intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn: Thực trạng thu - chi quỹ BHXH tại phòng BHXH huyện Giao Thuỷ, Nam Định

Chia sẻ: Trần Nam | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:51

117
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn "Thực trạng thu - chi quỹ BHXH tại phòng BHXH huyện Giao Thuỷ" trình bày các nội dung chính như: Tổng quan về bảo hiểm xã hội và quỹ bảo hiểm xã hội, tình hình thu – chi bhxh tại phòng bảo hiểm xã hội huyện Giao Thủy, một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác thu - chi quỹ bảo hiểm xã hội ở bảo hiểm xã hội huyện Giao Thủy.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn: Thực trạng thu - chi quỹ BHXH tại phòng BHXH huyện Giao Thuỷ, Nam Định

  1. TRẦN VĂN PHÁC LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Đề tài: Thực trạng thu ­ chi quỹ BHXH tại phòng BHXH huyện   Giao Thuỷ (Nam Định). 1
  2. Hà Nội, ngày 15 tháng 4 năm 2014 MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU...........................................................................................................3 CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ BHXH VÀ QUỸ BHXH.....................................4 I. Sự cần thiết phải có BHXH....................................................................................4 II. Vai trò và những nguyên tắc của BHXH...............................................................5 III. Quỹ BHXH...........................................................................................................11 CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH THU – CHI BHXH TẠI PHÒNG BHXH HUYỆN  GIAO THỦY (NAM ĐỊNH).....................................................................................16 I. Vài nét giới thiệu về BHXH huyện Giao Thuỷ......................................................16 II. Tình hình thu BHXH huyện Giao Thuỷ.................................................................17 III. Tình hình chi BHXH.............................................................................................25 IV. Đánh giá công tác quản lý thu chi quỹ BHXH tại BHXH huyện Giao Thuỷ......33 CHƯƠNG III: MỘT SỐ   Ý KIẾN ĐỀ  XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG   TÁC THU ­ CHI QUỸ BHXH Ở BHXH HUYỆN GIAO THỦY.........................37 I. Đối với cơ quan BHXH nói chung..........................................................................37 II. Đối với BHXH huyện Giao Thuỷ..........................................................................42 KẾT LUẬN................................................................................................................46 TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................47 2
  3. LỜI NÓI ĐẦU Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời sớm ở  nước ta. Đây là một loại hình bảo hiểm đặc biệt, nó ít mang tính chất kinh doanh  thương mại mà chủ yếu là tính nhân dạo và nhân văn cao cả. Kể  từ  khi ra đời đến nay, nó đã góp phần làm  ổn định đời sống cho cán bộ  công nhân viên chức Nhà nước, quân nhân, những người lao động làm việc trong  các thành phần kinh tế của đất nước;  ổn định chính trị  ­ xã hội, thúc đẩy quá trình  xây dựng, phát triển và bảo vệ tổ quốc. Hiện nay, được sự  quan tâm của Nhà nước mà chính sách BHXH ngày càng  được thực hiện tốt và hiệu quả  hơn với các đối tượng tham gia nói trên. Để  việc   thực hiện BHXH tồn tại và phát huy được tác dụng của nó cần phải có một quỹ  BHXH và quỹ  đó phải hoạt động đúng mục đích tức là cơ  quan BHXH phải thực   hiện tốt công tác thu ­ chi quỹ BHXH. Qua thời gian thực tập tại phòng BHXH huyện Giao Thuỷ  em thấy BHXH   huyện Giao Thuỷ đã đạt được những kết quả thiết thực về hoạt động thu – chi quỹ  BHXH như: Chi đúng người, đúng đối tượng, kịp thời; thu quỹ  BHXH ngày càng   tăng v.v…Tuy nhiên bên cạnh dó vẫn còn một số tồn tại nhất định như: Thu BHXH   chưa dứt điểm, số  nợ  đọng vẫn còn, một vài cơ  sở  còn trốn nộp BHXH làm cho   hoạt động quỹ  BHXH tại phòng BHXH huyện Giao Thuỷ chưa đạt được kết quả  cao, tăng gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Nhận thức được tầm quan trọng của  công tác quản lý thu – chi quỹ BHXH như vậy, em đã chọn đề tài:  “Thực trạng thu   ­ chi quỹ  BHXH tại phòng BHXH huyện Giao Thuỷ  (Nam  Định)”  với mong  muốn được góp phần nhỏ bé của mình nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu  ­ chi  3
  4. quỹ  BHXH tại phòng BHXH huyện Giao Thuỷ nói riêng và trong hệ  thống BHXH  Việt Nam nói chung. Trong quá trình hoàn thành chuyên đề, do thời gian và nhận thức còn nhiều hạn  chế  nên không thể  tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự  chỉ  bảo của  các thầy cô giáo. Qua đây em xin gửi lời cảm  ơn tới thầy giáo PGS.TS Hồ Sĩ Sà đã   tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Hà Nội, ngày 15 tháng 4 năm 2014 Sinh viên: Trần Văn Phác CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ BHXH VÀ QUỸ BHXH I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI CÓ BHXH 1 ­ Sự ra đời của BHXH Nền sản xuất hàng hoá càng phát triển thì vấn đề  thuê mướn nhân công diễn  ra càng phổ  biến, mâu thuẫn giữa chủ  và thợ  ngày càng gia tăng. Đặc biệt khi   người lao động không may gặp rủi ro, sự  cố  như:  ốm đau, bệnh tật, tai nạn lao  động, mất việc làm…phải nghỉ  việc. Khi rơi vào những trường hợp này, các nhu  cầu cần thiết không những không mất đi mà còn tăng lên, thậm chí còn phát sinh ra   nhiều nhu cầu mới như: cần  được khám chữa bệnh,  điều trị  khi  ốm đau; cần   người nuôi dưỡng, chăm sóc khi gặp tai nạn, thương tật… Tổng thời gian nghỉ  việc người chủ không trả lương, làm cho người lao động càng gặp nhiều khó khăn  hơn và không yên tâm làm việc. Vì vậy, lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao   động nhưng sau đó đã phải cam kết cả việc bảo đảm cho người lao động có một   số thu nhập nhất định để họ trang trải khi không may gặp những khó khăn đó. Trong thực tế, nhiều khi các rủi ro trên không xẩy ra và người chủ không phải   chi ra đồng nào nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ phải bỏ ra một khoản   tiền rất lớn mà họ  không muốn. Do đó, mâu thuẫn chủ  thợ  càng trở  nên vô cùng  gay gắt. Khi những mâu thuẫn này kéo dài Nhà nước phải đứng ra can thiệp bằng   cách: buộc giới chủ  phải có trách nhiệm hơn đối với người lao động mà mình sử  4
  5. dụng, thể hiện ở việc phải trích ra một phần thu nhập của mình để hình thành quỹ.   Sau đó dùng nguồn quỹ  này để  trợ  cấp cho người lao động và gia đình họ, khi  người lao động không may gặp những rủi ro và sự  cố  bất ngờ. Đồng thời ,  Nhà  nước đứng ra bảo trợ  cho quỹ. Bằng cách đó cả  chủ  và thợ  đều thấy mình có lợi   và tự  giác thực hiện, cuộc sống của người lao  động được đảm bảo.Người chủ  được bảo vệ việc sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được những xáo   trộn không cần thiết. Mối quan hệ ba bên nêu trên được thế giới quan niệm là BHXH cho người lao  động. Như vậy BHXH là một chế độ pháp định bảo vệ người lao động, bằng cách  thông qua việc tập trung nguồn tài chính được huy động từ  sự đóng góp của người  lao động, người sử dụng lao động (nếu có), sự tài trợ của Nhà nước nhằm trợ cấp  vật chất cho người được bảo hiểm và gia đình họ  trong trường hợp bị  giảm hoặc   mất thu nhập do gặp các rủi ro  ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề  nghiệp, hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật hoặc tử vong… 2 ­ Sự cần thiết phải có hệ thống BHXH   Trong cuộc sống cũng như  trong các hoạt động sản xuất hàng ngày, mặc dù  không muốn nhưng người lao động không thể  tránh khỏi hết những rủi ro bất ngờ  xảy ra như: ốm đau; bệnh tật, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp…  Tất cả những  nguyên nhân đó xảy ra đều ít nhiều làm  ảnh hưởng đến đời sống vật chất và tinh  thần cho bản thân cũng như gia đình; người thân của họ. Muốn khắc phục được khó khăn do các rủi ro nêu trên gây ra, người lao động   cần phải được sự  bảo trợ  của tập thể  số  đông. Đặc biệt để  người lao động yên  tâm tham gia sản xuất tạo điều kiện phát triển kinh tế đất nước thì nhà nước cần  phải can thiệp vào nhằm làm giảm bớt những khó khăn cho người lao động trong   các trường hợp:  ốm đau, thai sản, tai nạn lao động ­ bệnh nghề nghiệp, chết, mất  việc làm khi về già… Từ đó BHXH được ra đời như một tất yếu khách quan khi mà  mọi thành viên trong xã hội đều cảm thấy cần phải tham gia hệ thống BHXH này. II. VAI TRÒ VÀ NHỮNG NGUYÊN TẮC CỦA BHXH  1 ­ Vai trò của BHXH 5
  6. 1.1) Đối với người lao động Trong giai đoạn hiện nay khi đất nước đang ngày càng hoàn thiện quá trình  công nghiệp hoá­ hiện đại hoá thì những "rủi ro" như   ốm đau, tai nạn lao động­  bệnh nghề nghiệp, thai sản, mất việc làm… lại diễn ra một cách thường xuyên và  ngày càng phổ biến hơn, phức tạp hơn. Khi những rủi ro này xảy ra sẽ gây khó khăn   cho người lao động vế cả vật chất lẫn tinh thần, ảnh hưởng không tốt cho cả cộng  đồng. Với  tư   cách  là  một  trong  những chính  sách kinh  tế   xã   hội  của  Nhà   nước,   BHXH sẽ góp phần trợ giúp cho cá nhân những người lao động gặp phải rủi ro, bất  hạnh bằng cách tạo ra cho họ những thu nhập thay thế, những điều kiện lao động   thuận lợi…giúp họ   ổn định cuộc sống, yên tâm công tác, tạo cho họ  một niềm tin   vào tương lai. Từ  đó góp phần quan trọng vào việc tăng năng suất lao động cũng   như chất lượng công việc cho xí nghiệp nói riêng và cho toàn xã hội nó chung. 1.2) Đối với người sử dụng lao động Để có được sản phẩm phục vụ cho cuộc sống của con người và sự  phát triển   của xã hội thì cần phải có người tạo ra sản phẩm và nhờ vào quá trình lao động sản  xuất để  tạo ra sản phẩm cần thiết cho con người, cho xã hội. Những người biết   vận dụng sức lao động để sản xuất ra sản phẩm, đó chính là những người chủ  sử  dụng lao động. Muốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh được đảm bảo thì người  chủ phải  tạo được mối quan hệ tốt với người lao động, giải  quyết những vấn đề  thuộc phạm vi trách nhiệm của mình đối với người lao động thật tốt để họ yên tâm   lao động sản xuất và có niềm tin vào cuộc sống từ  đó họ  lao động sản xuất hăng  hái  hơn, tạo ra nhiều sản phẩm tốt hơn làm cho quá trình sản xuát kinh doanh của   người chủ sử dụng lao động hoạt động đạt kết quả cao. Muốn vậy , người chủ sử  dụng lao động phải tham gia đóng BHXH cho những người lao động của mình để  có thể đảm bảo những khoản chi trả cần thiết, kịp thời đến người lao động khi họ  gặp những rủi ro bất chắc. Việc tham gia đóng góp BHXH cho người lao động của   người chủ  sử  dụng lao động là góp vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh  của doanh nghiệp ngày càng phát triển hơn, nâng cao năng suất, hiệu quả lao động  sản xuất của doanh nghiệp cũng như nâng cao thu nhập cho người lao động và góp   vào việc phát triển nền kinh tế của đất nước. 6
  7. 1.3) Đối với xã hội Thứ nhất, cần phải  khẳng định rằng hoạt động BHXH là một hoạt động dịch  vụ, cơ quan BHXH là một “doanh nghiệp” sản xuất ra những dịch vụ  “bảo hiểm”   cho người lao động, một loại  dịch vụ mà bất cứ  ai cũng cần đến (không phải chỉ  cán bộ, công nhân viên chức mới cần). Nếu các doanh nghiệp này càng sản xuất ra  nhiều loại bảo hiểm (đáp ứng đa dạng các nhu cầu) thì giá trị của những sản phẩm   dịch vụ này cũng được tính trực tiếp vào tổng sản phẩm xã hội. Thứ  hai,  với tư  cách là một trong những chính sách kinh tế  xã hội của Nhà  nước, BHXH sẽ “bảo hiểm” cho người lao động, hoạt động BHXH sẽ giải  quyết   những “trục trặc”, “rủi ro” xảy ra đối với những người lao động, góp phần tích cực  của mình vào việc phục hồi năng lực làm việc, khả năng sáng tạo của sức lao động.  Sự góp phần này tác động trực tiếp đến việc nâng cao năng suất lao động cá nhân,   đồng thời góp phần tích cực của mình vào việc nâng cao năng suất lao động xã hội.   Với sự trợ  giúp của người lao động khi gặp phải rủi ro bằng cách tạo ra thu nhập   thay thế thì BHXH đã gián tiếp tác động đến chính sách tiêu dùng quốc gia làm tăng  sự tiêu dùng cho xã hội. Thứ ba, với tư cách là một quỹ tiền tệ tập trung, BHXH tác động mạnh mẽ tới  hệ  thống tài  chính ngân sách Nhà nước, tới hệ  thống tín dụng tiền tệ  ngân hàng.  Chính vì vậy, đặt ra một yêu cầu cho quỹ BHXH phải tự bảo tồn và phát triển quỹ  bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó có hình thức đầu tư  phát triển phần “  nhàn rỗi” của quỹ. Phần này có tác động không nhỏ tới sự phát triển đất nước, góp  phần tạo ra những cơ  sở  sản xuất kinh doanh mới, việc làm mới góp phần quan   trọng trong việc tạo ra việc làm cho người lao động. Từ  đó góp phần giải quyết  tình trạng thất nghiệp của đất nước, góp phần tăng thu nhập cá nhân cho người lao  động nói riêng và tăng tổng sản phẩm quốc nội cũng như  tổng sản phẩm quốc dân  nói chung. Thứ tư, BHXH góp phần vào việc thực hiện công bằng xã hội, là công cụ phân  phối lại thu nhập giữa những nguời tham gia BHXH. Sự phân phối lại thu nhập này   được tiến hành thông qua hai cách: Phân phối lại theo chiều ngang giữa người khoẻ  và người già, người đang làm việc với người đã nghỉ hưu, người trẻ tuổi với người   lớn tuổi, giữa nam với nữ, người đang hưởng trợ  cấp với người chưa hưởng trợ  7
  8. cấp; phân phối lại  theo chiều ngang là mục tiêu quan trọng của chính sách kinh tế  xã hội, giữa những người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp. BHXH không   bao hàm ý phân phối bình quân, cũng không hàm ý lấy của người giàu chia cho  người nghèo một cách võ đoán. ý tưởng của BHXH nhiễu điều phủ lấy giá gương,   là đoàn kết tương trợ, phát huy tính tự thân, sống hoà nhập có tình có nghĩa giữa các   nhóm, các giới bạn trong cùng cộng đồng với nhau mà vốn là tiềm lực của dân tộc   ta đã được lịch sử chứng minh. 2 ­ Những nguyên tắc của BHXH 2.1) Mọi ngưòi lao động trong mọi trường hợp bị giảm hoặc mất khả năng lao   động hoặc mất việc làm đều có quyền được BHXH. Quyền đựơc BHXH của người lao động là một trong những biểu hiện cụ thể  của quyền con người. Nhưng khi muốn xây dựng hệ thống BHXH thì đầu tiên Nhà   nước phải tạo điều kiện và môi trường kinh tế xã hội, về chính sách và luật pháp,   về tổ chức và cơ chế quản lý cần thiết. Đồng thời, những người sử dụng lao động   và người lao động phải thực hiện trách nhiệm đóng góp tài chính của mình. Không  phải là cái có sẵn nên trước hết phải tìm cách tạo ra nó. Ở mỗi nước không có sự  đóng góp này thì chính sách BHXH có hay đến mấy cũng không bao giờ  có BHXH  trong thực tiễn. Vì vậy, thực hiện trách nhiệm đóng góp tài chính BHXH là điều  kiện cơ bản nhất để người lao động được hưởng quyền BHXH. 2.2) Nhà nước và người sử dụng lao động có trách nhiệm phải BHXH đối với   người lao động, người lao động cũng phải tự bảo hiểm cho mình. Đây là mối quan hệ ba bên trong nền kinh tế thị trường, trong đó Nhà nước có  vai trò quản lý vĩ mô mọi hoạt động kinh tế xã hội trên phạm vi cả  nước. Với vai   trò này Nhà nước có trong tay mọi điều kiện vật chất của toàn xã hội, đồng thời   cũng có mọi công cụ  cần thiết để  thực hiện vai trò của mình. Cùng với sự  tăng  trưởng sự  phát triển kinh tế  xã hội, cũng có những kết quả  bất lợi không mong  muốn. Những kết quả bất lợi này trực tiếp hoặc gián tiếp sẽ dẫn đến những rủi ro   cho người lao động. Khi xảy ra tình trạng như  vậy nếu  không có BHXH thì Nhà   nước vẫn phải chi Ngân sách để  giúp đỡ  người lao động dưới một dạng khác. Sự  giúp đỡ đó chẳng những làm cho đời sống người lao động ổn định mà còn làm cho  8
  9. sản xuất kinh tế xã hội của đất nước ổn định. Vì vậy, khi trong xã hội loài người   xuất hiện BHXH – một dạng đảm bảo đời sống tiến bộ  hơn đối với người lao  động­ so với các dạng giúp đỡ truyền thống thì Nhà nước càng có điều kiện và càng   có trách nhiệm tổ chức và tham gia dạng hoạt động đó. Đối với người sử dụng lao động, mọi khía cạnh đặt ra cũng tương tự như trên  nhưng chỉ trong phạm vi một số doanh nghiệp.  Ở đó giữa người lao động và người  sử dụng lao động có mối quan hệ rất chặt chẽ. Người sử dụng lao động muốn ổn  định và sản xuất kinh doanh thì ngoài việc chăm lo đầu tư  để  có máy móc thiết bị  hịên đại, công nghệ tiên tiến còn phải chăm lo tay nghề và đời sống của người lao   động mà mình sử  dụng. Khi người lao  động làm việc bình thường thì phải trả  lương (trả công) thoả đáng cho người lao động. Khi họ gặp rủi ro, ốm đau, tai nạn   lao động, bệnh nghề  nghiệp.. trong đó có rất nhiều trường hợp gắn với quá trình  lao động, với những điều kiện lao động cụ thể của doanh nghiệp thì phải  có trách   nhiệm BHXH cho họ. Chỉ  có như  vậy người lao động mới yên tâm tích cực lao  động sản xuất góp phần tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả  kinh tế cho doanh   nghiệp. Đối với người lao động khi gặp những rủi ro không muốn và không phải  hoàn  toàn hay trực tiếp do lỗi của người khác thì trước hết đó là rủi ro của bản thân. Vì   thế, nếu muốn được BHXH tức là muốn nhiều người khác hỗ trợ  cho mình, là dàn  trải rủi ro của mình cho nhiều người khác thì tự  mình phải gánh chịu trực tiếp và   trước hết đã...  Điều đó có nghĩa là bản thân người lao động phải có trách nhiệm  tham gia BHXH để tự bảo hiểm cho mình. 2.3) BHXH phải dựa trên sự  đóng góp của các bên tham gia để  hình thành lên   quỹ BHXH. Ở  nguyên tắc trên đã thấy rõ tính khách quan của trách nhiệm phải  tham gia  BHXH đối với người lao động của cả  ba bên (Nhà nước, người sử  dụng lao động  và người lao động) trong nền kinh tế thị trường. Biểu hiện cụ thể của trách nhiệm  này là đóng phí BHXH đầu kỳ. Nhờ  sự  đóng góp đó mà phương thức riêng có của  BHXH là dàn trải rủi ro theo nhiều chiều, tạo điều kiện để phân phối thu nhập theo   cả chiều dọc và chiều ngang mới được thực hiện. Hơn nữa nó còn tạo ra mối quan  hệ  ràng buộc chặt chẽ  giữa trách nhiệm với quyền lợi góp phần phòng chống   9
  10. những hiện tượng nhiễu trong hệ thống hoạt động mang lại nhiều lợi ích cho mọi   người có liên quan này. 2.4) Phải tuân theo quy luật số lớn. BHXH là một trong các nguyên tắc, các cơ chế an toàn xã hội, trước hết là sự  trợ  giúp cho người lao động trong các trường hợp bị  giảm hoặc bị  mất thu nhập   tạm thời khi họ  bị   ốm đau, thai sản… hoặc hết tuổi lao động theo quy định của   pháp luật. Trong cả cuộc đời của người lao động thường thì thời gian lao động dài  hơn thời gian người lao động bị tạm thời mất khả năng lao động hoặc thời gian từ  khi hết tuổi lao động đến lúc chết. Vả  lại tất cả  những người tham gia BHXH   cùng một lúc có nhu cầu bảo hiểm, vì vậy nguyên tắc trước hết của BHXH là lấy  số  đông bù số  ít, lấy quãng đời lao động có thu nhập để  bảo hiểm cho khi giảm   hoặc mất khả năng lao động. 2.5) Kết hợp giữa các loại lợi ích, các khả  năng và phương thức đáp  ứng nhu   cầu BHXH. Trong BHXH cả ba bên tham gia: Người sử dụng lao động, người lao động và  Nhà nước đều nhận được nhiều lợi ích. Nhưng lợi ích nhận được không phải luôn   luôn như  nhau, thống nhất với nhau mà trái lại có lợi ích có lúc lại mâu thuẫn với  nhau. Chẳng hạn việc tăng mức trợ cấp hoặc tăng thời hạn nghỉ làm việc và hưởng   trợ cấp BHXH sẽ rất có lợi cho người lao động nhưng lại gây khó khăn cho người  chủ  sử  dụng lao động, nếu giảm hậu quả bất lợi cho người sử dụng lao động thì   Nhà nước lại phải gánh chịu. 2.6) Mức trợ  cấp BHXH phải đảm bảo thấp hơn tiền lương khi đang đi làm,   nhưng cũng phải lớn hơn mức lương tối thiểu. Trợ  cấp BHXH nói  ở đây là loại trợ  cấp thay thế cho tiền lương như trợ cấp   ốm đau, thai sản, hưu trí tuổi già chứ  không phải là trợ  cấp bù đắp hoặc trợ  cấp   BHXH. Như đã biết, tiền lương là khoản tiền mà người sử  dụng lao động trả  cho   người lao động khi họ thực hiện công việc nhất định. Nghĩa là, chỉ người lao động  có sức khoẻ bình thường, có việc làm bình thường và thực hiện công việc nhất định  mới có tiền lương. Khi đã bị   ốm đau, tai nạn hay tuổi già không thực hiện được   công việc nhất định hoặc không việc làm mà trước đó có tham gia BHXH thì chỉ có  10
  11. trợ  cấp BHXH và trợ  cấp đó không thể  bằng tiền lương tạo ra được. Còn nếu cố  tìm cách trả trợ cấp BHXH bằng hoặc cao hơn tiền lương thì không một người lao   động nào phải cố gắng có việc làm và tích cực làm việc để có lương mà ngược lại   họ sẽ cố gắng ốm đau, thai sản để hưởng trợ  cấp. Hơn nữa cách lập quỹ, phương  thức dàn trải rủi ro của BHXH cũng không cho phép trả  trợ  cấp BHXH bằng tiền   lương lúc đang đi làm. Vì trả  trợ  cấp bằng tiền lương thì chẳng khác gì bị  rủi ro   đem rủi ro của mình dàn trải  hết cho những người khác. Như vậy, mức trợ cấp BHXH phải  thấp hơn mức tiền lương lúc đang đi  làm.   Tuy nhiên do mục đích, bản chất và cách làm của BHXH thì mức trợ cấp thấp nhất   cũng không thể thấp hơn mức sống tối thiểu hàng ngày. Chỉ  khi đó BHXH mới có  tính nhân văn cao cả. 2.7) Kết hợp giữa BHXH bắt buộc với BHXH tự nguyện. Bảo hiểm xã hội áp dụng hình thức bắt buộc để  đảm bảo quy luật số lớn và  số có hệ số an toàn cao nhằm đảm bảo cuộc sống của người lao động. Tuy nhiên,   có những trường hợp, người lao động muốn hưởng trợ cấp hưu trí ở  mức cao hơn  mức được hưởng dưới hình thức bắt buộc, hoặc khi cân nhắc thấy họ  đóng thêm  vào BHXH cũng là một hình thức gửi tiền tiết kiệm, và có khi còn lợi hơn gửi vào   ngân hàng, thì họ sẽ có nhu cầu đóng phí BHXH nhiều hơn mức quy định. Chính vì  vậy, khi đáp ứng nhu cầu đó cũng thực hiện được đảm bảo tốt hơn cuộc sống cho   người lao động đồng thời quy luật số lớn vẫn được tôn trọng. 2.8) Phải đảm bảo tính thống nhất BHXH trên phạm vi cả  nước, đồng thời   phải phát huy tính đa dạng, năng động của các bộ phận cấu thành. Hệ thống BHXH của một nước thường gồm nhiều bộ phận cấu thành. Trong  đó bộ  phận lớn nhất do Nhà nước tổ  chức và bảo hộ  đặc biệt bao trùm toàn bộ  những người hưởng lương từ Ngân sách Nhà nước và những người lao động thuộc   những khu vực kinh tế quan trọng của đất nước. Các bộ  phận nhỏ hơn do các đơn  vị  kinh tế  và tư  nhân tổ  chức ra để  bảo hiểm cho một số  đối tượng hạn chế  do   pháp luật quy định. Trong bộ  phận do Nhà nước tổ  chức còn có thể  có một số  bộ  phận BHXH chuyên ngành như: BHXH đối với công chức, BHXH đối với quân  nhân hưởng lương và một số  bộ  phận BHXH theo ngành kinh tế  có tính chất đặc   thù (đường sắt, khai thác mỏ...). Các bộ  phận BHXH đựơc tổ  chức như  thế  nào,  11
  12. nhiều hay ít là do đi  ều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và do Nhà nước quy định. ở  nước ta do những diều kiện kinh tế xã hội chưa cho phép các tổ  chức và cá nhân  thực hiện BHXH mà chỉ có BHXH của Nhà nước. Để  BHXH hoạt động có hiệu quả  nhất thiết phải bảo đảm tính thống nhất   trên những vấn đề lớn hoặc cơ bản nhất để tránh tuỳ tiện, tính cục bộ hoặc những   mâu thuẫn nảy sinh. Đồng thời cũng phải có cơ chế để mỗi bộ  phận cấu thành có  thể  năng động trong hoạt động để  chúng có thể  bù đắp, bổ  xung những  ưu điểm   cho nhau. 2.9) BHXH phải được phát triển dần từng bước phù hợp với các điều kiện kinh   tế xã hội của đất nước trong từng giai đoạn phát triển cụ thể. BHXH của một nước gắn rất chặt với trạng thái kinh tế, với các điều kiện   kinh tế  xã hội, với cơ  chế  và trình độ  quản lý đặc biệt là với sự  điều chỉnh, sự  đồng bộ của nền pháp chế của nước đó. Trong tình hình nước ta, kinh tế thị trường   theo định hướng XHCN đang hình thành, nhiều mặt kinh tế  xã hội đang chuyển  động mạnh. Vì vậy, việc xây dựng và phát triển BHXH phải bảo đảm chắc chắn,   tính toán thận trọng và có bước đi phù hợp. III. QUỸ BHXH  1 ­ Vai trò của quỹ BHXH  Trong đời sống kinh tế  xã hội, có rất nhiều loại quỹ  khác nhau như: quỹ  tiêu   dùng, quỹ sản xuất, quỹ dự phòng, quỹ tiền lương, quỹ tiền thưởng, quỹ phúc lợi,  quỹ  tiết kiệm...  Tất cả  các loại quỹ  này đều có một điểm chung là tập hợp các  phương tiện tài chính cho những hoạt động nào đó theo mục tiêu định trước.  Quỹ  lớn hay quỹ  nhỏ biểu thị  khả  năng về  mặt phương tiện và vật chất để  thực hiện   công việc cần làm. Tất cả  các quỹ  đều không chỉ  tồn tại với một khối lượng tĩnh tại một thời   điểm mà luôn biến động tăng lên ở đầu vào với các nguồn thu và giảm đi  ở đầu ra   với các khoản chi như  một dòng chảy liên tục. Để  đảm bảo cho đầu ra  ổn định,   người ta thiết lập một lượng dự trữ. Bởi vậy, để nắm và điều hành được một quỹ  nào đó thì không phải chỉ  nắm được khối lượng của nó tại một thời điểm nhất   12
  13. định, mà quan trọng hơn là phải nắm được lưu lượng của nó trong một khoảng thời  gian nhất định. Theo những quan niệm về  quỹ nói chung như  trên, thì quỹ  BHXH là tập hợp  những đóng góp bằng tiền của những người tham gia BHXH hình thành một quỹ tài   chính độc lập, tập trung nằm ngoài Ngân sách Nhà nước để  chi trả  cho những  người được BHXH và gia đình họ  khi họ  bị  giảm hoặc mất thu nhập do bị  giảm   hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm. Như vậy, quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng đồng thời là một quỹ dự phòng, nó  vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật   chất quan trọng đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển. Quỹ BHXH hình thành và hoạt động đã tạo ra khả  năng giải quyết những rủi   ro của tất cả những người tham gia với tổng dự trữ ít nhất, giúp cho việc dàn trải  rủi ro được thực hiện theo cả  hai chiều không gian và thời gian, đồng thời giúp  giảm tối thiểu thiệt hại kinh tế cho người sử dụng lao động, tiết kiệm chi cho cả  ngân sách Nhà nước và ngân sách gia đình.  2 ­ Nguồn quỹ BHXH Quỹ  BHXH tập trung những đóng góp bằng tiền của những người tham gia  BHXH hình thành một quỹ  tiền tệ  tập trung để  chi trả  cho những người được   hưởng BHXH và gia đình họ  khi họ bị  giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm, mất   khả năng lao động hoặc mất việc làm. Như vậy quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng; nó   vừa mang tính kinh tế  vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ  sở vật  chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển. Quỹ BHXH hình thành và hoạt động đã tạo khả  năng giải quyết những rủi ro   của tất cả những người tham gia với tổng dự trữ  ít nhất, giúp cho việc giàn trải rủi   ro được thực hiện theo cả  hai chiều không gian và thời gian, đồng thời giúp giảm  thiểu thiệt hại kinh tế cho người sử dụng lao động, tiết kiệm chi  cho cả Ngân sách  nhà nướcvà ngân sách gia đình. Quỹ được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau:          ­ Thứ nhất, đó là phần đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động  và Nhà nước, đây là nguồn chiếm tỉ trọng lớn nhất và cơ bản của quỹ. 13
  14.          ­ Thứ hai,  là phần tăng thêm do bộ phận nhàn rỗi tương đối của quỹ được tổ  chức BHXH chuyên trách đưa vào hoạt động sinh lời.          ­ Thứ ba, là phần nộp phạt của những cá nhân và tổ chức kinh tế vi phạm luật   lệ về BHXH. Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ  các nguồn nêu trên. Tuy nhiên phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên   tham gia có khác nhau.  2 ­ Mục đích sử dụng quỹ BHXH Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu cho hai mực đich sau đây: ­ Chi trả và trợ cấp cho các chế độ BHXH ­ Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH Theo khuyến nghị  của Tổ  chức lao động quốc tế  (ILO) quỹ  BHXH được sử  dụng để  trợ  cấp cho các đối tượng tham gia BHXH, nhằm  ổn định cuộc sống cho   bản thân và gia đình họ, khi đối tượng tham gia BHXH gặp rủi ro. Thực chất là trợ  cấp cho 9 chế độ mà tổ chức này đã nêu lên trong công ước 102 tháng 6 năm 1952   tại Giơnevơ: 1. Chăm sóc y tế 2. Trợ cấp ốm đau 3. Trợ cấp thất nghiệp 4. Trợ cấp tuổi già 5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp 6. Trợ cấp gia đình 7. Trợ cấp sinh đẻ  8. Trợ cấp khi tàn phế 9. Trợ cấp cho người còn sống ( trợ cấp mất người nuôi dưỡng)  9 chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH . Tuỳ điều kiện kinh tế xã   hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện khuyến nghị đó ở  mức độ  khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được ba chế độ. Trong đó, ít nhất phải có  một trong năm chế độ: (3), (4), (5), (8), (9). Mỗi chế độ trong hệ thống trên khi xây   dựng đều dựa trên những cơ sở kinh tế xã hội tài chính, thu nhập, tiền lương v.v…   Đồng thời tuỳ từng chế độ khi xây dựng còn phải tính đến các yếu tố sinh học; tuổi   thọ bình quân của quốc gia, nhu cầu dinh dưỡng; xác suất tử vong… 14
  15. Tuy nhiên, cơ sở  để  xác định điều kiện hưởng BHXH phải tính đến một loạt   các yếu tố liên quan đến toàn bộ hệ thống các chế độ cũng như từng chế độ BHXH  cụ thể. Chẳng hạn khi xác định điều kiện hưởng trợ cấp BHXH tuổi già phải dựa  vào cơ  sở  sinh học là tuổi đời và giới tính, của người lao động là chủ  yếu. Bởi vì  tuổi già để hưởng trợ cấp hưu trí của mỗi giới, mỗi vùng, mỗi quốc gia có những   khác biệt nhất định. Do đó, co những nước quy định: Nam 60 tuổi và Nữ 55 tuổi sẽ  được   nghỉ   hưu.   Nhưng   cũng   có   những   nước   quy   định:   Nam   65   tuổi   và   Nữ   60  tuổi.v.v…Hoặc khi xác định điều kiện hưởng trợ  cấp cho chê độ  tai nạn lao động  và bệnh nghề  nghiệp phải tính đến các yếu tố  như: Điều kiện và môi trường lao  động; bảo hộ lao động v.v…Các yếu tố này thường có quan hệ và tác động qua lại   với nhau ít nhiều ảnh hưởng đến điều kiện BHXH của từng chế độ  và toàn bộ hệ  thống các chế độ BHXH.  Thời gian hưởng trợ cấp và mức hưởng trợ  cấp BHXH nói chung phụ  thuộc  vào từng trường hợp cụ thể  và thời gian đóng phí BHXH của người lao động trên   cơ  sở  tương  ứng giữa đóng và hưởng. Đồng thời mức trợ  cấp còn phụ  thuộc vào   khả năng thanh toán chung của từng quỹ tài chính BHXH; mức sống chung của các   tầng lớp dân cư và người lao động. Nhưng về  nguyên tắc, mức trợ  cấp này không   cao hơn mức tiền lương hoặc tiền công khi người lao động đang làm việc và nó chỉ  bằng một tỷ  lệ  phần trăm nhất định so với mức tiền lương hay tiền công.  ở  các   nước kinh tế phát triển do mức lương cao nên tỷ lệ này thường thấp và ngược lại ở  những nước đang phát triển do mức tiền lêong còn thấp nên phải áp dụng một tỷ lệ  khá cao. Ví dụ, ở pháp mức trợ cấp hưu trí chỉ bằng 50% mức lương cao nhất (với   điều kiện đóng BHXH đủ  37,5 năm),  ốm đau được hưởng trợ  cấp bằng 50% tiền   lương, thời gian nghỉ   ốm được hưởng trợ  cấp không quá 12 tháng. Sinh con được   hưởng   trợ   cấp   BHXH   bằng   90%   tiền   lương   trong   vòng   16   tuần   v.v…Còn   ở  Philipin, mức trợ  cấp hưu trí từ  42% đến 102%, tuỳ  thuộc từng nhóm lương khác   nhau, ốm đau được hưởng 65%, sinh con được nghỉ 45 ngày và được trợ  cấp bằng   100% tiền lương v.v… Tuy vậy, việc các nước quy định trợ  cấp BHXH bằng tỷ lệ phần trăm so với   tiền lương hay tiền công thường dẫn đến bội chi quỹ BHXH. Vì vậy, một số nước  đã phải tìm cách khắc phục như: trả  ngay 1 lần khi nghỉ hưu, hoặc suốt đời đóng   15
  16. theo tỷ lệ phần trăm của một mức thu nhập quy định và hưởng cũng theo tỷ lệ phần  trăm của mức quy định. Ngoài việc chi trả  trợ  cấp theo các chế  độ  BHXH, quỹ  BHXH còn được sử  dụng cho chi phí quản lý như: Tiền lương cho những người làm việc trong hệ thông   BHXH; khấu hao tài sản cố  định, văn phòng phẩm và một số  khoản chi khác…  Phần quỹ nhàn rỗi phải được đem đầu tư  sinh lợi. Mục đích đầu tư  quỹ  BHXH là  nhằm bảo toàn và tăng trưởng nguồn quỹ. Quá trình đầu tư  quỹ  BHXH phải đảm   bảo nguyên tắc: an toàn, có lợi nhuận, có khả  năng thanh toán và đảm bảo lợi ích   kinh tế ­ xã hội.  16
  17. CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH THU – CHI QUỸ BHXH TẠI PHÒNG BHXH  HUYỆN GIAO THỦY (NAM ĐỊNH) I. VÀI NÉT GIỚI THIỆU VỀ BHXH HUYỆN GIAO THỦY          Phòng BHXH  huyện Giao Thuỷ được thành lập và đi vào hoạt  động từ tháng   9 năm 1995 cùng với sự  chia cắt hành chính của huyện Xuân Thuỷ  thành huyện  Xuân Trường và huyện Giao Thuỷ. Phòng BHXH huyện Giao Thuỷ chủ  yếu thực   hiện việc thu ­ chi thuần  tuý mà không kinh  doanh loại hình bảo hiểm nào.           Phòng BHXH huyện Giao Thuỷ có tất cả  7 cán bộ  viên chức, trong đó ông  Nguyễn Công Hoan là Giám Đốc, bà Chu Thị Vân ánh là Kế toán kiêm bộ phận chi,  bà Đặng Thị Dung phụ trách bộ phận hành chính, bà Phạm Thị Vóc và ông Nguyễn  Thành Lý phụ  trách bộ  phận thu, ông Trần Hải Triều phụ  trách   bộ  phận chính   sách, ông Trần Mạnh Hùng phụ trách bộ phận y tế tự nguyện.          BHXH huyện Giao Thuỷ chịu sự quản lý trực tiếp của BHXH tỉnh Nam Định,  có con dấu và tài khoản  riêng. BHXH  Sơ đồ vị trí của BHXH huyện Giao Thuỷ: Việt Nam BHXH tỉnh Nam Định 17 BHXH huyện Giao Thuỷ
  18.          BHXH huyện Giao Thuỷ có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ BHXH tỉnh Nam   Định giao cho gồm:           ­ Xây dựng chương trình, kế hoạch công tác năm trình Giám đốc BHXH tỉnh   Nam Định phê duyệt và tổ chức thực hiện;           ­ Theo dõi, đốc thu BHXH 20% so với tổng quỹ lương (hiện nay là 23% do y   tế nhập vào 3%) trong đó thu 15% của chủ sử dụng lao động (hiện nay là 17%) và   5% của người lao động (hiện nay là 6%);                    ­ Chi trả  các chế  độ  nghỉ   ốm, thai sản cho đối tượng tham gia đóng góp   BHXH;                ­ Tổ  chức việc chi trả  lương hưu, trợ cấp BHXH, cả vi ệc chi pháp lệnh   người có công;           ­ Theo dõi tăng, giảm hàng tháng để  lập danh sách chi trả  lương hưu và trợ  cấp theo quy định;           ­ Tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo về chế độ, chính sách BHXH để giải   quyết theo thẩm quyền hoặc báo cáo với BHXH tỉnh xem xét giải quyết;                    ­ Tiếp nhận, báo cáo kịp thời với BHXH tỉnh Nam Định các trường hợp  hưởng lạc trợ cấp BHXH, điều chỉnh lương hưu.           ­ Đối chiếu tờ khai với hồ sơ gốc để triển khai cấp sổ BHXH. Hiện nay, BHXH huyện Giao Thuỷ do có sự  sáp nhập của BHYT nên có một  số  nhiệm vụ  và quyền hạn của BHYT như: cấp thẻ  BHXH, tuyên truyền, vận   động, điều  hành… II. TÌNH HÌNH THU BHXH HUYỆN GIAO THỦY 1 ­ Thu BHXH  18
  19. 1.1) Những vấn đề chung về thu quỹ BHXH  Thu quỹ BHXH là hoạt động của các cơ quan BHXH cùng với sự phối hợp của  các ban ngành chức năng trên cơ  sở  các quy định của pháp luật nhằm tạo ra các   nguồn tài chính tập trung (quỹ BHXH tập trung), từ việc đóng góp của các bên tham   gia BHXH và những nguồn tài chính bổ xung khác. Thu quỹ BHXH là một hoạt động không thể thiếu trong hoạt động BHXH nói   chung, nó đảm bảo cho sự tạo lập và sử  dụng một quỹ  tiền tệ tập trung và tạo ra   nguồn tài chính để có thể tiến hành các hoạt động BHXH. Do đó mà việc đóng góp  vào BHXH của các bên tham gia BHXH là sự  tất yếu trong hoạt động BHXH, vì  những lý do sau: ­  Việc đóng góp quỹ BHXH đánh dấu sự đóng góp của những người tham gia  BHXH, là cơ sở để đo sự đóng góp của các bên tham gia BHXH. ­  Tạo ra được nguồn tài chính tập trung từ đó có thể tiến hành thống nhất các   hoạt động BHXH. ­  Nguồn thu của BHXH được hình thành từ ba nguồn chủ yếu: đóng góp của  người lao động, người sử  dụng lao động và phần hỗ  trợ  từ  Ngân sách Nhà nước;   nguồn thu này phản ánh rõ nét quan hệ ba bên trong BHXH, là cơ sở để tạo ra các   quan hệ khác trong BHXH. ­   Thực chất, quan hệ  ba bên trong BHXH là mối quan hệ  về  lợi ích do sự  đóng góp vào BHXH của các bên tham gia là mối quan hệ về lợi ích, từ  việc tham   gia đóng góp BHXH các bên tham gia BHXH đều tìm kiếm được lợi ích cho mình,  người sử  dụng lao động tìm kiếm lợi ích từ  việc họ  sẽ  bỏ  ra ít chi phí hơn khi   người lao động không may gặp phải những rủi ro, người lao động được tìm kiếm  lợi ích từ việc họ được hưởng các quyền lợi khi họ không may gặp phải những rủi  ro, Nhà nước đạt được mục tiêu  ổn định được xã hội, ổn định được mối quan hệ  lợi ích giữa người lao động và người sử  dụng lao động trong xã hội để  người lao  động yên tâm tham gia sản xuất thúc đẩy nền kinh tế ­ xã hội phát triển. Từ đó có thể nói rằng, thu BHXH là một phần quan trọng không thể thiếu được  của hoạt động BHXH. 1.2) Công tác thu BHXH tại BHXH huyện Giao Thuỷ   19
  20. Giao Thuỷ là một huyện có địa hình rất phức tạp: một mặt giáp với biển, một   mặt lại giáp với Sông Hồng nên ở đây tồn tại nhiều ngành nghề khác nhau như: làm   nông nghiệp (phần lớn), khu vực giáp với biển thì nhân dân lại đánh bắt và nuôi  thuỷ sản xuất khẩu (nhưng chưa có đủ  quy mô lớn để  trở  thành công ty hay doanh  nghiệp, mà hầu hết là tư  nhân tự  đứng ra làm lấy với số lao động là con em trong  gia đình họ) hoặc kinh doanh du lịch; bãi tắm (Quất Lâm), làm muối… Trên địa bàn huyện Giao Thuỷ hiện nay chưa có khu công nghiệp nào mà chỉ có   một vài xí nghiệp; công ty có quy mô đủ  lớn (đi thuê lao động) ngoài các doanh   nghiệp nhà nước có trên địa bàn, đó là: Xí nghiệp muối Bạch Long, Công ty cổ  phần  xây   dựng  đường   biển   Hồng   Hà,   Công   ty   cổ   phần   xây  dựng   đường   biển  Trường Giang. Các xí nghiệp hay công ty này nằm rải rác trong huyện Giao Thuỷ  mà không tập trung một chỗ. Công tác thu BHXH ở BHXH huyện Giao Thuỷ ít nhiều gặp phải khó khăn do  địa hình phức tạp và mức độ tập trung của các nhà máy; xí nghiệp này. Hơn thế nữa   trụ  sở  của BHXH huyện Giao Thuỷ lại đặt  ở  đầu huyện, nên bước đầu công tác   thu BHXH còn gặp rất nhiều khó khăn, nhất là đội ngũ cán bộ chuyên môn còn quá  ít hoặc nếu có thì trình độ chưa thực sự tốt. Tuy vậy BHXH huyện Giao Thuỷ vẫn   cố  gắng hoàn thành các chỉ  tiêu về  thu BHXH mà BHXH tỉnh Nam Định giao phó.  BHXH huyện Giao Thuỷ  đã tiến hành lập danh sách chi tiết từng đơn vị; cơ  quan  tham gia BHXH, từng cá nhân. Bên cạnh đó BHXH huyện Giao Thuỷ còn lập bảng   lương chi tiết của từng cá nhân, quỹ  lương của từng công ty hay xí nghiệp để  làm  căn cứ  thu quỹ BHXH. Tại mỗi xã trong huyện, BHXH huyện Giao Thuỷ đặt một   ban có trách nhiệm thu – chi và báo cáo các trường hợp có sự thay đổi mức đóng góp   hay mức hưởng BHXH. Gần đến mỗi kỳ  báo cáo; tổng kết, BHXH huyện Giao   Thuỷ đã cử cán bộ đến các cơ sở còn nợ đong tiền BHXH hoặc dùng các biện pháp  thông tin khác như: gọi điện thoại, nhắn tin qua đài truyền thanh huyện Giao Thuỷ  để đôn đốc, thu kịp thời, tránh tình trạng nợ đọng lâu dài. Vì vậy BHXH huyện Giao Thuỷ đã đạt được các chỉ  tiêu về  thu BHXH, mức   thu tăng nhanh rõ rệt, như năm 1995 chỉ có 633.124.098 đồng, thì đến năm 1996 con   số đó là 1.251.624.005 đồng (tăng gần gấp đôi), tinhd đến năm 2003 BHXH huyện  Giao Thuỷ đã thu được 6.282.523.923 đồng. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
11=>2