Luận văn tiến sĩ Khoa học giáo dục: Vai trò của giáo dục - đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay
lượt xem 15
download
Mục đích nghiên cứu của luận án nhằm làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất những giải pháp cơ bản thực hiện vai trò của giáo dục - đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn tiến sĩ Khoa học giáo dục: Vai trò của giáo dục - đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên c ứ u c ủ a riêng nghiên c ứ u sinh. Các s ố li ệ u, k ế t qu ả nêu trong lu ậ n án là trung th ự c, có ngu ồ n g ố c, xu ấ t x ứ rõ ràng, không trùng l ậ p v ớ i các công trình khoa h ọ c đã công b ố . Hà Nội, ngày 14 tháng 6 năm 2018 TÁC GIẢ LU ẬN ÁN Lê Th ị Thu Huy ền
- MỤC LỤC Trang PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC MỞ ĐẦU 5 Chương TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN 1 QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 8 1.1 Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến đề tài luận án 8 1.2. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến đề tài và những vấn đề luận án tập trung giải quyết 26 Chương NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA 2 GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM 32 2.1. Quan niệm về kinh tế tri thức và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam 32 2.2. Giáo dục đào tạo và vai trò của giáo dục đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam 43 Chương THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI 3 VỚI VIỆC THỰC HIỆN VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 77 3.1. Thực trạng thực hiện vai trò của giáo dục đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay 77 3.2. Những yêu cầu đặt ra đối với việc thực hiện vai trò của giáo dục đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay 106 Chương NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM THỰC HIỆN 4 VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 120 4.1. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý của Nhà nước về giáo dục đào tạo 120 4.2. Phát triển và chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục đào tạo 131 4.3. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục đào tạo và xây dựng cơ sở vật chất tiên tiến, hiện đại, môi trường giáo dục đào tạo dân chủ, đạo đức 143 KẾT LUẬN 160
- CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 162 TÀI LIỆU THAM KHẢO 163 PHỤ LỤC 167
- 4 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài luận án Nhân loại hiện đang tiến công mạnh mẽ vào kinh tế tri thức với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm động lực nhằm tạo ra những biến đổi căn bản và sâu sắc trong sức sản xuất và trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Trong bối cảnh đó, Việt Nam cũng đang nỗ lực đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Đó là đòi hỏi tất yếu, khách quan, là cơ hội để Việt Nam thực hiện thành công mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để quá trình này tiến hành có hiệu quả thì nhân tố con người với vốn tri thức và năng lực sáng tạo giữ vai trò quyết định. Bởi vậy, chúng ta cần phải có được những con người đáp ứng tốt yêu cầu của cuộc sống và sự phát triển của xã hội hiện đại, tích cực đào luyện ra những nhân cách toàn diện đó. Trong sự nghiệp này, giáo dục đào tạo có vai trò rất quan trọng mà các lĩnh vực khác không dễ gì có được. Giáo dục đào tạo là một lĩnh vực của đời sống xã hội, trực tiếp tác động đến sự phát triển toàn diện con người, đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần tạo ra, chuyển hóa tri thức khoa học và công nghệ thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Do đó, giáo dục đào tạo là điều kiện, là cơ sở và là động lực trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. Nhận thức sâu sắc về vai trò của giáo dục đào tạo trong quá trình phát triển đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhiều lần khẳng định: “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu” [24, tr.35], “là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [26, tr.9495], “có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất
- 5 nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam” [28, tr.77], phát triển kinh tế tri thức. Trong những năm qua, giáo dục đào tạo đã đạt được những thành tựu quan trọng, bước đầu tạo nền tảng, trở thành điều kiện và là động lực cho phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trên cơ sở phát triển con người toàn diện, từ đó tạo ra lực lượng lao động có trí tuệ, góp phần sáng tạo, chuyển hóa tri thức khoa học và công nghệ hiện đại vào tư liệu sản xuất, tạo ra tư liệu sản xuất thông minh và ứng dụng chúng vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, làm gia tăng hàm lượng chất xám trong từng sản phẩm, góp phần phát triển kinh tế xã hội đất nước nhanh, bền vững. Tuy nhiên, xét về mặt bản chất, vai trò giáo dục đào tạo chưa tương xứng với yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay . Với chất lượng giáo dục đào tạo còn thấp, nguồn nhân lực, nguồn nhân lực chất lượng cao, xét trên các phương diện số lượng, chất lượng và cơ cấu, còn nhiều hạn chế; con người Việt Nam chưa hội đủ năng lực và phẩm chất để thực sự trở thành chủ thể phát triển kinh tế tri thức; đóng góp của giáo dục đào tạo trong sáng tạo, chuyển giao tri thức khoa học và công nghệ ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội còn thấp. Do đó, phát triển kinh tế tri thức hiện vẫn còn đối diện với nhiều khó khăn và thách thức. Trong đó, khó khăn và thách thức lớn nhất là sự thiếu hụt trầm trọng nguồn lực con người đủ năng lực, phẩm chất khai thác, sản sinh, vận dụng hiệu quả tri thức khoa học và công nghệ hiện đại ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực tiễn đó đã minh tỏ, giáo dục đào tạo chưa thể hiện đầy đủ vai trò “quốc sách hàng đầu” của nó trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay. Trong những năm gần đây, ở Việt Nam đã có nhiều công trình khoa học quan tâm nghiên cứu về vai trò của giáo dục đào tạo trong phát triển
- 6 kinh tế tri thức, song bàn về vấn đề này ở góc độ triết học thì hiện nay, đây vẫn còn là mảnh đất cần được đầu tư thời gian và công sức để nghiên cứu. Vì vậy, tác giả lựa chọn “Vai trò của giáo dục đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu: Làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất những giải pháp cơ bản thực hiện vai trò của giáo dục đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hi ện nay. * Nhiệm vụ nghiên cứu: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. Làm rõ những vấn đề lý luận về vai trò của giáo dục đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. Đánh giá thực trạng và xác định những yêu cầu đặt ra đối với việc thực hiện vai trò của giáo dục đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay. Đề xuất giải pháp cơ bản nhằm thực hiện vai trò của giáo dục đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu của luận án: Những vấn đề bản chất vai trò của giáo dục đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. * Phạm vi nghiên cứu: Luận án nghiên cứu về vai trò của giáo dục đào tạo trong quá trình phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. Tiến hành điều tra, khảo sát đại diện tại một số cơ sở giáo dục đào tạo. Số liệu được sử dụng trong nghiên cứu chủ yếu từ năm 2011 đến nay (từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đến nay). 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
- 7 * Cơ sở lý luận của luận án: Lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh, hệ thống quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách của Nhà nước về phát triển kinh tế tri thức, về giáo dục đào tạo trong giai đoạn hiện nay. Luận án kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đến đề tài. * Cơ sở thực tiễn của luận án: Thực trạng thực hiện vai trò của giáo dục đào tạo trong phát triển đất nước nói chung và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay. * Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận án sử dụng các phương pháp: Phân tích và tổng hợp, khái quát hoá và trừu tượng hóa, lôgíc và lịch sử, hệ thống hoá, so sánh, chứng minh, phương pháp chuyên gia… Các phương pháp này được sử dụng phù hợp với từng nội dung của luận án. 5. Những đóng góp mới của luận án Chỉ ra và làm rõ vai trò của giáo dục đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. Góp phần đánh giá thực trạng và xác định những yêu cầu đặt ra đối với việc thực hiện vai trò của giáo dục đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay. Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm thực hiện vai trò của giáo dục đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án * Về mặt lý luận: Luận án góp phần cung cấp luận cứ khoa học để các cơ quan chức năng nghiên cứu hiện thực hóa vai trò của giáo dục đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay.
