Luận văn: Thực tiễn áp dụng luật thuế GTGT ở Việt Nam và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện luật thuế GTGT ở nước ta
lượt xem 69
download
Trong nền kinh tế hiện đại, thuế không chỉ là công cụ thu ngân sách Nhà nước mà còn là một công cụ của Nhà nước để quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Do vậy, khi nền kinh tế của mỗi nước chuyển sang một giai đoạn mới với những chủ trương, chính sách, định hướng sự phát triển kinh tế thay đổi thì chính sách thuế của quốc gia cũng phải được cải cách cho thích hợp. Nền kinh tế nước ta bước vào thời kỳ quá độ chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn: Thực tiễn áp dụng luật thuế GTGT ở Việt Nam và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện luật thuế GTGT ở nước ta
- Luận văn Thực tiễn áp dụng luật thuế GTGT ở Việt Nam và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện luật thuế GTGT ở nước ta 1
- LỜI NÓI ĐẦU Trong nền kinh tế hiện đại, thuế không chỉ là công cụ thu ngân sách Nhà nước mà còn là một công cụ của Nhà nước để quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Do vậy, khi nền kinh tế của mỗi nước chuyển sang một giai đoạn mới với những chủ trương, chính sách, định hướng sự phát triển kinh tế thay đổi thì chính sách thuế của quốc gia cũng phải được cải cách cho thích hợp. Nền kinh tế nước ta bước vào thời kỳ quá độ chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, sản xuất hàng hoá đang dần phát triển. Quốc hội khoá VIII, kỳ họp thứ 7 đã thông qua luật thuế doanh thu ngày 30/06/1990 nhằm thay thế một số loại thuế trước đó để đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế và sự bình đẳng, công bằng về chính sách động viên thuế giữa những người tiêu dùng vào ngân sách Nhà nước. Qua một thời gian thực hiện, thuế doanh thu đã bộc lộ những nhược điểm như tính chồng chéo, trùng lặp, có nhiều mức thuế suất, thuế quan nhập khẩu không ổn định gây thất thu cho ngân sách quốc gia, hệ thống thuế không theo kịp sự phát triển của nền kinh tế... Trước sự đòi hỏi khách quan đó, Luật thuế GTGT được Chính phủ và Bộ Tài Chính nghiên cứu ban hành và có hiệu lực từ ngày 01/01/1999 không những là một đòn bẩy chiến lược hạn chế nhược điểm của luật thuế doanh thu và hệ thống thuế cũ mà còn vì những mục tiêu phát triển bền vững của đất nước, thích ứng với sự đòi hỏi của nền kinh tế, của quá trình hội nhập trong khu vực và quốc tế trong thời kỳ mới. Nhằm hiểu sâu hơn về một chính sách thuế mới của Nhà nước, cũng như để thấy được những tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước chính là những lý do mà em chọn đề tài này để nghiên cứu. Về bố cục nội dung, đề tài được chia làm ba chương nhỏ: 2
- Chương I: Một số nội dung chung về thuế GTGT Chương II: Nội dung cơ bản của luật thuế GTGT ở nước ta. Chương III: Thực tiễn áp dụng luật thuế GTGT ở Việt Nam và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện luật thuế GTGT ở nước ta. CHƯƠNG I: MỘT SỐ NỘI DUNG CHUNG VỀ THUẾ GTGT I./ Khái niệm thuế giá trị gia tăng. Thuế GTGT là một loại thuế gián thu, thu trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng và được nộp vào ngân sách theo mức độ tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ. Giá trị gia tăng (GTGT) là giá trị tăng thêm của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ phát sinh từ quá trình sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng, được xác định làm căn cứ tính thuế GTGT. II./ Quá trình ra đời và phát triển của thuế GTGT trên thế giới Thuế GTGT có nguồn gốc từ thuế doanh thu đ ược nghiên cứu và áp dụng từ sau Đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914-1918) nhằm động viên sự đóng góp rộng rãi của quảng đại quần chúng nhân dân c ho nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, để nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh. Thuế doanh thu được áp dụng ở Pháp từ năm 1917. Thời kỳ đầu, thuế doanh thu chỉ đánh ở giai đoạn cuối c ùng của quá trình lưu thông hàng hoá (khâu bán lẻ), với thuế suất rất thấp. Đầu năm 1920, thuế doanh thu được điều chỉnh, đánh vào từng khâu của quá trình sản xuất. Trong thực tế, cách đánh thuế này đã phát sinh nhược điểm về tính chất trùng lắp. Nói cách khác, quá trình sản xuất ra sản phẩm càng qua nhiều khâu thì thuế càng cao và thuế chồng lên thuế. Để khắc phục nhược điểm này, năm 1936, Pháp đã cải 3
