LUẬN VĂN:Thực tế tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và
lượt xem 75
download
LUẬN VĂN: Thực tế tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp ở Công ty xây dựng Sông Đà 10 .Chương I: Lý luận chung về kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp ở công ty xây dựng Sông đà 10. 1.Sự cần thiết phải tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp. 1.1Đặc điểm của ngành xây dựng cơ bản. - Đặc điểm hoạt động kinh doanh xây lắp...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN:Thực tế tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và
- LUẬN VĂN: Thực tế tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp ở Công ty xây dựng Sông Đà 10
- Chương I: Lý luận chung về kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp ở công ty xây dựng Sông đà 10. 1.Sự cần thiết phải tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp. 1.1Đặc điểm của ngành xây dựng cơ bản. - Đặc điểm hoạt động kinh doanh xây lắp có ảnh hưởng đến hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp. Sản phẩm xây lắp là các công trình, vật kiến trúc… có quy mô lớn, kết cấu phức tạp, mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất kéo dài… Đặc điểm này làm cho vốn đầu tư xây dựng cơ bản thường bị ứ đọng lâu tại công trình đang xây dựng, các tổ chức xây dựng dễ gặp phải những rủi ro ngẫu nhiên theo thời gian, công trình xây dựng dễ bị hao mòn vô hình. Do vậy, việc tổ chức và hạch toán nhất thiết phải có những dự án thiết kế thi công. Sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất còn các điều kiện sản xuất như lao động vật tư, thiết bị luôn phải di chuyển theo địa điểm thi công. Mặt khác, hoạt động xây dựng thường tiến hành ngoài trời, chịu ảnh hưởng của khí hậu, thời tiết nên dễ dẫn tới tình trạng hao hụt, mất mát, lãng phí vật tư, tài sản làm tăng thiệt hại trong tổng chi phí sản xuất. Sản phẩm xây lắp hoàn thành không nhập kho mà được tiêu thụ ngay theo giá dự toán hoặc giá thỏa thuận với chủ đầu tư từ trước. Do đó tính chất hàng hóa của sản phẩm thể hiện không rõ. Đối tượng hạch toán chi phí ở các doanh nghiệp xây lắp có thể là các hạng mục công trình, các giai đoạn của hạng mục hay nhóm hạng mục. Vì thế phải lập dự toán chi phí và tính giá thành sản phẩm theo từng hạng mục hay giai đoạn của hạng mục. Về cơ bản, việc hạch toán các phần hành kế toán như: Tài sản cố định, vật liệu, công cụ, chi phí nhân công.. Trong doanh nghiệp kinh doanh xây lắp cũng tương tự như doanh nghiệp công nghiệp. Tuy nhiên, do đặc điểm của hoạt động kinh doanh và quản lý của ngành xây dựng cơ bản mà nội dung của chi phí kinh doanh tạo nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm có một số khác biệt: + Giá thành công trình lắp đặt thiết bị không bao gồm giá trị thiết bị do đơn vị chủ đầu tư bàn giao.
- + Giá thành công tác xây dựng và lắp đặt kết cấu bao gồm giá trị vật liệu kết cấu và giá trị thiết bị kèm theo như: Thiết bị vệ sinh, thông gió, thiết bị sưởi ấm, thiết bị điều hòa nhiệt độ, thiết bị truyền dẫn… Từ những đặc điểm trên, đòi hỏi công tác hạch toán trong doanh nghiệp xây lắp phải có những nét đặc trưng riêng để vừa phù hợp với ngành nghề, vừa thực hiện đúng chức năng kế toán của mình. Từ đó cung cấp số liệu chính xác, kịp thời cho các cấp lãnh đạo, tham mưu cho các cấp lãnh đạo trong việc tổ chức quản lý, tổ chức sản xuất hợp lý để hoàn thành tốt kế hoạch đã đặt ra. 1.1.1. Chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp 1.1.1.1. Khái niệm Quá trình sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp là quá trình chuyển biến của các loại vật liệu xây dựng thành sản phẩm dưới sự tác động của máy móc thiết bị và sức lao động của công nhân kỹ thuật. Hay nói cách khác, các yếu tố về t ư liệu lao động, đối tượng lao động dưới sự tác động có mục đích của sức lao động, quá trình thi công sẽ trở thành sản phẩm xây lắp. Những hao phí này được biểu hiện dưới hình thái giá trị thì đó là chi phí sản xuất. Chi phí sản xuất trong xây dựng cơ bản là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hóa mà doanh nghiệp bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất trong một thời kỳ nhất định. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa và cơ chế hạch toán kinh doanh, mọi chi phí đều được biểu hiện bằng tiền, trong đó chi phí tiền công, tiền trích BHXH, BHYT là biểu hiện bằng tiền của hao phí về lao động sống. Còn chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí NVL là biểu hiện bằng tiền của hao phí bằng lao động vật hóa. Chi phí sản xuất của doanh nghiệp xây lắp phát sinh thường xuyên trong suốt quá trình tồn tại và hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, nhưng để phục vụ cho quản lý và hạch toán kinh doanh, chi phí sản xuất phải được tính toán tập hợp theo một kỳ nhất định và luôn phải là chi phí thực. ở đây có sự phân biệt giữa hai khái niệm chi tiêu và chi phí. Chi tiêu là sự hao phí vật chất tại một thời điểm tiêu dùng cụ thể được ghi vào bên có cuảe tài khoản tài sản, còn chi phí theo nghĩa trên được ghi vào bên nợ của tài khoản chi phí, còn chi phí theo nghĩa trên được ghi vào bên nợ của tài khoản chi phí. Như vậy, có nhiều khoản chi ra trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhưng không
- được coi là chi phí sản xuất như các khoản chi trả về vi phạm hợp đồng hao hụt nguyên vật liệu ngoài định mức. 1.1.1.2. Yêu cầu quản lý, kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp trong doanh nghiệp xây lắp. Xuất phát từ đặc điểm của ngành xây dựng cơ bản và của sản phẩm xây lắp, việc quản lý đầu tư và xây dựng là hết sức khó khăn. Chỉ cần một chút lơi lỏng trong quản lý có thể dẫn đến những tổn thất lớn. Đặc biệt từ khi chuyển đổi cơ chế, các doanh nghiệp xây lắp đứng trước một thử thách rất lớn là làm sao quản lý doanh nghiệp được tốt, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Về phía Nhà nước cũng đặt ra yêu cầu mới: một mặt phải tạo ra môi trường kinh doanh năng động cho các doanh nghiệp, mặt khác vẫn phải giám sát chặt chẽ hoạt động của ngành xây dựng cơ bản để đảm bảo cho các khoản đầu tư của Nhà nước được sử dụng hợp lý và hiệu quả. Nhà nước đã ban hành một số văn bản quy định các điều khoản nhằm bảo vệ nâng cao hiệu quả ngành xây dựng như: Trong điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng ( Ban hành theo quyết định số 177/CP ngày 20/10/1994 của Chính phủ) đã quy định một số yêu cầu cơ bản của quản lý đầu tư và xây dựng là: Công tác quản lý đầu tư và xây dựng cơ bản phải đảm bảo tạo ra những sản phẩm, dịch vụ được xã hội chấp nhận về giá cả, chất lượng, đáp ứng được mụ tiêu phát triển kinh tế trong từng thời kỳ. Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư trong nước cũng như đầu tư nước ngoài, khai thác nguồn tài nguyên, tiềm lực lao động, đất đai và các tiềm lực khác đồng thời bảo vệ môi trường sinh thái. Xây dựng phải theo quy hoạch được duyệt, thiết kế hợp lý, tiến tiến, mỹ quan. Xây dựng phải đúng tiến độ, chất lượng cao với chi phí hợp lý và thực hiện bảo hành công trình. Ngoài ra để quản lý hiệu quả chi phí trong ngành xây dựng cơ bản, Nhà nước đã ban hành các chính sách chế độ về giá, các nguyên tắc lập dự toán, xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật để xác định mức vốn đầu tư cho các công trình, hạng mục công trình. Các doanh nghiệp phải tuân thủ theo các chế độ mà Nhà nước ban hành.
- Mặt khác bản thân các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải xác định chính xác chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp của mình làm cơ sở cho việc hạch toán lãi lỗ cũng như việc quản lý chi phí để tìm ra những biện pháp tác động nhằm tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, lĩnh vực xây dựng cơ bản chủ yếu áp dụng phương thức đấu thầu. Để thắng thầu các doanh nghiệp xây lắp cần phải đưa ra một giá thầu hợp lý, một mặt chấp hành đúng định mức, đơn giá do Nhà nước ban hành, đáp ứng yêu cầu kỹ, mỹ thuật mà vẫn phải đảm bảo có lãi. Muốn làm được điều này, các doanh nghiệp phảo tăng cường công tác quản lý kinh tế mà trước hết là quản lý sản xuất, quản lý chi phí và giá thành. Vì vậy, hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp được coi là một công việc trọng tâm. 1.1.1.3Vai trò, nhiệm vụ của kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm Trong quá trình tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, con người luôn quan tâm đến hiệu quả của công việc, tức là tiến hành so sánh những chi phí mà họ đã bỏ ra và kết quả mang lại. Họ luôn có mong muốn tăng lợi ích của mình bằng cách giảm thiểu các chi phí, muốn vậy họ phải quản lý các chi phí đó. Con người đã sử dụng nhiều công cụ khác nhau để quản lý, song có thể nói kế toán là một công cụ quản lý hữu hiệu. Với chức năng ghi chép, tính toán, phản ánh, giám sát một cách thường xuyên liên tục sự vận động của vật tư, tiền vốn, kế toán cung cấp cho các nhà quản lý những con số chính xác về chi phí của từng bộ phận cũng như của toàn doanh nghiệp. Thông qua những dữ liệu mà kế toán cung cấp, các nhà quản lý doanh nghiệp có thể nắm bắt được chi phí sản xuất và giá thành thực tế của từng sản phẩm cũng như kết quả sản xuất của từng doanh nghiệp để phân tích, đánh giá tình hình thực hiện các định mức chi phí và dự toán chi phí, tình hình sử dụng vật tư lao động, tiền vốn, tình hình thực hiện kế hoạch giá thành để từ đó có quyết định thích hợp. Để tổ chức tốt công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, đáp ứng tốt yêu cầu quản lý chi phí sản xuất và giá thành ở doanh nghiệp, kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp phải thực hiện tốt các nhiệm vụ sau: -Phản ánh đầy đủ, chính xác và kịp thời toàn bộ chi phí thực tế, tập hợp theo đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất đã xác định.
- -Kiểm tra tình hình thực hiện các định mức chi phí về vật tư, nhân công, máy thi công và các dự toán chi phí khác. Phát hiện kịp thời các khoản chênh lệch so với định mức, các khoản chi phí ngoài kế hoạch, các khoản thiệt hại mất mát, hư hỏng trong sản xuất để có biện pháp ngăn chặn kịp thời. -Tính toán chính xác, kịp thời giá thành công tác xây lắp theo đối tượng tính giá thành đã xác định. -Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp thep từng công trình, hạng mục công trình vạch ra khả năng, biện pháp hạ giá thành một cách hữu hiệu, hợp lý. -Xác định đúng đắn và bàn giao thanh toán kịp thời khối lượng xây lắp hoàn thành. Đinh kỳ kiểm tra và đánh giá khối lượng sản phẩm dở dang theo nguyên tắc xác định. - Đánh giá đúng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của từng công trình, hạng mục công trình, từng bộ phận thi công trong thời kỳ nhất định. Kịp thời lập báo cáo kế toán về chi phí sản xuất và giá thành công tác xây lắp.hẩm xây lắp. 1.2 Chí phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp. 1.2.1 Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất của doanh nghiệp xây lắp: Việc quản lý chi phí sản xuất, không chỉ dựa vào các số liệu tổng hợp về chi phí sản xuất mà còn căn cứ vào các số liệu cụ thể của từng loại chi phí theo từng công trình, hạng mục công trình trong từng thời điểm nhất định. Do vậy, phân loại theo chi phí sản xuất là yêu cầu tất yếu cho công tác quản lý và hạch toán ở doanh nghiệp.Tùy vào yêu cầu của từng mặt quản lý, giác độ xem xét chi phí… mà chi phí sản xuất được sắp xếp phân loại theo các cách thức khác nhau. Thông thường, chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp được phân theo các tiêu thức sau: 1.2.1.1. Phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố. Cách phân loại này các yếu tố chi phí có cùng chung nội dung, tính chất kinh tế được xếp chung vào cùng một yếu tố, không kể chi phí phát sinh ở đâu hay dùng vào mục đích gì trong quá trình sản xuất. Đối với doanh nghiệp xây lắp bao gồm các yếu tố chi phí sau: + Chi phí nguyên vật liệu: Xi măng, sắt thép, cát sỏi, gạch ngói..
- + Chi phí nhiên liệu động lực sử dụng vào quá trình sản xuất thi công: Xăng, dầu, mỡ. + Chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp lương của công nhân viên trực tiếp và gián tiếp sản xuất. + Các khoản BHXH, BHYT, KPCĐ (theo tỷ lệ 19%). + Chi phí khấu hao tài sản cố định là các khoản hao mòn của các loại tài sản có trong doanh nghiệp như: Nhà xưởng làm việc, các loại ô tô, cần cẩu, máy thi công… và khấu hao các tài sản cố định dùng trong quản lý khác. + Chi phí dịch vụ mua ngoài như điện nước, điện thoại, điện báo. + Chi phí khác bằng tiền. Việc phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế có tác dụng rất lớn trong công tác quản lý chi phí sản xuất. Nó cho biết được nội dung kinh tế ban đầu đông nhất của từng khoản chi phí, là cơ sở để lập kế hoạch cung ứng vật tư, kế hoạch quỹ tiền lương, tính toán nhu cầu vốn lưu động cho kỳ sau và cung cấp tài liệu để tính toán thu nhập quốc dân. 1.2.1.2 Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ với quá trình sản xuất. Theo cách phân loại này chi phí sản xuất được chia làm hai loại: +Chi phí trực tiếp: Là những khoản chi phí có liên quan trực tiếp tới quá trình sản xuất và tạo ra sản phẩm. Nó bao gồm chi phí về NVL xây dựng, tiền lương công nhân sản xuất, khấu hao máy móc thi công. + Chi phí gián tiếp: Gồm những khoản chi phí phục vụ chung cho việc tổ chức thi công và không tính trực tiếp cho từng đối tượng cụ thể. Các chi phí này bao gồm: chi phí quản lý hành chính, chi phí phục vụ nhân công, chi phí phục vụ thi công, chi phí về ngừng sản xuất, chi phí các khoản thiệt hại phá đi làm lại và các chi phí chung khác.Cách phân loại các sản phẩm sản xuất này có ý nghĩa đối với việc xác định phương pháp kế toán tập hợp và phân bố chi phí cho các đối tượng một cách đúng đắn, hợp lý. Đồng thời là kế hoạch để tiết kiệm chi phí. 1.2.1.3.Phân loại chi phí theo khoản mục giá thành Theo cách phân loại này, căn cứ vào mục đích vào công dụng của cp trong sản xuất để chia các khoản mục chi phí khác nhau, mỗi khoản mục chi phí bao gồm những chi phí có
- cùng mục đích và công dụng, không phân biệt chi phí đó có nội dung kinh tế như thế nào? Toàn bộ chi phí phát sinh trong kỳ được chia làm các khoản mục chi phí sau: + Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Là tất cả những chi phí về nguyên vật liệu chi ra để cần tạo nên một thực thể công trình như: Gạch, đá, thép, xi măng, sắt thép… các cấu kiện bê tông và các phụ gia khác. Giá trị vật liệu trên được tính theo giá thực tế gồm giá mua ghi trên hóa đơn của người bán và các khoản chi phí thu mua thực tế như vận chuyển, bốc dỡ… Trong khoản chi phí nguyên vật liệu không bao gồm các loại vật liệu phụ, nhiên liệu dùng cho máy thi công, các loại vật liệu làm cho công trình tạm như: Lán trại che mưa, các chi phí vượt qua định mức cho phép. + Chi phí nhân công trực tiếp: Là toàn bộ tiền lương, lương phụ, phụ cấp, và các khoản trích theo lương của công nhân trực tiếp sản xuất, công nhân vận chuyển vật liệu trong thi công, công nhân chuẩn bị thi công và thu dọn hiện trường. Như vậy chi phí nhân công trực tiếp bao gồm tiền lương trả theo thời gian trả theo sản phẩm, trả lương thêm giờ. Nhưng khoản mục này không bao gồm tiền lương và các khoản có tính chất lương của công nhân điều khiển máy móc thi công, tiền lương của công nhân vận chuyển ngoại cự ly thi công. + Chi phí sử dụng máy thi công: Là các chi phí trực tiếp liên quan đến việc sử dụng máy để hoàn thành sản phẩm xây lắp bao gồm: Tiền khấu hao máy móc thiết bị, tiền thuê máy, tiền lương công nhân điều khiển máy móc thi công, chi phí về nhiên liệu động lực dùng trong thi công. + Chi phí sản xuất chung: Là những khoản chi phí trực tiếp phục vụ cho sản xuất của đội, chi phí liên quan đến nhiều công trình, chi phí này bao gồm: Chi phí tiền lương công nhân quản lý đội, các khoản trích theo lương, khấu hao TSCĐ dùng cho đội, chi phí vật liệu, công cụ, dụng cụ dùng chung cho quản lý đội. Như vậy, cách phân loại này cho ta biết được điểm sử dụng chi phí, công dụng của từng k hoản chi phí và mức phân bố của từng loại giúp cho việc xác định chỉ tiêu giá thành được nhanh chóng và kịp thời. Do đặc điểm của sản phẩm xây lắp và phương pháp lập dự toán trong xây dựng cơ bản là dự toán được lập cho từng đối tượng xây dựng theo các khoản mục giá thành nên phương
- pháp loại chi phí là phương pháp được sử dụng rất phổ biến trong các doanh nghiệp kinh doanh xây lắp 1.2.2 Giá thành sản phẩm xây lắp 1.2.2.1. Khái niệm Quá trình sản xuất là quá trình thống nhất gồm hai mặt: Mặt hao phí sản xuất và mặt kết quả sản xuất. Chi phí sản xuất phản ánh mặt hao phí sản xuất, còn giá thành sản phẩm phản ánh mặt kết quả sản xuất. Tất cả các khoản chi phí phát sinh trong quá trình thi công và các chi phí trích trước có liên quan đến khối lượng sản phẩm xây lắp hoàn thành bàn giao trong kỳ sẽ tạo nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm xây lắp. Như vậy, giá thành sản phẩm xây lắp là toàn bộ chi phí tính bằng tiền để hoàn thành khối lượng sản phẩm xây lắp theo quy định. Giá thành sản phẩm xây lắp là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh chất l ượng hoạt động sản xuất, phản ánh kết quả sử dụng đúng các loại tài sản, vật tự lao động, tiền vốn trong quá trình sản xuất cũng như các giải pháp kinh tế kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện nhằm đạt được khối lượng sản phẩm nhiều nhất với chi phí sản xuất tiết kiệm và hạ giá thành. Giá thành sản phẩm xây lắp là căn cứ để tính toán, xác định hiệu quả kinh tế, các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. 1.2.2.2. Phân loại giá thành sản phẩm Để đáp ứng các yêu cầu của quản lý, hạch toán và kế hoạch hóa giá thành cũng như yêu cầu xây lắp giá cả hàng hóa, giá thành được xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều phạm vi tính toán khác nhau. Trong xây dựng cơ bản, giá thành sản phẩm được phân loại theo các tiêu thức sau: Căn cứ vào cơ số số liệu và thời điểm để tính giá thành thì giá thành sản xuất xây lắp được chia ra thành + Giá thành dự toán (ZDT) Là tổng số các chi phí dự toán để hoàn thành một khối lượng sản phẩm xây lắp. Giá dự toán được xác định trên cơ sở định mức theo thiết kế được duyệt và khung giá quy định đơn giá xây dựng cơ bản áp dụng vào từng vùng lãnh thổ, từng vùng địa phương do cấp có thẩm quyền ban hành. Giá thành dự toán nhỏ hơn so với giá trị dự toán công trình xây lắp ở phần lợi nhuận định mức.
- Như vậy: Giá trị dự toán = giá thành dự toán + Lợi nhuận định mức. Giá trị dự toán là do chi phí cho công tác xây dựng, lắp ráp các cấu kiện, lắp đặt các máy móc thiết bị.. bao gồm các chi phí vật liệu, chi phí nhân công, chi phí máy thi công và chi phí sản xuất chung cộng thêm phần lợi nhuận định mức. Lợi nhuận định mức là chỉ tiêu Nhà nước quy định để tích lũy cho xã hội do ngành xây dựng sáng tạo. + Giá thành kế hoạch (Zhk) Là giá thành xuất phát từ những điều kiện cụ thể ở mỗi đơn vị xây lắp trên cơ sở biện pháp thi công các định mức, đơn giá áp dụng trong đơn vị. Giá thành KH = Giá thành dự toán + Mức hạ giá thành dự toán. Giá thành kế hoạch cho phép chúng ta xem xét thấy được chính xác những chi phí phát sinh trong giai đoạn kế hoạch cũng như hiệu quả của các biện pháp kỹ thuật là hạ giá thành dự toán. Giá thành kế hoạch được xem là mục tiêu phấn đấu của các doanh nghiệp, là cơ sở đánh giá tình trạng thực hiện kế hoạch doanh nghiệp. + Giá thành thực tế ( Ztt) Là toàn bộ những chi phí thực tế đã hoàn thành bàn giao khối lượng xây, lắp mà đơn vị đã nhận thầu, giá thành thực thể được xác định theo số liệu kế toán. Đánh giá chính xác chất lượng hoạt động sản xuất của doanh nghiệp xây lắp thì cần phải so sánh các loại giá thành trên với nhau, vì giá thành dự toán mang tính chất xã hội nên việc so sánh giá thành thực tế với giá thành dự toán cho phép ta đánh giá được trình độ quản lý của doanh nghiệp xây lắp trong mối quan hệ chung với các doanh nghiệp xây lắp khác. Còn việc so sánh giá thành dự toán với giá thành thực tế cho phép ta đánh giá được sự tiến bộ hay yếu kém của doanh nghiệp xây lắp trong điều kiện cụ thể về cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ tổ chức quản lý của bản thân doanh nghiệp. Trong việc so sánh này cần đảm bảo tính thống nhất và có thể so sánh được, tức là phải thực hiện trên cùng một đối tượng tính giá thành. Về nguyên tắc thì mối quan hệ giữa các giá thành trên phải đảm bảo như sau: Zdt ( kh ( thị trường Đây cũng là nguyên tắc khi xây dựng giá thành và tổ chức thực hiện giá thành. 1.2.2.3. Căn cứ vào phạm vi tính giá thành
- Thì giá thành sản phẩm xây lắp được chia thành + Giá thành hoàn chỉnh: Phản ánh toàn bộ chi phí liên quan đến toàn bộ một công trình, hạng mục công trình hoàn thành hay chính là chi phí chi ra để tiến hành thi công một công trình, hạng mục công trình kể từ khi khởi công cho đến khi kết thúc, hoàn thành bàn giao cho bên A. Chi tiêu này cho phép đánh giá một cách tổng quát hiệu quả kinh tế của tính toán, vốn đầu tư cho một công trình, hạng mục công trình nhưng lại không đáp ứng được kịp thời các số liệu cần thiết cho việc quản lý sản xuất và giá thành trong suốt quá trình thi công công trình. Do vậy, để đáp ứng được yêu cầu quản lý và đảm bảo chỉ đạo sản xuất kịp thời, đòi hỏi phải xác định được giá thành khối lượng xây lắp hoàn thành quy ước. + Giá thành hoàn thành khối lượng xây lắp hoàn thành quy ước: Là giá thành của các khối lượng xây lắp, mà các khối lượng xây lắp đó phải thỏa mãn được các yêu cầu sau: - Phải nằm trong thiết kế và đảm bảo chất lượng kỹ thuật. - Phải được xác định cụ thể và được chủ đầu tư nghiệm thu và chấp nhận thanh toán. - Phải đạt điểm dừng kỹ thuật hợp lý. Giá thành khối lượng xây lắp hoàn thành quy ước phản ánh kịp thời chi phí cho đối tượng xây lắp trong quá trình thi công, từ đó giúp cho doanh nghiệp nắm bắt được kịp thời, chính xác các chi phí đã chi ra theo đối tượng để có biện pháp quản lý thích hợp. Tuy nhiên, chi tiêu này phản ánh không hoàn thiện, chính xác giá thành toàn bộ công trình. Ngoài ra, trong xây dựng cơ bản còn sử dụng hai chỉ tiêu giá thành sau: + Giá đấu thầu xây lắp: Là một loại giá thành xây lắp do chủ đầu tư đưa ra để các doanh nghiệp xây lắp các căn cứ vào đó tính toán giá thành của mình, dự thầu công tác xây lắp. Nếu thấy giá thành của mình thấp hơn giá thành của chủ đầu tư đưa ra thì sẽ tham gia đấu thầu thì công xây lắp công trình. + Về nguyên tắc, giá đấu thầu xây lắp chỉ được bằng hoặc nhỏ hơnm giá thành dự toán. Như vậy chủ đầu tư mới tiết kiệm được vốn, hạ thấp các chi phí lao động xã hội, phần thúc đẩy tăng năng xuất lao động xã hội. + Giá hợp đồng công tác xây lắp: Là một loại giá thành dự toán công tác xây lắp ghi trong hợp đồng được ký kết giữa chủ đầu tư và doanh nghiệp xây lắp sau khi đã thỏa
- thuận giao nhận thầu. Đây cũng là giá thành của doanh nghiệp xây lắp thắng thầu và được chủ đầu tư thỏa thuận ký hợp đồng giao thầu. Về nguyên tắc, giá thành hợp đồng công tác xây lắp chỉ nhỏ hơn hoặc bằng giá đấu thầu công tác xây lắp. Việc áp dụng hai loại giá thành trên là yếu tố quan trọng trong việc hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế xây dựng. Nó sử dụng quan hệ tiền hàng,tạo ra sự mềm dẻo nhất định trong mối quan hệ giữa chủ đầu tư và doanh nghiệp xây lắp. Trong việc định giá sản phẩm xây lắp cũng như chủ động kinh doanh, thích hợp với cơ chế thị trường, cạnh tranh lành mạnh.
- 1.3 Đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm xây lắp 1.3.1 Đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất: Là đối tượng để tập hợp chi phí sản xuất, là phạm vi giới hạn mà các chi phí sản xuất cần được tập hợp theo đó. Trong sản xuất xây lắp, do đặc điểm sản phẩm có tính đơn chiếc nên đối tượng hạch toán chi phí th ường theo đơn đặt hàng hoặc cũng có thể là một hạng mục công trình, nhóm hay mục công trình. Tập hợp chi phí sản xuất theo đúng đối tượng có tác dụng phục vụ tốt cho việc tăng cường quản lý sản xuất và chi phí sản xuất, cho công tác hạch toán kinh tế nội bộ và hạch toán toàn doanh nghiệp, phục vụ cho công tác tính giá thành sản phẩm được kịp thời, chính xác. Đối tượng tính giá thành là các loại sản phẩm, công việc, lao vụ do doanh nghiệp sản xuất ra cần phải tính được giá thành và giá thành đơn vị. Trong sản xuất xây dựng cơ bản sản phẩm có tính đơn chiếc, đối tượng tính giá thành là từng công trình, hạng mục công trình đã được xây dựng hoàn thành. Ngoài ra đối tượng tính giá thành cũng có thể là từng giai đoạn công trình hoặc từng giai đoạn hoàn thành quy ước, tùy thuộc vào phương thức bàn giao thanh toán giữa đơn vị xây lắp và chủ đầu tư. Trong các doanh nghiệp xây lắp đối tượng tính giá thành thường trung hợp với đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, nó có thể là: Công trình hạng mục công trình hay khối lượng xây lắp hoàn thành bàn giao. Tuy nhiên, trong sản xuất phụ (như sản xuất gạch, ngói.) thì đối tượng tính giá thành có thể là một đơn vị sản phẩm, lao vụ cung cấp. Như vậy về cơ bản, đối tượng tính giá thành có nội dung khác so với đối tượng tập hợp chi phí. Đối tượng tập hợp chi phí là căn cứ vào để mở các tài khoản, các sổ chi tiết tổ chức ghi chép ban đầu tập hợp số liệu chi phí sản xuất chi tiết theo từng đối tượng. Còn đối tượng tính giá thành lại là căn cứ để tính sản phẩm theo từng đối tượng phục vụ cho công trình, kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch tính giá thành sản phẩm, tính toán hiệu quả từ đó có cơ sở để giảm chi phí và hạ giá thành sản phẩm 1.3.2 Đối tượng tính giá thành sản phẩm xây lắp
- Đối tượng tính giá thành là các loại sản phẩm, công việc, lao vụ doanh nghiệp sản xuất chế tạo và thực hiện cần được tính tổng giá thành và giá thành đơn vị. Xác định đúng đối tượng tính giá thành là công việc đầu tiên trong công tác tính giá thành sản phẩm, nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc tính giá thành một cách đầy đủ chính xác. Khi xác định đối tính giá thành người ta cũng phải dựa vào một số nhân tố cụ thể như: đặc điểm tổ chức sản xuất và cơ cấu sản xuất, các yêu cầu quản lý, yêu cầu cung cấp thông tin cho việc ra quyết định trong doanh nghiệp, khả năng và trình độ quản lý hạch toán. Trong doanh nghiệp xây lắp, đối tượng tính giá thành thường trùng với đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất, đó có thể là công trình, hạng mục công trình hay khối lượng xây lắp hoàn thành bàn giao. Như vậy trong một số trường hợp đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành trùng nhau, tuy nhiên đây là hai khái niệm khác nhau. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là căn cứ để tổ chức hạch toán chi tiết chi phí theo đối tượng chịu chi phí, dựa vào đặc điểm phát sinh chi phí. Mục tiêu của nó là tăng cường công tác quản lý chi phí và thực hiện chế độ hạch toán kinh tế. Đối tượng tính giá thành lại là căn cứ để lập bảng biểu chi tiết giá thành và tổ chức công tác tính giá thành theo từng đối tượng phục vụ cho việc kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm. Bởi thế một đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất có thể bao gồm nhiều đối tượng tính giá thành sản xuất và ngược lại. 1.3.3. Mối quan hệ giữa chi phí và giá thành sản phẩm xây lắp Giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm: Chi phí biểu hiện mặt hao phí, còn giá thành biểu hiện mặt kết quả của quá trình sản xuất. Đây là hai mặt thống nhất của cùng một quá trình, vì vậy chúng giống nhau về chất. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp đều bao gồm các hao phí về lao động và lao động vật hóa mà doanh nghiệp xây lắp đã bỏ ra trong quá trình thi công. Tuy nhiên, do bộ phận chi phí sản xuất lại khác nhau về lượng. Điều đó được thể hiện qua sơ đồ 1 CPSX D2 đầu kỳ CPSX trong kỳ (A) (B)
- CPSX D2 cuối kỳ Tổng giá thành sản phẩm (D) (C) Qua sơ đồ ta thấy: (D) = (A) + (B) - (C) cụ thể là: Tổng giáthành Chi phí dở dang Chi phí phát sinh Chi phí dở = dang đầu kỳ + - dang cuối kỳ sản phẩm trong kỳ Giá thành sản phẩm xây lắp và chi phí chỉ thống nhất về lượng trong trường hợp đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành là một công trình, HMCT được hoàn thành trong kỳ tính giá thành hoặc giá trị khối lượng xây lắp dở dang ở đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau. 1.4 Phương pháp kế toán tập hợp chi phí sản xuất và phương pháp tính giá thành sản phẩm xây lắp. Do có sự khác nhau cơ bản giữa đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm mà có sự phân biệt giữa phuơng pháp hạch toán chi phí và phương pháp tính giá thành sản phẩm Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp được thực hiện ở TK 154- chi phí sản xuất kinh doanh dở dang TK này được mở chi tiết cho từng công trình, HMCT. Kết cấu của TK 154. Bên Nợ: Tập hợp toàn bộ chi phí thực tế phát sinh trong kỳ Bên Có: Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất - Giá thành thực tế khối lượng xây lắp hoàn thành, bàn giao Dư nợ: - Chi phí dở dang cuối kỳ Phương pháp hạch toán cụ thể - Tổng chi phí xây lắp theo khối lượng (CT, HMCT) và chi tiết theo khoản mục: Nợ TK 154 Có TK: Liên quan (621, 622, 627) - Phản ánh giá thành công trình xây lắp hoàn thành, bàn giao (chi tiết CT,HMCT) Nợ TK 632 Có TK 154
- 1.4.1 Phương pháp kế toán tập hợp chi phí sản xuất. Là một phương pháp hay hệ thống các phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại các chi phí sản xuất trong phạm vi giới hạn của đối tượng hạch toán chi tiết. Do đặc thù của ngành sản xuất xây lắp nên thông thường sử dụng một số phương pháp hạch toán chi phí sản xuất sau: + Phương pháp sản xuất hạch toán theo công trình, hạng mục công trình. hàng tháng chi phí sản xuất phát sinh liên quan đến công trình, hạng mục công trình chi phí nào thì tập hợp cho công trình, hạng mục công trình đó. Các khoản chi phí được phân chia theo các khoản mục giá thành, giá thành thực tế của đối tượng đó là tổng số chi phí được tập hợp cho từng đối tượng kể từ khi khởi công cho đến khi hoàn thành. + Phương pháp hạch toán theo chi phí theo đơn đặt hàng: Chi phí phát sinh hàng tháng sẽ được tập hợp và phân loại hoặc theo đơn đặt hàng riêng biệt. Khi đơn đặt hàng hoàn thành tổng chi phí phát sinh tập hợp theo đơn đặt hàng từ lúc khởi công đến khi hoàn thành là giá thành thực tế của từng đơn đặt hàng đó. + Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất theo đơn vị thi công (Công trường, đội thi công): Các chi phí phát sinh được tập hợp theo từng đơn vị thi công. Trong từng đơn vị đó chi phí lại tập hợp theo từng đối tượng chịu chi phí như: HMCT, nhóm HMCT… cuối tháng tổng hợp chi phí sản xuất phát sinh của từng đơn vị thi công so sánh với dự toán cấp phát để xác định hạch toán, kế toán nội bộ, khi CT, HMCT hoàn thành phải tính giá riêng cho Ct, HMCT đó bằng các phương pháp tính giá thành thích hợp. 1.4.1.1 Kế toán tập hợp chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp theo phương pháp kê khai thường xuyên. 1.4.1.1.1Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp sản phẩm xây lắp bao gồm giá thực tế của toàn bộ nguyên vật liêụ chính, vật liệu phụ, cấu kiện và các bộ phận kết cấu công trình đã sử dụng trong quá trình sản xuất xây lắp từng công trình, hạng mục công trình. Nó không bao gồm giá trị vật liệu, nhiên liệu sử dụng cho máy thi công và vật liệu cho đối tượng quản lý công trình. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp còn bao gồm cả chi phí cốp pha, dàn giáo công cụ, dụng cụ được sử dụng nhiều lần. Tài khoản sử dụng: Để tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp kế toán sử dụng tài khoản 621 – Chi phí nguyên vật liệu trực tiêp. Tài khoản 621 được mở chi tiết cho
- từng công trình, hạng mục công trình, khối lượng xây lắp và các giai đoạn công việc có dự toán riêng. Ngoài ra kế toán còn sử dụng một số tài khoản khác như: 111, 112, 152, 153, 331.
- Quá trình kế toán nguyên vật liệu trực tiếp được mô tả qua sơ đồ sau: TK 152,153 TK 621 TK 154 Trị giá NVL xuất kho dùng cho hoạt động xây lắp TK 111, 112, 331 Trị giá NVL thực dùng cho HĐ XL Giá trị NVL mua ngoài trực tiếp cho hoạt động xây lắp TK 133 Thuế VAT được khấu trừ Sơ đồ 1: Sơ đồ kế toán tập hợp chi phí NVLTT 1.4.1.1.2 kế toán tập hợp chi phí nhân công trực tiếp: Chi phí nhân công trực tiếp trong doanh nghiệp xây lắp bao gồm tiền lương chính, lương phụ, các khoản phụ cấp có tính chất ổn định của công nhân trực tiếp xây lắp thuộc đơn vị và số tiền thuê ngoài lao động trực tiếp xây lắp để hoàn thành sản phẩm theo đơn giá xây dựng cơ bản. Nó không bao gồm các bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí
- công đoàn trích trên tiền lương của công nhân xây lắp, tiền lương phải trả của cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, nhân viên quản lý đội công trình và tiền lương của công nhân điều khiển máy thi công. Chi phí nhân công trực tiếp cũng được tập hợp riêng theo từng đối tượng tập hợp chi phí. Tài khoản sử dụng: Để tập hợp chi phí nhân công trực tiếp kế toán sử dụng tài khoản 622 - Chi phí nhân công trực tiếp. Tài khoản 622 được mơ chi tiết cho từng công trình, hạng mục công trình hay giai đoạn công việc. Quá trình kế toán chi phí nhân công trực tiếp được thể hiện qua sơ đồ sau (Hình 2) TK 334 TK 622 TK 154 Tiền lương phải trả cho Người lao động TK 111 Kết chuyển chi phí nhân công cuối kỳ Sơ đồ 2: Sơ đồ kế toán tập hợp chi phí NCTT 1.4.1.1.3 Kế toán tập hợp chi phí sử dụng máy thi công Đây là khoản chi phí liên quan trực tiếp đến việc sử dụng máy móc thi công nhằm thực hiện khối lượng công tác xây lắp bằng máy, việc hạch toán chi phí sử dụng máy thi công phụ thuộc vào hình thức sử dụng máy thi công. Nếu doanh nghiệp có tổ chức đội máy thi công riêng biệt và có phân cấp hạch toán cho bộ máy tổ chức hạch toán kế toán riêng, thì tất cả các chi phí liên quan tới hoạt động của đội máy thi công được tính vào các khoản mục chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiép và chi phí sản xuất chung chứ không phải phản ánh vào khoản mục chi phí sử dụng máy thi công sau đó các khoản mục này được kếtg chuyển để tính giá
- thành kết cấu cho một ca máy thực hiện và cung cấp cho các đối tượng xây lắp (công trình HMCT) Quan hệ giữa đội máy thi công với dơn vị xây lắp có thể thực hiện theo phương thức cung cấp lao vụ máy lẫn nhau giữa các bộ phận hay có thể thực hiện theo phương thức bán lao vụ máy lẫn nhau giữa các bộ phận trong nội bộ. Nếu doanh nghiệp không tổ chức các đội máy thi công riêng biệt hoặc có tổ chức đội máy thi công riêng biệt nhưng không tổ chứckế toán riêng cho đội máy thi công và thực hiện phương thức thi công hỗn hợp vừa thủ công vừa kết hợp băng máy thì các chi phí liên quan tới hoạt động của đội máy thi công, được tính vào khoản mục chi phí sử dụng máy thi công. Sau đó tính phân bố chi phí sử dụng máy thi công thực tế cho từng công trình, HMCT. Trường hợp doanh nghiệp thực hiện giao khoán giá trị xây lắp nội bộ cho đơn vị nhận khoán (Không tổ chức kế toán riêng) thì doanh nghiệp không theo dõi chi phí phát sinh thực tế mà chỉ theo dõi tiền tạm ứng chi phí máy thi công và thanh toán tiền tạm ứng khi có bảng quyết toán tạm ứng về giá trị khối lượng xây lắp hoàn thành đã bàn giao được duyệt. Để hạch toán chi phí sử dụng máy thi công, hàng ngày các đội xe máy phải lập "nhật trình xe máy" hoặc "phiếu theo dõi hoạt động máy thi công ". Định kỳ kế toán thu hồi các chứng từ để tổng hợp các chi phí phục vụ cho xe máy thi công cũng như kết quả thực hiện của từng loại máy, từng nhóm máy. Sau đó tính phân bổ chi phí sử dụng máy cho các đối tượng xây lắp. Tài khoản sử dụng: TK 623 - chi phí sử dụng MCT Bên Nợ: Các chi phí liên quan đến máy thi công chi phí nguyên liệu cho máy hoạt động, chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp lương, tiền công của công nhân trực tiếp điều khiển máy… Bên Có: Kết chuyển chi phí sử dụng máy thi công vào bên nợ TK 154 - chi phí sản xuất kinh doanh dở dang Tài khoản 623 không có số dư cuối kỳ Trình tự hạch toán chi phí sử dụng máy thi công A. Nếu doanh nghiệp tổ chức đội máy thi công riêng biệt và có phân cấp quản lý để theo dõi riêng chi phí như một bộ phận sản xuất độc lập. Kế toán phản ánh như sau.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn tốt nghiệp: Tổ chức công tác kế toán nguyên vật liệu tại công ty cổ phần xây dựng thuỷ lợi thuỷ điện I Sơn La
90 p | 558 | 305
-
Báo cáo tổng hợp: Thực tế tổ chức kế toán tại Công ty cổ phần đầu tư xây dựng & Thương mại Tường Minh
34 p | 448 | 177
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Tổ chức công tác kế toán tại các cơ sở y tế công lập tỉnh Quảng Ngãi
281 p | 431 | 125
-
Báo cáo tốt nghiệp: Tổ chức công tác kế toán nguyên vật liệu - công cụ dụng cụ ở Công ty XD số 34
82 p | 293 | 84
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ: Tổ chức công tác kế toán đầu tư xây dựng cơ bản tại ban quản lý dự án cầu Rồng
13 p | 254 | 76
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tổ chức công tác kế toán trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
114 p | 213 | 61
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ: Hoàn thiện tổ chức công tác kế toán tại trường Cao đẳng Đức Trí Đà Nẵng
26 p | 221 | 60
-
Luận văn kế toán: Tổ chức công tác kế toán thành phần và tiêu thu thành phẩm tại công ty cơ khí Quang Trung
74 p | 194 | 28
-
Luận văn Đổi mới tổ chức, quản lý ở Công ty Vận tải đa phương thức theo mô hình Công ty mẹ - công ty con
115 p | 117 | 19
-
Luận văn Thực tế tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty đầu tư xây dựng Hồng Hà
84 p | 125 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện tổ chức công tác kế toán tại Công ty cổ phần 32
130 p | 23 | 14
-
Luận án tiến sĩ Kinh tế: Tổ chức công tác kế toán tại các doanh nghiệp ngành may mặc trên địa bàn tỉnh Hải Dương trong điều kiện ứng dụng công nghệ thông tin
234 p | 90 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tổ chức công tác kế toán tại các cơ quan bảo hiểm xã hội quận, huyện trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
132 p | 47 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tổ chức công tác kế toán tại Học viện Trung tâm - Học viên Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
123 p | 29 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tổ chức công tác kế toán trong điều kiện vận dụng ERP tại Công ty TNHH Silk Việt Nam – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện
94 p | 26 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tổ chức công tác kế toán quản trị tại Công ty cổ phần Sản xuất Kinh doanh Dịch vụ và Xuất nhập khẩu quận I (Fimexco)
135 p | 26 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kế toán: Hoàn thiện tổ chức công tác kế toán tại Trung tâm y tế huyện Krông Ana, tỉnh Đăk Lăk
109 p | 4 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn