intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sỹ Luật học: Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án hình sự

Chia sẻ: Nguyen Hung Anh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:86

175
lượt xem
46
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở phân tích các quy định liên quan đến bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử của pháp luật Việt Nam, liên hệ với thực tiễn và so sánh với pháp luật quốc tế, tác giả làm sáng tỏ những bất cập, hạn chế để đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS. Đồng thời, qua đây, tác giả muốn nhấn mạnh vai trò của Tòa án trong việc bảo đảm quyền con người để chúng ta có cái nhìn đúng đắn hơn về vai trò, vị trí của cơ quan này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sỹ Luật học: Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án hình sự

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGÔ THỊ THANH BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con người Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS TRẦN VĂN ĐỘ HÀ NỘI - 2013
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Ngô Thị Thanh
  3. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ........................................................... 6 1.1. ..................... Yêu cầu bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự 6 1.2. Các quyền con người có thể bị tác động trong TTHS .......................... 9 1.2.1. Quyền không bị bắt, giam giữ tùy tiện .................................................. 9 1.2.2. Quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục ........................................................... 12 1.2.3. Quyền được xét xử nhanh chóng, không bị trì hoãn ............................ 14 1.2.4. Quyền được xét xử công bằng ............................................................ 16 Chương 2: BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ LUẬT NHÂN QUYỀN QUỐC TẾ ............................................ 18 2.1. Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án hình sự theo Pháp luật Việt Nam ............................................................. 18 2.1.1. Theo Hiến pháp 1992 ......................................................................... 18 2.1.2. Theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 ..................................................... 20 2.2. Một số quy định của Luật Nhân quyền Quốc tế về bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án hình sự ................... 45 2.2.1. Quy định về quyền của người bị cáo buộc hình sự ............................... 46
  4. 2.2.2. Cơ chế bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án hình sự theo Luật nhân quyền quốc tế ................................................. 48 4
  5. Chương 3: MỘT SỐ TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG XÉT XỬ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .......... 52 3.1. Một số tồn tại trong xét xử vụ án hình sự ........................................ 52 3.1.1. Sự độc lập của Tòa án còn hạn chế ..................................................... 52 3.1.2. Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa được bảo đảm triệt để ........................................................................................ 55 3.1.3. Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội còn nhiều bất cập...... 56 3.1.4. Tình trạng tồn đọng án, án quá hạn luật định: ...................................... 57 3.1.5. Tình trạng bắt, giam giữ người tùy tiện còn tồn tại .............................. 58 3.1.6. Tình trạng tạm giam kéo dài, thời hạn không rõ ràng ........................... 58 3.1.7. Xét xử oan sai .................................................................................... 59 3.2. Một số kiến nghị đảm bảo quyền con người trong giai đoạn xét xử ở Việt Nam hiện nay .................................................................... 61 3.2.1. Tăng cường giáo dục về quyền con người cho cán bộ hoạt động tư pháp .................................................................................................. 61 3.2.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền con người trong hoạt động xét xử ........................................................................................ 61 3.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là Tòa án .................................................................... 73 3.4. Triển khai việc thành lập Cơ quan nhân quyền Quốc gia Việt Nam .................................................................................................. 74 KẾT LUẬN ................................................................................................... 76 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 78
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân Tối cao TTHS : Tố tụng hình sự VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân Tối cao HĐXX : Hội đồng xét xử CQĐT : Cơ quan điều tra
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền con người là giá trị mang tính phổ biến chung của nhân loại, là kết quả của quá trình đấu tranh, phát triển lâu dài của tất cả các dân tộc, nhân dân trên toàn thế giới. Được thúc đẩy từ năm 1945 kể từ khi thành lập Liên Hợp Quốc, quyền con người thu hút sự quan tâm rộng rãi của dư luận và có sự tác động mạnh mẽ tới các quan hệ chính trị, pháp lý, xã hội ở tất cả các cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế. Nó không chỉ là nhận thức, là quan điểm mà hữu hình bằng các quy phạm pháp lý được các quốc gia thừa nhận chung, phản ánh quy luật và hướng tất yếu của xã hội loài người cũng như sự hình thành các cơ chế bảo đảm để quyền con người được thực thi trên thực tế. Tại Việt Nam, việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là mục tiêu nhất quán của Đảng và Nhà nước ta từ trước đến nay. Việt Nam luôn tích cực tham gia các Điều ước và hoạt động về quyền con người của Liên Hợp Quốc. Chỉ thị 12/TW của Ban Bí Thư, ngày 12/7/1992 khẳng định: “Quyền con người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới và cũng là cuộc đấu tranh của loài người làm chủ thiên nhiên, qua đó quyền con người trở thành giá trị chung của nhân loại”. Do đó chúng ta cần phải bảo vệ thành quả này trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực TTHS. Việc bảo vệ quyền con người trong TTHS có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì trong lĩnh vực này, quyền con người dễ bị xâm phạm, dễ bị tổn thương và có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng về vật chất, thể chất lẫn tinh thần. Trong các chủ thể của hoạt động TTHS thì Tòa án giữ vai trò quan trọng. Đảng đã khẳng định khâu trọng tâm của chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020 là cải cách hệ thống TAND: “Trung tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của TAND” và „„xét xử là trọng tâm” (Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính Trị). Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ X (tháng 4/2006) cũng đã chỉ rõ sự cần thiết phải xây dựng cơ chế tài phán đối với những vi phạm 1
  8. nhằm tăng cường hiệu quả bảo vệ quyền con người bằng nhánh quyền Tư pháp. Đại Hội Đảng lần thứ XI (tháng 01/2011) cũng đã khẳng định tính cấp thiết của việc xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước, việc thực hiện các quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Quan điểm này của Đảng là hoàn toàn đúng đắn vì trong bất kỳ một Nhà nước pháp quyền nào quyền tư pháp (mà đại diện là Tòa án) phải được coi là trung tâm và là hệ thống cấu thành quan trọng của bộ máy quyền lực Nhà nước để bảo vệ. Thực tiễn cho thấy, hàng năm Tòa án đã xét xử hàng chục nghìn vụ án trong đó có nhiều vụ án lớn (Rusalka Khánh Hòa, Năm Cam, Lã Thị Kim Oanh, PMU 18, Thiên Lợi Hòa, Phương Ninh Hột, VinaShin...). Các vụ án đó được xét xử nghiêm minh, công bằng, đúng người, đúng tội, tạo cho nhân dân niềm tin vào hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn tồn tại một số hạn chế, đặc biệt là tình trạng xét xử oan (vụ án Vườn Điều ở Bình Thuận, vụ Nguyễn Minh Hùng hai lần bị tuyên án tử hình, vụ án con trâu ở Yên Bái...). Qua các vụ án oan, một đặc điểm chung rất dễ nhận thấy là luôn có những vi phạm tố tụng nghiêm trọng trong quá trình tiến hành tố tụng, kết luận vụ án luôn là kết quả của sự truy xét qua áp đặt chủ quan của người tiến hành tố tụng, có dấu hiệu mớm cung, bức cung trong quá trình điều tra (song hầu như không chứng minh được hoặc không được Hội đồng xét xử xem xét). Hậu quả để lại của những vụ án đó, theo tác giả là không bao giờ khắc phục được. Tuy rằng Nghị quyết 388 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về bồi thường oan sai trong hoạt động TTHS và Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (2009) đã phần nào khắc phục được những sai lầm do những người tiến hành tố tụng gây ra nhưng nó không giải quyết được mọi chuyện. Thực tế số người bị làm oan, bị làm sai trong quá trình TTHS được bồi thường theo Luật cũng chưa đáng là bao. Và việc bồi thường đó, không bao giờ tương xứng với những gì mà những người bị oan, bị sai đã phải gánh chịu. Do đó, tác giả nghĩ rằng, để tránh oan sai trong TTHS, Tòa án cần phải có hoạt động xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Có như vậy thì quyền con người mới được đảm bảo. Xét xử vụ án hình sự là chức năng quan trọng nhất của Tòa án, là giai đoạn quyết định của toàn bộ quá trình TTHS. Trong giai đoạn này, Tòa án áp dụng các 2
  9. biện pháp cần thiết do luật định để kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các quyết định mà CQĐT và VKS đã thông qua trước khi chuyển vụ án sang Tòa án, nhằm loại trừ các hậu quả tiêu cực do sơ suất, sai lầm... Đồng thời trên cơ sở kết quả tranh luận công khai và dân chủ tại phiên tòa để ra bản án, quyết định một cách công minh và đúng pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục. Giai đoạn này được bắt đầu từ khi Tòa án nhận được hồ sơ vụ án hình sự và kết thúc bằng một bản án (quyết định). Đây là giai đoạn TTHS trung tâm và quan trọng để tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân, góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm. Với những lí do trên, tác giả đã chọn đề tài “Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án hình sự” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình, với mục đích góp phần nhỏ trong nghiên cứu khoa học về bảo đảm quyền con người trong TTHS trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong khoa học pháp lý nước ta, vấn đề bảo đảm quyền con người được nhiều tác giả nghiên cứu trong các công trình với các góc độ khác nhau. Từ góc độ nghiên cứu về quyền con người nói chung có công trình “Quyền con người trong thế giới hiện đại” (Viện Thông tin khoa học xã hội, 1995) của GS.TS Hoàng Văn Hảo và Phạm Khiêm Ích; “Quyền con người và luật quốc tế về quyền con người”(NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997) của PGS.TS Chu Hồng Thanh. Từ góc độ nghiên cứu quyền con người trong lĩnh vực Tư pháp có “Bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự Việt Nam” (Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2010); “Luật tố tụng hình sự Việt Nam với việc bảo vệ quyền con người” (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc Gia, 2011). Các tác giả Nguyễn Thái Phúc, Trần Quang Tiệp cũng có những công trình nghiên cứu về đề tài này. Ngoài ra có một số tác giả chọn vấn đề bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, trong TTHS làm đề tài Luận án tiến sĩ luật học (TS Nguyễn Quang Hiền, Nguyễn Huy Hoàng, Lại Văn Trình). Trong các công trình này, các tác giả có phân tích đến Tòa án với vai trò là 3
  10. đại diện quan trọng nhất của nhánh quyền lực Tư Pháp theo nghĩa rộng. Bên cạnh đó, cũng có rất nhiều tác giả nghiên cứu về vai trò, vị trí của Tòa án trong cơ chế phân chia quyền lực như (GS.TS Nguyễn Đăng Dung...). Tuy nhiên các công trình nghiên cứu đó chủ yếu tập trung vào các vai trò chung của Tòa án, chưa đi sâu cụ thể vào vấn đề bảo vệ quyền con người của Tòa án trong giai đoạn xét xử. 3. Mục đích, nhiệm vụ của Luận văn 3.1. Mục đích Trên cơ sở phân tích các quy định liên quan đến bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử của pháp luật Việt Nam, liên hệ với thực tiễn và so sánh với pháp luật quốc tế, tác giả làm sáng tỏ những bất cập, hạn chế để đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS. Đồng thời, qua đây, tác giả muốn nhấn mạnh vai trò của Tòa án trong việc bảo đảm quyền con người để chúng ta có cái nhìn đúng đắn hơn về vai trò, vị trí của cơ quan này. 3.2. Nhiệm vụ Để thực hiện được mục đích nói trên, tác giả đã đưa ra và giải quyết các nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu ý nghĩa của việc đảm bảo quyền con người trong TTHS (đặc biệt là trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự) - Phân tích các quy định pháp luật TTHS Việt Nam liên quan đến bảo đảm quyền con người, so sánh với các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan. - Nghiên cứu thực tiễn xét xử Tòa án: đánh giá hiệu quả cũng như làm sáng tỏ những hạn chế trong việc bảo đảm quyền con người. - Đưa ra những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS và nâng cao hiệu quả hoạt động TTHS liên quan đến việc bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân. 4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và pháp luật, về Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về quyền con người và bảo đảm quyền con người. 4
  11. - Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phân tích, tổng hợp, lịch sử, so sánh, hệ thống, thống kê… Luận văn cũng khai thác thông tin tư liệu của các công trình nghiên cứu đã công bố để chứng minh cho các luận điểm. 5. Những nét mới của Luận văn - Phân tích một cách cụ thể các quy định cơ bản về quyền con người được chuyển tải trong Hiến pháp và BLTTHS. Từ đó tạo ra được cái nhìn thân thiện và gần gũi hơn đối với những nhân quyền cơ bản. - Làm rõ được vai trò của Tòa án trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. - Có sự đánh giá, so sánh vai trò bảo đảm quyền con người của Tòa án được quy định trong pháp luật Việt Nam và Luật nhân quyền quốc tế. - Góp phần làm rõ thực trạng bảo đảm quyền con người ở Việt Nam hiện nay, tính tương thích của pháp luật hình sự Việt Nam và Luật nhân quyền quốc tế. - Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh giá, luận văn cũng đưa ra những giải pháp, kiến nghị để Tòa án thực hiện tốt vai trò bảo đảm quyền con người. 6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu Tác giả hy vọng việc nghiên cứu thành công Đề tài sẽ đóng góp một phần khiêm tốn trong việc giải quyết về mặt khoa học một trong những nội dung cấp thiết hiện nay ở nước ta là “Tòa án với vấn đề bảo vệ quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án hình sự”. Luận văn có thể là tài liệu tham khảo trong hoạt động lập pháp TTHS, trong thực tiễn điều tra truy tố, xét xử cũng như trong nghiên cứu về TTHS. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn kết cấu gồm 3 chương như sau: - Chương 1: Một số vấn đề về bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự - Chương 2: Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án hình sự theo Pháp luật Việt Nam và Luật nhân quyền quốc tế - Chương 3: Một số tồn tại và kiến nghị bảo đảm quyền con người trong giai đoạn xét xử ở Việt Nam hiện nay. 5
  12. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1 . Yêu cầu bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự Quyền con người là một nội dung lớn của thế giới ngày nay. Đây là giá trị cao quý, kết tinh từ nền văn hóa của tất cả các dân tộc trên thế giới; là tiếng nói chung, sản phẩm chung, mục tiêu chung, phương tiện chung của mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới để bảo vệ và thúc đẩy nhân phẩm và hạnh phúc của mọi con người. Nó không còn là nhận thức, là quan điểm mà hữu hình bằng các quy phạm pháp lý được các quốc gia thừa nhận chung, phản ánh quy luật và hướng đi tất yếu của xã hội loài người cũng như sự hình thành các cơ chế bảo đảm để quyền con người được thực thi trên thực tế [22] Là thành viên của các Công ước Quốc Tế về quyền con người, Nhà nước Việt Nam luôn nỗ lực thực hiện các cam kết của mình đồng thời chủ động hợp tác với các quốc gia và các tổ chức quốc tế trong nhiều hoạt động trên lĩnh vực quyền con người. Báo cáo quốc gia kiểm điểm định kỳ việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam trình bày tại Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc ở Geneva, Thụy Sỹ ngày 08/5/2009 cũng khẳng định: “Nhà nước Việt Nam coi con người là mục tiêu và động lực của mọi chính sách phát triển kinh tế, xã hội và luôn nhất quán trong việc đảm bảo và thúc đẩy các quyền con người”. Do đó, chúng ta cần phải bảo vệ thành quả này trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực TTHS. TTHS là quá trình giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật gồm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Trong đó giai đoạn khởi tố là giai đoạn đầu tiên của TTHS. Tại giai đoạn này sau khi tiếp nhận tin báo và tố giác tội phạm, cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành kiểm tra, xác minh sự việc xảy ra có dấu hiệu của tội phạm hay không để quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Giai đoạn điều tra là giai đoạn cơ quan có thẩm quyền điều tra vụ án có trách 6
  13. nhiệm và nghĩa vụ áp dụng mọi biện pháp theo luật định để thu thập chứng cứ nhằm xác định tội phạm, người phạm tội và các vấn đề khác của vụ án Giai đoạn truy tố là giai đoạn VKS ra quyết định truy tố bằng bản Cáo trạng hay không truy tố bị can ra xét xử trước Tòa án; Giai đoạn xét xử sơ thẩm là giai đoạn Tòa án thụ lý, nghiên cứu hồ sơ để tiến hành giải quyết vụ án bằng việc ra bản án hoặc các quyết định. Giai đoạn xét xử phúc thẩm là giai đoạn Tòa án cấp trên trực tiếp sẽ xét xử lại bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp dưới chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo; Giai đoạn thi hành án là giai đoạn cuối cùng của TTHS. Trong giai đoạn này các cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm thi hành các bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra, còn có thể có giai đoạn đặc biệt là giai đoạn Tòa án có thẩm quyền xét lại bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo các thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm Mỗi giai đoạn thực hiện một nhiệm vụ nhất định nhưng cùng hướng đến mục đích chung là giải quyết mọi vấn đề của vụ án hình sự. Mỗi giai đoạn tuy độc lập nhưng vẫn nằm trong mối quan hệ khăng khít với nhau và tạo thành một trình tự thống nhất; giai đoạn trước là tiền đề cho việc thực hiện nhiệm vụ của giai đoạn sau, giai đoạn sau kiểm tra giai đoạn trước. Mỗi giai đoạn tố tụng do một chủ thể thực hiện nhưng các chủ thể có quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa phối hợp vừa kiểm soát lẫn nhau để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Việc giải quyết đó chính là hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng (CQĐT, VKS, Tòa án) và người tiến hành tố tụng (Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên; Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS, Kiểm sát viên; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm). [10] Như vậy, hoạt động này trước hết sẽ bảo vệ quyền lợi cho người bị hại trước sự xâm phạm của tội phạm. Tuy nhiên xét ở một góc độ khác, TTHS với tư cách là quá trình Nhà nước đưa một người ra xử lý trước pháp luật khi họ thực hiện tội 7
  14. phạm luôn thể hiện tính quyền lực với sức mạnh cưỡng chế Nhà nước, với sự thiếu bình đẳng về thế và lực của các bên tham gia quan hệ TTHS, trong đó người bị buộc tội luôn bị yếu thế hơn. Hoạt động này liên quan đến việc phát hiện, xử lý hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định là tội phạm và xử phạt người phạm tội. Vì vậy, để đạt được mục đích của TTHS, Pháp luật TTHS của bất kỳ quốc gia nào cũng có quy định về những biện pháp cưỡng chế tố tụng, các hành vi, quyết định tố tụng đụng chạm đến quyền, lợi ích của công dân. Hay nói cách khác, khả năng ảnh hưởng của hoạt động TTHS tới các quyền con người của người bị tình nghi phạm tội là tất yếu. Do đó, hoạt động TTHS trong mọi quốc gia đều được xếp vào nhóm “nguy cơ cao” khi người ta nói đến vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong lĩnh vực này, quyền con người của những người bị tình nghi phạm tội dễ bị xâm phạm, dễ bị tổn thương và hậu quả để lại cũng đặc biệt nghiêm trọng khi nó động chạm đến những quyền con người cơ bản như quyền sống; quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo; quyền không bị bắt, giam giữ tùy tiện ... Cho nên khi đánh giá, xem xét tình trạng vi phạm quyền con người của một quốc gia, người ta thường bắt đầu từ lĩnh vực TTHS. Trong những năm qua, hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS nhìn chung đã có những kết quả khả quan góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế, tồn tại, vi phạm trong việc bắt người, giam, giữ, khám xét ...; vẫn còn tình trạng xét xử oan sai chưa đúng người, đúng tội. Tình trạng đó trước hết sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của những người bị vi phạm, đặc biệt là những quyền lợi rất quan trọng và cơ bản. Không những thế nó còn có thể tạo ra những bức xúc trong xã hội. Một số phần tử phản động nhân cơ hội này, khoác thêm lớp áo “Nhân quyền” thổi phồng, xuyên tạc, hư cấu thêm sự việc để kích động, lôi kéo, kêu gọi nhân dân chống lại sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta. Đây là những hậu quả rất nặng nề, khó khắc phục, có khi là không thể khắc phục. Cho nên, bảo đảm quyền con người 8
  15. trong hoạt động TTHS cần được quan tâm ở mọi góc độ. Việc ban hành các quy định đúng đắn, hợp lý, khả thi phải đi đôi với việc đảm bảo thực hiện các quy định đó trong thực tế. Việc thực hiện các quy phạm pháp luật TTHS phụ thuộc vào các chủ thể tiến hành tố tụng trong đó Tòa án đóng vai trò trọng tâm. Với hoạt động xét xử và bản án được thông qua tại phiên tòa, mọi nghi ngờ, mọi vấn đề sẽ được làm sáng rõ từ nội dung vụ án cho đến hình phạt đối với bị cáo. Nếu có một phiên tòa công bằng, mọi vi phạm quyền con người trong các giai đoạn trước đó (nếu có) sẽ được phán xử và có những chế tài phù hợp. Ngược lại, nếu phiên tòa đó không đảm bảo, thì sai lầm sẽ nối tiếp sai lầm và kết thúc bằng một sai lầm. Hoặc nếu như những quá trình trước (khởi tố, điều tra, truy tố) dù tiến hành đúng nhưng đến giai đoạn xét xử lại làm sai thì vẫn cho ra một kết quả sai. Do đó, ta có thể coi, Tòa án là cánh cửa cuối cùng, là cơ hội cuối cùng để quyền con người được đảm bảo. Từ những sự phân tích trên cho thấy quyền con người trong hoạt động TTHS cần phải được quan tâm một cách sâu sắc và toàn diện, đặc biệt là tại giai đoạn xét xử. Cùng với nó, cần phải nghiên cứu thêm về vai trò bảo vệ quyền con người của các chủ thể tiến hành tố tụng, đặc biệt là vai trò của tòa án. 1.2. Các quyền con người có thể bị tác động trong TTHS Trong lĩnh vực TTHS, khi quyền lực cưỡng chế của nhà nước bị lạm dụng, bị vi phạm thì nguy cơ ảnh hưởng đến các quyền con người là rất cao. Có nhiều quyền con người có thể bị tác động trong lĩnh vực này, tuy nhiên trong phạm vi đề tài, tôi chỉ đề cập đến những quyền bị tác động tương đối phổ biến nhất, đó là các quyền sau đây: 1.2.1. Quyền không bị bắt, giam giữ tùy tiện Trong Luật nhân quyền quốc tế, quyền này lần đầu tiên được quy định tại Điều 9 Tuyên ngôn toàn thế giới về Quyền con người, 1948 (UDHR): “Không ai bị bắt, giam giữ hay lưu đày một cách tùy tiện”, sau đó được Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, 1966 (ICCPR) cụ thể hóa hơn tại Điều 9 như sau: “ 1. Mọi người đều có quyền hưởng tự do và an toàn cá nhân. Không ai bị bắt hoặc giam giữ vô cớ. Không ai bị tước quyền tự do trừ trường hợp việc tước quyền đó là có lý do và theo đúng những thủ tục mà pháp luật đã quy định. 9
  16. 2. Bất cứ người nào bị bắt giữ đều phải được thông báo vào lúc bị bắt về những lý do họ bị bắt và phải được thông báo không chậm trễ về sự buộc tội đối với họ. 3. Bất cứ người nào bị bắt hoặc bị giam giữ vì một tội hình sự phải được sớm đưa ra tòa án hoặc một cơ quan tài phán có thẩm quyền thực hiện chức năng tư pháp và phải được xét xử trong thời hạn hợp lý hoặc được trả tự do. Việc tạm giam một người trong thời gian chờ xét xử không được đưa thành nguyên tắc chung, nhưng việc trả tự do cho họ có thể kèm theo những điều kiện để bảo đảm họ sẽ có mặt tại Tòa án để xét xử vào bất cứ khi nào và để thi hành án nếu bị kết tội. 4. Bất cứ người nào do bị bắt hoặc giam giữ mà bị tước tự do đều có quyền yêu cầu được xét xử trước Tòa án, nhằm mục đích để Tòa án đó có thể quyết định không chậm trễ về tính hợp pháp của việc giam giữ và ra lệnh trả lại tự do cho họ, nếu việc giam giữ là bất hợp pháp. 5. Bất cứ người nào trở thành nạn nhân của việc bị bắt hoặc bị giam giữ bất hợp pháp đều có quyền được yêu cầu bồi thường”. [23, 81] Điều 9 ICCPR đã được HRC/UNHRC giải thích tại Bình luận chung số 8 (phiên họp thứ 16, 1992) rằng: - Phạm vi áp dụng Điều 9 ICCPR: Cho tất cả những người bị tước tự do (những người bị buộc tội, tâm thần, lang thang, nghiện ma túy, người bị tước tự do vì mục đích giáo dục, kiểm soát nhập cư…) - Thời hạn tạm giữ: theo quy định của pháp luật quốc gia nhưng Ủy ban khuyến nghị không nên tạm giữ quá hai ngày. - Tổng thời gian bị tạm giam: thời gian bị tạm giam của người bị buộc tội phải phù hợp với thời hạn xét xử. Việc tạm giam trước khi xét xử chỉ nên coi là ngoại lệ và càng ngắn càng tốt. - Nếu muốn tiến hành việc giam giữ như là một biện pháp ngăn chặn thì việc thực hiện phải có căn cứ; phải được thực thi theo đúng các trình tự, thủ tục luật định. Nếu biện pháp ngăn chặn bị sử dụng một các tùy tiện thì nạn nhân phải được bồi thường. [21, 258] Đặc biệt, “Tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam hay 10
  17. bị cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào, 1988” có những quy định rất cụ thể về quyền không bị bắt, giam giữ tùy tiện, đó là: - Việc bắt giữ, giam hay cầm tù chỉ được thực hiện theo đúng các quy định của pháp luật một cách nghiêm ngặt và bởi những quan chức có thẩm quyền hay những người được ủy quyền thực hiện việc đó (nguyên tắc 2). - Bất kỳ hình thức giam hay cầm tù nào và tất cả các biện pháp ảnh hưởng đến quyền con người của một người đang bị giam hay bị cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào phải được ra lệnh bởi, hoặc chịu sự kiểm soát có hiệu quả của cơ quan xét xử hoặc cơ quan có thẩm quyền khác (nguyên tắc 4). - Các nhà chức trách bắt giữ một người nào đó, tạm giam người đó hoặc điều tra vụ án chỉ được phép thực hiện những quyền hạn được giao cho họ theo pháp luật, và việc thực hiện các quyền hạn này phải chịu sự giám sát của cơ quan xét xử hay cơ quan có thẩm quyền khác (nguyên tắc 9). - Việc bắt giữ phải có lệnh với các nội dung cụ thể theo nguyên tắc 12. Đồng thời, văn kiện này cũng quy định rất rõ ràng và cụ thể các quyền của người bị bắt giữ: quyền được thông báo về lý do bị bắt giữ, quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ, quyến được phiên dịch miễn phí, quyền liên lạc với thế giới bên ngoài, quyền bào chữa, quyền bảo đảm về sức khỏe, quyền khiếu nại, quyền được suy đoán vô tội, quyền được bồi thường thiệt hại nếu bị giam giữ tùy tiện, quyền được phát biểu về sự đối xử trong khi bị giam trước cơ quan xét xử hoặc có thẩm quyền … [23, 697] Ngoài ra, Các quy tắc chuẩn, tối thiểu của Liên hợp quốc về những biện pháp không giam giữ (Các quy tắc Tokyo), 1990 cũng quy định việc tránh giam giữ tiền xét xử như sau: “6.1. Giam giữ trước khi xét xử được sử dụng như phương án cuối cùng trong quá trình TTHS, khi xét thấy cần thiết cho việc điều tra hành vi bị coi là phạm tội và cần thiết để bảo vệ xã hội và các nạn nhân. 6.2. Những biện pháp khác ngoài biện pháp giam giữ trước khi xét xử phải được áp dụng càng sớm càng tốt. Thời gian giam giữ trước khi xét xử không được 11
  18. lâu hơn thời gian cần thiết để đạt được những mục tiêu nêu trong quy tắc 5.1 và phải được tiến hành một cách nhân đạo, tôn trọng nhân phẩm vốn có của con người. 6.3. Người phạm tội có quyền kháng án lên TA hoặc một cơ quan độc lập có thẩm quyền khác trong các trường hợp biện pháp giam giữ trước khi xét xử được áp dụng” [23; 752] Pháp luật Việt Nam quy định quyền này tại Điều 71 Hiến pháp và Điều 6, 7 BLTTHS đồng thời có sự quy định rõ ràng về các biện pháp ngăn chặn để hạn chế tới mức thấp nhất sự tùy tiện trong việc bắt, giam giữ người. Nội dung của quyền không bị bắt, giam giữ tùy tiện theo Luật Nhân quyền quốc tế và Pháp luật Việt Nam đều gồm: không được bắt giữ người người không có căn cứ; bắt giữ người không đúng thẩm quyền, bắt giữ người không đúng thủ tục; bắt người, giam giữ người chưa cần thiết. Tuy nhiên, Luật Nhân quyền quốc tế nhấn mạnh đến quy định thời gian giam giữ không được kéo dài. Và chế độ giam giữ phải khác với chế độ thi hành án phạt tù, đảm bảo đến mức tối đa việc hạn chế các quyền con người của người bị giam giữ. Quyền không bị bắt, giam giữ tùy tiện là cốt lõi của tự do và an toàn cá nhân. Nếu quyền tự do và an toàn cá nhân của con người không được đảm bảo một cách hiệu quả thì việc bảo vệ các quyền cá nhân khác sẽ dễ bị tổn thương và không thực tế. Khi nhân quyền này bị vi phạm thì sẽ kéo theo một số hệ quả là các nhân quyền khác cũng có nguy cơ bị ảnh hưởng theo như quyền không phân biệt đối xử; quyền được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm của người bị tước tự do; quyền tự do đi lại, cư trú; quyền được tự do tín ngưỡng…[22] Tuy vậy, trong TTHS, quyền này vẫn có nguy cơ bị vi phạm khi các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp ngăn chặn một cách tùy tiện, nhất là khi áp dụng biện pháp bắt người, tạm giữ và tạm giam để điều tra, truy tố và xét xử. 1.2.2. Quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục UDHR và ICCPR lần lượt ghi nhận quyền này tại Điều 5 (UDHR) và Điều 7 (ICCPR) vào năm 1948 và 1966 nhưng lại không đưa ra một định nghĩa rõ ràng về 12
  19. “tra tấn”. Phải đến năm 1984 thì Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm (CAT) mới đưa ra khái niệm về tra tấn như sau: “Thuật ngữ “tra tấn” có nghĩa là bất kỳ hành vi nào cố ý gây đau đớn hoặc đau khổ nghiêm trọng về thể xác hay tinh thần cho một người, vì những mục đích như lấy thông tin hoặc lời thú tội từ người đó hay một người thứ ba, hoặc để trừng phạt người đó vì một hành vi mà người đó hay người thứ ba thực hiện hay bị nghi ngờ đã thực hiện, hoặc để đe dọa hay ép buộc người đó hay người thứ ba, hoặc vì bất kỳ một lý do nào khác dựa trên sự phân biệt đối xử dưới mọi hình thức, khi nỗi đau đớn và đau khổ đó do một công chức hay người nào khác hành động với tư cách chính thức gây ra, hay với sự xúi giục, đồng tình hay ưng thuận của một công chức. Khái niệm tra tấn không bao gồm những đau đớn hoặc đau khổ xuất phát từ, gắn liền với, hoặc có liên quan đến, các biện pháp trừng phạt hợp pháp”. Tuy nhiên, CAT cũng nêu rõ nội hàm của khái niệm trên được căn cứ vào mục đích của Công ước là để cuộc đấu tranh chống tra tấn và đối xử hay trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm được hiệu quả hơn [23, 148] Điều 5 UDHR ghi nhận: “Không ai bị tra tấn hay bị đối xử, xử phạt một cách tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm” [23, 49] Điều 7 ICCPR nói rằng: “Không ai có thể bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt một cách tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm. Đặc biệt, không ai có thể bị sử dụng để làm thí nghiệm y học hoặc khoa học mà không có sự đồng ý tự nguyện của người đó” [23, 80] Ở phiên họp lần thứ 16, 1982, HRC/UNHRC đã giải thích về Điều 7 ICCPR tại Bình luận chung số 7. Trong phiên họp thứ 39, 1990, Ủy ban đã phản ánh, phát triển và thay thế Bình luận chung số 7 bằng Bình luận chung số 20 với các nội dung cơ bản như sau: - Mục đích của Điều 7 ICCPR: bảo vệ phẩm giá và sự toàn vẹn về thể chất và tinh thần của cá nhân. - Không có giới hạn quyền đối với các quy định trong Điều 7 ICCPR, kể cả trong tình trạng khẩn cấp quốc gia. 13
  20. - Nội hàm của các khái niệm nêu trong Điều 7 ICCPR (tra tấn, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo, hạ nhục) căn cứ vào bản chất, mục đích và tính chất nghiêm trọng của hành động đã thực hiện. - Phạm vi ngăn cấm: các hành động gây ra đau đớn về thể chất lẫn tinh thần; các hành động nhục hình, đánh đập tàn nhẫn để trừng phạt tội phạm hay để giáo dục, rèn luyện đối với học sinh, bệnh nhân. - Việc kéo dài thời gian biệt giam hoặc tù giam một người, kể cả người đã bị kết án tử hình mà không có lý do chính đáng cũng bị coi là hành động tra tấn. Việc thi hành án tử hình phải thực hiện theo cách thức làm giảm đến mức tối thiểu sự đau đớn về thể xác và tinh thần cho tử tù. [21; 287] Tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam hay bị cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào, 1988 cũng quy định tại nguyên tắc 6 là: “Không người nào bị giam hoặc cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào bị tra tấn hay đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hay hạ thấp nhân phẩm. Không được viện dẫn bất kỳ hoàn cảnh nào để biện minh cho việc tra tấn hay đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm” [23; 698] Pháp luật Việt Nam quy định quyền này tại các Điều 71, 72 Hiến pháp; Điều 6, 7, 9 BLTTHS và các chương XII, XXII BLHS cũng chính là sự khẳng định về mặt pháp lý về bảo vệ quyền không bị tra tấn, đối xử hay trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hay bị hạ nhục. Như vậy, quyền này có thể bị vi phạm ở nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng trong TTHS là rõ nét nhất, đặc biệt là tại giai đoạn điều tra khi việc truy bức, dùng nhục hình người bị nghi ngờ phạm tội có thể được sử dụng như là cách nhanh nhất để lấy lời khai người bị buộc tội… 1.2.3. Quyền được xét xử nhanh chóng, không bị trì hoãn Điểm c khoản 3 Điều 14 ICCPR quy định: “Người bị buộc tội được xét xử mà không bị trì hoãn một cách vô lý” Nguyên tắc 38 Tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam hay bị cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào, 1988 quy định: “Một người bị giam do bị 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
28=>1