- 8 * Về mặt thực tiễn: Luận án góp phần tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động của các chủ thể thực hiện vai trò của giáo dục đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay. Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, nghiên cứu những chuyên đề liên quan đến giáo dục đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức trong thời kỳ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. 7. Kết cấu của luận án Ngoài mở đầu, kết luận, các công trình khoa học của tác giả đã được công bố, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, kết cấu của luận án gồm 4 chương (9 tiết). Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến đề tài luận án 1.1.1. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến lý luận về vai trò của giáo dục đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam Từ những năm 70 của thế kỷ XX cho đến nay, do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, tri thức khoa học và công nghệ thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, kinh tế tri thức hình thành và trở thành xu thế phát triển tất yếu của nhân loại hiện nay. Từ đó, việc tìm hiểu về kinh tế tri thức, phát triển kinh tế tri thức và vai trò của giáo dục đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức trở thành tiêu điểm cho các cuộc thảo luận, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà lãnh đạo, nhiều học giả trên toàn thế giới. Kết quả là, nhiều công trình nghiên cứu về
- 9 vấn đề này đã ra đời. Ở Việt Nam, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) của Đảng Cộng sản Việt Nam cho đến nay, việc nghiên cứu về vấn đề này cũng nhận được sự quan tâm sâu rộng và đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các góc độ tiếp cận khác nhau. Cùng với đó, nhiều công trình của các học giả nước ngoài cũng được dịch ra tiếng Việt, trong đó phải kể đến các công trình tiêu biểu sau: Hội thảo khoa học toàn quốc đầu tiên về vấn đề kinh tế tri thức với chủ đề Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam [3] do Ban khoa giáo Trung ương Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường Bộ Ngoại giao phối hợp tổ chức đã thu hút nhiều học giả và các nhà lãnh đạo tham gia. Trong các công trình nghiên cứu về chủ đề trên, các tác giả khẳng định: Kinh tế tri thức là xu hướng phát triển tất yếu của xã hội trong thế kỉ XXI, lối cuốn mọi quốc gia tham gia trong quá trình phát triển; xây dựng kinh tế tri thức đòi hỏi mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia phải luôn bố sung tri thức mới, do đó, phải đầu tư cơ sở vật chất, phát triển giáo dục đào tạo phù hợp với mọi đối tượng nhằm phát huy thế mạnh tri thức của con người trong xã hội. Vận dụng vào Việt Nam trong điều kiện hiện nay, các tác giả khẳng định: Khâu đột phá để phát triển kinh tế tri thức là giáo dục đào tạo. Tác giả Ngô Qúy Tùng, với công trình Nền kinh tế tri thức xu thế mới của xã hội thế kỉ XXI [126] đã hệ thống hóa các quan niệm về kinh tế tri thức của các nhà chính trị, các học giả, các nhà khoa học, các tổ chức quốc tế trên thế giới trong khoảng 30 năm từ thập niên 70 của thế kỷ XX với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Dựa vào sự tiến bộ của khoa học và công nghệ, tác giả cho rằng: Kinh tế tri thức là “nền kinh tế mà trong đó nhân tố quan trọng nhất là việc chiếm hữu, phân phối nguồn trí lực và việc sáng tạo, phân phối và sử dụng tri thức trong các ngành sản xuất có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao” [126, tr.2829]. Tác giả tiếp cận kinh tế tri thức với tư cách là “nền kinh tế”, trong nền kinh tế này, các ngành sản
- 10 xuất dựa vào khoa học kỹ thuật cao đóng vai trò chủ yếu. Tác giả cũng chỉ ra tám đặc điểm của nền kinh tế tri thức để phân biệt với kinh tế nông nghiệp và kinh tế công nghiệp [Phụ lục 1]. Bàn về vai trò của giáo dục đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức, xuất phát từ nhân tố nổi bật, có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế tri thức là năng lực trí tuệ của con người, năng lực mà con người có được chủ yếu nhờ giáo dục đào tạo, tác giả nhấn mạnh: “Xét kỹ lại theo tư duy về sản xuất thì giáo dục chính là nhu cầu của kinh tế tri thức” [126, tr.197]. Giáo dục là đào tạo nhân tài, nhân tài là sản phẩm của giáo dục. Do vậy, tác giả nhận định về tầm quan trọng của giáo dục đào tạo trong kinh tế tri thức là “cực lớn” với chỉ số đầu tư chiếm trên 7% GDP của một nền kinh tế, trong khi tầm quan trọng của lĩnh vực này trong kinh tế nông nghiệp là không lớn, chỉ số đầu tư chỉ chiếm dưới 1% GDP và trong kinh tế công nghiệp, chỉ số đầu tư đó chiếm khoảng từ 24% GDP. Trong nền kinh tế tri thức, “luận án tiến sỹ có thể là cơ sở thành lập các xí nghiệp” [126, tr.197]. Các tác giả Takashi Kiuchi, Tian Zhongqing, Cheonsik Woo, với công trình Kinh tế tri thức vấn đề và giải pháp: Kinh nghiệm của các nước phát triển và đang phát triển [109], đã phân tích xu thế phát triển kinh tế xã hội của các nước phát triển và đang phát triển ở khu vực Đông Á, qua đó chỉ rõ xu thế tăng trưởng kinh tế ở các nước này chủ yếu dựa vào tri thức, do đó, phát triển kinh tế tri thức ở các nước trong khu vực này là tất yếu khách quan. Từ đó, các tác giả chỉ ra sự tác động của kinh tế tri thức với chính quyền, với doanh nghiệp và với hoạt động nghiên cứu khoa học. Tiếp cận kinh tế tri thức ở góc độ bao trùm, tác giả Vũ Trọng Lâm, với công trình Kinh tế tri thức ở Việt Nam quan điểm và giải pháp phát triển [66] cho rằng: “Kinh tế tri thức thực chất là một loại môi trường kinh tế văn hóa xã hội mới, có những đặc tính phù hợp và thuận lợi nhất cho việc học hỏi, đổi mới và sáng tạo” [66, tr.62]. Phân tích về sự phát triển kinh
- 11 tế tri thức của các nước trên thế giới, tác giả rút ra năm bài học cho Việt Nam, trong đó, việc hình thành nguồn vốn nhân lực, khuyến khích và bồi dưỡng nhân tài, lấy con người trung tâm của mọi sự phát triển là bài học đầu tiên và quan trọng nhất. Tác giả tán đồng quan điểm cho rằng: Vai trò của giáo dục đào tạo là rất quan trọng (nếu không muốn nói là bậc nhất) đối với sự phát triển nhân lực, phát triển công nghệ thông tin và thu hẹp khoảng cách về kỹ thuật số. Vì thế, tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức, “các nước từ Mỹ, EU, Nhật Bản đến Trung Quốc, Ấn Độ, Sinhgapo, Malaysia… đều rất chú trọng đến giáo dục đào tạo nguồn nhân lực” [66, tr.99], do đó, các nước này đều chủ trương tăng cường đầu tư, xúc tiến cải cách, hiện đại hóa hệ thống giáo dục đào tạo, gắn giáo dục đào tạo với doanh nghiệp, với việc làm. Như vậy, theo quan điểm của tác giả, vai trò của giáo dục đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức được thể hiện ở việc tạo nguồn vốn nhân lực, khuyến khích và bồi dưỡng nhân tài, lấy con người là trung tâm của mọi sự phát triển được cho là việc đầu tiên và quan trọng nhất. Bàn về phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam, Hội thảo kinh tế tri thức Khoa học và thực tiễn ở Việt Nam [67], do Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam tổ chức đã tập hợp nhiều công trình của các tác giả về chủ đề trên, tiêu biểu là công trình: “Phát triển kinh tế tri thức, rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta” của tác giả Đặng Hữu. Tác giả quan niệm: “Phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam là tăng cường sử dụng tri thức mới, công nghệ mới để đẩy nhanh dịch chuyển cơ cấu và tốc độ tăng trưởng kinh tế” [67, tr.14]. Để thành công trong chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa “rút ngắn” dựa vào tri thức, Việt Nam phải tăng cường năng lực nội sinh, chủ động hội nhập quốc tế, trong đó “yếu tố quyết định nhất đối với năng lực nội sinh của một dân tộc là văn hóa, giáo dục, khoa học, cũng tức là sức mạnh tinh thần và trí tuệ của dân tộc” [67, tr.18]. Trong đó, giáo dục đào tạo tạo ra nguồn nhân lực, nâng cao
- 12 dân trí, bồi dưỡng nhân tài được xác định là đột phá trong chiến lược phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. Tác giả Thế Trường, với công trình Hành trang thời đại kinh tế tri thức [123], cho rằng: Để phát triển kinh tế tri thức, học tập được xem là một loại năng lực, là chìa khóa mở cánh của thời đại. Khi đó, giáo dục đào tạo có vai trò quan trọng giúp người học bồi dưỡng năng lực học tập, khả năng học, cách học, học suốt đời. Trong đó, giáo dục chính quy ở bậc đại học sẽ trở thành giai đoạn chuẩn bị cho mỗi người bước vào xã hội và nếu không được giáo dục đào tạo một cách có hệ thống thông qua giáo dục chính quy, con người sẽ khó tồn tại và phát triển trong thời đại kinh tế tri thức. Do đó, giáo dục đào tạo, nhất là giáo dục chính quy là nền tảng trong quá trình phát triển kinh tế tri thức. Tác giả Nguyễn Thị Luyến, với cuốn sách Nhà nước với phát triển kinh tế tri thức trong bối cảnh toàn cầu hóa [70], tập hợp những công trình lược thuật, các công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài được dịch ra tiếng Việt và các công trình của các tác giả trong nước xoay quanh chủ đề: Kinh tế tri thức Lý luận và thực tiễn. Liên quan đến đề tài luận án có các công trình tiêu biểu như: Chủ nghĩa Mác và kinh tế tri thức và Cơ sở lý luận của kinh tế tri thức cung cấp cho chúng ta khái niệm, quy luật hình thành, phát triển, đặc điểm và xu thế phát triển kinh tế tri thức. Các tác giả khẳng định, kinh tế tri thức là thành tựu quan trọng của loài người mà Việt Nam cần nắm lấy và vận dụng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; công trình Kinh tế mới toàn cầu hóa và thách thức đối với các nước đang phát triển, chỉ rõ: Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, phát triển kinh tế tri thức vừa là thời cơ, vừa là thách thức, trong đó những thách thức nổi bật là khả năng cạnh tranh, thu hút đầu tư, đào tạo nhân lực, cơ sở pháp lý và đặc biệt là tài năng của giới lãnh đạo đất nước; công trình Kinh nghiệm phát triển kinh tế tri thức của các nước phát triển và các nước đang phát triển, chỉ ra: Trong chiến lược phát triển kinh tế tri thức, các nước phát triển như Mỹ, Anh,
- 13 Nhật Bản đưa ra những chính sách ưu tiên phát triển các ngành kỹ thuật cao, nghiên cứu và triển khai, đầu tư cho vốn con người; các nước đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước châu Á khác đưa ra những chính sách tận dụng lợi thế của đất nước mình để phát triển kinh tế tri thức. Tuy có những khác biệt, song điểm chung mà các nước đều hướng đến là phải nhanh chóng tiến hành cải cách giáo dục đào tạo, giữ vững sự ổn định chính trị và coi đó là điều kiện quan trọng để phát triển kinh tế tri thức. Tiếp cận ở một góc độ khác, các tác giả Vũ Đình Cự Trần Xuân Sầm, với công trình Lực lượng sản xuất mới và kinh tế tri thức [20], cho rằng: Phát triển kinh tế tri thức là tất yếu khách quan, là quá trình phát triển lịch sử của lực lượng sản xuất mà cốt lõi là sự phát triển của trí tuệ loài người. Bàn về phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam, các tác giả khẳng định: Kinh tế tri thức đã tác động đến Việt Nam với sự xuất hiện của những ngành công nghệ cao, quá trình “tri thức hóa” ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và sự bùng nổ của giáo dục đào tạo, đặc biệt là giáo dục đại học và cao đẳng. Với chủ đề “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta”, trên cơ sở hệ thống hóa quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, tác giả nhận định chủ trương này chỉ thành công khi Việt Nam dựa vào đào tạo, sử dụng, khuyến khích tiềm năng tri thức quốc gia, nắm bắt khoa học và công nghệ hiện đại, phát triển mạnh các ngành, các sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức công nghệ cao. Từ đó, các tác giả chỉ ra một số bước đi cụ thể để phát triển kinh tế tri thức gắn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, trong đó vai trò nổi bật là đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài khoa học và công nghệ. Tác giả Đặng Hữu, với công trình Phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam: Quá trình phát triển tư duy lý luận của Đảng, những vấn đề lý luận
- 14 và thực tiễn [59], khẳng định: Phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam là một bước chuyển biến chiến lược trọng đại, chuyển nền kinh tế từ dựa vào tài nguyên sang dựa chủ yếu vào tri thức và năng lực sáng tạo của con người, trong đó, nhiệm vụ phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam là tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức, công nghệ mới; sử dụng tri thức để đổi mới, hiện đại hóa tất cả các ngành, cắt giảm các dự án đầu tư lớn, tiêu hao nhiều nguyên liệu, năng lượng mà hiệu quả thấp, phát triển các ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ dựa nhiều vào tri thức, chấm dứt bán tài nguyên thô, nhập công nghệ thay cho nhập sản phẩm chế biến, FDI phải đi kèm chuyển giao tri thức, tăng mạnh vốn đầu tư vốn người. Tác giả cho rằng: Vai trò của giáo dục đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam là gấp rút đào tạo nguồn nhân lực, nguồn nhân lực chất lượng cao có phẩm chất, bản lĩnh, có trách nhiệm với xã hội, dám nghĩ dám làm, có tư duy độc lập, năng lực sáng tạo, năng lực tiếp thu, làm chủ tri thức mới, vận dụng linh hoạt sáng tạo vào thực tiễn. Chỉ có như vậy, Việt Nam mới có thể đi vào phát triển kinh tế tri thức. Bàn về vai trò của giáo dục đào tạo, tác giả Phạm Minh Hạc, với công trình Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI [40], cho rằng: Vai trò của giáo dục đào tạo được xác định là “hình thành và phát triển nhân cách con người, trên cơ sở phát triển giáo dục nhằm thực hiện nhiệm vụ nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài… phát triển con người bền vững” [40, tr.230]. Giáo dục đào tạo con người có đạo đức và có năng lực sáng tạo, có ích cho xã hội, cho cộng đồng là nhân tố quyết định vận mệnh của đất nước. Trên cơ sở đó, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là đòn bẩy của các vấn đề kinh tế xã hội. Bởi, trong thế kỷ XXI, vũ khí cạnh tranh chủ yếu của các quốc gia là giáo dục đào tạo và kỹ năng của người lao động. Tác giả nhấn mạnh “toàn bộ sự nghiệp giáo dục là nhằm phát triển con người, trong đó tri thức phải trở thành kỹ năng,
- 15 thái độ, trí tuệ phải trở thành trí lực, tập luyện thân thể để thành thể lực” [40, tr.230]. Tiếp cận vai trò của giáo dục đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam với góc độ khác, tác giả Nguyễn Văn Hòa với công trình Phát triển giáo dục đào tạo một động lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay [48], cho rằng: Trong kinh tế tri thức, tri thức là yếu tố chủ yếu của sản xuất, là lợi thế của cạnh tranh, là chất lượng của nguồn nhân lực, là sức mạnh của nội lực và là sức hút chủ yếu của ngoại lực. Chất lượng nguồn nhân lực, tri thức con người phải thông qua giáo dục đào tạo mới có được. Do vậy, tác giả khẳng định, nâng cao dân trí, đào tạo, bồi dưỡng và phát huy nguồn nhân lực con người Việt Nam trên cơ sở phát triển giáo dục đào tạo là động lực phát triển kinh tế tri thức, là vấn đề có ý nghĩa sống còn của đất nước trước xu thế toàn cầu hiện nay. Cũng đề cập đến vai trò của giáo dục đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam, tác giả Nguyễn Công Trí, với luận án tiến sỹ chuyên ngành Triết học: Trí thức Việt Nam trong phát triển kinh tế tri thức [122], cho rằng, giáo dục đào tạo có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức, bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay. Từ đó, tác giả khẳng định: Giáo dục đào tạo là yếu tố đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay. Đây là cơ sở lý luận quan trọng để tác giả luận án kế thừa, tiếp thu, trên cơ sở đó đưa ra quan niệm về kinh tế tri thức, quan niệm về phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam và quan niệm về vai trò của giáo dục đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam theo phương pháp nghiên cứu, cách tiếp cận và luận giải của mình.
- 16 1.1.2. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến thực trạng thực hiện vai trò của giáo dục đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay Đánh giá về thực trạng thực hiện vai trò của giáo dục đào tạo Việt Nam trên các phương diện thể hiện về dân trí, nhân lực, nhân tài, tác giả Hoàng Tụy và cộng sự trong công trình Kiến nghị của Hội thảo về chấn hưng, cải cách, hiện đại hóa giáo dục, in trong Những vấn đề giáo dục hiện nay: Quan điểm và giải pháp [91] nhận định: Giáo dục Việt Nam tụt hậu khá xa so với các nước trong khu vực và trên thế giới… về cả ba phương diện dân trí, nhân lực và nhân tài, những bất cập đều quá rõ. Cụ thể trên từng mặt, tác giả đánh giá: “Dân trí thấp, biểu hiện trên lối sống và suy nghĩ, tập quán, tác phong, tư tưởng, ý thức… Đạo đức bị sói mòn, thói gian dối, thiếu trung thực đang tác động nặng nề đến mọi mặt của đời sống xã hội. Nhân lực không đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, yếu kiến thức, kém kỹ năng thực hành, ít khả năng xoay sở, thiếu óc tưởng tượng và năng lực sáng tạo, đó là những đặc trưng của chất lượng lao động khiến sức cạnh tranh rất thấp… phát hiện và bồi dưỡng nhân tài kém… chất xám bị lãng quên nghiêm trọng” [91, tr.3233]. Thực trạng đó phản ánh việc thực hiện vai trò của giáo dục đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay. Tổng hợp các cách đánh giá về thực trạng giáo dục đào tạo Việt Nam, qua đó chỉ ra thực trạng thực hiện vai trò của lĩnh vực này trong phát triển kinh tế tri thức, từ sự đánh giá của Đảng Cộng sản Việt Nam, của các cơ quan quản lý nhà nước, của các đề tài nghiên cứu khoa học và của các cơ quan nghiên cứu nước ngoài, tác giả Phạm Văn Linh, trong công trình Định hướng chiến lược, giải pháp đột phá nhằm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo Việt Nam [69], chỉ rõ: Xét từ góc độ quản lý nhà nước, “cách đánh giá này tập trung trước hết vào đầu ra của giáo dục trên bốn chiều đo cơ bản là: Quy mô, chất lượng, hiệu quả và công bằng xã hội…, về đầu
- 17 vào (nhà giáo, chương trình giáo dục, cơ sở vật chất, tài chính), về quá trình (quản lý giáo dục, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế)” [69, tr.161]. Dựa vào nội dung đánh giá này, tác giả cho rằng: “Giáo dục đào tạo chưa thực sự là quốc sách hàng đầu, chưa là động lực chính cho sự phát triển” [69, tr.164]. Xét từ góc độ nghiên cứu khoa học, một số công trình, đề tài khoa học cấp Nhà nước đánh giá về giáo dục đào tạo Việt Nam ở các phương diện: Về quản lý; về hệ thống giáo dục quốc dân; về chương trình giáo dục phổ thông, sách giáo khoa; đào tạo bồi dưỡng giáo viên. Tác giả nhận định: Bên cạnh những thành tựu bước đầu, những mặt này còn bộc lộ nhiều yếu kém, bất cập làm chất lượng và hiệu quả của giáo dục đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn hiện nay, nhất là trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức. Do đó, vai trò “quốc sách hàng đầu” của giáo dục đào tạo chưa được thể hiện đầy đủ. Đánh giá của một số cơ quan nghiên cứu nước ngoài dựa vào việc đo lường bằng các chỉ số, trên cơ sở so sánh với giáo dục đào tạo của các nước trên thế giới ở một số phương diện và xếp hạng theo các chỉ số như HDI, KEI, EDI, GCI; đánh giá thực trạng từng bậc học, chỉ ra hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó, tác giả cho rằng: “Đánh giá của các cơ quan quốc tế cho ta thấy, một bức tranh khá toàn diện về thực trạng giáo dục Việt Nam trong bối cảnh kinh tế xã hội cụ thể của đất nước và trong tương quan so sánh chủ yếu với các nước đang phát triển trong khu vực hoặc các nước có mức thu nhập tương đương” [69, tr.178] và dù đánh giá ở góc tiếp cận nào thì sự thể hiện vai trò của giáo dục đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức vẫn chưa đầy đủ. Vai trò đó mới tồn tại ở dạng tiềm năng là chính. Tiếp cận thực trạng thực hiện vai trò của giáo dục đào tạo ở góc độ tiếp cận khác, tác giả Trần Nam Bình, với công trình Đổi mới giáo dục Việt Nam: Một vài nhận định từ quan điểm chính sách kinh tế in trong Bàn về
- 18 giáo dục [92], đã khái lược hiện trạng giáo dục đào tạo Việt Nam với việc tóm tắt lại một số hiện tượng hạn chế chính yếu như: Sự thiếu thốn của nguồn lực, nhất là chi phí công dành cho giáo dục; hiệu quả ứng dụng nguồn lực trong ngành giáo dục đào tạo thấp với thực trạng tổ chức và quản lý không thích hợp, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp cao và tăng dần; lượng giáo viên yếu về chất lượng cũng như số lượng và đang bị lão hóa; học sinh sinh viên học nhồi nhét, kém sáng tạo, thiếu trung thực, chỉ lo đậu lấy bằng là chính; chất lượng giáo dục thấp…; không có sự liên kết chặt chẽ giữa các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và viện nghiên cứu với các doanh nghiệp lớn; thành quả giáo dục nói chung vẫn kém so với các nước láng giềng; cơ cấu nguồn lực con người mất cân đối và các vấn đề công bằng xã hội như quyền đi học, chênh lệch giới tính,… trở nên nghiêm trọng hơn. Từ đó, tác giả nhận định: “Riêng về giáo dục thì tuy nhà nước luôn coi là quốc sách hàng đầu và đã cố gắng cải tổ, nhưng chưa có thành quả thật đáng kể” [92, tr.285]. Hơn nữa, giáo dục đào tạo chưa đảm bảo sự cân đối trong cơ cấu nguồn lực con người. Đào tạo học sinh, sinh viên chưa đủ khả năng chuyên môn để làm việc cho khu vực công và tư, chưa “sản xuất” ra được giới kinh doanh, những người sẽ góp phần quan trọng trong quá trình đổi mới sáng tạo nhằm phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay. Tiếp cận thực trạng thực hiện vai trò của giáo dục đào tạo ở góc độ phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức, tác giả Lê Thị Hồng Điệp, với công trình Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu xây dựng nền kinh tế tri thức ở Việt Nam (Một số vấn đề lý luận và thực tiễn) [34], cho rằng: Giáo dục đào tạo là một trong những điều kiện thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển kinh tế tri thức, mà sự thể hiện vai trò của nó là tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong đó, đào tạo (đặc biệt là đào tạo đại học) là một yếu tố tác động trực tiếp đến quá
- 19 trình phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu xây dựng nền kinh tế tri thức. Phân tích thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nhìn từ góc độ đào tạo đại học ở các phương diện: Thực trạng gia tăng số lượng; sự điều chỉnh cơ cấu và chất lượng, tác giả chỉ ra “những hạn chế trong giáo dục đại học chính là nguyên nhân gây nên những hạn chế trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao” [34, tr.156]. Đó là hạn chế trong xây dựng hệ thống giáo dục đại học, trong thực hiện cơ chế quản lý giáo dục đại học, mà nổi bật là vấn đề tự chủ về nội dung, chương trình, phương pháp; về vấn đề tài chính; về tổ chức nhân sự. Với nhận định: Giáo dục đào tạo có vai trò quan trọng với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay, Tác giả Lương Công Lý, với luận án tiến sỹ chuyên ngành Chủ nghĩa Duy vật biện chứng và Duy vật lịch sử: Giáo dục đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay [71], khảo sát thực trạng vai trò giáo dục đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam ở phương diện tổng kết những thành tựu và những hạn chế của vai trò trên ba mặt thể hiện của nó: Giáo dục đào tạo giúp cho người học có tri thức, trình độ chuyên môn, trình độ tư duy đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội; giúp cho người học phát triển và hoàn thiện nhân cách, đạo đức nghề nghiệp, nâng cao thể chất đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; giúp người học có được phương pháp làm việc khoa học và khả năng thích ứng nhanh với biến đổi của môi trường làm việc trong nước và quốc tế. Đặt trong bối cảnh hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế tri thức, tác giả đánh giá: Giáo dục đào tạo, nhất là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay. Tác giả Nguyễn Thiện Tống, với công trình Giáo dục đại học Việt Nam chậm cải tổ in trong Bàn về giáo dục [92], cho rằng: Giáo dục đại học
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Rèn luyện NL GQVĐ cho HS trong dạy học phần DTH ở trường THPT chuyên
121 p | 168 | 28
-
Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Vận dụng quan điểm sư phạm tương tác vào dạy học Sinh học 9 trường THCS
165 p | 156 | 23
-
Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Phát triển năng lực giao tiếp toán học cho học sinh cuối cấp Tiểu học thông qua dạy học giải toán có lời văn
202 p | 125 | 23
-
Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Vận dụng phương pháp dự án trong dạy học môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin ở các trường đại học trên địa bàn thành phố Hải phòng hiện nay
238 p | 26 | 16
-
Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Sử dụng di sản văn hóa vùng ĐBSCL trong dạy học Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến năm 1918 ở trường THPT Thành phố Cần Thơ
290 p | 24 | 13
-
Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Tổ chức dạy học chủ đề STEM Robotics nhằm phát triển năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh Trung học cơ sở
311 p | 22 | 13
-
Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Tổ chức hoạt động dạy học vật lí "xây dựng và sử dụng thiết bị thí nghiệm tĩnh điện" nhằm bồi dưỡng năng lực giải quyết vấn đề
224 p | 48 | 10
-
Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Dạy học viết văn bản thuyết minh dựa trên tiến trình viết cho học sinh trung học phổ thông theo tiếp cận phát triển năng lực
244 p | 17 | 9
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Tổ chức dạy học chủ đề STEM Robotics nhằm phát triển năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh Trung học cơ sở
25 p | 22 | 9
-
Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Dạy học trên cơ sở vấn đề bài học STEM chủ đề các thể của chất môn Khoa học tự nhiên 6
275 p | 15 | 8
-
Luận án Tiến sĩ Khoa học Ngữ văn: Thân thể trong thơ trữ tình Việt Nam sau 1986
181 p | 18 | 8
-
Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Tổ chức hoạt động dạy học Vật lí - Xây dựng và sử dụng thiết bị thí nghiệm tĩnh điện nhằm bồi dưỡng năng lực giải quyết vấn đề của học sinh lớp 11
224 p | 17 | 7
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Tổ chức dạy học hoá học theo tiếp cận tích hợp nhằm phát triển năng lực vận dụng kiến thức, kỹ năng cho học sinh Trung học cơ sở
27 p | 19 | 5
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Dạy học môn mạng cung cấp điện trình độ cao đẳng định hướng phát triển năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề thực tiễn
27 p | 20 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Khoa học Ngữ văn: Thân thể trong thơ trữ tình Việt Nam sau 1986
25 p | 16 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Dạy học trên cơ sở vấn đề bài học STEM chủ đề các thể của chất môn Khoa học tự nhiên 6
27 p | 6 | 2
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Khoa học máy tính: Nghiên cứu và phát triển phương pháp tiếp cận dựa trên cấu trúc và thống kê trong dịch tự động ngôn ngữ ký hiệu Việt Nam
27 p | 15 | 2
-
Luận án Tiến sĩ Khoa học máy tính: Nghiên cứu một số giải pháp tối ưu hóa hiệu năng trong mạng điện toán biên di động
166 p | 5 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn