intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Y tế công cộng: Thực trạng tai nạn thương tích của người đến khám và cấp cứu tại bệnh viện huyện Lệ Thủy, Quảng Bình năm 2019 và một số yếu tố liên quan

Chia sẻ: Huyen Nguyen My | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:61

59
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn mô tả thực trạng tai nạn thương tích của người đến khám và cấp cứu tại Bệnh viện huyện Lệ Thủy, Quảng Bình năm 2019; phân tích một số yếu tố liên quan đến tai nạn giao thông của đối tượng nghiên cứu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Y tế công cộng: Thực trạng tai nạn thương tích của người đến khám và cấp cứu tại bệnh viện huyện Lệ Thủy, Quảng Bình năm 2019 và một số yếu tố liên quan

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG NGUYỄN HỮU THẢO THỰC TRẠNG TAI NẠN THƯƠNG TÍCH CỦA NGƯỜI ĐẾN KHÁM VÀ CẤP CỨU TẠI BỆNH VIỆN HUYỆN LỆ THỦY, QUẢNG BÌNH NĂM 2019 VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN LUẬN VĂN THẠC SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG Hà Nội – 2019
  2. KHOA KHOA HỌC SỨC KHỎE BỘ MÔN Y TẾ CÔNG CỘNG NGUYỄN HỮU THẢO THỰC TRẠNG TAI NẠN THƯƠNG TÍCH CỦA NGƯỜI ĐẾN KHÁM VÀ CẤP CỨU TẠI BỆNH VIỆN HUYỆN LỆ THỦY, QUẢNG BÌNH NĂM 2019 VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Chuyên ngành : Y TẾ CÔNG CỘNG Mã số : 8 72 07 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TIẾN SĨ TRỊNH HÙNG CƯỜNG Hà Nội - 2019 Thang Long University Library
  3. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Tai nạn thương tích là một vấn đề bức xúc đối với sức khoẻ cộng đồng và sự phát triển của đất nước mà hiện nay đang được xã hội quan tâm, là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong và để lại nhiều di chứng nặng nề cho con người; làm ảnh hưởng đến kinh tế gia đình, sức khỏe, khả năng lao động và chất lượng cuộc sống của họ [1],[13]. Mỗi năm trên thế giới có hơn 5 triệu người tử vong và 10 triệu người tàn tật do tai nạn thương tích gây ra. Thương tích là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong và bệnh tật ở độ tuổi lao động từ 15-44 [14]. Ở nhiều nước, số người bị tai nạn thương tích phải nhập viện chiếm 10 - 30% so với tổng số bệnh nhân, thiệt hại ước tính hàng ngàn tỷ đồng. Dự báo đến năm 2020, số người bị tai nạn thương tích mỗi năm sẽ tăng thêm 20%. Tai nạn giao thông luôn chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng số các trường hợp tai nạn thương tích [15]. Ở nước ta hiện nay, cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cơ cấu bệnh tật đã có nhiều thay đổi, tình hình tai nạn thương tích đang diễn biến phức tạp. Theo thống kê của ngành Y tế, trung bình hàng năm ở Việt Nam có khoảng 900.000 trường hợp mắc tai nạn thương tích, trên 34.000 người tử vong, chiếm 11-12% tổng số tử vong toàn quốc. Đứng đầu là tử vong do tai nạn giao thông chiếm 44,8%; trung bình trên 15.000 người tử vong/năm. Đứng thứ hai là đuối nước với trung bình 6.000 người tử vong/năm, trong đó trẻ em và vị thành niên dưới 19 tuổi chiếm trên 50%. Đuối nước cũng là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do tai nạn thương tích ở trẻ em [8],[14]. Theo báo cáo phòng chống tai nạn thương tích tại cộng đồng của ngành y tế năm 2011 tại 55 tỉnh/thành phố có 1.247.209 trường hợp mắc tai nạn thương tích với tỉ suất là 1.645/100.000 người, tăng 0,16% so với năm 2010. Nhóm tuổi 15-19 có tỉ suất mắc tai nạn thương tích cao nhất là 2.402/100.000 người; tỉ lệ thương tích do tai nạn giao thông đứng hàng
  4. 2 đầu trong các nguyên nhân gây tai nạn thương tích chiếm 40,06%, tiếp theo là tai nạn lao động 13,42%, ngã 18,16%, bạo lực 7,92%. Đuối nước là nguyên nhân gây tử vong đứng thứ hai sau tai nạn giao thông, chiếm 10% tổng số tử vong chung [9]. Có thể thấy rằng, tai nạn thương tích là một vấn đề hết sức cấp thiết hiện nay của cộng đồng. Việc dự phòng cũng như xử lý kịp thời tai nạn thương tích có ý nghĩa khá quan trọng trong vấn đề bảo đảm chất lượng cuộc sống của người dân cũng như giảm nhẹ các gánh nặng bệnh tật trong xã hội. Hiện chưa có số liệu chính thức về tình hình tại nạn thương tích ở Quảng Bình và huyện Lệ Thủy. Tuy vậy, với đặc điểm là địa phương có quốc lộ 1A chạy xuyên suốt và hệ thống sông ngòi nhiều, tình hình thiên tai, lũ lụt xảy ra hàng năm thì tình hình tại nạn thương tích chiếm số lượng khá nhiều và chủ yếu là do tai nạn giao thông. Chính vì tính cấp thiết của vấn đề nên chúng tôi chọn đề tài: “Thực trạng tai nạn thương tích của người đến khám và cấp cứu tại Bệnh viện huyện Lệ Thủy, Quảng Bình năm 2019 và một số yếu tố liên quan”. Với các mục tiêu sau: 1. Mô tả thực trạng tai nạn thương tích của người đến khám và cấp cứu tại Bệnh viện huyện Lệ Thủy, Quảng Bình năm 2019. 2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến tai nạn giao thông của đối tượng nghiên cứu Thang Long University Library
  5. 3 Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Một số khái niệm về tai nạn thương tích . - Tai nạn: Tai nạn là bất cứ một sự kiện không chủ ý ngẫu nhiên xảy ra, gây ra hay có khả năng gây ra thương tích [7]. -Vụ tai nạn: Là những vụ việc xảy ra do va chạm, đổ xe, sập nhà, lật thuyền, hầm lò v.v... Một vụ tai nạn có thể dẫn đến hậu quả thiệt hại về vật chất hoặc người. Một vụ tai nạn có thể không có nạn nhân hoặc có thể có nhiều hơn một nạn nhân [6]. - Thương tích: Là những thương tổn thực thể trên cơ thể người do tác động của những năng lượng (bao gồm cơ học, nhiệt, điện, hoá học hoặc phóng xạ) với mức độ, tốc độ khác nhau quá sức chịu đựng của cơ thể người. Ngoài ra chấn thương còn là sự thiếu hụt các yếu tố cần thiết cho sự sống như trong trường hợp đuối nước, bóp nghẹt hoặc đông lạnh [6]. - Tử vong do thương tích: Là những trường hợp tử vong trong vòng một tháng sau khi xảy ra tai nạn [6]. - Tai nạn thương tích gây tổn hại sức khoẻ người bị tai nạn và làm người này phải nghỉ việc hoặc nghỉ học, cần chăm sóc y tế, làm hạn chế sinh hoạt bình thường ít nhất 1 ngày hoặc làm chết người. Trước kia, mọi người coi tai nạn thương tích (TNTT) là số mệnh, hậu quả là cả một quá trình dài mọi người đã không chú ý quan tâm đến vấn đề sức khoẻ này trong cộng đồng. Vài thập kỷ gần đây quan niệm đó đã thay đổi hoàn toàn, các nhà khoa học đã nhận ra rằng phần lớn các TNTT đều có thể phòng tránh được. Từ đó họ xây dựng nhiều phương pháp nghiên cứu TNTT nhằm mục đính giúp cho công tác phòng tránh một cách có hiệu quả. Từ quan niệm mới này, các nhà khoa học đề nghị các quốc gia trên thế giới tổ chức nghiên cứu TNTT một cách có hệ thống, đề
  6. 4 ra nhiều biện pháp nhằm phòng tránh hoặc giảm bớt các hậu quả xấu do TNTT gây ra đối với cá nhân, gia đình và xã hội. 1.2. Phân loại tại nạn thương tích * Phân loại theo tình trạng bệnh nhân. - Tử vong do TNTT: TNTT làm cho người bị nạn tử vong vì thương tích trong vòng 1 tháng kể từ ngày bị nạn. - TNTT rất nặng: người bị tai nạn có di chứng hoặc mất chức năng một cơ quan hay một phần cơ thể. - TNTT nặng: sau TNTT, nạn nhân phải nằm viện hoặc dùng thuốc điều trị liên tục từ 10 ngày trở lên. - TNTT khá nặng: sau TNTT, nạn nhân nằm viện từ 2 – 9 ngày. - TNTT nhẹ: nghỉ làm việc, nghỉ học hoặc không sinh hoạt bình thường ít nhất 1 ngày do TNTT. * Phân loại theo nguyên nhân gây tai nạn thương tích [6] Có rất nhiều nguyên nhân gây TNTT và tử vong được ghi nhận bao gồm: - Tai nạn giao thông. - Ngã. - Súc vật cắn, đốt, húc. - Bỏng. - Tai nạn lao động. - Ngộ độc. - Tự tử. - Bạo lực trong gia đình, xã hội. - Đuối nước/ngạt. - Khác: Là ngoài các trường hợp trên như: dị vật, chất nổ v.v... Thang Long University Library
  7. 5 Các nguyên nhân này được phân tích chi tiết hơn ở phần dưới 1.3 * Phân loại theo kết quả của hành động cố ý hoặc không cố ý gây ra, chia thành hai nhóm [38] - Tai nạn thương tích không có chủ định thường xảy ra do sự vô ý hay không có sự chủ ý của những người bị tai nạn thương tích hoặc của những người khác. Các trường hợp thường gặp là tai nạn thương tích do giao thông như tai nạn ô tô, xe đạp, xe máy, người đi bộ, tàu hỏa, tàu thủy, máy bay; do bị ngã, lửa cháy, nghẹt thở, chết đuối, ngộ độc... - Tai nạn thương tích có chủ định: Loại hình tai nạn thương tích này gây nên do sự chủ ý của người bị tai nạn thương tích hay của cá nhân những người khác. Các trường hợp thường gặp là tự tử, giết người, bạo lực thành nhóm như chiến tranh, đánh nhau, hiếp dâm, hành hạ trẻ em, hành hạ người già, bạo lực trong trường học... 1.3. Nguyên nhân gây tại nạn thương tích Có nhiều nguyên nhân gây nên TNTT như: TNGT, ngã té, vật nặng rơi, vật sắc nhọn đâm, súc vật tấn công, côn trùng cắn đốt, ngộ độc, bỏng, ngạt nước, điện giật, thiên tai, tai nạn lao động, sốc thuốc trong điều trị, tiêm chích ma túy quá liều, cố ý gây thương tích, tự tử… và hậu quả có thể gây nên chết người, hoặc gây tàn phế một phần hay toàn bộ cơ thể. 1.3.1. Tai nạn giao thông Là sự va chạm bất ngờ nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người, xảy ra khi các đối tượng tham gia giao thông đang hoạt động trên đường giao thông công cộng, đường chuyên dụng hoặc ở địa bàn giao thông công cộng nhưng do chủ quan vi phạm luật lệ giao thông hoặc do gặp phải các tình huống sự cố đột xuất không kịp phanh tránh, gây ra thiệt hại về tính mạng hoặc sức khỏe [6]. 1.3.2. Đuối nước/ngạt Đuối nước/ngạt là bị ngạt do chìm trong chất lỏng nhưng không tử vong, cần đến chăm sóc y tế hoặc bị các biến chứng khác. Chết đuối là trường hợp tử vong trong 24 giờ do bị chìm trong chất lỏng (như: nước, xăng, dầu…) [6].
  8. 6 1.3.3. Tai nạn lao động TNLĐ là tai nạn xảy ra do tác động của các yếu tố nguy hiểm độc hại trong quá trình lao động, gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể người lao động hoặc gây tử vong trong quá trình lao động gắn liền với thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động (đang làm việc, chuẩn bị hoặc thu dọn sau khi làm việc). Nơi lao động bao gồm các nhà máy, công trường, xí nghiệp, cơ quan khu công nghiệp…và kể cả lao động cá nhân hộ gia đình [6]. Trên thế giới, ở những nước có nền công nghiệp phát triển, hệ thống vệ sinh an toàn lao động, phòng chống cháy nổ thường được hiện đại hóa nhưng vẫn có những thảm họa xảy ra và cướp đi nhiều sinh mạng của người lao động. Tại Việt Nam, tỷ lệ mắc và tử vong do TNLĐ được Bộ Lao động - Thương binh Xã hội (LĐTB - XH) báo cáo ở mức độ giới hạn, không đầy đủ vì các doanh nghiệp lớn và các lĩnh vực có nguy cơ (khai thác mỏ, ngành điện...) sẽ phải đối mặt với những hậu quả nghiêm trọng nếu bị phát hiện là có liên quan trách nhiệm trong việc gây ra TNLĐ. 1.3.4. Tai nạn thương tích do ngã Theo Tổ chức y tế thế giới ngã được định nghĩa là “một sự kiện khiến một người phải dừng lại một cách đột ngột ở trên mặt đất hoặc sàn nhà hoặc một mặt bằng thấp hơn”. Định nghĩa nầy loại trừ ngã do tấn công và cố ý tự làm hại bản thân, ngã từ động vật, từ các tòa nhà đang cháy, các phương tiện, ngã xuống nước và ngã vào máy móc. Ngã là một phần bình thường trong cuộc đời của trẻ khi trẻ đi học, học chạy hay khám phá thế giới chung quanh. Tuy nhiên, thương tích do ngã có thể là một vết cắt nhỏ hoặc bị bầm tím đến gãy xương, tàn tật suốt đời hoặc thậm chí là tử vong [3]. 1.3.5. Bỏng Là tổn thương một hoặc nhiều lớp tế bào da khi tiếp xúc chất lỏng nóng, chất rắn nóng, lửa. Các tổn thương da do sự phát xạ tia cực tím hoặc phóng xạ, điện, hoá chất…[6]. Thang Long University Library
  9. 7 + Bỏng nhiệt ướt: bỏng do nước sôi, bỏng dầu mỡ trong quá trình chế biến thức ăn… Đây là nguyên nhân chủ yếu. + Bỏng nhiệt khô: bàn là, lửa, hơi nóng của lò nung… + Bỏng hoá chất: bỏng axít, kiềm… hay gặp trên các tàu chở dầu, chở hóa chất. + Bỏng sét đánh/điện giật: Do tiếp xúc với nguồn điện hoặc do sét đánh thường rất nặng gây chết người do cháy hoặc ngừng thở ngừng tim. 1.3.6. Ngộ độc Là những trường hợp hít, ăn hoặc tiêm vào cơ thể các loại độc tố dẫn đến tử vong hoặc ngộ độc cấp cần có sự chăm sóc y tế [6]. Ngộ độc có thể định nghĩa là một tổn thương ở cơ quan nội tạng hay rối loạn chức năng sinh học của cơ thể do phơi nhiễm với hóa chất môi trường. Ngộ độc cấp tính là do tiếp xúc với các chất độc liều cao trong một lần và trong một khoảng thời gian ngắn với những triệu chứng xuất hiện rất nhanh ngay sau khi phơi nhiễm. Các trường hợp ngộ độc cấp tính gồm nguyên nhân do thức ăn nhiễm bẩn, các loại thuốc chữa bệnh và một loạt các chất hóa học như thuốc trừ sâu, dầu mỏ và các hóa chất lau nhà. Thời gian giữa phơi nhiễm với chất độc và sự xuất hiện các triệu chứng lâm sàng là rất quan trọng vì đây là giai đoạn có thể giảm thiểu sự hấp thu bằng cách trung hòa chất độc hoặc sử dụng các tác nhân đề phòng tác hại cho cơ quan. 1.3.7. Súc vật cắn, đốt, húc: Là trường hợp bị các loại động vật tấn công con người như: chó, mèo, rắn, trâu, bò... [6]. Đây là nguyên nhân gây tai nạn thương tích không tử vong phổ biến thứ hai sau ngã, nó thường xảy ra khi trẻ bị chó, mèo, rắn cắn và ong đốt. 80% các trường hợp súc vật cắn phải nhập viện và khoảng 4% dẫn đến những tàn tật vĩnh viễn. 1.3.8. Tự tử: Là trường hợp chấn thương, ngộ độc, hoặc ngạt…do chính nạn nhân tự gây ra với mục đích đem lại cái chết cho chính họ [6]. Tự tử là trường hợp có thể gây nên tai nạn thương tích như ngộ độc hoặc ngạt thở mà có đủ bằng chứng
  10. 8 xác định tử vong do chính nạn nhân tự gây ra với mục đích đem lại cái chết cho chính bản thân họ. Có ý định tự tử là hành vi do tự làm thương tổn bản thân nhưng chưa gây tử vong mà có đủ bằng chứng nạn nhân định đem lại cái chết cho bản thân. Một dự định tự tử có thể dẫn đến thương tích hay không dẫn đến thương tích 1.3.9. Bạo lực trong gia đình, xã hội: Là hành động sử dụng vũ lực hăm doạ hoặc đánh đập người, nhóm người, cộng đồng khác dẫn đến chấn thương, tử vong, tổn thương tinh thần, chậm phát triển [6]. 1.3.10. Những nguyên nhân khác Ngoài các nguyên nhân trên, còn có một số nguyên nhân khác gây nên TNTT và để lại những hậu quả cũng nghiêm trọng như: sét đánh, sặc bột, hóc xuơng, chất nổ...[6]. 1.4. Xử trí sơ, cấp cứu và phòng ngừa tai nạn thương tích [21]. 1.4.1 Biện pháp xử trí sơ, cấp cứu tai nạn thương tích trước viện. Việc xử trí cấp cứu, điều trị các loại TNTT khác nhau tuỳ thuộc vào: - Nguyên nhân gây ra TNTT. - Mức độ các thương tổn do TNTT gây. - Thời gian bị TNTT đến khi được xử trí sơ cứu, cấp cứu. - Điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị kĩ thuật, trình độ chuyên môn của CBYT. và bao gồm các biện pháp sau: - Quan sát hiện trường để đánh giá tình hình và đưa ra hành động tiếp theo. - Đánh giá tình trạng của nạn nhân ban đầu theo thứ tự: • Đánh giá sự đáp ứng của nạn nhân • Kiểm tra mạch, sự thở và làm thông đường thở của nạn nhân • Kiểm tra toàn thân phát hiện các dấu hiệu bất thường, v.v... - Gọi sự trợ giúp tuỳ theo tình trạng nạn nhân. Thang Long University Library
  11. 9 Nhìn chung, việc xử trí sơ cấp cứu sớm, đúng phương pháp sẽ giảm thiểu được tỉ lệ tử vong và hạn chế các di chứng do tai nạn thương tích gây ra. Việc sơ cứu cần phải thực hiện một cách phù hợp, chính xác, kịp thời và đúng kỹ thuật như hồi sức tim phổi, cố định xương gãy, băng bó vết thương và vận chuyển nạn nhân an toàn. 1.4.2 Biện pháp phòng ngừa tai nạn thương tích thường gặp [21] - An toàn trong sinh hoạt hàng ngày. - An toàn khi tham gia giao thông. - An toàn trong lao động. 1.5. Tình hình tai nạn thương tích trên thế giới và ở Việt Nam. 1.5.1. Trên thế giới. Theo tổ chức Y tế thế giới tai nạn thương tích là nguyên nhân hàng đầu của gánh nặng thương tật và thương vong, đây là vấn đề nghiêm trọng của sức khỏe cộng đồng trên thế giới. Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), mỗi năm trên thế giới có hơn 5 triệu người tử vong và 10 triệu người tàn tật do tai nạn thương tích gây ra [15]. Thương tích là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong và bệnh tật ở độ tuổi lao động từ 15-44. Ở nhiều nước, số người bị TNTT phải nhập viện chiếm 10-30% so với tổng số bệnh nhân, thiệt hại ước tính hàng ngàn tỷ USD, chiếm 5-6% tổng thu nhập quốc dân [21]. Ở các quốc gia thuộc Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), mỗi năm có khoảng 20.000 trẻ chết do chấn thương như tai nạn giao thông, đuối nước, ngã, bỏng và TNTT có chủ định gây ra. Cứ 100.000 trẻ em sinh ra ở các nước thuộc OECD thì có khoảng 200 trẻ chết trước 15 tuổi do TNTT. Nguyên nhân tử vong do TNTT ở các nước thuộc OECD như sau: Súng 1%, ngộ độc 2%, ngã 4%, bỏng 7%, TNTT cố ý 14%, đuối nước 15%, tai nạn giao thông 41%, các loại khác 16% [47]. Đông Nam Á là một khu vực đông dân cư và có tốc độ phát triển kinh tế cao nhất trên thế giới hiện nay. Tất cả các nước trong khu vực hiện đang phải đối mặt với những vấn đề TNTT trầm trọng, tỷ suất thương tích phải nhập viện, tử vong và tàn tật khá cao. Tại khu vực này hàng năm có khoảng 1,5 triệu trường hợp tử vong do TNTT, trong đó
  12. 10 75% là các TNTT không chủ định. Cơ cấu TNTT cũng rất khác nhau giữa các quốc gia, trong đó nổi bật là TNGT chiếm tới 36% tổng số TNTT, tiếp theo là đuối nước và bỏng. Đối với TNTT có chủ định, tự tử là nguyên nhân hàng đầu. TNTT đóng góp 16% tổng gánh nặng bệnh tật toàn cầu và là nguyên nhân hàng đầu gây nên TT và tàn tật cho quần thể dân cư trong khu vực. Theo ước tính, cứ mỗi một trường hợp tử vong do TNTT sẽ có từ 30 – 50 trường hợp phải nhập viện và 50 – 100 trường hợp khác phải đến khám và sơ cấp cứu tại các cơ sở y tế [6]. Nhìn chung các nguyên nhân gây nên TNTT ở các nước đang phát triển xếp theo thứ tự giảm dần là TNTT do các phương tiện giao thông có động cơ mà chủ yếu là do ô tô, theo sau đó là các nguyên nhân ngã, cháy và bỏng, chết đuối, tự tử, giết người. Ở Mỹ tỷ lệ tử vong cao nhất liên quan tới đâm ô tô, cháy, giết người. Trung Quốc thì liên quan đến chết đuối, ngộ độc, ngã và tự sát [32]. Tuy mỗi khu vực có mô hình TNTT đặc thù nhưng các nguyên nhân gây TNTT hàng đầu mà hầu hết các quốc gia đều phải đối mặt là TNGT, đuối nước, bỏng, ngã, ngộ độc và TT do vật sắc nhọn. Vấn đề TT có chủ định như bạo lực hay tự tử cũng cần được xem xét đặc biệt tại các quốc gia có tình hình kinh tế chính trị đang phát triển và không ổn định [20]. 1.5.2. Tình hình tai nạn thương tích tại Việt Nam. Cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cơ cấu bệnh tật tại Việt Nam đã có nhiều thay đổi, bệnh mạn tính và TNTT ngày càng tăng trong khi các bệnh truyền nhiễm có xu hướng giảm dần. Tại Việt Nam theo xu hướng chung của thế giới, TNTT cũng đang nổi lên như một vấn đề sức khỏe đáng quan tâm của toàn xã hội. Là một nước có tỉ lệ dân số ở tuổi trẻ cao, đang trên đà cơ giới hóa cao trong khi cơ sở hạ tầng cũng như các biện pháp phòng ngừa TNTT chưa được quan tâm đúng mức và hữu hiệu, vì vậy trong 15 năm trở lại đây, TNTT đang gia tăng và là một trong những nguyên nhân hàng chính gây tử vong tại các bệnh viện và cũng là một trong những nguyên nhân chính gây tử vong, đặc biệt tập trung ở lứa tuổi trẻ và lứa tuổi lao động. Năm 2000, kết quả điều tra TNTT trong cộng đồng cho thấy tỷ lệ TNTT chung là 5.414,3/100.000 dân và tử vong chung do TNTT là 92,7/100.000 dân [3]. Thang Long University Library
  13. 11 Theo báo cáo công tác phòng chống TNTT tại cộng đồng của ngành y tế năm 2011, tại 55 tỉnh/thành phố có 1.247.209 trường hợp mắc TNTT với tỉ suất là 1.645/105.000 người, tăng 0,16% so với năm 2010. Nhóm tuổi 15-19 có tỉ suất mắc TNTT cao nhất là 2.402/105.000 người; tiếp theo là nhóm 20 – 60 tuổi với tỉ suất 1.840/105.000 người; thấp nhất là nhóm tuổi 0 – 4 với tỉ suất 949/105.000 người. Tổn thương chi có tỉ lệ mắc cao nhất 33,52%. Địa điểm tai nạn: Tỉ lệ mắc TNTT trên đường đi chiếm tỉ lệ cao nhất (44,27%), thứ hai là tại nhà với 23,65%. TNTT tại trường học có tỉ lệ mắc thấp nhất (3,39%). Tỉ lệ thương tích do TNGT đứng hàng đầu trong các nguyên nhân gây TNTT chiếm 40,06%, tiếp theo là tai nạn lao động 13,42%, ngã 18,16%, bạo lực 7,92%. Đuối nước là nguyên nhân gây tử vong đứng thứ hai sau tai nạn giao thông, chiếm 10% tổng số tử vong nói chung [9]. Theo Nguyễn Đức Chính và cs (2011) cho thấy trong 2 năm 2009 – 2010 tại Bệnh viện Việt Đức có 62,229 trường hợp khám cấp cứu tại bệnh viện do TNTT. Trong đó, nam 45,393 trường hợp, chiếm 72,9%, nữ 16,836 trường hợp, chiếm 27,1%. Tuổi từ 20 đến 60 có 44,255 bệnh nhân, chiếm 71,1%. TNGT có 35,753 trường hợp, chiếm 57,5%, trong đó có 12,038 bệnh nhân CTSN, chiếm 33,7%, số CTSN do không mang mũ bảo hiểm chiếm 27,3%. TNGT liên quan xe máy có 14,484 trường hợp, chiếm 40,5%. Tử vong và nặng về có 2,220, trong đó chủ yếu do CTSN có 1,525 trường hợp chiếm tỷ lệ 69% [12]. Theo nghiên cứu của Nguyễn Văn Hải, "Thực trạng TNTT của bệnh nhân điều trị nội trú tại bệnh viện đa khoa thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình trong 2 năm 2008 - 2009", kết quả số liệu cho thấy bệnh nhân bị TNTT vào bệnh viện điều trị nội trú chiếm 15% tổng số bệnh nhân các loại vào điều trị tại bệnh viện, tỷ lệ TNTT ở nam cao gấp 3 lần so với nữ (72,7% so với 27,3%), nhóm tuổi có tỷ lệ TNTT cao nhất từ 15 - 29 tuổi (28,9%), học sinh/sinh viên chiếm tỷ lệ cao nhất là 41,4%, tiếp theo làm tư nhân chiếm 20%, các trường hợp TNTT xảy ra khi đang tham gia giao thông chiếm tỷ lệ cao nhất là 46% [20]. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Trung Khải nghiên cứu thực trạng bệnh nhân TNGT điều trị tại BVĐK huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La năm 2012 - 2013
  14. 12 thì địa điểm xảy ra TNGT đường bộ vào buổi tối, đêm chiếm tỷ lệ cao nhất (41,5%), tiếp đến là buổi chiều (39,1%) và thấp nhất là buổi sáng (19,4%) [24]. Theo nghiên cứu của Phạm Thị Hà Giang, "Khảo sát tình hình TNTT nhập viện tại Bệnh viện Y - Dược Huế năm 2011", kết quả nghiên cứu cho thấy nhóm tuổi bị TNTT chiếm cao nhất từ 20 - 60 tuổi chiếm 66,1%; tiếp theo nhóm tuổi từ 14 - 19 tuổi chiếm 16%, kế tiếp nhóm tuổi trên 60 tuổi chiếm 7,5%, tỷ lệ nam chiếm 67,1%; nữ chiếm 32,9%; tai nạn giao thông chiếm tỷ lệ cao nhất là 44,3%; ngã chiếm 25,5% và do tai nạn lao động chiếm 11,3% [18]. Theo nghiên cứu của tác giả Lê Lương, Trần Văn Nam (2007), "Nghiên cứu tình trạng sơ, cấp cứu và hậu TNTT ở trẻ em đến điều trị tại bệnh viện trẻ em Hải Phòng năm 2006". Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ điều trị khỏi hoàn toàn (97,37%), chuyển tuyến trên (1,19%), để lại di chứng có thể phục hồi và tàn phế (1%), nặng gia đình xin về và tử vong (0,44%) [27]. Theo Đỗ Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Tú (2005), nghiên cứu đặc điểm dịch tể thương tích do tại nạn của bệnh nhân khi vào viện, liên quan đến độ nặng của TNTT năm 2005. Loại TNTT có độ nặng cao nhất là TNGT (gặp 64,2%, bảng điểm TNTT sửa đổi (Revised Tranma Score: RTS) = 10,76 ± 2,06), 80,5% bệnh nhân sau tai nạn có xử trí ở tuyến dưới là: truyền dịch (59,7%); thuốc giảm đau (34%). Thời gian tại nạn vào viện dưới 6h: 64%, có độ nặng vao có NVYT đi kèm là 58,7% [23]. 1.5.3. Tình hình cấp cứu và điều trị tai nạn thương tích ở nước ta. Các vụ TNTT thường xuyên xảy ra trên địa bàn cả nước. Người bị nạn đòi hỏi phải được cứu chữa kịp thời là vấn đề được đặt ra cho ngành y tế nước ta. Hiện nay đang nổi lên tình trạng bệnh nhân bị TNTT ở các nơi đổ về cấp cứu tại một số bệnh viện lớn gây nên tình trạng quá tải. Vì đa số các cơ sở y tế ở các địa phương thiếu trang thiết bị và thiếu cán bộ y bác sĩ có chuyên môn giỏi, nên nhiều trường hợp nạn nhân bị tai nạn không được cấp cứu kịp thời đã tử vong trên đường đến bệnh viện tuyến trên, hoặc bị biến chứng nặng, để lại di chứng lâu dài. Thang Long University Library
  15. 13 1.5.4. Công tác phòng chống TNTT ở nước ta hiện nay. Phòng chống TNTT là một chương trình lớn, mang tính xã hội cần có sự tham gia hoạt động của nhiều ngành, nhiều cấp chính quyền trên nhiều lĩnh vực như: Xây dựng hệ thống thông tin theo dõi, giám sát TNTT; tổ chức cấp cứu, vận chuyển, điều trị và phục hồi chức năng; thông tin giáo dục truyền thông nâng cao ý thức cho cộng đồng; tăng cường sự lãnh đạo của các cấp chính quyền; xây dựng môi trường an toàn; tăng cường hệ thống pháp luật; các hoạt động nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế. Các tỉnh và thành phố hiện nay đã thành lập Ban chỉ đạo phòng chống TNTT. Bộ Y tế đã thành lập văn phòng để theo dõi về các hoạt động nghiên cứu TNTT và phòng chống TNTT. Điều đó cho thấy công tác phòng chống TNTT ở nước ta đã thực sự được coi trọng, đã có nhiều ngành, nhiều cấp tham gia. 1.6. Địa điểm nghiên cứu - Vị trí địa lý: Lệ Thủy là một huyện phía nam của tỉnh Quảng Bình, Việt Nam. Phía nam giáp huyện Vĩnh Linh (thuộc tỉnh Quảng Trị), phía bắc giáp huyện Quảng Ninh (Quảng Bình), phía tây giáp tỉnh Khammouan của Lào, phía đông giáp Biển Đông. Diện tích tự nhiên 1.416,11 km2, có 36.545 hộ với 141.380 nhân khẩu (Năm 2012), mật độ dân số 99,8 người/ km2, có hai dân tộc chính là Kinh và Vân Kiều. Phía tây là dãy Trường Sơn, địa hình dốc theo hướng đông với vùng núi, đồi. Ở giữa là một dải đồng bằng hẹp hai bên bờ sông Kiến Giang. Ven biển là một dải cồn cát trắng. Vùng biển của huyện Lệ Thủy là những bãi cát trắng, nước biển sạch. Hiện đã có bãi tắm tại Ngư Thủy được đưa vào khai thác [4] Huyện Lệ Thủy có đường Quốc lộ 1A; Quốc lộ 15A, đường Hồ Chí Minh nhánh Đông và nhánh Tây, có đường sắt Bắc - Nam đi qua suốt chiều dài của huyện; 02 đường tỉnh lộ 10 và 16 đi ngang nối các Quốc lộ; huyện có 8 tuyến đường nội huyện dài 97Km, 28/28 xã thị trấn có đường ô tô đến trung tâm xã. Địa hình giao thông phức tạp, đường liên xã, liên thôn nhiều vòng cua gấp khúc, cây cối che khuất tầm nhìn. Hệ thống các trường học, chợ nằm dọc đường quốc lộ 1A chiếm số lượng lớn là mối nguy cơ gây tai nạn giao thông cao. Một số bộ
  16. 14 phận dân cư tham gia giao thông và chấp hành Luật an toàn giao thông đường bộ còn thấp nên không chỉ gây TNGT cho bản thân mà còn ảnh hưởng đến nhiều người khác. Lệ Thủy có sông Kiến Giang, Long Đại và nhiều sông, suối nhỏ chạy dọc theo chiều dài của huyện, trung tâm huyện nằm ở vị trí vùng trũng là nơi thường xuyên xảy ra mưa lũ lụt, tạo ra mối nguy cơ cao về nhà cửa bị ngập, đuối nước [4] - Khí hậu: Lệ Thủy nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa vùng Đông Bắc. Một năm có bốn mùa rõ rệt. Mùa Đông lạnh, mùa hè nóng khô hanh, mùa xuân, thu khí hậu ôn hoà. Nhiệt độ giao động theo mùa từ 10 đến 40 0C, độ ẩm dao động lớn từ 73-87%, nên dễ mắc các bệnh nhiệt đới, truyền nhiễm… - Yếu tố con người và nguồn nhân lực (dân số): Tính đến hết năm 2013, huyện Lệ Thủy có 26 xã và 2 thị trấn, trong đó có 3 xã miền núi. Số người trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 60% tổng dân số, trong đó đa số là lao động trẻ, khỏe, là nguồn nhân lực lao động chủ lực lớn của Lệ Thủy cho phát triển kinh tế. Nhưng lực lượng lao động của Lệ Thủy chủ yếu là lao động nông nghiệp, thiếu năng lực chuyên môn trong các lĩnh vực kỹ thuật, kinh tế. Số lao động được đào tạo chiếm một tỷ trọng tương đối thấp trong tổng số lao động. Sản xuất chủ yếu là nông nghiệp, điều kiện kinh tế khó khăn, người nông dân lao động chủ yếu bằng tay chân nên rất dễ phơi nhiễm với các yếu tố nguy cơ TNTT như: TNLĐ, ngộ độc hóa chất bảo vệ thực vật, rắn cắn…[4] - Phát triển kinh tế: Mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện đang trên đà đi lên, song phát triển kinh tế chưa mang tính bền vững, quy mô các ngành còn nhỏ bé, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, chưa rõ nét, năng lực cạnh tranh của các sản phẩm, hàng hoá chưa cao, GDP bình quân đầu người còn rất thấp. Do vậy, Lệ Thủy vẫn được xem là một huyện nghèo trong toàn quốc, tổng thu ngân sách trên địa bàn chưa đủ để chi cho hoạt động của huyện. Những năm qua, huyện Lệ Thủy đã xây dựng và phát triển khu công nghiệp may mặc Cam Liên với gần 1.000 công nhân, các khu tiểu thủ công nghiệp, xử lý phế liệu, ứng dụng nhiều lĩnh vực khoa học kỹ thuật vào sản xuất, phát triển kinh tế, một số nơi đã áp dụng cơ giới hoá, hiện đại hoá vào sản xuất nông Thang Long University Library
  17. 15 nghiệp, chế biến và chăn nuôi. Tuy nhiên, việc thực hiện an toàn lao động chưa thực sự được quan tâm nên vẫn còn xảy ra một số vụ TNLĐ tại các xưởng sản xuất. - Lĩnh vực Y tế: Lệ Thủy cũng như các huyện khác có hệ thống y tế bao gồm mạng lưới cung cấp dịch vụ y tế dự phòng (Trung tâm y tế huyện), cơ sở khám chữa bệnh và phục hồi chức năng (Bệnh viện và các phòng khám tư nhân), các Trạm y tế xã trực thuộc phòng y tế huyện. Tại huyện có 28 trạm y tế xã, thị trấn được hợp đồng khám chữa bệnh bảo hiểm y tế với Bệnh viện đa khoa huyện. Hầu hết các bệnh nhân từ tuyến dưới sẽ được chuyển tới bệnh viện đa khoa huyện để được khám chữa bệnh khi vượt khả năng của tuyến dưới. Như vậy có thể thấy vai trò của Bệnh viện đa khoa huyện chính là tuyến cuối trong hệ thống chuyển tuyến điều trị của bệnh nhân trong huyện. Bệnh viện đa khoa huyện Lệ Thuỷ là bệnh viện hạng II theo Quyết định phê duyệt số 3452/QĐ-UBND ngày 01/12/2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình [40]. Năm 2018 chỉ tiêu kế hoạch giường bệnh Sở y tế giao cho bệnh viện là 416 giường [33]; thực tế kê 436 giường, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cho gần 150 nghìn dân trên địa bàn toàn huyện. Cơ cấu tổ chức của Bệnh viện gồm có: Ban giám đốc bệnh viện, 18 khoa, phòng và 01 Đơn nguyên điều trị nội trú Lệ Ninh. Tổng số cán bộ viên chức lao động của Bệnh viện hiện có 309 người, trong đó Bác sĩ: 68 (Thạc sĩ: 02, Bs CK2: 01, Bs CK1: 14). Ban giám đốc Bệnh viện gồm có 04 đồng chí; 04 phòng chức năng tham mưu giúp việc cho lãnh đạo gồm phòng Hành chính quản trị - Tổ chức cán bộ; phòng Kế hoạch tổng hợp, phòng Điều dưỡng, phòng Tài chính kế toán. 14 khoa bao gồm: Khoa Khám bệnh, khoa CC-HSTC&CĐ, khoa Ngoại, khoa Phụ sản, khoa Nội tổng hợp, khoa Nhi, khoa Truyền nhiểm, Liên chuyên khoa, khoa Y học cổ truyền, khoa Chẩn đoán hình ảnh, khoa Xét nghiệm và khoa Dược, khoa Dinh dưỡng, khoa Kiểm soát nhiểm khuẩn. Có 01 Đơn nguyên điều trị nội trú Lệ Ninh [19].
  18. 16 Ở mỗi địa phương, mỗi vùng sinh thái khác nhau thì thực trạng sức khoẻ và cơ cấu bệnh tật cũng khác nhau. Việc đánh giá mô hình TNTT ở địa phương đến nay vẫn chưa được thực hiện một cách đầy đủ. Nghiên cứu những vấn đề trên sẽ giúp cho việc tìm ra những nguyên nhân, yếu tố hỗ trợ cũng như những khó khăn liên quan đến tỷ lệ TNTT của tỉnh góp phần giúp cải thiện tình hình và nâng cao hiệu quả hoạt động phòng chống TNTT. Thực hiện Quyết định số 2158/QĐ-TTg ngày 11/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ về “Phê duyệt Chương trình phòng, chống tai nạn, thương tích trẻ em giai đoạn 2013 – 2015” [36], tỉnh Quảng Bình đã ban hành kế hoạch phòng, chống tai nạn, thương tích trẻ em tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2014-2015 số 541/KH-UBND ngày 29/4/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình [39]. Thời gian qua, huyện Lệ Thủy tổ chức hoạt động Diễn đàn Trẻ em với chủ đề “Vì cuộc sống an toàn, phòng chống tai nạn, thương tích cho trẻ em” tại huyện Lệ Thủy và tổ chức tuyên truyền thực hiện Luật an toàn giao thông, an toàn vệ sinh lao động nhưng trong thực tế số trường hợp TNTT vẫn chưa giảm mà còn có xu hướng tăng lên. Việc tiếp nhận các trường hợp TNTT tại Bệnh viện Đa khoa huyện Lệ Thủy năm sau luôn cao hơn năm trước, số liệu này vẫn chưa phản ánh đúng thực trạng tình hình TNTT ở huyện Lệ Thủy vì còn nhiều trường hợp nhẹ không nhập viện, hoặc tự chữa trị, hoặc đến cơ sở tư nhân, vấn đề sơ cấp cứu ban đầu còn nhiều bất cập phần nào cũng cho thấy bức tranh khái quát về TNTT hiện nay của địa phương là rất đáng quan tâm Thang Long University Library
  19. 17 1.7. Khung lý thuyết nghiên cứu Thực trạng người bị tai nạn thương tích Yếu tố nhân khẩu học Yếu tố hành vi, môi trường - Tuổi - Nguyên nhân - Giới - Địa điểm - Trình độ học vấn - Khoảng cách - Nghề nghiệp - Thời gian - Phương tiện
  20. 18 Chương 2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 ĐỐI TƯỢNG, ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU 2.1.1 Đối tượng nghiên cứu. * Đối tượng nghiên cứu: Người bị tai nạn thương tích đến khám và cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa huyện Lệ Thủy trong thời gian nghiên cứu. * Tiêu chuẩn lựa chọn: Tất cả những người bị tai nạn thương tích đến khám và cấp cứu tại Bệnh viện trong thời gian nghiên cứu. * Tiêu chuẩn loại trừ: - Bệnh nhân mắc bệnh tâm thần, lú lẫn, hôn mê. - Những người từ chối tham gia nghiên cứu. - Bệnh nhân không thu thập được thông tin. 2.1.2 Địa điểm nghiên cứu: Tại Bệnh viện đa khoa huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. 2.1.3 Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 4/2019 đến tháng 9/2019. 2.2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.2.1 Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang có phân tích. 2.2.2 Cỡ mẫu và cách chọn mẫu 2.2.2.1 Cách chọn mẫu: Chọn mẫu thuận tiện, chọn tất cả những người bị tai nạn thương tích đến khám, cấp cứu tại Bệnh viện huyện Lệ Thủy từ ngày 1/4/2019 đến ngày 30/9/2019 sau khi đã loại bỏ các đối tượng nằm trong tiêu chuẩn loại trừ để điều tra nghiên cứu. 2.2.2.2 Cỡ mẫu: Tất cả có 494 người bị tai nạn thương tích đến khám, cấp cứu tại Bệnh viện huyện Lệ Thủy từ ngày 1/4/2019 đến ngày 30/9/2019. 2.3 PHƯƠNG PHÁP THU THẬP THÔNG TIN 2.3.1 Công cụ thu thập thông tin: Xây dựng phiếu điều tra bao gồm các câu hỏi phỏng vấn. Yêu cầu các câu hỏi: - Dễ hiểu, dễ trả lời. - Thời gian phỏng vấn khoảng 5 - 10 phút cho mỗi đối tượng. Thang Long University Library
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2