tỉnh Thanh Hóa.
- Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần tổng kết, đánh giá, khẳng
định tính đúng đắn của chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn
mới ở huyện Nông Cống nói riêng và cả nước nói chung. Từ đó rút ra một số
kinh nghiệm có thể tham khảo vận dụng trong những năm tiếp theo.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu giảng dạy Lịch sử địa phương.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, Luận văn
được cấu trúc thành 3 chương nội dung:
9
Chương 1: Khái quát huyện Nông Cống trước cuộc vận động xây dựng
nông thôn mới.
Chương 2: Cuộc vận động xây dựng nông thôn mới ở huyện Nông Cống
(2009-2013)
Chương 3: Những thành tựu, hạn chế trong cuộc vận động xây dựng
nông thôn mới ở huyện Nông Cống (2009-2013)
10
Chương 1
KHÁI QUÁT HUYỆN NÔNG CỐNG
TRƯỚC CUỘC VẬN ĐỘNG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1.1. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên và các nguồn tài nguyên thiên nhiên
1.1.1. Vị trí địa lí
Huyện Nông Cống nằm ở phía Tây Nam tỉnh Thanh Hóa. Về phía bắc,
huyện Nông Công giáp các huyện Đông Sơn và Triệu Sơn; phía nam giáp các
huyện Như Thanh và Tĩnh Gia; phía đông giáp các huyện Tĩnh Gia và Quảng
Xương; phía tây giáp huyện Như Thanh. Từ thành phố Thanh Hóa đi theo
Quốc lộ 45 về phía tây - nam dài 28 km là huyện lị Nông Cống - trung tâm
kinh tế, chính trị, văn hóa của cả huyện thuộc vùng châu thổ giàu tiềm năng
và truyền thống cách mạng.
Toàn huyện có 33 đơn vị hành chính (31 xã và 2 thị trấn). Tổng diện tích tự
nhiên là 28.710 ha. Trong đó, đất nông nghiệp 14.340 ha, đất lâm nghiệp 777 ha,
đất chuyên dùng 3.657 ha, đất ở 1.004 ha, đất chưa sử dụng 8.932 ha (năm 2009).
1.1.2. Điều kiện tự nhiên
Nông Cống là một huyện đồng bằng, nhưng địa hình khá đa dạng: Vừa
có đồi núi, vừa có đồng bằng với độ chênh cao tương đối lớn. Địa hình cũng bị
chia cắt bởi hệ thống sông ngòi tự nhiên. Có thể chia thành 2 vùng:
- Vùng có địa hình đồi núi, diện tích khoảng 7.500 ha, thuộc phía Tây
Bắc huyện gồm 26 xã: Tế Lợi, Tế Thắng, Trường Sơn, Trường Trung, Trường
Minh, Trung Chính, Trung Ý, Trung Thành, Hoàng Giang, Hoàng Sơn, Vạn
Thiện, Vạn Hòa, Vạn Thắng, Minh Thọ, Minh Nghĩa, Tân Phúc, Tân Thọ, Tân
Khang, Công Chính, Công Liêm, Công Bình, Thăng Bình, Thăng Long, Thăng
Thọ, Tượng Văn, Tượng Lĩnh. Cây trồng chủ yếu là cà phê, chè, cây ăn quả,
cây công nghiệp mía đường. Do địa hình đồi núi, lại lắm khe, suối, mỗi khi
11
mưa to, nước từ núi Nưa trút xuống các khe suối và sông Yên, nhưng lại thoát
nước chậm nên đã gây ra nạn úng lụt, ảnh hướng tới sản xuất và đời sống.
- Vùng đồng bằng châu thổ Nông Cống khá rộng lớn, có diện tích 21.210
ha, chiếm 74% diện tích tự nhiên toàn huyện; nổi lên nhiều núi đá vôi nhỏ, đồi
gò thấp xen kẽ những vùng thấp, lầy thụt. Năm xã không có đồi núi là Tế
Nông, Tế Tân, Trường Giang, Minh Khôi và thị trấn Nông Cống. Do địa hình
đồng bằng, có phù sa sông bồi đắp nên vùng này thích hợp cho việc trồng các
loại cây lương thực và hoa màu...
Như vậy, địa hình đa dạng (đồi núi, đồng bằng và những vùng trũng
lầy...) đã tạo ra một vùng châu thổ giàu tiềm năng cho phép phát triển kinh tế
nông, lâm nghiệp đa dạng, nhưng cũng gây ra những khó khăn, cách trở, bất
cập trong quá trình tổ chức sản xuất. Nghề trồng trọt chủ yếu là cây lúa. Nghề
chăn nuôi theo phương thức hộ gia đình, chủ yếu là chăn nuôi lợn, gia cầm,
nuôi trồng thủy sản cá nước ngọt và nước lợ.
Nông Cống nằm trong tiểu vùng khí hậu đồng bằng (Ia), có các đặc trưng
sau: Tổng nhiệt độ trung bình năm: 8.500 - 8.600ºC; biên độ năm 11-12ºC; biên
độ ngày 6-7ºC. Lượng mưa trung bình hằng năm 1.500 - 1.900 mm. Tháng 9 có
lượng mưa lớn nhất, xấp xỉ 400 mm. Độ ẩm không khí trung bình hằng năm 85
- 86%. Lượng nước bốc hơi trung bình khoảng 854 mm. Tốc độ gió trung bình
hằng năm 1,5 - 1,8 m/s. Thiên tai thường xảy ra bão, lũ, úng, hạn cục bộ.
Nông Cống là địa bàn chịu ảnh hướng của hệ thống sông Yên, ảnh
hưởng trực tiếp của các con sông: Sông Nhơm, Sông Mực, Sông Thị Long.
Sông Yên có chế độ bán nhật triều, vào những ngày triều cường trong mùa cạn
nước mặn có thể xâm nhập vào tận cầu Chuối.
12
BẢN ĐỒ Ả ĐỒ HÀNH CHÍNH HUYỆN NÔNG CỐ N NÔNG CỐNG
13
Chế độ thủy văn chia thành 2 vùng:
- Vùng thủy văn đồi núi: Mùa đông khô hanh, gió rét; mùa mưa thường
có lũ quét nhỏ xảy ra, gây xói mòn ở vùng cao và lũ lụt vùng thấp.
- Vùng thủy văn đồng bằng: Chịu ảnh hưởng trực tiếp của con sông
Nhơm, sông Thị Long và sông Chuối.
Thủy triều thuộc chế độ bán nhật triều nên đồng ruộng ven sông thuộc
các xã khu vực phía Đông huyện bị nhiễm mặn, tập trung ở các xã Trường
Giang, Tượng Văn, Tượng Lĩnh, Tượng Sơn, Trường Trung, Trường Minh,
Minh Khôi, Tế Nông… khoảng 470 ha.
1.1.3. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên
* Tài nguyên đất: Đất đai được hình thành từ 2 dạng: Dạng địa thành,
tức đá mẹ phong hóa tại chỗ lâu đời mà thành; Dạng thủy thành là do nước
sông đem phù sa bồi đắp lâu dài mà thành.
Đất đai Nông Cống bao gồm các loại: Phù sa không được bồi hằng năm,
đất mặn ít và nhóm đất đồi núi. Trong quá trình canh tác, đất cũng được biến
đổi thành nhiều loại nhỏ. Nhìn chung đất đai của Nông Cống phù hợp với các
loại cây trồng nông nghiệp hằng năm, lâu năm, tạo điều kiện để phát triển nền
nông nghiệp đa canh. Đáng chú ý là đất phù sa toàn huyện có 15.540 ha, gồm
các loại: Phù sa bão hòa bazơ (Fle-a), nằm ngoài đê các con sông, thuộc các xã:
Tân Thọ, Tân Khang, Tế Tân, Tế Thắng, Hoàng Giang, Tế Nông, Minh Khôi,
Thăng Thọ, Trường Minh; phù sa bão hòa Bazơ kết vón nông (Fle-fel) nằm dọc
theo sông hoặc các dải đất cao trong đồng bằng; phù sa glây (đất chua và ít
chua, thích nghi trồng lúa nước nhưng cần dùng vôi để cải tạo độ chua của đất),
bão hòa bazơ (FLg-e) có hàm lượng mùn và đạm giàu, lân và kali nghèo, thuộc
các xã: Thăng Bình, Trường Minh, Trường Giang, Tượng Văn...
* Tài nguyên nước: Gồm có nước mặt và nước ngầm.
Nguồn nước mặt của huyện Nông Cống khá dồi dào vì có hệ thống sông
14
suối tự nhiên cùng với các hồ chứa nước, các kênh tưới; lượng mưa lại lớn.
Hằng năm, tổng lượng nước do dòng chảy sông ngòi cung cấp trung bình 1 tỉ
mét khối, trong đó nước do mưa sinh ra trên địa phận trên dưới 400 triệu mét
khối, nếu được điều tiết có thể thỏa mãn nhu cầu phát triển sản xuất và đời
sống. Việc khai thác nước mặt còn gặp nhiều khó khăn do nguồn nước phân
bố không đều giữa các mùa trong năm và các vùng trong huyện. Muốn khai
thác có hiệu quả phải đầu tư mở rộng và xây dựng các hồ đập, ao đầm... để
chứa nước kết hợp với nuôi cá nước ngọt.
Theo tài liệu của Trạm Dự báo và Khí tượng Thủy văn Thanh Hóa
(tháng 2/1998), nguồn nước ngầm ở huyện Nông Cống nằm trong dải nước
ngầm của đồng bằng Thanh Hóa với địa chất là trầm tích hệ thứ 4 có bề dày
trung bình 60 m. Chất lượng nước ngầm chưa bị ô nhiễm.
Có thể khẳng định, nguồn tài nguyên nước huyện Nông Cống có khả
năng đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của nhân dân trên địa bàn.
* Tài nguyên rừng
Nông Cống có 2.081,57 ha rừng, chiếm 7,26% tổng diện tích tự nhiên
toàn huyện; trong đó rừng sản xuất có 823,80 ha, chiếm 2,88% tổng diện tích
tự nhiên; đất rừng phòng hộ có 1.257,77 ha, chiếm 4,39% tổng diện tích tự
nhiên toàn huyện.
* Tài nguyên khoáng sản
Theo tài liệu báo cáo hiện trạng sản xuất công nghiệp, tài nguyên khoáng
sản năm 1998 của Sở Công nghiệp Thanh Hóa, huyện Nông Cống có Than bùn,
phốt pho rít, secpentin, mỏ đá vôi, mỏ sét, phụ gia xi măng, quặng Bazan Crom
mit… Tuy trữ lượng không nhiều, nhưng những nguồn khoáng sản này nếu
được khai thác tốt sẽ góp phần đáng kể vào việc phát triển sản xuất và tăng
nguồn thu nhập của huyện.
15
Tóm lại, “đất đai, sông ngòi, đồi núi, thời tiết, khí hậu, tài nguyên thiên
nhiên ở Nông Cống đã kết hợp và tạo nên một vùng quê giàu tiềm năng kinh tế
nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, du lịch” [2, Tr.110].
1.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội huyện Nông Cống
1.2.1. Đặc điểm kinh tế
Trong không khí tưng bừng, phấn khởi sau ngày giải phóng hoàn toàn
miền Nam, thống nhất đất nước, Đảng bộ, nhân dân Nông Cống bắt tay vào
công cuộc tái thiết quê hương. Từ tình trạng kiệt quệ sau chiến tranh, sản xuất
nông nghiệp mất mùa, năng suất thấp, đời sống nhân dân khó khăn, nền kinh tế
huyện Nông Cống từng bước ổn định và phát triển toàn diện, đem lại những giá
trị mới. Năm 1976 là năm được mùa nhất so với những năm trước đó, với tổng
sản lượng lương thực trên địa bàn huyện đạt 44.545 tấn. Từ sau khi có Chỉ thị
100 CT/TW (13/1/1981) của Ban Bí thư Trung ương Đảng về Cải tiến công tác
khoán, mở rộng "khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong
hợp tác xã nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện phát triển
mạnh hơn trước. Sản lượng lương thực năm 1985 đạt 53.543 tấn. Bình quân
lương thực đầu người năm 1981 là 264kg, đến năm 1985 tăng lên 365kg. Do
sản xuất phát triển, nên kết quả làm nghĩa vụ lương thực của huyện đối với Nhà
nước ngày càng tăng, từ 5.365 tấn/năm (trong thời kì 1976 - 1980), lên 12.053
tấn/năm (trong thời kì 1981 - 1985) [2, tr. 200].
Các ngành sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có những bước
chuyển biến mới, với năng suất lao động cao không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu
thụ của nhân dân, mà còn mang lại giá trị xuất khẩu lớn. Năm 1985, giá trị xuất
khẩu các mặt hàng sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của huyện đạt
2,3 triệu đồng, tăng gấp 21 lần so với năm 1985 [2, tr. 208].
Tuy đạt nhiều thành tựu quan trọng, nhưng sau 10 năm, đến năm 1985,
nền kinh tế ở huyện Nông Cống vẫn trong tình trạng kém phát triển, bị trói
16
buộc bởi cơ chế tập trung quan liêu bao cấp; tốc độ tăng trưởng không đáp ứng
yêu cầu xã hội. Đời sống nhân dân khó khăn, thiếu thốn.
Từ năm 1986, vận dụng đường lối đổi mới của Đảng vào hoàn cảnh địa
phương, huyện Nông Cống từng bước vượt qua những khó khăn, thách thức;
các thành phần kinh tế được khuyến khích đầu tư phát triển, xóa đói, giảm
nghèo, đẩy lùi khủng hoảng kinh tế, tạo ra những điều kiện vật chất tái sản xuất
mở rộng. Từ một nền sản xuất nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, năng suất, sản
lượng thấp, sau 10 năm đổi mới đã tạo ra sản lượng lương thực tăng gấp hai
lần; riêng năm 1995 đạt 78.520 tấn. An ninh lương thực trên địa bàn được giải
quyết vững chắc. Chăn nuôi trở thành ngành sản xuất hàng hóa và tạo ra giá trị
mới tăng gấp nhiều lần thời kì bao cấp. Năm 1995, đàn bò tăng 9,5%, đàn lợn
tăng 91% so với năm 1985.
Giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ
không ngừng tăng, làm thay đổi tỉ trọng trong cơ cấu kinh tế của huyện. Năm
1991, tỉ trọng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp là 10,6%, thương mại - dịch
vụ 6,4%; đến năm 1995, tỉ trọng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp tăng lên
17,16%, dịch vụ - thương mại tăng lên 10,7% [2, tr. 213].
Từ khi thực hiện chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (tháng
6/1996), tình hình kinh tế nông nghiệp và nông thôn huyện Nông Cống có
nhiều chuyển biến rõ nét: Máy móc công nghệ mới được đưa vào sản xuất nông
nghiệp và chế biến sản phẩm; cơ sở vật chất kĩ thuật: Điện, đường, nước sạch,
các công trình thủy lợi, bưu chính viễn thông... tăng nhanh; cơ cấu kinh tế
chuyển dịch theo hướng tăng mạnh tỉ lệ công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp,
thương mại - dịch vụ, giảm dần tỉ lệ nông nghiệp trong tổng giá trị sản phẩm
trên địa bàn huyện.
Hơn 10 năm đầu tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nông Công đã
đạt được nhiều thành tựu trên các mặt:
17
- Sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân
năm 2009 đạt 10,7% (tăng 2,4% so với năm 2000). Trong đó, nông - lâm - ngư
nghiệp tăng 6,13%, công nghiệp - thủ công nghiệp - xây dựng cơ bản tăng
14,8%, dịch vụ và các khoản thu khác tăng 11,3%. Tỉ trọng nông nghiệp trong
GDP giảm xuống 3,6%, dịch vụ - thương mại tăng 33%. Thu nhập bình quân
đầu người là 7.874.000 đồng (năm 2009), bằng 91,5% so với mức bình quân
chung của tỉnh (tăng 5 lần so với năm 2000). Sản lượng lương thực từ 107.350
tấn năm 2001, tăng lên 123.165 tấn năm 2009.
Trong nội bộ ngành Nông nghiệp, cơ cấu kinh tế cũng chuyển dịch mạnh
mẽ theo hướng tăng tỉ trọng của dịch vụ và chăn nuôi, giảm tỉ trọng trồng trọt.
Cụ thể: năm 2009, giá trị sản xuất ngành chăn nuôi chiếm 23,8% (tăng 2,7% so
với năm 2001); ngành dịch vụ 20,2% (tăng 10,2% so với năm 2001); ngành
trồng trọt chiếm 52,9% (giảm 27% so với năm 2001).
Chăn nuôi phát triển với tốc độ khá, chuyển dịch theo hướng phát triển
trang trại tập trung gắn với thị trường tiêu thụ và an toàn dịch bệnh. Huyện đã
triển khai có hiệu quả các dự án cải tạo, nâng cao tầm vóc đàn bò, lợn ngoại
hướng nạc và chăn nuôi gia cầm siêu thịt, siêu trứng. Tỉ lệ đàn bò lai chiếm 70%
tổng đàn (17.531 con năm 2009), đàn lợn hướng nạc chiếm trên 85% tổng đàn.
Thực hiện chủ trương giao đất, giao rừng để phát triển theo hướng lâm
nghiệp xã hội, gần 2.600 ha đất rừng được giao cho các hộ nông dân quản lí.
Đến năm 2009, huyện có 80 trang trại và trồng được 700 ha rừng tập trung, 37
vạn cây phân tán, 16,5 vườn cây ăn quả, tạo việc làm cho 3.000 lao động; xóa
đói, giảm nghèo cho 1.000 hộ.
Sản lượng thuỷ sản trên địa bàn huyện cũng tăng dần, từ 610 tấn (năm
2001), tăng lên 645 tấn (năm 2008). Giá trị sản xuất nuôi trồng thuỷ sản trên
địa bàn huyện chỉ chiếm tỉ lệ rất nhỏ, năm 2009 đạt 6,7 tỉ đồng (chiếm 0,36%)
và tăng trưởng chậm (3,7% trong giai đoạn 2006-2010).
18
- Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp - Xây dựng - Dịch vụ
Trong điều kiện khó khăn chung về giá cả và thị trường, các ngành công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn huyện vẫn duy trì và phát triển. Năm
2009, giá trị sản xuất khoảng 319,6 tỉ đồng (tăng 20% so với năm 2005). Các
sản phẩm công nghiệp chủ lực như secpentin, giấy, vật liệu xây dựng đều tăng
so với cùng kì năm 2005. Trong năm 2009, huyện Nông Cống đào tạo được
2.626 lao động học các nghề làm hàng thủ công, mĩ nghệ, như: Tăm hương,
mây giang xiên, mành đan, đèn lồng, dệt may, làm nón... Các nghề mới đào tạo
và các nghề truyền thống tiếp tục được duy trì và phát triển. Cụm làng nghề
Hoàng Sơn có 30 cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng, tạo việc làm thường xuyên
cho gần 800 lao động với thu nhập từ 1 đến 2 triệu đồng/người/tháng; Công ty
may Trường Thắng đã đi vào sản xuất, tạo việc làm cho 750 lao động, với mức
lương bình quân 1,3 - 1,4 triệu đồng/người/tháng; giá trị xuất khẩu đạt 3,7 triệu
USD (năm 2009). Ngoài công nghiệp, thủ công nghiệp, xây dựng, sản xuất dịch
vụ cũng mang lại giá trị lớn: Năm 2009 đạt 835 tỉ đồng. Các hoạt động dịch vụ
Bưu chính - Viễn thông, tín dụng tiếp tục phát triển, đáp ứng nhu cầu sản xuất,
sinh hoạt cho người dân.
Dù có những bước chuyển biến tích cực, song kinh tế của huyện trong
thời gian trước cuộc vận động xây dựng nông thôn mới (2009) còn bộc lộ nhiều
hạn chế, yếu kém:
- Sản xuất nông nghiệp còn manh mún, nhỏ lẻ, chưa gắn với chế biến và
tiêu thụ. Ngoài các vùng chuyên canh mía, cao su gắn với công nghiệp chế biến,
các sản phẩm cây lương thực, rau màu, chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi trồng
thủy sản, cây lâm nghiệp đều chưa hình thành được vùng chuyên canh tập trung,
sản xuất hàng hóa lớn; chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp đúng
hướng nhưng còn chậm, chưa khai thác hết các tiềm năng lợi thế của từng vùng,
từng địa phương; Chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ vào nông nghiệp còn
chậm, sản xuất chủ yếu dựa vào lao động thủ công, năng suất lao động thấp; tỉ lệ
19
cơ giới hóa, tự động hóa chưa cao. Chất lượng, mẫu mã sản phẩm chưa đáp ứng
được yêu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu; thiên tai, dịch bệnh diễn biến
phức tạp, sản xuất nông nghiệp gặp rủi ro cao, môi trường sản xuất bị ô nhiễm,
phát triển nông nghiệp chưa bền vững.
Cơ sở hạ tầng kinh tế nông nghiệp nông thôn tuy đã được đầu tư, song
chưa đảm bảo nhu cầu cho sản xuất nông nghiệp để đối phó với những điều kiện
thời tiết bất lợi; Hiệu quả sản xuất nông nghiệp chưa cao, thu nhập của người
nông dân thấp. Chênh lệch về thu nhập bình quân giữa người lao động khu vực
đô thị với nông thôn ngày càng tăng; một bộ phận nông dân chưa yên tâm đầu tư
phát triển sản xuất nông nghiệp, không gắn bó với đồng ruộng. Số lượng doanh
nghiệp đầu tư vào nông nghiệp còn ít, hiệu quả chưa cao.
- Nông thôn phát triển thiếu quy hoạch và tự phát. Thiếu định hướng, giám
sát của các cơ quan chức năng quản lí nhà nước về công tác quy hoạch và thực
hiện theo quy hoạch. Các khu dân cư, thôn, xóm, hệ thống giao thông, các
nghĩa trang, các cơ sở hạ tầng kĩ thuật khác hầu hết chưa được quy hoạch. Do
vậy, kết cấu hạ tầng chồng chéo, nhà ở của nhân dân xây dựng tùy tiện, không
gian làng xã nhiều nơi bất hợp lí, cảnh quan và nhiều nét văn hoá truyền thống
có nguy cơ bị phá vỡ, kiến trúc cảnh quan làng quê pha tạp. Theo số liệu thống
kê năm 2009, toàn huyện có 49,7% nhà ở dân cư kiên cố, 39,5% bán kiên cố và
10,8% nhà tạm.
- Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn lạc hậu, chưa đáp ứng yêu cầu phát
triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn. Mạng lưới giao
thông tuy đã phát triển rộng khắp song tỉ lệ được cứng hoá còn thấp, chưa đáp
ứng yêu cầu đi lại và vận tải, nhiều tuyến đường đã bị xuống cấp nghiêm trọng,
các tuyến đường liên thôn xây dựng chưa theo quy chuẩn, chật hẹp, chất lượng
thấp, không đảm bảo cho lưu thông hàng hóa; giao thông nội đồng ít được đầu
tư. Hệ thống giao thông vào các vùng sản xuất nguyên liệu tập trung còn thiếu
trầm trọng. Thuỷ lợi vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu sản
20
xuất và dân sinh kinh tế, nhất là trong điều kiện hạn hán, lũ lụt gay gắt. Đến
năm 2009 vẫn còn gần 400 km kênh mương đất do UBND các xã quản lí hằng
năm ít được tu bổ, nạo vét nên hiệu quả tưới tiêu còn hạn chế. Hầu hết diện tích
cây công nghiệp, cây ăn quả chưa có hệ thống tưới tiêu chủ động. Chất lượng
lưới điện nông thôn còn kém, chưa đảm bảo an toàn khi vận hành, nhất là điện
phục vụ sản xuất. Chưa đủ trạm biến áp tại một số khu vực, bán kính cấp điện
còn xa, đường dây hạ thế kéo dài, tiết diện dây dẫn nhỏ nên tổn thất điện áp và
điện năng cao. Những thành tựu và hạn chế trong sản xuất nông, lâm, ngư
nghiệp nói riêng và quy hoạch phát triển nông thôn nói chung đều có tác động
lớn đến quá trình thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông
thôn mới của huyện.
1.2.2. Đặc điểm xã hội
* Dân số
Từ thửa xưa, Nông Cống là vùng đất hội tụ dân cư ở nhiều vùng đến lập
nghiệp, trải qua quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, nhân dân Nông
Cống đã hun đúc nên những giá trị truyền thống cao quý có ý nghĩa xuyên suốt
mọi thời đại [2,tr. 26]. Đó là truyền thống cần cù, sáng tạo, bền bỉ, kiên cường
khắc phục khó khăn thách thức, tự lực tự cường xây dựng quê hương ngày càng
thêm giàu đẹp; đoàn kết mưu trí, dũng cảm chống giặc ngoại xâm và thiên tai;
thiết tha với độc lập, tự do và ấm no hạnh phúc; nhân hậu, trung thành, tận tụy
hi sinh vì nghĩa lớn.
Theo số liệu thống kê đến 31/12/2009 dân số huyện Nông Cống có
183.074 người, trong đó nam 89.889 người, nữ 93.185 người. Số dân sống ở
nông thôn 179.489 người, sống ở thành thị 3.585 người; gồm 7 thành phần
dân tộc: Kinh (182.787 người), Mường (120 người), Thái (102 người), Hoa
(28 người), Nùng (15 người), Mông (8 người), Ê-đê (7 người), Chăm (7
người) [19, Tr.11]. Mật độ dân số khoảng 640 người/km². Tốc độ tăng dân
21
số duy trì ở mức dưới 0,6%. Trong đó, xã đông dân nhất là Thăng Long,, xã
ít dân nhất là Trung Ý.
Về chất lượng nguồn lao động: Tổng số lao động trong độ tuổi là 109.120
người, chiếm 59,6% dân số toàn huyện (số liệu năm 2009). Cơ cấu lao động theo
ngành chuyển dịch theo hướng tích cực, tỉ lệ lao động nông nghiệp giảm (77.9%
tổng số lao động toàn huyện) và tăng dần tỉ lệ lao động trong các ngành công
nghiệp - xây dựng, thương mại - dịch vụ. Từ năm 2000 trở đi, một số lượng khá
lớn người lao động trong huyện đi xuất khẩu, riêng năm 2009 là 180 người.
Nông Cống là huyện có tỉ lệ lao động nhàn rỗi vào loại cao trong toàn
tỉnh. Theo số liệu thống kê năm 2009, mặc dù số người được sắp xếp việc làm
mới trong năm là 1.806 người, chiếm 1,65% số lao động trong độ tuổi, nhưng
vẫn có 35,2% lao động nhàn rỗi [49, tr.40]. Điểm đặc biệt của nguồn lao động
này là từ khi có chủ trương công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn (1996), máy móc, khoa học kĩ thuật được áp dụng nhiều, số lao động tay
chân giảm, thời gian nông nhàn nhiều. Sau mỗi mùa vụ, thanh niên, đàn ông
khỏe mạnh trong gia đình thường ra thành phố làm thuê để tăng thu nhập; phụ
nữ đi làm ôsin, trông trẻ, nghề thủ công... Ở nhà chỉ còn trẻ em và người già là
chính. Đến mùa vụ, lực lượng lao động này lại trở về quê để thu hoạch... Đây là
lợi thế, nhưng đồng thời cũng là thách thức đối với Nông Cống trong quá trình
thực hiện cuộc vận động xây dựng nông thôn mới.
* Giáo dục
Huyện Nông Cống trong lịch sử là miền đất học và có truyền thống hiếu
học. Thời phong kiến, toàn huyện có 20 vị đỗ đại khoa [2,tr.31]. Ngày nay, so
với cả nước, Nông Cống là nơi nhiều người có trình độ sau Đại học, Đại học,
Cao đẳng. Con em Nông Cống vươn khắp mọi miền của đất nước để làm ăn,
sinh sống, lập nghiệp. Đội ngũ giáo viên các cấp (2.2.08 người) từng bước
được chuẩn hóa. Chất lượng giáo dục được coi trọng. Riêng trong 5 năm
(2000-2005), toàn huyện có 1.684 học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao
22
đẳng (tăng gấp 2,4 lần so với 5 năm 1995-2000). Cùng với Trung tâm Giáo
dục thường xuyên và dạy nghề, các Trung tâm Giáo dục cộng đồng được
thành lập ở 33 xã, thị trấn. Nhờ đó, việc dạy nghề, chuyển giao khoa học, kĩ
thuật và công nghệ mới được mở rộng đến từng gia đình.
Nhờ được đầu tư xây dựng và sự đồng thuận trong nhân dân, đến năm
2009, toàn huyện có 33 trường Mầm non; trong đó có 7 trường (20,6%) đạt
chuẩn quốc gia; 75 trường phổ thông (gồm 36 trường Tiểu học, 33 trường
THCS, 6 trường THPT); trong đó có 31 trường (41,3%) đạt chuẩn quốc gia.
Tuy nhiên, so với bộ tiêu chí Quốc gia thì số trường đạt chuẩn vẫn còn ít
(50%); chưa đạt các yêu cầu về phổ cập THCS.
* Văn hóa- thông tin
Đảng bộ và chính quyền huyện Nông Cống quan tâm đầu tư xây dựng hệ
thống truyền thanh cơ sở. Nhờ đó, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước, những gương người tốt, việc tốt... được kịp thời tuyên truyền trong
nhân dân. Đến 2009, 100% số xã, thị trấn có đài truyền thanh, có điểm bưu điện
văn hóa; 24/32 xã, thị trấn (75%) có dịch vụ Internet; có 22.450 máy điện thoại
cố định và di động [35,tr.70].
Phong trào xây dựng nếp sống văn hóa được thực hiện lồng ghép với
nhiệm vụ phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, xóa đói, giảm nghèo. Đến năm
2009, toàn huyện có 113 thôn có nhà văn hóa. Làng Văn hóa theo quy định
chiếm 35,7% tổng số thôn trong toàn huyện; 100% thôn, làng xây dựng quy
ước, hương ước. So với các địa phương khác trong tỉnh, Nông Cống là huyện
có số Gia đình Văn hóa chiếm tỉ lệ cao (66,5% trong năm 2009, tăng 14,5%
so với năm 2000). Ý thức đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư
được thể hiện rất rõ trong việc quy hoạch của từng hộ gia đình, việc sử dụng
nguồn nước; thực hiện các tiêu chí của gia đình văn hóa... Đây thực sự là lợi
thế trong quá trình thực hiện cuộc vận động xây dựng nông thôn mới ở huyện
Nông Cống.
23
*Thể dục, thể thao
Các phong trào văn hóa - văn nghệ, thể dục - thể thao quần chúng phát
triển mạnh trong các cơ quan, trường học, thôn, xã. Đa số các xã, thôn đều có
sân chơi, bãi tập, hình thành và duy trì hoạt động nhiều câu lạc bộ dưỡng sinh,
thể dục - thể thao. Các đơn vị thường xuyên tổ chức thi đấu bóng đá, bóng
chuyền, cầu lông, tổ chức tập duyệt sinh hoạt văn nghệ quần chúng, đặc biệt
là trong các ngày lễ lớn. Đến năm 2009, toàn huyện có 27,9% số người luyện
tập thể dục - thể thao thường xuyên; số hộ gia đình đạt danh hiệu Gia đình
Thể thao tăng 17,2% so với năm 2000.
* Y tế
Cùng với tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện hiện đại, đội ngũ cán bộ
y tế được tăng cường về số lượng và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Đến năm
2008, toàn huyện có 23/33 xã (69,7%) đạt chuẩn quốc gia về y tế. Số trẻ suy
dinh dưỡng giảm xuống còn 20%; số hộ dùng nước sạch chiếm trên 80%; số hộ
có nhà vệ sinh hợp quy chuẩn chiếm 80%. Cùng năm này, toàn huyện có
70.520 người dân (38,9% tổng số dân) tham gia các hình thức bảo hiểm y tế.
Dân số kế hoạch hóa gia đình được tăng cường, tỉ lệ tăng dân số giảm xuống
0,5% vào năm 2008 (so với năm 1999 thấp hơn 1,2%).
* Quốc phòng - an ninh chính trị
Được sự quan tâm của Đảng bộ huyện, công tác quốc phòng được đẩy
mạnh; chế độ trực sẵn sàng chiến đấu được duy trì có nền nếp. Hằng năm,
huyện đều hoàn thành 100% chỉ tiêu tuyển quân trên giao, đảm bảo đúng luật
và chất lượng. Việc giáo dục kiến thức quốc phòng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt
các cấp, các ngành, lực lượng vũ trang và học sinh được tiến hành thường
xuyên. Lực lượng công an, tổ an ninh, tổ hòa giải được xây dựng, củng cố, đảm
bảo cho nội bộ nhân dân đồng thuận, đoàn kết, phòng chống âm mưu diễn biến
hòa bình của các thế lực thù địch, phòng chống bạo loạn lật đổ; phát hiện, ngăn
chặn, xử lí kịp thời đúng luật tội phạm hình sự và tệ nạn xã hội. Giải quyết
24
đúng, kịp thời đơn thư khiếu nại của nhân dân… Lĩnh vực Quốc phòng - An
ninh đã góp phần giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, giữ
vững sự bình yên hạnh phúc của nhân dân.
Hệ thống chính trị được củng cố thường xuyên. Nhờ đó, năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ huyện được tăng cường; Hội đồng Nhân dân
và Ủy ban Nhân dân từ huyện xuống đến cơ sở ngày càng được đổi mới về tổ
chức, hiệu lực hoạt động được tăng cường. Đây chính là nhân tố có ý nghĩa
quyết định đến sự phát triển chung của toàn huyện. Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức đoàn thể quần chúng tích cực đổi mới nội dung, phương thức hoạt động.
Như vậy, đối chiếu các tiêu chí trong hệ thống chính trị cho đến trước
khi thực hiện cuộc vận động xây dựng thôn mới (2009), huyện có đủ các tổ
chức trong hệ thống chính trị cơ sở theo quy định. Đảng bộ, chính quyền luôn
đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh. Hằng năm, các tổ chức chính trị đoàn
thể chính trị xã hội trong huyện đạt danh hiệu tiên tiến trở lên; an ninh, trật tự,
xã hội ổn định, giữ vững.
Tuy nhiên, tình hình xã hội của huyện cũng bộc lộ nhiều mặt hạn chế,
yếu kém: Tỉ lệ nhà văn hoá và khu thể thao xã, thôn đạt tiêu chuẩn theo quy
định của Bộ Văn hoá - Thể Thao - Du lịch còn thấp, trang thiết bị còn nghèo
nàn. Đa số đang tồn tại hình thức trụ sở thôn được dùng chung với nhà văn hoá.
Cơ sở vật chất, sân bãi tập luyện, nhà văn hoá, phòng đọc sách, đội thông tin
lưu động còn thiếu thốn, lạc hậu, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển phong trào.
Mạng lưới chợ nông thôn còn nhiều bất hợp lí, phân bố không đều, còn nhiều
chợ cóc, chợ tạm, tụ điểm buôn bán không đúng nơi quy định, thiếu hệ thống
phòng chống cháy nổ, xử lí rác, nước thải.
Mức hưởng thụ về văn hoá, giáo dục, y tế của người dân còn thấp.
Phong trào xây dựng Làng Văn hoá, Gia đình Văn hoá tuy phát động rầm rộ
nhưng thiếu chiều sâu. Nhu cầu thụ hưởng về văn hoá của nhân dân còn hạn
chế. Tỉ lệ lao động qua đào tạo còn thấp. Mặc dù 23 xã, thị trấn đạt chuẩn y tế,
25
nhưng số cán bộ y tế có trình độ đại học tại tuyến xã còn thiếu và thấp, chưa
đáp ứng được nhu cầu khám, chữa bệnh của người dân. Tỉ lệ người dân nông
thôn (nhất là các đối tượng không thuộc diện ưu tiên) được sử dụng BHYT
chưa nhiều. Đại bộ phận người dân nông thôn khó tiếp cận, chưa đủ điều kiện
tham gia loại hình bảo hiểm y tế.
Đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn đã được nâng
lên, nhưng vẫn còn thấp. Nguồn sống và thu nhập chủ yếu dựa vào sản xuất
nông nghiệp. Khoảng cách giàu, nghèo; giữa thành thị và nông thôn; giữa các
vùng, miền ngày một tăng. Chênh lệch về thu nhập bình quân giữa nhóm thu
nhập cao nhất với nhóm thấp nhất có xu hướng tăng lên. Tỉ lệ hộ nghèo còn
cao; trong tổng số 44.561 hộ trên địa bàn huyện, có 6.970 hộ nghèo, chiếm tỉ
lệ 15,64% (trong khi tiêu chí yêu cầu chỉ còn 5%). Chính sách hiện hành mới
đảm bảo bù đắp cho những người có công, cứu trợ nhất thời cho những người
gặp khó khăn khi có dịch bệnh, thiên tai. Đa số nông dân phải gánh chịu rủi ro
nặng nề trong sản xuất nông nghiệp và chăm lo sức khoẻ. Hệ thống bảo hiểm
sản xuất nông nghiệp chưa hình thành. Kết quả chuyển dịch lao động của
huyện còn chậm so với bình quân chung của toàn tỉnh (lao động nông nghiệp
của tỉnh bình quân mỗi năm giảm 2,8%). Lao động làm việc trong lĩnh vực
nông nghiệp là lĩnh vực có năng suất thấp vẫn chiếm tỉ lệ cao.
Hệ thống chính trị cơ sở ở nhiều nơi còn yếu; chất lượng đội ngũ công
chức xã còn thấp. An ninh chính trị, trật tự xã hội ở một số nơi vẫn còn tiềm ẩn
nhân tố mất ổn định. Trong nông thôn vẫn còn một số vấn đề bất ổn, như nếp
sống văn hoá mới chậm hình thành, tệ nạn xã hội (nghiện ma tuý, tệ nạn cờ
bạc...) vẫn gia tăng. Bên cạnh đó, các loại tội phạm, như trộm cắp, cố ý gây
thương tích... vẫn xảy ra, đe dọa đến tình hình an ninh trật tự xã hội.
Tiểu kết: Nông Cống - vùng châu thổ giàu tiềm năng phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội, nhưng cũng nhiều khó khăn thách thức do địa hình phức tạp,
do thiên tai bão lụt gây ra. Tự nhiên đã ban tặng cho con người nơi đây những
26
ưu đãi tài nguyên, sản vật quý hiếm, nhưng cũng đặt ra những điều kiện khắc
nghiệt đòi hỏi cư dân Nông Cống phải không ngừng phấn đấu vươn lên cải tạo
tự nhiên, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Từ ngày đất nước thống
nhất, Đảng bộ Nông Cống đã lãnh đạo nhân dân trong huyện thi đua sản xuất,
phát triển kinh tế - xã hội tạo nên sự đổi thay rõ rệt trên quê hương giàu
truyền thống cách mạng. Đối chiếu với các tiêu chí trong Bộ Tiêu chí Quốc
gia, huyện mới đạt 5,4/19 tiêu chí (28,4%) [3,tr.8]. Tuy nhiên, những thành
tựu đạt được qua 34 năm xây dựng và phát triển (1975 – 2009) là nền tảng và
tiền đề quan trọng để Nông Cống kế thừa, phát huy trong chặng đường thực
hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới sau này.
27
Chương 2
CUỘC VẬN ĐỘNG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Ở HUYỆN NÔNG CỐNG (2009 - 2013)
2.1. Chủ trương của Đảng, Nhà nước về xây dựng nông thôn mới
Nông thôn là một hệ thống xã hội, một cộng đồng xã hội có những
đặc trưng riêng biệt như một xã hội nhỏ, trong đó có đầy đủ các yếu tố, các
vấn đề xã hội và các thiết chế xã hội.
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; là cơ sở và lực lượng quan trọng để
phát triển kinh tế, xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an
ninh quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi
trường sinh thái của đất nước.
Nước ta hiện nay vẫn là một nước nông nghiệp với hơn 70% dân cư
đang sống ở nông thôn. Phát triển nông nghiệp, nông thôn đã, đang và sẽ
còn là mối quan tâm hàng đầu. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X của Đảng xác định mục tiêu: “Xây dựng nông thôn mới ngày càng
giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lí, quan hệ
sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội phát triển ngày càng hiện
đại” [41,tr.3].
Quán triệt Nghị quyết Đại hội X, ngày 5/8/2008, Hội nghị lần 7 Ban
Chấp hành Trung ương (khóa X) ra Nghị Quyết số 26-NQ/TW đã nêu một cách
toàn diện quan điểm của Đảng ta về xây dựng nông thôn mới. Nghị quyết
khẳng định các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết
đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nông nghiệp, nông thôn nước ta còn là khu vực giàu tiềm năng cần khai thác
một cách hiệu quả. Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của nông dân phải dựa trên cơ chế thị trường định hướng xã hội
28
chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực, để giải phóng
và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, trước hết là lao động, đất đai,
rừng và biển; khai thác tốt các điều kiện thuận lợi trong hội nhập kinh tế quốc
tế cho phát triển lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn; phát huy cao
độ nội lực; đồng thời tăng mạnh đầu tư của Nhà nước và xã hội, ứng dụng
nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến vào nông nghiệp, nông thôn,
phát triển nguồn nhân lực, nâng cao trình độ dân trí cho nông dân.
Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn không chỉ là
nhiệm vụ của nông dân ở khu vực nông thôn, mà còn là nhiệm vụ của cả hệ
thống chính trị và toàn xã hội. Trước hết, phải khơi dậy tinh thần yêu nước,
tự chủ, tự lực, tự cường vươn lên của nông dân. Xây dựng xã hội nông thôn
ổn định, hòa thuận, dân chủ, có đời sống văn hóa phong phú, mang đậm
bản sắc dân tộc, tạo động lực cho phát triển nông nghiệp và xây dựng nông
thôn mới, nâng cao đời sống nhân dân.
Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã thể hiện
rõ quan điểm mục tiêu, nhiệm vụ cũng như phương thức tiến hành xây dựng
nông thôn mới trong giai đoạn hiện nay, phù hợp với điều kiện thực tiễn phát
triển của đất nước. Quan điểm đó của Đảng là sự kế thừa và phát huy những bài
học kinh nghiệm lịch sử về phát huy sức mạnh toàn dân, huy động mọi nguồn
lực để tạo ra sức mạnh tổng hợp xây dựng nông thôn mới.
Thực hiện đường lối của Đảng, ngày 28/10/2008, Chính phủ ra Nghị
quyết số 24/2008/NQ-CP ban hành một chương trình hành động về xây dựng
nông nghiệp, nông dân và nông thôn, thống nhất nhận thức hành động về nông
nghiệp, nông dân và nông thôn. Quan điểm đó được thể hiện trong Chương
trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới.
Nội dung chính của Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông
thôn mới là: Xây dựng tổ chức cuộc sống của cư dân nông thôn theo hướng văn
29
minh hiện đại, giữ gìn bản sắc văn hóa và môi trường sinh thái gắn với phát
triển đô thị, thị trấn, thị tứ.
Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới là chương
trình mang tính tổng hợp, sâu rộng, có nội dung toàn diện; bao gồm tất cả các
lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, an ninh - quốc phòng. Mục tiêu
chung của Chương trình xây dựng nông thôn mới là xây dựng nông thôn mới
có kết cấu hạ tầng kinh tế từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ
chức sản xuất hợp lí gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch
vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân
chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ;
an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất, tinh thần của người dân được
nâng cao; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được
tăng cường.
Ngày 16/4/2009, Thủ tướng Chính phủ quyết định ban hành Bộ Tiêu chí
Quốc gia về nông thôn mới gồm 19 tiêu chí. Bộ Tiêu chí là căn cứ để xây dựng
nội dung Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới; chỉ đạo
thí điểm xây dựng mô hình nông thôn mới trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; kiểm tra, đánh giá công nhận xã, huyện, tỉnh đạt nông thôn
mới. 19 tiêu chí gồm: 1- Quy hoạch và thực hiện quy hoạch; 2- Giao thông; 3-
Thủy lợi; 4- Điện; 5- Trường học; 6- Cơ sở vật chất văn hóa; 7- Chợ nông thôn;
8- Bưu điện; 9- Nhà ở dân cư; 10- Thu nhập; 11- Hộ nghèo; 12- Cơ cấu lao
động; 13- Hình thức tổ chức sản xuất; 14- Giáo dục; 15- Y tế; 16- Văn hóa; 17-
Môi trường; 18- Hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh; 19- An ninh trật
tự xã hội. Ngoài ra, Chính phủ còn phát động phong trào thi đua “Cả nước chung
sức xây dựng nông thôn mới”
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng khẳng định xây dựng nông thôn mới là
một nhiệm vụ quan trọng trong định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất
30
nước. Nghị quyết Đại hội lần XI của Đảng đã nêu rõ quan điểm, phương châm
xây dựng nông thôn mới: Xây dựng nông thôn mới là chủ trương lớn để phát
triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông
thôn; là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt của cả hệ thống chính trị.
Xây dựng nông thôn mới còn là cuộc vận động rộng rãi, thu hút các
nguồn lực trong toàn xã hội cùng tham gia; trong đó cấp ủy đảng và chính
quyền cơ sở đóng vai trò lãnh đạo, điều hành; Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
có nhiệm vụ tuyên truyền, vận động nông dân vừa là chủ thể thực hiện, vừa là
đối tượng thụ hưởng thành quả đạt được.
Công tác xây dựng nông thôn mới được tiến hành đồng loạt ở tất cả các
xã trong tỉnh; kế thừa và lồng ghép với các chương trình, dự án và các cuộc vận
động khác, nhất là phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa"
ở cơ sở, phong trào nhân dân đóng góp xây dựng hạ tầng nông thôn, đô thị...
Phương châm xây dựng nông thôn mới là dựa vào nội lực cộng đồng dân
cư là chính, có sự hỗ trợ một phần từ ngân sách Nhà nước; khuyến khích các
thành phần kinh tế cùng tham gia; đảm bảo nguyên tắc "Dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra và dân hưởng thụ".
Xây dựng nông thôn mới được xác định là nhiệm vụ của cả hệ thống
chính trị và toàn xã hội trong giai đoạn hiện nay ở nước ta. Chính vì vậy, nó
phải có hệ thống lí luận soi đường. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng nông
thôn mới là sự vận dụng sáng tạo lí luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực
tiễn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, hướng đến thực hiện mục tiêu cách
mạng xã hội chủ nghĩa, từng bước xóa bỏ sự khác biệt giữa thành thị và nông
thôn, giữa lao động chân tay và lao động trí óc, để đi đến kết quả cuối cùng là
giai cấp công nhân, nông dân, trí thức sẽ trở thành những người lao động của
xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Như vậy, xây dựng nông thôn mới là mục tiêu chiến lược lâu dài của
Đảng và Nhà nước. Mục tiêu đặt ra là đến năm 2020 phải có 50% số xã đạt
31
chuẩn nông thôn mới và sau đó có 60-70-100% xã đạt chuẩn quốc gia về nông
thôn mới.
Vì vậy, phương châm là dùng công nghiệp và các thành phần kinh tế
khác tác động vào nông thôn. Nông nghiệp, nông dân và nông thôn với tư cách
vừa là đầu vào, vừa là đầu ra cho các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp,
nhất là doanh nghiệp công nghiệp. Sử dụng công nghệ tác động vào nông thôn
trong ứng dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất, trong tác phong, lối sống làm
việc, trong điều tiết lợi nhuận trả về cho nông nghiệp, nông thôn. Dùng đô thị
tác động vào nông thôn thể hiện trong quy hoạch bố trí dân cư hạ tầng, lớn hơn
là tư duy của cuộc sống mới vươn lên trong nền kinh tế thị trường hội nhập.
Dùng trí thức, công nhân, thương nhân tác động vào nông dân cả nước, thay
đổi phong tục, tập quán trong ý thức vươn lên làm giàu cho chính mình. Nông
dân Việt Nam không chỉ vươn lên để thoát nghèo, mà còn phải vươn lên để làm
giàu, không chỉ hưởng thụ vật chất, mà còn hưởng thụ cả tinh thần.
2.2. Sự vận dụng của đảng bộ, chính quyền địa phương về xây dựng
nông thôn mới
2.2.1. Sự vận dụng của Đảng bộ, Chính quyền tỉnh Thanh Hóa
Ngay từ khi có chỉ đạo của Trung ương, tỉnh Thanh Hóa đã sớm triển
khai đồng bộ việc thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới ở tất cả các
cấp, các ngành, các địa phương.
Hệ thống tổ chức quản lí thực hiện Chương trình nông thôn mới được
thành lập. Cấp tỉnh đã thành lập Ban Chỉ đạo và Văn phòng điều phối Chương
trình xây dựng nông thôn mới. Đến tháng 11/2011, đã có 100% số huyện, thị,
thành phố và 100% số xã trong tỉnh thành lập Ban Quản lí và Ban Phát triển
nông thôn để tổ chức thực hiện chương trình [58,tr.12].
Ngoài các văn bản chỉ đạo Chương trình xây dựng nông thôn mới của
Trung ương, tỉnh Thanh Hóa đã kịp thời ban hành nhiều văn bản quan trọng
32
khác. Đó là: Chương trình hành động số 56-CTr/TU ngày 14/11/2008 của Tỉnh
ủy Thanh Hóa thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung
ương (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Công văn số 3857/UBND
ngày 3/8/2009 của UBND tỉnh Thanh Hóa Về việc lập đề án xây dựng nông
thôn mới tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2010-2020; Quyết định số 2005-
QĐ/UBND ngày 7/6/2010 của UBND tỉnh Thanh Hóa về việc phê duyệt Đề án
nông thôn mới tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2010-2020, định hướng đến năm
2030; Kế hoạch số 44/KH-UBND ngày 28/5/2012 của UBND tỉnh về việc triển
khai thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2012 - 2015;
Quyết định số 1893/QĐ-UBND ngày 20/6/2012 về lựa chọn 117 xã chỉ đạo
thực hiện, phấn đấu đạt 19 tiêu chí nông thôn mới vào năm 2015; Quyết định số
1457/QĐ-UBND ngày 11/5/2011 về hướng dẫn lập quy hoạch xã nông thôn
mới trên địa bàn tỉnh (quy hoạch 3 trong 1); Quyết định số 1666/QĐ-UBND
ngày 27/5/2011 về việc hướng dẫn quy trình đánh giá xã đạt các tiêu chí nông
thôn mới; Quyết định số 728/2013/QĐ-UBND ngày 1/3/2013 của UBND tỉnh
về cơ chế chính sách hỗ trợ xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh đến 2015;
Quyết định số 145/QĐ-UBND ngày 10/1/2013 quy định về trình tự, thủ tục xét
công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới; Quyết định số 4296/QĐ-UBND ngày
4/12/2013 ban hành tiêu chí công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới trên địa
bàn tỉnh; Quyết định 721/QĐ-UBND ngày 18/3/2014 về việc phê duyệt danh
sách các xã phấn đấu đạt chuẩn nông thôn mới năm 2014, năm 2015, năm
2016, v.v...
Các ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh có chương trình phối hợp với ngành
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để thực hiện Chương trình xây dựng nông
thôn mới. Nhiều huyện đã ban hành các chính sách hỗ trợ, kích cầu để xây
dựng nông thôn mới; qua đó khuyến khích người dân tham gia tích cực hơn.
Hệ thống tài liệu, văn bản triển khai Chương trình xây dựng nông thôn
mới của Trung ương, của tỉnh được cung cấp, phát hành đầy đủ, rộng rãi, kịp
33
thời đến các huyện, thị, thành phố, các phòng, ban, ngành có liên quan. Các
huyện, thị, thành phố cũng ban hành chỉ thị hoặc nghị quyết triển khai thực hiện
chương trình; xác định Chương trình xây dựng nông thôn mới là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm để chỉ đạo thực hiện trong nhiệm kì 2010-2015.
Công tác tuyên truyền, vận động thực hiện Chương trình xây dựng nông
thôn mới được triển khai toàn diện. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy kịp thời khai thác
biên soạn nhiều loại tài liệu và chỉ đạo hệ thống tuyên giáo các cấp, các cơ quan
thông tin đại chúng đẩy mạnh công tác tuyên truyền, mở nhiều chuyên trang,
chuyên mục về xây dựng nông thôn mới. Tỉnh Đoàn Thanh niên ban hành nghị
quyết triển khai Cuộc vận động “Tuổi trẻ Thanh Hóa chung tay xây dựng nông
thôn mới”. Kết quả công tác tuyên truyền bước đầu đã tạo được sự chuyển biến
về nhận thức và hành động của các sở, ban, ngành, đoàn thể, cấp ủy, chính quyền
các cấp; thu hút sự quan tâm, đồng tình hưởng ứng của đông đảo các tầng lớp
nhân dân.
Tỉnh Thanh Hóa đã chủ động tổ chức tập huấn cho các thành viên Ban
Chỉ đạo các cấp. Nội dung tập huấn bám sát vào các văn bản chỉ đạo, hướng
dẫn của Trung ương, của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, gắn với tình hình thực tế ở
địa phương và các đơn vị trong tỉnh.
Căn cứ vào tình hình cụ thể, ngày 7/6/2010, Ủy ban Nhân dân tỉnh Thanh
Hóa đã ban hành Quyết định số 2005/QĐ-UBND về lựa chọn 11 xã để chỉ đạo
điểm. Tại các xã này, việc tập trung phát triển sản xuất, lồng ghép đào tạo nghề,
tạo thêm việc làm, dồn điền - đổi thửa để tổ chức lại sản xuất, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, cơ cấu lao động được thực hiện có hiệu quả; nhiều hạng mục công trình
thiết yếu, như giao thông nông thôn, giao thông và kênh mương nội đồng, nhà văn
hóa, chỉnh trang khu dân cư…, được triển khai đầu tư theo đúng kế hoạch, góp
phần tạo thêm diện mạo mới cho các địa phương.
34
Bảng 2.1. Danh sách 11 xã điểm xây dựng nông thôn mới
tỉnh Thanh Hóa
Thời điểm đạt Xã STT Đơn vị Xã thực hiện
NTM (19/19 tiêu chí)
Xã Quý Lộc 2012 1 Huyện Yên Định
Xã Thiệu Trung 2012 2 Huyện Thiệu Hóa
Xã Minh Dân 2013 3 Huyện Triệu Sơn
Xã Nga An 2014 4 Huyện Nga Sơn
Xã Hoằng Thắng 2013 5 Huyện Hoằng Hóa
2014 6 Huyện Quảng Xương Xã Quảng Hợp
Xã Trường Sơn 2013 7 Huyện Nông Cống
Xã Xuân Giang Phấn đấu cuối năm 2014 8 Huyện Thọ Xuân
Xã Xuân Du Phấn đấu cuối năm 2014 9 Huyện Như Thanh
Xã Thành Long Phấn đấu cuối năm 2014 10 Huyện Thạch Thành
(Nguồn: Quyết định số 2005/QĐ-UBND ngày 7/6/2010 về lựa chọn 11 xã để chỉ đạo điểm)
Xã Xuân Phú Phấn đấu cuối năm 2014 11 Huyện Quan Hóa
Trong quá trình thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới, tỉnh
Thanh Hóa bám sát 4 quan điểm chỉ đạo:
Một là, xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ có tính chiến lược trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn tỉnh, được thực hiện trong
mối quan hệ mật thiết với nông nghiệp và nông dân, trong đó nông dân là chủ
thể của quá trình phát triển; xây dựng nông thôn là căn bản, phát triển nông
nghiệp là then chốt, là nhiệm vụ của hệ thống chính trị và toàn xã hội; trong đó
cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể đóng vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành,
hướng dẫn, động viên và hỗ trợ.
35
Hai là, xây dựng nông thôn mới là cuộc vận động xã hội sâu sắc, toàn diện
(phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội; sản xuất, đời sống, nếp sống, phong tục tập
quán theo 19 tiêu chí Chính phủ ban hành) được thực hiện theo phương châm “dân
bàn, dân làm, dân hưởng thụ”, “lấy sức dân để lo cho dân”; phát huy vai trò chủ
động của cộng đồng dân cư, đặc biệt là cộng đồng thôn, bản, các hoạt động cụ thể ở
thôn, xã do chính người dân bàn bạc, quyết định.
Ba là, xây dựng nông thôn mới là quá trình lâu dài, liên tục; được thực hiện
trên cơ sở vừa cải tạo, vừa xây dựng, vừa kế thừa những thành tựu, truyền thống,
bản sắc văn hóa tốt đẹp trong nông thôn những năm vừa qua, vừa hình thành
những giá trị mới theo hướng văn minh, hiện đại; phải trên cơ sở các quy hoạch,
kế hoạch để đảm bảo yêu cầu phát triển lâu dài và bền vững; theo lộ trình vừa
triển khai diện rộng, vừa chỉ đạo các mô hình điểm; trong đó mô hình điểm phải đi
trước một bước.
Bốn là, nguồn lực cho xây dựng nông thôn mới chủ yếu là khai thác tối đa
tiềm năng đất đai, lao động sẵn có ở nông thôn và huy động có hiệu quả đóng
góp của các tầng lớp nhân dân trong và ngoài địa bàn; trên cơ sở các cơ chế,
chính sách khuyến khích, thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế, đặc biệt là
của các doanh nghiệp vào nông nghiêp, nông thôn, với phương châm “lấy công
nghiệp hỗ trợ cho nông nghiệp, lấy thành thị lôi kéo nông thôn, lấy doanh nghiệp
hỗ trợ nông dân” và lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương
trình, dự án khác đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn [58,tr.14].
Qua bước đầu lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chương trình xây dựng nông
thôn mới trên địa bàn, Thanh Hóa được Trung ương đánh giá cao vì đã thể hiện
tính chủ động, linh hoạt, sáng tạo và đưa ra được cách làm phù hợp với điều
kiện thực tế của địa phương. Trong đó, đáng chú ý là Quyết định 3655/QĐ-
UBND ngày 17/10/2013 của UBND tỉnh bổ sung quy định về “lấy phiếu đánh
giá sự hài lòng của người dân đối với Chương trình xây dựng nông thôn mới”
vào trình tự thủ tục xét, công nhận “xã đạt chuẩn nông thôn mới”. Quyết định
36
này vừa thể hiện sự chặt chẽ về trình tự, thủ tục pháp lí trong quy trình xét,
công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới, vừa đánh giá được mức độ hài lòng của
người dân thông qua xây dựng nông thôn mới, để người dân có những nhận xét,
đánh giá khách quan, góp phần hạn chế tính hình thức trong Chương trình xây
dựng nông thôn mới, tuân thủ mục tiêu của Chương trình là nâng cao chất
lượng cuộc sống về mọi mặt của người dân. Đây được coi là tiêu chí thứ 20
trong xây dựng nông thôn mới của Thanh Hóa nhằm khắc phục tình trạng chạy
theo thành tích, cũng như không để dân phải đóng góp quá nhiều…
2.2.2. Sự vận dụng của Đảng bộ, Chính quyền huyện Nông Cống và quá
trình thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới
Quán triệt chủ trương của Trung ương về Chương trình mục tiêu Quốc gia
xây dựng nông thôn mới; Chương trình hành động số 56/CTr-TU ngày
14/11/2008 của Tỉnh ủy Thanh Hóa về thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông
thôn; các quyết định của UBND tỉnh Thanh Hóa; hướng dẫn của các sở, ban
ngành về việc hướng dẫn thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới,
ngay trong tháng 10/2010, UBND huyện đã tổ chức triển khai cho 31 xã xây
dựng nông thôn mới điều tra đánh giá thực trạng nông nghiệp, nông thôn theo
Quyết định 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ và báo cáo
cấp trên làm cơ sở xây dựng kế hoạch thực hiện Chương trình nông thôn mới.
Tháng 8/2010, Ủy ban Nhân dân huyện ban hành Quyết định 2103/QĐ-
UBND ngày 12/8/2010 về việc thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Chương trình
xây dựng nông thôn mới, đồng thời ban hành quy chế hoạt động của Ban Chỉ
đạo, triển khai các văn bản của Trung ương, của tỉnh tới toàn thể Ban Chỉ đạo
và các ngành.
Tháng 9/2010, Ban Chỉ đạo huyện ban hành Kế hoạch số 72/ KH-BCĐ về
việc thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới huyện Nông Cống giai
37
đoạn 2010-2020; phân công nhiệm vụ cho các phòng, ban, ngành và các đơn vị
liên quan; ban hành quy chế hoạt động, phối hợp và quy chế làm việc.
Bảng 2.2. Bộ máy tổ chức thực hiện chương trình
Chức danh STT Số quyết định Ngày ban hành Nội dung thực hiện
1 Bí thư Huyện ủy - Trưởng ban 2103 12/8/2010
Ban Chỉ Chủ tịch UBND huyện - Phó 2 2103 đạo Trưởng ban
24 2103 4
10 2103 5
( Theo QĐ 2103- UBND huyện Nông Cống)
Thành viên BCĐ Tổ chuyên viên giúp việc
Ban Chỉ đạo huyện cũng xác định mục tiêu và tiến độ thực hiện Chương
trình xây dựng nông thôn mới. Cụ thể như sau:
- Trong 5 năm đầu (2010 - 2015): Phấn đấu hoàn thành xây dựng nông
thôn mới ở 7 xã (gần 21,9% tổng số xã): Trường Sơn; Minh Thọ, Hoàng Giang,
Vạn Hòa, Tế Lợi, Tượng Văn, Vạn Thiện. Trong đó, phấn đấu 1 xã hoàn thành
trước 30/12/2012 là xã Trường Sơn - xã điểm của tỉnh.
- Trong 5 năm tiếp theo (2015 - 2020): Phấn đấu hoàn thành xây dựng
nông thôn mới ở 9 xã: Trường Trung, Tế Thắng, Vạn Thắng, Trung Chính,
Hoàng Sơn, Thăng Long, Minh Nghĩa, Công Liêm, Trường Giang, đưa tổng số
xã đạt xã nông thôn mới lên 16 xã (50% tổng số xã trong toàn huyện).
- Trong 10 năm tiếp (2020 - 2030): Phấn đấu xây dựng 16 xã còn lại đạt
tiêu chí nông thôn mới, hoàn thành 100% Chương trình xây dựng nông thôn
mới trên địa bàn huyện.
38
Tại Hội nghị Ban Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới tỉnh Thanh Hóa ngày
19/9/2011, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng ban Chỉ đạo Chương trình xây
dựng nông thôn mới đã có kết luận số 41 về việc kiện toàn tổ chức Ban Chỉ đạo
từ huyện đến cơ sở. Theo đó, cấp huyện kiện toàn Ban Chỉ đạo phát triển nông
nghiệp và xây dựng nông thôn mới, do Bí thư huyện ủy làm Trưởng ban; phân
công các ủy viên Ban Thường vụ huyện ủy phụ trách các xã; phân công phòng
Nông nghiệp & PTNT là cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo; cấp xã thành
lập và kiện toàn Ban Chỉ đạo phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn
mới, do Bí thư Đảng bộ làm Trưởng ban; thành lập Ban Quản lí xây dựng nông
thôn mới, do Chủ tịch UBND xã làm Trưởng ban; cấp thôn thành lập Ban Phát
triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp bộ đảng và chính quyền,
đến tháng 11/2012, toàn huyện Nông Cống đã có 100% số xã thành lập và kiện
toàn Ban Chỉ đạo Chương trình xây dựng nông thôn mới; 100% số xã thành lập
Ban Quản lí và Ban Phát triển nông thôn để tổ chức thực hiện chương trình.
Trong quá trình triển khai nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới, các thành
viên Ban Chỉ đạo thường xuyên bám sát cơ sở, theo dõi, nắm bắt tình hình,
tham mưu cho Ban Chỉ đạo huyện để có những giải pháp kịp thời thực hiện xây
dựng nông thôn mới tại 31 xã, đặc biệt là xã phấn đấu đạt chuẩn nông thôn mới
năm 2012, 2013 và 5 xã phấn đấu đạt chuẩn năm 2015.
Ban Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới huyện chủ động xây dựng và trình
HĐND huyện ban hành các chính sách hỗ trợ, kích cầu trong phát triển nông
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng nông thôn mới từ nguồn ngân sách
địa phương. Đó là: Chính sách khen thưởng hoàn thành 19 tiêu chí; Chính sách
hỗ trợ doanh nghiệp duy trì việc làm, phát triển kinh tế trang trại, mô hình thu
nhập ổn định cho sản xuất lúa vùng ngập lụt, mô hình cơ giới hóa đồng bộ;
Chính sách hỗ trợ kích cầu xây dựng hạ tầng nông thôn, giao thông nông thôn,
giao thông nội đồng và kiên cố hóa kênh mương... Mặc dù mức hỗ trợ chưa
39
lớn, nhưng các chính sách đó đã có tác động tích cực đến vấn đề giải quyết việc
làm, phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho người dân, từng bước làm thay
đổi bộ mặt nông thôn.
Nhiều văn bản chỉ đạo xây dựng nông thôn mới cũng được ban hành.
Đó là: Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Nông Cống lần thứ XXII (nhiệm kì
2010 – 2015) về Chương trình PTNN và xây dựng nông thôn mới; Công văn
số 446/UBND ngày 25/6/2010 Về việc triển khai lập đề án xây dựng nông
thôn mới huyện Nông Cống giai đoạn 2010 - 2020; Công văn 72/KH-UBND,
ngày 22/9/2010 về Kế hoạch thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới
huyện Nông Cống giai đoạn 2010 - 2015...
Đảng bộ các xã, thị trấn trong huyện đều có nghị quyết triển khai thực
hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới, coi đó là một trong những nhiệm
vụ trọng tâm của địa phương, đơn vị.
Để thực hiện thắng lợi Chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa
bàn huyện, công tác tuyên truyền, vận động được các cấp, các ngành đặc biệt
coi trọng. Huyện ủy, Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân huyện đã dành
một phần kinh phí khá lớn cho hoạt động thông tin tuyên truyền cuộc vận động
xây dựng nông thôn mới. Chỉ tính riêng năm 2013, Ủy ban Nhân dân huyện đã
phê duyệt 87.000.000 đồng cho hoạt động tuyên truyền và chỉ đạo thực hiện
Chương trình xây dựng nông thôn mới.
Dưới sự chỉ đạo của các cấp ủy đảng và chính quyền, ngay từ năm 2009,
công tác tuyên truyền, giáo dục xây dựng nông thôn mới đã được triển khai toàn
diện với nhiều nội dung, bằng nhiều hình thức và rộng khắp từ huyện đến cơ sở.
Trong 5 năm (2009- 2013), toàn huyện tổ chức tuyên truyền tập trung được 355
buổi (30 buổi cấp huyện và 325 buổi cấp xã), gồm 57.271 người tham gia; 66
cuộc thi các cấp tìm hiểu về Chương trình nông thôn mới [6,tr.8].
Nội dung tuyên truyền chủ yếu tập trung vào các vấn đề: Vị trí, vai trò của
nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
40
hóa, xây dựng và bảo vệ tổ quốc; Ý nghĩa, tầm quan trọng và yêu cầu cấp thiết
xây dựng nông thôn mới; Những thuận lợi và khó khăn khi xây dựng nông thôn
mới; Mục tiêu xây dựng nông thôn mới, mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể; Chủ
trương, quan điểm, những nhiệm vụ và giải pháp của tỉnh trong xây dựng nông
thôn mới; Những nội dung chủ yếu của 19 tiêu chí trong Bộ Tiêu chí Quốc gia
và 11 nội dung trong Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn
mới giai đoạn 2010 - 2020 của Thủ tướng Chính phủ về những yêu cầu cần đạt
được của từng tiêu chí; Các cơ chế, chính sách hỗ trợ của Nhà nước và sự phát
huy nội lực của người dân, của địa phương trong chương trình xây dựng nông
thôn mới với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”; Chế độ thực
hiện, những điển hình tiên tiến, nhân tố mới trong phong trào thi đua yêu nước,
xây dựng nông thôn mới …
Công tác tuyên truyền, vận động được thực hiện dưới nhiều hình thức
phong phú, đa dạng. Phối hợp với các cơ quan Báo chí, Đài Phát thanh - Truyền
hình và Thông tin - Truyền thông xây dựng hơn 200 tin bài phản ánh, đưa tin kết
quả thực hiện Chương trình nông thôn mới trên các phương tiện thông tin đại
chúng của Trung ương, của tỉnh, huyện, xã. Thường trực Ban Chỉ đạo đã nghiên
cứu, biên soạn, in sao, cấp phát các loại tài liệu, tờ gấp cho các phòng ban, các xã
để phổ biến, tuyên truyền các chủ trương, chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ thực
hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới.
Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, Ban Tuyên giáo Huyện
ủy thường xuyên có những tin, bài viết phản ánh kết quả thực hiện Chương
trình xây dựng nông thôn mới ở các xã đăng trong chuyên mục Bản tin nội bộ;
Đài Truyền thanh của huyện xây dựng và duy trì tốt chuyên mục Nông thôn
mới để thường xuyên cập nhật, chuyển tải các chủ trương, chính sách, các giải
pháp và nhiệm vụ thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới của Đảng,
Nhà nước đến toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân.
41
Công tác tuyên truyền cũng được tiến hành thông qua các hội nghị của tổ
chức đảng, chính quyền; các cuộc họp khu dân cư; các diễn đàn, sinh hoạt của
các đoàn thể; tuyên truyền thông qua hệ thống các báo cáo viên, tuyên truyền
miệng; tuyên truyền trực quan bằng tranh cổ động, các khẩu hiệu, panô, áp
phích tại các địa phương. Trên các nẻo đường, tại những nơi công cộng, các
khu dân cư, v.v... đều căng nhiều khẩu hiệu có sức cổ vũ mạnh mẽ tinh thần
của người dân:“Đảng bộ, chính quyền, nhân dân huyện Nông Cống chung sức
xây dựng nông thôn mới”; “Xây dựng nông thôn mới là sự nghiệp của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân”; Thi đua xây dựng nông thôn mới vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh”; “Nông thôn mới-
diện mạo mới- sức sống mới”, v.v... Riêng trong năm 2011, toàn huyện đã xây
dựng được 66 cụm panô tuyên truyền về Chương trình xây dựng nông thôn mới;
bình quân mỗi xã có 2 cụm [6,tr.8].
Cuộc vận động thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa
bàn huyện còn được tuyên truyền có hiệu quả thông qua các hoạt động văn hóa,
văn nghệ, thể dục, thể thao; phát động phong trào thi đua xây dựng nông thôn
mới gắn với các phong trào thi đua yêu nước trong cán bộ, đảng viên và các
tầng lớp nhân dân; tổ chức kí cam kết giữa các hộ gia đình với chính quyền và
Mặt trận Tổ quốc địa phương trong việc thực hiện nội dung xây dựng nông
thôn mới.
Thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục, cán bộ, đảng viên và nhân
dân trong huyện ngày càng nhận thức rõ mục đích, ý nghĩa, nội dung và
phương châm của Chương trình xây dựng nông thôn mới. Từ đó, những biểu
hiện tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự đầu tư của Nhà nước, về cơ bản được xóa
bỏ. Các cấp, các ngành, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội trong
huyện nhận thức đầy đủ trách nhiệm của mình trong cuộc vận động xây dựng
nông thôn mới.
42
Mặt trận Tổ quốc các cấp trong huyện là trung tâm tập hợp, đoàn kết các
tầng lớp nhân dân thực hiện Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư”. Mặt trận vận động các doanh nghiệp, doanh nhân
góp sức chung tay xây dựng nông thôn mới; thực hiện chức năng giám sát quá
trình triển khai thực hiện chính sách đảm bảo mục tiêu và yêu cầu của chương
trình nông thôn mới. Mặt trận Tổ quốc huyện còn triển khai và động viên các tổ
chức đoàn thể trên địa bàn tham gia cuộc thi viết về đề tài “Chung sức xây
dựng nông thôn mới”, phấn đấu xây dựng Thanh Hóa trở thành tỉnh kiểu mẫu"
do tỉnh phát động nhân dịp kỉ niệm 65 năm ngày Bác Hồ lần đầu tiên về thăm
Thanh Hóa (20/2/1947 – 20/2/2012).
Hội Nông dân là chủ thể xây dựng nông thôn mới. Các cấp Hội Nông
dân trong huyện vừa tích cực tuyên truyền, vận động và chỉ đạo thực hiện việc
xây dựng nhà ở dân cư nông thôn đạt chuẩn theo tiêu chí số 9, vừa tổ chức tập
huấn cho nông dân biết ứng dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất
nông nghiệp. Hội đóng vai trò nòng cốt trong các phong trào phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội, xây dựng nông thôn mới, xây dựng gia đình nông dân văn hóa,
chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nông dân. Các cấp Hội tổ chức cho
nông dân trực tiếp tham gia góp ý công tác quy hoạch, thực hiện các tiêu chí về
giao thông, thủy lợi, giải phóng mặt bằng; tích cực chuyển đổi cơ cấu giống cây
trồng, vật nuôi; chuyển dịch cơ cấu mùa vụ đối với cây lúa; xây dựng nhiều mô
hình trồng ớt xuất khẩu, trồng bí xanh, trồng nấm, trồng thanh long ruột đỏ...
Ngoài ra, Hội Nông dân còn xây dựng mô hình an sinh xã hội nhằm giúp đỡ
các hộ nghèo vượt khó vươn lên thoát nghèo, làm giàu chính đáng trên mảnh
đất quê hương.
Hội Phụ nữ huyện vận động hội viên tích cực thực hiện các nhiệm vụ
phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng, xây dựng gia đình ấm no, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Hưởng ứng các phong trào thi đua thực hành tiết
kiệm, phụ nữ giúp nhau xóa nghèo bền vững, tích cực tham gia phong trào xây
43
dựng nông thôn mới; tổ chức các phong trào phụ nữ giúp nhau phát triển kinh
tế, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, phổ cập nghề tiểu thủ công nghiệp, dịch
vụ, thương mại như nghề làm thêu ren, hàng thủ công mĩ nghệ xuất khẩu, chẻ
chân hương, may nón lá, đan... Hội Phụ nữ còn tổ chức cuộc thi “Phụ nữ Nông
Cống chung tay xây dựng nông thôn mới” tại 31 xã xây dựng nông thôn mới
(số liệu trên chỉ tính đơn vị xã, 2 thị trấn không phải là đơn vị xây dựng nông
thôn mới) Đoàn Phụ nữ của huyện tham gia dự thi “Phụ nữ Thanh Hóa chung
tay xây dựng Nông thôn mới”cấp tỉnh, đạt giải đặc biệt.
Hội Cựu chiến binh huyện tổ chức và triển khai các phong trào cho hội
viên tham gia xây dựng nông thôn mới; trực tiếp góp phần thực hiện tiêu chí 19
đảm bảo an ninh trật tự; tích cực đẩy mạnh công tác giáo dục truyền thống cách
mạng cho thế hệ trẻ, thường xuyên tham gia các phong trào văn hóa, văn nghệ,
thể dục thể thao, các hoạt động bảo vệ môi trường, phòng chống tệ nạn xã hội,
bảo vệ an ninh trật tự trên địa bàn, góp phần xây dựng nông thôn văn minh,
lành mạnh.
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh huyện tích cực vận động đoàn
viên, thanh niên tham gia phong trào "Tuổi trẻ huyện Nông Cống chung tay xây
dựng nông thôn mới”; tham gia nhiều phần việc thanh niên để thực hiện các tiêu
chí nông thôn mới. Cùng với cấp ủy, chính quyền địa phương, Đoàn Thanh niên
tham gia giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong quá trình xây dựng nông
thôn mới, đặc biệt là công tác giải phóng mặt bằng. Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh huyện còn tổ chức du nhập nghề mới và dạy nghề cho thanh niên,
tập huấn chuyển giao tiến bộ KHKT trong chăn nuôi, trồng trọt và nuôi trồng
thủy sản; tham gia kí kết giao ước thi đua xây dựng nông thôn mới với chính
quyền huyện, xã; xây dựng các mô hình điển hình về chuyển giao KHKT, phát
triển sản xuất, hợp tác xã dịch vụ thanh niên, thanh niên tham gia làm đường
giao thông nông thôn… Đáng chú ý là các mô hình: Phân viên nén dúi sâu (phân
bón lúa sử dụng công nghệ kết hợp 3 hàm lượng: Đạm, Lân, Kali dưới dạng
44
viên, dúi gốc khi cấy lúa dùng cho địa hình bán sơn địa, ít nước) tại các xã: Vạn
Hòa, Vạn Thắng, Công Liêm, Thăng Long, Công Bình; Sản xuất lúa giống tại xã
Thăng Long; Mạ khay kết hợp máy cấy tại xã Tế Thắng; Cơ giới hóa đồng bộ tại
xã Tượng Sơn; Xây dựng trang trại chăn nuôi đạt chuẩn theo tiêu chí mới…
Hội Người cao tuổi huyện cũng triển khai và tích cực tham gia nhiều
việc làm thiết thực, có ý nghĩa. Bằng kinh nghiệm và nêu gương sáng, các hội
viên Hội Người cao tuổi vận động con, cháu thực hiện tốt phong trào Toàn dân
xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, xây dựng gia đình văn hoá, góp phần
xây dựng làng, tiểu khu, xã văn hoá. 100% cơ sở Hội trong huyện tự nguyện
tham gia đăng kí với chính quyền địa phương, mức đóng góp làm đường giao
thông, tự nguyện hiến đất, ngày công, động viên con cháu trong gia đình tham
gia, con em xa quê gửi tiền ủng hộ làm đường giao thông nông thôn, bê tông
hóa kênh mương nội đồng, xây dựng nhà văn hóa, góp phần làm thay đổi bộ
mặt làng quê.
Như vậy, nhờ đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, cuộc vận động
thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới ở huyện
Nông Cống tỉnh Thanh Hóa được triển khai bằng sức mạnh tổng hợp của tất cả
các cấp, các ngành, các đoàn thể chính trị, xã hội. Đây là một trong những nhân
tố quan trọng, có tính quyết định đến sự thành công của cuộc vận động xây
dựng nông thôn mới ở huyện Nông Cống.
Song song với việc tuyên truyền, giáo dục trong cán bộ, đảng viên và nhân
dân, công tác tập huấn cho các thành viên Ban Chỉ đạo các cấp được triển khai
sớm và đồng bộ. Nội dung tập huấn phù hợp với khung chương trình và các
chuyên đề theo quy định của Trung ương, của tỉnh, gắn với tình hình của địa
phương. Trong 5 năm (2009 – 2013), toàn huyện đã tổ chức 752 buổi tập huấn,
đào tạo các nội dung về Chương trình xây dựng nông thôn mới (cấp huyện 48
lớp; cấp xã 704 lớp) với sự tham gia của 32.247 lượt cán bộ, đảng viên và nhân
dân [8, tr.10].
45
Kết hợp với công tác tập huấn, Ban Chỉ đạo huyện còn tổ chức 17 đoàn
công tác gồm lãnh đạo cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, thành viên Ban Chỉ đạo,
cán bộ trực tiếp thực hiện Chương trình nông thôn mới cấp huyện và xã, Bí thư
chi bộ các thôn tham quan học tập kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới tại các
xã điểm của tỉnh (xã Nga An huyện Nga Sơn, xã Quý Lộc huyện Yên Định, xã
Thiệu Trung huyện Thiệu Hóa); các địa phương ngoài tỉnh (xã Hải Đường huyện
Hải Hậu tỉnh Nam Định) và một số tỉnh phía Nam.
Trên cơ sở hướng dẫn của Trung ương, của tỉnh, tháng 5/2010 Ban Chỉ
đạo xây dựng nông thôn mới của huyện đã triển khai, hướng dẫn các xã thực
hiện điều tra nông nghiệp, nông dân, nông thôn để đánh giá đúng thực trạng
của các địa phương so với 19 tiêu chí do Chính phủ quy định. Sau 3 tháng tiến
hành, đến tháng 8/2010, tất cả các xã trên địa bàn huyện đã hoàn thành điều tra
chi tiết. Kết quả khảo sát, điều tra là căn cứ để Ban Chỉ đạo các cấp trong
huyện xây dựng đề án xây dựng nông thôn mới sát thực tế, có tính khả thi.
46
Bảng 2.3. Tổng hợp các xã đăng kí phấn đấu đạt chuẩn nông thôn mới đến 2015, định hướng đến 2030
Năm phấn đấu hoàn thành
Ghi chú STT Tên xã
Giai đoạn 2015 - 2020 Định hướng đến 2030 Số tiêu chí đạt khi bắt đầu triển khai
Giai đoạn 2010 - 2015 2012 2013 2014 2015 X 13 1 Trường Sơn
Xã điểm của tỉnh đã đạt NTM 2013 Đã đạt năm 2014 10 X 2 Tế Lợi
Đã đạt năm 2014 11 3 Minh Thọ
Xã điểm của huyện
X 7 7 8 X X X 4 Hoàng Giang Trung Chính 5 Tượng Văn 6
Đã đạt năm 2013 8 X 7 Minh Nghĩa
7 X 8 Vạn Thiện
Trường Trung
6 4 6 X X X 9 10 Tế Thắng 11 Vạn Thắng
6 X 12 Hoàng Sơn
6 X 13 Thăng Long
47
14 Vạn Hòa 15 Trường Giang 6 5 X X
16 Tượng Sơn 7 X
17 Minh Khôi 5 X
5 4 2 3 3 X X X X X
18 Tân Phúc 19 Công Chính 20 Trung Ý 21 Thăng Bình 22 Tế Nông 23 Tế Tân 3 X
24 Trung Thành 3 X
25 Công Liêm 4 X
26 Thăng Thọ 27 Trường Minh 5 4 X X
28 Tân Thọ 2 X
29 Tân Khang 4 X
30 Tượng Lĩnh 5 X
31 Công Bình 2 X
48
Căn cứ vào kết quả khảo sát thực trạng của từng xã trong toàn huyện,
đến năm 2030 huyện Nông Cống phấn đấu đạt huyện nông thôn mới. Trong đó,
đến năm 2015 phấn đấu 7 xã sẽ về đích: Trường Sơn, Tế Lợi, Minh Thọ,
Hoàng giang, Trung Chính, Tượng Văn, Minh Nghĩa. Xây dựng nông thôn mới
là chương trình mang tính tổng hợp, sâu rộng, có nội dung toàn diện, bao gồm
tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, an ninh - quốc phòng. Do
vậy, để rút kinh nghiệm cho việc triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu
Quốc gia về xây dựng nông thôn mới trên phạm vi toàn huyện, tỉnh và huyện
đã chọn hai xã Trường Sơn, Hoàng Giang làm thí điểm.
* Xã Trường Sơn - xã điểm của tỉnh
Xã Trường Sơn có vị trí khá thuận lợi, là trung tâm vùng 4 của huyện
Nông Cống, cách trung tâm huyện khoảng 10 km về phía đông nam. Trên địa
bàn xã có các tuyến đường tỉnh, đường liên xã nối liền các xã vùng 4 của huyện
với các huyện Tĩnh Gia, Quảng Xương, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên, người dân xã Trường Sơn vẫn sống chủ
yếu bằng nghề nông, chưa khai thác triệt để tiềm năng, thế mạnh vốn có.
Xã Trường Sơn có diện tích tự nhiên: 582,32 ha (gồm 399,94 ha đất
nông nghiệp, 174,64 ha đất phi nông nghiệp, 7.74 ha đất lâm nghiệp). Đất đai
có nguồn gốc phù sa cổ, mầu mỡ rất thuận lợi trong phát triển ngành nông
nghiệp theo hướng thâm canh, sản xuất hàng hóa. Phần lớn diện tích dùng để
trồng lúa nước, còn lại trồng cây ngắn ngày. Diện tích chủ động và bán chủ
động nước tưới đạt 85% tổng diện tích đất nông nghiệp; diện tích đất canh tác
không chủ động tưới tiêu 15%. Phần diện tích đất trũng đã chuyển dịch sang
làm lúa; phần đất cao không chủ động được nước tưới đã chuyển sang trồng
cây rau màu và cây ăn quả.
Xã Trường Sơn có 1.180 hộ; nguồn lao động dồi dào, sáng tạo, nhận
thức về KHKT của người dân đã được nâng lên thông qua các chương trình đào
tạo tập huấn. Nhân dân trong xã có truyền thống cần cù, đoàn kết, đổi mới và
49
giàu truyền thống cách mạng. Đảng bộ và hệ thống chính trị luôn đạt trong
sạch, vững mạnh. Quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội được giữ vững,
hệ thống chính trị ổn định, hoạt động có hiệu quả và ngày càng vững mạnh,
lòng tin của nhân dân đối với Đảng ngày càng lớn.
Từ năm 1975 đến 2009, cùng với sự phát triển chung của toàn huyện, sản
xuất nông nghiệp của xã Trường Sơn đã đạt được những thành tựu khá toàn
diện. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn được quan tâm đầu tư xây
dựng và nâng cấp. Đời sống vật chất và tinh thần của nông dân được nâng lên
đáng kể. Công tác xoá đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm luôn được quan
tâm và đạt kết quả tốt. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Bên cạnh những thuận lợi kể trên, xã Trường Sơn có nhiều khó khăn,
thách thức: Khả năng khai thác tiềm năng của đất, đặc biệt là đất sản xuất nông
nghiệp còn nhiều hạn chế, chưa quy hoạch thành các vùng sản xuất hàng hóa;
giao thông, kênh mương nội đồng chưa đáp ứng yêu cầu; so với các tiêu chí
nông thôn mới thì chợ, khu trung tâm thương mại dịch vụ làng nghề, cơ sở văn
hóa của xã chưa được đầu tư xây dựng để phát huy lợi thế vị trí địa lí; giá trị
sản phẩm/ha còn thấp so với tiềm năng; diện tích vườn đồi chưa kết hợp với
chăn nuôi gia súc, gia cầm theo quy mô lớn; đầu tư quy hoạch cải tạo vườn tạp
trong từng hộ gia đình chưa mang lại hiệu quả kinh tế cao; tỉ lệ hộ nghèo còn
cao (10% tổng số hộ).
Theo kết quả rà soát thực trạng nông nghiệp, nông thôn đến tháng
6/2010, so với Bộ Tiêu chí Quốc gia về nông thôn mới, xã Trường Sơn mới đạt
6/19 tiêu chí gồm: Tiêu chí 8 về bưu điện, Tiêu chí 13 về hình thức tổ chức sản
xuất, tiêu chí 15 về y tế, tiêu chí 16 về văn hóa, tiêu chí 18 về hệ thống tổ chức
chính trị xã hội vững mạnh, tiêu chí 19 về an ninh, trật tự xã hội được giữ vững.
Từ những thuận lợi và những khó khăn trên, tháng 6/2010, Chủ tịch
UBND tỉnh Thanh Hóa có Công văn 3140/UBND-NN quyết định chọn xã
50
Trường Sơn huyện Nông Cống là 1 trong 11 xã điểm xây dựng nông thôn mới
của tỉnh.
Từ khi được chọn làm xã mô hình điểm xây dựng nông thôn mới, bên
cạnh sự quan tâm chỉ đạo của tỉnh, Ban Chỉ đạo huyện đã phân công 1 đồng chí
lãnh đạo Phòng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn trực tiếp chỉ đạo cùng cơ
sở để triển khai và thực hiện nhiệm vụ.
Ngày 20/9/2010, UBND xã Trường Sơn ra Quyết định 65/QĐ-UBND về
việc thành lập Ban Chỉ đạo chương trình xây dựng nông thôn mới của xã; thành
lập tổ chuyên môn giúp việc và hình thành các tiểu ban chỉ đạo xây dựng nông
thôn mới tại 8 làng. Xã ban hành quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo chương
trình; tổ chức hội nghị tập huấn nghiệp vụ, cung cấp hồ sơ, văn bản liên quan
đến các thôn làng; tuyên truyền và phổ biến rộng rãi đến nhân dân; tổ chức
tham quan, học tập thực tế, hội thảo, hội nghị các chuyên đề để thống nhất triển
khai tổ chức thực hiện.
Căn cứ Quyết định 491/QĐ-TTg của Chính phủ ban hành Bộ Tiêu chí
Quốc gia về nông thôn mới, xã đã tổ chức điều tra, đánh giá thực trạng nông
nghiệp, nông thôn để làm căn cứ lập quy hoạch, đề án. Tháng 10/2010, việc lập
đề án đã hoàn thành và được UBND huyện phê duyệt.
Nguồn vốn thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới của xã gồm:
Vốn hỗ trợ từ Chương trình nông thôn mới, vốn vay, vốn các dự án lồng ghép,
vốn từ ngân sách Nhà nước; từ huy động doanh nghiệp và HTX; của dân đóng
góp. Mặc dù còn nhiều khó khăn về nguồn vốn, nhưng với quyết tâm thực hiện
nhiệm vụ một cách quyết liệt và đồng bộ, xã đã tập trung huy động các nguồn
lực để xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn nhằm tạo bước đột phá, gồm: Giao
thông nông thôn, giao thông – thủy lợi nội đồng; cơ sở vật chất giáo dục, y tế,
nhà văn hóa…
Sau 3 năm thực hiện, từ năm 2010 đến tháng 11/2012, xã Trường Sơn đã
đạt thêm 13 tiêu chí và hoàn thành 19/19 tiêu chí nông thôn mới. Xã Trường
51
Sơn đã thực sự thay đổi toàn diện, nhận thức của người dân được nâng lên, bộ
mặt nông thôn chuyển biến tích cực; các chương trình phát triển kinh tế - xã hội
trên địa bàn được triển khai đồng bộ, hình thành các mô hình sản xuất mới có
hiệu quả, góp phần tích cực phát triển kinh tế - xã hội; đời sống vật chất, tinh
thần của người dân được nâng lên, thu nhập đầu người năm 2013 đạt 19,92 triệu
đồng, cao hơn 1,52 lần so với tiêu chí (yêu cầu của tiêu chí đạt 13 triệu
đồng/người); an ninh trật tự xã hội được giữ vững. Công tác quy hoạch nông thôn
rất bài bản; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của xã vào loại tốt nhất huyện. 100%
các làng (8/8 làng) đều có nhà văn hoá đạt chuẩn; tỉ lệ hộ nghèo còn dưới 5%.
Qua việc lấy phiếu đánh giá của người dân, hầu hết các nội dung lấy ý
kiến đều có sự hài lòng đạt tỉ lệ cao (trung bình đạt: 88,66%), nội dung có tỉ lệ
hài lòng cao nhất là: Sản xuất phát triển hơn (đạt: 95,93%), thấp nhất là: An
ninh trật tự nông thôn đảm bảo tốt (đạt: 73,55%), [7, Tr.10].
Trong quá trình thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới, xã
Trường Sơn đã biết phát huy và khai thác tốt các nguồn ngoại lực. Số tiền mặt
và ngày công do nhân dân và con em xa quê đóng góp để đầu tư phát triển sản
xuất, chỉnh trang nhà ở, công trình vệ sinh chiếm 64,11% tổng nguồn huy động
tài chính của xã.
* Xã Hoàng Giang- xã điểm của huyện
Xã Hoàng Giang gồm 7 thôn, với tổng diện tích 286 ha và dân số 5.200
người (năm 2007). Xã chỉ cách trung tâm huyện 13 km, cách thành phố Thanh
Hóa 15 km, có các tuyến Quốc lộ 45 mới, Quốc lộ 45 cũ, đường sắt Bắc - Nam
chạy qua; có dòng sông Hoàng là nguồn cung cấp nước chủ yếu phục vụ sản
xuất nông nghiệp và sinh hoạt của nhân dân trong vùng. Trên địa bàn xã có
Trung tâm Giáo dục lao động xã hội tỉnh Thanh Hóa, chợ Ga, Ga Tàu Yên
Thái, Chùa Vĩnh Thái, Di tích lịch sử Nhà Thờ Họ Lê Sỹ, Công ty Phân bón
secpentin Thanh Hóa, Công ty may Kim Anh, Công ty nước rửa chén Việt Mĩ...
Đó chính là những lợi thế của xã Hoàng Giang so với các xã khác trong huyện.
52
Trên cơ sở khảo sát những thuận lợi, khó khăn của xã, tháng 1/2011,
UBND huyện quyết định chọn xã Hoàng Giang làm xã thí điểm của huyện thực
hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới. Ban Chỉ đạo huyện phân công 1
đồng chí lãnh đạo Phòng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn trực tiếp chỉ đạo
cùng cơ sở triển khai thực hiện. Huyện và xã tập trung chỉ đạo lồng ghép các
chương trình mục tiêu quốc gia, các dự án; huy động các nguồn lực, chỉ đạo
phát triển các trang trại, hợp tác xã và các loại hình kinh tế nhằm từng bước
giảm tỉ lệ lao động trong nông nghiệp, tăng thu nhập, nâng cao đời sống cho
nhân dân; phát động toàn dân chỉnh trang khuôn viên, tường rào, các công trình
vệ sinh tại khu dân cư và hộ gia đình.
Sau 3 năm thực hiện, từ chỗ mới đạt 5 tiêu chí (2010), đến hết năm 2013
đã tăng thêm 9 tiêu chí, nâng tổng số tiêu chí đạt được 14/19. Tình hình kinh tế
- xã hội ở xã Hoàng Giang có những bước phát triển rõ rệt, đời sống nhân dân
dần được nâng lên, bộ mặt nông thôn có nhiều khởi sắc. Mục tiêu của xã là
phấn đấu đến năm 2014 hoàn thành 19 tiêu chí – đạt xã nông thôn mới.
Từ những kết quả bước đầu trong chỉ đạo thực hiện thí điểm tại hai xã,
Ban Chỉ đạo đã rút được kinh nghiệm để triển khai thực hiện cuộc vận động xây
dựng nông thôn mới trên phạm vi toàn huyện. Tuy nhiên, trong quá trình thực
hiện cuộc vận động, Ban Chỉ đạo huyện gặp không ít khó khăn: Thứ nhất, các xã
trên địa bàn huyện có xuất phát điểm rất khác nhau, nhưng lại phải đạt được các
tiêu chí trong cùng một cơ chế, chính sách đầu tư và trong cùng một thời gian;
thứ hai, thời gian ban hành các văn bản, thông tư hướng dẫn thống nhất chung
giữa các bộ, ngành còn kéo dài, nguồn vốn cho công tác quy hoạch chậm, ảnh
hưởng đến tiến độ thực hiện cho cơ sở; thứ ba, Chương trình xây dựng nông thôn
mới là một chương trình có nội dung rộng lớn, bao gồm nhiều lĩnh vực; vì vậy,
nguồn lực đầu tư xây dựng là rất lớn, nhưng lại từ nhiều chương trình, dự án, mà
mỗi chương trình có cơ chế quản lí khác nhau, nên rất khó khăn trong việc tổ
chức triển khai thực hiện...
53
Để giải quyết những khó khăn trên, Ban Chỉ đạo huyện tiếp tục đẩy mạnh
công tác tuyên truyền sâu rộng nhằm nâng cao nhận thức trong cộng đồng dân
cư về xây dựng nông thôn mới; tổ chức tập huấn, bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán
bộ cơ sở; đa dạng hóa việc huy động nguồn lực để xây dựng nông thôn mới
theo phương châm: “Huy động nguồn lực từ cộng đồng là quyết định, sự tham
gia của doanh nghiệp và xã hội là quan trọng, sự hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước
là cần thiết”. Nhờ đó, đến hết năm 2013, số xã đạt chuẩn theo Bộ Tiêu chí Quốc
gia về nông thôn mới được nâng lên. Kết quả này sẽ được nêu rõ ở chương 3.
Tiểu kết: Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới là
một chương trình tổng thể phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, an ninh quốc
phòng ở các địa phương. Xây dựng nông thôn mới là cốt lõi của việc thực hiện
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa X về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn, thể hiện sự quan tâm, chăm lo của Đảng, Nhà
nước để phát triển khu vực nông thôn. Với phương châm "Nhà nước và nhân
dân cùng làm”, xây dựng nông thôn mới chính là một cuộc cách mạng phát huy
sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, sự tham gia của mọi tầng lớp
nhân dân.
Quán triệt chủ trương của Đảng, của tỉnh Thanh Hóa, Đảng bộ huyện
Nông Cống đã vận dụng sáng tạo chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng
nông thôn mới phù hợp với đặc điểm của huyện. Lợi thế của huyện khi bắt tay
xây dựng nông thôn mới là có sự thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành
tổ chức thực hiện từ huyện đến cơ sở; sự đoàn kết đồng thuận của nhân dân,
thực hiện các bước triển khai đúng quy trình. Một số tiêu chí trong Bộ Tiêu chí
Quốc gia hầu hết các xã về cơ bản đã đạt hoặc gần đạt. Trong cuộc vận động
xây dựng nông thôn mới, Nông Cống được tỉnh đánh giá là huyện có tốc độ
xây dựng khá nhanh.
54
CHƯƠNG 3
NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG CUỘC VẬN ĐỘNG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN NÔNG CỐNG (2009 - 2013)
3.1. Thành tựu
Qua 5 năm triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây
dựng nông thôn mới, từ một huyện thuần nông nghèo nàn, huyện Nông Cống
tỉnh Thanh Hóa đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên mọi lĩnh vực kinh
tế, xã hội, an ninh quốc phòng.
3.1.1. Sản xuất phát triển, thu nhập của người dân được nâng cao
* Sản xuất nông nghiệp
Là huyện đồng bằng, thuần nông, để thực hiện thành công XDNTM,
Nông Cống xác định công tác phát triển sản xuất là yếu tố quyết định; lấy nông
nghiệp làm đòn bẩy cho các hoạt động kinh tế khác. Trong 5 năm (2009 –
2013), Huyện ủy, Ủy ban Nhân dân huyện đã ban hành nhiều nghị quyết, đề án
và xây dựng các cơ chế chính sách để phát triển nông nghiệp, huy động các
nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và hình thành các
vùng chuyên canh: Vùng lúa thâm canh năng suất, chất lượng, hiệu quả cao đạt
4.000 ha (mục tiêu 5.000 ha đến năm 2015); vùng mía nguyên liệu 850 ha;
vùng nuôi trồng thủy sản 758 ha, vùng chuyên canh rau, hoa và cây ngắn ngày
có giá trị thu nhập cao; vùng trang trại tập trung. Nhờ áp dụng khoa học công
nghệ, chuyển dịch cơ cấu mùa vụ và đưa những bộ giống mới vào sản xuất,
hằng năm huyện luôn ổn định diện tích lúa gieo trồng trên 21.000 ha. Sản xuất
lương thực liên tục được mùa; năng suất lúa bình quân tăng từ 57,2 tạ/ha
(2008) lên 64,3 tạ/ha (2013); sản lượng lương thực tăng từ 123.165 tấn (2008),
lên 125.253 tấn (2013). Riêng năm 2012 đạt 132.038 tấn là năm có sản lượng
cao nhất.
55
Một số cây công nghiệp chủ yếu như mía, lạc vẫn giữ được giá trị, diện
tích, năng suất và sản lượng; So với năm 2008, diện tích mía nguyên liệu tăng
từ 611,3 ha, lên 830 ha; sản lượng từ 26.415 tấn, tăng lên trên 45.000 tấn trong
năm 2013.
Cùng với trồng trọt, chăn nuôi phát triển với tốc độ khá, chuyển dịch theo
hướng phát triển trang trại tập trung, gia trại gắn với an toàn dịch bệnh và bảo
vệ môi trường sinh thái. Huyện đã triển khai thực hiện có hiệu quả dự án cải
tạo, nâng cao tầm vóc đàn bò, nạc hóa đàn lợn và chăn nuôi gia cầm siêu thịt,
siêu trứng. Sau năm 5 xây dựng nông thôn mới, đến năm 2013, tổng đàn trâu
4.307 con, đàn bò 6.514 con (trong đó, đàn bò lai chiếm 70%); đàn lợn là
36.706 con (trong đó, lợn hướng nạc chiếm trên 85% tổng đàn) và đàn gia cầm
đạt 1.636,2 con. So sánh với năm 2009 số lượng gia súc, gia cầm có biến động
cụ thể là: Đàn trâu giảm 1.47 con, đàn bò giảm 3.595 con, đàn lợn tăng 14176
con [26, tr.8].
Trong sản xuất nông nghiệp, huyện rất chú trọng đến phát triển, nhân rộng
các mô hình. Đáng chú ý là mô hình sản xuất lúa năng suất, chất lượng và hiệu
quả cao, được thực hiện thí điểm trên 12 ha tại xã Tượng Sơn áp dụng cơ giới
hóa đồng bộ từ khâu gieo mạ, cấy và thu hoạch, chi phí sản xuất giảm từ 3,6 -
4,2 triệu đồng/ha; mô hình lúa sử dụng phân viên nén dúi sâu ở các xã Vạn
Hòa, Vạn Thắng, Thăng Long, Công Liêm với diện tích 950 ha, đem lại năng
suất và hiệu quả cao; mô hình sản xuất nấm t¹i 6 x· Tế Lợi, Trường Sơn, Trung
Chính; Hoàng Giang, Vạn Thiện, Vạn Hòa; 3 mô hình nuôi trồng thủy sản tæng
hîp tại xã Trường Giang, Tường Văn do Trung tâm Khuyến nông tỉnh chuyển
giao với giá trị hỗ trợ trên 300 triệu đồng; mô hình chăn nuôi theo công nghệ
của CP tại Minh Nghĩa; mô hình trồng ớt xuất khẩu 50 ha, bí xanh 60 ha, trồng
rau an toµn, trồng hoa tại Trường Sơn, Vạn Thiện và Thanh Long ruột đỏ...
đem lại thu nhập từ 150 - 200 triệu đồng/ha.
56
Nhiều mô hình doanh nghiệp liên doanh tổ chức sản xuất nông nghiệp
theo hướng hàng hóa gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm, đem lại hiệu quả
kinh tế cao cho người dân nông thôn; điển hình là Công ty Cổ phần xuất nhập
khẩu nông sản Thanh Hóa, Công ty Thức ăn chăn nuôi CP, Công ty Giống cây
trồng Đại Thành...
Cùng với sự tăng trưởng về năng suất, sản lượng cây trồng, vật nuôi, hình
thức tổ chức sản xuất nông nghiệp cũng có những chuyển biến tích cực. Đến
cuối năm 2013, toàn huyện có 41 hợp tác xã dịch vụ. Các khâu dịch vụ hợp tác
xã đã cung cấp giống vật nuôi, cây trồng, phân bón, thuốc trừ sâu cho các hộ đều
kịp thời, có chất lượng, giá cả hợp lí. Hợp tác xã đã trực tiếp giúp đỡ tạo điều
kiện cho kinh tế hộ phát triển, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đưa tiến bộ
khoa học kĩ thuật vào sản xuất, tạo được năng lực sản xuất kinh doanh. Kinh tế
hợp tác xã đã tạo ra một khối lượng hàng hóa, dịch vụ đa dạng, phong phú, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, sản xuất của địa phương.
Hoạt động của hợp tác đã hỗ trợ và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của
các hộ thành viên, tạo việc làm và thu nhập cho một bộ phận lao động, giúp kinh
tế hộ khắc phục một số hạn chế, khó khăn về vốn, công nghệ kĩ thuật, kinh
nghiệm sản xuất, sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực về đất đai, nguyên liệu,
vốn, lao động tại địa phương, mở mang ngành nghề, chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
góp phần xóa đói, giảm nghèo.
Như vậy, trong 5 năm triển khai thực hiện chương trình xây dựng nông
thôn mới, sản xuất nông nghiệp tiếp tục ổn định và tăng trưởng khá, giá trị
xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản tăng nhanh; giá trị sản xuất ngành nông nghiệp
đạt 527,8 tỉ đồng. Cơ cấu cây trồng, vật nuôi chuyển dịch theo hướng tích cực;
tỉ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế từ 35,8% năm 2008, giảm xuống
30,1% năm 2013. Kinh tế trang trại, gia trại phát triển; hằng năm triển khai
trên 150 lớp tập huấn về kĩ thuật sản xuất nông nghiệp. Nhiều tiến bộ KHKT
và công nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp được ứng dụng thành công, góp
57
phần nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả. Giá trị sản xuất trên 1 ha canh
tác từ 51,5 triệu (năm 2008), tăng lên gần 80 triệu đồng (năm 2013). Về cơ
bản, sản xuất nông nghiệp ở huyện Nông Cống đã khắc phục được tình trạng
ruộng đất manh mún; sản xuất nông nghiệp được cơ giới hóa khâu làm đất và
thu hoạch lúa.
*Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề và dịch vụ ở
nông thôn.
Tốc độ tăng trưởng bình quân mỗi năm trong 5 năm (2009 - 2013) là
10,7%. Đến năm 2013, giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đạt
250 tỉ đồng, tăng 16% so với năm 2008. Các làng nghề truyền thống, như nón
lá, chiếu cói, mây tre đan, sản xuất vật liệu xây dựng, đồ gỗ ... tiếp tục tăng
trưởng. Hầu hết các lao động làm nghề tiểu thủ công nghiệp đều có mức thu
nhập bình quân từ 2 triệu đến 2,5 triệu đồng/người/tháng. Toàn huyện đã có
29/33 xã đưa nghề mới vào hoạt động hiệu quả tại địa phương, tạo việc làm và
thu nhập ổn định cho 3.000 lao động [26, tr.12].
3.1.2. Đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn được nâng cao
Trong 5 năm (2009 – 2013), cùng với sự phát triển nhanh về kinh tế - xã
hội ở nông thôn, các cấp uỷ đảng, chính quyền thực hiện có hiệu quả nhiều
chương trình, dự án phát triển kinh tế, giải quyết việc làm, giảm nghèo, chính
sách hỗ trợ người có công và gia đình chính sách. Nhờ đó, đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân trong huyện không ngừng được cải thiện và nâng cao.
* Về đời sống vật chất:
GDP bình quân đầu người năm 2013 đạt 14 triệu đồng (theo giá hiện
hành), tăng 8,3 triệu đồng so với năm 2008. Bình quân lương thực đầu người
năm 2013 là 726,4 kg, tăng 58 kg so với năm 2008. Tỉ lệ hộ nghèo mỗi năm
giảm từ 2% đến 3%. Năm 2008, số hộ nghèo chiếm 22,5% tổng số hộ toàn
huyện (theo tiêu chí cũ); đến năm 2013, tỉ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 10,1%
58
(theo tiêu chí mới) và không còn hộ đói. Trên địa bàn huyện có 39.066 nhà kiên
cố và bán kiên cố trong tổng số 43.796 ngôi nhà (đạt 98,1%) so với năm 2006
tăng 3,4%; không còn nhà tạm, nhà dột nát, đạt chuẩn theo tiêu chí nông thôn
mới về nhà ở dân cư. Đặc biệt 98% hộ gia đình trong huyện có ti vi, 83,5% hộ
có xe máy, so sánh với năm 2006 thì số hộ có ti vi tăng 16,8%, số hộ có xe máy
tăng gần gấp 2 lần (40,6%); Số ô tô các loại năm 2013 khoảng 500 chiếc, tăng
gấp 2 lần so với năm 2009 [39, tr. 80].
* Về đời sống văn hóa tinh thần
Hằng năm, tỉ lệ trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 100%; 100% xã hoàn thành việc
duy trì đạt chuẩn phổ cập tiểu học và THCS. Tỉ lệ học sinh vào học phổ thông
trung học đạt trên 99%. Hiệu quả hoạt động của các trung tâm học tập cộng
đồng được nâng cao. Cơ sở vật chất các trường trong hệ thống giáo dục phổ
thông cơ bản đáp ứng được yêu cầu giảng dạy, học tập của giáo viên và học sinh.
Phong trào xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia được đẩy mạnh. Đến năm
2013, toàn huyện có 54/110 trường học đạt chuẩn quốc gia, đạt tỉ lệ 49%, tăng
7,7% so với năm 2009.
Mạng lưới y tế trên địa bàn huyện được tăng cường cả về số lượng và
chất lượng. Đến năm 2013, trong tổng số 33 xã, thị trấn, đã có 27 xã (81,8%)
đạt chuẩn Quốc gia về y tế (sau 5 năm có thêm 4 xã đạt chuẩn); 100% số thôn
có cán bộ y tế. Chất lượng dịch vụ y tế tại Bệnh viện đa khoa và trạm y tế các
xã được nâng lên, từng bước đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh cho nhân dân
trong huyện. Công tác truyền thông chăm sóc sức khỏe, phòng chống dịch
bệnh, chăm sóc trẻ em được tăng cường. Số trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng
giảm xuống còn 15,8%, (giảm 4,2% so với năm 2008). Tỉ lệ người dân tham
gia bảo hiểm y tế đến năm 2013 đạt trên 69%, tăng 30,1% so với năm 2008.
Phong trào xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở được đẩy mạnh. Đến năm
2013, toàn huyện có có 285 thôn, làng, tiểu khu (chiếm 85,8% tổng số làng)
khai trương xây dựng làng, tiểu khu văn hoá. Trong số đó, có 174 thôn, làng,
59
tiểu khu (đạt 61%) được công nhận làng, tiểu khu văn hoá (tiêu chí yêu cầu
70%). Số gia đình đạt danh hiệu “ông, bà cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu
thảo” đạt 77% (tăng 17,2% so với năm 2008). Sau 5 năm (2009 – 2013), toàn
huyện đã xây dựng mới 51 nhà văn hóa thôn, nâng tổng số thôn có nhà văn hoá
là 261 (đạt 100%), đáp ứng yêu cầu theo tiêu chí nông thôn mới; trong đó có
nhiều nhà văn hoá được nâng cấp khang trang. Huyện còn xây dựng mới 3 nhà
văn hóa xã đạt chuẩn theo quy định của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch (toàn
huyện chỉ còn 1 nhà văn hóa xã chưa đạt chuẩn).
Hệ thống thông tin và truyền thông phát triển nhanh, cơ bản đáp ứng nhu
cầu về phát triển kinh tế, xã hội cũng như an ninh quốc phòng, góp phần nâng
cao đời sống tinh thần cho nhân dân. Đến năm 2013, 100% số xã có điểm Bưu
điện văn hoá và điểm phục vụ Internet công cộng. Toàn huyện có 34.200 máy
điện thoại cố định và di động [39, tr. 71], tăng 11.750 cái so với năm 2009.
Các phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục - thể thao ngày càng phát
triển. Đa số các xã, thôn đều có sân chơi, bãi tập, thành lập và duy trì hoạt động
nhiều câu lạc bộ dưỡng sinh, thể dục - thể thao. Đến hết năm 2013, toàn huyện
có 27,9% số người luyện tập thể dục - thể thao thường xuyên, số hộ gia đình
đạt danh hiệu Gia đình thể thao tăng 17,2% so với năm 2008.
3.1.3. Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội được tăng cường.
Quá trình thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn
mới gắn với thực hiện Nghị quyết 26 NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Các cấp ủy đảng, chính
quyền đã xác định đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng ở nông thôn là khâu đột phá
trong quá trình xây dựng nông thôn mới. Để xây dựng nông thôn mới, đặc biệt
là đầu tư cơ sở hạ tầng thì nguồn lực tài chính là yếu tố quyết định nhất. Với
phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, được sự hỗ trợ của Trung
ương và tỉnh, huyện đã ban hành chính sách hỗ trợ, khuyến khích, tạo động lực
trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn. Đến năm 2013,
60
tổng nguồn vốn huy độ ốn huy động vào việc thực hiện Chương trình m ình mục tiêu Quốc gia
về xây dựng nông thôn m ng nông thôn mới là 176,597 tỉ đồng; trong đó:
+ Ngân sách tỉnh tr ỉnh trực tiếp cho chương trình: 5,68 tỉ đồng, chi ỉ đồng, chiếm 3,2%
+ Vốn doanh nghiệ n doanh nghiệp: 4,568 tỉ đồng, chiếm 2,6%.
+ Vốn tín dụng: 66,154 t ụng: 66,154 tỉ đồng, chiếm tới 37,5%%;
+ Vốn lồng ghép: 39,336 t ồng ghép: 39,336 tỉ đồng, chiếm 22,3%.
+ Vốn do nhân dân v n do nhân dân và cộng đồng đóng góp: 60,859 tỉ đồ ỉ đồng, chiếm 34,5%
[43, tr.50].
Phần trăm
3,2
2,6
Ngân sách trung ương, tỉnh Ngân sách trung
34,5
Vốn doanh nghi
ốn doanh nghiệp
37,5
Vốn tín dụ
ốn tín dụng
22,3 22,3
ố
ồng ghép Vốn lồng ghép
ốn nhân dân Vốn nhân dân
Nguồn: Báo cáo th đến năm 2013 n: Báo cáo thực hiện nông thôn mới đến năm 2013
Biểu đồ 3.3. C đồ 3.3. Cơ cấu nguồn lực tài chính huyện Nông C ện Nông Cống
Biểu đồ 3.3 cho thấ đồ 3.3 cho thấy: Trong tổng nguồn lực tài chính ch ài chính chủ yếu để xây
dựng nông thôn mới củ ới của huyện Nông Cống, nguồn vốn tín dụ ốn tín dụng và nguồn vốn
huy động từ nhân dân chi nhân dân chiếm tỉ lệ cao hơn cả. Điều này cũng có ngh ũng có nghĩa việc xây
dựng nông thôn mới ở ới ở huyện chủ yếu xuất phát từ nguồn l ừ nguồn lực địa phương;
ngân sách Trung ương và t ương và tỉnh đóng vai trò hỗ trợ, định hư ướng và kích thích
quá trình xây dựng. Ngo ựng. Ngoài 34,5% nguồn vốn được huy động từ động từ phía nhân dân
và cộng đồng, hằng nă ằng năm người dân còn bỏ ra gần 200 tỉ đồ ỉ đồng để chỉnh trang
nơi ở của gia đình, nh ình, như xây dựng, nâng cấp nhà ở; xây dự ở; xây dựng công trình vệ
sinh; cải tạo, bố trí lại các công trình ph i các công trình phục vụ khu chăn nuôi h ăn nuôi hợp vệ sinh theo
61
chuẩn nông thôn mới; cải tạo lại vườn tạp, ao chuồng để có thu nhập và cảnh
quan xanh, sạch, đẹp; sửa sang cổng ngõ, tường rào khang trang...
Từ các nguồn vốn được huy động, kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội nông
thôn từng bước được đầu tư xây dựng, nâng cấp cải tạo để đạt chuẩn:
* Về giao thông, bằng các nguồn vốn được đầu tư, huyện xây dựng, nâng
cấp đường giao thông nông thôn; xây dựng một số tuyến đường mới nhằm hình
thành mạng lưới giao thông đường bộ đồng bộ, thúc đẩy giao lưu kinh tế giữa
các vùng; tiếp tục bê tông hóa đường giao thông thôn, xã, đường giao thông nội
đồng phục vụ cơ giới hoá nông nghiệp. Đến năm 2013, các tuyến đường liên xã
được nhựa hóa đạt 100%; đường giao thông thôn được bê tông hóa 167 km (đạt
72,6%), đường xóm bê tông hoá 485 km (đạt 76,4%); giao thông nội đồng
được bê tông hóa trên 56 km. Nhiều xã đã vận động nông dân hiến đất để làm
đường giao thông nông thôn, chỉnh trang thôn xóm trên 46 ha. Hệ thống đường
thôn, xóm về cơ bản được láng bê tông xi măng. Toàn huyện có 10/33 xã
(32,25%) đạt chuẩn về giao thông. Điển hình về giao thông nông thôn là các xã
Tế Lợi, Minh Thọ, Trường Sơn, Hoàng Giang, Tượng Văn...
* Về thủy lợi: Hệ thống kênh mương được kiên cố hóa, nâng cao hiệu suất
tưới, tiêu. Đến năm 2013, toàn huyện đã kiên cố hoá 226 km kênh mương cấp
I, cấp II và nội đồng. Các công trình thuỷ lợi trọng điểm được quan tâm đầu tư,
cơ bản đáp ứng sản xuất và dân sinh, phục vụ tốt công tác phòng chống bão lụt.
Đến hết năm 2013, toàn huyện có 9/33 xã, thị trấn (29%) đạt chuẩn về thủy lợi.
* Về điện: Hệ thống lưới điện toàn huyện được cải tạo, nâng cấp. Mạng
lưới cung cấp điện ở hầu hết các xã, thị trấn được chuyển giao quản lí trực tiếp
cho ngành Điện. Đến hết năm 2013, toàn huyện có 80,7 km đường dây cao thế,
609,9 km đường dây hạ thế và 250 trạm biến áp, cơ bản đáp ứng điện cho sản
xuất và sinh hoạt của nhân dân; 100% hộ dân trong huyện được dùng điện lưới
quốc gia an toàn, đạt tiêu chí nông thôn mới về điện.
62
* Chợ nông thôn: Hết năm 2013, toàn huyện có 22 chợ (chiếm 70,9%) đạt
chuẩn về chợ nông thôn. Do tiêu chí chợ không phải là tiêu chí cứng nhắc và
thuộc quy hoạch của tỉnh nên có những xã như Tế Thắng, Hoàng Giang ...không
cần thiết phải xây chợ. Điểm đặc biệt là các chợ trong huyện đều được xây dựng
bằng nguồn vốn xã hội hóa.
3.1.4. Số tiêu chí đạt chuẩn theo Bộ Tiêu chí Quốc gia về nông thôn mới
được nâng lên
Căn cứ vào quyết định của UBND tỉnh Thanh Hóa về việc “Ban hành
hướng dẫn quy trình đánh giá xã đạt các tiêu chí nông thôn mới’’, đến hết
năm 2013, toàn huyện đạt được 334 tiêu chí, bình quân 10,8 tiêu chí/xã,
tăng gấp 2 lần so với số tiêu chí khi bắt đầu triển khai thực hiện chương
trình xây dựng nông thôn mới. Huyện Nông Cống đứng thứ 16/27 đơn vị
trong toàn tỉnh. Kết quả cụ thể như sau:
- 2 xã (Trường Sơn và Tượng Văn) đạt 19 tiêu chí.
- 1 xã (Minh Thọ) đạt 18 tiêu chí.
- 1 xã (Tế Lợi) đạt 17 tiêu chí.
- 2 xã (Hoàng Giang và Minh Nghĩa) đạt 14 tiêu chí.
- 4 xã (Trung Chính, Tượng Sơn, Vạn Hòa và Trường Trung) đạt 13 tiêu chí.
- 2 xã (Thăng Long và Hoàng Sơn) đạt 12 tiêu chí.
- 3 xã (Vạn Thắng, Vạn Thiện và Tượng Lĩnh) đạt 11 tiêu chí.
- 2 xã (Thăng Thọ và Trường Giang) đạt 10 tiêu chí.
- 13 xã (Minh Khôi, Tân Phúc, Tế Thắng, Công Liêm, Trường Minh,
Tân Khang, Công Chinh, Thăng Bình, Tế Tân, Tế Nông, Trung Thành, Trung
Ý và Công Bình) đạt từ 6 đến 9 tiêu chí.
- 1 xã (Tân Thọ) đạt 5 tiêu chí.
Đến năm 2013, toàn tỉnh Thanh Hóa có 19 xã đạt chuẩn nông thôn mới,
trong đó huyện Nông Cống có 2 xã. Sau khi đạt chuẩn, các xã tiếp tục quan tâm
63
chỉ đạo để duy trì và nâng cao chất lượng các tiêu chí đã đạt; trong đó tập trung
đẩy mạnh phát triển sản xuất, coi đây là khâu then chốt để tạo điều kiện cho các
ngành kinh tế khác phát triển, tạo ra bộ mặt nông thôn có nhiều khởi sắc, kinh
tế - xã hội phát triển toàn diện.
64
Bảng 3. 1. Tổng hợp các tiêu chí xây dựng nông thôn mới đã đạt của toàn huyện đến 12/2013.
Các
QH
CSVC
Nhà
Hình
An
Hệ thống
Giao thông
Thủy lợi
Điện Trường học
Bưu điện
Thu nhập
Hộ nghèo
Giáo dục
Y tế
Văn hóa
Môi trường
TT Đơn vị ( Xã)
văn hóa
Chợ nông thôn
thức TCXS
ninh trật tự
tổ chức CTXH
ở dân cư
Cơ cấu lao động
và thực hiện QH
tiêu chí đã đạt /19
19/19
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
1 Tượng Văn
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
2 Trường Sơn 19/19
18/19
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
3 Minh Thọ
17/19
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
4 Tế Lợi
5
14/19
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
Hoàng Giang
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
6 Minh Nghĩa 14/19
7
13/19
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
Trung Chính
13/19
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
8 Tượng Sơn
13/19
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
9 Vạn Hòa
10
13/19
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
Trường Trung
65
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
11 Thăng Long 12/19
12/19
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
12 Hoàng Sơn
x
x
x
11/19
x
x
x
x
x
x
x
x
13 Vạn Thắng
x
x
x
x
11/19
x
x
x
x
x
x
x
14 Vạn Thiện
x
x
x
x
11/19
x
x
x
x
x
x
x
15 Tượng Lĩnh
16
x
x
10/19
x
x
x
x
x
x
x
x
Trường Giang
x
x
x
x
x
10/19
x
x
x
x
x
17 Thăng Thọ
x
x
x
9/19
x
x
x
x
x
x
18 Minh Khôi
x
x
x
x
9/19
x
x
x
x
x
19 Tân Phúc
x
x
x
x
9/19
x
x
x
x
x
20 Tế Thắng
x
x
x
x
x
9/19
x
x
x
x
21 Công Liêm
22
x
x
x
8/19
x
x
x
x
x
Trường Minh
x
x
x
x
8/19
x
x
x
x
23 Tân Khang
66
7/19
x
x
x
x
x
x
x
24 Công Chính
7/19
x
x
x
x
x
x
x
25 Thăng Bình
7/19
x
x
x
x
x
x
x
26 Tế Nông
7/19
x
x
x
x
x
x
x
27 Tế Tân
28
7/19
x
x
x
x
x
x
x
Trung Thành
6/19
x
x
x
x
x
x
29 Trung Ý
6/19
x
x
x
x
x
30 Công Bình
5/19
x
x
x
x
x
31 Tân Thọ
10,8
31
10
9
26
8
3
6
31
14
19
5
28
28
10
16 11
17
31
31
Bình quân toàn huyện
67
Bảng 3.2. Tổng hợp kết quả các tiêu chí nông thôn mới đã đạt (tính đến tháng 12/2013)
Năm 2009 Năm 2013
So sánh năm 2013 với năm 2009
TT
Ghi chú
Tăng
Giảm
Phân theo nhóm
Thực hiện các tiêu chí
Số xã
Tỉ lệ %
Số xã
Tỉ lệ %
Số xã
Tỉ lệ %
Số xã 2
Tỉ lệ % 6,4
6,4
1
Đạt 19 tiêu chí
2
3,2
1
3,2
2
Đạt 18 tiêu chí
1
3,2
1
3,2
3
Đạt 17 tiêu chí
1
Nhóm 1
4
Đạt 16 tiêu chí
5
Đạt 15 tiêu chí
2
6,4
6,4
6
Đạt 14 tiêu chí
2
3
9,7
12,9
Đạt 13 tiêu chí
1
3,2
7
4
2
6,4
6,4
8
Đạt 12 tiêu chí
2
Nhóm 2
2
6,4
9,7
9
Đạt 11 tiêu chí
1
3,2
3
1
3,2
6,4
10
Đạt 10 tiêu chí
1
3,2
2
4
12,9
12,9
11
Đạt 9 tiêu chí
4
6,4
12
Đạt 8 tiêu chí
2
6,4
2
Nhóm 3
16,1
2
6,4
13
Đạt 7 tiêu chí
3
9,7
5
6,4
3
9,7
14
Đạt 6 tiêu chí
5
16,1
2
3,2
5
16,1
15
Đạt 5 tiêu chí
6
19,3
1
5
16,1
16
Đạt 4 tiêu chí
5
16,1
0
4
12,9
17
Đạt 3 tiêu chí
4
12,9
0
Nhóm 4
3
9,7
18
Đạt 2 tiêu chí
3
9,7
0
19
Đạt 1 tiêu chí
0
29
Đạt 0 tiêu chí
0
Tổng cộng
31
31
20
64,5
20
64,5
68
Bảng 3.3. tổng hợp kết quả thực hiện nông thôn mới sau 5 năm thực hiện (Tính đến tháng 12/2013)
TT
Tiêu chí
Ghi chú
Tiêu chí 1: Quy hoạch và thực hiện Quy hoạch
Số xã đạt 31
Tỉ lệ (%) 100
1
10
32,1
Tiêu chí 2: Giao thông
2
9
29,0
Tiêu chí 3: Thủy lợi
3
26
83,8
Tiêu chí 4: Điện nông thôn
4
8
25,8
Tiêu chí 5: Trường học
5
3
9,7
Tiêu chí 6: Cơ sở vật chất văn hóa
6
6
19,3
Tiêu chí 7: Chợ nông thôn
7
31
100
Tiêu chí 8: Bưu điện
8
14
45,2
Tiêu chí 9: Nhà ở dân cư
9
19
61,3
Tiêu chí 10: Thu nhập
10
5
16,1
Tiêu chí 11: Hộ nghèo
11
28
90,3
Tiêu chí 12: Cơ cấu lao động
12
28
90,3
Tiêu chí 13: Hình thức tổ chức sản xuất
13
10
32,1
Tiêu chí 14: Giáo dục
14
16
51,6
Tiêu chí 15: Y tế
15
11
35,4
Tiêu chí 16: Văn hóa
16
17
54,8
Tiêu chí 17: Môi trường
17
31
100
Tiêu chí 18: Hệ thống tổ chức Chính trị xã hội
18
31
100
Tiêu chí 19 An ninh trật tự xã hội
19
100
Tổng cộng
334
69
Bảng 3.4. Tiến độ xây dựng nông thôn mới huyện Nông Cống
trong 5 năm (2009-2013)
Đơn vị ( Xã)
TT
Năm 2010
Năm 2011
Năm 2012
Năm 2013
Ghi chú
So sánh 2013/ 2009 (tăng)
Số tiêu chí khi triển khai (2009)
8
13
9
11
17
19
Tượng Văn
1
13
17
15
6
18
19
Trường Sơn
2
11
16
14
7
18
18
3 Minh Thọ
10
14
12
7
16
17
Tế Lợi
4
7
11
10
7
13
14
Hoàng Giang
5
8
12
10
6
13
14
6 Minh Nghĩa
7
10
9
6
12
13
Trung Chính
7
7
11
8
6
12
13
Tượng Sơn
8
6
10
8
7
12
13
Vạn Hòa
9
6
10
7
7
11
13
10
Trường Trung
6
10
8
6
11
12
11
Thăng Long
6
9
7
6
11
12
12 Hoàng Sơn
6
9
8
5
10
11
13 Vạn Thắng
5
8
6
5
19
11
14 Vạn Thiện
5
8
7
5
10
11
Tượng Lĩnh
15
5
8
7
5
9
10
Trường Giang
16
5
8
6
5
9
10
Thăng Thọ
17
5
7
6
4
8
9
18 Minh Khôi
5
7
6
4
8
9
Tân Phúc
19
4
7
6
5
8
9
Tế Thắng
20
70
Công Liêm
4
5
7
8
9
5
21
Trường Minh
4
5
6
7
8
4
22
Tân Khang
4
5
6
7
8
4
23
Công Chính
4
5
6
6
7
3
24
Thăng Bình
3
5
6
7
7
4
25
Tế Nông
3
4
5
6
7
4
26
Tế Tân
3
4
5
6
7
4
27
Trung Thành
3
4
5
6
7
4
28
Trung Ý
2
3
4
5
6
4
29
Công Bình
2
3
4
5
6
4
30
Tân Thọ
2
3
4
5
5
3
31
5,4
6,9
8,5
10,0
10,8
163
Bình quân toàn huyện
Như vậy, nhờ có sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của các cấp, các ngành
và Ban Chỉ đạo từ huyện đến cơ sở, sự tham gia tích cực và có hiệu quả của các
tổ chức chính trị xã hội, sự đồng thuận và hưởng ứng tham gia của toàn xã hội,
Chương trình xây dựng nông thôn mới đã có kết quả rõ rệt. Sau 5 năm đầu thực
hiện, từ chỗ mới đạt 5,4 tiêu chí đến 2013 đạt 10,8 tiêu chí (tăng gấp đôi). Kết
quả này đã thể hiện sự chuyển biến căn bản về nhận thức của cán bộ, đảng viên
và nhân dân; vai trò chủ thể của người dân cùng với sự chung tay, góp sức xây
dựng nông thôn mới của cả hệ thống chính trị tiếp tục được nâng cao. Một số
xã khó khăn đã có ý thức thay đổi công tác thực hiện Chương trình xây dựng
nông thôn mới. Nhân dân từng bước áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất để
tăng năng suất và nâng cao thu nhập. Việc huy động các nguồn lực xã hội để
xây dựng nông thôn mới ở các địa phương mang lại hiệu quả thiết thực; nhiều
công trình hạ tầng nông thôn đã được quan tâm xây dựng mới, nâng cấp cải tạo
71
từng bước đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống của cư dân nông thôn; hình
thành nhiều mô hình phát triển sản xuất theo hướng kinh tế hàng hóa có hiệu
quả, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện; đời sống
vật chất, văn hóa tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng lên, an ninh
trật tự xã hội được giữ vững. Hệ thống chính trị, xã hội vững mạnh. Đảng bộ,
chính quyền 33/33 xã, thị trấn đạt tiêu chuẩn “trong sạch, vững mạnh”. Các tổ
chức đoàn thể chính trị của các xã đều đạt danh hiệu tiên tiến trở lên.
3.2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đạt được, cuộc vận động xây dựng nông thôn
mới ở huyện Nông Cống còn có những mặt hạn chế:
Thứ nhất, mặc dù chương trình xây dựng nông thôn mới được quan tâm,
chỉ đạo và đã trở thành phong trào nhưng chưa đồng đều. Một số địa phương có
điều kiện giống nhau nhưng phong trào lại khác nhau. Cấp ủy, chính quyền,
Ban Chỉ đạo ở một số xã chưa quan tâm đúng mức, thiếu quyết liệt trong chỉ
đạo, điều hành, chưa chú trọng đến nội dung xây dựng nông thôn mới. Một bộ
phận cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa nhận thức đầy đủ về chương trình xây
dựng nông thôn mới. Một số xã mới dừng lại ở công tác triển khai, kiện toàn tổ
chức bộ máy, tuyên truyền; chưa có nhiều chuyển biến trong tổ chức thực hiện,
kết quả đạt được chưa cao.
Thứ hai, công tác lãnh đạo, chỉ đạo nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới
tuy được tăng cường, nhưng chưa thật sự đồng bộ, chưa thể hiện rõ nét vai trò
của các thành viên Ban Chỉ đạo đối với xã được phân công chỉ đạo thực hiện
Chương trình nông thôn mới.
Thứ ba, việc lựa chọn tiêu chí để tổ chức thực hiện ở một số xã còn xơ
cứng, có biểu hiện chạy đua theo bề nổi, nặng về huy động nguồn lực để đầu tư
kết cấu hạ tầng, chưa chú trọng nhiều đến lĩnh vực phát triển sản xuất, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế để nâng cao thu nhập cho nông dân. Các nội dung về
72
chuyển dịch cơ cấu lao động, việc làm, môi trường, chỉnh trang khu dân cư
chưa được quan tâm đúng mức.
Thứ tư, nguồn lực cho chương trình xây dựng nông thôn mới của Trung
ương, của Tỉnh còn hạn chế, kế hoạch hằng năm bố trí quá thấp so với nhu cầu;
huy động đóng góp của nhân dân và cộng đồng còn khiêm tốn. Việc tiếp cận
nguồn vốn tín dụng và thu hút nguồn vốn từ các doanh nghiệp, các thành phần
kinh tế trong xã hội đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn và trang trại còn nhiều
khó khăn.
Những hạn chế trong cuộc vận động xây dựng nông thôn mới (2009 –
2013) ở huyện Nông Cống bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân. Một số nhiệm vụ
và giải pháp về thực hiện các cơ chế chính sách đã được nêu ra trong nghị
quyết cũng như trong chương trình hành động thực hiện nghị quyết, nhưng một
số cấp uỷ đảng, chính quyền triển khai chậm, chưa đảm bảo tiến độ và thiếu
đồng bộ. Một số cơ chế, chính sách đã ban hành nhưng chậm đi vào cuộc sống,
hoặc chưa tạo ra chuyển biến đáng kể trên thực tế. Cơ sở hạ tầng nông thôn
chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản
xuất hàng hóa, công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Việc xã hội hóa, huy động các
nguồn vốn đầu tư và việc đổi mới, xây dựng các hình thức sản xuất, dịch vụ có
hiệu quả gặp nhiều khó khăn. Năng lực, trình độ đội ngũ cán bộ cơ sở còn hạn
chế. Một số cấp ủy đảng, chính quyền cơ sở chưa tập trung lãnh đạo, chỉ đạo
sát sao việc triển khai thực hiện chương trình hành động thực hiện nghị quyết
đã đề ra; chưa huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị
trong chương trình xây dựng nông thôn mới, có nơi vẫn còn tư tưởng trông chờ
vào sự chỉ đạo và hỗ trợ của cấp trên.
Nhằm khắc phục những hạn chế trên đây để tiếp tục đẩy nhanh tiến độ
thực hiện cuộc vận động xây dựng nông thôn mới, Huyện ủy, Ủy ban Nhân
dân huyện Nông Cống đã đề ra nhiệm vụ và giải pháp trong thời gian trước
mắt như sau:
73
- Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, cập nhật những điển
hình tiên tiến, những việc tốt trong phong trào xây dựng nông thôn mới thông qua
các phương tiện thông tin truyền thông nhằm tạo sự thống nhất trong nhận thức
và hành động của mọi tổ chức chính trị, xã hội, khắc phục tư tưởng chần chừ,
ngại khó, trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước.
- Thứ hai, tập trung phát triển sản xuất, khuyến khích, thu hút doanh
nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; triển khai thực hiện tốt phương án
sản xuất đảm bảo hoàn thành kế hoạch gieo trồng và sản lượng lương thực. Đẩy
mạnh cơ giới hoá trong các khâu sản xuất; thực hiện tốt công tác phòng trừ sâu
bệnh; tiếp tục chỉ đạo triển khai thực hiện các mô hình sản xuất. Trên cơ sở quy
hoạch được duyệt, các địa phương chỉ đạo tổ chức tốt công tác tạo quỹ đất công
ích tập trung, khuyến khích các thành phần tích tụ ruộng đất để xây dựng các
trang trại, phát triển các cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ. Tiếp
tục thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/TU của Tỉnh ủy về cải thiện môi trường đầu
tư, kinh doanh; đồng thời, đơn giản hóa thủ tục, tạo điều kiện thuận lợi để người
dân nông thôn được tiếp cận với nguồn vốn vay ưu đãi theo quy định tại Nghị
định số 41/NĐ-CP của Chính phủ.
- Thứ ba, tiếp tục huy động, thực hiện có hiệu quả các nguồn lực. Thực
hiện lồng ghép có hiệu quả các nguồn vốn từ các chương trình mục tiêu Quốc
gia, chương trình hỗ trợ có mục tiêu và các chương trình, dự án khác đang triển
khai thực hiện trên địa bàn huyện, ưu tiên hỗ trợ đầu tư cho chương trình xây
dựng nông thôn mới theo hướng tập trung, có hiệu quả, không dàn trải.
Trên cơ sở nguồn lực của Chương trình xây dựng nông thôn mới năm
2013 từ ngân sách Nhà nước, các địa phương bám sát quy hoạch, đề án, phát
huy dân chủ, công khai, minh bạch trong huy động các nguồn lực để khẩn
trương thi công hoàn thiện các hạng mục công trình đã được hỗ trợ vốn. Các xã
được hỗ trợ xi măng năm 2013 và ứng nguồn vốn năm 2014 xây dựng kế hoạch
74
huy động nguồn vốn đối ứng để tiếp nhận và sử dụng đúng mục đích, có hiệu
quả số lượng xi măng được hỗ trợ.
- Thứ tư, các thành viên Ban Chỉ đạo huyện được phân công theo dõi chỉ
đạo các xã, tập trung cao độ cho 5 xã phấn đấu đạt chuẩn, hoàn thành 19 tiêu
chí vào năm 2014, 2015; trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của ngành, có kế
hoạch cụ thể, đề xuất ưu tiên lồng ghép các chương trình, dự án thuộc từng
ngành quản lí; nắm chắc tình hình, báo cáo Ban Chỉ đạo, Trưởng ban Chỉ đạo
và Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện để có giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng
mắc cho cơ sở.
Bộ phận Thường trực Ban Chỉ đạo tiếp tục triển khai thực hiện kế hoạch
năm 2014 và các năm tiếp theo sát với yêu cầu và tình hình thực tế; tổ chức chỉ
đạo, nghiên cứu xây dựng các mô hình sản xuất có hịêu quả, nâng cao thu
nhập; thường xuyên theo dõi, cập nhật tiến độ, kết quả triển khai trên địa bàn
các xã, tổng hợp báo cáo Ban Chỉ đạo huyện theo thời gian quy định để kịp thời
chỉ đạo, tháo gỡ khó khăn cho cơ sở; đồng thời cập nhật dữ liệu nông thôn mới
trên phần mềm để báo cáo Trưởng Ban Chỉ đạo, Ủy ban Nhân dân huyện và
Ban Chỉ đạo tỉnh.
Các xã lựa chọn các tiêu chí phù hợp, tiêu chí dễ, cần ít tiền, có khả
năng, thế mạnh của địa phương để chủ động tổ chức thực hiện, như nhà ở dân
cư, khuôn viên, tường rào, nước sạch, nhà vệ sinh, làng xanh, văn minh sạch
đẹp, thôn, làng không có tệ nạn xã hội…; phát động phong trào thi đua xây
dựng nông thôn mới, xây dựng gia đình văn hóa giữa các gia đình, dòng họ;
phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể trong hệ thống chính trị, của cộng
đồng dân cư thôn, bản; vận động nhân dân, dòng tộc, con em địa phương làm
ăn xa và các doanh nhân thành đạt tham gia xây dựng quê hương.
Tiểu kết: Sau 5 năm triển khai, thực hiện Nghị quyết 26 - NQ/TW của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông
thôn, cuộc vận động xây dựng nông thôn mới ở huyện Nông Cống bước đầu đã
75
đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Nhận thức và hành động của các cấp uỷ
đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các ngành, các cấp về vai
trò của nông nghiệp, nông dân, nông thôn có những chuyển biến tích cực. Sự
chỉ đạo, điều hành thực hiện các nhiệm vụ phát triển nông nghiệp, nông dân,
nông thôn được tập trung hơn, có kế hoạch, quy hoạch rõ ràng; khơi dậy được
tính tích cực, tự lực, tự chủ vươn lên của nông dân, huy động được nhiều nguồn
lực quan trọng trong phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Nền
sản xuất nông nghiệp trong huyện phát triển bền vững tuân thủ quy hoạch, từng
bước được cơ giới hóa; trình độ ứng dụng các tiến bộ KHKT, công nghệ mới
trong sản xuất nông nghiệp và kĩ năng lao động của nông dân được nâng cao.