- tiến thuế doanh thu qua hình thức đánh thuế một lần vào công đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất (tức là khi sản phẩm được đưa vào lưu thông lần đầu). Như vậy, việc đánh thuế độc lập, một lần với độ dài của quá trình sản xuất, khắc phục được hiện tượng đánh thuế trùng lắp trước đó. Tuy nhiên, chính sách thuế này lại phát sinh nhược điểm là việc thu thuế bị chậm trễ so với trước vì chỉ khi sản phẩm được đưa vào lưu thông lần đầu Nhà nước mới thu được thuế... Qua nhiều lần sửa đổi, bổ xung, thuế doanh thu vẫn còn nhược điểm nổi bật là thuế thu chồng chéo, trùng lắp... Đến năm 1954, Chính phủ Pháp đã ban hành loại thuế mới với tên gọi là thuế giá trị gia tăng, theo tiếng Pháp là TAXE SUR LA VALUER AJOUTEE (được viết tắt là T.V.A). Lúc đầu, TVA được ban hành để áp dụng trước đối với ngành sản xuất, chủ yếu nhằm hạn chế việc thu thuế chồng chéo qua nhiều khâu trong lĩnh vực công nghiệp, với thuế suất đồng loạt là 20% và chỉ khấu trừ thuế ở khâu trước đối với nguyên vật liệu. Quá trình thống nhất hoá Châu Âu được thúc đẩy vào những năm 50 đã có tác dụng thuận lợi để TVA được nhanh chóng triển khai ở các nước khác. Đến năm 1966, trong xu hướng cải tiến hệ thống thuế “đơn giản và hiện đại” chung ở Châu Âu, TVA được ban hành chính thức để thay thế một số sắc thuế gián thu. Từ năm 1978, theo yêu cầu điều hoà luật pháp của các nước thành viên Cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC), nước Pháp điều chỉnh lại luật tài chính, trong đó có phần quan trọng liên quan đến TVA. Năm 1986, TVA ở Pháp được áp dụng rộng rãi đối với tất cả các ngành nghề sản xuất, lưu thông hàng hoá, dịch vụ, nhằm đáp ứng hai mục tiêu quan trọng: Bảo đảm số thu kịp thời, thường xuyên cho ngân sách Nhà nước và khắc phục tình trạng thu thuế trùng lắp của thuế doanh thu. Về tên gọi, có nhiều nước gọi là thuế giá trị gia tăng, điển hình là Pháp, Anh, Thuỵ Điển... Một số nước gọi là thuế hàng hoá và dịch vụ như Canada, New Zealand ... Ở Phần Lan, Áo, Đức vẫn dùng tên gọi cũ là thuế doanh thu, với quan điểm cho rằng, đây không phải là sắc thuế mới mà bản chất vẫn như thuế doanh 4
- thu cũ, chỉ thay đổi nội dung, biện pháp thu. Mặt khác, các nước này còn có lập luận cho là đối với hàng nhập khẩu, thuế GTGT đánh trên trị giá hàng nhập, nên không có ý nghĩa là thuế đánh trên giá trị tăng thêm nữa... Một số nước sử dụng thuế GTGT không chỉ để thay thế các loại thuế gián thu với nhiều nhược điểm, mà còn nhằm tăng thu cho ngân sách nhà nước (như Chi Lê, Đan Mạch...). Một số nước coi loại thuế này như một nguồn thu mới, cho phép giảm hoặc huỷ bỏ một số sắc thuế khác. Hiện nay, thuế GTGT được đánh giá như một nguồn thu đang nổi lên, kết hợp với tăng tiêu dùng, đã trở thành một yếu tố quan trọng trong tổng số thu của các nước đang sử dụng loại thuế này. Nhiều nước đã xác định là số thu của họ trong năm đầu áp dụng thuế GTGT đã đem lại kết quả cao hơn thuế doanh thu trước đó. Ở Indonesia, thuế GTGT thu ở khâu sản xuất, chế biến, trong năm đầu áp dụng đã bảo đảm số thu tăng gần 45% so với mục tiêu đề ra, căn cứ theo tài liệu của thuế doanh thu. Ở các nước Áo, Chi Lê, Đan Mạch, Pháp, Ma Rốc, Pêru, trong năm đầu áp dụng, thuế GTGT cũng đã tăng khoảng 20% so với thuế doanh thu cũ, mặc dù lúc đó, hệ thống quản lý chưa được hoàn chỉnh. III./ Những điểm giống nhau và khác nhau giữa thuế GTGT và thuế doanh thu a. Những điểm giống nhau Thuế GTGT và thuế doanh thu đều là thuế gián thu đánh vào người tiêu dùng hàng hoá hoặc được cung ứng dịch vụ. Thuế này do người sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nộp cho Nhà nước, nhưng thực chất người tiêu dùng là người chịu thuế. Nhà doanh nghiệp đóng vai trò là người thu hộ thuế cho Nhà nước, họ đã cộng số thuế gián thu phải nộp vào giá bán sản phẩm hoặc dịch vụ để người tiêu dùng trả, nên họ phải nộp đầy đủ số thuế thu hộ này vào ngân sách Nhà nước. 5
- Thuế gián thu bảo đảm cho mọi người có thể tự do lựa chọn hàng hoa, quyết định tiêu dùng để chịu thuế cao hay thấp tuỳ thuộc vào túi tiền, sở thích của mình. Thuế tránh được mối quan hệ trực tiếp giữa người tiêu dùng là người chịu thuế với cơ quan thuế nên có phần dễ thu hơn thuế trực thu. Về mặt quản lý, thuế GTGT và thuế doanh thu không quan tâm đến các khoản chi phí hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của doanh nghiệp, nên chi phí quản lý có phần thấp hơn thuế trực thu. b. Những điểm khác nhau: - Thuế GTGT chỉ đánh vào giá trị tăng thêm của sản phẩm ở từng khâu sản xuất, lưu thông. Nhưng thuế doanh thu lại đánh trên toàn bộ doanh thu của sản phẩm, qua mỗi lần chuyển dịch từ sản xuất đến lưu thông. - Thuế GTGT có khấu trừ thuế ở các giai đoạn trước. Thuế doanh thu không khấu trừ thuế đã nộp ở giai đoạn trước. - Tổng số thuế GTGT thu đối với từng sản phẩm không phụ thuộc vào sự tổ chức và phân chia các chu trình kinh tế; dù các công đoạn sản xuất, kinh doanh được chuyên môn hoá cao, tập trung ở một doanh nghiệp hay phân chia cho nhiều doanh nghiệp, tổng số thuế thu đ ược vẫn bằng nhau. Ngược lại, số thuế doanh thu đối với từng sản phẩm phụ thuộc vào sự tổ chức và phân chia các chu trình kinh tế. Sản phẩm hàng hoá càng trải qua nhiều công đoạn sản xuất, lưu thông thì tổng số thuế thu đối với từng sản phẩm từ khâu đầu đến khâu cuối cùng mà người tiêu dùng phải chịu càng cao. - Thuế GTGT thường có số lượng thuế suất ít hơn thuế doanh thu, nên có phần đơn giản, rõ ràng, dễ thực hiện hơn thuế doanh thu. IV. Ưu, nhược điểm của thuế GTGT. 6
- a. Ưu điểm chủ yếu của thuế GTGT: - Tránh được hiện tượng đánh thuế chồng lên thuế, phù hợp với nền kinh tế sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường. - Thuế GTGT thuộc loại thuế đánh vào tiêu dùng được áp dụng rộng rãi đối với mọi tổ chức, cá nhân có tiêu dùng sản phẩm, hàng hoá, hoặc được cung ứng dịch vụ, nên có thể tạo được nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước. - Thuế tính trên giá bán hàng hoá, dịch vu, nên không phải đi sâu xem xét, phân tích về tính hợp lý, hợp lệ của các khoản chi phí, làm cho việc tổ chức quản lý thu tương đối dễ dàng hơn các loại thuế trực thu. - Thuế được hoàn đối với hàng xuất khẩu nên có tác dụng giảm chi phí, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo điều kiện cho hàng xuất khẩu có thể cành tranh thuận lợi trên thị trường quốc tế. - Thuế GTGT kết hợp với thuế nhập khẩu làm tăng giá vốn đối với hàng nhập khẩu, có tác dụng tích cực bảo vệ sản xuất, kinh doanh hàng nội địa. - Tạo điều kiện thuận lợi cho việc chống thất thu thế đạt hiệu quả cao. Việc khấu trừ thuế GTGT được thực hiện căn cứ trên hoá đơn mua vào đã thúc đẩy người mua phải đòi hỏi người bán xuất hoá đơn, ghi doanh thu đúng vối hoạt động mua bán; khắc phục được tình trạng thông đồng giữa người mua và người bán để trốn lậu thuế. Ở khâu bán lẻ, thường xảy ra trốn lậu thuế. Người tiêu dùng không cần đòi hoá đơn, vì đối với họ không còn xảy ra việc khấu trừ thuế. Tuy vậy, ở khâu bán lẻ cuối cùng, giá trị tăng thêm thường không lớn, số thuế thu ở khâu này không nhiều. - Nâng cao được tính tự giác trong việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của người nộp thuế. Thông thường, trong chế độ kê khai nộp thuế GTGT, 7
- cơ quan thuế tạo điều kiện cho cơ sở kinh doanh tự kiểm tra, tự tính thuế, tự kê khai, tự nộp thuế. Từ đó tạo được tâm lý và cơ sở pháplý cho đơn vị kinh doanh không phải hiệp thương, thoả thuận về mức doanh thu, mức thuế đối với cơ quan thuế. Việc kiểm tra thuế GTGT cũng có mặt thuận lợi vì đã buộc người mua, người bán phải lập và lưu giữ chứng từ, hoá đơn đầy đủ, nên việc thu thuế tương đối sát với thực tế hoạt động kinh doanh. - Việc khấu trừ thuế đã nộp ở đầu vào còn có tác dụng khuyến khích hiện đại hoá, chuyên môn hoá sản xuất, tích cực đầu tư mua sắm trang thiết bị mới để hạ giá thành sản phẩm. Nhìn chung trong các sắc thuế gián thu, thuế GTGT được coi là phương pháp thu tiến bộ nhất hiện nay, được đánh giá cao do đạt được các mục tiêu lớn của chính sách thuế như tạo được nguồn thu lớn cho NSNN, đơn giản... b. Nhược điểm chủ yếu của thuế GTGT: - Chi phí về quản lý, thu thuế GTGT rất tốn kém. Để thực hiện tốt thuế GTGT, công tác ghi chép hoá đơn, sổ sách kế toán của người nộp thuế phải rõ ràng, minh bạch. Trên thực tế, không phải tất cả các doanh nghiệp vừa và lớn thuộc mọi thành phần kinh tế đều làm tốt công tác này. Do đó, hầu hết các nước đang thực hiện thuế GTGT đều phải sử dụng máy vi tính để đảm bảo chống thất thu thế đạt hiệu quả và quản lý thu thuế được thuận lợi. Nếu không theo dõi và quản lý thuế chặt chẽ, dễ xảy ra tình trạng phải hoàn thuế nhiều hơn là thu thêm được thuế. - Thuế GTGT có ít thuế suất nên người tiêu dùng có thu nhập cao hay thấp thường phải nộp thuế giống nhau, thuế mang tính luỹ thoái. Tỷ lệ động viên qua thuế GTGT với người có thu nhập thấp lại lớn hơn tỷ 8
- lệ động viên đối với người có thu nhập cao, thuế không bảo đảm yêu cầu công bằng trong chính sách động viên giữa người nghèo và người giàu. Ở Mỹ, người ta đã tính thử, với thuế suất đồng loạt là 10% thì người nghèo phải nộp thuế này đến 14,20% thu nhập... Để khắc phục phần nào nhược điểm về tính luỹ thoái của thuế GTGT, một số nước không đánh thuế hoặc đánh thuế với thuế suất thấp đối với mặt hàng hoặc dịch vụ thiết yếu cho đời sống nhân dân, như lương thực, thực phẩm, thuốc thông thường, quần áo, đồ dùng học tập... - Giữa lý luận và thực tế, thuế GTGT cũng có những điểm chưa được nhất quán. thuế GTGT đánh trên phần giá trị tăng thêm nhưng đối với một số ngành dịch vụ (như phục vụ, sửa chữa, chuyển giao công nghệ, dịch vụ khoa học) cách đánh thuế và khấu trừ thuế GTGT như thế nào là hợp lý? Đối với tài sản cố định, mức khấu trừ thuế đã nộp ở đầu vào thế nào là thoả đáng... - Thuế GTGT có ưu điểm là tính trung lập rất cao đồng thời lại cũng có nhược điểm là thiếu linh hoạt, mềm dẻo, không thật thích hợp với nền kinh tế mới, bước đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế tham gia. 9
- CHƯƠNG II: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT THUẾ GTGT Ở NƯỚC TA I.Đối tượng đánh thuế và đối tượng nộp thuế 1/ Đối tượng đánh thuế Luật thuế GTGT và các văn bản hướng dẫn thi hành luật thuế GTGT của nhà nước quy định đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam. Hàng hoá chịu thuế GTGT bao gồm: - Hàng hoá, dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng trong nước. - Hàng hoá, dịch vụ được nhập khẩu để tiêu dùng trong nước. - Hàng hoá, dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng nội bộ. - Hàng hoá, dịch vụ được mua, bán dưới mọi hình thức, bao gồm cả trao đổi bằng hiện vật (không thanh toán bằng tiền). Hiện nay, luật thuế GTGT ở nước ta quy định danh mục 26 loại hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT. Những hàng hoá, dịch vụ này thường có một trong các tính chất sau: 1/ Là sản phẩm của một số ngành đang còn khó khăn, cần khuyến khích, tạo điều kiện phát triển như: sản xuất nông nghiệp, sản xuất muối, tưới tiêu nước phục vụ nông nghiêp; thiết bị, máy móc nhập khẩu mà trong nước chưa sản xuất được; chuyển giao công nghệ... 2/ Các hàng hoá, dịch vụ thuộc các hoạt động không mang tính chất kinh doanh vì lợi nhuận hoặc thuộc các hoạt động được ưu đãi vì mục tiêu xã hội, nhân đạo: Vũ khí, khí tài phục vụ anh ninh, quốc phòng; bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm học sinh; duy tu, sửa chữa các công trình văn hoá nghệ thuật, công trình công cộng; một số hàng hoá nhập khẩu có tính chất viện trợ, quà tặng từ nước ngoài... 3/ Một số hàng hoá, dịch vụ thiết yếu phục vụ nhu cầu đời sống sản xuất, cộng đồng, không đặt vấn đề điều tiết tiêu dùng như: dịch vụ y tế, văn hoá, 10
- giáo dục, đào tạo, thông tin đại chúng, vận chuyển hành khách công cộng bằng xe buýt... Tổ chức, cá nhân mua, bán, nhập khẩu hàng hoá, cung ứng dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT không được khấu trừ và hoàn thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ này ở khâu không chịu thuế GTGT. 2/ Đối tượng nộp thuế Là tất cả các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT ở Việt nam, không phân biệt nghành nghề, hình thức tổ chức kinh doanh (gọi chung là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân khác có nhập khẩu hàng hoá chịu thuế GTGT (gọi chung là người nhập khẩu). II. Căn cứ tính thuế Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất. 1/ Giá tính thuế Giá tính thuế GTGT được quy định cụ thể như sau: 1. Đối với hàng hoá, dịch vụ do cơ sở sản xuất, kinh doanh bán ra hoặc cung ứng cho đối tượng khác, giá tính thuế là giá bán chưa có thuế GTGT. 2. Đối với hàng hoá nhập khẩu, giá tính thuế là giá nhập khẩu tại cửa khẩu cộng với thuế nhập khẩu; giá nhập khẩu tại cửa khẩu là căn cứ tính thuế GTGT được xác định theo các quy định về tính thuế hàng hoá nhập khẩu. Trường hợp hàng hoá nhập khẩu được miễn, giảm thuế nhập khẩu thì giá tính thuế GTGT là giá hàng hoá nhập khẩu cộng thuế nhập khẩu xác định theo mức thuế đã được miễn, giảm. Đối với dịch vụ do phía nước ngoài cung ứng cho các đối tượng tiêu dùng ở Việt nam, giá chưa có thuế GTGT được xác định theo hợp đồng; 11
- trường hợp là hợp đồng không xác định cụ thể số thuế GTGT thì giá tính thuế GTGT là giá dịch vụ phải thanh toán trả cho phía nước ngoài. 3. Hàng hoá, dịch vụ dùng để trao đổi, sử dụng nội bộ, biếu tặng, giá tính thuế GTGT được xác định theo giá tính thuế của hàng hoá, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm phát sinh các hoạt động này. Đối với hàng xuất chuyển kho nội bộ, xuất vật tư, bán thành phẩm để tiếp tục quá trình sản xuất trong một cơ sở sản xuất, kinh doanh không phải tính, nộp thuế GTGT. 4. Hoạt động cho thuê tài sản bao gồm cho thuê nhà, xưởng, kho tàng, bến bãi, phương tiện vận chuyển; máy móc thiết bị v.v... Giá tính thuế gt là giá cho thuê chưa có thuế. Trường hợp cho thuê theo hình thức trả tiền thuê từng kỳ hoặc trả trước tiền thuê cho một thời hạn thuê thì giá tính thuế GTGT tính trên số tiền thuê trả từng kỳ hoặc trả trước bao gồm cả chi trả dưới hình thức khác như cho thuê nhà có thu tiền để hoàn thiện, sửa chữa, nâng cấp nhà cho thuê theo yêu cầu của bên thuê. 5. Đối với hàng hoá bản theo phương thức trả góp, giá tính thuế tính theo giá bán trả một lần chưa có thuế GTGT của hàng hoá đó (không bao gồm lãi trả góp, không tính theo số tiền trả góp từng kỳ). 6. Đối với gia công hàng hoá, giá tính thuế là giá gia công chưa có thuế, bao gồm tiền công, tiền nhiên liệu, động lực, vật liệu phụ và các chi phí khác để gia công. 7. Đối với hoạt động xây dựng, lắp đặt trang, thiết bị cho các công trình xây dựng (không phân biệt có bao thầu hay không bao thầu vật t ư, nguyên liệu) giá tính thuế GTGT là giá XD, lắp đặt chưa có thuế GTGT. Trường hợp xây dựng, lắp đặt công trình thực hiện thanh toán theo đơn giá và tiến độ hạng mục công trình, phần công việc hoàn thành bàn giao thì thuế GTGT tính trên phần giá trị hoàn thành bàn giao. 12
- Đối với hoạt động xây dựng một công trình, hạng mục công trình có nhiều đơn vị tham gia xây dựng, theo hình thức ký hợp đồng trực tiếp với chủ công trình hoặc nhận thầu lại thông qua nhà thầu chính thì từng nhà thầu phải tính, nộp thuế đối với phần giá trị công trình nhận thầu. 8. Đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ hưởng tiền công hoặc tiền hoa hồng như đại lý mua, bán hàng hoá, đại lý tàu biển, dịch vụ môi giới, uỷ thác xuất nhập khẩu hưởng hoa hồng, giá tính thuế là tiền công hoặc tiền hoa hồng được hưởng chưa trừ một khoản phí tổn nào mà cơ sở thu được từ việc thực hiện các hoạt động này. Hàng hoá do đại lý bán ra vẫn phải tính thuế GTGT trên giá bán ra. Đối với đại lý mua hoặc bán hàng hoá theo đúng giá bên chủ hàng quy định chỉ hưởng hoa hồng, hoa hồng chi cho đại lý đ ược hạch toán vào chi phí của bên chủ hàng thì bên dại lý không phải nộp thuế GTGT đối với khoản hoa hồng đại lý được hưởng từ hoạt động mua hoặc bán hàng hoá này. Thuế GTGT hàng hoá bán ra do chủ hàng kê khai, nộp. Đối với đại lý uỷ thác mua hoặc nhập khẩu hàng hoá khi xuất trả hàng cho chủ hàng, bên đại lý uỷ thác phải lập hoá đơn GTGT và ghi thuế GTGT đầu ra của hàng xuất trả theo đúng số thuế GTGT của hàng hoá nhập khẩu hoặc hàng mua (nếu có thuế). Đối với đại lý uỷ thác xuất khẩu: bên nhận uỷ thác phải sao gửi choa bên chủ hàng tờ khai hàng xuất khẩu có xác nhận của Hải quan về hàng thực tế đã xuất khẩu để bên chủ hàng kê khai thuế GTGT đầu ra đối với hàng hoá thực tế đã xuất khẩu. Đối với các chi nhánh, cửa hàng trực thuộc và đại lý bán mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt cho cơ sở sản xuất theo giá cơ sở sản xuất quy định, cơ sở sản xuất đã kê khai, nộp thuế TTĐB tính trên giá chi nhánh, cửa 13
- hàng, đại lý bán ra thì các chi nhánh, cửa hàng không phải kê khai, nộp thuế GTGT đối với mặt hàng này và tiền hoa hồng được hưởng. 9. Đối với hoạt động vận tải, bốc xếp, giá tính thuế là giá cước vận tải, bốc xếp chưa có thuế GTGT. Hoạt động vận tải bao gồm: vận tải hành khách, hàng hoá bằng các phương tiện đường sắt, đường bộ, đường thuỷ, đường hàng không, đường ống v.v.. Đối với hoạt động vận tải hàng không, tàu biển, đường sắt...có hoạt động vận tải quốc tế thì doanh thu vận tải quốc tế không chịu thuế GTGT. 10. Đối với hàng hoá, dịch vụ có tính đặc thù dùng các chứng từ như tem bưu chính, vé cước vận tải, vé xổ số kiến thiết... Trong đó giá thanh toán bao gồm cả các khoản phụ thu và phí thu thêm bên ngoài giá hàng hoá, dịch vụ mà cơ sở kinh doanh được hưởng. 2/ Thuế suất Luật thuế GTGT phân biệt 4 mức thuế suất khác nhau: 0%, 5%, 10% và 20% áp dụng đối với từng nhóm mặt hàng sản xuất hoặc nhập khẩu. Việc quy định các mức thuế suất khác nhau thể hiện chính sách điều tiết thu nhập và hướng dẫn tiêu dùng đối với hàng hoá, dịch vụ. Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, mặt bằng kinh doanh của các ngành nghề chưa đồng nhất, nên phân biệt mức thuế suất thuế GTGT khác nhau đối với từng nhóm mặt hàng là sự cần thiết. Hàng hoá xuất khẩu bao gồm cả hàng gia công xuất khẩu (xuất khẩu ra nước ngoài hoặc xuất khẩu vào khu chế xuất) được áp dụng mức thuế suất 0% nhằm thực hiện hoàn thuế đã thu ở khâu trước và khuyến khích xuất khẩu. Những hàng hoá, dịch vụ thiết yếu, phục vụ trực tiếp cho sản xuất và tiêu dùng được áp dụng mức thuế suất thấp là 5%. 14
- Các hàng hoá, dịch vụ không thiết yếu, cần điều tiết có mức thuế suất cao là 20%. Các hàng hoá, dịch vụ thông thường áp dụng mức thuế suất phổ thông 10%. Nếu cơ sở sản xuất, kinh doanh nhiều loại hàng hoá, dịch vụ chịu các mức thuế suất khác nhau thì phải tổ chức hạch toán riêng doanh thu từng loại hàng hoá, dịch vụ kinh doanh theo từng mức thuế suất quy định đối với từng loại hàng hoá, dịch vụ. Nếu không hạch toán được như vậy thì doanh nghiệp phải tính thuế GTGT theo mức thuế suất cao nhất của hàng hoá, dịch vụ mà cơ sở có sản xuất kinh doanh trên tổng doanh thu của tất cả các hàng hoá, dịch vụ bán ra trong kỳ. III/ Phương pháp tính thuế 1. Phương pháp khấu trừ thuế a/ Đối tượng áp dụng Các đơn vị, tổ chức kinh doanh chấp hành tốt công tác hạch toán kế toán và chế độ sử dụng hoá đơn chứng từ bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân, các công ty cổ phần, HTX và các đơn vị, tổ chức kinh doanh khác, trừ các đối tượng áp dụng tính thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT. Trường hợp cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế có hoạt động kinh doanh mua bán, vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ thì cơ sở phải hạch toán riêng hoạt động kinh doanh này để tính thuế trực tiếp trên GTGT. Phương pháp khấu trừ thuế có ưu điểm là: Đơn giản hoá được quá trình tính và thu thuế bằng cách chỉ cần tập hợp các hoá đơn bán và mua hàng đã tính sẵn số thuế đầu ra và số thuế đầu vào trên đó. 15
- Đảm bảo thu được đủ số thuế cần điều tiết ở người mua hàng cuối cùng vì đây thực chất là phương pháp trừ lùi số đã nộp để xác định số còn phải nộp. (Việc tính theo phương pháp trực tiếp có thể kết quả sẽ không khớp nếu tính GTGT ở các khâu không chính xác). b/ Xác định thuế GTGT phải nộp Theo phương pháp này người ta tính thuế trên toàn bộ trị giá hoá đơn bán ra sau đó trừ đi số thuế đã có trên các hoá đơn hàng hoá, dịch vụ mua vào để xác định số thuế phải nộp trong kỳ hạch toán. Cơ sở kinh doanh hàng hoá thuộc đối tượng tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế khi bán hàng hoá, dịch vụ phải tính thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ bán ra. Khi lập hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ, cơ sở kinh doanh phải ghi rõ giá bán chưa có thuế, thuế GTGT và tổng số tiền người mua phải thanh toán. Riêng đối với hàng hoá, dịch vụ đặc thù được dùng loại chứng từ ghi gía thanh toán là giá đã có thuế thì giá chưa có thuế và thuế GTGT đầu ra. Thuế GTGT đầu vào bằng tổng số thuế GTGT ghi trên hoá đơn GTGT mua hàng hoá, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế GTGT của hàng hoá nhập khẩu. Thuế GTGT đầu vào cơ sở kinh doanh được tính khấu trừ quy định như sau: - Thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng vào sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT thì mới được khấu trừ. - Thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ được khấu trừ phát sinh trong tháng nào được kê khai khấu trừ khi xác định số thuế phải nộp của tháng đó không phân biệt hàng hoá đã xuất dùng hay còn để trong kho. - Trường hợp cơ sở kinh doanh mua vật tư, hàng hoá không có hóa đơn, chứng từ thì không được khấu trừ thuế đầu vào, trừ các trường hợp có quy định riêng sau: 16
- Trường hợp hàng hoá, dịch vụ mua vào là loại được dùng chứng từ ghi giá thanh toán là giá đã có thuế GTGT thì cơ sở được căn cứ vào giá đã có thuế và phương pháp tính giá không có thuế để tính thuế GTGT đầu vào được khấu trừ. Trường hợp cơ sở sản xuất, chế biến, thương mại nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ mua nông sản, lâm sản, thuỷ sản chưa qua chế biến của người trực tiếp sản xuất, trực tiếp khai thác không có hoá đơn bán hàng thì được tính khấu trừ thuế đầu vào theo tỷ lệ (%) tính trên giá trị hàng hoá mua vào theo bản kê hoặc theo hoá đơn như sau: + Tỷ lệ 5% đối với sản phâm trồng trọt thuộc các loại cây lấy nhựa lấy mủ, lấy dầu, bông, mía cây, chè búp tươi, lúa, gạo, ngô, khoai, sắn; sản phẩm chăn nuôi là gia súc, gia cầm: cá, tôm và các loại thuỷ sản khác; + Tỷ lệ 3% đối với các loại sản phẩm là nông sản, lâm sản không được quy định trong nhóm được khấu trừ 5% trên đây. Việc tính khấu trừ thuế hoặc hoàn thuế đầu vào quy định trên đây không áp dụng đối với trường hợp các sản phẩm này được dùng làm nguyên liệu để sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu hoặc mua để xuất khẩu. - Các cơ sở sản xuất, chế biến nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ mua các loại phế liệu của người trực tiếp thu nhặt phế liệu không có hóa đơn nhưng có bản kê, hoặc mua của người thu gom có hoá đơn bán hàng thì được khấu trừ thuế đầu vào theo một tỷ lệ phần trăm (%) tính trên giá trị hàng hoá mua vào theo bản kê hoặc hoá đơn như sau: - Tỷ lệ 5% đối với sắt thép phế liệu. - Tỷ lệ 3% đối với các phế liệu khác. Các trường hợp khác, cơ sở sản xuất kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khấu trừ được khấu trừ thuế đầu vào như sau: 17
- - Tỷ lệ 5% đối với tiền bồi thường của hoạt động kinh doanh bảo hiểm. - Tỷ lệ 4% đối với hàng chịu thuế TTĐB của cơ sở kinh doanh thương mại mua của cơ sở sản xuất để bán. - Tỷ lệ 3% đối với đất, đá, cát, sỏi mà cơ sở sản xuất mua của người khai thác không có hoá đơn nhưng có bản kê hoặc mua của người kinh doanh có hoá đơn bán hàng. - Tỷ lệ 3% đối với tất cả các loại hàng khác mua của người kinh doanh có hoá đơn bán hàng. Trường hợp hàng hoá, dịch vụ mua vào dùng đồng thời cho sản xuất, kinh - doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT thì chỉ được khấu trừ số thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, chịu thuế GTGT. Cơ sở kinh doanh phải hạch toán riêng thuế đầu vào được khấu trừ và không được khấu trừ; trường hợp không hạch toán riêng thì được khấu trừ theo tỷ lệ % giữa doanh số chịu thuế GTGT so với tổng doanh số bán ra. 2. Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT a/ Đối tượng áp dụng - Cá nhân sản xuất, kinh doanh là người Việt Nam (người kinh doanh độc lập, hộ gia đình, các cá nhân hợp tác với nhau sản xuất kinh doanh không hình thành pháp nhân). - Tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam không theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn, chứng từ làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế. - Cơ sở kinh doanh mua, bán vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ. b/ Xác định thuế GTGT phải nộp 18
- - Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ bán ra là giá bán thực tế bên mua phải thanh toán cho bên bán bao gồm cả thuế GTGT và các khoản phụ thu, phí thu thêm mà bên mua phải trả. - Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng với hàng hoá, dịch vụ bán ra được xác định bằng giá trị hàng hoá, dịch vụ mua vào (giá mua bao gồm cả thuế GTGT) mà cơ sở sản xuất, kinh doanh đã dùng vào sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT bán ra. Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp trên GTGT không được tính giá trị tài sản mua ngoài, đầu tư xây dựng làm tài sản cố định vào doanh số hàng hoá, dịch vụ mua vào để tính GTGT. GTGT xác định đối với một số ngành nghề như sau: Đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh bán hàng, GTGT là số chênh lệch giữa doanh số bán với doanh số vật tư hàng hoá, dịch vụ mua vào dùng cho sản xuất, kinh doanh. Đối với hoạt động xây dựng, lắp đặt, GTGT là số chênh lệch giứa tiền thu về xây dựng, lắp đặt công trình, hạng mục công trình trừ (-) chi phí vật tư nguyên liệu, chi phí động lực, vận tải, dịch vụ và chi phí khác mua ngoài để phục vụ cho hoạt động xây dựng, lắp đặt công tr ình, hạng mục công trình. Đối với hoạt động vận tải, GTGT là số chênh lệch giữa tiền thu cước vận tải, bốc xếp trừ chi phí xăng dầu, phụ tùng thay thế và chi phí khác mua ngoài dùng cho hoạt động vận tải. Đối với hoạt động kinh doanh ăn uống, GTGT là số chênh lệch giữa tiền thu về bán hàng ăn uống, tiền phục vụ và các khoản thu khác trừ doanh số hàng hoá, dịch vụ mua ngoài dùng cho kinh doanh ăn uống. 19
- Đối với các hoạt động kinh doanh khác, GTGT là số chênh lệch giữa tiền thu về hoạt động kinh doanh trừ doanh số hàng hoá, dịch vụ mua ngoài để thực hiện hoạt động kinh doanh đó. Doanh số hàng hoá, dịch vụ bán ra bao gồm cả các khoản phụ thu, phí thu thêm ngoài giá bán mà cơ sở kinh doanh được hưởng, không phân biệt đã thu tiền hay chưa thu được tiền. Doanh số hàng hoá, dịch vụ mua vào bao gồm cả các khoản thuế và phí đã trả tính trong giá thanh toán hàng hoá, dịch vụ mua vào hoặc hàng hoá nhập khẩu. c/ Phương pháp xác định GTGT làm căn cứ tính thuế GTGT phải nộp đối với từng cơ sở kinh doanh như sau: - Đối với từng cơ sở kinh doanh đã thực hiện đầy đủ việc mua, bán hàng hoá, dịch vụ có hoá đơn, chứng từ, ghi chép sổ sách kế toán thì GTGT được xác định căn cứ vào giá mua, bán ghi trên chứng từ. - Đối với cơ sở kinh doanh đã thực hiện đầy đủ hoá đơn, chứng từ bán hàng hoá, dịch vụ, xác định được đúng doanh thu bán hàng hoá, dịch vụ theo đơn bán hàng hoá, dịch vụ nhưng không có đủ hoá đơn mua hàng hoá, dịch vụ thì GTGT được xác định bằng doanh thu nhân với tỷ lệ (%) GTGT tính trên doanh thu. - Đối với cá nhân (hộ) kinh doanh chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ hoá đơn mua, bán hàng hoá, dịch vụ thì cơ quan thuế căn cứ vào tình hình kinh doanh của từng hộ ấn định mức doanh thu tính thuế GTGT được xác định bằng doanh thu ấn định nhân với tỷ lệ (%) GTGT tính trên doanh thu. Tỷ lệ (%) GTGT tính trên doanh thu sẽ được tổng cục thuế hướng dẫn các cục thuế xác định phù hợp từng nghành nghề kinh doanh và hợp lý giữa các địa phương. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn: Nghiên cứu áp dụng 5S tạo môi trường làm việc hiệu quả tại các phòng ban chức năng của công ty cổ phần dịch vụ du lịch đường sắt Hà Nội
84 p | 319 | 91
-
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng nhập khẩu và thực tiễn áp dụng tại hợp tác xã Công nghiệp Quyết Tiến
59 p | 329 | 51
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và thực tiễn áp dụng trong việc giải quyết tranh chấp ly hôn
91 p | 439 | 50
-
LUẬN VĂN: Thực tiễn áp dụng pháp luật Giao Dịch Bảo Đảm trong hàng hải
80 p | 292 | 46
-
Luận văn: Thực tiễn áp dụng luật cạnh tranh
6 p | 212 | 30
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hà Giang
21 p | 172 | 20
-
Luận văn thạc sĩ Luật học: Chế định án treo trong luật Hình sự Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn
121 p | 114 | 18
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp theo pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng
58 p | 93 | 17
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự Việt Nam
14 p | 235 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Bảo hiểm xã hội tự nguyện - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng
117 p | 43 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về đào tạo nghề cho lao động nữ nông thôn qua thực tiễn áp dụng tại Tỉnh Quảng Bình
26 p | 54 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trong luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hải Phòng
108 p | 29 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hải Dương
118 p | 36 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba tại ngân hàng thương mại ở Việt Nam
110 p | 55 | 6
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng lao động, qua thực tiễn áp dụng tại các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
30 p | 154 | 6
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về dịch vụ xử lý chất thải ở các khu công nghiệp, qua thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Bình
23 p | 7 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực tiễn áp dụng Luật Phá sản Doanh nghiệp năm 1993
102 p | 38 | 3
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hải Dương
26 p | 63 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn