ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN HẢI BẰNG

KHẢO SÁT TÍN NGƯỠNG GIẢI HẠN QUA DÂN CA NGHI LỄ TÀY Ở PÁC NẶM - BẮC KẠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2018

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN HẢI BẰNG

KHẢO SÁT TÍN NGƯỠNG GIẢI HẠN QUA DÂN CA NGHI LỄ TÀY Ở PÁC NẶM - BẮC KẠN Ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. VŨ THỊ TÚ ANH

THÁI NGUYÊN - 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, do tôi thực

hiện dưới sự hướng dẫn của PGS. TS. Vũ Thị Tú Anh trong khuôn khổ chương

trình đào tạo Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm

Thái Nguyên.

Thái Nguyên, tháng 11 năm 2018

Tác giả luận văn

Nguyễn Hải Bằng

i

LỜI CẢM ƠN

Luận văn này là kết quả của một quá trình học tập và nghiên cứu của bản

thân tôi ở bộ môn Văn học Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.

Khi hoàn thành luận văn, tôi muốn được gửi lời cảm ơn chân thành nhất những

người đã giúp đỡ tôi trong suốt thời gian đầy thách thức nhưng rất quan trọng

với cuộc đời và sự nghiệp của tôi. Trước tiên, tôi xin được gửi lời tới PGS. TS

Vũ Thị Tú Anh lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất, cảm ơn cô đã hướng dẫn

tôi tận tình trong quá trình hình thành ý tưởng, xây dựng đề cương nghiên cứu,

triển khai thu thập tài liệu và viết kết quả nghiên cứu thành bản luận văn này.

Tôi cũng muốn được bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô trong bộ môn Văn

học Việt Nam, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã dạy tôi

những tri thức khoa học và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành luận văn này.

Trong quá trình khảo sát, điền dã Tín ngưỡng giải hạn qua dân ca nghi lễ

Tày ở địa bàn huyện Pác Nặm, luận văn này đã nhận được nhiều sự hỗ trợ, quan

tâm và lời động viên từ nhiều ban, ngành, đồng nghiệp, bà con nhiều xã trên địa

bàn huyện. Nhân đây, tôi muốn cảm ơn thầy Then Dương Văn Mu, thầy Mo

Hoàng Văn Phúc và Hoàng Văn Lý, những người đã hướng dẫn và giúp đỡ tôi

trong các chuyến điền dã tín ngưỡng giải hạn trên địa bàn huyện Pác Nặm.

Gia đình và bạn bè tôi chính là động lực tinh thần quan trọng giúp tôi hoàn

thành luận văn này. Tôi luôn ghi nhận và cảm kích với những hỗ trợ và động

viên của họ trong suốt quá trình tôi thực hiện đề tài luận văn này.

ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii

MỤC LỤC .......................................................................................................... iii

DANH MỤC BẢNG, HÌNH .............................................................................. iv

PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1

1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1

2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 3

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 6

4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 7

5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 8

6. Bố cục đề tài .................................................................................................... 8

7. Dự kiến kết quả nghiên cứu ............................................................................. 8

Chương 1. TỔNG QUAN VỀ TÍN NGƯỠNG GIẢI HẠN QUA DÂN CA

NGHI LỄ DÂN TỘC TÀY HUYỆN PÁC NẶM, TỈNH BẮC KẠN .......... 9

1.1. Các công trình nghiên cứu về văn hóa, văn học dân gian, văn hóa tâm

linh của người Tày ..................................................................................... 9

1.2. Các công trình nghiên cứu về văn hóa, văn học dân gian, nghệ thuật

dân gian của người Tày ........................................................................... 12

1.3. Các công trình nghiên cứu âm nhạc dân gian ......................................... 16

1.4. Những công trình khác ............................................................................ 17

Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 18

Chương 2. ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG TÍN NGƯỠNG GIẢI HẠN QUA DÂN CA

NGHI LỄ DÂN TỘC TÀY HUYỆN PÁC NẶM, TỈNH BẮC KẠN ............. 20

2.1. Những quan niệm của người Tày Pác Nặm liên quan tới tín ngưỡng

giải hạn qua dân ca nghi lễ Then của dân tộc Tày .................................. 20

2.1.1. Quan niệm về vũ trụ ................................................................................ 20

iii

2.1.2. Quan niệm về ma (phi), vía (khoăn), số phận (thổ), tướng mạo (mình)

Quan niệm về ma ..................................................................................... 20

2.2. Nguyên nhân thực hành nghi lễ Then giải hạn ........................................ 24

2.3. Thực hành trong nghi lễ giải hạn qua dân ca (Then) của người Tày ở

Pác Nặm ................................................................................................... 27

2.3.1. Người thực hành nghi lễ Then giải hạn ................................................... 27

2.3.2. Đồ lễ/ đồ cúng trong nghi lễ Then giải hạn ............................................. 30

2.3.3. Tiến hành một nghi lễ Then giải hạn của người Tày ở Pác Nặm............ 32

2.4. Thực hành trong nghi lễ giải hạn qua dân ca bằng chữ Nôm Tày

(những thầy Mo) của người Tày ở Pác Nặm ........................................... 38

2.4.1. Quan niệm về vũ trụ ................................................................................ 38

2.4.2. Tín ngưỡng giải hạn của thầy Mo, Tào ở Pác Nặm thể hiện trường phái

Nho giáo .................................................................................................. 40

2.4.3. Những văn bản về lễ cúng giải hạn cầu an của người Tày và cách diễn

xướng trong lễ cúng giải hạn (cầu an) ..................................................... 41

2.4.4. Thời gian, không gian và cách diễn xướng và trang phục, đạo cụ của

nghi lễ giải hạn (cầu an) bằng chữ Nôm tày............................................ 41

2.4.5. Nội dung của văn bản Mo giải hạn bằng chữ Nôm Tày ở Pác Nặm ....... 45

Tiêu kết chương 2 .............................................................................................. 62

Chương 3. GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT TÍN NGƯỠNG GIẢI HẠN QUA

DÂN CA NGHI LỄ DÂN TỘC TÀY HUYỆN PÁC NẶM, TỈNH

BẮC KẠN ............................................................................................... 63

3.1. Nghi lễ giải hạn qua dân ca ở Pác Nặm và sự thể hiện những giá trị

văn hóa và cuộc sống của người Tày ...................................................... 63

3.2. Giá trị nghệ thuật tín ngưỡng giải hạn qua dân ca nghi lễ Tày ở Pác Nặm

- Bắc Kạn .................................................................................................. 68

3.2.1. Các thể hát dân ca nghi lễ ........................................................................ 68

3.2.2. Thành tố văn học trong nghi lễ giải hạn qua dân ca ................................ 76

iv

3.2.3. Nghệ thuật làn điệu tín ngưỡng giải hạn qua dân ca nghi lễ Tày ở

Pác Nặm - Bắc Kạn ................................................................................ 77

3.2.4. Thành tố mỹ thuật trong các nghi lễ giải hạn qua dân ca ........................ 78

3.3. Nghi lễ giải hạn và an ninh sức khỏe, an ninh sinh kế đối với người Tày .... 80

Tiêu kết chương 3 .............................................................................................. 82

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 83

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 85

PHỤ LỤC

v

DANH MỤC BẢNG, HÌNH

Bảng:

Bảng 3.1: Bảng tổng hợp người am hiểu hát dân ca nghi lễ Tày Pác Nặm ........ 68

Bảng 3.2: Bảng thống kê số lượng người hát Then cổ, Then mới ở Pác Nặm ....... 71

Bảng 3.3: Bảng tổng hợp tên gọi và làn điệu Then Bắc Kạn ........................ 73

Bảng 3.4: Bảng so sánh số lượng người hát dân ca Tày Bắc Kạn ................. 76

Hình:

Hình 2.1: Lầu kỷ tượng trưng cho mường trời ............................................... 46

Hình 2.2: Hình nộm mão làng ........................................................................ 47

Hình 2.3: Giải hạn thêm lương thực cho bài mệnh, cho người được giải hạn .... 48

Hình 2.4: Con cháu tạ lễ công ơn sinh thành của ông bà, cha mẹ .................. 49

Hình 2.5: Mâm cúng Nam Tào, Bắc Đẩu ....................................................... 51

Hình 2.6: Lời cúng và niệm chú trong nghi lễ giải tinh kỷ của thầy Hoàng

Văn Phúc ......................................................................................... 52

Hình 2.7: Thầy cúng Hoàng Văn Phúc ban phúc lộc cho cả gia chủ ............. 57

iv

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Sự đặc sắc trong bản sắc văn hóa Tày Pác Nặm, Bắc Kạn, văn hóa Tày

Việt Nam

Văn học dân gian Việt Nam là một tổng thể đa diện nhưng thống nhất được

hợp thành bởi tinh hoa văn học dân gian của các dân tộc anh em. Một trong

những chủ thể của kho tàng ấy phải kể đến người Tày, một dân tộc có số lượng

dân cư đông nhất trong cộng đồng 53 dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Người Tày ở

Việt Nam có một kho tàng văn học dân gian thể hiện đời sống tâm linh phong

phú và sâu sắc.

Bắc Kạn là vùng văn hóa của người Tày có cuội nguồn lịch sử hàng ngàn

năm. Nơi đây đang lưu giữ một kho tàng nghệ thuật dân gian đồ sộ, trong đó phải

nhắc tới nhiều làn điệu dân ca chưa được nghiên cứu tỉ mỉ, có hệ thống. Trữ

lượng âm nhạc dân gian Bắc Kạn rất phong phú với nhiều thể hát, lối hát khác

nhau đã đặt ra yêu cầu cần phải có chính sách, phương pháp bảo tồn nguồn di

sản quý báu của nhiều thế hệ người Tày Bắc Kạn sáng tạo nên.

Nghi lễ giải hạn qua dân ca (lẩu then, lẩu pụt, Mo) của người Tày ở Pác

Nặm- Bắc Kạn, phản ánh một trong những nét văn hóa tâm linh đặc sắc mạng

đậm chất tín ngưỡng đặc thù của dân tộc Tày.

Phong tục cúng giải hạn của dân tộc Tày ở Pác Nặm- Bắc Kạn đã có từ

rất lâu, và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cho đến nay nghi

lễ này vẫn được thực hành bởi nhiều thế hệ trong các gia đình và cộng đồng

người Tày.

Pác Nặm là một huyện vùng cao của tỉnh Bắc Kạn. Tuy đời sống của đồng

bào dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, nhưng cứ vào độ xuân về, khi vào thời điểm

cỏ cây, hoa lá trong rừng nở rộ, nhất là sau tết nguyên đán thì các hộ gia đình

người Tày lại tìm gặp thầy Tào, thầy Mo, thầy Then, thầy Pụt, để xem ngày lành,

sau đó tiến hành chuẩn bị lễ vật và đi đón thầy Tào, thầy Mo, thầy Then. Thầy

1

Pụt đến nhà để làm lễ cúng giải hạn cho các con cháu gia đình, nhằm xua đuổi

cái xấu, cầu mong một năm an lành, mùa màng bội thu…

1.2. Nghiên cứu dân ca nghi lễ Tày từ góc độ văn hóa, văn học dân tộc Tày

Trong số các nghiên cứu về đời sống văn hóa, những vấn đề về tín ngưỡng

và nghi lễ của người Tày là những chủ đề được nhiều nhà khoa học quan tâm và

nghiên cứu. Tuy nhiên đời sống tín ngưỡng và nghi lễ của người Tày lại chỉ là

một phần trong các công trình nghiên cứu tổng quan về các dân tộc Tày. Tuy

nhiên theo khảo sát của chúng tôi mới chỉ một vài công trình nghiên cứu chuyên

sâu và chuyên biệt về các vấn đề tín ngưỡng và nghi lễ của người Tày, chủ yếu

tập trung vào các vấn đề (số lượng, nội dung, các chặng tín ngưỡng giải hạn dân

tộc Tày, các hình thức diễn xướng…). Trong các công trình nghiên cứu này,

Then và Mo là vấn đề thu hút được sự quan tâm của nhiều tác giả hơn cả. Then

và Mo được khảo sát trên địa bàn rộng và thường được xem xét dưới góc độ hình

thức diễn xướng dân gian. Với những người hành nghề Then và Mo, một trong

những công việc quan trọng và chủ yếu nhất của họ là thực hành nghi lễ giải hạn,

cầu an theo các yêu cầu của gia chủ.

1.3. Giảng dạy dân ca nghi lễ Tày ở Pác Nặm - Bắc Kạn

Giải hạn là một trong những nghi lễ tồn tại phổ biến trong đời sống của cộng

đồng người Tày truyền thống và hiện đại ở huyện Pác Nặm - Bắc Kạn. Là một giáo

viên công tác tại huyện Pác Nặm - Bắc Kạn 12 năm và xuất phát từ thực tiễn cuộc

sống và công việc của một giáo viên Ngữ văn ở trường THPT Bộc Bố, tôi mong

muốn tìm hiểu bản sắc dân tộc, nghi lễ văn hóa truyền thống của dân tộc Tày, cũng

như của các dân tộc khác để có thể giảng dạy những giá trị nhân văn, nhân bản cho

những người học trò địa phương thật sâu sắc và đầy đủ với tâm hồn con người và

bản sắc văn hóa địa phương. Tôi nghĩ, là một thầy giáo dạy văn, mình cần hiểu văn

học từ bối cảnh văn hóa, từ văn hóa lại hiểu thêm cái hay cái đẹp của ngôn ngữ

trong những áng văn gắn liền với phong vị đời sống văn hóa dân gian. Từ đó tạo

tiền đề đi sâu tìm hiểu, khám phá các tác phẩm và giúp học sinh có cái nhìn sâu sắc

hơn về bản sắc, văn hóa của dân tộc mình.

2

2. Lịch sử vấn đề

Cho đến nay, vấn đề tín ngưỡng giải hạn của dân tộc Tày đã trở thành đối

tượng của không ít nhà khoa học và vấn đề liên quan đến người Tày đã được đề

cập đến trong một số công trình nghiên cứu.

Ngay từ thời phong kiến, các nhà sử học đã nói tới xã hội, phong tục tập

quán của các dân tộc thiểu số trong đó có người Tày. Tiêu biểu là tác phẩm Kiến

văn tiểu lục của Lê Qúy Đôn, cuốn sách đã đề cập đến văn hóa của người Tày

nói chung.

Cuốn Văn hóa Tày Nùng của Lã Văn Lô, Hà Văn Thư đã giới thiệu khá đầy

đủ về xã hội, con người và văn hóa dân tộc Tày, Nùng ở Việt Namn nói chung.

Cuốn Các dân tộc Tày- Nùng ở Việt Nam do Viện dân tộc học xuất bản

năm 1992 là công trình nghiên cứu có tính toàn diện và công phu nhất về điều

kiện tự nhiên, dân cư, lịch sử tộc người, kinh tế truyền thống, văn hóa, vật chất,

văn hóa tinh thần, tổ chức xã hội…của hai dân tộc Tày, Nùng nói chung.

Cuốn Văn hóa truyền thống Tày- Nùng của tác giả Hoàng Quyết, Ma

Khánh Bằng, Hoàng Huy Phách, Cung Văn Lược, Vương Toản đã miêu tả và

trình bày khá đầy đủ về xã hội và văn hóa Tày Nùng, chữ nôm Tày- Nùng, văn

học dân gian, nghệ thuật làm nhà ở của người Tày, Nùng ở Việt Nam.

Cuốn Phong tục tập quán dân tộc Tày ở Việt Bắc của tác giả Hoàng Quyết,

Tuấn Dũng đã tập trung nghiên cứu sâu về đời sống văn hóa tinh thần của dân

tộc Tày ở khu vực Việt Bắc với những phong tục tập quán như tục lệ đặt tên làng,

tập quán nhà ở, ăn mặc, thờ cúng tổ tiên, lễ cưới từ xa xưa của người Tày.

Trên cơ sở các mục tiêu nghiên cứu đã nêu, tôi triển khai nghiên cứu này

nhằm thu thập hai loại tài liệu nghiên cứu. Loại thứ nhất là kết quả nghiên cứu

(sách, báo, luận án…) đã được các nhà khoa học công bố về người Tày, văn hóa

Tày và đời sống tín ngưỡng cũng như đời sống tâm linh của người Tày ở Việt

Nam. Loại thứ hai quan trọng hơn đó là các tài liệu dân tộc học do tôi thu thập

được trong quá trình điền dã ở trên địa bàn nghiên cứu.

3

Trong phạm vi nghiên cứu này, tôi sử dụng khái niệm nghi lễ giải hạn với

ý nghĩa là chỉ hình thức nghi lễ giải hạn của Then và Mo, diễn xướng giải hạn

qua các lời dân ca của dân tộc Tày.

Với tầm quan trọng của nó trong đời sống văn hóa của dân tộc Việt Nam

nói chung, của mỗi tộc người cụ thể nói riêng, tài liệu nghiên cứu về tín ngưỡng

và nghi lễ phản ánh hai xu hướng chính về các vấn đề này. Thứ nhất, đó là những

công trình nghiên cứu mang tính lý luận và trình bày những đặc điểm chung của

các tín ngưỡng, các nghi lễ của các tộc người ở Việt Nam. Một trong số các công

trình nghiên cứu tiêu biểu theo hướng này là Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng

của Việt nam (2001) của tác giả Ngô Đức Thịnh đã có những phác họa về tín

ngưỡng của các tộc người ở Việt Nam. Trong đó, tác giả trình bày về những tín

ngưỡng: Tín ngưỡng thờ tổ tiên; Tín ngưỡng thờ thành hoàng; Đạo mẫu; Tín

ngưỡng Đức Thánh Trần; Tín ngưỡng nghề nghiệp. Tác giả cũng đưa ra mối quan

hệ giữa tín ngưỡng và âm nhạc cổ truyền, cũng như đưa ra những chức năng của

tín ngưỡng trong đời sống sinh hoạt cộng đồng. Có thể nói đây là một công trình

khái quát về tín ngưỡng của tộc người ở Việt Nam.

Công trình Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam (2007) của

tác giả Nguyễn Đức Lữ tìm hiểu về tín ngưỡng dân gian trong đời sống tinh thần

như lễ hội, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ mẫu, phồn thực và

mê tín dị đoan. Tác giả cũng phân tích thực trạng của những tín ngưỡng dân gian

cũng như những biểu hiện của chúng trong giai đoạn hiện nay.

Xu hướng nghiên cứu thứ hai là những khảo cứu về tín ngưỡng và nghi lễ

của các tộc người. Trong số đó, có thể kể ra công trình nghiên cứu của tác giả Lý

Hành Sơn trong cuốn Các nghi lễ chủ yếu trong đời người của nhóm Dao tiền ở

Ba Bể, Bắc Kạn (2001) đã phân tích sắc thái địa phương, tính thống nhất và đa

dạng trong văn hóa Dao, tạo cơ sở khoa học để phát huy những mặt tích cực và

hạn chế những mặt tiêu cực của các nghi lễ trong việc xây dựng nếp sống mới ở

vùng người Dao tiền.

4

Đời sống tín ngưỡng và nghi lễ của người Tày cũng thu hút được sự quan

tâm nghiên cứu của các nhà khoa học. Một số công trình nghiên cứu tiêu biểu

liên quan đến chủ đề này bao gồm nghiên cứu của tác giả La Công ý trong Đến

với người Tày và văn hóa Tày (2010), phân tích nhiều khía cạnh của đời sống

người Tày với một sự khái quát cao. Với tư liệu thu được từ các chuyến điền dã

trong gần 30 năm, kết hợp với các tài liệu khác, tác giả La Công ý đã có một

công trình viết về người Tày và văn hóa Tày khá đặc sắc. Ngoài những phần về

dân cư, ngôn ngữ lịch sử, phong tục tập quán… tác giả xem xét đời sống tín

ngưỡng và các nghi lễ của người Tày và khẳng định: Đề cập tới những giai tầng

xã hội người Tày không thể không nhắc tới những người làm nghề cúng bái bao

gồm 4 nhóm khác nhau là: Tào, mo, then, pựt. Có thể nói đây là tầng lớp xã hội

đặc biệt cho dù xem xét về mặt nhân khẩu họ chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ nhưng

lại có ảnh hưởng hết sức to lớn đối với người dân ở địa phương.

Công trình nghiên cứu Tín ngưỡng dân gian Tày, Nùng (2009) của tác giả

Nguyễn Thị Yên, trên cơ sở tập trung khảo tả ở 4 tỉnh (Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng

Sơn, Thái Nguyên), đã có những phân tích chi tiết về đời sống tín ngưỡng dân

gian của người Tày, Nùng, thực trạng và biến đổi trong đời sống tín ngưỡng dân

gian cũng như các chức năng đời sống tín ngưỡng dân gian trong văn hóa Tày,

Nùng. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả cũng mô tả và phân tích về một

số nghi lễ tiêu biểu: Lễ cấp sắc của Pụt Nùng; Lễ cấp sắc của then Tày; Lễ đầy

tháng của Pụt Tày; Lễ mừng thọ của Then Tày… Có thể nói đây là một tác phẩm

phân tích khá sâu đời sống tín ngưỡng và lễ hội của các tộc người Tày, Nùng.

Riêng về nghi lễ Then, tác giả phân tích ở các khía cạnh: nguyên nhân, thời điểm

cũng như các hình thức diễn xướng trong nghi lễ và chức năng chữa bệnh của

những người hành nghề Then.

Từ hệ thống các nguồn tư liệu dân tộc học, xã hội học, lịch sử văn hóa

Tày, đặc biệt là tình hình nghiên cứu tin ngưỡng giải hạn những năm gần đây,

tôi thấy cho đến này cho dù còn ít những công trình nghiên cứu về tin ngưỡng

5

giải hạn dân tộc Tày, và chưa có một công trình nghiên cứu về tin ngưỡng giải

hạn dân tộc Tày một cách tỉ mỉ, nhưng diện mạo văn hóa, văn học dân gian Tày

đã được hiện diện khá đầy đủ, là cơ sở quan trọng để tôi có thể đi sâu vào tìm

hiểu tin ngưỡng giải hạn dân tộc Tày, cho đến nay vẫn là một vấn đề bỏ ngỏ,

nghiên cứu đề tài này là một việc làm hữu ích để hiểu hơn về những giá trị văn

hóa tinh thần mang đậm bản sắc của một dân tộc. Đồng thời giúp cho cá nhân tôi

có cái nhìn sâu sắc hơn về giá trị văn hóa của dân tộc Tày và có những bài giảng

hay trong phần Văn học địa phương của môn học.

Trong quá trình nghiên cứu tôi cố gắng khai thác những biểu hiện cụ thể

của tín ngưỡng giải hạn của dân tộc Tày cả về nội dung và nghệ thuật của văn

bản tín ngưỡng giải hạn, đặc điểm diễn xướng tín ngưỡng giải hạn và phương

thức bảo tồn tín ngưỡng giải hạn.

Bản thân tôi mặc dù là người con dân tộc Kinh, nhưng cũng rất may mắn

được công tác và sống gần gũi với bà con 12 năm nên phần nào cũng hiểu được

phong tục tập quán và đã nhiều lần chứng kiến lễ giải hạn của dân tộc Tày, nên

phần nào hiểu được đời sống văn hóa tín ngưỡng, phong tục tập quán của dân

tộc Tày. Từ đó tôi mong muốn tìm hiểu về mối liên hệ của tín ngưỡng giải hạn

dân tộc Tày ở huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn từ một hoạt động sinh hoạt tín

ngưỡng văn hóa đến việc khám phá những giá trị nội dung, nghệ thuật của văn

bản tin ngưỡng giải hạn dân tộc Tày ở Pắc Nặm dưới góc độ một tác phẩm Văn

học dân gian, một chủ đề Văn học địa phương nằm trong quá trình giảng dạy

môn Ngữ văn ở trường THPT. Hơn nữa giúp học sinh có cái nhìn sâu sắc hơn về

bản sắc, văn hóa của dân tộc mình, giúp các em thêm yêu quê hương mình, đất

nước mình và mỗi học sinh luôn phát huy, giữ gìn và bảo tồn giá trị văn hóa của

các dân tộc trên đất nước Việt Nam.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nghi lễ giải hạn qua những bài dân

ca: Lẩu Then và Mo Tày ở huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn.

6

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung vào nghiên cứu văn học từ góc độ văn hóa trong tín

ngưỡng giải hạn dân tộc Tày, qua đó để hiểu thế giới quan, quan niệm của người

Tày về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc, gặp nhiều may mắn trong một năm và

mùa màng được bội thu… Đặc biệt luận văn đi sâu vào tìm hiểu nội dung của

văn bản dân ca nghi lễ giải hạn dân tộc Tày về giá trị nghệ thuật và đặc điểm

diễn xướng của nghi lễ giải hạn, các yếu tố tín ngưỡng, tôn giáo ảnh hưởng đến

tín ngưỡng giải hạn dân tộc Tày huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn.

4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn tìm hiểu nghiên cứu tín ngưỡng giải hạn dân tộc Tày nhằm:

Thấy được những giá trị nhiều mặt của một loại hình nghệ thuật dân tộc

trên địa bàn cụ thể. Qua đó chỉ ra được các đặc điểm cũng như nét đặc thù của

tín ngưỡng giải hạn dân tộc Tày huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn.

Chỉ ra giá trị của tín ngưỡng giải hạn dân tộc Tày và phương thức bảo tồn

những giá trị này trong xã hội ngày nay.

Từ một nghiên cứu cụ thể dân ca nghi lễ giải hạn, tôi hi vọng sẽ có những

bài giảng hay trong phần Văn học địa phương và giúp các em học sinh có cái

nhìn sâu sắc hơn về bản sắc, văn hóa của dân tộc mình, giúp các em thêm yêu

quê hương mình, đất nước mình, đồng thời tôi hi vọng góp thêm tiếng nói trong

việc nghiên cứu văn học dân gian của dân tộc Tày ở tỉnh Bắc Kạn.

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luân văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:

Tập hợp tư liệu văn bản của dân ca nghi lễ giải hạn dân tộc Tày. Khảo sát tín

ngưỡng giải hạn dân tộc Tày (số lượng, nội dung, các chặng tín ngưỡng giải hạn

dân tộc Tày, các hình thức diễn xướng…), tại huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn.

Nghiên cứu giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật biểu hiện trong các văn bản

dân ca nghi lễ được diễn xướng trong nghi lễ giải hạn của dân tộc Tày Pác Nặm,

tỉnh Bắc Kạn.

7

5. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp thống kê, phân loại.

Phương pháp phân tích tổng hợp.

Phương pháp đối chiếu, so sánh.

Phương pháp nghiên cứu liên ngành.

Phương pháp điền dã.

6. Bố cục đề tài

Ngoài phần mở đầu, luận văn gồm các nội dung chính theo bố cục sau:

Chương 1: Tổng quan về tín ngưỡng giải hạn qua dân ca nghi lễ dân tộc

Tày huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn.

Chương 2: Đặc điểm nội dung tín ngưỡng giải hạn qua dân ca nghi lễ dân

tộc Tày huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn.

Chương 3: Giá trị nghệ thuật tín ngưỡng giải hạn qua dân ca nghi lễ dân

tộc Tày huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn.

7. Dự kiến kết quả nghiên cứu

Dựa vào nguồn tài liệu đã khảo sát từ những bài Then và Mo Tày về tín

ngưỡng giải hạn dân tộc Tày huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn, luận văn đã góp

phần giới thiệu đời sống văn hóa cũng như văn học dân gian dân tộc Tày ở huyện

Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn, luận văn sẽ đi sâu tìm hiểu tập tục tín ngưỡng giải hạn

từ các giá trị văn hóa của tín ngưỡng luận văn chỉ ra và khắc sâu được các giá trị,

nội dung và nghệ thuật trong các bản dân ca nghi lễ giải hạn của người Tày. Từ

đó nhằm cung cấp một bức tranh toàn cảnh về tín ngưỡng giải hạn dân tộc Tày

huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn.

Luận văn góp phần cho người đọc hiểu thêm bản sắc của các dân tộc thiểu

số ở Việt Nam. Qua đó giúp cho người đọc quan tâm và hiểu sâu sắc hơn nội

dung mang tính nhân văn của những bản dân ca nghi lễ truyền thống của dân tộc

Tày ở Pác Nặm. Đặc biệt qua luận văn giúp cho những thầy giáo, cô giáo dạy

môn Ngữ văn như tôi có nhiều nguồn tư liệu, kiến thức để dạy học có hiểu quả

cho các thế hệ học sinh thấy được nét đẹp bản sắc dân tộc mình. Từ đó các em

có trách nhiệm giữ gìn, bảo tồn các giá trị văn hóa, văn học bản địa, và thêm yêu

quê hương, đất nước.

8

Chương 1

TỔNG QUAN VỀ TÍN NGƯỠNG GIẢI HẠN QUA DÂN CA NGHI LỄ

DÂN TỘC TÀY HUYỆN PÁC NẶM, TỈNH BẮC KẠN

Dân ca Tày (Tày - Nùng) nói chung và dân ca Tày Bắc Kạn nói riêng được

nhiều nhà nghiên cứu trong các lĩnh vực: văn học dân gian, âm nhạc học, dân tộc

học… giới thiệu nhưng số lượng không nhiều. Khi đề cập tới nghệ thuật, văn

học, (thơ nôm, truyện cổ tích…), đa số đều quy gộp hai tộc người Tày - Nùng

thành một. Cần nói rõ tính lịch sử quá trình sống đan cài người Tày - Nùng tạo

nên mối liên hệ chặt chẽ, hình thành tự nhiên giao thoa văn hóa Tày - Nùng nhiều

vùng khác nhau, điển hình là Lạng Sơn, tại Bắc Kạn, Cao Bằng, Tuyên Quang…

hiện tượng hợp hôn, hỗn dung Tày - Nùng chưa đậm, do đó dân ca Tày vẫn

nguyên sơ và thuần Tày.

Trong lĩnh vực dân tộc học, một số tài liệu chỉ rõ người Tày là tộc người

bản địa xuất hiện ở Việt Nam cách đây hàng ngàn năm, lịch sử vẫn gọi người

Tày là Âu Việt hay Tây Âu [6, tr.47].

Với âm nhạc học, số lượng nghiên cứu chưa nhiều, điển hình có các tác giả:

Đàm Thế Vấn, Hoàng Tuấn, Nông Thị Nhình là những người đã nhiều năm ghi

chép, điền dã, ghi âm làn điệu thành bản phổ.

Địa danh Bắc Kạn ghép với Thái Nguyên thành Bắc Thái trong vùng Đông

Bắc gọi là Việt Bắc dẫn đến lối tư duy đa hợp (tổng thể là chính, chi tiết là phụ)

từ nhiều lĩnh vực khác nhau.

Dân ca Tày là bộ phận của nền âm nhạc dân tộc Việt Nam, có thể chia thành

các hướng nghiên cứu sau:

1.1. Các công trình nghiên cứu về văn hóa, văn học dân gian, văn hóa tâm

linh của người Tày

Trong những năm 1950 đến 1980, ở miền Bắc Việt Nam (và trong cả nước

từ sau 1975), các hình thức tín ngưỡng và nghi lễ truyền thống bị ngăn cấm, vì

bị coi là mê tín, không khoa học và lãng phí. Trong những quãng thời gian này,

9

mê tín dị đoan được định nghĩa là bất cứ một thực hành nào liên quan trực tiếp

tới bùa chú và có liên quan đến thế giới thần linh hay các thế lực siêu nhiên. Một

trong những chính sách có tác động lớn nhất ở tất cả các mặt của đời sống kinh

tế - xã hội miền Bắc là chương trình xây dựng “cuộc sống mới và con người mới”

diễn ra trong những năm 1960 - 1980 của thế kỷ XX. Đảng và Nhà nước lúc đó

muốn xây dựng con người mới bằng chủ trương xóa bỏ mê tín dị đoan mà một

trong những biểu hiện cụ thể của nó chính là không gian thiêng như đình, chùa,

đền, miếu... và những thực hành tín ngưỡng và nghi lễ truyền thống gắn với các

không gian thiêng này. Hậu quả của chủ trương này là có một số lượng đáng kể

các không gian thiêng bị phá hủy. Ở những nơi không bị phá hủy thì các hoạt

động gắn với các không gian thiêng cũng bị ngừng hoặc nằm trong sự kiểm soát

của chính quyền nhà nước ở địa phương.

Từ năm 1986, công cuộc đổi mới đã tạo ra những biến đổi mạnh mẽ về kinh

tế, xã hội, khi nền kinh tế đất nước được chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu

bao cấp sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hôi chủ

nghĩa. Cũng trong quá trình này, Đảng và Nhà nước thể hiện rõ việc coi trọng và

cởi trói cho các hoạt động tín ngưỡng, nghi lễ và lễ hội. Theo tác giả Trần Minh

Thư (2005), hàng loạt văn bản của Nhà nước ban hành thấy rõ một sự điều chỉnh

theo thời gian được thể hiện ở nhiều cấp độ, từ Hiến pháp năm đến các Chỉ thị của

Thủ tướng chính phủ liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng, nghi lễ và lễ hội nhìn

chung là theo hướng từ cấm đoán đến công nhận.

Với tầm quan trọng của nó trong đời sống văn hóa của dân tộc Việt Nam

nói chung, của mỗi tộc người cụ thể nói riêng, tài liệu nghiên cứu về tín ngưỡng

và nghi lễ phản ánh hai xu hướng chính về các vấn đề này. Thứ nhất đó là công

trình nghiên cứu mang tính lý luận và trình bày những đặc điểm chung của các

tín ngưỡng, các nghi lễ của các tộc người ở Việt Nam. Một trong số các công

trình nghiên cứu tiêu biểu theo hướng này là Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng

của Việt Nam (2001) của tác giả Ngô Đức Thịnh đã có những phác họa về tín

10

ngưỡng của các tộc người ở Việt Nam. Trong đó, tác giả đã trình bày về những

tín ngưỡng: tín ngưỡng thờ tổ tiên; tín ngưỡng thờ thành hoàng; Đạo mẫu; tín

ngưỡng Đức Thánh Trần... tác giả cũng đưa ra mối quan hệ giữa tín ngưỡng và

âm nhạc cổ truyền, cũng như đưa ra những chức năng của tín ngưỡng trong đời

sống sinh hoạt cộng đồng. Có thể nói đây là một công trình khái quát về tín

ngưỡng của các tộc người ở Viết Nam.

Công trình Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam (2007) của

tác giả Nguyễn Đức Lữ tìm hiểu về tín ngưỡng dân gian trong đời sống tinh thần

như lễ hội, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ Mẫu, phồn thực và

mê tín dị đoan. Tác giả cũng phân tích thực trạng của những tín ngưỡng dân gian

cũng như những biểu hiện của chúng trong giai đoạn hiện nay.

Xu hướng nghiên cứu thứ hai là những khảo cứu về tín ngưỡng và nghi lễ

của các tộc người. Trong số đó, có thể kể ra công trình nghiên cứu của tác giả Lý

Hành Sơn trong cuốn Các nghi lễ chủ yếu trong đời người của nhóm Dao tiền ở

Ba Bể, Bắc Kạn (2001) đã phân tích sắc thái địa phương, tính thống nhất và đa

dạng trong văn hóa Dao, tạo cơ sở khoa học để phát huy những mặt tích cực và

hạn chế những mặt tiêu cực của các nghi lễ trong việc xây dựng nếp sống mới ở

vùng người Dao tiền.

Đoàn Tuấn Anh trong công trình Nghi lễ nông nghiệp của người Ba Na ở

tỉnh Gia Lai (2012) đã nghiên cứu sâu và có hệ thống về nghi lễ nông nghiệp của

người Ba Na ở tỉnh Gia Lai, trong đó tác giả đã trình bày các yếu tố mới tác động

dẫn đến việc biến đổi của nghi lễ nông nghiệp đồng thời khẳng định lại những

giá trị bền vững và đề xuất một số giải pháp để bảo tồn.

Tác giả Nguyễn Thị Song Hà trong Nghi lễ chu kỳ đời người của người

Mường ở Hòa Bình (2011) trình bày bức tranh có hệ thống và toàn diện về nghi

lễ chu kỳ đời người của người Mường ở Hòa Bình, từ đó làm rõ những đặc điểm

và sắc thái của nó trong xã hội truyền thống, đồng thời bước đầu so sánh, làm rõ

những điểm tương đồng và khác biệt trong nghi lễ chu kỳ đời người của người

11

Mường ở Hòa Bình với người Mường ở các tỉnh khác. Làm rõ sự biến đổi của

chu kỳ đời người từ truyền thống tới hiện đại, đồng thời chỉ ra những nguyên

nhân của sự biến đổi. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu tác giả đã đề xuất một số

kiến nghị góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị trong nghi lễ chu kỳ đời

người của người Mường ở Hòa Bình trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại

hóa và hội nhập hiện nay.

1.2. Các công trình nghiên cứu về văn hóa, văn học dân gian, nghệ thuật dân

gian của người Tày

Đời sống tín ngưỡng và nghi lễ của người Tày cũng thu hút được sự quan

tâm nghiên cứu của các nhà khoa học. Một số công trinh nghiên cứu tiêu biểu

liên quan đến chủ đề này bao gồm nghiên cứu của tác giả La Công Ý trong Đến

với người Tày và văn hóa Tày (2010) phân tích nhiều khía cạnh của đời sống

người Tày với một sự khái quát cao. Với tư liệu thu được từ các chuyến điền dã

trong gần 30 năm, kết hợp với các tài liệu khác, tác giả La Công Ý đã có một

công trình viết về người Tày và văn hóa người Tày khá đặc sắc. Ngoài những

phần về dân cư, ngôn ngữ lịch sử, phong tục tập quán... tác giả xem đời sống tín

ngưỡng và các nghi lễ của người Tày và khẳng định: Đề cập tới những giai tầng

xã hội người Tày không thể không nhắc đến những người làm nghề cúng bái bao

gồm 4 nhóm khác nhau là Tào, Mo, Then, Pựt. Có thể nói đây là tầng lớp xã hội

đặc biệt cho dù xét về mặt nhân khẩu họ chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ nhưng lại có

ảnh hưởng hết sức to lớn đối với người dân ở địa phương. Cụ thể, trong chương

VI của cuốn sách này, ở mục “Tín ngưỡng dân gian” [29, tr.371- tr.385], tác giả

đã nêu khái quát về đời sống tín ngưỡng của người Tày ở Việt Nam, qua đó

khẳng định thuyết đa thần, thuyết linh hồn bất tử, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên,

đồng thời bàn về các ông Then, bà Then và vai trò chữa bệnh của họ thông qua

ma thuật, bùa ngải.

Từ thập kỷ 70 trong thế kỷ XX, có một vài công trình viết về dân ca và

văn hóa Tày Nùng. Trước hết phải nhắc tới Vi Hồng, tác giả cuốn sách Sli

12

lượn dân ca trữ tình Tày- Nùng, nhà xuất bản Văn hóa phát hành năm 1976.

Đây là biên khảo công phu, là kết quả nhiều năm nghiên cứu các biểu tượng

trong văn hóa dân gian Tày Nùng. Cách bố cục công trình gồm 5 phần chính

gọi là lớp đề tài:

Lớp 1: đề tài vũ trụ, lý giải thời xa xưa các quan niệm về trời đất, trăng sao

cùng hiện tượng thiên nhiên qua các truyện cổ tích, thần thoại của người Tày.

Lớp 2: thiên nhiên và miền núi, với sắc thái tươi tắn, tràn đầy sức sống, các

loài vật, cỏ cây hoa lá làm biểu tượng trong văn hóa Tày.

Lớp 3: đề tài hiện thực, ý nghĩa bao gồm những người sáng tạo ra tinh thần,

vật chất, chủ yếu bày tỏ tình cảm trai gái trao duyên.

Lớp 4: thân phận thấp hèn, mô tả sự phân chia giai cấp trong xã hội phong

kiến Tày ngày trước.

Lớp 5: xuất xứ một vài điều, tác giả cố gắng làm sáng tỏ nguồn cội sâu xa

trong nội dung sli - lượn, chứng minh người Tày là chủ nhân địa bàn cổ xưa khu

vực Việt Bắc.

Vi Hồng giới thiệu trong cuốn sách dày 315 trang nhiều đặc trưng về giai

tầng xã hội Tày Nùng, đề cao giá trị thẩm mĩ sli lượn. Đây là công trình nghiên

cứu chuyên sâu về văn học dân gian, được giới văn học rất quan tâm, tìm hiểu.

Để viết cuốn sách, trước đó (1976) Vi Hồng đã viết bài Vài suy nghĩ về hát quan

lang, lượn, phong Slư trên tạp chí văn học, điều này chứng minh tác giả trải qua

thời gian dài chuẩn bị đề tài.

Công trình nghiên cứu Tín ngưỡng dân gian Tày, Nùng (2009) của tác giả

Nguyễn Thị Yến, trên cơ sở tập trung khảo tả 4 tỉnh (Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng

Sơn, Thái Nguyên), đã có những phân tích khá chi tiết về đời sống tín ngưỡng

dân gian của người Tày, Nùng, thực trạng và biến đổi trong đời sống tín ngưỡng

dân gian cũng như các chức năng của đời sống tín ngưỡng dân gian trong văn

hóa Tày, Nùng. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả cũng mô tả và phân

tích về một số nghi lễ tiêu biểu: Quyển đẳm trong đám tang thầy cúng người Tày,

13

Hát thợ trong đám tang của người Tày, lễ cấp sắc của Pụt Nùng, Lễ cấp sắc của

Then Tày, Lễ đầy tháng của Pụt Tày, Lễ mừng thọ của Then Tày, Lễ chữa bệnh

của Then Tày. Có thể nói đây là một tác phẩm khá sâu đời sống tín ngưỡng và lễ

hội của các dân tộc Tày, Nùng. Riêng về nghi lễ Then, tác giả xem xét như một

trong những nghi lễ tiêu biểu trong đời sống tín ngưỡng của người Tày và tác giả

phân tích ở các khía cạnh: nguyên nhân, thời điểm cũng như các hình thức diễn

xướng trong nghi lễ và chức năng chữa bệnh của những người hành nghề Then.

Trong công trình nghiên cứu khác có tựa đề Đời sống tín ngưỡng của người

Tày ven biên giới Hạ Lang, Cao Bằng tác giả Nguyễn Thị Yên dành một chương

(chương2) trình bày chi tiết hơn về các hình thức văn hóa tín ngưỡng của người

Tày ở khu vực biên giới Hạ Lang, Cao Bằng. Theo tác giả thì có 4 hình thức văn

hóa tín ngưỡng tiêu biểu, đó là Then và hình thức văn hóa tín ngưỡng Then; Tào

và sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng Tào; siên và sinh hoạt sinh hoạt văn hóa tín

ngưỡng tín ngưỡng siên; thầy phường. Về vấn đề Then, tác giả đã giới thiệu

chung về Then, dụng cụ hành nghề, lý do hành nghề, các nghi lễ phục vụ cho

cộng đồng làng bản; các nghi lễ theo yêu cầu của các gia chủ; các nghi lễ đối với

bản thân Then. Trong các nghi lễ được thực hiện theo yêu cầu của các gia chủ,

tác giả khẳng định thực hành các nghi lễ giải hạn, cầu an là một trong những

công việc quan trọng nhất của những người hành nghề Then.

Tác giả Hà Đình Thành trong cuốn Văn hóa dân gian Tày, Nùng ở Việt Nam

(2010) đã nghiên cứu văn hóa dân gian Tày, Nùng trong bối cảnh văn hóa dân

gian Việt Nam để tìm ra những nét văn hóa tiêu biểu, đặc sắc của hai dân tộc

này. Tập trung phân tích tổ chức xã hội của người Tày và khẳng định tổ chức xã

hội truyền thống của người Tày ở cấp địa phương chính là thôn bản. Thôn bản

với người Tày là một cộng đồng “cộng mệnh”, tức là sự gắn bó cộng đồng trên

cơ sở cùng tồn thờ những biểu hiện tâm linh và sự che chở của thần bản mệnh

cho thôn bản. Thôn bản cũng là nơi “cộng cảm” văn hóa, là nơi nương tựa, đùm

bọc, giúp đỡ, là nơi thực hành các nghi lễ cúng tế thu hút sự tham gia của người

14

dân trong bản. Tác giả cũng khẳng định người thực hành những nghi lễ mang

tính tín ngưỡng chính Mo, Then, những người có vai trò quan trọng trong đời

sống cộng đồng tộc người và họ thường có uy tín cao trong cộng đồng.

Liên quan đến tín ngưỡng của người Tày còn có cuốn Táng mừa pja lệ đằm

của tác giả Hoàng Hạc (sưu tầm và biên soạn năm 2004). Trong công trình này,

tác giả Hoàng Hạc đã giới thiệu hình thức hát bụi trong cúng vía và cúng mụ của

dân tộc Tày. Ngoài ra ta còn có thể kể đến một số công trình đề cập đến một nghi

lễ cụ thể như: Việc tang lễ cổ truyền của người Tày của Hoàng Tuấn Nam (1990);

Then cấp sắc của người Tày ở huyện Quảng Uyên tỉnh Cao Bằng của Nguyễn

Thị Yên (2005); Tục cưới xin của dân tộc Tày của Triều Ân, Hoàng Quyết

(2010).

Năm 1984, Lã Văn Lô và Hà Văn Thư viết cuốn Văn hóa Tày Nùng dày 160

trang gồm 3 phần, 2 phần đầu do Lã Văn Lô viết, phần 3 do Hà Văn Thư viết.

Phần 1: Giới thiệu xã hội và con người, tác giả trình bày theo phương pháp

lịch sử, dẫn giải khái lược người Tày Nùng từ thời Âu Lạc tới 1945 với những

tương đồng trong văn hóa.

Phần 2: Truyền thống văn hóa, gồm 2 chương

Chương 1: Thế giới quan, nhân sinh quan, tín ngưỡng tôn giáo, phong tục

tập quán với 5 đề mục. Tác giả trình bày quan niệm cổ xưa về trời đất và con

người qua truyện thần thoại, cổ tích của người Tày - Nùng. Từ đó quy nạp hệ ý

thức bằng các hình thức tín ngưỡng nguyên thủy pha trộn với tôn giáo du nhập

từ nhiều nơi: Đạo giáo, Khổng giáo, Phật giáo phù hợp với tầng lớp nông dân

Tày. Trong các mục tiếp theo tác giả liệt kê và khảo tả một số loại hình văn hóa

dân gian: ngày hội ngày tết truyền thống, tục lệ cưới xin, sinh đẻ, ma chay, cúng

giỗ, ăn sinh nhật, làm nhà, ăn mừng nhà mới.

Chương 2: Văn học nghệ thuật truyền thống gồm 6 đề mục. Tiếng nói, chữ

viết là điều kiện tiên quyết hình thành nên các đề mục sau như: thành ngữ, tục

15

ngữ, ca dao, cổ tích thần thoại, thơ ca cổ truyền, giới thiệu một số nhà nho Tày

trước cách mạng tháng 8, cuối chương 2 là mục: nghệ thuật trang trí, nhạc múa,

mục này tác giả còn viết khiên cưỡng, sơ lược.

Phần 3: Khái quát về văn hóa Tày Nùng sau cách mạng tháng tám gồm 7

nội dung chính:

- Tư tưởng khoa học chủ nghĩa Mác-Lênin tạo ra cách làm chủ tập thể.

- Lớp người Tày - Nùng mới ra đời nêu cao chủ nghĩa anh hung cách mạng.

- Cách tổ chức đời sống và quan hệ giữa người với người.

- Cấu trúc gia đình mới với các thành phần tộc người cùng chung sống dưới

mái nhà chung.

- Khoa học kỹ thuật, văn hóa nghệ thuật trở thành nhân tố không thể thiếu

trong thôn, bản.

- Truyền thống văn hóa tốt đẹp của ông cha được khai thác, phổ biến.

- Phong trào văn hóa văn nghệ quần chúng ngày càng tiến bộ về nội dung

và hình thức.

Cuốn văn hóa Tày - Nùng đề cập tương đối toàn diện về lịch sử, xã hội,

phong tục, tập quán… của người Tày- Nùng, đặc biệt rất có ích như một tài liệu

tham khảo.

Ngoài ra một số bài viết mô tả với cảm nhận khác nhau như:

Vi Quốc Bảo (1971) viết dân ca đám cưới Tày - Nùng: Văn hóa các dân tộc

trên tạp chí Văn hóa nghệ thuật (số 3). Hoặc Lợi Chung (1993) đề cập tới âm

nhạc với không gian ban ngày ở bản Tày, Nùng trên tạp chí nghiên cứu văn hóa

nghệ thuật (số 1).

1.3. Các công trình nghiên cứu âm nhạc dân gian

- Điển hình là cuốn Dân ca Tày của nhà nghiên cứu âm nhạc Hoàng Tuấn,

dày 166 trang do nhà xuất bản âm nhạc in, phát hành năm 2000. Là người làm

công tác giảng dạy lý luận tại trường Văn hóa Nghệ thuật Việt Bắc, Nhạc viện

Hà Nội, bản thân là người Tày nên nhạc sĩ Hoàng Tuấn dành nhiều thời gian,

công sức tiến hành khảo sát, xây dựng mô hình âm nhạc dân gian Tày. Cuốn sách

chia làm 5 chương:

16

Chương 1: Đại cương về người Tày.

Chương 2: Ca hát không có nhạc đệm.

Chương 3: Hát giao duyên - lượn slao báo.

Chương 4: Ca cúng lễ hát then.

Chương 5: Nhạc khí - nhạc múa.

Đây là cuốn sách nghiên cứu toàn diện theo góc độ âm nhạc dân tộc học, từ

chương 1 tới chương 5 tác giả trình bày như không tuân theo một cấu trúc, nhưng

xem kỹ cho thấy đây là bố cục hợp lý khi nội dung lớn, tính khái quát cao, tác

giả đã khảo sát trong không gian rộng từ Cao Bằng tới Quảng Ninh, tại các vùng

cư trú dân cư Tày vùng Đông Bắc Việt Nam. Trong sách ví dụ về làn điệu, lối

hát trình bày dễ hiểu, cho thấy người viết có trình độ hiểu biết sâu sắc dân ca

Tày.

- Tác giả Nông Thị Nhình với hai cuốn sách:

+ Âm nhạc dân gian các dân tộc Tày- Nùng -Dao Lạng Sơn dày 235 trang

do nhà xuất bản Văn hóa dân tộc in năm 2000.

+ Nét chung và nét riêng của âm nhạc trong diễn xướng then Tày - Nùng

dày 279 trang do Viện âm nhạc in năm 2004.

- Dân ca đám cưới Tày- Nùng do Nông Minh Châu viết năm 1973 dày

130 trang, tác giả tập trung phần Thơ lẩu (hát đám cưới) với nhiều nội dung

phong phú.

- Cuốn Lượn Cọi Tày Nùng của Cung Khắc Lợi, Lê Bích Ngân, Nxb Văn

hóa dân tộc, Hà Nội, 1987. Cuốn sách giới thiệu một số đoạn lượn cọi được sưu

tầm và dịch ra tiếng Việt của hai tác giả với khoảng 1000 câu.

- Cuốn Lượn Cọi do Lục Văn Pảo sưu tầm - phiên âm - dịch và giới thiệu

dưới dạng song ngữ (Tày - Quốc ngữ), Nxb Văn hóa dân tộc xuất bản năm 1994.

Cuốn sách dày 647 trang với tổng số 21 bài dưới dạng song ngữ miêu tả về trình

tự các cung lượn của người Tày.

1.4. Những công trình khác

17

Điển hình là cuốn sách Văn hóa tín ngưỡng Tày Nùng, do Viện nghiên cứu

Văn hóa dân gian ấn hành năm 1997 dày 276 trang. Đây là công trình nghiên cứu

công phu nhất về văn hóa tín ngưỡng Tày Nùng ở Việt Nam do PGS. Vũ Ngọc

Khánh chủ biên cùng tập thể các nhà nghiên cứu tại Trung tâm Khoa học Xã hội

và Nhân văn quốc gia.

Năm 2004, cuốn sách Bản sắc và Truyền thống văn hóa các dân tộc tỉnh

Bắc Kạn dày 438 trang do Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc xuất bản, đây là loại

sách tổng hợp các tham chiếu về văn hóa học, dân tộc học, tín ngưỡng tôn giáo,

xã hội học cùng nhiều ngành khác. Nội dung trình bày tạo nên lượng thông tin

khoa học lớn, tập trung giới thiệu tổng quát tỉnh Bắc Kạn, được chuẩn bị công

phu nên cuốn sách đã tạo ra diện mạo rõ ràng nhìn từ nhiều góc độ khoa học xã

hội và nhân văn.

Như vậy, tín ngưỡng giải hạn qua dân ca nghi lễ của người Tày đã được các

nhà nghiên cứu tìm hiểu dưới các góc độ và mức độ khác nhau ở nhiều công trình

nghiên cứu. Trong đó, hướng tiếp cận nổi bật là nhiều tác giả nhấn mạnh đến vị

trí vai trò của ông/ bà Then, coi Then và những làn điệu dân ca trong Mo như

một hình thức diễn xướng dân gian, có chức năng chữa bệnh hoặc mang lại sự

an bình, niềm tin và sự lạc quan trong đời sống lao động thường nhật.

Mặt khác, những công trình nghiên cứu kể trên chủ yếu tập trung vào lĩnh

vực ngữ văn, văn hóa dân gian, âm nhạc dân gian Tày nói chung. Chưa thấy đề

cập chi tiết, tỉ mỉ hệ thống làn điệu, lối diễn xướng, đặc biệt đưa ra những biện

pháp bảo tồn giá trị nghệ thuật dân ca Tày ở huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn. Hơn

nữa giúp học sinh có cái nhìn sâu sắc hơn về bản sắc, văn hóa của dân tộc mình

và các em thêm yêu quê hương mình, đất nước mình và mỗi học sinh luôn phát

huy, giữ gìn và bảo tồn giá trị văn hóa của các dân tộc trên đất nước Việt Nam.

Tiểu kết chương 1

18

Văn hóa Tày và nhất là đời sống tín ngưỡng và nghi lễ của người Tày đã

được các nhà khoa học nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau. Trong đó, các

làn điệu dân ca, đặc biệt là nghi lễ Then và Mo của người Tày thu hút được sự

quan tâm nghiên cứu của một số nhà khoa học, trong đó có một số là người Tày

nghiên cứu về người Tày. Các tác giả đều nhấn mạnh vị trí và ý nghĩa của các

nghi lễ qua các làn điệu dân ca trong đời sống văn hóa Tày và có hướng tiếp cận

thiên về hình thức diễn xướng.

Trong nghiên cứu này, chúng tôi một mặt ủng hộ tính hữu ích của việc xem

xét các nghi lễ dân ca của người Tày, đặc biệt là làn điệu Then và Mo (cũng như

cả một số nghi lễ khác của các tộc người khác, ví dụ như nghi lễ lên đồng...),

nhưng mặt khác cũng muốn nhấn mạnh thêm khía cạnh an ninh con người, nhất

là an ninh về sức khỏe và kinh tế trong những quan niệm và thực hành nghi lễ

giải hạn qua dân ca của người Tày. Chúng tôi nhấn mạnh rằng nghi lễ giải hạn

không phải là nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày, nhưng lại đang là

nghi lễ rất phổ biến và có tầm quan trọng đặc biệt trong cuộc sống của cộng đồng

người Tày ở địa bàn huyện Pác Nặm. Nghi lễ giải hạn của người Tày không chỉ

là sự thể hiện những giá trị văn hóa tộc người của người Tày mà còn là một cách

ứng phó của con người trước những rủi ro, bất an về sức khỏe và kinh tế.

19

Chương 2

ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG TÍN NGƯỠNG GIẢI HẠN QUA DÂN CA

NGHI LỄ DÂN TỘC TÀY HUYỆN PÁC NẶM, TỈNH BẮC KẠN

2.1. Những quan niệm của người Tày Pác Nặm liên quan tới tín ngưỡng giải

hạn qua dân ca nghi lễ Then của dân tộc Tày

2.1.1. Quan niệm về vũ trụ

Người Tày Pác Nặm quan niệm vũ trụ có 5 tầng. Thiên đường thượng giới

là tầng cao nhất, gọi là mướng phạ. Đây là tầng của Ngọc Hoàng Thượng Đế và

mường thiên đường - nơi hồn ma của loại người khi chết sẽ đến. Thứ hai, tầng

không gian vũ trụ bao la, gọi là mường bôn, là mường của mây gió trời xanh,

hồn ma chết vô gia cư. Thứ ba, tầng thế gian - mặt đất, tầng dành cho con người

và muôn loài sinh sống. Thứ tư, tầng dưới nước, xứ ấy là miền do Long Vương,

thủy thần quản lý. Các thần nơi thủy cung thường lên mặt đất để rình bắt hồn vía

của những người con trai, con gái đẹp đi làm bạn tình. Tầng cuối, nằm sâu dưới

đất là tầng âm phủ. Khi sống, nếu ai đó làm điều xấu, điều ác, hại nhân thì khi

chết sẽ bị đày xuống âm phủ, không có điều kiện để đậu thai, tái sinh được nữa.

2.1.2. Quan niệm về ma (phi), vía (khoăn), số phận (thổ), tướng mạo (mình)

Quan niệm về ma

Ma là hiện tượng siêu nhân, vô hình do ý thức con người tạo ra. Người

Tày Pác Nặm quan niệm có 8 tập hợp ma, thứ tự từ cao xuống thấp.

Thứ nhất: hệ ma trên trời (Ngọc Hoàng Thượng Đế). Hệ này là ma có

quyền uy, phép thuật cao nhất, ở trên thiên đường, nhìn thấy khắp nơi và biết

mọi việc ở thế gian vũ trụ. Ngọc Hoàng Thượng Đế là vua của thế hệ ma trên

trời. Ngọc Hoàng có lãnh thổ là vũ trụ bao la, đất đai, sông núi. Ngọc Hoàng

Thượng Đế không những là vua của thế hệ ma trên trời mà là vua của tất cả các

loại ma quỷ. Đội quân của Ngọc Hoàng có nhiều, nhưng được chia thành mấy

nhóm sau: Nhóm cận thần bên cạnh Ngọc Hoàng gồm có: Nam Tào, Bắc Đẩu,

như quan Khâm Sai của các vương triều người trần, chuyên đi làm việc dưới sự

20

chỉ bảo của Ngọc Hoàng; Nhóm thần có thần mặt trời, thần sấm sét, thần mưa,

thần gió, thần quản trị cung đình…; Nhóm quỷ là tập hợp quân, vừa làm điều

thiện, vừa làm điều ác; Nhóm phục vụ hầu hạ gồm: phụ hoàng, các công chúa,

nữ chúa.

Loại ma thư hai là các thánh thần ngự trị ở các núi cao, hang động lớn, bao

gồm thần thổ địa, thần lửa, thần cây to, chuyên cai quản cả một vùng rộng lớn hệ

thống núi nhất định. Ở Pác Nặm có thần canh giữ và người dân quan niệm là rất

thiêng, cứ vào ngày rằm thường có lễ vật, đặc biệt là những ngày mùng 1, mùng

2, mùng 3 và ngày 15 tháng 1, ngày âm lịch đầu năm. Điển hình như Bó nặm tại

trung tâm xã Bộc Bố huyện Pác Nặm.

Loại ma thứ ba là các thần đồi núi thấp ở gần làng, gần bản, nơi có cộng

đồng dân cư sinh sống. Nhóm này có rất nhiều loại, đứng đầu là thần của tên núi

đó.

Loại ma thứ tư là ma tổ của dòng họ, của từng người gia đình. Người Tày

nhà nào cũng có bản thờ tổ tiên, có nhà thờ đến 5 đời, nhưng chủ yếu là thờ đến

đời thứ thứ ba. Ma tổ có 3 nhóm. Nhóm thứ nhất là đi lên thiên đàng thượng giới,

ở lãnh địa nào là do Ngọc Hoàng Thượng Đế phân chia theo từng tộc, từng họ

riêng. Người Tày khi làm giỗ người chết thì chỉ cần làm một lần để đưa hồn ma

lên thiên đang với tổ tiên. Lên thiên đàng không phải để đậu thai sinh lại, mà là

lên trên ấy với ông bà, tổ tiên. Nhóm thứ hai là đi theo thể xác ở nghĩa địa, nhập

hội với tổ tiên đi trước ở nghĩa địa đó, thành một nhóm ma của một dòng họ.

Người Tày ở Pác Nặm không có nghĩa địa chung. Mỗi dòng họ có một nghĩa địa

riêng, rải rác trên những mảnh đất tốt ở các chân đồi núi thấp. Nhóm thứ ba là đi

theo con cháu về nhà của mình ở, hoặc nhà con cháu trong nội tộc làm ma tổ và

được thờ bởi ống nhang bằng cây nứa ở vách cửa sổ, gian đứng số một trong nhà

sàn. Ma tổ này trực tiếp ở với người sống, bảo vệ, phù hộ cho con cháu. Ngày lễ

tết hay những ngày trong nhà có việc lớn đều được con cháu thắp hương.

Loại ma thứ năm là loại ma ở những gia đình làm nghề thầy thuốc, thầy

cúng, chuyền nghề trị ốm đau, cứu người. Người Tày đặt tên cho loại ma này là

21

“then thư”, dịch ra chung là tổ thư, thư pháp. Ở đây những người hành nghề

cúng bái, loại ma “then thư” này vừa là ma tổ chung, vừa là tổ thư, pháp thư, thờ

ở vị trí thứ hai, sau hoặc ngoài ống nhang thờ ma tổ.

Loại ma thứ sáu là Mật “phi phai ra”, là loại ma của những người chết vô

gia cư, không có dòng tộc, con cháu tôn thờ và các loài động vật bốn chân mà

con người nuôi. Mật này chỉ ở vị trí chôn cất.

Loại ma thứ bảy là ma cà rồng, ma ôn, ma điên, ma dại. Loại ma này là

vía của một số người biến thành. Đây là loại ma ác, người nào bị ma cà rồng

nhập vào là ốm đau triền miên, gia đình đó bị khuynh gia, bại sản.

Loại ma thứ tám là Long Vương, thủy tề, chuyên ở dưới nước. Long

Vương có đội quân ở gần người nhất là thuồng luồng. Khi thấy con gái đẹp, phụ

nữ đến tuổi sinh sản ốm đau, chữa thuốc mà lâu chưa khỏi, khát nước, da vàng

là do Long Vương bắt vía.

Ngoài tám loại ma này ra, người Tày ở Pác Nặm quan niệm còn có nhiều

ma thần khác như Bà Mụ, Ông Bụt, Ông Tiên, Cô Tiên. Đây là những loại ma

thần thân thiện, giúp đỡ con người.

Quan niệm về vía (khoăn)

Cũng giống như nhiều tộc người khác, người Tày ở Pác Nặm cũng quan

niệm con người có hai phần: phần thể xác và phần hồn. Phần thể xác là hình

dáng, thể tạng, trang phục, hành động, lời nói của con người mà người khác cảm

nhận được. Người Tày Pác Nặm quan niệm phần hồn là phần không nhìn thấy,

không cảm nhận được, hiểu biết qua tưởng tượng của mọi người, gọi là vía. Khi

người còn sống thì nó là vía, khi chết đi là ma. Vía của người có loại vía chính

và bóng vía (khoăn ngấu). Vía chính thì đàn ông có 7 vía, đàn bà có 9 vía. Đàn

bà hơn đàn ông 2 vía vì đàn bà phải sinh con, chia vía gốc cho con. Bóng vía thì

đàn ông có 70 bóng vía, đàn bà có 90 bóng vía.

Mỗi người có ba bóng vía. Nhóm thứ nhất là vía hộ thân (khoăn ngấu), có

ba vía luôn đi theo người, bảo về người. Nhóm thứ hai là vía chuyên đi làm mọi

22

việc (khoăn ham), chuyên đi lao động sản xuất, kiếm các thứ về nuôi khoăn khấu.

Nhóm thứ ba là nhóm đi ngoại giao (khoăn tam bách), luôn đi thăm dò tin tức,

có gì thì báo cho cơ thể biết bằng cách báo mộng qua những giấc mơ. Mỗi nhóm

vía có ba con (tham tua khoăn) và có 30 bóng vía (tham thíp khoăn ngấu). Trong

số vía này, nếu không có con nào bị ma bắt, ma hại thì người sẽ khỏe mạnh bình

thường. Nếu có vía bị bắt đi thì người sẽ ốm yếu.

Vía người cũng có nhiều loại, nhiều kiểu: Có vía già, vía khỏe (khoăn

kheng); có vía non (khoăn ón); có vía dữ (khoăn rại). Đại bộ phận con người đều

có vía già, vía khỏe. Có một nhóm người có vía non, những người này thường

hay bị ma làm, ma nhập. Người nào có vía dữ thì thường đem lại cho ta điều rủi

ro.

Quan niệm về số phận (thổ)

Mỗi con người đều có một số phận riêng. Khi số phận trục trặc thì con

người long đong, lận đận. Số phận đã hết thì cơ thể của con người bị chết. Vì

vậy, ốm đau, tai nạn, rủi ro hay khi gặp may, giàu có đều là do số phận của người

đó.

Quan niệm về tướng mạo (mình)

Tướng mạo là hình dáng, phong thái của mỗi người. Từ phong thái của

mỗi người, người ta có thể nhận diện gần đúng về bản thân, số phận của người

đó.

Cách tìm ra ma (mjõ)

Như đã nói, người Tày ở Pác Nặm quan niệm có 8 loại ma. Để tránh việc

bị ma làm hại, người Tày nơi đây có những cách tìm ra ma để phòng trừ những

chuyện không mong muốn trong cuộc sống. Ở cộng đồng người Tày Pác Nặm,

có một số người có khả năng đặc biệt tìm ra ma, đó là thầy bói, thầy cúng, thầy

xem sách chữ Nho và Then…

Qua vũ trụ cũng như quan niệm của người Tày ở Pác Nặm về phi, khoăn,

thổ, mình, chúng ta thấy rõ nét sự ảnh hưởng của Tam giáo (Nho giáo, Phật

23

giáo, Đạo giáo), đặc biệt là ảnh hưởng của Đạo giáo trong tâm thức của người

Tày nơi đây. Sự ảnh hưởng này biểu hiện ở sự tiếp thu các quan niệm về thế

giới và hệ thống thần linh của Đọa giáo. Trong tâm thức dân gian, các vị thần

linh (Ngọc Hoàng, Thái Thượng Lão Quân, Phật Bà Quan Âm…) không hình

thành một hệ thống chặt chẽ mà mang tính pha tạp, hỗn độn. Ảnh hưởng của

Phật giáo được thể hiện rõ nét qua biểu tượng Phật Bà Quan Âm, một vị thần

cứu vớt, che chở cho con người và quan niệm Diêm Vương. Phật Bà Quan Âm

và Diêm Vương là sự hòa trộn giữa Phật giáo và Đạo giáo, đã được dân gian

hóa.