Bộ mặt nông thôn ngày càng khởi sắc. Môi trường sống được quan tâm. Đời
sống nông dân được nâng lên rõ rệt cả về vật chất và tinh thần. Tốc độ và chất
lượng các tiêu chí trong xây dựng nông thôn mới không ngừng tăng lên qua các
năm. Kết quả này tạo đà quan trọng để huyện Nông Cống hoàn thành các tiêu
chí xây dựng nông thôn mới trong thời gian tiếp theo.
76
KẾT LUẬN
1. Xây dựng nông thôn mới là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn
dân, là cuộc vận động lớn mang tính toàn diện trong đó có vai trò chủ thể là
người dân.
Sau 5 năm kể từ khi Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X ban hành
Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 Về nông nghiệp, nông dân, nông
thôn, nhân dân cả nước, nhất là cư dân nông thôn rất phấn khởi, tin tưởng. Xây
dựng nông thôn mới thực sự là cuộc vận động cách mạng rộng lớn để cộng
đồng dân cư ở nông thôn đồng lòng xây dựng thôn, xã, gia đình của mình
khang trang, sạch đẹp; phát triển sản xuất toàn diện; có nếp sống văn hóa, môi
trường và an ninh nông thôn được đảm bảo; thu nhập, đời sống vật chất, tinh
thần của người dân được nâng cao. Có thể khẳng định, Nghị quyết số 26- NQ-
TW của Ban Chấp hành Trung ương (khóa x) về nông nghiệp, nông dân, nông
thôn là Nghị quyết mang tính toàn diện và đầy đủ nhất để giải quyết vấn đề
nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta từ trước tới nay. Xây dựng nông
thôn mới thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với nông thôn và
nông dân. Xây dựng nông thôn mới giúp cho nhân dân có niềm tin, trở nên tích
cực, chăm chỉ, đoàn kết giúp đỡ nhau xây dựng nông thôn phát triển giàu đẹp,
dân chủ, văn minh.
Nông thôn nước ta là khu vực rộng lớn và đông dân nhất, đa dạng về
thành phần tộc người, về văn hóa; là nơi bảo tồn, lưu giữ các phong tục tập
quán của cộng đồng. Vì vậy, một trong những vấn đề đặc biệt quan tâm trong
quá trình thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn
mới là thực sự tôn trọng, phát huy tối đa vai trò, vị thế chủ thể của người nông
dân về chính trị, kinh tế, văn hóa. Chúng ta không thể có nông thôn mới nếu
không đặt cao vai trò chủ thể của người dân và người dân không nhiệt tình, tâm
huyết cùng với Đảng và Nhà nước trong xây dựng nông thôn mới. Phương
châm của chương trình là “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân thụ
77
hưởng". Tuy nhiên, để người dân hiểu rõ được vai trò chủ thể của mình thì
công tác tuyên truyền là có ý nghĩa quan trọng; từ đó sẽ tạo ra sự đồng thuận
trong nhân dân, tạo ra một nhận thức mới cho người dân tự nguyện tham gia
xây dựng nông thôn mới bởi xây dựng nông thôn mới trước hết là vì cuộc sống
của chính bản thân họ và gia đình họ; tất cả mọi người dân và toàn xã hội đều
được hưởng thành quả đó.
Vai trò đó được thể hiện: Nhân dân là chủ thể của quá trình xây dựng, là
những người trực tiếp trong phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất; tích cực, chủ
động sáng tạo trong xây dựng và gìn giữ đời sống văn hóa, xã hội, môi trường
ở nông thôn; đồng thời là nhân tố góp phần quan trọng vào xây dựng hệ thống
chính trị-xã hội vững mạnh, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở
cơ sở. Phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng nông thôn mới gắn với
việc thực hiện tốt chủ trương xóa đói giảm nghèo, thực hiện các chính sách về
an sinh xã hội, xây dựng đời sống văn hóa, y tế, vệ sinh môi trường… tạo mọi
điều kiện để người dân phát huy đầy đủ quyền và nghĩa vụ trong việc xây dựng
nông thôn mới cũng như hiểu được lợi ích của việc hoàn thành xây dựng nông
thôn mới mà người dân được hưởng: “Một nông thôn có làng xã văn minh,
sạch đẹp, hạ tầng hiện đại; sản xuất bền vững theo hướng sản xuất hàng hóa;
đời sống vật chất tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; bản sắc
văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát triển; xã hội nông thôn được quản lí tốt
và dân chủ”[41, tr.10].
Một trong những bài học thành công ở hơn 80 xã đạt chuẩn nông thôn
mới trong cả nước năm 2013 trong đó có 2 xã của huyện Nông Cống chính là
sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và sự đồng thuận trong nhân dân.
2. Cuộc vận động xây dựng NTM ở huyện Nông Cống là một quá trình
thường xuyên, liên tục, lâu dài, bền bỉ, vững chắc; trong đó chú trọng đến phát
huy dân chủ ở làng, xã.
78
Chương trình xây dựng nông thôn mới không phải là một dự án, một
chương trình chỉ diễn ra một năm, hai năm mà là công việc thường xuyên của
mỗi người, mỗi nhà, mỗi thôn xóm và từng địa phương. Theo tinh thần “dễ làm
trước, khó làm sau”, không trông chờ, ỉ lại, né tránh và ngại khó, lại càng
không để mất cơ hội. Đặc biệt là không nóng vội bởi vì phấn đấu để đạt chuẩn
nông thôn mới đã khó, giữ vững được danh hiệu xã nông thôn mới lại càng khó
khăn hơn, mục tiêu cuối cùng của xây dựng nông thôn mới là nhằm phát triển
nông nghiệp, nông thôn bền vững, nâng cao đời sống người dân.
Từ thực tiễn 5 năm (2009-2013) xây dựng nông thôn mới ở Nông Cống
đã rút ra được nhiều kinh nghiệm quý báu, trong đó có bài học về phát huy dân
chủ ở làng xã cũng chính là phát huy vai trò chủ thể của người dân và được thể
hiện ở chỗ: Trước hết là trong công tác quy hoạch, bộ mặt nông thôn mới phải
đảm bảo tính kế tiếp được truyền thống hàng nghìn năm của nông thôn Việt
Nam, đồng thời phải phù hợp với xu thế phát triển văn minh của đô thị Việt
Nam và đô thị thế giới. Khâu này người dân phải bàn và tham gia ngay từ đầu,
là khâu hết sức quan trọng, có tính chất lâu dài; sau khi thảo luận, bàn bạc, lúc
triển khai, người dân quyết định cái gì làm trước cái gì làm sau, phù hợp với
nguồn lực của chính họ, phù hợp với nguồn lực của địa phương và của Trung
ương hỗ trợ cho dân để hiệu quả nhất. Từ sự bàn bạc đó, công trình nào để
người dân làm được thì để người dân làm. Họ có thể có thu nhập, đồng thời có
thể đóng góp sức lực cho công cuộc xây dựng nông thôn mới thông qua việc
xây dựng công trình đó. Mặt khác là làm cho người dân tự giác chỉnh trang nhà
họ theo quy hoạch chung của xã, đóng góp cho văn minh sạch sẽ của làng xã từ
chính nhà mình. Không phải trong nhà sạch mà ngoài ngõ bẩn và ngược lại.
Như vậy, người dân phải thực sự hiểu được, thấy được là họ làm cho chính
mình, thực hiện theo chủ trương của Đảng và Nhà nước. Thực tiễn đã chứng
minh rằng khi dân đã hiểu, tin và đồng thuận, quyết tâm thì công cuộc xây
dựng nông thôn mới sẽ thành công.
79
3. Cuộc vận động xây dựng nông thôn mới ở huyện Nông Cống đã đi
vào chiều sâu, diện mạo nông thôn đã thực sự thay đổi, đời sống của người dân
đã được cải thiện và nâng cao.
Qua 5 năm triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng
nông thôn mới, với nhận thức sâu sắc về ý nghĩa, mục đích và sự vào cuộc của cả
hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở, sự hưởng ứng tích cực của nhân dân,
chương trình xây dựng nông thôn mới đã trở thành chương trình hành động tổng
thể trên địa bàn huyện. Do vậy, cuộc vận động đã đạt được nhiều kết quả, bộ mặt
nông thôn có nhiều đổi mới. Mặc dù qua quá trình thực hiện, còn có những hạn
chế nhất định, nhưng bộ mặt kinh tế - xã hội của huyện Nông Cống có nhiều thay
đổi rất căn bản. Người dân trong huyện thuần nông xưa kia nghèo nàn, lạc hậu,
ngày nay vui mừng, phấn khởi vì được thụ hưởng những thành quả mà Đảng, Nhà
nước, toàn xã hội và chính họ xây dựng nên. Ngày hôm nay, đến huyện Nông
Cống tỉnh Thanh, ai ai cũng nhận thấy sự đổi thay rõ rệt trên mảnh đất thuần nông:
Cổng làng, cổng xã, đường bê tông nông thôn, nhà ở cư dân được quy hoạch khá
bài bản; những cánh đồng lúa rộng thẳng cánh cò bay đã được dồn điền đổi thửa;
kênh mương thủy lợi nội đồng được xây dựng chỉnh chu; nhận thức của người dân
càng tiến bộ, nhà nhà thi đua phấn đấu lao động, sản xuất có thêm nhiều thu nhập
để nuôi dạy con cái, sắm sửa đồ đạc trong nhà, cải thiện đời sống. Với những kết
quả ban đầu mà nông thôn mới mang lại, nhân dân càng tin tưởng vào sự lãnh đạo
của Đảng, thêm yêu quê hương, tự hào về quê hương, càng gắn bó với làng quê
hơn. Từ đó, người dân quyết tâm xây dựng các xã còn lại đạt chuẩn nông thôn
mới, tiến tới huyện nông thôn mới vào năm 2030.
4. Những kết quả đạt được trong cuộc vận động xây dựng nông thôn mới
huyện Nông Cống khẳng định Nghị quyết 26 của Trung ương Đảng về nông
nghiệp, nông thôn và nông dân là hoàn toàn đúng đắn.
Năm 2008, tại Hội nghị Trung ương 7 (khóa X), Bộ Chính trị đã ban
hành hành Nghị quyết số 26-NQ/TW về Nông nghiệp, nông dân, nông thôn –
một nghị quyết được coi là toàn diện nhất về “tam nông” ở nước ta từ trước
tới nay.
80
Để nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống, bức tranh đổi mới làng quê
nông thôn Việt Nam sớm thành hiện thực, Chính phủ đã kịp thời triển khai
Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28/10/2008 về chương trình hành động
thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW Hội nghị BCH Trung ương 7 (khóa X);
Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 ban hành
Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới; Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày
4/6/2010 phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn
mới (viết tắt là MTQG XDNTM) giai đoạn 2010 - 2020 và Quyết định số
695/QĐ-TTg ngày 8/6/2012 sửa đổi nguyên tắc cơ chế hỗ trợ vốn thực hiện
Chương trình XDNTM; Quyết định số 342/QĐ-TTg ngày 20/2/2013 sửa đổi
một số tiêu chí của Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới; Quyết định số
498/QĐ-TTg ngày 21/3/2013 bổ sung cơ chế đầu tư Chương trình MTQG
XDNTM. Các bộ, ngành đã kịp thời ban hành các Thông tư hướng dẫn, chỉ đạo
các địa phương thực hiện Chương trình.
Tháng 3/2014 tại Hà Nội, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết 26, Bộ Chính
trị đã cho ý kiến về việc sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 7 (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Mặc dù trên thực tế,
nông nghiệp, nông dân và nông thôn nước ta còn có nhiều hạn chế cần tiếp tục
giải quyết, nhưng Bộ Chính trị đã khẳng định: Nghị quyết số 26-NQ/TW về
“Nông nghiệp, nông dân, nông thôn” là chủ trương, đường lối đúng đắn của
Đảng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, hợp lòng dân, tạo niềm tin trong
các tầng lớp nhân dân, nên khi triển khai đã tạo được sự đồng thuận cao, sức
lan tỏa lớn, thiết thực, sớm đi vào cuộc sống.
Chương trình xây dựng nông thôn mới là cụ thể hóa sự quan tâm đặc biệt
của Đảng về nông nghiệp, nông dân và nông thôn nước ta. Xây dựng nông thôn
mới huyện Nông Cống nói riêng và phạm vi cả nước đã trở thành một phong
trào quần chúng rộng khắp, sôi nổi. Bộ mặt nông thôn ở các làng quê đã thay
đổi nhanh chóng theo hướng khang trang, văn minh hơn. Cơ sở hạ tầng thiết
81
yếu được cải thiện nhanh. Nông nghiệp phát triển khá toàn diện, có những đột
phá trong một số lĩnh vực, tạo nguồn thu nhập nâng cao dần đời sống vật chất
cho nông dân, góp phần quan trọng ổn định chính trị - xã hội trên địa bàn. Vị
thế của người nông dân càng được khẳng định; quyền làm chủ về kinh tế, chính
trị, văn hóa... của nông dân được phát huy, nông dân được trực tiếp tham gia
góp ý, phản biện quy hoạch, đề án xây dựng nông thôn mới; được bàn bạc lựa
chọn nội dung, công việc cần ưu tiên, quyết định hình thức tổ chức thực hiện và
mức độ đóng góp, tham gia kiểm tra, giám sát quá trình triển khai... Qua cuộc
vận động xây dựng nông thôn mới, vai trò, vị thế của người nông dân ngày
càng được nâng lên, đa số nhận thức được vai trò chủ thể của mình. Nông thôn
đã khởi sắc, quy hoạch cơ bản đầy đủ và đồng bộ, nhất là quy hoạch xây dựng
nông thôn mới đã hoàn thành, kinh tế tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế đã có sự
chuyển biến theo hướng tích cực, hạ tầng kinh tế, xã hội, môi trường được cải
thiện một bước, hệ thống chính trị được tăng cường, củng cố. Như vậy, cả 3
vấn đề mà Trung ương Đảng đặt ra trong Nghị quyết 26: Nông nghiệp, nông
dân và nông thôn đã bước đầu đưa lại những kết quả quan trọng, tiến bộ.
Những kết quả ban đầu sau 5 năm thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc
gia xây dựng nông thôn mới đã khẳng định: Việc Ban Chấp hành Trung ương
(khóa X) ban hành Nghị quyết về nông nghiệp, nông dân, nông thôn thời kì công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là rất cần thiết, đúng đắn và có ý nghĩa hết sức
quan trọng. Nội dung của Nghị quyết rất toàn diện, có tính chiến lược, đột phá.
Chính vì vậy, Nghị quyết được sự nhất trí cao trong Đảng và cả hệ thống chính
trị, sự đồng tình ủng hộ của toàn xã hội. Nghị quyết đã sớm đi vào cuộc sống và
đạt kết quả bước đầu đáng khích lệ. Những nội dung của Nghị quyết vẫn còn
nguyên giá trị và tiếp tục thực hiện trong giai đoạn tiếp theo.
82
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Nữ Hoàng Anh (2013), Giải pháp thúc đẩy quá trình xây dựng nông
thôn mới tại thị xã Sông Công tỉnh Thái Nguyên, Đại học Thái Nguyên,
2014.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Nông Cống (2006), Lịch sử Đảng bộ
huyện Nông Cống, tập I (1946- 2005).
3. Ban Chỉ đạo Chương trình Phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn
mới huyện Nông Cống (2010), Đề án xây dựng nông thôn mới huyện
Nông Cống giai đoạn 2010-2020.
4. Ban Chỉ đạo Chương trình Phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn
mới huyện Nông Cống (2010), Kế hoạch thực hiện Chương trình Xây
dựng nông thôn mới huyện Nông Cống giai đoạn 2010 - 2015.
5. Ban Tuyên giáo Huyện ủy Nông Cống (2011), Công tác tuyên truyền
thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011-2015.
6. Ban Chỉ đạo Chương trình Phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn
mới (2011), Báo cáo tình hình triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu
Quốc gia xây dựng nông thôn mới . Nhiệm vụ và giải pháp giai đoạn
2011-2015.
7. Ban Chỉ đạo Chương trình Phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn
mới huyện Nông Cống (2012), Báo cáo sơ kết 2 năm thực hiện Chương
trình xây dựng nông thôn mới mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp năm 2012.
8. Ban Chỉ đạo Chương trình Phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn
mới huyện Nông Cống (2013), Báo cáo kết quả triển khai Chương trình
MTQG xây dựng nông thôn mới trong 3 năm và năm 2013.
83
9. Ban Chỉ đạo Chương trình nông thôn mới tỉnh Thanh Hóa ( 2012), Kỷ
yếu Tổng kết chương trình xây dựng nông thôn mới thí điểm (2009 –
2011)
10. Ban Chỉ đạo xây dựng chương trình nông thôn mới Trung ương (2012),
Kỷ yếu tổng kết chương trình xây dựng thí điểm mô hình nông thôn mới
(2009 – 2011).
11. Ban Chỉ đạo thực hiện Chương trình Nông thôn mới tỉnh Thanh Hóa
(2013), Báo cáo tổng kết 2 năm thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc
gia về Xây dựng Nông thôn mới (2011-2013).
12. Bộ Tài chính (2011), Huy động và sử dụng nguồn lực cho đầu tư xây
dựng nông thôn mới. Trong hội nghị tổng kết thí điểm xây dựng chương
trình nông thôn mới tổ chức tháng 1 năm 2012.
13. Đỗ Kim Chung, Kim Thị Dung (2012), Chương trình nông thôn mới ở
Việt Nam một số vấn đề đặt ra và kiến nghị, Tạp chí phát triển kinh tế,
Đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
14. Nguyễn Duy Cần, Trần Duy Phát, Phạm Văn Trọng Tính, Lê Sơn Trang,
(2012), “Đánh giá và huy động các nguồn lực cộng đồng trong xây dựng
Nông Thôn Mới tại xã Vĩnh Viễn, Hậu Giang”, Tạp chí Khoa học Trường
Đại học Cần Thơ, số 24b, trang 199-209.
15. Nguyễn Thị Dung (2012), Xây dựng nông thôn mới xã Thụy Hương
huyện Chương Mỹ, Hà Nội.
16. Phạm Khắc Dũng (2012), Giải pháp xây dựng và phát triển nông thôn
mới huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn”
17. Đoàn Thế Hanh (2012),“Xây dựng nông thôn mới: vấn đề quy hoạch và
huy động các nguồn vốn”.Trong Vũ Văn Phúc, 2012. Xây dựng nông thôn
mới, lý luận và thực tiễn. Nxb Chính trị Quốc gia.
84
18. Phạm Hà (2011), “Xây dựng nông thôn mới: hướng đi mới cho Quảng
Ninh”, Tạp chí Nông nghiệp, ngày 30/1/2011.
19. Đỗ Thị Hà (2010), Đánh giá tình hình thực hiện chủ trương xây dựng
nông thôn mới của Nhà nước tại xã Thụy Lâm huyện Tiên Du tỉnh Bắc
Ninh.
20. Trần Thị Hà (2012), “Kết quả bước đầu và ý nghĩa quan trọng của việc
triển khai bước đầu phong trào thi đua: cả nước chung sức xây dựng
nông thôn mới do Thủ tướng Chính phủ phát động”.
21. Hạ Văn Hải (2012),“Nghiên cứu tình hình thực hiện chương trình xây
dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phúc”Khoa
Kinh tế và Phát triển nông thôn. Nxb Đại Học Nông Nghiệp Hà Nội.
22. Huyện uỷ Nông Cống (1996), Báo cáo của BCH Đảng bộ khoá XVIII tại
Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIX.
23. Huyện uỷ Nông Cống (2000), Báo cáo của BCH Đảng bộ khoá XIX tại
Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XX.
24. Huyện uỷ Nông Cống (2005), Báo cáo của BCH Đảng bộ khoá XX tại
Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXI.
25. Huyện uỷ Nông Cống (2010), Báo cáo của BCH Đảng bộ khoá XX I tại
Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXII.
26. Huyện ủy Nông Cống (2013), Báo cáo Sơ kết 5 năm thực hiện Nghị
quyết số 26 NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về
nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
27. Vũ Kiển (2011), Xây dựng nông thôn mới ở Thái Bình, Tạp chí Phát triển
nông thôn, số 6/2011.
28. Nguyễn Thành Lợi (2012), Xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam, Kinh
nghiệm từ Nhật Bản” Trong Vũ Văn Phúc, 2012. Xây dựng nông thôn
mới, lý luận và thực tiễn. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
85
29. Từ Tinh Minh và cộng sự (2010), 5 Kinh nghiệm quý báu trong qua
trình xây dựng nông thôn mới tỉnh Triết Giang, Tạp chí Nông nghiệp và
nông thôn, số 4/2011.Vũ Văn Phúc (2012), Xây dựng nông thôn mới,
những vẫn đề lý luận và thực tiễn. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
30. Hồ Chí Minh (2000), toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
31. Hồ Chí Minh (2000), toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
32. Hồ Chí Minh (2000), toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
33. Lê Nam – Nguyễn Chung (2012), “Nông Cống - Huyện thuần nông
chuyển mình cùng nông thôn mới”, Báo Đại Đoàn Kết.
34. Niên giám thống kê huyện Nông Cống, (2008),
35. Niên giám thống kê huyện Nông Cống (2009),
36. Niên giám thống kê huyện Nông Cống (2010),
37. Niên giám thống kê huyện Nông Cống (2011),
38. Niên giám thống kê huyện Nông Cống (2012).
39. Niên giám thống kê huyện Nông Cống (2013),
40. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2011), Báo cáo tổng kết chương trình
xây dựng thí điểm mô hình nông thôn mới của ngành ngân hàng.
41. Nghị quyết Số 26–NQ/TWTƯ Đảng về Nông nghiệp, nông dân và nông
thôn (2008), Xây dựng nông thôn mới, những vấn đề lý luận và thực tiễn.
42. Vũ Văn Phúc (2012), Xây dựng nông thôn mới, những vấn đề lý luận và
thực tiễn. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
43. Đồng Minh Quân (2014), Huy động và sử dụng nguồn lực tài chính trong
xây dựng Nông thôn mới trên địa bàn huyện Nông Cống tỉnh Thanh Hóa.
44. Quyết định số 13/2009,QD-TTg ngày 12/1/2009.
45. Quyết định 491 QĐ-TTg, ban hành ngày 16 tháng 4 năm 2009.
86
46. Tô Huy Rứa (2011), Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong đổi mới ở
Việt Nam- Một số vấn đề lí luận và thực tiễn.
47. “ Sổ Tay xây dựng nông thôn mới cơ chế đầu tư, hỗ trợ nông dân phát
triển ngành nghề kinh tế nông nghiệp, khuyến khích đầu tư tiêu chí quốc
gia về đánh giá nông thôn mới”, Nxb Lao Động.
48. Nguyễn Kế Tuấn (2009), Công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn ở
Việt Nam con đường và bước đi, Nxb Chính trị Quốc gia 2010.
49. Vũ Ngọc Thanh (2009), Việc làm và thu nhập của người lao động tại
Nông Cống, Thanh Hóa.
50. Lê Đình Thọ(2009), Tìm hiểu một số di tích lịch sử - văn hóa huyện
Nông Cống.
51. Nguyễn Quốc Trị (2012), “Giải pháp đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới
ở Tỉnh Bắc Ninh”, Nxb Đại học Nông nghiệp.
52. Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội (2012). Kỷ yếu hội thảo Xây dựng
nông thôn mới, lý luận và thực tiễn.
53. Trường Đại học Hồng Đức (2014), Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Xây dựng
nông thôn mới ở Thanh Hóa – Những vấn đề lí luận và thực tiễn”
54. Uỷ ban Nhân dân huyện Nông Cống (2007), Quy hoạch tổng thể phát
triển KT-XH huyện Nông Cống đến năm 2020.
55. UBND huyện Nông Cống (2010), Báo cáo đánh giá thực trạng nông
thôn.
56. UBND huyện Nông Cống: Báo cáo số 66/UBDN-BC ngày 30/12/2012
của UBND huyện Nông Cống về việc: Báo cáo tình hình kinh tế xã hội
năm 2012.
57. Nguyễn Hữu Vạn (2012). “Công tác triển khai, kết quả bước đầu và
những kiến nghị, đề xuất trong xây dựng nông thôn mới tại tỉnh Lào Cai”.
87
58. Trong Vũ Văn Phúc (2012, Xây dựng nông thôn mới, lý luận và thực tiễn.
Nxb Chính trị Quốc gia.
59. Văn phòng Điều phối Chương trình Nông thôn mới tỉnh Thanh Hóa
(2012), Kỉ yếu tập huấn kiến thức xây dựng nông thôn mới tỉnh Thanh
Hóa.
60. Hoàng Thị Vân (2012), Đánh giá quản lý và thực hiện dự án phát triển
nông thôn tổng hợp miền trung tại tỉnh Thanh Hóa. Khoa Kinh tế & Phát
triển nông thôn, Trường Đại Học Nông Nghiệp Hà Nội.
61. Vấn đề nông nghiệp nông dân nông thôn kinh nghiệm Việt Nam, kinh
nghiệm Trung Quốc, Nxb Chính trị Quốc gia.
62. Quản Hải Yến và cộng sự (2010), Kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới
hiện đại tại thôn Hoa Tây, tỉnh Giang Tô, Tạp chí Nông nghiệp và nông
thôn, số 7/2011.
63. http://nongthonmoi.gov.vn
64. http:google.com.vn
88
PHỤ LỤC
89
PHỤ LỤC 1. TÌNH HÌNH SỬ DỤNG ĐẤT CỦA HUYỆN NÔNG CỐNG TỪ NĂM 2011-2013
Năm 2012
Năm 2013
So sánh (%)
Năm 2011
Chỉ tiêu
12/11
13/12
BQ
Diện tích (ha)
Cơ cấu (%)
Diện tích (ha)
Cơ cấu (%)
Diện tích (ha)
28.653,30 17.500,59 13.098,69 1.672,48
100 61,08 74,85 9,56
28.653,30 17663.46 13061.62 1665.97
100 61.64 73.94 12.75
28.653,30 17649.99 13057.14 1663.26
Cơ cấu (%) 100 61.59 73.97 12.73
100 100.93 99.71 99.61
100 99.92 99.96 99.83
100 100.42 99.84 99.72
653,36
3,73
643.99
38.65
643.68
38.69
98.56
99.95
99.25
2.075,76 4.371,93 3.063,94 2.083,80
11,86 15,26 10,69 7,27
7.99 15.31 10.71 6.52
2265.61 4416.75 3108.47 1836.38
2291.58 4388.75 3069.57 1870.36
7.97 15.41 10.84 6.30
110.39 100.38 100.18 89.75
99.73 100.63 101.26 98.18
105.06 100.51 100.72 93.97
0.095 0.387 0.071 0.290
- - - -
- - - -
0.096 0.386 0.071 0.285
0.096 0.389 0.071 0.287
- - - -
1.003 1.004 0.991 0.992
0.996 0.992 0.997 0.993
1.000 0.998 0.994 0.992
A- Tổng diện tích tự nhiên I- Đất nông nghiệp 1- Đất cây hàng năm 2- Đất cây lâu năm 3- Đất mặt nước nuôi trồng thủy sản 4. Đất lâm nghiệp II- Đất chuyên dùng III- Đất thổ cư IV- Đất chưa sử dụng B- Một số chỉ tiêu phân tích 1- Đất NN/khẩuNN 2- Đất NN/hộNN 3- Đất canh tác/khẩu NN 4- Đất canh tác/hộ NN
(Nguốn số liệu: Chi cục Thông kê huyện Nông Cống)
PHỤ LỤC 2. TÌNH HÌNH LAO ĐỘNG CỦA HUYỆN NÔNG CỐNG 2011 – 2013
So sánh (%)
Chỉ tiêu
ĐVT
2012/2011 2013/2012
BQ
Năm 2011 Số lượng 179568 144049 35518.6 44365 36024 8341 110670 82585 28085
Năm 2012 Cơ cấu Số Cơ cấu (%) (%) lượng 100.00 181777 100.00 78.25 142240 80.22 21.75 39537 19.78 100.00 44854 100.00 81.20 77.91 34946 22.09 9908 18.80 100.00 113270 100.00 72.63 82273 74.62 27.37 30997 25.38
Năm 2013 Số lượng 183358 137519 45839 45358 34122 11236 118050 80818 37232
Cơ cấu (%) 100.00 75.00 25.00 100.00 75.23 24.77 100.00 68.46 31.54
Người Người Người hộ hộ hộ người người người
101.230 98.744 111.314 101.102 97.008 118.787 102.349 99.622 110.369
100.870 96.681 115.939 101.124 97.642 113.403 104.220 98.231 120.115
101.050 97.712 113.627 101.113 97.325 116.095 103.285 98.927 115.242
I-Tổng số nhân khẩu 1-Khẩu nông nghiệp 2- Khẩu phi nông nghiệp II- Tổng số hộ 1- Hộ nông nghiệp 2- Hộ phi nông nghiệp III- Tổng số lao động 1- Lao động nông nghiệp 2- Lao động phi nông nghiệp
IV- Các chỉ tiêu bình quân
- - - -
4.053 2.525 4.070 2.354
- - - -
4.000 2.603 4.030 2.369
- - - -
4.048 2.495 3.999 2.292
người LĐ người LĐ
100.127 101.234 101.790 102.695
98.702 103.062 99.016 100.604
99.414 102.148 100.403 101.649
1- Bình quân khẩu/hộ 2- Bình quân lao động/hộ 3- Bình quân khẩu NN/hộ NN 4- Bình quân LĐ NN/hộNN
(Nguồn số liệu: Chi cục Thống kê huyện Nông Cống)
PHỤ LỤC 3. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT CỦA HUYỆN NÔNG CỐNG 2011-2013
Năm 2011
Năm 2012
Năm 2013
So sánh (%)
Chỉ tiêu
2012/2011 2013/2012
BQ
Số lượng (tr.đồng)
Số lượng (tr.đồng)
Số lượng (tr.đồng)
Cơ cấu (%)
Cơ cấu (%)
Cơ cấu (%)
I -Tổng giá trị sản xuất 1. Nông nghiệp
1,601,151 100.00 1,610,816 100.00 1,622,171 100.00 557,841
555,893
404,900
34.84
34.51
34
100.60 99.65
100.70 72.84
100.65 86.24
Trồng trọt Chăn nuôi
415,871 136,113
74.55 24.40
416,086 133,692
74.85 24.05
304,161 95,880
75.12 23.68
100.05 98.22
73.10 71.72
86.58 84.97
Dịch vụ nông nghiệp 2. Công nghiệp - Xây dựng cơ bản
5,857 521,335
1.05 32.56
6,115 523,515
1.1 32.5
4,859 530,450
1.2 32.7
104.40 100.42
79.46 101.32
91.93 100.87
3. Thương mại - Dịch vụ
521,975
32.60
531,408
32.99
835,451
33.3
101.81
157.21
129.51
II -Một số chỉ tiêu
1. Giá trị sản xuất/khẩu
8.92
8.85
8.86
99.38
99.84
99.61
2. Giá trị sản xuất/lao động
14.47
13.74
14.22
98.29
96.63
97.46
3. Giá trị sản xuất/ hộ
36.09
35.76
35.91
99.51
99.59
99.55
23.76
17.23
23.56
99.13
73.16
86.14
4. GTSX ngành trồng trọt/1ha đất NN
(Nguồn số liệu: Chi cục Thống kê huyện Nông Cống)
PHỤ LỤC 4. MỘT SỐ CHỈ TIÊU KINH TẾ- XÃ HỘI CHỦ YẾU 2010-2013
STT
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
2010
2011
2012
2013
Diện tích tự nhiên
Km2
286.53
286.53
286.50
286.50
1
Dân số trung bình
Người
183.358
182.910
181.152
181.032
2
Mật độ dân số
Người/Km2
640.0
638.4
632.3
631.9
3
Tỉ lê gia tăng tự nhiên dân số
%
6.00
6.42
9.45
8.46
4
Dân số trong độ tuổi lao động
Người
113.600
112.050
113.215
112.360
5
Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế
102.493
101.910
103.169
103.565
//
Nông, Lâm, Thủy sản
Người
87.141
85.818
85.047
82.263
6
Nông nghiệp
//
86.611
85.244
84.385
81.454
//
132
122
225
215
Lâm nghiệp
//
398
452
437
594
Thủy sản
//
9.334
9.991
10.881
13.850
Công nghiệp và xây dựng
//
8.651
9.338
10.116
13.155
Công nghiệp
7
//
683
653
765
695
Xây dựng
//
6.018
6.101
7.241
7.452
Dịch vụ
8
Lao động khu vực nhà nước
Người
9
3.406
3.404
3.622
3.650
Trung ương quản lý
//
10
117
125
135
140
Địa phương quản lý
//
3.289
3.279
3.487
3.510
11
Tỉnh, Thành phố quản lý
//
184
198
235
239
Huyện, Thị xã quản lý
//
3.105
3.081
3.252
3.271
Số người được xắp xếp việc làm mới trong năm
Người
12
3.250
3.680
3.800
3.000
Ổn định
//
13
2.450
2.680
2.900
1.800
Tạm thời
//
14
800
1.000
900
1.200
15
Giá trị SX công nghiệp (Giá hiện hành)
Triệu đồng
852.190
1003778
1212733
1442918
//
16
Giá trị sản xuất công nghiệp( Giá so sánh năm 1994)
377.995
343.384
380.224
424860
Tổng thu ngân sách
//
17
421.582
481.731
603.620
624.702
Tổng chi ngân sách
//
18
309.593
370.641
431.010
509.449
Sản lượng lương thực có hạt BQ/ người
Kg
19
681
693
728
726,4
Thu nhập BQ một tháng của một khẩu
Triệu đồng
20
10,2
11,2
14,3
18,6
Tỉ lệ hộ nghèo
%
21
15,65
18,15
14.08
10.10
Số xã, TT được công nhận phổ cập THCS
Xã, TT
22
33
33
33
33
Số xã, TT đạt chuẩn quốc gia về y tế (chuẩn mới)
23
0
0
2
4
//
Tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng
24
21,00
19,30
18,6
17,60
%
Xã, TT
33
33
33
33
25
Số xã,TT có trung tâm văn hóa; Truyền thanh ; phủ sóng truyền hình
26
Nhà ở kiên cố
50,5
51.5
51,7
52,1
%
27
Bán kiên cố
40,7
43
43,5
44
//
28
Nhà tạm
8,8
5,5
4,8
3,9
//
29
Số hộ có máy thu hình
94,2
96,5
97
98
%
29
Số hộ có xe máy
75,5
79,5
82
83,5
//
30
Tỉ lệ hộ dùng điện
99,9
100
99,96
88,98
//
31
Ô tô các loại
342
407
438
498
Cái
32
Công nông
350
410
387
285
//
33
Đầu máy kéo và máy cày tay
852
865
889
980
//
34
Máy tút lúa có động cơ
547
568
545
645
//
35
Máy sát nghiền
775
670
564
550
//
(Nguồn số liệu: Chi cục Thống kê huyện Nông Cống)
PHỤ LỤC 5. KHẢO SÁT, ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG XÂY
DỰNG NÔNG THÔN MỚI HUYỆN NÔNG CỐNG TÍNH ĐẾN THÁNG
12/2009
So với yêu cầu Stt Nội dung Số lượng Tỉ lệ của tiêu chí NTM
1 1. Quy hoạch
- Đạt 1.1.Quy hoạch sử dụng - Đã quy hoạch
đất và hạ tầng thiết yếu
cho phát triển sản xuất
nông nghiệp hàng hóa,
công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp, dịch vụ
- Đạt 1.2. Quy hoạch phát triển - Đã quy hoạch
hạ tầng kinh tế - xã hội –
môi trường theo chuẩn - Đạt - Đã quy hoạch mới.
1.3. Quy hoạch phát triển
các khu dân cư mới và
chỉnh trang các khu dân
cư hiện có theo hướng
văn minh, bảo tồn được
bản sắc văn hóa tốt đẹp
2 2. Giao thông
2.1.Tỉ lệ km đường trục 78,8km 32,9% - Đạt 32,9 %, theo
xã, liên xã được nhựa hóa yêu cầu của tiêu
hoặc bê tông hóa đạt chí là phải đạt
chuẩn theo cấp kĩ thuật 100%.
của Bộ GTVT - Đạt Tỉ lệ 65% 264km 45,6%
2.2. Tỉ lệ km đường trục trong khi tiêu chí
yêu cầu phải đạt thôn, xóm được cứng hóa
70%. đạt chuẩn theo cấp kĩ
thuật của Bộ GTVT - Đạt 74,3% .Tiêu
74,3% 455km 2.3. Tỉ lệ km đường ngõ, chí yêu cầu phải
đảm bảo 100% xóm sạch và không lầy lội
vào mùa mưa. - Đạt 15,7%. Tiêu
11,3% 70km 2.4. Tỉ lệ km đường trục chí yêu cầu đạt
50%. chính nội đồng được cứng
hóa, xe cơ giới đi lại
thuận tiện
3 3. Thuỷ lợi
- Số hồ, đập, cống được 145 công trình 27,6% - Chưa đạt so với
tưới, trạm bơm hiện có tiêu chí
570km - Tỉ lệ kênh mương trên - Tiêu chí yêu cầu 42%
phải đạt 85% địa bàn
4. Điện
4.1. Hệ thống điện đảm 4
bảo yêu cầu kĩ thuật của
185km - Đạt so với tiêu 100% ngành
chí - Đường dây cao thế 150km
52% - Chưa đạt
90 trạm 68% - Chưa đạt - Đường dây hạ thế
39.561 hộ 88,7% - Tiêu chí yêu cầu: - Trạm biến áp
98% 4.2. Tỉ lệ hộ sử dụng điện
thường xuyên, an toàn từ
các nguồn.
5 5. Trường học
* Trường mầm non:
- Tổng số trường 34 trường
7 trường - Số trường đạt chuẩn 20,6% - Yêu cầu phải đạt
quốc gia: 80%
- Số trường, phòng học 27(81)trường
cần nâng cấp, đầu tư mới (phòng)
để đạt chuẩn:
* Trường tiểu học:
- Tổng số trường trong 36 trường
huyện: 10 lớp
- Tổng số lớp học trong
mỗi trường:
trong đó: 25 trường - Yêu cầu phải đạt 69%
+ Số trường đạt chuẩn 80%
quốc gia: 11(110)trường
(phòng)
+ Số trường, phòng học cần nâng cấp, đầu tư mới để đạt chuẩn:
33 trường * Trường Trung học cơ
sở: 8 lớp
- Tổng số trường trong
huyện:
- Yêu cầu phải đạt 5 trường - Tổng số lớp học trong 15%
80% mỗi trường:
Trong đó: 28(224)trường
+ Số trường đạt chuẩn (phòng)
quốc gia:
+ Số trường, phòng học
cần nâng cấp, đầu tư mới
để đạt chuẩn
6 6. Cơ sở vật chất văn
hoá
6.1. Nhà văn hóa và khu
thể thao
* Do huyện quản lí đạt
chuẩn của Bộ VH-TT 2 nhà
- Tổng số: 1 nhà 50% - So với tiêu chí:
- Đạt chuẩn 4 nhà Chưa đạt
* Do xã quản lí cần nâng
cấp, đầu tư mới để đạt
chuẩn: 255
6.2. Tỉ lệ thôn có nhà văn
- Tiêu chí yêu hóa và khu thể thao thôn 100 39,2% cầu100% đạt quy định của Bộ VH- 86
TT-DL
- Tổng số
- Số đạt chuẩn
7 7. Chợ nông thôn
21
- Chưa đạt so với yêu cầu của tiêu chí
0 - Tổng số chợ toàn huyện: Trong đó: - Chợ theo quy hoạch, đạt chuẩn của Bộ XD:
8 8. Bưu điện
- Xã trong huyện có điểm 33/33 100% - Đạt
bưu điện văn hóa xã
- Tổng số xã có dịch vụ 24 70,5% - Tiêu chí yêu cầu
Internet: đạt 100%
9 9. Nhà ở dân cư nông
thôn 43.796
- Tổng số nhà ở dân cư
hiện có trong huyện: 4.370 10,8% - Tiêu chí yêu cầu
+ Số nhà tạm, dột nát: không còn nhà
tạm, dột nát.
- Đạt (80%) + Nhà đạt chuẩn 39.066 89,2%
7,874 triệu 10 10. Thu nhập
đồng/ - Thu nhập bình 91,5% Bình quân của tỉnh
quân/người/ năm 8.600đ/ người /người/năm
(2009)
Tiêu chí yêu cầu: 11 11. Hộ nghèo 6.970 hộ 15,4% 5% - Tỉ lệ hộ nghèo:
12 12. Cơ cấu Lao động
* Lao động trong độ tuổi 96,215người
có khả năng lao động:
- Lao động đang làm việc 75.000 người 77,9% - Tiêu chí yêu cầu
nông nghiệp: <35%
- Lao động làm lâm 250 người 0,002%
nghiệp: 150 người 0,0015%
+ Lao động làm ngư 20.815 người 21,6%
nghiệp
- Lao động phi nông
nghiệp và thường xuyên 180 người
đi làm việc ở nơi khác
- Lao động xuất khẩu
(2009)
13 13. Hình thức tổ chức
sản xuất
- Tổ hợp tác
+ Tổng số: 2
+ Hoạt động hiệu quả 100% - So với tiêu chí: 2
Đạt - Hợp tác xã
+ Tổng số 42
- Chưa đạt so với + Hoạt động hiệu quả 16,6% 7
tiêu chí - Số trang trại: 200
- Số doanh nghiệp: 93
+ DN nhà nước: DN nhà
nước có vốn đầu tư: 5
1.300.000 triệu đồng, thu
hút 260 LĐ. 10
+ Công ty cổ phần: 10
công ty, vốn đầu tư:
24.000 triệu đồng, thu hút
34 1.600 lao động
+ DN tư nhân: 34 DN,
vốn đầu tư: 34.000 triệu
42 đồng, thu hút 500 LĐ.
+ Công ty TNHH: 42
công ty, vốn đầu tư:
2 52.900 triệu đồng, thu hút
1.800 lao động
+ Các loại hình doanh
nghiệp khác: 2 DN, vốn
19 xã đầu tư: 1.600triệu đồng,
thu hút 70 lao động.
- Số xã có nghề thủ công
nghiệp
14 14. Giáo dục:
- Phổ cập giáo dục trung 91,8% - So với tiêu chí:
học Chưa Đạt
- Tỉ lệ học sinh tốt nghiệp -So với tiêu chí: 3.116 96%
THCS được tiếp tục học Đạt
trung học (phổ thông, bổ
túc, học nghề): trong đó: 2.181 70%
+ Số học sinh tiếp tục học
THPT: - Tiêu chí yêu cầu 5,6% 174 + Số học sinh tiếp tục học > 35%
bổ túc văn hóa:
24,4% 761 + Số học sinh tiếp tục học
nghề:
23,4% 22.514 - Lao động qua đào tạo
các loại ngành, nghề
15 15. Y tế
+ Trạm Y tế 33 trạm
- Đạt chuẩn: 23 trạm 81% - Chưa đạt so với
tiêu chí - Chưa đạt chuẩn: 9 trạm 19%
- Tiêu chí yêu cầu - Tỉ lệ người dân tham gia 70.520 người 38,9%
> 30% (đạt) các hình thức BHYT:
16 16. Văn hóa
- Tỉ lệ thôn, bản đạt tiêu 113 35,7% - Tiêu chí yêu cầu
80% (chưa đạt) chuẩn làng văn hoá:
- Tổng số gia đình đạt 66,5%
tiêu chuẩn văn hóa trong
huyện là:
17 17. Môi trường
- Tỉ lệ hộ sử dụng nước 85% - So với tiêu chí:
sinh hoạt hợp vệ sinh: Chưa đạt
- Số hộ có nhà tiêu hợp vệ - So với tiêu chí:
sinh đạt tỉ lệ so với tổng chưa đạt 80%
số hộ trong huyện :
- Tỉ lệ hộ có cơ sở chăn - So với tiêu chí: 56% nuôi hợp vệ sinh so với chưa đạt
tổng số hộ có chuồng trại
chăn nuôi. 5 xã
- Xử lí chất thải, nước 15%
thải: 28 xã
+ Có thu gom rác và xử
lí: 3.519 cơ sở
+ Chưa có thu gom rác và
xử lí:
36% - Tổng số cơ sở sản xuất
ơ
127 khu kinh doanh:
- Tỉ lệ cơ sở sản xuất đạt 96 khu - Tiêu chí yêu cầu : 75% tiêu chuẩn môi trường
đạt - Nghĩa trang: 31 khu
25% + Đã quy hoạch và có
quy chế quản lí:
+ Chưa có quy hoạch và
quy chế quản lí:
18 18. Hệ thống chính trị
451/598 người 75%
- Hiện trạng đội ngũ cán bộ xã so với chuẩn: - Tiêu chí yêu cầu: đạt
33/33 xã 100%
- So với yêu cầu: Đạt
- Tình hình hoạt động của trong hệ tổ chức các thống chính trị cơ sở:
100% 33/33 xã
- So với yêu cầu: Đạt - Đảng bộ, chính quyền xã đạt trong sạch vững mạnh 100%
33/33 xã - So với yêu cầu: Đạt - Các tổ chức chính quyền xã đạt LĐTT trở lên
19 19. An ninh, trật tự xã
hội 33/33 xã 100% - So với yêu cầu:
- Tình hình trật tự xã hội Đạt
an ninh trên địa bàn đảm
bảo
(Nguồn: Đánh giá thực trạng nông thôn tính đến 31/12/2009/ UBND)
MỘT SỐ HÌNH ẢNH
Mô hình trồng cây vụ đông xen canh thanh long ruột đỏ mang lại hiệu quả kinh tế cao của gia đình anh Nguyễn Văn Minh, xã Trường Sơn (Nông Cống)
Mô hình cơ giới hóa nông nghiệp xã Minh Thọ
(Nguồn: Tác giả tự chụp)
Làng nghề đan lát tại xã Tân Thọ
Mô hình sản xuất nấm rơm tạo công ăn việc làm, mang lại thu nhập cao cho lao động nông thôn
(Nguồn: www.google.com.vn)
Đồng thuận xây dựng đường bê tông nông thôn, nội đồng
(Nguồn: Tác giả tự chụp)
Lễ hội Đền Mưng mùng 5 tháng 3 âm Lịch hằng năm (làng Côn Sơn xã Trung Thành)
Lễ hội truyền thống Quan Âm (chùa Vĩnh Thái, Xã Hoàng Gang)
(Nguồn: www.google.com.vn)