intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn tiến sĩ Khoa học giáo dục: Vai trò của giáo dục - đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Phong Tỉ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:235

99
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận án nhằm làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất những giải pháp cơ bản thực hiện vai trò của giáo dục - đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn tiến sĩ Khoa học giáo dục: Vai trò của giáo dục - đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay

  1. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình   nghiên   c ứ u   c ủ a   riêng   nghiên   c ứ u   sinh.   Các s ố  li ệ u, k ế t qu ả  nêu trong lu ậ n án   là trung th ự c, có ngu ồ n g ố c, xu ấ t x ứ  rõ   ràng,   không   trùng   l ậ p   v ớ i   các   công   trình khoa h ọ c đã công b ố .  Hà Nội, ngày 14 tháng 6 năm 2018 TÁC GIẢ LU ẬN ÁN Lê Th ị Thu Huy ền
  2. MỤC LỤC Trang PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC MỞ ĐẦU 5 Chương  TỔNG   QUAN   TÌNH   HÌNH   NGHIÊN   CỨU  LIÊN  1 QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 8 1.1 Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến đề tài  luận án  8 1.2. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học  tiêu biểu liên quan đến đề  tài và những vấn đề  luận án  tập trung giải quyết 26 Chương  NHỮNG   VẤN   ĐỀ   LÝ   LUẬN   VỀ   VAI   TRÒ   CỦA  2 GIÁO DỤC ­ ĐÀO TẠO TRONG PHÁT TRIỂN KINH  TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM 32 2.1. Quan niệm về kinh tế tri thức và phát triển kinh tế tri  thức ở Việt Nam 32 2.2. Giáo dục ­ đào tạo và vai trò của giáo dục ­ đào tạo trong  phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam 43 Chương  THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI  3 VỚI VIỆC THỰC HIỆN VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC ­  ĐÀO   TẠO   TRONG   PHÁT   TRIỂN   KINH   TẾ   TRI   THỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 77 3.1. Thực trạng thực hiện vai trò của giáo dục ­ đào tạo trong  phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay 77 3.2. Những yêu cầu đặt ra đối với việc thực hiện vai trò của giáo   dục ­ đào tạo trong phát triển kinh tế  tri thức  ở  Việt Nam   hiện nay   106 Chương  NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ  BẢN NHẰM THỰC HIỆN  4 VAI   TRÒ   CỦA   GIÁO   DỤC   ­   ĐÀO   TẠO   TRONG  PHÁT TRIỂN KINH TẾ  TRI  THỨC  Ở  VIỆT NAM  HIỆN NAY 120 4.1. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý  của Nhà nước về giáo dục ­ đào tạo  120 4.2. Phát triển và chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo, cán bộ  quản lý  giáo dục ­ đào tạo 131 4.3. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục ­  đào tạo và xây dựng cơ  sở  vật chất tiên tiến, hiện đại,  môi trường giáo dục ­ đào tạo dân chủ, đạo đức     143 KẾT LUẬN 160
  3. CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ  LIÊN QUAN  ĐẾN LUẬN ÁN 162 TÀI LIỆU THAM KHẢO 163 PHỤ LỤC 167
  4. 4 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài luận án Nhân loại hiện đang tiến công mạnh mẽ vào kinh tế tri thức với cuộc  cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm động lực nhằm tạo ra những biến đổi  căn bản và sâu sắc trong sức sản xuất và trên tất cả các mặt của đời sống xã  hội. Trong bối cảnh đó, Việt Nam cũng đang nỗ  lực đẩy mạnh công cuộc  công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Đó là đòi   hỏi tất yếu, khách quan, là cơ  hội để  Việt Nam thực hiện thành công mục   tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để quá trình này   tiến hành có hiệu quả thì nhân tố con người với vốn tri thức và năng lực sáng  tạo giữ  vai trò quyết định. Bởi vậy, chúng ta cần phải có được những con   người đáp ứng tốt yêu cầu của cuộc sống và sự  phát triển của xã hội hiện   đại, tích cực đào luyện ra những nhân cách toàn diện đó. Trong sự  nghiệp   này, giáo dục ­ đào tạo có vai trò rất quan trọng mà các lĩnh vực khác không  dễ gì có được. Giáo dục ­ đào tạo là một lĩnh vực của đời sống xã hội, trực tiếp tác  động đến sự phát triển toàn diện con người, đào tạo nguồn nhân lực, nhất   là nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần tạo ra, chuyển hóa tri thức   khoa học và công nghệ thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Do đó, giáo dục   ­ đào tạo là điều kiện, là cơ  sở  và là động lực trong phát triển kinh tế  tri   thức ở Việt Nam. Nhận thức sâu sắc về vai trò của giáo dục ­ đào tạo trong  quá trình phát triển đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhiều lần khẳng định:  “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ  là quốc sách hàng  đầu” [24, tr.35], “là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện  đại hóa đất nước” [26, tr.94­95], “có sứ  mệnh nâng cao dân trí, phát triển  nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất 
  5. 5 nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam” [28, tr.77], phát triển  kinh tế tri thức.   Trong những năm qua, giáo dục ­ đào tạo đã đạt được những thành  tựu quan trọng, bước đầu tạo nền tảng, trở thành điều kiện và là động lực  cho phát triển kinh tế tri thức  ở Việt Nam trên cơ  sở  phát triển con người  toàn diện, từ  đó tạo ra lực lượng lao động có trí tuệ, góp phần sáng tạo,  chuyển hóa tri thức khoa học và công nghệ hiện đại vào tư  liệu sản xuất,  tạo ra tư  liệu sản xuất thông minh và  ứng dụng chúng vào mọi lĩnh vực   của đời sống xã hội, làm gia tăng hàm lượng chất xám trong từng sản  phẩm, góp phần phát triển kinh tế ­ xã hội đất nước nhanh, bền vững. Tuy  nhiên, xét về mặt bản chất, vai trò giáo dục ­ đào tạo  chưa tương xứng với  yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế tri thức  ở Việt Nam hiện nay . Với  chất lượng giáo dục ­ đào tạo còn thấp, nguồn nhân lực, nguồn nhân lực  chất lượng cao, xét trên các phương diện số lượng, chất lượng và cơ  cấu,  còn nhiều hạn chế; con người Việt Nam  chưa hội đủ  năng lực và phẩm  chất để thực sự trở thành chủ thể phát triển kinh tế tri thức; đóng góp của  giáo dục ­ đào tạo trong sáng tạo, chuyển giao tri thức khoa học và công  nghệ ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội còn thấp. Do đó, phát triển kinh tế  tri thức hiện vẫn còn đối diện với nhiều khó khăn và thách thức. Trong đó,  khó khăn và thách thức lớn nhất là sự  thiếu hụt trầm trọng nguồn lực con   người đủ  năng lực, phẩm chất khai thác, sản sinh, vận dụng hiệu quả  tri  thức khoa học và công nghệ  hiện đại  ở  mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.  Thực tiễn đó đã minh tỏ, giáo dục ­ đào tạo chưa thể  hiện đầy đủ  vai trò  “quốc sách hàng đầu” của nó trong phát triển kinh tế tri thức  ở Việt Nam  hiện nay. Trong những năm gần đây,  ở  Việt Nam đã có nhiều công trình khoa  học quan tâm nghiên cứu về vai trò của giáo dục ­ đào tạo trong phát triển 
  6. 6 kinh tế tri thức, song bàn về vấn đề này ở góc độ triết học thì hiện nay, đây  vẫn còn là mảnh đất cần được đầu tư thời gian và công sức để nghiên cứu. Vì vậy, tác giả lựa chọn “Vai trò của giáo dục ­ đào tạo trong phát   triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu  * Mục đích nghiên cứu:  Làm rõ những vấn  đề  lý luận, thực tiễn và đề  xuất những giải   pháp cơ bản thực hiện vai trò của giáo dục ­ đào tạo trong phát triển kinh   tế tri thức ở Việt Nam hi ện nay. * Nhiệm vụ nghiên cứu: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. Làm rõ những vấn đề lý luận về vai trò của giáo dục ­ đào tạo trong   phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. Đánh giá thực trạng và xác định những yêu cầu đặt ra đối với việc  thực hiện vai trò của giáo dục ­ đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức  ở  Việt Nam hiện nay.  Đề xuất giải pháp cơ bản nhằm thực hiện vai trò của giáo dục ­ đào  tạo trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu của luận án: Những vấn đề bản chất vai  trò của giáo dục ­ đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.  * Phạm vi nghiên cứu: Luận án nghiên cứu về vai trò của giáo dục ­  đào tạo trong quá trình phát triển kinh tế  tri thức  ở  Việt Nam. Tiến hành  điều tra, khảo sát đại diện tại một số cơ  sở  giáo dục ­ đào tạo. Số  liệu  được sử dụng trong nghiên cứu chủ yếu từ năm 2011 đến nay (từ Đại hội   đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đến nay).  4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
  7. 7 * Cơ sở lý luận của luận án: Lý luận của chủ nghĩa Mác ­ Lênin, tư  tưởng Hồ  chí Minh, hệ  thống quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản  Việt Nam, chính sách của Nhà nước về phát triển kinh tế tri thức, về giáo  dục ­ đào tạo trong giai đoạn hiện nay.  Luận án kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có   liên quan đến đề tài. * Cơ  sở  thực tiễn của luận án: Thực trạng thực hiện vai trò của  giáo dục ­ đào tạo trong phát triển đất nước nói chung và phát triển kinh tế  tri thức ở Việt Nam hiện nay.    * Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ  sở  phương pháp luận của chủ  nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận án sử  dụng các phương   pháp: Phân tích và tổng hợp, khái quát hoá và trừu tượng hóa, lôgíc và lịch sử,  hệ thống hoá, so sánh, chứng minh, phương pháp chuyên gia… Các phương  pháp này được sử dụng phù hợp với từng nội dung của luận án. 5. Những đóng góp mới của luận án Chỉ ra và làm rõ vai trò của giáo dục ­ đào tạo trong phát triển kinh tế  tri thức ở Việt Nam. Góp phần đánh giá thực trạng và xác định những yêu cầu đặt ra đối  với việc thực hiện vai trò của giáo dục ­ đào tạo trong phát triển kinh tế tri  thức ở Việt Nam hiện nay.  Đề  xuất những giải pháp cơ  bản nhằm thực hiện vai trò của giáo  dục ­ đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay.  6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án  * Về mặt lý luận: Luận án góp phần cung cấp luận cứ khoa học để  các cơ quan chức năng nghiên cứu hiện thực hóa vai trò của giáo dục ­ đào  tạo trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay.
  8. 8 * Về  mặt thực tiễn: Luận án góp phần tạo sự  thống nhất về nhận   thức và hành động của các chủ thể thực hiện vai trò của giáo dục ­ đào tạo  trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay.   Luận án có thể  làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, nghiên  cứu những chuyên đề liên quan đến giáo dục ­ đào tạo trong phát triển kinh  tế tri thức trong thời kỳ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. 7. Kết cấu của luận án  Ngoài mở đầu, kết luận, các công trình khoa học của tác giả đã được  công bố, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, kết cấu của luận án gồm 4  chương (9 tiết).  Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến đề tài luận án  1.1.1. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến lý luận về   vai trò của giáo dục ­ đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam  Từ những năm 70 của thế kỷ XX cho đến nay, do sự phát triển mạnh  mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, tri thức khoa học  và công nghệ  thực sự  trở  thành lực lượng sản xuất trực tiếp, kinh tế  tri   thức hình thành và trở  thành xu thế  phát triển tất yếu của nhân loại hiện  nay. Từ đó, việc tìm hiểu về kinh tế tri thức, phát triển kinh tế tri thức và   vai trò của giáo dục ­ đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức trở thành tiêu  điểm cho các cuộc thảo luận, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà lãnh đạo,   nhiều học giả trên toàn thế giới. Kết quả là, nhiều công trình nghiên cứu về 
  9. 9 vấn đề này đã ra đời.  Ở Việt Nam, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ  IX (2001) của Đảng Cộng sản Việt Nam cho đến nay, việc nghiên cứu về  vấn đề  này cũng nhận được sự  quan tâm sâu rộng và   đã  có  nhiều công  trình nghiên cứu ở các góc độ tiếp cận khác nhau. Cùng với đó, nhiều công  trình của các học giả  nước ngoài cũng được dịch ra tiếng Việt, trong đó  phải kể đến các công trình tiêu biểu sau: Hội thảo khoa học toàn quốc đầu tiên về vấn đề kinh tế tri thức với   chủ  đề  Kinh tế  tri thức và những vấn đề  đặt ra đối với Việt Nam [3] do  Ban khoa giáo Trung  ương ­ Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường ­ Bộ  Ngoại giao phối hợp tổ chức đã thu hút nhiều học giả và các nhà lãnh đạo   tham gia. Trong các công trình nghiên cứu về chủ đề trên, các tác giả khẳng   định: Kinh tế tri thức là xu hướng phát triển tất yếu của xã hội trong thế kỉ  XXI, lối cuốn mọi quốc gia tham gia trong quá trình phát triển; xây dựng   kinh tế  tri thức đòi hỏi mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia phải  luôn bố sung tri thức mới, do đó, phải đầu tư cơ sở vật chất, phát triển giáo   dục ­ đào tạo phù hợp với mọi đối tượng nhằm phát huy thế mạnh tri thức  của con người trong xã hội. Vận dụng vào Việt Nam trong điều kiện hiện  nay, các tác giả  khẳng định: Khâu đột phá để  phát triển kinh tế  tri thức là  giáo dục ­ đào tạo. Tác giả  Ngô Qúy Tùng, với công trình  Nền kinh tế  tri thức xu thế   mới của xã hội thế kỉ XXI [126] đã hệ thống hóa các quan niệm về kinh tế  tri thức của các nhà chính trị, các học giả, các nhà khoa học, các tổ  chức  quốc tế trên thế giới trong khoảng 30 năm từ thập niên 70 của thế kỷ  XX   với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Dựa vào sự  tiến bộ  của khoa học và   công nghệ, tác giả  cho rằng: Kinh tế  tri thức là “nền kinh tế  mà trong đó  nhân tố quan trọng nhất là việc chiếm hữu, phân phối nguồn trí lực và việc  sáng tạo, phân phối và sử  dụng tri thức trong các ngành sản xuất có hàm  lượng khoa học kỹ  thuật cao” [126, tr.28­29]. Tác giả  tiếp cận kinh tế  tri   thức với tư  cách là “nền kinh tế”, trong nền kinh tế  này, các ngành sản  
  10. 10 xuất dựa vào khoa học kỹ thuật cao đóng vai trò chủ yếu. Tác giả cũng chỉ  ra tám đặc điểm của nền kinh tế  tri thức để  phân biệt với kinh tế  nông  nghiệp và kinh tế công nghiệp [Phụ lục 1].  Bàn về vai trò của giáo dục ­ đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức,   xuất phát từ nhân tố  nổi bật, có ý nghĩa quyết định đến sự  phát triển kinh   tế  tri thức là năng lực trí tuệ  của con người, năng lực mà con người có   được chủ yếu nhờ giáo dục ­ đào tạo, tác giả nhấn mạnh: “Xét kỹ lại theo  tư duy về sản xuất thì giáo dục chính là nhu cầu của kinh tế tri thức” [126,   tr.197]. Giáo dục là đào tạo nhân tài, nhân tài là sản phẩm của giáo dục. Do   vậy, tác giả nhận định về tầm quan trọng của giáo dục ­ đào tạo trong kinh  tế tri thức là “cực lớn” với chỉ số đầu tư chiếm trên 7% GDP của một nền   kinh tế,  trong  khi  tầm  quan  trọng  của lĩnh  vực  này  trong  kinh tế   nông  nghiệp là không lớn, chỉ  số  đầu tư  chỉ  chiếm dưới 1% GDP và trong kinh   tế  công nghiệp, chỉ  số  đầu tư  đó chiếm khoảng từ  2­4% GDP. Trong nền   kinh tế  tri thức, “luận án tiến sỹ  có thể  là cơ  sở  thành lập các xí nghiệp”  [126, tr.197].  Các tác giả Takashi Kiuchi, Tian Zhongqing, Cheonsik Woo, với công  trình Kinh tế tri thức vấn đề và giải pháp: Kinh nghiệm của các nước phát   triển và đang phát triển [109], đã phân tích xu thế phát triển kinh tế ­ xã hội  của các nước phát triển và đang phát triển ở khu vực Đông Á, qua đó  chỉ rõ  xu thế tăng trưởng kinh tế ở các nước này chủ yếu dựa vào tri thức, do đó,  phát triển kinh tế  tri thức  ở  các nước trong khu vực này là tất yếu khách   quan. Từ  đó, các tác giả  chỉ  ra sự  tác động của kinh tế  tri thức với chính  quyền, với doanh nghiệp và với hoạt động nghiên cứu khoa học.   Tiếp cận kinh tế tri thức  ở góc độ  bao trùm, tác giả   Vũ Trọng Lâm,  với  công trình  Kinh tế  tri thức  ở  Việt Nam ­ quan điểm và giải pháp phát   triển [66] cho rằng: “Kinh tế tri thức thực chất là một loại môi trường kinh  tế  ­ văn hóa xã hội mới, có những đặc tính phù hợp và thuận lợi nhất cho  việc học hỏi, đổi mới và sáng tạo” [66, tr.62]. Phân tích về sự phát triển kinh 
  11. 11 tế  tri thức của các nước trên thế  giới, tác giả  rút ra năm bài học cho Việt   Nam, trong đó, việc hình thành nguồn vốn nhân lực, khuyến khích và bồi   dưỡng nhân tài, lấy con người ­ trung tâm của mọi sự  phát triển là bài học  đầu tiên và quan trọng nhất. Tác giả  tán đồng quan điểm cho rằng: Vai trò   của giáo dục ­ đào tạo là rất quan trọng (nếu không muốn nói là bậc nhất)  đối với sự  phát triển nhân lực, phát triển công nghệ  thông tin và thu hẹp  khoảng cách về kỹ  thuật số. Vì thế, tiếp cận và phát triển kinh tế  tri thức,   “các   nước   từ   Mỹ,   EU,   Nhật   Bản   đến   Trung   Quốc,   Ấn   Độ,   Sinhgapo,  Malaysia… đều rất chú trọng đến giáo dục ­ đào tạo nguồn nhân lực” [66,   tr.99], do đó, các nước này đều chủ  trương tăng cường đầu tư, xúc tiến cải  cách, hiện đại hóa hệ thống giáo dục ­ đào tạo, gắn giáo dục ­ đào tạo với  doanh nghiệp, với việc làm. Như vậy, theo quan điểm của tác giả, vai trò của  giáo dục ­ đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức được thể hiện ở việc tạo  nguồn vốn nhân lực, khuyến khích và bồi dưỡng nhân tài, lấy con người là  trung tâm của mọi sự phát triển được cho là việc đầu tiên và quan trọng nhất.  Bàn về  phát triển kinh tế  tri thức  ở  Việt Nam,  Hội thảo kinh tế  tri   thức ­ Khoa học và thực tiễn  ở  Việt Nam  [67], do Liên hiệp các hội khoa  học và kỹ thuật Việt Nam tổ chức đã tập hợp nhiều công trình của các tác   giả về chủ đề trên, tiêu biểu là công trình: “Phát triển kinh tế tri thức,  rút   ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta” của tác giả Đặng  Hữu. Tác giả  quan niệm: “Phát triển kinh tế  tri thức  ở  Việt Nam là tăng  cường sử  dụng tri thức mới, công nghệ  mới để  đẩy nhanh dịch chuyển cơ  cấu và tốc độ  tăng trưởng kinh tế” [67, tr.14]. Để  thành công trong chiến   lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa “rút ngắn” dựa vào tri thức, Việt Nam  phải tăng cường năng lực nội sinh, chủ  động hội nhập quốc tế, trong đó  “yếu tố  quyết định nhất đối với năng lực nội sinh của một dân tộc là văn  hóa, giáo dục, khoa học, cũng tức là sức mạnh tinh thần và trí tuệ  của dân  tộc” [67, tr.18]. Trong đó, giáo dục ­ đào tạo tạo ra nguồn nhân lực, nâng cao 
  12. 12 dân trí, bồi dưỡng nhân tài được xác định là đột phá trong chiến lược phát   triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. Tác giả Thế Trường, với công trình Hành trang thời đại kinh tế tri thức   [123], cho rằng: Để phát triển kinh tế tri thức, học tập được xem là một loại   năng lực, là chìa khóa mở cánh của thời đại. Khi đó, giáo dục ­ đào tạo có vai   trò quan trọng giúp người học bồi dưỡng năng lực học tập, khả  năng học,  cách học, học suốt đời. Trong đó, giáo dục chính quy  ở  bậc đại học sẽ  trở  thành giai đoạn chuẩn bị cho mỗi người bước vào xã hội và nếu không được   giáo dục ­ đào tạo một cách có hệ  thống thông qua giáo dục chính quy, con  người sẽ khó tồn tại và phát triển trong thời đại kinh tế tri thức. Do đó, giáo   dục ­ đào tạo, nhất là giáo dục chính quy là nền tảng trong quá trình phát triển   kinh tế tri thức. Tác giả Nguyễn Thị Luyến, với cuốn sách Nhà nước với phát triển kinh   tế  tri thức  trong bối cảnh toàn cầu hóa  [70], tập hợp những  công trình  lược  thuật, các công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài được dịch ra tiếng  Việt và các công trình của các tác giả trong nước xoay quanh chủ đề: Kinh tế tri  thức ­ Lý luận và thực tiễn. Liên quan đến đề tài luận án có các công trình tiêu  biểu như: Chủ nghĩa Mác và kinh tế tri thức  và Cơ sở lý luận của kinh tế tri   thức cung cấp cho chúng ta khái niệm, quy luật hình thành, phát triển, đặc điểm  và xu thế phát triển kinh tế tri thức. Các tác giả khẳng định, kinh tế tri thức là  thành tựu quan trọng của loài người mà Việt Nam cần nắm lấy và vận dụng để  phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất ­ kỹ thuật của chủ nghĩa  xã hội; công trình Kinh tế mới toàn cầu hóa và thách thức đối với các nước đang   phát triển, chỉ rõ: Đối với các nước đang phát triển như  Việt Nam, phát triển  kinh tế tri thức vừa là thời cơ, vừa là thách thức, trong đó những thách thức nổi   bật là khả năng cạnh tranh, thu hút đầu tư, đào tạo nhân lực, cơ sở pháp lý và  đặc biệt là tài năng của giới lãnh đạo đất nước; công trình  Kinh nghiệm phát   triển kinh tế tri thức của các nước phát triển và các nước đang phát triển, chỉ ra:  Trong chiến lược phát triển kinh tế tri thức, các nước phát triển như Mỹ, Anh,  
  13. 13 Nhật Bản đưa ra những chính sách ưu tiên phát triển các ngành kỹ  thuật cao,  nghiên cứu và triển khai, đầu tư cho vốn con người; các nước đang phát triển   như Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước châu Á khác đưa ra những chính sách   tận dụng lợi thế của đất nước mình để phát triển kinh tế tri thức. Tuy có những   khác biệt, song điểm chung mà các nước đều hướng đến là phải nhanh chóng  tiến hành cải cách giáo dục ­ đào tạo, giữ vững sự ổn định chính trị và coi đó là  điều kiện quan trọng để phát triển kinh tế tri thức.       Tiếp cận  ở  một góc độ  khác, các tác giả  Vũ Đình Cự  ­ Trần Xuân  Sầm, với công trình Lực lượng sản xuất mới và kinh tế  tri thức  [20], cho  rằng: Phát triển kinh tế tri thức là tất yếu khách quan, là quá trình phát triển   lịch sử  của lực lượng sản xuất mà cốt lõi là sự  phát triển của trí tuệ  loài  người. Bàn về  phát triển kinh tế  tri thức  ở  Việt Nam, các tác giả  khẳng  định: Kinh tế  tri thức đã tác động đến Việt Nam với sự  xuất hiện của   những ngành công nghệ  cao, quá trình “tri thức hóa” ngành nông nghiệp,  công nghiệp, dịch vụ và sự bùng nổ của giáo dục ­ đào tạo, đặc biệt là giáo  dục đại học và cao đẳng. Với chủ  đề  “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa,   gắn với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta”,  trên cơ sở hệ thống hóa quan  điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn  với phát triển kinh tế tri thức, tác giả  nhận định chủ  trương này chỉ  thành  công khi Việt Nam dựa vào đào tạo, sử  dụng, khuyến khích tiềm năng tri   thức quốc gia, nắm bắt khoa học và công nghệ  hiện đại, phát triển mạnh  các ngành, các sản phẩm kinh tế  có giá trị  gia tăng cao dựa nhiều vào tri  thức công nghệ  cao. Từ  đó,  các tác giả  chỉ  ra một số  bước đi cụ  thể  để  phát triển kinh tế tri thức gắn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước  hiện nay, trong đó vai trò nổi bật là đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài  khoa học và công nghệ.  Tác giả  Đặng Hữu, với công trình Phát triển kinh tế tri thức  ở Việt   Nam: Quá trình phát triển tư duy lý luận của Đảng, những vấn đề  lý luận  
  14. 14 và thực tiễn [59], khẳng định: Phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam là một  bước chuyển biến chiến lược trọng đại, chuyển nền kinh tế từ dựa vào tài   nguyên sang dựa chủ yếu vào tri thức và năng lực sáng tạo của con người,   trong đó, nhiệm vụ  phát triển kinh tế  tri thức  ở  Việt Nam là tái cấu trúc  nền kinh tế  theo hướng tăng nhanh các ngành có giá trị  gia tăng cao dựa   nhiều vào tri thức, công nghệ  mới; sử  dụng tri thức để  đổi mới, hiện đại  hóa tất cả các ngành, cắt giảm các dự án đầu tư lớn, tiêu hao nhiều nguyên   liệu, năng lượng mà hiệu quả  thấp, phát triển các ngành công nghiệp chế  biến và dịch vụ dựa nhiều vào tri thức, chấm dứt bán tài nguyên thô, nhập  công nghệ thay cho nhập sản phẩm chế biến, FDI phải đi kèm chuyển giao  tri thức, tăng mạnh vốn đầu tư  vốn người. Tác giả  cho rằng: Vai trò của   giáo dục ­ đào tạo trong phát triển kinh tế  tri thức  ở Việt Nam là gấp rút  đào tạo nguồn nhân lực, nguồn nhân lực chất lượng cao có phẩm chất, bản   lĩnh, có trách nhiệm với xã hội, dám nghĩ dám làm, có tư duy độc lập, năng  lực sáng tạo, năng lực tiếp thu, làm chủ  tri thức mới, vận dụng linh hoạt   sáng tạo vào thực tiễn. Chỉ  có như  vậy, Việt Nam mới có thể  đi vào phát  triển kinh tế tri thức. Bàn về  vai trò của giáo dục ­ đào tạo, tác giả  Phạm Minh Hạc, với   công trình Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI  [40], cho  rằng: Vai trò của giáo dục ­ đào tạo được xác định là “hình thành và phát  triển nhân cách con người, trên cơ  sở  phát triển giáo dục nhằm thực hiện  nhiệm vụ  nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài… phát  triển con người bền vững” [40, tr.230]. Giáo dục ­ đào tạo con người có đạo   đức và có năng lực sáng tạo, có ích cho xã hội, cho cộng đồng là nhân tố  quyết định vận mệnh của đất nước. Trên cơ  sở  đó, phát triển nguồn nhân  lực chất lượng cao là đòn bẩy của các vấn đề kinh tế ­ xã hội. Bởi, trong thế  kỷ XXI, vũ khí cạnh tranh chủ yếu của các quốc gia là giáo dục ­ đào tạo và   kỹ  năng của người lao động. Tác giả  nhấn mạnh “toàn bộ  sự  nghiệp giáo   dục là nhằm phát triển con người, trong đó tri thức phải trở thành kỹ  năng, 
  15. 15 thái độ, trí tuệ  phải trở  thành trí lực, tập luyện thân thể  để  thành thể  lực”   [40, tr.230].  Tiếp cận vai trò của giáo dục ­ đào tạo trong phát triển kinh tế  tri  thức  ở Việt Nam với góc độ khác, tác giả  Nguyễn Văn Hòa với công trình   Phát triển giáo dục ­ đào tạo ­ một động lực để phát triển kinh tế tri thức   ở Việt Nam hiện nay [48], cho rằng: Trong kinh tế tri thức, tri thức là yếu  tố  chủ  yếu của sản xuất, là lợi thế  của cạnh tranh, là chất lượng của   nguồn nhân lực, là sức mạnh của nội lực và là sức hút chủ  yếu của ngoại  lực. Chất lượng nguồn nhân lực, tri thức con người phải thông qua giáo  dục ­ đào tạo mới có được. Do vậy, tác giả  khẳng định, nâng cao dân trí,  đào tạo, bồi dưỡng và phát huy nguồn nhân lực con người Việt Nam trên  cơ sở phát triển giáo dục ­ đào tạo là động lực phát triển kinh tế tri thức, là  vấn đề có ý nghĩa sống còn của đất nước trước xu thế toàn cầu hiện nay. Cũng đề cập đến vai trò của giáo dục ­ đào tạo trong phát triển kinh  tế  tri thức  ở  Việt Nam, tác giả  Nguyễn Công Trí, với luận  án tiến sỹ  chuyên ngành Triết học: Trí thức Việt Nam trong phát triển kinh tế tri thức   [122], cho rằng, giáo dục ­ đào tạo có vai trò quan trọng trong việc xây  dựng và phát triển đội ngũ trí thức, bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực  chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện   nay. Từ  đó, tác giả  khẳng định: Giáo dục ­ đào tạo là yếu tố  đóng vai trò  quan trọng trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay. Đây là cơ sở lý luận quan trọng để  tác giả  luận án kế thừa, tiếp thu,  trên cơ sở đó đưa ra quan niệm về kinh tế tri thức, quan niệm về phát triển   kinh tế tri thức  ở Việt Nam và quan niệm về vai trò của giáo dục ­ đào tạo  trong phát triển kinh tế tri thức  ở Việt Nam theo phương pháp nghiên cứu,   cách tiếp cận và luận giải của mình.
  16. 16 1.1.2. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến thực   trạng thực hiện vai trò của giáo dục ­ đào tạo trong phát triển kinh tế tri   thức ở Việt Nam hiện nay Đánh giá về  thực trạng thực hiện vai trò của giáo dục ­ đào tạo Việt  Nam trên các phương diện thể hiện về dân trí, nhân lực, nhân tài, tác giả Hoàng  Tụy và cộng sự trong công trình Kiến nghị của Hội thảo về chấn hưng, cải   cách, hiện đại hóa giáo dục, in trong Những vấn đề giáo dục hiện nay: Quan   điểm và giải pháp [91] nhận định: Giáo dục Việt Nam tụt hậu khá xa so với các  nước trong khu vực và trên thế giới… về cả ba phương diện dân trí, nhân lực   và nhân tài, những bất cập đều quá rõ. Cụ thể trên từng mặt, tác giả đánh giá:   “Dân trí thấp, biểu hiện trên lối sống và suy nghĩ, tập quán, tác phong, tư  tưởng, ý thức… Đạo đức bị  sói mòn, thói gian dối, thiếu trung thực đang tác   động nặng nề đến mọi mặt của đời sống xã hội. Nhân lực không đáp ứng yêu  cầu phát triển kinh tế, yếu kiến thức, kém kỹ năng thực hành, ít khả năng xoay  sở, thiếu óc tưởng tượng và năng lực sáng tạo, đó là những đặc trưng của chất  lượng lao động khiến sức cạnh tranh rất thấp… phát hiện và bồi dưỡng nhân   tài kém… chất xám bị  lãng quên nghiêm trọng” [91, tr.32­33]. Thực trạng đó  phản ánh việc thực hiện vai trò của giáo dục ­ đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu  phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay.  Tổng hợp các cách đánh giá về  thực trạng giáo dục ­ đào tạo Việt   Nam, qua đó chỉ ra thực trạng thực hiện vai trò của lĩnh vực này trong phát   triển kinh tế tri thức, từ sự đánh giá của Đảng Cộng sản Việt Nam, của các   cơ quan quản lý nhà nước, của các đề tài nghiên cứu khoa học và của các cơ  quan nghiên cứu nước ngoài, tác giả Phạm Văn Linh, trong công trình Định   hướng chiến lược, giải pháp đột phá nhằm đổi mới căn bản,  toàn diện giáo   dục ­ đào tạo Việt Nam [69], chỉ rõ: Xét từ góc độ quản lý nhà nước, “cách  đánh giá này tập trung trước hết vào đầu ra của giáo dục trên bốn chiều đo  cơ  bản là: Quy mô, chất lượng, hiệu quả  và công bằng xã hội…, về  đầu 
  17. 17 vào (nhà giáo, chương trình giáo dục, cơ sở vật chất, tài chính), về quá trình  (quản lý giáo dục, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế)” [69, tr.161]. Dựa   vào nội dung đánh giá này, tác giả cho rằng: “Giáo dục ­ đào tạo chưa thực   sự  là quốc sách hàng đầu, chưa là động lực chính cho sự  phát triển” [69,   tr.164].  Xét từ  góc độ  nghiên cứu khoa học, một số  công trình, đề  tài khoa  học cấp Nhà nước đánh giá về giáo dục ­ đào tạo Việt Nam ở các phương  diện: Về  quản lý; về  hệ  thống giáo dục quốc dân; về  chương trình giáo   dục phổ thông, sách giáo khoa; đào tạo bồi dưỡng giáo viên. Tác giả  nhận  định: Bên cạnh những thành tựu bước đầu, những mặt này còn bộc lộ  nhiều yếu kém, bất cập làm chất lượng và hiệu quả của giáo dục ­ đào tạo   chưa đáp  ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn hiện nay,   nhất là trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức. Do đó, vai trò “quốc sách  hàng đầu” của giáo dục ­ đào tạo chưa được thể hiện đầy đủ.  Đánh giá của một số cơ quan nghiên cứu nước ngoài dựa vào việc đo  lường bằng các chỉ số, trên cơ sở so sánh với giáo dục ­ đào tạo của các nước  trên thế  giới  ở  một số  phương diện và xếp hạng theo các chỉ  số  như  HDI,  KEI, EDI, GCI; đánh giá thực trạng từng bậc học, chỉ ra hạn chế và nguyên  nhân của những hạn chế  đó, tác giả  cho rằng: “Đánh giá của các cơ  quan   quốc tế cho ta thấy, một bức tranh khá toàn diện về thực trạng giáo dục Việt   Nam trong bối cảnh kinh tế ­ xã hội cụ thể của đất nước và trong tương quan  so sánh chủ yếu với các nước đang phát triển trong khu vực hoặc các nước có  mức thu nhập tương đương” [69, tr.178] và dù đánh giá ở góc tiếp cận nào thì   sự thể hiện vai trò của giáo dục ­ đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức vẫn  chưa đầy đủ. Vai trò đó mới tồn tại ở dạng tiềm năng là chính.   Tiếp cận thực trạng thực hiện vai trò của giáo dục ­ đào tạo ở góc độ  tiếp cận khác, tác giả Trần Nam Bình, với công trình Đổi mới giáo dục Việt   Nam: Một vài nhận định từ  quan điểm chính sách kinh tế  in trong  Bàn về 
  18. 18 giáo dục [92], đã khái lược hiện trạng giáo dục ­ đào tạo Việt Nam với việc   tóm tắt lại một số  hiện tượng hạn chế chính yếu như: Sự  thiếu thốn của   nguồn lực, nhất là chi phí công dành cho giáo dục; hiệu quả ứng dụng nguồn  lực trong ngành giáo dục ­ đào tạo thấp với thực trạng tổ chức và quản lý  không thích hợp, tỷ  lệ  sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp cao và tăng dần;  lượng giáo viên yếu về  chất lượng cũng như  số  lượng và đang bị  lão hóa;  học sinh sinh viên học nhồi nhét, kém sáng tạo, thiếu trung thực, chỉ lo đậu   lấy bằng là chính; chất lượng giáo dục thấp…; không có sự liên kết chặt chẽ  giữa các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và viện nghiên  cứu với các doanh nghiệp lớn; thành quả giáo dục nói chung vẫn kém so với   các nước láng giềng; cơ cấu nguồn lực con người mất cân đối và các vấn đề  công bằng xã hội như quyền đi học, chênh lệch giới tính,… trở  nên nghiêm  trọng hơn. Từ  đó, tác giả  nhận định: “Riêng về  giáo dục thì tuy nhà nước  luôn coi là quốc sách hàng đầu và đã cố  gắng cải tổ, nhưng chưa có thành  quả thật đáng kể” [92, tr.285]. Hơn nữa, giáo dục ­ đào tạo chưa đảm bảo sự  cân đối trong cơ cấu nguồn lực con người. Đào tạo học sinh, sinh viên chưa   đủ  khả  năng chuyên môn để  làm việc cho khu vực công và tư, chưa “sản   xuất” ra được giới kinh doanh, những người sẽ  góp phần quan trọng trong   quá trình đổi mới sáng tạo nhằm phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện   nay.  Tiếp cận thực trạng thực hiện vai trò của giáo dục ­ đào tạo ở góc độ  phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức, tác giả  Lê Thị Hồng Điệp, với công trình Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao   đáp ứng yêu cầu xây dựng nền kinh tế tri thức ở Việt Nam (Một số vấn đề lý   luận và thực tiễn) [34], cho rằng: Giáo dục ­ đào tạo là một trong những điều  kiện thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển kinh tế tri thức, mà sự  thể  hiện vai trò của nó là tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong đó, đào   tạo (đặc biệt là đào tạo đại học) là một yếu tố  tác động trực tiếp đến quá 
  19. 19 trình phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp  ứng yêu cầu xây dựng  nền kinh tế  tri thức. Phân tích thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất  lượng cao nhìn từ góc độ đào tạo đại học ở các phương diện: Thực trạng gia  tăng số lượng; sự điều chỉnh cơ cấu và chất lượng, tác giả chỉ ra “những hạn   chế  trong giáo dục đại học chính là nguyên nhân gây nên những hạn chế  trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao” [34, tr.156]. Đó là hạn chế  trong xây dựng hệ thống giáo dục đại học, trong thực hiện cơ  chế  quản lý  giáo dục đại học, mà nổi bật là vấn đề  tự  chủ  về  nội dung, chương trình,  phương pháp; về vấn đề tài chính; về tổ chức nhân sự.  Với nhận định: Giáo dục ­ đào tạo có vai trò quan trọng với việc phát   triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tố  quyết định sự  phát triển kinh  tế tri thức ở Việt Nam hiện nay, Tác giả Lương Công Lý, với luận án tiến  sỹ  chuyên ngành Chủ  nghĩa Duy vật biện chứng và Duy vật lịch sử:  Giáo  dục ­ đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao  ở  Việt   Nam hiện nay [71], khảo sát thực trạng vai trò giáo dục ­ đào tạo với việc   phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao  ở Việt Nam ở phương diện tổng   kết những thành tựu và những hạn chế của vai trò trên ba mặt thể hiện của   nó: Giáo dục ­ đào tạo giúp cho người học có tri thức, trình độ chuyên môn,   trình độ tư duy đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế ­ xã hội; giúp cho người   học phát triển và hoàn thiện nhân cách, đạo đức nghề nghiệp, nâng cao thể  chất đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; giúp người học có được phương  pháp làm việc khoa học và khả  năng thích ứng nhanh với biến đổi của môi  trường làm việc trong nước và quốc tế. Đặt trong bối cảnh hội nhập quốc  tế, phát triển kinh tế  tri thức, tác giả  đánh giá: Giáo dục ­ đào tạo, nhất là  đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp  ứng được yêu cầu phát  triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay. Tác giả  Nguyễn Thiện Tống, với công trình  Giáo dục đại học Việt   Nam chậm cải tổ in trong Bàn về giáo dục [92], cho rằng: Giáo dục đại học 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2