intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Y học: Mối liên quan giữa chế độ dinh dưỡng với thừa cân, béo phì ở học sinh tiểu học Thành phố Thái Nguyên

Chia sẻ: Tiêu Kính Đằng | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:65

34
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn được thực hiện với mục tiêu nhằm: xác định tỷ lệ thừa cân, béo phì ở học sinh tiểu học thành phố Thái Nguyên năm 2012. Xác định mối liên quan giữa chế độ dinh dưỡng với thừa cân, béo phì ở học sinh tiểu học. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Y học: Mối liên quan giữa chế độ dinh dưỡng với thừa cân, béo phì ở học sinh tiểu học Thành phố Thái Nguyên

  1. 1 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y - DƢỢC PHAN THANH NGỌC MỐI LIÊN QUAN GIỮA CHẾ ĐỘ DINH DƢỠNG VỚI THỪA CÂN, BÉO PHÌ Ở HỌC SINH TIỂU HỌC THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN Chuyên ngành: Nhi khoa Mã số: 60.72.01.35 LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC Hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Minh Tuấn Thái Nguyên - 2012
  2. 2 CÁC CHỮ VIẾT TẮT BMI Chỉ số khối cơ thể (Body Mass Index) ĐV Động vật g Gam LMDD Lớp mỡ dưới da NCĐN/ VDD Nhu cầu đề nghị của Viện dinh dưỡng NCHS Trung tâm thống kê sức khỏe quốc gia Hoa Kỳ (National Center for Health Statistics) P:L:G Protid : Lipid : Glucid TC, BP Thừa cân, béo phì WHO Tổ chức Y tế thế giới (World Health Organization)
  3. 3 MỤC LỤC Đặt vấn đề 1 Chƣơng 1: Tổng quan 3 1.1. Định nghĩa, cách đánh giá, phân loại và đặc điểm trẻ thừa cân, béo phì 3 1.2. Tình hình thừa cân - béo phì ở trẻ em hiện nay 9 1.3. Ảnh hưởng của chế độ dinh dưỡng đối với béo phì ở trẻ em 12 Chƣơng 2: Đối tƣợng và phƣơng pháp nghiên cứu 25 2.1. Đối tượng nghiên cứu 25 2.2. Thời gian nghiên cứu 25 2.3. Phương pháp nghiên cứu 25 2.4. Tiêu chuẩn đánh giá kết quả 31 2.5. Xử lý số liệu 32 2.6. Khía cạnh đạo đức trong nghiên cứu 32 Chƣơng 3: Kết quả nghiên cứu 33 3.1. Thực trạng thừa cân béo phì ở học sinh tiểu học thành phố 33 Thái Nguyên 3.2. Mối liên quan giữa chế độ dinh dưỡng với thừa cân, béo phì ở 36 học sinh tiểu học Chƣơng 4: Bàn luận 42 4.1. Thực trạng thừa cân, béo phì ở học sinh tiểu học thành phố Thái Nguyên 42 4.2. Mối liên quan giữa chế độ dinh dưỡng với thừa cân, béo phì ở 46 học sinh tiểu học Kết luận 53 Khuyến nghị 54 Tài liệu tham khảo 55 Phụ lục
  4. 4 DANH MỤC BẢNG Bảng 3.1. Tỷ lệ thừa cân, béo phì chung ở học sinh tiểu học thành phố Thái 33 Nguyên Bảng 3.2. Phân bố tỷ lệ thừa cân, béo phì ở các trường tiểu học thành phố Thái 34 Nguyên Bảng 3.3. Trung bình bề dày lớp mỡ dưới da và lượng mỡ trong cơ thể 35 của trẻ thừa cân, béo phì Bảng 3.4. Tỉ lệ thừa cân,béo phì có bề dày LMDD ≥ 90th percentile so 35 với quần thể tham chiếu Bảng 3.5. Năng lượng trong khẩu phần ăn hàng ngày của 2 nhóm 36 nghiên cứu Bảng 3.6. Mức đáp ứng nhu cầu đề nghị về các chất dinh dưỡng trong 36 khẩu phần giữa 2 nhóm nghiên cứu (%) Bảng 3.7. Tính cân đối trong khẩu phần ăn của 2 nhóm nghiên cứu 37 Bảng 3.8. Tần suất tiêu thụ thực phẩm trong tháng giữa 2 nhóm trẻ 38 Bảng 3.9. Mối liên quan giữa thói quen ăn uống của học sinh tiểu học 39 với thừa cân, béo phì Bảng 3.10. Mối liên quan giữa sở thích về thực phẩm của học sinh tiểu 40 học với thừa cân, béo phì Bảng 3.11. Mối liên quan giữa tiêu thụ chất béo trong khẩu phần hàng 40 ngày với tình trạng thừa cân, béo phì Bảng 3.12. Mối liên quan giữa tiêu thụ đồ ngọt trong khẩu phần hàng 41 ngày với tình trạng thừa cân, béo phì
  5. 5 DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 3.1. Phân bố tỷ lệ thừa cân, béo phì theo giới 33 Biểu đồ 3.2. Phân bố tỷ lệ thừa cân, béo phì theo tuổi 34 Biểu đồ 3.3. Mối liên quan giữa thói quen ăn thêm bữa phụ của học sinh 39 tiểu học với thừa cân, béo phì
  6. 6 ĐẶT VẤN ĐỀ Trong những năm đầu thế kỷ 21, cùng với sự tăng trưởng kinh tế, mức sống của người dân nhiều nước trên thế giới được nâng cao dẫn đến sự thay đổi cơ cấu các loại bệnh tật trong xã hội, trong đó đáng chú ý là sự tăng lên nhanh chóng ở mức báo động của tình trạng thừa cân, béo phì [25]. Tình trạng béo phì trong xã hội đang trở thành một vấn nạn y tế ở các nước đã phát triển. Đây là mối đe doạ lớn vì béo phì là một nhân tố hàng đầu gây nên các bệnh mạn tính liên quan đến dinh dưỡng như đái tháo đường týp 2, các bệnh về tim mạch, về gan mật, các vấn đề về cơ xương khớp và một số bệnh ung thư [3], [15], [55]. Ở trẻ em, tình trạng dinh dưỡng phụ thuộc rất nhiều vào sự quan tâm chăm sóc của gia đình nên rất dễ mắc bệnh béo phì. Béo phì ở trẻ em tuy không đe doạ đến tính mạng như suy dinh dưỡng nhưng có ảnh hưởng không ít đến tâm thần, vận động của trẻ, làm cho trẻ mặc cảm không hoà nhập với bạn bè dẫn đến sa sút trong học tập… [32]. Nhiều tác giả nhận thấy xấp xỉ 30% trẻ thừa cân tiền học đường, 50% trẻ thừa cân học đường và 80% thanh thiếu niên thừa cân sẽ tiếp tục dai dẳng sự thừa cân cho đến tuổi trưởng thành [52]. Theo WHO thừa cân và béo phì là nguy cơ tử vong đứng thứ năm trên toàn cầu, ít nhất 2,8 triệu người lớn tử vong mỗi năm như là một kết quả của việc thừa cân hoặc béo phì. Ngoài ra, 44% gánh nặng bệnh tiểu đường, 23% gánh nặng bệnh tim thiếu máu cục bộ và từ 7% đến 41% gánh nặng ung thư là do thừa cân, béo phì [55]. Trong những năm gần đây, với sự tăng trưởng kinh tế nhanh, đời sống của người dân ngày càng được cải thiện. Cơ cấu bữa ăn và tập tục ăn uống không ngừng biến đổi, với các thói quen ăn uống, sinh hoạt của các nước công nghiệp phát triển. Vì vậy, bên cạnh tỷ lệ suy dinh dưỡng còn khá cao thì tình trạng thừa cân, béo phì đang có chiều hướng gia tăng đặc
  7. 7 biệt tại các đô thị lớn. Tại Hà Nội các tác giả nhận thấy tỷ lệ thừa cân tăng nhanh trong những năm gần đây. Năm 2003 tỉ lệ thừa cân, béo phì là 6,8% [34], năm 2008 tỷ lệ thừa cân ở trẻ 6 - 14 tuổi là 10,8% [17], năm 2009 đã tăng lên là 12,9% [37]. Tại thành phố Hồ Chí Minh, theo nghiên cứu của Trần Thị Hồng Loan năm 1998, tỷ lệ thừa cân là 12,2% [27], năm 2007, theo nghiên cứu của Nguyễn Quang Dũng, Nguyễn Lân và cộng sự, tỷ lệ béo phì trên học sinh 9 - 11 tuổi tại trường Kết Đoàn, quận 1 là 41,1% [13]. Theo Đỗ Thị Ngọc Diệp, tỷ lệ thừa cân, béo phì ở học sinh tiểu học thành phố Hồ Chí Minh năm 2011 là 38,1% [12]. Ở thành phố Thái Nguyên, theo Nguyễn Minh Tuấn, tỷ lệ thừa cân ở học sinh tiểu học năm 2002 là 4,4% và béo phì là 2,9% [35]. Như vậy, trong thời kỳ này mô hình bệnh tật đang có sự dịch chuyển từ thiếu ăn với các bệnh thiếu dinh dưỡng protein năng lượng, thiếu vi chất dinh dưỡng… sang thừa ăn với các bệnh béo phì, tăng huyết áp, đái tháo đường… Tuy nhiên, cho đến nay các nghiên cứu về thừa cân, béo phì ở trẻ em mới chỉ tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn. Tại Thái Nguyên nghiên cứu về thừa cân, béo phì đã được tiến hành cách đây 10 năm, từ đó đến nay, cơ cấu bữa ăn đã có nhiều sự thay đổi nhưng chưa có nghiên cứu nào được lặp lại trên địa bàn tỉnh. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này để tìm hiểu về bệnh béo phì và ảnh hưởng của chế độ dinh dưỡng đến tình trạng thừa cân, béo phì ở trẻ em thành phố Thái Nguyên nhằm tìm ra các biện pháp phòng và điều trị kịp thời góp phần giảm bớt gánh nặng cho y tế và xã hội. Mục tiêu: 1. Xác định tỷ lệ thừa cân, béo phì ở học sinh tiểu học thành phố Thái Nguyên năm 2012. 2. Xác định mối liên quan giữa chế độ dinh dưỡng với thừa cân, béo phì ở học sinh tiểu học.
  8. 8 Chƣơng 1 TỔNG QUAN 1.1. Định nghĩa, cách đánh giá, phân loại và đặc điểm trẻ thừa cân, béo phì 1.1.1. Định nghĩa Béo phì đã được biết đến từ thời cổ đại, nhưng cho đến những thập kỷ gần đây, béo phì mới thực sự được coi là một căn bệnh. Béo phì mở đầu cho sự phát triển loại bệnh dịch không nhiễm khuẩn đầu tiên trong lịch sử nhân loại - dịch béo phì [52] Thừa cân béo phì là tình trạng cơ thể tích tụ quá nhiều mỡ do hậu quả của sự mất cân bằng năng lượng, có nghĩa là năng lượng đưa vào cơ thể vượt quá năng lượng tiêu hao. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) [52] - Thừa cân là tình trạng cân nặng cơ thể vượt quá cân nặng "nên có" so với chiều cao. - Béo phì là tình trạng tích luỹ mỡ thái quá và không bình thường một cách cục bộ hay toàn thể tới mức ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ. Nói một cách chặt chẽ. Hai khái niệm trên hoàn toàn khác nhau bởi vì người có cân nặng vượt quá tiêu chuẩn bình thường không nhất định là béo phì. Muốn xác định béo phì thực sự cần phải căn cứ vào hàm lượng mỡ trong cơ thể. Nhưng việc xác định hàm lượng mỡ tương đối phức tạp, hơn nữa hầu hết những người có cân nặng vượt quá tiêu chuẩn bình thường đều béo. Vì vậy, để đánh giá thừa cân hay béo phì người ta sử dụng công thức tính cân nặng chuẩn để so sánh. Người được coi là “béo phì” khi cân nặng vượt quá cân nặng lý tưởng 20%, còn “thừa cân” thuộc khoảng giữa cân nặng bình thường và béo phì.
  9. 9 1.1.2. Đánh giá thừa cân, béo phì Cơ thể được cấu tạo từ 2 phần là khối nạc và khối mỡ, trong đó khối mỡ phản ánh mức độ gầy béo. Lượng mỡ trong cơ thể sẽ cho biết chính xác về sức khoẻ hơn là chỉ dựa vào cân nặng chung chung. Phương pháp đo mỡ gọi là “ngâm mình dưới nước” dựa trên đặc tính nổi của mỡ mà xương và cơ bắp không có. Để thực hiện phương pháp này chính xác cần có các thiết bị tinh vi, tuy nhiên chúng ta có thể ước tính tỷ lệ mỡ đối chiếu với khối nạc và xương bằng cách bơi trong hồ nước và từ từ thở ra. Nếu mỡ chiếm khoảng 25% chúng ta nổi rất dễ dàng, nếu khoảng 12% thì có thể chìm bất cứ lúc nào [19]. Người ta còn dùng nhiều phương pháp khác để xác định một cách chính xác lượng mỡ trong cơ thể như đo tỷ trọng cơ thể, đo độ dẫn điện của cơ thể, đo độ khuyếch tán các chất khí tan trong chất béo, chụp cắt lớp vi tính, cộng hưởng từ hạt nhân… Tuy nhiên, những phương pháp trên đều đòi hỏi các kỹ thuật phức tạp, tốn kém và chỉ sử dụng được trong phòng thí nghiệm [25]. Hiện nay, có thể sơ bộ tính tỷ lệ mỡ của cơ thể dựa vào cân nặng, giới, LMDD cơ tam đầu và LMDD dưới xương bả vai [41]. Vì vậy, trong nghiên cứu cộng đồng người ta thường sử dụng các chỉ tiêu cân nặng, chiều cao, bề dày lớp mỡ dưới da để đánh giá tình trạng thừa cân, béo phì [23]. * Đối với trẻ em Việc đánh giá thừa cân béo phì ở trẻ em còn gặp khó khăn do tỷ lệ tăng trưởng và trưởng thành khác nhau. Lượng mỡ có liên quan đến các giai đoạn trưởng thành của trẻ và có sự tăng về lượng mỡ ở hai giai đoạn, đó là lúc trẻ 5 - 7 tuổi và lúc tiền dậy thì và dậy thì. Mặc dù có một điểm ngưỡng được sử dụng để xác định béo phì ở người lớn, ở trẻ em điểm ngưỡng này cần được hiệu chỉnh theo tuổi của trẻ. Ở một số quốc gia, có biểu đồ tăng trưởng riêng để tính cân nặng, chiều cao và thừa cân, béo phì theo tuổi. Tuy nhiên, gần đây người ta đã đạt được sự thống nhất về các biện pháp phù hợp đo lượng mỡ
  10. 10 trong cơ thể, điều này cho phép phân loại và so sánh béo phì. Biểu đồ chỉ số khối cơ thể (BMI) theo tuổi và giới đã được WHO khuyến cáo sử dụng trên phạm vi toàn cầu. - Trước đây dựa trên quần thể tham chiếu NCHS, Tổ chức Y tế thế giới (WHO, 1995) đưa ra cách đánh giá thừa cân, béo phì ở trẻ em như sau: + Đối với trẻ dưới 5 tuổi và trẻ từ 5 - 9 tuổi: Thừa cân: Cân nặng/Chiều cao > +2SD Béo phì: Cân nặng/Chiều cao > +2SD và bề dày lớp mỡ dưới da cơ tam đầu, dưới xương bả vai đều  90th percentile. + Đối với trẻ 10 - 19 tuổi: Dùng chỉ số khối cơ thể (BMI) theo tuổi và giới để đánh giá tình trạng dinh dưỡng cho lứa tuổi này. Cân nặng (kg) BMI = (Chiều cao)2 (m) Thừa cân: BMI  85th percentile Béo phì: BMI  95th percentile hoặc BMI  85th percentile và bề dày lớp mỡ dưới da cơ tam đầu, dưới xương bả vai đều  90th percentile. - Từ khi chuẩn tăng trưởng mới của WHO được áp dụng, tình trạng dinh dưỡng ở lứa tuổi 2 - 20 tuổi được đánh giá dựa trên chỉ số BMI theo tuổi. Theo WHO (2007), thừa cân béo phì được đánh giá như sau: Thừa cân khi BMI từ 85th - < 95 percentile. Béo phì khi BMI  95th percentile.
  11. 11 Hình 1.1. Biểu đồ đánh giá BMI theo tuổi ở trẻ nam 2 - 20 tuổi
  12. 12 Hình 1.2. Biểu đồ đánh giá BMI theo tuổi ở trẻ nữ 2 - 20 tuổi Trong đề tài này, để nghiên cứu thực trạng thừa cân, béo phì, chúng tôi sử dụng biểu đồ chỉ số khối cơ thể (BMI) theo tuổi và giới đã được khuyến cáo (theo WHO - 2007)
  13. 13 1.1.3. Phân loại béo phì * Phân loại béo phì theo hình thái mô mỡ - Béo phì quá sản (hyperplasia): thường gặp ở trẻ em, các tế bào mỡ tăng cả về số lượng và kích thước. Béo phì loại này thường nặng, khó điều trị và sớm phát triển những bất thường trong cuộc sống. - Béo phì phì đại (hypertrophy): thường gặp ở người trưởng thành, các tế bào mỡ to bất thường, trong khi đó số lượng tế bào mỡ không tăng hoặc chỉ tăng khi đã phình to hết mức. Béo phì loại này có thể đáp ứng tốt với điều trị [32]. * Phân loại béo phì theo vị trí phân bố mỡ - Béo bụng (android): là dạng béo phì mà mỡ tập trung chủ yếu ở vùng bụng. Thường gặp ở đàn ông do ngồi nhiều, ít hoạt động, trọng lượng dồn ở phần trên cơ thể tạo nên hình dạng béo phì hình “quả táo”. - Béo đùi (gynoid): là dạng béo phì mà mỡ tập trung chủ yếu ở vùng mông và đùi. Thường gặp ở phụ nữ do đẻ nhiều, khung chậu rộng, trọng lượng dồn ở phần dưới cơ thể tạo nên hình dạng béo hình “quả lê”. Nhìn chung béo bụng có nguy cơ mắc bệnh và tử vong do các bệnh tim mạch, tăng huyết áp, đái tháo đường… nhiều hơn so với béo đùi. - Béo đều: Mỡ phân bố toàn thân. Thường gặp ở trẻ em do tế bào mỡ bội tăng [32]. 1.1.4. Đặc điểm trẻ thừa cân, béo phì * Lâm sàng Trẻ thừa cân, béo phì thường háu ăn, ăn nhanh, hay ăn vặt, lúc nào cũng có cảm giác thèm ăn, thích ăn đồ ngọt, thức ăn xào rán nhiều mỡ, thức ăn nhanh và ăn nhiều vào buổi tối. Béo phì ở trẻ em là béo toàn thân, tích tụ mỡ nhiều ở ngực và bụng. Trẻ béo phì thường xuyên cảm thấy mệt mỏi toàn thân, hay nhức đầu, tê buốt ở 2 chân làm cho cuộc sống thiếu thoải mái. Trẻ dậy thì sớm hơn bình thường. Trước dậy thì, trẻ thường cao hơn so với tuổi,
  14. 14 nhưng khi dậy thì, chiều cao ngừng phát triển và trẻ có xu hướng thấp hơn so với tuổi [32]. * Hậu quả của thừa cân, béo phì đối với sức khoẻ trẻ em Thừa cân, béo phì có ảnh hưởng xấu đến tình trạng sức khỏe, tâm lý và kết quả học tập của trẻ. Trẻ thường dễ mặc cảm, tự ti, xấu hổ, hay bị bạn bè trêu chọc, khó hòa nhập với cộng đồng. Nguy cơ đầu tiên của béo phì trẻ em là khả năng kéo dài đến tuổi trưởng thành với các hậu quả của nó. Béo phì ở trẻ thường là do sự tăng sản các tế bào mỡ chứ không phải là do các tế bào mỡ to bất thường như ở người trưởng thành. Vì vậy, béo phì ở trẻ em thường khó điều trị và sẽ chuyển thành béo phì người lớn. Trẻ thừa cân, béo phì dễ mắc các bệnh mạn tính không lây như: tim mạch, tăng huyết áp, đái tháo đường type 2, sỏi mật, viêm khớp và nguy cơ tăng tỷ lệ tử vong [3], [15]. 1.2. Tình hình thừa cân, béo phì ở trẻ em hiện nay 1.2.1. Tình hình thừa cân, béo phì ở trẻ em trên thế giới Béo phì đang được gọi là “tai họa mới của nhân loại” với tốc độ gia tăng nhanh chóng. Theo WHO vào năm 1990, tỷ lệ thừa cân, béo phì ở trẻ em dưới 5 tuổi chỉ là 4,2% , nhưng con số này đã lên đến 6,7% trong năm 2010 và có khả năng sẽ tăng lên đến 9,1% vào năm 2020. WHO ước tính có khoảng 43 triệu trẻ em trên toàn thế giới thừa cân, béo phì và dự kiến sẽ tăng đến khoảng 60 triệu người trong thập kỷ tới, ít nhất 92 triệu trẻ em phải đối mặt với nguy cơ trở thành thừa cân [53]. Tại các nước phát triển đây thực sự là một vấn đề sức khoẻ trầm trọng. Một cuộc khảo sát tại Úc năm 2008 cho thấy có 28,9% trẻ em từ 0 - 15 tuổi bị thừa cân, béo phì [40]. Nghiên cứu của Waters và cộng sự được tiến hành trên 2685 trẻ từ 4 - 13 tuổi của 23 trường tiểu học tại thành phố Melbourne (Úc) cũng cho thấy tỷ lệ thừa cân, béo phì là 31% [51]. Theo thống kê mới nhất của “Hiệp hội quốc tế nghiên cứu béo phì” năm 2011 thì Hy Lạp là quốc gia có tỷ lệ trẻ em thừa cân, béo phì cao nhất là
  15. 15 37% ở trẻ gái và 45% ở trẻ trai, Hoa Kỳ đứng thứ 2 với 35,9% trẻ gái, 35% trẻ trai thừa cân, béo phì, tại một số quốc gia khác như Mexico, New Zealand, Chile, Anh, Canada, Hungary tỷ lệ thừa cân, béo phì ở trẻ em đều trên 25% [46]. Vấn nạn béo phì không chỉ của riêng các nước phát triển mà đang có xu hướng tăng cao ở cả các nước đang phát triển, tỷ lệ trẻ thừa cân, béo phì ở Châu Phi tăng từ 4% trong năm 1990 lên đến 8,5% trong năm 2010, còn tại tại các nước Châu Á mức tăng tương ứng là từ 3,2% đến 4,9% [50]. Nghiên cứu của Amin và cộng sự tại một số trường tiểu học ở Al Hassa, Ả Rập cho thấy tỷ lệ thừa cân, béo phì của học sinh là 14,2%, còn tại Malaysia tỷ lệ thừa cân, béo phì trong độ tuổi 9 đến 12 là 17,9% [39],[49]. Con số này cho thấy tỷ lệ thừa cân, béo phì tại các nước đang phát triển đang dần áp sát các nước phát triển và sẽ trở thành vấn nghiêm trọng nếu không được can thiệp kịp thời. 1.2.2. Tình hình thừa cân, béo phì ở trẻ em Việt Nam Việt Nam đang phải đối đầu với gánh nặng kép về dinh dưỡng, khi tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng đang có xu hướng giảm nhưng vẫn còn cao thì tỷ lệ trẻ thừa cân, béo phì lại đang gia tăng. Trong vài năm trở lại đây, vấn đề thừa cân, béo phì đang được quan tâm và đã có nhiều nghiên cứu ở đối tượng học sinh tiểu học. Nghiên cứu của Nguyễn Minh Tuấn ở học sinh tiểu học Thành phố Thái Nguyên năm 2002, tỷ lệ học sinh thừa cân, béo phì là 7,3% [35]. Theo Hoàng Thị Minh Thu nghiên cứu tình trạng thừa cân, béo phì của 1053 trẻ 6 - 11 tuổi tại quận Cầu Giấy - Hà Nội năm 2003 nhận thấy tỉ lệ thừa cân, béo phì tại đây là 6,8% [34]. Nhưng đến năm 2009, theo nghiên cứu của Trịnh Thị Thanh Thủy, tỷ lệ thừa cân, béo phì của học sinh tiểu học tại Hà Nội đã là 12,9% [37]. Tại Cao Bằng, theo nghiên cứu của Mã Hồng Lam, tỷ lệ béo phì của trẻ 6 - 14 tuổi năm 2009 là 1,08% [26]. Theo Ngô Văn Quang và cộng sự nghiên cứu tình trạng thừa cân và các yếu tố liên quan ở học sinh tiểu học thành phố Đà Nẵng năm 2010 có 4,9% trẻ được xác định là thừa cân và 8,7%
  16. 16 là có nguy cơ thừa cân [31]. Nghiên cứu của Đặng Oanh và cộng sự về tình trạng thừa cân, béo phì của trên 1800 học sinh tiểu học tại 4 thành phố thuộc khu vực Tây Nguyên năm 2010 cho thấy tỷ lệ thừa cân, béo phì là 6,1% (trong đó tỷ lệ thừa cân, béo phì của học sinh tiểu học tại Buôn Ma Thuột là 9,4%, PleiKu là 7,8%, thị xã Gia Nghĩa và thành phố Kon Tum là 3,6%) [29]. Kết quả nghiên cứu năm 2009 tại trường tiểu học Kim Đồng, tỉnh Tây Ninh của tác giả Vương Thuận An và cộng sự cho thấy tỷ lệ thừa cân là 20,3%, béo phì là 13,7% [2]. Theo Bùi Đức Văn, Hoàng Khánh tiến hành nghiên cứu tình trạng thừa cân, béo phì của học sinh tiểu học huyện Cái Nước tỉnh Cà Mau năm 2009 cho thấy tỷ lệ thừa cân, béo phì là 7,26% [38]. Đỗ Thị Ngọc Diệp nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2011 cho thấy tỷ lệ thừa cân, béo phì ở học sinh là 38,1%, còn theo báo cáo giám sát dinh dưỡng học đường của Sở giáo dục - đào tạo thành phố Hồ Chí Minh thì hiện nay có khoảng 30 - 40% học sinh ở các trường tiểu học tại thành phố thừa cân, béo phì [12][28], đặc biệt tỷ lệ béo phì ở học sinh 9 - 11 tuổi tại trường Kết Đoàn, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh năm 2008 đã là 41,1 % [13]. Theo kết quả tổng điều tra dinh dưỡng toàn quốc năm 2010, tỷ lệ thừa cân, béo phì ở trẻ dưới 5 tuổi ở nước ta là 5,6% (ở thành phố 6,5% và ở nông thôn 4,2%). Tỷ lệ này đang có xu hướng gia tăng. So với năm 2000, tỷ lệ thừa cân, béo phì ở trẻ dưới 5 tuổi hiện cao hơn 6 lần [10]. Chiến lược Quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn năm 2030 khẳng định nhiệm vụ cải thiện dinh dưỡng là trách nhiệm của các ngành, các cấp và mọi người dân. Cần phấn đấu bảo đảm dinh dưỡng cân đối, hợp lý là yếu tố quan trọng nhằm hướng tới phát triển toàn diện về tầm vóc, thể chất, trí tuệ của người Việt Nam và nâng cao chất lượng cuộc sống. Nội dung cụ thể của Chiến lược bao gồm 6 mục tiêu cụ thể trong đó mục tiêu thứ tư là từng bước kiểm soát có hiệu quả tình trạng thừa cân - béo phì [11].
  17. 17 1.3. Ảnh hƣởng của chế độ dinh dƣỡng đối với thừa cân, béo phì ở trẻ em 1.3.1. Các vấn đề dinh dưỡng trong thời kỳ chuyển tiếp Theo các chuyên gia nghiên cứu dinh dưỡng thì chuyển tiếp dinh dưỡng là những thay đổi chính về toàn cảnh dinh dưỡng của quần thể trực tiếp liên quan tới thay đổi khẩu phần ăn và mô hình tiêu thụ các chất dinh dưỡng trong bối cảnh tác động tương hỗ của những thay đổi điều kiện kinh tế, nhân khẩu học, môi trường và yếu tố văn hóa [44]. Thời kỳ chuyển tiếp về dinh dưỡng của mỗi nước diễn ra nhanh hay chậm tuỳ thuộc vào hoàn cảnh từng nước. * Những đặc điểm chính của dinh dưỡng trong thời kỳ chuyển tiếp Nhiều nước đang phát triển, sự thay đổi chế độ ăn và hoạt động thể lực xảy ra đồng thời. Những thay đổi chế độ ăn bao gồm tăng tiêu thụ chất béo và các thức ăn động vật làm cho đậm độ năng lượng trong khẩu phần tăng nhưng đậm độ các chất dinh dưỡng trong đó lại không tăng một cách cân đối. Công nghệ chế biến và nấu nướng làm tăng đậm độ năng lượng của thực phẩm nhờ cho thêm chất béo và đường là các thực phẩm có giá trị khi cần thiết nhưng lại không có lợi khi dư thừa nhất là với các lối sống tĩnh tại, nhàn rỗi [25]. * Những xu hướng hiện nay về tiêu thụ chất béo trong khẩu phần Tăng số lượng và chất lượng của chất béo trong khẩu phần là một đặc điểm quan trọng của sự chuyển tiếp dinh dưỡng được phản ánh trong các chế độ ăn ở các nước đang phát triển. Có sự khác nhau lớn giữa các khu vực trên thế giới về số lượng sử dụng chất béo toàn phần. Lượng tiêu thụ thấp nhất được ghi nhận ở châu Phi, trong khi mức tiêu thụ cao nhất lại thuộc vùng Bắc Mỹ và châu Âu. Sự cung cấp chất béo toàn phần trung bình đã tăng 20 g/ đầu người/ ngày so với giai đoạn 1967 - 1969, rõ rệt nhất ở các nước châu Mỹ, Đông Á và cộng đồng châu Âu [45]. Các bằng chứng ở châu Á và châu Mĩ Latin còn cho thấy sự thay đổi cấu trúc khẩu phần ăn và hoạt động thể lực bao gồm chế độ ăn giàu năng
  18. 18 lượng và ít hoạt động thể lực đặc biệt là người nghèo. Ở Trung quốc, khi thu nhập tăng lên người nghèo không tăng tiêu thụ tất cả mọi thực phẩm nhiều hơn người giàu mà lại tăng sử dụng các thực phẩm giàu béo. Ví dụ như thịt lợn, dầu ăn và trứng, tốc độ tăng sử dụng chất béo nhanh hơn tăng thu nhập [48]. * Những xu hướng hiện nay về tiêu thụ các sản phẩm động vật Hiện nay trên thế giới, sản xuất thịt hàng năm ước tính tăng từ 218 triệu tấn vào năm 1997 - 1999 lên 736 triệu tấn vào năm 2030. Có mối quan hệ thuận chiều chặt chẽ giữa mức thu nhập với mức tiêu thụ thịt, sữa, trứng. Do sự tụt giá gần đây, các nước đang phát triển tiêu thụ lượng thịt nhiều hơn so với mức tổng thu nhập quốc nội và thấp hơn nhiều so với các nước công nghiệp hóa vào thời điểm 20 - 30 năm trước [48]. 1.3.2. Thời kỳ chuyển tiếp về dinh dưỡng ở Việt Nam Công cuộc đổi mới ở nước ta đã được những thành tựu bước đầu rất quan trọng, nền kinh tế đang tăng trưởng một cách liên tục. Qua nhiều năm phấn đấu, nước ta đã tự túc được lương thực và có gạo để xuất khẩu. Hiện tại đã xuất hiện những biểu hiện của thời kỳ chuyển tiếp về dân số học, dịch tễ học và cả về dinh dưỡng học. Hiện tượng gia tốc trong tăng trưởng của con người Việt Nam đã được nhìn nhận. Sự chuyển tiếp về dinh dưỡng ở Việt Nam thể hiện ở khẩu phần thực tế trung bình đang có sự thay đổi. Từ một khẩu phần nghèo chủ yếu là lương thực, một ít cá và rau chuyển sang một khẩu phần cân đối hơn, lượng thức ăn động vật (thịt, trứng, sữa), dầu mỡ, quả chín tăng lên rõ rệt. Thịt tăng hơn 2 lần, trứng tăng 3 lần, lượng quả chín tăng hơn 10 lần, dầu mỡ tăng hơn 2 lần. Đáng chú ý là lượng rau trung bình đã giảm đi, chỉ có một số thực phẩm thay đổi không đáng kể như cá, các loại đậu hạt, hạt có dầu và nước chấm. Mức năng lượng bình quân đầu người hầu như không thay đổi, sự biến đổi về chất lượng protid rất đáng chú ý: tỷ lệ protid động vật chiếm 33,5% protid tổng số so với trước đây chỉ có 26,7%. Tỷ lệ
  19. 19 năng lượng do chất béo tăng lên rõ rệt sau 10 năm từ 8,4% lên 12% làm cho khẩu phần có xu hướng cân đối hơn [8]. 1.3.3. Đặc điểm tăng trưởng và nhu cầu năng lượng, dinh dưỡng hợp lý cho học sinh tiểu học (6 - 11 tuổi) 1.3.3.1. Đặc điểm tăng trưởng của học sinh tiểu học Trẻ em là một cơ thể đang lớn và phát triển, vì vậy tăng trưởng là một đặc điểm sinh học ở trẻ em. Tăng trưởng là một khái niệm bao gồm quá trình lớn và phát triển. Có hai loại tăng trưởng: tăng trưởng về thể chất và tăng trưởng về chức năng. Hai quá trình này có liên quan mật thiết với nhau, nhưng thời điểm trưởng thành không giống nhau. Nhóm các chỉ tiêu nhân trắc là một trong ba nhóm đánh giá chỉ tiêu tăng trưởng (chỉ tiêu nhân trắc, đánh giá tuổi xương và tuổi dậy thì) [5]. Có 5 nhóm yếu tố ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của trẻ em đó là: di truyền, môi trường, nội tiết, bệnh tật và khuynh hướng thời gian. Mô hình tăng trưởng thể chất của trẻ em không phải đứng yên mà thay đổi theo thời gian, những nghiên cứu gần đây ở các tỉnh phía bắc đều cho thấy ở mọi lứa tuổi đều có sự gia tăng về chiều cao đặc biệt ở khu vực thành phố. Trong giai đoạn từ 1985 đến nay, khuynh hướng tăng trưởng thế tục dương tính về chiều cao và cân nặng ở trẻ em bao gồm cả trẻ sơ sinh và trẻ 1 đến 15 tuổi, phản ánh tình trạng kinh tế xã hội và dinh dưỡng của Việt Nam được cải thiện rõ rệt sau 20 năm đổi mới. Khuynh hướng thế tục này xuất hiện ở mọi lứa tuổi của trẻ em đặc biệt ở tuổi vị thành niên (10 - 15 tuổi) có gia tốc tăng trưởng cả về chiều cao và cân nặng cao hơn các lứa tuổi nhỏ. Kết quả nghiên cứu cả chiều dọc và nghiên cứu cắt ngang cho thấy trẻ em Hà nội trong các thời điểm nghiên cứu đều có chiều cao và cân nặng cao hơn so với số liệu toàn quốc và tốc độ tăng trưởng thế tục cũng nhanh hơn (tăng khoảng 1,5 đến 2 cm/1 thập kỷ) [22].
  20. 20 1.3.3.2. Nhu cầu năng lượng, dinh dưỡng hợp lý cho học sinh tiểu học * Nhu cầu năng lượng cho cơ thể Một gam chất bột đường, chất đạm cung cấp cho cơ thể 4 kcalo; 1 gam chất béo cung cấp 9 kcalo. Năng lượng tiêu hao hàng ngày của con người bao gồm năng lượng của chuyển hóa cơ bản và năng lượng để tạo ra các động lực đặc hiệu trong lao động. Năng lượng của chuyển hoá cơ bản là năng lượng cần thiết để duy trì sự sống, được đo trong điều kiện nhịn đói, hoàn toàn nghỉ ngơi với nhiệt độ và môi trường thích hợp. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới quá trình chuyển hoá cơ bản như tuổi, giới tính, khí hậu, bệnh tật, tác động của các hormon, của những động lực đặc hiệu, sự tiêu hao năng lượng cho các động tác lao động… Yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến tiêu hao năng lượng hàng ngày là lao động chân tay [9]. Đối với trẻ em, năng lượng khuyến nghị được tính theo cân nặng của WHO 2006. Bảng 2.1. Nhu cầu năng lượng cho trẻ em dưới 10 tuổi Nhóm tuổi Nhu cầu năng lượng (Kcal) 4 - 6 tuổi 1470 Trẻ nhỏ (tuổi) 7 - 9 tuổi 1825 Bảng 2.2. Nhu cầu năng lượng cho lứa tuổi vị thành niên (10 - 18 tuổi) Giới tính Nhóm tuổi Nhu cầu năng lượng (Kcal) Nam 10 - 12 2110 Nữ 10 - 12 2010
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2