2.2. Nguyên nhân thực hành nghi lễ Then giải hạn

Ở đâu có người Tày cư trú, sinh sống, an cư lạc nghiệp bằng nghề nông là

ở đó có Then. Then là sản phẩm văn hóa tinh thần của họ. Vùng đất vùng cao

Pác Nặm tuy còn nhiều kho khăn về đời sống kinh tế, còn là một huyện nghèo

của cả nước. Thế nhưng nơi đây, dù trải qua nhiều bước thăng trầm, Then vẫn

tồn tại trong đời sống văn hóa tinh thần của người Tày như một minh chứng cho

sức sống trường tồn của tinh thần dân tộc. Tại sao họ lại mê Then đến như vậy?

Họ mê Then vì nhiều lẽ, nhưng trước hết: “khi xã hội phát triển cũng tức là khoa

học chưa phát triển thì nhận thức con người - người dân miền núi nhất là ở vùng

cao, vùng sâu, vùng xa có nhiều hạn chế. Một là, họ cần tìm chỗ bấu víu, để

nương tựa, tìm lại sự cân bằng về mặt tinh thần”. Đó cũng chính là giải pháp để

con người định lại cái tâm của chính mình. Hai là, sức cuốn hút đầy chất thiêng

của Then. Ba là, Then cũng như Tào, Pụt, Mo rất phù hợp với phong tục tập quán

tín ngưỡng của đồng bào, với cuộc sống vốn bình dị, không ồn ào của cư dân

miền núi. Bốn là, Then là một trong những thể loại dân ca dân gian, như một

hình thức văn nghệ trong các gia đình, thôn bản… Tiếng đàn, lời Then, lúc nhặt

như đưa người nghe vào một thế giới thần tiên hư hư thực thực, cùng những ước

mơ dung dị, khát vọng sống đời thường của con người… Vì thế mới có Then giải

24

hạn với ước muốn tránh khỏi tai họa, rủi ro trong năm của con người bình dị ở

Pác Nặm.

Để lý giải vấn đề này, chúng tôi muốn bắt đầu bằng một số trường hợp cụ

thể mà chúng tôi đã khảo sát, điền dã ở tại địa phương thuộc các xã năm trên địa

bàn huyện Pác Nặm.

Để phân tích các trường hợp trên, chúng tôi nhận thấy người Tày ở Pác

Nặm tiến hành nghi lễ giải hạn bởi 3 lý do. Thứ nhất, họ hay những thành viên

trong gia đình của họ gặp phải những rủi lớn, hay những ốm đau bất thường mà

họ cho rằng không thể lý giải chúng được bằng những tri thức khoa học, nên họ

mời thầy Then đến giải hạn mong xua đi những ốm đau, bệnh tật trong năm. Cụ

thể qua điền dã chúng tôi đã tìm đến gia đình nhà ông Nông Thanh Mạ, tại thôn

Nà Coóc, xã Bộc Bố, huyện Pác Nặm; gia đình ông Nông Thanh Tuấn, tại xã

Nhạn Môn, huyện Pác Nặm, gia đình ông Hà Văn Lập, tại xã Bằng Thành, huyện

Pác Nặm.

Nguyên nhân thứ hai mà người Tày Pác Nặm tìm đến nghi lễ Then giải

hạn là những bất an về đời sống vật chất, đời sống kinh tế của gia đình, hay gặp

những giấc mơ xấu, ác… Cụ thể qua điền dã chúng tôi đã tìm hiểu đến gia đình

nhà ông Chu Văn Chính, tại xã Nhạn Môn, huyện Pác Nặm.

Thứ ba, ước mong bố mẹ sống lâu, sống khỏe cùng con cháu. Người Tày

Pắc Nặm cũng thường giải hạn sao xấu đầu năm, cũng là một nguyên nhân các

gia đình người Tày ở đây đã tiến hành nghi lễ Then giải hạn. Cụ thể qua điền dã

chúng tôi đã tìm hiểu đến gia đình nhà ông Nông Thanh Yến, tại thôn Nà Coóc,

xã Bộc Bố, huyện Pác Nặm; gia đình ông Lường Văn Quân, tại xã Công Bằng,

huyện Pác Nặm.

Theo quan niệm của các thầy Then ở Pác Nặm, có hai nguyên nhân mà

người dân cần thực hành nghi lễ Then giải hạn. Thứ nhất, thực hành nghi lễ này

khi gặp năm xung tháng hạn. Năm xung tháng hạn được tính theo chu kỳ 10 năm:

ví dụ người sinh năm 1954 thì các năm hạn sẽ là năm 1964, 1974, 1984, 1994…

25

Đối với đàn bà thì 39 tuổi là có hạn, đàn ông là 37 tuổi, tương tự thì đàn bà có

hạn vào những năm 39, 49, 59, 69… tuổi, còn đàn ông có hạn vào những năm

37, 47, 57, 67… tuổi. Hạn của con người được quan niệm là gặp các sao xấu

chiếu, đặc biệt là các sao La Hầu, Kế Đô, Thủy Diệu, Mộc Đực, Văn Hán, Thái

Bạch (tương tự như quan niệm của người việt). Để nhận biết được gia chủ gặp

hạn gì, các thầy Then dùng sách chữ Nho.

Thứ hai, theo quan niệm của các thầy Then, thực hành nghi lễ Then giải

hạn khi gặp những điều kỳ lạ như: rắn, ba ba, chim… vào nhà, hay vô tình làm

kinh động đến tổ tiên, như: chặt cây đổ vào mồ mả, đóng đinh trước bàn thờ,…

hay bị ma bắt vía đi với từng biểu hiện cụ thể, như: người bị rơi xuống nước,

về nhà bị ốm yếu và hay khát nước là do ma của Long Vương đã bắt vía, bị

tai nạn ở đường mà về nhà người ngẩn ngơ thì phải làm giải hạn đón vía ở nơi

bị tai nạn.

Trong vòng một đời người, người Tày ở Pác Nặm quan niệm có 3 đợt giải

hạn. Đợt 1 là sơ giải (30-50 tuổi), chủ yếu là giải hoa, con gà, con lợn. Đường đi

của các thầy Then khi thắp cúng ở giải hạn đợt 1 này là trên đường của ma quỷ

lên trời, đến ngã ba tang cáp (một đường lên thiên đàng, một đường xuống âm

phủ, một đường xuống Long Vương và một đường đi về thế gian nơi loại người

sinh sống). Khi đọc lời khắp cúng, các thầy Then giải đưa con ma về đúng chỗ

của nó rồi thu quân về. Những người dưới 30 ít làm nghi lễ Than giải hạn vì quan

niệm lúc này vía còn non, trừ khi gặp những rủi ro lớn thì mới thực hành nghi lễ

này, không thì sẽ làm nghi lễ Then giải hạn cho cả gia đình.

Đợt 2 là trung giải (50-70 tuổi). Vị trí giải hạn là theo con đường lên thiên

đàng, đoàn quân của nhà thầy đưa lễ lạt trả lễ tới mè kị mè hạn (nhóm ma này

chuyên sinh ra kị hạn cho con người) và yêu cầu nhóm ma này không được quay

lại quấy rầy hồn vía của gia chủ.

Đợt 3 là đại giải hạn (những người trên 70 tuổi). Vị trí giải hạn cũng là xứ

mè kị mè hạn, nhưng các thầy Then đưa vía của người này đi du lịch ở thượng

26

giới để vía gia chủ thấy được nơi mình sẽ đến khi về với tổ tiên, từ đó yên tâm

về tinh thần, chăm sóc sức khỏe cho tốt.

Dù là nguyên nhân này hay nguyên nhân khác, người Tày ở Pác Nặm tìm

đến con đường tâm linh này đều có một mục tiêu chung nhất là đảm bảo an ninh

con người về mặt sức khỏe và kinh tế. Người hành lễ trong nghi lễ Then giải hạn

của người Tày ở Pác Nặm là các thầy Then, do gia đình, gia chủ mời đến.

2.3. Thực hành trong nghi lễ giải hạn qua dân ca (Then) của người Tày ở

Pác Nặm

2.3.1. Người thực hành nghi lễ Then giải hạn

Trong giai đoạn hiện nay, quá trình đô thị hóa đang diễn ra nhanh chóng

từ Bắc vào Nam, huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn cũng không ra ngoài quy luật

đó. Đây là một trong những tác nhân làm mất đi môi trường, không gian văn hóa

đặc hữu của nhiều thể hát của người Tày, trong đó nhiều lối hát nghi lễ đặc sắc

cũng chịu ảnh hưởng, điển hình là hát Then, giải hạn Then. Sự phân hóa hát Then

ở Pác Nặm- Bắc Kạn thành 2 dạng biệt lập: Then cổ và Then mới, đồng bào Tày

vẫn gọi là Then cổ và Then văn nghệ. Xuất phát từ yêu cầu xây dựng đời sống

văn hóa, một bộ phận hát Then từ hình thức nghi lễ, tín ngưỡng giải hạn đã nhanh

chóng hòa nhập vào đời sống xã hội hiện đại. Trong khi đó, hát Pụt và Tào, Mo

vẫn giữ nguyên lối hát nghi lễ như trước, ít biến đổi. Điều này lý giải tại sao khi

tiến hành khảo sát gặp không ít những khó khăn. Để khảo sát được nghi lễ giải

hạn qua dân ca (Then) của người Tày ở Pác Nặm, chúng tôi đã tìm đến gia ông

Dương Văn Mu, đã nhiều đời làm thầy Then tại thôn Bản Bòn, xã Cao Tân,

huyện Pác Nặm.

Qua những thầy Then trên địa bàn huyện, chúng tôi nhận thấy rằng hành

nghề Then không phải là sự lựa chọn do sở thích các nhân mà là do căn số mà

buộc phải thành thầy Then. Muốn hành nghề, Then phải nhận thấy và có thời

gian học nghề nhất định. Nếu như ở các địa phương khác, xét về giới thì Then

tuyệt đại đa số là nữ (bà Then), trong khi khảo sát của tôi ở Pác Nặm tất cả thầy

Then đều là đàn ông.

27

Một đặc điểm khác là các thầy Then ở Pác Nặm chỉ xem bói và hành lễ

theo yêu cầu của gia chủ, chứ không xem tướng mạo cho cộng đồng cư dân nơi

đây. Then có thể thực hiện được nhiều nghi lễ khác nhau, trong đó mỗi loại nghi

lễ đáp ứng những nhu cầu khác nhau của đời sống trần tục như bói toán, giải hạn,

cầu yên… Ngoài những ngày đi hành lễ cho các gia đình, họ cũng đi cầy bừa,

cấy hái như bao người nông dân khác.

Hệ thống thần linh của Then. Hệ thống thần linh của Then bao gồm Ngọc

Hoàng và các thiên tướng; tổ nghề Then và dòng dõi Then; các thần linh tại địa

phương (thành hoàng, thổ thần, tổ tiên).

Một số quy định về đón Then (tỏn Then), đưa Then (thống Then)

Người đón Then, đưa Then có thể là nam hay nữ, nhưng phải là người

khỏe mạnh, nhanh nhẹn, tháo vát. Trước ngày đón Then, đưa Then không được

làm điều xấu, không ăn tạp, không ăn thịt chó. Phụ nữ đang hành kinh, hay đàn

ông có vợ đẻ chưa đầy tháng thì cũng không được đón Then và đưa Then.

Trên đường đi đón và đưa Then, người đó phải đội mũ nón từ nhà đến nhà

Then. Nón, ô hay mũ vành rộng là đồ bảo vệ đồ nghề của Then vì ở trên không

trung có một bầy ma quái, quỷ dữ, ôn binh… luôn luôn rình mò để cướp lấy đồ

nghề của Then. Trong trường hợp Then ở xa nhà, đi đón và đưa cả ngày, nếu dọc

đường muốn đi vệ sinh thì phải treo đồ nghề của Then lên cành cây cao và lấy

nón, ô, hay mũ che kín phía trên. Chỗ đi vệ sinh phải khuất nơi để đồ nghề. Đi

đưa Then, người nào mang thứ gì thì phải đến tận nhà Then, không được tùy ý

trao đổi với nhau.

Khi đến nhà Then, người đón vào nhà, ngồi trên cây phân giữa dọc theo

sàn nhà ở phía ngoài, bên trên khuôn bếp. Đến nơi, không nhất thiết phải chờ chủ

nhà làm thủ tục tiếp khách mà chỉ cần gặp Then hay người nhà Then và nói đến

đón Then và lấy đồ cúng về trước. Khi đó, Then thắp hương lên bàn thờ (tang

tịnh) rồi lấy đồ cúng, tính tẩu đặt ở cái chiếu dưới bàn thờ. Người đón đến đứng

ở phái dưới chiếu chính giữa táng tịnh vái lậy 3 lần rồi đến nhận hòm và tính tẩu,

khoác quai hòm lên vai và rời khỏi nhà.

28

Khi ăn bữa cơm sau cúng và làm thủ tục thanh toán xong, Then hạ trùng

ba dây đàn tính, lấy mảnh vải đỏ gói bầu đàn lại, xoay một nửa vòng mâm thờ,

xếp các dụng cụ bầy trên mâm vào hòm rồi khóa lại, chuyển dưới chiếu ngồi,

giao cho người đưa đồ đem về nhà trước. Đưa Then phải là hai người, một người

mang đồ cúng (hòm, tính tẩu) và một người gánh vật trả lễ (bao gồm: một đùi

trước của lợn, một con gà luộc chín, túi đựng gạo cắm hương, một con gà còn

sống, một cụm lúa). Đến nhà Then, con gà sống để ở dưới sàn, còn lại đồ cúng

và đồ lễ đều đem đến đặt ở cái chiếu dưới táng tịnh, giao cho người nhà của

Then. Trên đường đưa Then, hai người này phải đi thẳng đến nhà Then, không

được rẽ vào bất cứ đâu.

Dụng cụ hành nghề Then

Đàn tính (tiếng Tày là tính tẩu). Đây là dụng cụ hành nghề quan trọng nhất

và đặc trưng nhất của Then. Tính tẩu gồm 3 dây, cần đàn bằng gỗ, hộp đàn bằng

vỏ quả bầu khô. Đàn tính được làm theo những quy định riêng, nếu như mặt hộp

đàn (tẩu) có đường kính 2 nắm tay thì thân đàn gàn phải có chiều dài 9 nắm tay.

Chùm nhạc xóc (hay còn gọi là cỗ nhạc- cỗ ngựa). Chùm nhạc xóc làm bằng

đồng hay bằng sắt, tượng trưng cho âm binh của Then, dùng trong những lúc Then

đi đường, sử dụng bằng cách móc vào ngón chân cái để đệm theo nhịp đàn tính. Với

đàn tính và chùm nhạc xóc, Then khắp theo 3 điệu: mo, khắp và ru.

Ấn. Ấn được làm bằng đồng, sử dụng với ý nghĩa thừa lệch Ngọc Hoàng

Thượng Đế để đi hành đạo. Vì vậy, ấn được đặt vào bát hương chính của then.

Thẻn. Thẻn là bộ gieo quẻ âm dương, được làm bằng nửa miếng gỗ hoặc

tre dung để hỏi ý kiến thần linh.

Bằng sắc. Bằng sắc là chứng chỉ hành nghề của Then, được cấp trong

những dịp cấp sắc hay tăng cấp. Sắc được viết bằng chữ Hán trên giấy vàng và

được cất rất kỹ vì là vật thiêng của Ngọc Hoàng Thượng Đế. Cùng với ấn, bằng

sắc là thứ giấy thông hành để Then hành nghề.

29

Ngoài những dụng cụ trên Then còn có quạt, chuông, kính gương, 6 cái

bát, 4 cái đĩa… Tất cả những dụng cụ này (trừ đàn tính) đều được cất trong một

cái hòm, gọi là hòm then.

Những điều kiêng kỵ trong khi hành nghề Then

Như đã nói ở trên, những người hành nghề Then có những quy định bắt

buộc phải thực hiện. Khi hành nghề Then, có 4 con vật mà những thầy Then

không bao giờ được phép ăn, đó là chó, ngựa, rắn, én. Vì theo quan niệm của đời

xưa để lại, chó là con vật đã ngậm và mang sách Nho về cho các thầy cúng từ

bên Trung Quốc sang, ngựa là con vật do Ngọc Hoàng Thượng Đế sai xuống trần

gian để cứu nhân độ thế; rắn tượng trưng cho bạch xà, bạch tượng, quân của

Long Vương; én là con vật mang thư, chạy thư cho ma thầy khi hành lễ. Ngoài

ra, Then cũng không được ăn tiết canh, không được ăn những con vật mang thai

như trâu, bò… vì quan niệm cái bao tử trong bụng mẹ là mầm sống, đã có sự

sống, nếu giết mổ mầm sống đang phôi thai, chưa được nhìn thấy ánh mặt trời,

chưa được hít thở khí trời là mang tội diệt chủng. Trong một năm, có những ngày

thầy Then không được hành nghề, vì quan niệm đây là những ngày “thát chủ”.

Đó là những ngày “xuân chi long, thu chi khuyển, đông chi ngưu, hạ chi dương”,

nghĩa là ngày thìn vào mùa xuân, ngày tuất vào mùa thu, ngày sửu vào mùa đông,

ngày mùi vào mùa hè.

2.3.2. Đồ lễ/ đồ cúng trong nghi lễ Then giải hạn

Nhà xung (rướn xung)

Nhà xung (rướn xung) được quan niệm là nhà dành cho ma tà, quỷ quái.

Nhà xung là một cái nhà 3 tầng, được kết cấu đơn giản, có 4 cột cao khoảng 1m

bằng cuống lá chuối, các que cây nứa (hoặc cây vầu) liên kết với các cuống lá

chuối này tạo thành 3 tầng, mặt các tầng thì dùng lá chuối phủ. Tầng 1 của nhà

xung gồm có: một nắm cơm, một con gà luộc chín. Tầng 2 là áo của cả gia đình

tiến hành nghi lễ Then giải hạn, được sắp xếp gọn vào trong theo thứ tự từ dưới

lên trên. Tầng 3 của nhà xung là cành cây, tượng trưng cho hoa lá, có sự sống.

30

Vách và mái vòm của nhà xung được che bằng lá chuối. Khi tiến hành nghi lễ

Then giải hạn, nhà xung được đặt ở phía trước các mâm cỗ dành cho phần cúng

giải, để các loại ma cần cúng đến nhận nhà (để đuổi các loại ma đi khỏi nhà người

thì phải có nhà cho ma ở) và hương cỗ bàn bày đủ các thứ cần cho một đám cúng

theo yêu cầu của từng loại ma.

Cầu cọc (cấu lắc)

Cầu cọc (cấu lắc) là dụng cụ làm bằng gỗ, có đánh dấu gốc, ngọn vì khi

hành lễ thì phải đặt đúng chiều, gốc cây quay về phía chủ, còn ngọn cây quay ra

phía bên ngoài, để giải ma đi không quay lại nữa.

Ống gạo giải và đồng tiền giải (khẩu, tiến giải)

Trước ngày hành lễ, chủ nhà phải đi 3 nhà cùng làng, khác họ, xin mỗi nhà

3 nắm gạo (tẻ hoặc nếp) để đủ 9 nắm gạo giải (9 nắm gạo thể hiện cho 9 vía, lấy

vía đàn bà làm chuẩn). Số gạo này cho vào một cái túi riêng, không ai được dùng

đến. trước lúc vào cùng giải, người hành lễ lấy ra 39 đồng tiền kim loại có sơn

một mặt trắng, một mặt đen. Nếu giải hạn cho nam thì dùng 37 đồng tiền xu, nếu

giải hạn cho nữ thì dung 39 đồng xu. Khi tiến hành giải hạn, lấy mặt trắng (mặt

dương) làm chuẩn, mặt đen (mặt âm) không lấy. Lúc đổ tiền lẫn gạo giải, số mặt

trắng phải hiện quá bán (nam 19 đồng, nữ 20 đồng). Lễ vật giải hạn còn còn có

một con gà trống sống nhốt trong lồng và một cụm lúa nếp phủ trên lồng gà. Đây

là những trường hợp đặc biệt, các lễ vật cho cúng giải hạn ngoài những vật chung

trên còn có những lễ vật khác, tùy thuộc vào thầy Then và phong tục địa phương

nơi đó.

Nếu giải hạn cho người dưới 30 tuổi, lễ vật còn có thêm hình nhân (nếu là

nam thì 7 hình nhân, nữ là 9 hình nhân). Đến khi đổ giải, người hành lễ đốt hình

nhân để tiến hành chuộc vía. Nếu giải cho người cao tuổi (trên 60 tuổi), lễ vật

cúng giải có thêm mô hình vũ trụ bao la, trời đất trăng sao. Mô hình được bày

trong một cái mẹt hình tròn thể hiện không gian vũ trụ. Trong mẹt trải một lớp

bột gạo trắng mỏng tượng trưng cho không gian mây trắng đang bay trong gió

31

bão. Trong mẹt còn có mặt trăng được nặn từ bột gạo nếp, mặt trời thì màu đỏ,

mặt trăng thì mầu vàng.

Tất cả các lễ vật trên được bày hết ở gian giữa, bên trên cửa ra vào, ngang

với cây phân đôi theo sàn cùng thẳng đứng với đòn nóc (gian chính của nhà sàn).

Trước khi hành lễ, người nhà và người hành lễ phải kiểm tra kỹ, không được

thiếu sót lễ vật nào. Khi các lễ vật đã được chuẩn bị đầy đủ thì người hành lễ mới

quay lên mâm hương thờ tổ thư để đọc lời cúng, bắt đầu nghi lễ Then giải hạn.

Để thực hiện được một nghi lễ Then giải hạn, chủ nhà phải nhờ đến anh em họ

hàng, hàng xóm đến giúp sức, ít nhất phải có khoảng 10 người thì mới kịp hành

lễ vì những lễ vật này cần phải hoàn thành trước khi người hành lễ đến nhà.

2.3.3. Tiến hành một nghi lễ Then giải hạn của người Tày ở Pác Nặm

Thời gian tiến hành lễ giải hạn thường bắt đầu vào buổi sáng, trình tự lần lượt

là lễ xôi hương, an đẳm, chừa giải, tổng khân và cuối cùng là chừa tỏn khoẳn.

Xôi hương (xin phép đốt hương ở nhà cúng)

Khi gia đình và thầy Then tiến hành bày xong mâm thờ ma tổ thư của

Then, bày xong rã áo đón vía, mọi mặt chuẩn bị cho nghi lễ đã xong hết thì thầy

Then bắt đầu hành lễ cúng. Bước đầu tiên hành lễ là xin phép đốt hương ở nhà

cúng (lễ xôi hương).

Gia chủ đốt một nắm que hương, cắm vào các ống nhang thờ ma tổ, mỗi

ống nhang hai que hương. Sau đó, cắm hương vào bát gạo mâm thờ tổ thư Then

ba que nhang thẳng theo hàng ngang, cho hương thật đều nhau, không que hương

nào cao hơn hay thấp hơn. Tiếp đến, cắm một que hương vào bát gạo ở rã áo đón

vía sát quả trứng, trong vòng bạc và một que hương cắm vào khay nước chè. Rót

nước chè, nước sạch và rượu vào các bát lá thanh thảo, chén uống nước, chén

uống rượu trong mâm và báo cho thầy Then biết mọi thứ đã đầy đủ.

Thầy Then mở hòm lấy áo khăn, mũ hành lễ, quạt giấy, thẻn, sách ra đặt

cạnh mâm, lấy tính tẩu ra để lên đàn tính cho căng cả 3 dây thanh, trung, trầm.

Gia chủ bắt đầu khấn báo ma tổ (phi đắm) theo nội dung: kính báo tổ tiên từ cụ

kị, ông bà, cha mẹ…

32

Khi gia chủ báo tổ được nửa phần lời khấn thì đồng thời thầy Then bắt đầu

cầm đàn tính, bắt đầu khắp. Nội dung khắp trong lễ xôi hương này là: báo cho

ma thầy gồm tổ thư, pháp thư, binh thư, ải xả, ải giang… (tập đoàn ma Then)

biết hôm nay, nhà này, họ này ốm đau, bệnh nạn, mời binh thư, tổ thư, pháp thư

đến tại nơi hương án để đi tìm, đi cứu con cháu vào nhà này. Xướng mời tổ tiên

dòng họ nhà cúng đất rướn Cư, đẳm họ Ma do mải mê công việc, không quản

nổi hồn vía con cháu về nhà. Từ giờ này, con cháu trong nhà được thắp đèn, đốt

hương đi soi, đi kiếm, đi mời.

Nếu tổ thư, pháp thư, binh thư nhà thầy và tổ tiên đất rướn Cư, đẳm họ

Ma đồng tâm hiệp lực làm việc này cho hay, chạy việc này cho tốt, chấp nhận

cho thắp sáng, khói hương bay thì cho quẻ được xấp, ngửa. Xin được quẻ âm

dương rồi thì nói lời cảm ơn và đi vào hành lễ chính.

Lễ an đẳm (lễ cúng tổ tiên, ma tổ của cả dòng họ)

Lễ vật trong lễ an đẳm này gồm có: hua khoẳn bâm (mâm một con lợn,

một con gà luộc chín, rã áo đón vía). Số lễ vật này bày ở cái chiếu trải giữa mâm

thờ ma tổ của gia đình cúng. Một chai rượu, một chồng chén, một nắm đũa xấp

cạnh mâm.

Thầy Then đọc lời cúng trong lễ an đẳm. Nội dung là báo cáo cho ma tổ

của dòng họ nhà cúng đi mời hết tổ tiên của dòng họ đến “lúc rướn quan, lan

rướn đẳm, mời tướng má nằng trang tì, khúy trang rướn…” thầy có lời mới “đắm

ké, đắm con, đắm lăng” (tổ gia, tổ tiên, tổ sau) về nhận lễ rồi cùng nhau vào mâm

cô báo hết số lễ vật gia đình chuẩn bị, ăn cho no, uống cho say rồi cùng với tổ

thư, binh thư, pháp thư nhà thầy, sẽ lấy của cải, tiền bạc, đi tìm hồn, tìm vía con

cháu tên là… Tổ tiên có chấp nhận thì xin cho quẻ. Xin được quẻ rồi thì thầy

Then nói lời cảm ơn và giáo cho ma tổ là không được đi đâu, ai đến đều ở lại để

ra tay tìm bằng được hồn vía con cháu về.

Lễ cúng giải (chừa giải)

33

Sau khi tiến hành an đẳm xong, tiến hành ngay lễ cúng giải. Theo quan

niệm, trước khi tiến hành đón vía từ nơi nào đó về, phải giải trong nhà cho sạch,

cho gọn, không còn điều gì nữa. Vì thế, cúng giải hạn là công việc cầu kỳ, tỉ mỉ

nhất kể cả lễ vật và lời cúng.

Sau khi đã chuẩn bị hết các lễ vật (nhà xung, gạo giải, đồng tiền giải, gà

sống nhốt trong lồng) thì gia chủ tiến hành bày các lễ vật. Tất cả các đồ lễ được

bày ở chiếu, ở sát vách cửa ra vào ở gian trái ngoài cùng. Khi kiểm tra lại lần

cuối và chắc chắn đã đầy đủ lễ vật, thầy Then quay lên mâm thờ tổ thư, lấy cái

quạt giấy ra, mở giật 3 lần với bát gạo cắm hương, lên dây tính tẩu và bắt đầu

vào bài cúng. Nội dung bài cúng là nêu rõ lý do thực hành lễ này, sau đó mời tổ

thư, pháp thư, binh thư, binh mã của nhà thầy có đến đủ hay không thì xin quẻ.

Được quẻ xong, thầy Then mời ma tổ của cả dòng họ Ma, đã được gia chủ, được

thầy mời về, đã ăn no, uống đủ, chuẩn bị cùng tập đoàn ma nhà thầy đi làm nhiệm

vụ. Thầy Then lại xin quẻ tiếp để biết ma tổ của dòng họ Ma có đồng ý như vậy

hay không. Khi đã được quẻ âm dương, thầy mới báo tổ thư và ma tổ cử mỗi bên

một vài người, lấy sổ ra ghi chép thật đầy đủ, giao cho binh mã nhà thầy vận

chuyển, biết có ghi đủ, đủ lễ hay không thì thầy lại xin quẻ.

Sau đó thầy bắt đầu đọc lời cúng báo chủ ma thầy và chủ ma tổ đi tìm hết

góc ngách trong nhà, trong chuồng trại gia súc, dưới sàn, ngoài bãi, trong vườn,

ngoài ao, gốc cây, khu vực gia đình ở, làm việc có con ma tà, ôn quỷ nào đều rủ

đi theo hết để đến chỗ đẹp nhất thì cho ăn lễ vật. Con ma tả, ôn quỷ nào không

đi thì thầy dùng binh thư rượt đuổi, bắt đi hết, chỉ để lại các loại ma hữu ích giúp

người.

Đến lúc này, thầy Then nghỉ ngơi và chuẩn bị đến lễ giải. Nội dung của

phần dẫn giải được tiến hành theo nhiều bước. Đầu tiên là gia chủ đem 4 chén

rượu, một chai rượu, một đĩa trong đó có từ 10 nghìn đồng trở lên đến mời rượu

và giao tiền cho gia chủ. Gia chủ nhận và lấy cái mẹt có đựng một ống gạo, tiền

34

giải và con dao đến đặt giữa gian, bên dưới mâm thờ tổ thư thầy Then. Thầy

Then rút que hương dành cho tổ thư trong bát ra để làm phép vào ống gạo, tiền

giải. Sau khi làm phép xong, thầy Then đẩy mẹt giải trước mặt gia chủ, rồi lại

cắm que hương ấy vào vị trí ban đầu. Gia chủ nằm trên một cái ghế gỗ (tắng

nằng) theo hướng cửa ra vào. Đến lúc này, thầy Then quay vào bàn thờ đọc lời

cúng. Nội dung của lời cúng đã đến ngã tư các hướng, tà ma đã được ăn uống no

nê, đầy đủ, đã nhận nhiều lễ vật rồi, không được phép quay lại đường về nữa. Để

chặn các loại tà ma này không quay lại, tổ thư, pháp thư, binh thư, tổ tiên của họ

nhà giải đã có đầy đủ khí giới, phép thuật ngăn lại.

Đọc xong lời cùng dẫn, thầy xin quẻ âm dương. Xin được quẻ âm dương

rồi, thầy bắt đầu đọc lệnh: tất cả các loại tà ôn, ma quỷ, mật mãnh, hồn muôn

thú… sát hại nhân, ai ở ở đâu thì đi về đấy, đông đi đông, tây đi tây, nam đi nam,

bắc đi bắc. Tất cả phải theo lệnh thầy, đi cho nhanh, chạy cho mau, ai chậm thầy

tôi bắt trói. Giải… gia chủ nói theo then Danh một tiếng “giải” kéo dài, rồi để

ống tiền giải vào thân con dao cho tung tóe khắp mọi nơi. Đàn ông thì 37 đồng

tiền giải, đàn bà 39 đồng tiền giải, tương đương với các cửa. Muốn đuổi hết phải

đủ cho mỗi con ma một đồng tiền, thiếu tiền là ma không đi, coi như đợt giải ấy

không có giá trị. Các cửa ải ma đến chia thành từng tốp, mỗi tốp có 4 con, tương

đương với sinh, tử, thọ, lão. Số 1 là sinh, số 2 là tử, số 3 là thọ, số 4 là lão. Mặt

tiền giải được sơn hai mặt, một mặt đen và một mặt trắng. Mặt trắng là may, là

tốt, còn mặt đen là rủi, là xấu. Nhưng trong mặt trắng, số 2 là số tử, nếu các nhóm

tiền (4 đồng một nhóm) còn dư 2 là phải giải lại. Giải được thì phải là số mặt

trắng hiện từ 19 đồng trở lên đối với đàn ông, 20 đồng trở lên đối với đàn bà. Khi

tiến hành giải như vậy, thầy biết được số ma tà, ôn quỷ còn chần chừ, không

muốn đi và dung lệnh để đuối hết đi, lấy phép ngăn cấm không cho chúng quay

lại nhà giải.

35

Sau khi cúng giải, đổ giải thành công, thầy Then đọc lời cúng thu quân,

thu ma tổ quay trở lại. Đường đi về là theo mây, theo gió. Khi đi có thể gặp bao

nhiêu sự cố nhưng khi về thì chỉ cần đi một hồi là tới nơi. Khi đã về đến nhà,

thầy hỏi lại tổ thư, pháp thư và ma tổ có thiếu vắng ai hay không, xin quẻ rồi thì

mời cả đoàn vào nhận lễ ăn cỗ.

Khi đã hoàn thành xong lễ cúng giải thì chuyển sang các kiểu cúng trả lễ

cho từng loại ma bắt giữ vía người cụ thể để chuộc vía, đón vía về cho cơ thể

người ốm.

Cúng trả lễ cho con ma báo điềm gở (tổng khân)

Không gian hành lễ là một bãi đất bên phải sân nhà của gia đình gia chủ.

Lễ vật gồm có: một mâm gồm có một thủ lớn luộc, 4 chân lợn luộc, một con gà

luộc, một bát cơm, một chén rượu, một chai rượu. Những lễ vật này được gia

đình chuẩn bị theo yêu cầu của thầy. Bên cạnh mâm cúng này còn có một mẹt

đựng đồ chay, gồm có: chuối xanh thái lát, 4 mẩu mía, một quả đu đủ, một chai

rượu, một gói bánh kẹo. Trên mẹt này có 5 cành tao roạng, được làm bằng ống

tre nhỏ, có găm giấy đỏ, dùng để trấn trạch, tránh cho ma quay lại làm hại người.

hai mâm lễ này đặt song song ở hàng trên. Hàng dưới là một mâm cúng bao gồm

hai bát gạo cắm hương, một chén nước chè, một chai rượu, một đèn dầu và một

cành gai bưởi, bên cạnh mâm lễ là một con gà sống nhốt trong lồng. Sau khi đã

chuẩn bị xong các lễ vật này, thầy cầm hai que hương đã được đặt trước gương

và bắt đầu xuống sân cúng.

Lời khắp cùng đầu tiên ông thầy phải xướng đến thổ công, sau đó mời tổ

tiên xuống dự sau. Tổ thư không cần xướng đến nữa, vì đã đi theo ngay khi gia

đình mang mâm hương phụ xuống. Khi xướng xong thổ công, thầy nhờ thổ công

đi mời các thần thổ địa ở khu vực nhà này đến nhận cỗ, sau đó giao khu vực này

cho tổ thư, pháp thư, binh thư và tổ tiên dòng họ này mượn để làm việc. Khi công

việc được triển khai thì thổ công, thiên thần, thổ địa vùng này không được nhòm

ngó, tranh phần, gây sự.

36

Khi hành lễ, thầy mời con ma ấy về nhận lễ, cảm ơn và mời nó ở đâu về

thì đi về nơi ấy. Thầy dùng bát gạo đem vào gian nhà trong cùng, lấy gạo ném

khắp gian nhà rồi ném đến gian hai, gian ba… và khắp cả nhà nhằm xua đuổi ma

tà ra hết khỏi nhà này và đi về xứ sở của mình, không được quấy rối, làm hại nhà

này, họ này nữa.

Khi xóc thẻ thành công, có nghĩa là con ma đã đồng ý nhận lễ và không

quay lại quấy nhiễu người nhà này, họ này nữa thì thầy rút dao gọt mía, đu đủ,

chặt hương, tắt đèn và lên nhà tiếp tục làm công việc tiếp theo.

Hành lễ đón vía (chừa tỏn khoăn)

Trong lúc thầy Then cúng tổng khan ở sân bãi thì trên nhà gia đình chuẩn

bị thêm mâm quần áo đón vía và mâm cơm đón vía, bày theo vị trí nhất định.

Đầu tiên, thầy khắp lời cúng báo cho tổ thư, pháp thư, binh thư, binh mã,

cùng với tổ tiên gia chủ đến nhận lễ vật, cùng với các quán tướng nhà thầy, mang

đến nơi trả lễ cho đám ma ấy, đón vía con cháu về nhà. Thầy xin quẻ âm dương

để biết tổ tiên của dòng họ và các quan tướng nhà thầy đã đến đủ hay chưa. Khi

xin được quẻ âm dương rồi, thầy mời hai đoàn quân ma này lấy sổ sách ra ghi

chép tất cả các lễ vật cúng cũng như vị trí bày của các lễ vật. Thầy Then lại tiếp

tục xin quẻ âm dương để biết được hai đoàn ma đã nhận đủ lễ vật hay chưa. Khi

được xác nhận hai đoàn ma này đã nhận đủ lễ vật này cho binh mã nhà thầy,

khiêng lễ vật đến nơi đón vía bị giam giữ, cầm tù.

Thầy Then dùng lời để xin trả vía cho gia chủ, xin quẻ âm dương, được

quẻ có nghĩa là đã xin được vía về rồi. Thầy Then dùng luôn binh thư chặn đường

bảo vệ phía sau, thúc giục ma tổ khẩn trương đem con vía về ngay nhà. Để nhân

biết vía đã về nhà hay chưa, thầy vừa khắp vừa nhìn vào gương có thắp hương.

Tiếp đó, thầy Then mời vía của người được giải đi lên vũ trụ để du ngoạn. Mô

hình du lịch là một cái mẹt đựng các mô hình, vũ trụ, bầu trời, trăng sao… Mục

đích của việc này là để vía của các cụ biết được mường thiên (là nơi ở sau khi

chết được 3 năm), để các cụ an tâm tĩnh dưỡng và không bị ma nào bắt vía.

37

Sau đó thầy Then yểm bùa không cho mà tà vào làm hại người trong nhà

nữa. Cuối cùng thầy buộc thai khoăn vào tay người giải và các con cháu trong

nhà, thai khoăn này được đeo tới lúc nào đứt.

Lúc này, nghi lễ Then giải hạn đã hoàn thành. Người tham gia nghi lễ đến

đặt tiền mừng vào cái đĩa quần áo đón vía. Số tiền mừng ở đây tùy thuộc vào

kiều kiện của gia đình. Số tiền mừng này dùng để người giải bồi dưỡng sức khỏe,

gọi là tiền gọi vía (tiến roỏng khoăn). Con cháu phải ăn hết mâm cơm đón vía,

con gà gọi vía. Như vậy nghi lễ đã xong, tất cả mọi người tham gia nghi lễ ăn

bữa cơm thân mật với gia đình người giải hạn.

2.4. Thực hành trong nghi lễ giải hạn qua dân ca bằng chữ Nôm Tày (những

thầy Mo) của người Tày ở Pác Nặm

2.4.1. Quan niệm về vũ trụ

Khác với các thầy Then trên địa bàn huyện, trong nghi lễ giải hạn của các

thầy Mo dân tộc Tày ở Pác Nặm có quan niệm về thế giới vũ trụ gồm 3 phần:

Mường bân (mường trời); mường lương gian (mường người sống); mường âm ti

địa ngục (mường âm phủ dưới mặt đất). Trong mường bân (mường trời) lại chia

ra nhiều tầng bậc khác nhau. Trong tâm thức của người Tày ở Pác Nặm luôn có

quan niệm trên trời xanh thăm thẳm vẫn tồn tại một thế giới khác phồn hoa và

đẹp hơn lương gian (mường người sống), trong đó tầng trên cùng là Ngọc Vàng

(Ngọc Hoàng Thượng Đế), ở đó Ngọc Vàng là người có quyền năng cao nhất. Ở

bên cạnh Ngọc Vàng có các Thòng Slư (đồng tử), có Tây Vương Mẫu, có Đông

Vương Cung và các quan hầu cận.

Ở tầng thứ 2 là tầng ở của các vị thần như: Nam Tào, Bắc Đẩu, quan Thế

Âm Bồ Tát, Thánh Hoa, bà Thánh Mẫu (mẻ Thánh Va, a Thánh Mẫu), tinh chủ

Bắc Cực… ở đây mỗi vị thần lại cai quản một khu vực riêng và có chức năng

khác nhau như Nam Tào chuyên quản lý sổ sách, số mệnh của người trần gian,

mọi chuyện sinh tử ở trần gian đều do ông thần này quyết định cho nên một khi

có người ốm đau không qua khỏi đều được quy kết rằng là Nam Tào chấm sổ,

38

nghĩa là Nam Tào đã gạch sổ. Còn Bắc Đẩu thì chuyên quản lý việc ốm đau,

bệnh tật ở trần gian. Quan thế âm thì có lòng từ bi hễ nghe thấy tiếng thở than,

cầu xin là thần tiên sẽ xuống giúp. Bà Thánh Hoa, Thánh Mẫu thì cai quản những

linh hồn còn bé nhỏ, ban phát cho hoa (mẻ byoóc păn mà); (mẻ va păn hẩu) và

quản lý các linh hồn dưới 18 tuổi, khi những thực thể sống đó chưa đến 18 tuổi,

bởi theo quan niệm của người Tày ở đây cho rằng đến 19 tuổi mới đến tuổi kỷ

(tuổi chải chai nản là tuổi có xung, có hạn ách). Còn Tinh chủ bắc cực thì quản

12 vị thần Hung Tinh (tinh sấu) và 6 vị thần Cát Tinh (tinh tốt) và Nhị thập bát

tinh tú (24 tinh tú).

Ở tầng thứ 3 là tầng Dương Chu, trên tầng Hành Khiên, Thổ Địa, Thổ

Công. Ở tầng này chia ra nhiều địa phận khác cùng thứ bậc như Dương Chu (chỗ

ở của người chết khi về trời), chỗ ở của tổ tiên con người.

Ở tầng thứ 4 là tầng cuối cùng của mường bân, bao gồm có các thần Hành

bình, Hành khiển, Sơn thần, Thổ Công, Thổ Địa… Ở bậc này các vị thần là ở

gần gũi với người sống nhất nên con người có thể tự thắp hương, khấn vái và cầu

xin trực tiếp được.

Ở mường lương gian gồm có con người là chủ đạo của mường này và

ngoài ra còn có các thực thể sống khác như: trâu, bò, lợn, gà và các loại đông vật

khác. Người Tày ở Pác Nặm có quạn niệm tất cả các cơ thể sống, có máu đỏ chạy

trong cơ thể là đều có hồn, như: hồn người, hồn trâu, hồn bò… (khoăn cần, khoăn

mò, khoăn vài…). Trong đó hồn người có tam hồn và thất phách, nếu có đủ (3

hồn và 7 phách) thì con người luôn được khỏe mạnh, sảng khoái, gặp nhiều thuận

lợi trong cuộc sống. Nhưng nếu có những con hồn và phách thất lạc thì con người

sẽ bị ốm đau, bệnh tật và mất của cải… Tùy thuộc vào hồn, phách thất lạc đi

những cung nào đó trên trời hay dưới địa ngục (âm ti) thì người ốm sẽ có những

triệu chứng bệnh khác nhau hoặc có những giấc mơ khác nhau. Qua đó những

thầy Mo ở Pác Nặm sẽ xem cụ thể và có những lễ giải hạn, lấy lại hồn phách (au

khoăn) cho phù hợp.

39

Còn ở mường âm ti địa ngục, người Tày ở Băc Kạn nói chung và người

Tày ở Pác Nặm nói riêng đều có quan niệm là dưới đất vẫn tồn tại một thế giới

khác. Ở đó có địa phủ chuyên cai quản các loại tà ma, quỷ quái, như: quỷ Dạ

xoa, Bà La xát, thần chết… có thủy cung, nơi ở của các loại rồng, rắn, thuồng

luồng, thủy quái khác ở dưới nước. Nếu như hồn phách con người bị thất lạc

hoặc bị bắt xuống địa ngục thì sẽ bệnh tật, ốm đau… Nếu chết mà không chuộc

được hồn về thì mãi mãi linh hồn người đó sẽ không siêu thoát về mường dương

chu được mà sẽ bị giam cầm và các quỷ hành hạ, đánh đập, nhúng vạc dầu, xích

chân, xích tay… Nên người Tày ở Pác Nặm cũng thường tìm đến đến các thầy

Mo nhờ làm lễ giải hạn cho mình và người thân trong gia đình.

2.4.2. Tín ngưỡng giải hạn của thầy Mo, Tào ở Pác Nặm thể hiện trường phái

Nho giáo

Người Tày ở Pác Nặm không có tôn thờ hoặc theo một giáo phái nào,

nhưng trong thơ tịch cổ và những bàn thờ của những nhà làm thầy cúng thì có

thế thấy rằng: người Tày có ảnh hưởng lớn Phật giáo và Đạo giáo và phần nào

cũng ảnh hưởng của trường phái Nho giáo. Trong các bàn thờ nhà thầy cúng

luôn có dòng chữ thờ phụng hương hỏa: Tổ sư Hồng Y giáo chủ tuyên văn vương

lai hạ giáng và tổ sư Khổng Phu Tử lai vị tọa… Đây là 2 vị tổ sư của Nho giáo

và có nguồn gốc từ Trung Quốc.

Ngoài ảnh hưởng Nho giáo, người Tày nơi đây cũng ảnh hưởng mạnh Phật

giáo. Trên bàn thờ luôn có bài vị của Quan Âm Bồ Tát, và trong những lời giải

hạn vẫn có những lời, đoạn nói đến những mãnh tướng, các vị quan (Tí Chu,

Ngụy Vương Dần, Mão Trịnh…). Ngoài ra còn thờ các vị thần: Thổ Công, Thổ

Địa, Thần tài… Nhưng qua khảo sát người Tày ở Pác Nặm, đặc biệt là những

người làm thầy Mo, họ không đi theo hẳn một đạo phái nào mà họ tận dụng

những tinh hoa của các đạo phái khác nhau để làm nên một di sản riêng cho dân

tộc mình. Đó chính là tín ngưỡng bản địa (theo lời của thầy Mo Hoàng Văn Lý -

tại Xã Bộc Bố, huyện Pác Nặm).

40

2.4.3. Những văn bản về lễ cúng giải hạn cầu an của người Tày và cách diễn

xướng trong lễ cúng giải hạn (cầu an)

Các loại về lễ giải hạn của người Tày ở Pác Nặm

Trong những phong tục giải hạn (cầu an) của người Tày ở Pác Nặm được chia ra

làm nhiều lễ giải hạn khác nhau:

- Lễ giải hạn cầu tự, cầu an, giải sung hạn dành cho người lớn.

- Lễ mừng thọ là lễ làm cho người có tuổi từ 61 trở lên.

- Lễ cúng tu đẳm (lễ mời tổ tiên).

- Lễ giải chải tinh kỷ.

- Lễ giải tạp, lễ giải kiến quái. Lễ này chỉ giải khi gia chủ thấy những điềm

gở, những giấc mơ xấu…

Những văn bản về lễ cúng giải hạn của người Tày ở Pác Nặm tùy thuộc

những lễ mà gia chủ yêu cầu thì thầy cúng sẽ chuẩn bị những văn bản, sách vở

cúng phù hợp với thể loại lễ đó mang theo. Theo như thầy Mo Hoàng Văn Phúc

và con trai là thầy Hoàng Văn Lý ở Bộc Bố- Pác Nặm thì văn bản làm nghi lễ

giải hạn cầu an hiện nay có khoảng 15 danh mục giải hạn, mỗi danh mục lại có

1 đến 2 quyển văn bản phục vụ cho từng lễ đó. Cho nên để thực hiện một nghi lễ

giải hạn thì thầy cúng phải có nhiều sách vở, như: thư tịch cổ, nhiều ra còn nhiều

sách vở khác liên quan đến lễ cúng giải hạn đó.

Trước đây vào giai đoạn nhà nước cấm bói toán, mê tín di đoan. Các thầy

cúng ở Pác Nặm (trong đó có cả Then) nói vui háp xéc chử tọc bấu chắc, nghĩa là

cả một gánh sách mà chẳng biết chữ nào. Ở đây có hàm ý mỉa mai, chua xót cho

những người làm nghề thầy cúng. Thư tịch cổ bị thất truyền, phần nào mất đi nhiều

giá trị văn hóa trong tín ngưỡng giải hạn của người Tày ở Pác Nặm.

2.4.4. Thời gian, không gian và cách diễn xướng và trang phục, đạo cụ của

nghi lễ giải hạn (cầu an) bằng chữ Nôm tày

Thời gian

Người Tày trên Pác Nặm, khi bản thân hoặc người thân mình bị ốm đau,

bệnh tật hoặc bị mệt mỏi, ăn ngủ không yên… Họ không lý giải được thì họ tìm

41

đến thầy Mo để xem nguyên do. Người đến xem thường mang theo 1 cái áo và

một bát gạo, vài que hương. Sau khi trình bày nội dung sự việc với thầy cúng và

được thầy chấp nhận thì đặt cái áo và bát gạo bọc trong vải trắng hoặc đỏ lên

trước bàn thờ của nhà thầy, sau đó thầy sẽ làm những nghi lễ tại nhà và hẹn gia

chủ được ngày tốt đến và thực hiện nghi lễ giải hạn tại nhà. Lúc này thầy cúng

căn cứ vào những con ma (tua phi) bói được và sẽ dặn gia chủ chuẩn bị những lễ

vật cho phù hợp với công việc sắp tới. Đến ngày đi làm lễ, gia chủ phải có người

sang đón thầy cúng (lặp thông) nghĩa là đón túi mo, đựng các đồ hành nghề của

thầy. Ở Pác Nặm người Tày có quan niệm kiêng kị không bao giờ thầy cúng tự

đeo túi đồ nghề đi làm lễ giải hạn mà phải có người đón đưa.

Đến nhà gia chủ, thầy cúng bước vào cửa là đã phù phép nôi niệm (nhập

môn thành sỹ) và viết chữ (sỹ), đến khi làm xong việc thì quay ra thầy viết thêm

chữ (khẩu) và sau khi hoàn tất thầy viết chữ (cát) có nghĩa là tốt. Ngay sau khi

đến nhà thầy cúng sẽ hỏi về họ tên từng thành viên trong nhà và bổ sung vào sớ

bài mệnh, bài giải… Thời gian làm lễ thường là vào buổi sáng trong ngày.

Tục chọn ngày để làm lễ giải hạn là thường chọn ngày thiên sả, mục đích

là tránh ngày quỷ cách, ngày (bội pang). Tức là ngày ma không ăn cỗ, còn ngày

(bội pang) là ma ăn rồi lại đòi ăn nữa. Ngoài ra thầy cúng cũng thường tránh

ngày (thần cách) và (tuyệt va), nếu làm lễ giải hạn cho trẻ con. Còn lại những

ngày xấu khác không kiêng kị, vì quan niệm của người Tày là gặp sấu mới phải

sửa, phải giải.

Không gian diễn xướng

Tùy thuộc vào việc giải hạn của gia chủ, thầy cúng sẽ sắp đặt vị trí, không

gian diễn xướng. Ví dụ trong giải hạn cầu an, cầu mo đẳm, au khoăn… thì mâm

thầy sẽ đặt ở chính đối diện bàn thờ gia chủ, còn những mâm lễ khác thì đặt lệch

với bàn thờ tổ tiên. Trong lễ giải hạn tinh kỷ (chải tinh kỷ), thì gồm có mâm thầy,

mâm mời tinh kỷ ngồi, mâm thổ địa và tổ tiên, trên mâm có bài mệnh và cắm

(đăng mệnh), có nghĩa là đèn soi sáng cho bản mệnh có cắm lục vần màu đỏ,

42

tương trưng cho hồn người sống. Trên bát gạo có cắm bài mệnh và có 1 quả trứng

sống, mấy cọng cỏ tranh, tương trưng cho những tai ách. Bên cạch bát gạo bài

mệnh còn có bát gạo cắm bài giải, trên lá bài giải được phân ra 2 phần, trên viết

họ tên các thành viên trong gia đình, còn bên dưới ghi những sao sấu, những

điểm sấu trong bản mệnh ứng với từng người trong năm đó.

Trong đơn vị quản lý hành chính hiện nay thì cấp chính quyền gần dân

nhất là thôn rồi đến xã, huyện…Càng làm việc với cấp cao thì nội dung công

việc càng nặng nề hơn. Trong tâm linh của người Tày cũng vậy, có quan điểm

tương tự và có thể nói theo theo người Kinh là (trần sao âm vậy).

Mâm thấp nhất là mâm mạo làng, là mâm xính quân chuyên chuyển những

tai ách, những cái xấu do thầy cúng sai khiến, cho mão làng gánh đi khắp 5

phương. Ngoài ra một số lễ cũng được làm ngoài nhà, như cúng thần (mo slấn),

cúng ma gà, ma cà rồng (phi cáy, phi đắp)… Tùy vào từng việc mà thầy cúng có

cách bài trí sắp đặt riêng, như cúng thần, ma thương, mà gà, ma cà rồng…thì

thầy cúng thường đặt lễ ở ngoài sàn hoặc ngoài sân, nhất thiết là phải ra khỏi mái

nhà của gia chủ thì mới cúng.

Còn nếu cúng lòi (ngũ lôi), thì lại phải vào gốc cây to, nơi ít người qua lại.

Sau khi cúng xong thầy cúng gửi lòi lại gốc cây đó và cây đó tuyệt đối không

được chặt, bởi quan niệm nếu chặt cây sẽ giải phóng cho lòi quay lại và người

chặt cây đó sẽ bị lòi ám ảnh dẫn đến bệnh điên khùng, người Tày thường gọi đó

là (lòi bả), có nghĩa là ngũ lôi điên.

Đặc biệt hơn là cúng phi bân, phi phạ (ma mường trời). Khi làm lễ này

trước tiên thầy cúng cùng gia chủ và người phụ việc cho thầy cúng thống nhất

cách thức làm, những thứ cần chuẩn bị, khi đã đủ thì thầy cúng cùng gia chủ đi

vào khe suối vắng không người qua lại thì làm lễ. Trong suốt thời gian làm lễ

tuyệt đối người ngoài không được nói năng gì, mà chỉ ra hiệu cho nhau khi có

việc gì. Toàn bộ đồ lễ vật trừ phần cho thầy cúng còn lại là sử dụng ăn hết tại

43

chỗ, nêu không ăn hết thì cũng bỏ lại không được lấy về, và cho đến khi ra khỏi

vùng là lễ cúng thì mọi người mới được nói chuyện.

Cách diễn xướng của cúng giải hạn bằng Nôm Tày

Giải hạn bằng Nôm Tày tất nhiên là nói bằng tiếng Tày, nhưng giai điệu

nói theo kiểu Tày cổ (Tày bốc), gần giống giọng của người Tày Bảo Lạc- Cao

Bằng và Tày ở Hà Giang. Nôm Tày có xen lẫn một số đoạn nói bằng tiếng Quan

hỏa.

Trong cuộc sống ngày nay, người Tày ở Pác Nặm chủ yếu là sử dụng ngôn

ngữ (Tày nặm). Tày nặm nói ít giọng hơn Tày bốc và là ngôn ngữ chủ đạo nên

hiên nay một số giai điệu của các bài cúng đã được thể hiện bằng tiếng Tày nặm,

gần giống với thể văn xuôi.

Nhưng để lới cúng đi vào lòng người và có sức truyền cảm hơn thì lời cổ

vẫn tạo được sự cuốn hút và mê hoặc. Người Tày có câu:

“Lượn van sle Tày slo

Mo van sle Tày bốc”

Có nghĩa: “Lượn hay nhất Tày chợ slo

Mo hay nhất Tày cổ”

Khi vào lễ cúng giải hạn, việc đầu tiên của thầy cúng là sỉnh slay, mời tổ

sư, sự phụ xuống ngồi nhập đàn để giúp cho thầy làm tốt công việc cho gia chủ.

Việc thứ hai là sỉnh Nam Tào, Bắc Đẩu, sỉnh tinh chủ (nếu là giải hạn tinh chủ).

Sỉnh những sao tốt, sấu ứng với từng người trong năm đó. Việc thứ ba là sỉnh

mao làng (mão nhân lang), người nhận thay gia chủ gánh vác những tai ương,

kiếp nạn xấu, và không thể quên là sỉnh bàn thờ tổ tiên của gia chủ đến chứng

kiến và giúp đỡ cho công việc giải hạn được trọn vẹn và thành công.

Khi sỉnh tất cả những bước trên, thầy cúng thường cầm một cọng cỏ tranh,

nhẩm quyết và đếm quyết trên đầu ngón tay, sau đó đặt cọng cỏ tranh xuống

mâm tương ứng với lời sỉnh của thầy mời những vị thần thánh đó ngồi.

44

Những đạo cụ, trang phục trong nghi lễ giải hạn bằng chữ Nôm Tày ở Pác

Nặm

Về đạo cụ của thầy Mo trên Pác Nặm gồm có: ấn, là con dấu vuông được

khắc bằng đồng hoặc bằng gỗ, thể hiện cho người Tày có cấp, có sắc, có chức vụ

trong cõi tâm linh. Lệnh, làm bằng gỗ là công cụ thừa lệnh Ngọc Hoàng Thượng

Đế ra lệnh hoặc ban phát những chữ phù phép cho gia chủ cũng như tà ma, quỷ

quái… Sỉnh chảo (quẻ âm dương), là hai mảnh tre hoặc gỗ được bổ làm đôi, dùng

để chứng giám cho những sự việc, những lời cầu xin có đúng như ý nguyện hay

không. Chuông mo hoặc quả nhạc, là quả chuông, được đánh hoặc sung theo

nhịp mo của thầy ở những thời điểm dứt câu hoặc kết thúc công đoạn nào đó.

Ngoài ra còn có bút lông nghiên mực, kéo cắt… để phục vụ cho công việc chuẩn

bị ban đầu.

Trang phục gồm có: mảo pài (là cái mũ mo), cái mũ này thể hiện người có

hàm phẩm thấp nên mũ cũng khác với mũ của thầy Tào. Mũ có hình tròn đội trên

đầu và có dây thít lại, bên trên mũ có 2 mảnh chụp lên trên, đằng trước thêu chữ

nhật (mặt trời), đằng sau thêu chữ nguyệt (mặt trăng). Áo mo thường là áo vải

chàm đen, quần vải chàm đen.

Ngoài ra còn có một số vận dụng khác như: thông mo (túi đựng đồ của

thầy mo, thầy cúng); ô đen dùng để che mưa, che nắng và che chở cho bản mệnh

của thầy đề phòng những người khác có phép thuật làm hại mình.

2.4.5. Nội dung của văn bản Mo giải hạn bằng chữ Nôm Tày ở Pác Nặm

Trong lễ giải hạn cũng tùy thuộc vào công việc, mục đích, yêu cầu của gia

chủ mà thầy cúng chuẩn bị những văn bản, nội dung phù hợp, nên nội dung văn

bản là rất rộng lớn. Ở đề tài này tôi chỉ đề cập, khảo sát một nội dung, văn bản là

chải Tinh kỷ (dâng sao giải hạn).

Cũng giống như giải hạn bằng Then, người Tày ở Pác Nặm có nhiều gia

đình tìm đến thầy Mo, Tào… để chọn ngày lành, tháng tốt để làm lễ giải hạn đầu

năm. Người Tày có quan niệm thành phần quan trọng nhất là người thầy cúng,

45

họ được cộng đồng tin tưởng là có thể giao tiếp được với giới tâm linh, có thể

dâng lễ lên các thần, thánh để các thần thánh sau khi đã nhận lễ sẽ xóa đi những

hạn khắc, tai nạn, rủi ro, sẽ dịch chuyển những ngôi sao xấu (hung tinh) đang

chiếm vào bản mệnh của gia chủ, và cầu xin thánh thần ban phát cho gia chủ

những điều tốt đẹp, như: sức khỏe, tiền tài, gia đình hòa thuận…

Để chuẩn bị cho nghi lễ giải Tinh kỷ, gia chủ phải chuẩn bị thịt 4 con gà

luộc, trong đó phải có 1 con gà trống để lên bàn thờ tổ tiên, 1 con đặt trong lầu

kỷ (mái nhà làm bằng cọng lá chuối), nơi tượng trưng cho nơi mường trời ở.

Hình 2.1: Lầu kỷ tượng trưng cho mường trời

Còn một con đặt mâm Thổ Địa. Họ quan niệm, mỗi địa phương đều có

Thổ Địa quản lý từng khu vực của mình, nên làm giải ở địa phương nào thì mời

Thổ Địa ở địa phương đó đến giúp công việc của gia chủ.

46

Còn một con gà luộc đặt xuống mâm mão làng. Theo quan niệm, mão làng

chuyên nhận chuyển thuê bất kể thứ gì, và ở đây thầy cúng và gia chủ mời mão

làng đến để chuyển những tai ách, hung họa, điều xấu ra biển cả.

Hình 2.2: Hình nộm mão làng

Nếu gia chủ mà giải hạn vào đúng năm tuổi đẻ, ví dụ như, đẻ năm Ngọ

mà giải hạn vào những năm Ngọ, thì còn phải chuẩn bị thêm 1 cái bồ đựng

gạo (khẩu mỉnh) và lấy cọng lá chuối về làm tượng trưng cho cái đập và lấy

bánh dày to bằng cái đĩa về đặt ốp vào (đắp đập), số lượng bánh dày càng

nhiều càng tốt.

47

Hình 2.3: Giải hạn thêm lương thực cho bài mệnh, cho người được giải hạn

Nó mang ý nghĩa là đắp đập, che chắn cho bồ gạo luôn được đầy đặn và

không bị tiêu tốn, mất mát để rồi gia chủ luôn được mạnh khỏe, ấm no và hạnh

phúc.

Ngoài ra trong nghi lễ thì gia chủ phải đào một cây chuối con, một gốc tre

để đi trồng, trên cây tre còn đan những cái rỏ nhỏ, bên trong có lót giấy và rắc

mấy hạt gạo, những cái rỏ đó gọi là rọ hồn. Những người tuổi 49; 61; 73 còn phải

làm thêm cầu để nối số cho thượng thọ và được chia chia ra làm 3 loại cầu, loại

nhỏ nhất là dài khoảng 30-40 cm và cầu này sau khi làm lễ giải hạn và cầu may

xong thì được đưa lên buộc trên cửa ra vào cầu đó, được gọi là (cầu khoen), nghĩa

là cầu treo.

Loại cầu thứ 2 dài khoảng 12-15 cm, được thầy cúng viết chữ xuống mặt

cầu “trường sinh bảo mệnh - bát quái hộ thân”. Cầu này được đem đóng xuống

nơi đất rộng có người qua lại, gọi là (cầu đin), cầu đất. Với loại cầu này thầy

cúng sẽ sắp mâm cúng lễ vật ra tạ Thổ Công, Thổ Địa, sau đó cầu xin địa phủ

48

Chưởng Bạ, người giữ sổ sinh tử để thân chủ được sống lâu dài. Sau khi đã xin

được thì mới cho thân chủ bước qua cầu về nhà.

Loại cầu thứ 3 là (thiêng kiều), nghĩa là cầu có mái che. Loại này cầu kì

hơn, được làm ở tuổi 73 và 85, nếu 73 thì làm nhà cầu 4 cột, còn 85 tuổi thì làm

nhà 8 cột. Vì vậy nhìn vào thức bên ngoài thì họ hiểu là gia chủ này đã làm lễ

tuổi đẻ ở độ tuổi cao hay thấp.

Trên nóc thương lương của cây cầu này có 1 con cá hoặc rồng làm bằng gỗ,

trên con cá được viết 2 mặt, một mặt viết địa chỉ, họ tên, ngày tháng, năm sinh của

người có tuổi đẻ đó, còn mặt kia tên của 28 vì sao tinh tú. Con cá được đặt lên với

hướng đi vào nhà, với cầu này nếu gia chủ đã cao niên thì sẽ được con cháu cõng

qua cầu và về nhà, lúc đó con cháu trong gia chủ thể hiện sự hiếu thảo, mang ơn

ông bà, cha mẹ sinh thành bằng những lời chúc sống lâu, lời chúc đó được thể hiện

qua những câu lượn chúc thọ và có quà tặng cho ông bà, cha mẹ bằng những lễ vật

như áo, khăn, tiền,… sau đó bón cơm, thức ăn và một chút rượu chúc tụng ông bà,

cha mẹ. Cuối cùng là vái lạy sống 4 lần ông bà, cha mẹ.

Hình 2.4: Con cháu tạ lễ công ơn sinh thành của ông bà, cha mẹ

49

“Slổng slép chảo mạy vác

Slổng pác chủa mạy thông

Slổng bằng ông Bành tổ”

Dịch nghĩa: “Sông như mười khúc cây (ngọc am)

Sống như một trăm khúc(cây thông)

Sống như ông Bành tổ”…

Sau khi gia chủ đã chuẩn bị đầy đủ những lễ vật thì thầy cúng cùng người

phụ việc bắt đầu sắp đặt các loại mâm theo trình tự. trong nghi lễ gồm có 1 cái

mâm, 3 cái bát con đựng gạo, một mảnh vải đỏ hoặc giấy đỏ loát mâm, 5 cái

chén, một chén nước lã có ngọn thanh thảo bỏ vào. Sau khi đặt 3 bát gạo ngay

ngắn, người giúp việc sẽ đổ xuống trước 3 bát gạo và đặt tiền lễ rồi bắt đầu thắp

hương. Hương được thắp 5 que tương trưng cho ngũ hành kim, mộc, thủy, hỏa,

thổ. Trong đó bát giữa cắm 3 que và 2 bát còn lại mỗi bát một que.

Sau khi thắp hương xong mâm thầy thì mới sắp các mâm tiếp theo theo

hàng dọc cùng chiều với thầy ngồi, trên cùng là lầu kỷ, lầu kỷ được làm bằng 4

cọng lá chuối, làm cột và được xiên ngang bằng tre, chia làm 2 tầng. Tầng dưới

có 3 bát gạo, có đặt 1 quả trứng sống và cắm bài mệnh của cả nhà và một hình

người cắt bằng giấy màu đỏ cắm xuống bát gạo gọi là (pát khẩu khoăn), nghĩa là

(bát gạo hồn). Trên bát gạo hồn này còn được cắm 1 số cây nến nhỏ, tượng trưng

cho với số thành viên trong nhà, còn tầng trên một bát gạo khác được cắm bài vị

của các vị Nam Tào, Bắc Đẩu

50

Hình 2.5: Mâm cúng Nam Tào, Bắc Đẩu

Mâm tiếp theo là mâm Thổ Địa và gia tiên, mâm này được đặt kế tiếp lầu

kỷ, được lót lá chuối và đặt 2 bát gạo và 2 cái chén, 1 cây nến.

Trong nghi lễ, việc đầu tiên thầy cúng sỉnh các tổ sư của thầy xuống nhập

mâm với nét mặt nghiêm túc, thầy nhẩm và viết xuống mâm những chữ phép sau

đó niệm chú, trình bày nội dung công việc của gia chủ, thầy cúng mời tổ sư xuống

mâm giúp việc. Lúc này lời của thầy trầm bổng, theo khói hương cuồn cuộn dâng

lên, dường như lời khấn như được thăng hoa lên đến tận mây xanh, nghe vừa uy

nghi vừa huyền bí.

51

Hình 2.6: Lời cúng và niệm chú trong nghi lễ giải tinh kỷ

của thầy Hoàng Văn Phúc

“Ai hương khửn mừa cạ

Ai lạ khửn mừa thâng

Hương bấu cằm lăng lại

Páo thâng slay cò lọc

Páo thâng slay họ Hoàng”

Dịch nghĩa: “Khói hương lên truyền lời

Khói hướng đến bày tỏ

Hương chẳng lên nói chơi

Chẳng nói lời gì xấu

Báo đến thầy sư tổ

Báo đến thầy họ Hoàng”

52

Sau khi trình bày xong những nội dung công việc với sử tổ, thầy cúng lấy

quẻ âm dương làm cơ sở để chứng giám cho việc các sư tổ đã hạ giáng bằng cách

tung quẻ âm dương.

“Cốc mạy khỏi lồng mai

Pyai mạy hết chứng kiến

Kép khoẳm đẳm chỏ slay

Kép nay xay lồng pyọm”

Dịch nghĩa: “lấy gốc cây đánh dấu

Lấy ngọn cây xuống xem

Mảnh úp có tổ tiên

Mảnh ngửa liền xuống đủ”

Sau khi xin xấp, ngửa đã được thầy liên mời rượu,mời chè tổ sư:

“Liền mì lẩu tắc mà

Liền mì chè tắc khửn”

Dịch nghĩa: “Đã có rượu rót ra

Đã có trà dâng hiến”

Ba tuần rượu, chè đã rót xong thầy cúng cầu tổ sư phù hộ cho 2 bên là gia

chủ và thầy cúng. Công việc đã được suôn sẻ.

“Cụm hẩu slong bưởng đẩy khoái lạc

Slong phạc đẩy bình an”

Dịch nghĩa: “Phù hộ cho hai bên được khoái lạc

Hai họ được bình an”

Tiếp theo nghi lễ, thầy cúng mời đến lầu kỷ, mời các vị Nam Tào, Bắc

Đẩu, Cửu tinh, la hán… khi gọi nhẩm đến vị nào thì thầy bấm móng tay cái vào

cọng cỏ tranh và đặt xuống mâm. Sau khi sỉnh qua một lượt thầy cúng lại lấy quẻ

âm dương để chứng giám cho các vị đã xuống nhập môn.

Trong nghi lễ giải hạn của người Tày ở Pác Nặm thì phần lời cúng và phần

phù phép luôn đi liền nhau và có liện hệ chặt chẽ. Sau khi rót rượu các mâm thầy

53

cúng cầm lệnh vẽ trong không khí những chữ như: tai, ách, nạn, thương, đoản,

phá… Khi thầy hành lễ thì gia chủ và con cháu trong gia đình mỗi người đội

khăn, mũ chỉnh tề, cầm hương, nam thì đứng còn nữ thì ngồi, sau hồi chuông

cúng của thầy bắt đầu vang lên con cháu đồng loạt lạy vái 3 lạy và dâng hương

lên bàn thờ, mâm thầy. Mâm thầy cúng như dẫn dắt con cháu đi từ cõi xưa đến

hiện tại bằng những lời thơ năm chữ lôi vần, lôi điệu.

“Cón vô lập vô nguyên

Cón vô thiên vô tỉ

Bích lịch chảo thiên địa

Bàn cổ chỉ âm dương

Khổn độn chảo pù pá

La tỉ chảo lục cần ”

Dịch nghĩa: “Trước đây còn hỗn đôn

Còn lẫn lộn lung tung

Bích lịc phân trời đất

Bàn cổ chia âm dương

Khổn độn tạo đồi núi

La địa tạo ra người”

Lời cúng cho ta biết được những căn nguyên, nguồn gốc của những tai

ách, bệnh tật đến từ đâu và người xưa đã có những cách hóa giải và cho đến nay

gia đình ta cũng vậy.

Lời cúng có thể được thay đổi theo từng hoàn cảnh, từng nội dung công

việc mà không cần phải căn cứ theo sách vở. Những nội dung phải nói sát với

thực tiễn mà vẫn có điệu có vần. Để làm được như vậy thầy cúng phải có hiểu

biết và vốn thơ ca tương đối thì mới ứng khẩu thành thơ được.

Sau khi đã mời được các vị Nam Tào, Bắc Đẩu, Cửu Tinh… xuống hết thì

thầy cúng lấy tờ tiền âm phủ đốt thả xuống bát nước trong và vẽ phù chú lên bát

nước, sau đó người phụ việc mới được cầm bát nước đó đem xuống bếp đổ vào

nồi nước luộc gà và mới được tiến hành thịt gà.

54

Xuyên suốt buổi lễ là cả cuộc hành trình đi lên mường trời của cả đoàn,

gồm có tổ sư, thầy cúng, thổ địa, thổ công và binh mã của thầy cúng. Trải qua

quãng đường dài, qua bao nhiêu cửa ải, trên đường đi đến ải nào cũng phải đốt

tiền để qua thì mới đến được đích của giải hạn đó.

Nếu là chải tinh kỷ cửu tinh thì khi gánh đồ đến cửa ải cửu tinh là bầy đồ

vật ra và mời rượu chè và sau đó là gọi hồn người gia chủ về cho hết, sau đó là

che chở hồn phách bản mệnh, cả nhà gia chủ không để các sao sấu chiếu vào bản

mệnh.

“Tải ết hết puông đán lồng dà

Tải nhỉ au khả hải ma chiếu

Tải slam au mạy phấy lồng khen

Biển khẩu pác tua slưu

Biển khẩu đưa tua ngược

Biển khẩu pác tua luồng”

Dịch nghĩa: “Thứ nhất lấy trái núi xuống che

` Thứ hai lấy dòng sông ngăn lối

Thứ ba lấy bụi tre xuống cản

Biến vào miệng con hùm

Biến vào móng con mãng xà

Biến vào miệng con rồng”

Đoạn tiếp theo thầy cúng cắt sao sấu ra khỏi bản mệnh bằng cách cắt tượng

trưng bài vị màu vàng bên trên ghi họ tên cả nhà, bên dưới ghi các hạn, sao hung

tinh. Thầy đưa kéo cắt đôi bài vị màu vàng và giữ lại phần họ tên rồi cho vào

(thông khoăn), nghĩa là túi đựng áo của cả nhà, nửa còn lại thầy đặt xuống mâm

mão làng với ngụ ý là những những điều xấu sẽ để mão làng nhận chuyển giúp

cho.

Hoàn thành việc gọi hồn xong là đến khúc quay lại. Khi thực hiện nghi lễ

này với động tác thong dong đi qua từng cửa ải, đi đến đâu nộp tiền đến đấy, khi

quay xuống nhịp đi sẽ dồn dập, gấp gáp hơn.

55

“Tò khửn lầu án không

Tò lồng lầu án khái

Slip không sơn hết không lầu lải

Slip khái sơn hết khái lầu lồng”

Dịch nghĩa: “Khi lên mình đếm khúc

Lúc xuống mình vượt rào

Khúc dồn một khúc mình qua

Đoạn dồn một đoạn mình về”

Khi về đến dương gian lại tạ lễ Thổ Địa, tổ sư, thần nông, mão làng một

lần nữa là tiễn Thổ Địa, Thổ Công, thần nông về chốn cũ, và đưa túi áo cho

gia chủ. Lúc này con cháu nếu ai biết biết về chuyện Nôm Tày sẽ đứng ra nhận

túi áo từ tay thầy và nói: khoăn mà, mì mo đây slay lục pây thắp đẩy khoăn

mà, pây xa đẳm khoăn tẩu lẻ khoăn mà pảo slí…(hồn phách ơi hãy về, hôm

nay có thầy, thợ đi đón được hồn phách về nhập gia môn, về nhập nhập hồn

cả nhà đầy đủ…).

Sau khi ném nắm gạo vào mão làng thì người giúp việc bê nguyên cả mâm

mão làng ra khỏi nhà thì mới đốt tiền vàng, đốt hết những gì cháy được. Đến đây

mọi việc coi như đã xong, bát gạo cắm bài mệnh của cả nhà và quả trứng được

đặt lên góc bàn thờ tổ tiên, sau 3 ngày lấy quả trứng và bát gạo xuống cả nhà ăn,

còn tờ bài mệnh được đặt để ở góc bàn thờ, với ý niệm là cho tổ tiên luôn phù

hộ, che chở cho cả nhà được mạnh khỏe. Lúc này các mâm được thu dọn, chỉ để

lại mâm thầy cúng.

Theo quan niệm của người Tày ở Pác Nặm, thì lễ luôn đi với hội, xong

phần lễ là đến phần hội. Phần cúng đã xong gia chủ chủ dọn cơm ra mời anh em,

con cháu, họ hàng cùng ăn bữa cơm mừng sức khỏe cho gia chủ. Khi các mâm

đã đầy đủ người ngồi thì một người trong gia đình thay mặt cho cả nhà, tay cầm

khay có 4 chén rượu đứng dậy tuyên bố lý do và mời tất cả ăn uống vui vẻ với

gia đình. Khi đã ăn uống no, say người đại diện gia đình lại cầm khay 4 chén

rượu đứng dậy nói những lời yêu cầu thầy cúng thuật lại nội dung công việc của

56

ngày hôm nay, và không quên nhắc khéo thầy chúc tụng và ban phúc lộc cho gia

chủ, lúc này thầy cúng nhận lễ và mới có lời tóm tắt sự việc của ngày hôm nay

và điểm mẫu chốt là chúc phúc cho cả nhà gia chủ.

Hình 2.7: Thầy cúng Hoàng Văn Phúc ban phúc lộc cho cả gia chủ

“Ăn lại vít lồng thôm

Ăn khôm vít lồng tả

Ăn nhả vít lồng vằng

Chấp bấu hẩu lồng vậy

Khẩy bấu hẩu lồng thâng

Khẩy chấp quá tỉ đai

Chai nản quá tỉ táng

Hết lăng củng đẩy lỉ

Chỉ lăng củng hẩu pền

Thắp ngần chèn hẩu tấu

Khẩu nặm hẩu đẩy pền”

57

Dịch nghĩa: “Cái xấu vứt xuống ao

Cái đắng vứt xuống suối

Cái dối bỏ xuống vực

Đau ốm khống xuống trú

Bệnh tật không cho xuống

Đau ốm qua chỗ khác

Tại nạn đi chỗ khác

Làm gì cũng được lợi

Đụng đâu cũng được việc

Tìm bạc tiền cũng được

Thóc ngô cũng được mùa”

Với thời gian chúc tụng khoảng 15 đến 20 phút bằng những câu văn vần

chữ Nôm Tày, chau chuốt từng lời đã làm cho không khí thêm phần vui vẻ. Lúc

này con cháu sẽ cầm chén rượu đi cảm ơn từng bà con, anh em hàng xóm đã đến

giúp đỡ gia đình.

Kết thúc phần hội, người đại diện gia chủ tuyên bố lý do và được tung hô

(cáo xếnh) lần cuối. Khi thầy ra cửa về thì người trong nhà sẽ có trách nhiệm đưa

lễ vật về tận nhà thầy với phần lễ là: 1 con gà, 1 chai rượu, túm gạo và hoa quả,

bánh kẹo…Khi đến nhà thầy mọi lễ vật được đặt lên bàn thờ, thắp hương tạ lễ

lần nữa là nghi lễ giải đã hoàn tất.

Cũng giống trong tín ngưỡng giải hạn của người Tày, nét đặc trưng nhất

của người Dao Tiền trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên chính là thờ Bàn Hồ (tổ

tiên) và Bàn Vương (người có công lớn đối với người Dao). Trên mỗi bàn thờ

được đặt trang trọng ở gian giữa gồm một bát hương và một chén đựng nước.

Ông Bàn Hữu Ngọc, dân tộc Dao, Trưởng xóm thôn Nà Lẹng, xã Bộc Bố, huyện

Pác Nặm cho biết: Theo thế hệ trước truyền lại Bàn Hồ là một long khuyển, từ

trên trời giáng xuống trần, được Bình Vương yêu quý, nuôi trong cung vua. Một

lần, Bình Vương nhận được chiếu thư của Cao Vương, nên đã hội triều tìm cách

58

đánh Cao Vương. Bàn Hồ xin đi giết Cao Vương. Bình Vương hứa, nếu Bàn Hồ

giết được Cao Vương sẽ gả công chúa cho. Khi Bàn Hồ đến, Cao Vương cho là

điềm may và giữ lại bên mình để nuôi. Một lần, Cao Vương uống rượu say bị

Bàn Hồ cắn chết, rồi mang đầu về báo công với Bình Vương. Giữ lời hứa, Bình

Vương gả con gái cho Bàn Hồ. Vợ chồng Bàn Hồ sinh được 6 con gái, 6 con trai,

đều được Bình Vương ban sắc thành 12 họ, sinh sôi tạo ra những vùng cư trú

rộng khắp của người Dao Tiền.

Người Dao Tiền quan niệm, Bàn Vương ảnh hưởng rất lớn tới mỗi cá nhân

và gia đình, do đó, việc thờ cúng Bàn Vương giúp cho con cháu họ luôn tưởng nhớ

tới nguồn cội và có trách nhiệm trong việc lưu truyền truyền thống đó cho các thế

hệ về sau. Việc thờ cúng Bàn Vương phải chú trọng như thờ cúng tổ tiên mình làm

cho các thành viên trong cộng đồng tộc người này trở nên gắn bó với nhau hơn. Do

đó, việc thờ luôn được các gia đình người Dao Tiền.

Thờ cúng thổ thần của người Dao Tiền cũng gần giống như dân tộc

Tày, Nùng với các miếu được xây dựng ngay đầu xóm, đặt dưới gốc cây to. Miếu

thường xây dựng bằng cột gỗ lợp mái gianh rộng khoảng 1 - 2 m2. Nhưng lễ cúng

thổ thần hằng năm được người Dao Tiền tổ chức khá lớn vào dịp đầu xuân năm

mới. Mâm cúng nhất định phải có con lợn từ 30 kg trở lên, 2 con gà luộc, gói cơm

nếp, giấy bản đã cắt… Lễ cúng do nhân dân trong làng đóng góp, cầu mong con

người có sức khỏe, mùa màng tốt tươi, trâu, bò, lợn, gà.

Với quan niệm vạn vật đều có linh hồn, đồng bào Dao Tiền tin rằng trong

thế giới đang sống luôn có những vị thần, như: thần gió, thần mưa, thần coi sóc

lúa gạo và hoa màu, thần chăn nuôi. Vì thế, người Dao Tiền ở nhiều thôn trên

địa bàn huyện Pác Nặm, hiện vẫn duy trì tục cúng các vị thần nêu trên, trong đó

có lễ cúng thóc được tổ chức hằng năm vào ngày 15/8 âm lịch gần giống như lễ

mừng cơm mới của người Nùng nhưng lại có những nghi lễ riêng. Tại lễ cúng,

người Dao Tiền lấy một bó lúa nhỏ, các nông cụ sản xuất, hình người, mặt trời

được làm bằng giấy và đặt trước bàn thờ tổ tiên. Trong suốt ngày cúng, các thành

59

viên trong gia đình không ra khỏi nhà hoặc sang chơi nhà khác, vì sợ hồn lúa đi

theo và ở lại nhà đó, mùa màng sẽ thất bát.

Người Dao Tiền còn kiêng kỵ các ngày xấu trong năm, như: Ngày Kinh Trập

- kỵ sâu bọ; ngày Xuân Phân - kỵ gió; ngày Cốc Vũ - kỵ lũ; ngày Lập Hạ - hại sức

khỏe; ngày Tết Thanh minh… Những ngày kiêng kỵ này người Dao Tiền không đi

làm bất cứ việc gì ở ngoài đồng, chỉ ở nhà nghỉ ngơi, không nói to.

Mặc dù một số nghi lễ còn tốn kém, nặng về hủ tục nhưng tín ngưỡng của

dân tộc Dao Tiền nói chung mang những giá trị tích cực, đặc trưng và có nét văn

hóa độc đáo. Để góp phần giữ gìn, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa nói

chung, giá trị tín ngưỡng nói riêng của người Dao Tiền ở Pác Nặm, cần có sự

nghiên cứu để bảo tồn và phát huy phù hợp với đời sống văn hóa mới.

Cũng như nhiều dân tộc khác, đồng bào dân tộc Mông trên địa bàn huyện

Pác Nặm quan niệm vạn vật hữu linh, đa thần, họ cho rằng đó là một lực lượng

siêu nhiên, có mặt, ngự trị ở mọi lúc, mọi nơi. Vào những ngày đầu năm mới,

người Mông lại mời Thầy mo, người có uy tín trong cộng đồng đến giải hạn -

nối số cho toàn thể gia đình mình với mong muốn cầu chúc cho một năm mới

mạnh khỏe, an khang, làm ăn no đủ, mùa màng tốt tươi.

Để thực hiện nghi lễ “Giải hạn - nối số”, gia chủ sẽ đến nhờ thầy mo trong

bản chọn ngày lành tháng tốt. Sau đó, họ chuẩn bị đầy đủ lễ vật gồm: gà luộc,

gạo, rượu, thịt lợn đã được luộc chín cùng hoa quả, bánh kẹo, tiền vàng mã,

hương thắp. Đặc biệt là cây chuối non nối số với ý nghĩa tượng trưng cho sự

trường sinh.

Đến ngày lành, gia chủ mời họ hàng trong bản đến dự. Sáng sớm, thầy mo

đến làm lễ. Thầy mo mặc trang phục của đồng bào dân tộc Mông màu chàm, đầu

đội mũ nồi, mang theo: Sách chữ nho, chuông, bộ gieo quẻ âm dương, “cây phan”

được cắt tỉ mỉ bằng giấy và một số vật dụng khác.

Khi giờ tốt đến, thầy mo làm thủ tục xin quẻ âm dương, trời đất. Người

được nối số và giải hạn sẽ được đưa ra để làm lễ. Thầy mo xướng các bài trong

nghi lễ giải hạn và đi vòng quanh người được giải hạn 3 vòng cầu thần linh phù

60

hộ, bảo vệ che chở.nghi lễ giải hạn và đi vòng quanh người được giải hạn (3

vòng). Kết thúc buổi lễ, gia chủ sẽ mời họ hàng, dân bản cùng thưởng thức những

món ăn do chính gia đình mình chuẩn bị để cùng chung vui. Họ sẽ mang cây

chuối non đi trồng ở vườn để mong cho cây trái tốt tươi, số mệnh của người được

nối số sẽ bình an, mạnh khỏe.

Nghi lễ giải hạn - nối số phản ánh rõ nét phong tục tập quán, đời sống sinh

hoạt văn hóa của người Mông, đây là dịp củng cố mối quan hệ cộng đồng, với

ước mong tổ tiên, thần linh chứng giám phù hộ cho dân bản sức khỏe dồi dào,

những điều tốt đẹp, may mắn, bình an.

61

Tiêu kết chương 2

Có thể nói, người Tày ở Pác Nặm cho thấy một hệ thống quan niệm về thế

giới quan, nhân sinh quan của người Tày với niềm tin rằng xung quanh cuộc sống

của họ luôn có sự hiện diện của nhiều loại ma (phi), trong đó có loại ma lành

(phúc thần) và ma ác (hung thần). Những loại ma này có thể gây ra những ảnh

hưởng tiêu cực tới mỗi cá nhân, mỗi gia đình và thậm chí cả cộng đồng làng bản.

Để giải trừ những hiểm họa do các loại ma ác gây ra cho con người về sức khỏe,

kinh tế… là một số cá nhân có khả năng tìm ra ma (thầy Mo, Tào, Then…) và

một số cá nhân có khả năng thực hành các nghi lễ để trừ ma, giải hạn (các thầy

Then, Mo). Họ là những người hành nghề cúng uy tín cao trong cuộc sống cộng

đồng người Tày ở địa bàn huyện Pác Nặm.

Quan trong hơn, nghi lễ tín ngưỡng giải hạn chỉ diễn ra khi có nhu cầu về

an ninh con người ở các góc độ sức khỏe và kinh tế của các cá nhân và gia đình

trong cộng đồng người Tày. Vì các thầy Then, Mo…thường làm các nghi lễ giải

hạn theo yêu cầu của các gia chủ. Tùy theo độ tuổi, giới tính, nguyên nhân phải

thực hành nghi lễ, các lễ vật và các bước tiến hành trong nghi lễ này có những

sự khác biệt. Tuy vậy, điểm chung nhất ở các nghi lễ giải hạn là dù thực hiện qua

nhiều trình tự khác nhau, hình thức khác nhau, mục tiêu cuối cùng là nhằm đem

lại cho con người một sự an ủi, động viên và cao hơn nữa là tâm lý (thể chất và

tinh thần) tốt về sức khỏe, vật chất, ở mỗi người.

62

Chương 3

GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT TÍN NGƯỠNG GIẢI HẠN QUA DÂN CA

NGHI LỄ DÂN TỘC TÀY HUYỆN PÁC NẶM, TỈNH BẮC KẠN

3.1. Nghi lễ giải hạn qua dân ca ở Pác Nặm và sự thể hiện những giá trị văn

hóa và cuộc sống của người Tày

Nghi lễ giải hạn của người Tày ở Pác Nặm đã thể hiện rõ nét những giá trị

văn hóa độc đáo của người Tày. Thứ nhất, nghi lễ giải hạn phản ánh thế giới tâm

linh của người Tày nói chung, người Tày huyện Pác Nặm tỉnh Bắc Kạn nói riêng.

Thế giới tâm linh của người Tày là thế giới đa thần. Tất cả các vị thần trong quan

niệm dân gian đều được hình tượng hóa như những nhân vật có thật. Ngoài tổ

tiên, tổ sư là những con người đang tồn tại và đã khuất, các vị thần trong nghi lễ

giải hạn của người Tày đều có dáng vẻ riêng biệt như Phật Quan Âm, Thổ Công,

Nam Tào, Bắc Đẩu… Qua nhãn quan của các thầy cúng, các gia đình thực hiện

nghi lễ giải hạn, vũ trụ quan của họ hiện lên thật rõ ràng và cụ thể với ba tầng

chính đó là: cõi trời, cõi đất và cõi nhân gian.

Với vai trò là người liên hệ với thần linh, các thầy Then, Tào, Mo,… đã

đi lại dễ dàng từ cõi này đến cõi khác khi họ thực hành các nghi lễ giải hạn. Cõi

trời (hay thiên đường thượng đế - mướng phạ) được hiện lên trong tâm thức của

người Tày là một hình ảnh lý tưởng của cõi nhân gian. Ngoài cung phủ tráng

lệ, nguy nga thì mướng phạ này hiện lên rất bình dị, rất đời thường với rừng

núi, biển cả, ruộng vườn, chim muông… Thế giới ba tầng và thế giới đa thần

trong cuộc sống tâm linh của người Tày phản ánh sự giao thoa, hội nhập giữa

yếu tố tín ngưỡng bản địa với các tín ngưỡng du nhập (Tam giáo, đặc biệt là

Đạo giáo).

Nghi lễ giải hạn ở Pác Nặm còn là sự cụ thể hóa quan niệm vật linh giáo

trong tín ngưỡng dân gian bản địa của người Tày. Quả trứng, chim én đã trở

thành biểu tượng nghề nghiệp của thầy Then. Sứ mệnh con người được hình dung

như một cây cầu (cầu vía), muốn khỏe mạnh dài lâu thì phải chú ý sửa sang, tu

63

chỉnh cho cây cầu được chắn chắn, bền lâu. Tuổi thọ và sức khỏe của những

người cao tuổi được gắn với bịch lúa gạo, tượng trưng cho sức sống dồi dào và

nguồn cung đầy đủ, no ấm của họ.

Thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng quan trọng nhất của người Tày được

thể hiện rõ nét trong cac nghi lễ giải hạn. Giống như người Tày ở các địa phương

khác, người Tày ở Pác Nặm cũng chủ yếu thờ tổ tiên 3 đời và mỗi khi cầu cúng,

họ chỉ xướng tên bố mẹ, ông bà và cụ, còn từ đời thứ tư trở về trước thì được gộp

vào tổ tiên chung. Với mỗi người vừa mới mất, họ lập bàn thờ, bàn vị thờ riêng

một chỗ, đến khi nào mãn tang mới dỡ bỏ. Theo quan niệm của người Tày ở Pác

Nặm, tổ tiên là một loại ma lành, thường hiện về phù hộ, giúp đỡ, che chở cho

con cháu. Tuy nhiên, không chu cấp đầy đủ, để ma thiếu thốn ăn uống, đồ dung

sinh hoạt thì ma lành sẽ về quấy nhiễu. Hay ai đó làm điều gì không tốt, không

hay, không phải, làm ma phật ý thì mà lành cũng có thể gây tai họa, mang đến

cho con cháu, gia đình những điều không may.

Vì thế, việc thờ cúng tổ tiên được người Tày hết sức coi trọng. Cũng giống

như người Kinh, bàn thờ tổ tiên của người Tày là chốn tôn nghiêm nhất trong

mỗi ngôi nhà của mình. Những người phụ nữ đang trong thời kỳ có kinh nguyệt,

mang thai, vừa mới sinh nở đều không được đến gần bàn thờ tổ tiên, vì quan

niệm phụ nỡ ở giai đoạn này là ô uế nhất.

Với tầm quan trọng đó, khi thực hành bất cứ nghi lễ cúng nào trong gia

đình của người Tày, thắp hương thờ cúng tổ tiên là bước quan trọng đầu tiên và

không thể bỏ qua. Trong nghi lễ giải hạn cũng tương tự, hai bước quan trọng đầu

tiên là lễ xôi hương và lễ an đẳm (nghị lễ giải hạn bằng Then và Mo), với mục

đích là xin phép tổ tiên được thắp hương thực hành nghi lễ, báo cáo với ma tổ

của cả dòng họ lý do thực hành nghi lễ và nhờ sự trợ giúp của ma tổ để nghi lễ

giải hạn được hoàn thành trọn vẹn.

Trong nghi lễ giải hạn bằng Then và thầy Mo, thì việc thờ tổ sư trong gia

đình những thầy Then và thầy Mo cũng là một biểu hiện của thờ cúng tổ tiên của

64

người Tày. Bản thân những ông Then và ông Mo được truyền nghề theo gia tộc.

Tính gia tộc ở đây được thể hiện theo hai khía cạch: thứ nhất là gia tộc tổ tiên

của bản thân thầy Then và thầy Mo; thứ hai là gia tộc của ngành thầy cúng mà ở

đó thầy Then và thầy Mo là một thành viên có ngôi thứ và địa vị nhất định trong

mối tương quan với các thành viên khác. Một gia đình thầy Then và thầy Mo có

đủ thầy cha hoặc thầy mẹ (người truyền nghề, dạy nghề cho họ) và có các thứ

bậc anh chị em nhất định. Vì thế điểm giống nhau với thờ cúng tổ tiên là họ cũng

phải thờ người thầy của mình khi những người này quá cố, nên gọi là thờ tổ sư.

Tuy nhiên, điểm khác với thờ cúng tổ tiên trong gia đình người Tày là những

người làm Then và thầy Mo có thể có nhiều hơn một thầy cha hay thầy mẹ, vì

thế trong trường hợp người thầy của họ mất đi, bắt buộc những thầy Then và thầy

Mo phải mời một người khác thay thế để thực hành nghi lễ cấp sắc, nâng sắc cho

họ.

Thờ cúng tổ sư là đối tượng chủ yếu và quan trọng bậc nhất đối với những

người hành nghề Then, hoặc các thầy Tào, thầy Mo…trên Pác Nặm. Trong quan

niệm của các thầy cúng trên Pác Nặm, tổ sư bao gồm những vị tiền bối có hành

nghề của gia đình qua các thế hệ và những thầy cha hay thầy mẹ trực tiếp làm lễ

cấp sắc, nâng sắc cho họ. Và vì thế, thờ tổ sư cũng là một hình thức thờ cúng tổ

tiên. Điều này thể hiện ở chỗ mỗi người hành nghề thầy phải nhớ đầy đủ danh

sách tổ tiên hành nghề của gia đình mình và người thầy của mình để thờ phụng

tại nhà cũng như khi đi hành lễ tại các gia đình trên địa bàn hoặc bất kỳ nơi đâu.

Như vậy, nghi lễ giải hạn qua dân ca của người Tày ở Pác Nặm, thể hiện

sinh động thế giới tâm linh của dân tộc mình. Vì thế, những người hành nghề

thầy cúng nói chung luôn có uy tín cao trong đời sống cộng đồng. Vai trò của

tầng lớp này trong đời sống tâm linh, tín ngưỡng của người Tày được hầu hết các

nhà nghiên cứu về văn hóa dân gian Tày khẳng định:

Tác giả Lã Văn Lô và Hà Văn Thư, trong cuốn Văn hóa Tày Nùng (1984)

đã khẳng định: “Tầng lớp Tào, Mo, Then, Pụt tức là những người hành nghề cúng

bái, phần lớn là nông dân lao động, có người thuộc giai cấp bọc lột, ít nhiều có

65

ảnh hưởng trong dân gian. Họ là những cố vấn không thể thiếu được trong việc

ma chay, cúng bái, cưới xin… là những việc quan trọng nhất trong đời sống xã

hội trước đây”.

Tác giả Hà Đình Thành trong cuốn Văn hóa Tày Nùng ở Việt Nam (2010)

cũng có những nhật định như trên: “Đối với người Tày, tín ngưỡng, phong tục

và lễ hội là lĩnh vực quan trọng của đời sống văn hóa tâm linh. Nó có vai trò chi

phối đến tâm tư, tình cảm, hành vi của con người trong xã hội. Tín ngưỡng tôn

giáo của người Tày là tín ngưỡng dân gian xây dựng trên quan niệm linh hồn và

vạn vật hữu linh. Người sống thì có “khoẳn” (hồn), chết thì thành “phi”, với nhiều

loại phi khác nhau như phi phạ (ma trời), phi bản (thần bản), phi hươn (ma nhà),

phi sấn (ma núi)… Từ những quan niệm đó, người Tày hình thành nhiều tín

ngưỡng dân gian khác nhau. Trong phạm vi gia đình có thờ tổ tiên, thờ bà mụ,

Phật Bà Quan Âm… Ngoài thôn bản thì thờ Thổ thần, một số thôn bản có thờ

Thành hoàng, thờ Pựt ở đèo có nhiều người qua lại. Đặc biệt trong thôn bản có

nhiều thầy cúng như Mo, Tào, Then, Pựt, là những người thực hành nghi lễ tín

ngưỡng chủ yếu, có vai trò lớn trong đời sống tín ngưỡng của nhân dân. Tín

ngưỡng của các thầy Mo, Tào, Then, Pựt vừa có cái riêng, lại vừa có nét chung,

khiến người ta rất khó phân biệt. Về bản chất, tín ngưỡng của các thầy Mo, Tào,

Then, Pựt là sự pha trộn giữa tín ngưỡng bản địa với những ảnh hưởng của Đạo

giáo, trong đó Đạo giáo được thể hiện đậm hơn ở các thầy Tào, còn chất dân gian

lại đậm hơn ở Then, Mo, Pựt”.

Trên địa bàn Pác Nặm, những người hành nghề cúng bái có một vị trí và

vai trò quan trọng trong đời sống của người Tày. Đối với người Tày những thầy

Then,Mo… là những người duy nhất có thể liên hệ với thế giới thần linh, đem

lại sự an tâm về tinh thần cho họ trong đời sống cũng như trong lao động.

Hơn nữa, nghi lễ tín ngưỡng giải hạn còn phản ánh đời sống xã hội của

người Tày nói chung, người Tày ở Pác Nặm nói riêng. Ra đời trong lòng dân

gian, tồn tại và phát triển lâu dài trong đời sống xã hội của người Tày ở Pác Nặm

66

một cách chân thực. Nói cách khác nó là một phần của cuộc sống thực cộng đồng

người Tày.

Như một minh chứng cho nhận định trên. Trong lời cúng Then và Mo giải

hạn (chương 2 - đã dẫn) cho thấy rõ ý nghĩa này. Lời khắp cúng chuộc vía và

giải hạn tinh kỷ cho thấy những khung cảnh rất quen thuộc, phản ánh môi trường

sống tư nhiên của cộng đồng người Tày. Đó là hình ảnh bản làng miền núi với

những dãy núi, đèo cao, với những cây đa, hốc đá… Hành trình đi chuộc vía về

chẳng khác gì chặng đường cụ thể ở dân gian, đi từ đầu bản tới những vùng đất

xa xôi hơn theo trình tự nhất định. Ta có thể nhận ra những địa danh đã đi vào

tầm thức của người dân.

Môi trường sống của người Tày còn được thể hiện đậm nét ở những lễ vật,

đồ cúng được sử dụng trong các nghi lễ tín ngưỡng giải hạn. Những lễ vật này là

những sản vật mà cộng đồng người Tày tự nuôi trồng ở nhà hay những thứ dễ

dàng kiếm được trên địa bàn của họ. Ví dụ như nhà xung được làm từ những bộ

phận của cây chuối, cây nứa, những cây trồng dễ dàng tìm được trong bất cứ gia

đình người Tày nào. Tất cả những lễ vật trong nghi lễ tín ngưỡng giải hạn còn

phản ánh đời sống kinh tế của người dân, đó là phương thức mưu sinh chủ yếu

từ nông nghiệp và lâm nghiệp, rất gần ngũi và quen thuộc.

Nghi lễ tín ngưỡng giải hạn còn thể hiện những nét đẹp trong truyền thống

văn hóa của người Tày nói chung, người Tày ở Pác Nặm nói riêng. Đó là tinh

thần cộng đồng, sự đoàn kết tương trợ giữa các thành viên trong gia đình, dòng

họ và rộng hơn là làng bản. Để thực hành một nghi lễ giải hạn, gia đình hành lễ

phải nhờ đến sự trợ giúp về công sức của rất nhiều người không chỉ trong gia

đình, dòng họ mà cả bản làng, người thân, có thể là bạn bè trong quá trình hành

lễ.

Bên cạnh tính công đồng, nghi lễ giải hạn còn thể hiện truyền thống kính

già yêu trẻ, tuân theo tôn ti trật tự nhất định và kiểu mẫu gia đình phụ quyền ở

67

Pác Nặm. Truyền thống này được thể hiện ở cách sắp xếp mâm cỗ khi nghi lễ đã

thành công. Sự sắp xếp mâm cỗ tùy theo địa vị xã hội, giới tính và độ tuổi.

Sự sắp xếp này tuân theo quy tắc thầy cúng ngồi ở vị trí đầu tiên, ở không

gian hành lễ chính, sau đó sắp xếp theo địa vị xã hội và vai vế trong dòng tộc,

sắp xếp theo độ tuổi. Sự sắp xếp mâm cỗ này một mặt thể hiện uy tín cũng như

tầm quan trọng của những người hành lễ, thể hiện truyền thống kính trọng người

già của người Tày, mặt khác cũng thể hiện rất rõ nét kiểu mẫu gia đình của người

Tày ở Pác Nặm, Bắc Kạn.

3.2. Giá trị nghệ thuật tín ngưỡng giải hạn qua dân ca nghi lễ Tày ở Pác Nặm -

Bắc Kạn

3.2.1. Các thể hát dân ca nghi lễ

* Hát Then cổ:

Trong quá trình khảo sát, các thể hát dân ca nghi lễ ở Pác Nặm tập trung

vào 3 thể: hát Then, Mo, Pụt. Dân ca nghi lễ chỉ hát trong quá trình cầu cúng với

các bước trình tự. Hầu hết dân ca nghi lễ sử dụng thơ Nôm Tày, nhiều bản Nôm

Tày hiện nay đang được lưu giữ, bảo quản trong các gia đình làm Then, Tào, Pụt,

Mo. Dưới đây là số liệu khảo sát tổng hợp của nhóm đề tài:

Bảng 3.1: Bảng tổng hợp người am hiểu hát dân ca nghi lễ Tày Pác Nặm

Các xã trong địa bàn huyện

Các

TT

Tổng

Bộc

An

Xuân

Bằng

Nhan

Giáo

Công

Nhạn

Cao

thể hát

Bố

Thắng

La

Thành

Môn

Hiệu

Bằng

Môn

Tân

1 Then

2

0

2

2

2

3

2

3

3

19

2

Pụt

1

1

0

0

0

1

0

0

0

03

3 Mo

2

0

1

0

0

0

2

0

0

05

Nguồn: tổng hợp số liệu điền dã của tác giả năm 2018

Trong giai đoạn hiện nay, quá trình đô thị hóa đang diễn ra nhanh chóng,

huyện Pác Nặm cũng không ra ngoài quy luật đó. Đây là một trong những tác

nhân làm mất đi môi trường, không gian văn hóa đặc hữu của nhiều thể hát của

người Tày, trong đó nhiều lối hát nghi lễ đặc sắc cũng chịu ảnh hưởng, điển hình

68

là hát Then. Sự phân hóa hát Then ở huyện Pác Nặm thành 2 dạng biệt lập: Then

cổ và Then mới, đồng bào Tày vẫn gọi là Then cổ và Then văn nghệ. Xuất phát

từ yêu cầu xây dựng đời sống văn hóa, một bộ phận hát Then từ hình thức nghi

lễ đã nhanh chóng hòa nhập vào đời sống xã hội hiện đại. Trong khi đó, hát Pụt

và Tào, Mo vẫn giữ nguyên lối hát nghi lễ như trước, ít biến đổi. Điều này lý giải

tại sao khi tiến hành khảo sát đề tài ghi lại những thông số tích cực của lối hát

Then với nhiều nghệ nhân biết hát chiếm số lượng lớn nhất trong các thể hát dân

ca Tày.

Trong quá trinh khảo sát trên địa bàn huyện Pác Nặm thực hiện trong năm

2017-2018, đề tài nhận được rất nhiều ý kiến, quan điểm của đồng bào về loại

hình hát Then. Nhìn tổng quan, sự phát triển của hát Then ra ngoài nghi lễ và hòa

nhập nhanh chóng trong xã hội hiện nay cho thấy đồng bào Tày rất thích nghe

hát Then, nhiều làn điệu đã trở nên quen thuộc và rất nổi tiếng toàn tỉnh. Đồng

thời chứng minh khả năng linh hoạt, đa dạng của hát Then khi hòa nhập tốt vào

cộng đồng và đã hình thành nhanh chóng một lớp trẻ kế thừa lối hát Then. Điều

này rõ ràng, rất có ích cho kế hoạch phát triển, nâng cao hơn nữa nghệ thuật Then

truyền thống trong bối cảnh hiện nay.

Về Then cổ, ông Dương Văn Mu, ở thôn Bản Bòn, xã Cao Tân, huyện Pác

Nặm kể lại: ông đi hát then từ năm 15 tuổi, còn nhỏ đi hái hoa cho thầy then.

Trong gia đình đến ông là đời thứ 4, hiện nay chuyên đặt lời cho nhiều bài Then

thông thường gồm 7 chữ. Bằng kinh nghiệm ông Dương Văn Mu phân biệt sự

khác nhau của làn điệu then tại các vùng Tày là do tiết tấu, ví dụ Then Tuyên

Quang đàn tính đánh chủ yếu các nốt cao, then Cao Bằng đàn tính đánh ở phần

âm giữa, Then Lạng Sơn đàn tính có âm thấp, còn then Pác Nặm - Bắc Kạn có

tiết tấu phức tạp, kết hợp giữa tàng nặm và tàng bốc, then tàng nặm lấy nhiều hơi

khi hát. Còn ông Ma Văn Vịnh xã Cao Tân, huyện Pác Nặm biết hát Then từ năm

12 tuổi, 14 tuổi đã thành thục, ông là Thầy then đời thứ 8, thường đi làm then

chủ yếu là cầu an, cầu phúc, giải hạn, chữa bệnh. Theo ông Vịnh, một bài then

69

cổ gồm rất nhiều chương, nhiều đoạn. Ví dụ như đoạn Then giải hạn gồm 3

chương, 40 cửa có lời như sau:

(Trích đoạn chương 3, cửa 39 trong 40 cửa - Khoa giải sung cung giải hạn)

Cuốc shổ điểm binh mạ nhằng đông

Cai đông điếm binh quân nhằng đủ

Phân quân dú ngọn pé giải sung

Phân mạ dú ngọn sông giải hạn…

…Nhục tiếng tổng mạ la khửn khái

Khửn thâng tồng cà lương

Quá thâng mường cà vạt

Khảm quá tồng sích ca

Khảm quá nà vàng để

Tổng vàng để pàn phia

Tổng xích ca pàn đán

Khửn tạm cải mè sinh

Quá tạm ông mè để

Khảm thâng khái quan sung

Lọt thâng cung quan hạn…

…Đông Tây Nam lủng chỏi

Lọt thâng Bắc Đẩu lồng dào

Vua Nam Tào lồng giải

Khoái khoái oóc mà khái giải sung

Khoái khoái lồng mà thâng cung giải hạn…

…Hết lăng cụng lì, chi lăng cụng đảy

Đảy kin dú siên niên vạn đại.

Người làm nghề Then phân hát Then thanh 2 kiểu tàng bốc và tàng nặm,

cách chia nhằm chuẩn hóa hệ thống làn điệu trong Then. Nếu Then Cao Bằng

cung đoạn các cửa rõ ràng, đường Then đi theo lối thì ở Pác Nặm - Bắc Kạn các

70

cửa Then tùy theo yêu cầu của gia chủ và tính chất cuộc lễ, thầy Then chủ động

trình tự các bước nghi lễ, do đó Then Pác Nặm- Bắc Kạn gần với Pụt nhiều hơn.

Sau khi khảo sát, nhóm đề tài thống kê người hát Then cổ và Then mới

theo bảng dưới đây:

Bảng 3.2: Bảng thống kê số lượng người hát Then cổ, Then mới ở Pác Nặm

TT Huyện, thị xã

Then cổ Then mới

Ghi chú

1

Pác Nặm

12

7

Nhiều người biết hát Then cổ và

Then mới

Nguồn: Tổng hợp số liệu điền dã của tác giả năm 2018

Chỉ một số trong bảng thống kê là làm thầy Then từ nhỏ, còn lại chủ yếu

là những người am hiểu dân ca Tày nắm vững nghệ thuật hát Then cổ và Then

mới. Một số thầy Then cổ đã trao đổi với nhóm khảo sát đề tài về loại Then cầu

cúng và lối hát Then, điều này là cơ sở để phân loại hệ thống làn điệu Then, đồng

thời cho thấy hát Then ở Pác Nặm - Bắc Kạn đa dạng và phong phú về lối hát.

Mặt khác quá trình thẩm thấu âm nhạc dân gian trong khối Tày Việt Bắc cũng

ghi nhận nhiều làn điệu du nhập vào Pác Nặm - Bắc Kạn được nhiều người am

hiểu dân ca Tày Pác Nặm - Bắc Kạn kể lại. Điển hình như từ Lạng Sơn sang có

lượn Lạng, từ Cao Bằng xuống có hát Then, Mo và các điệu hát khác như Nàng

Ới của người Nùng. Điều này làm giàu thêm kho tàng âm nhạc dân gian Pác Nặm

- Bắc Kạn.

Trong nghi lễ then có nhiều hình thức, tên gọi khác nhau, điều này gây

khó khăn không ít khi phân loại và xác định tính chất âm nhạc. Bởi giai điệu

Then khi làm lễ thường chỉ sử dụng một vài làn điệu, các âm trục chính trong

giai điệu đều giống nhau, chỉ khác ở cách chơi của đàn Tính.

Trong dân ca nghi lễ, phổ biến hơn cả là hát Then. Sau đây là một số loại

Then do các thầy Then lâu năm, có uy tín trong nghề ở Pác Nặm - Bắc Kạn phân

biệt trong quá trình hành nghề:

71

- Then Bạo (Dương Văn Mu, 65 tuổi) - Thôn Bản Bòn, xã Cao Tân, huyện

Pác Nặm, cho rằng có 3 làn điệu Then:

+ Thượng thanh: Làn điệu cao.

+ Trung thanh: Làn điệu trung bình.

+ Hạ thanh: Làn điệu thấp.

Then Bạo chuyên làm then kỳ yên, giải hạn, cầu phúc, cầu lộc, cầu tài, nộp

bjoóc, nộp lẩu. Then giải hạn có trình tự sau:

Chiêu binh mã phải qua các cửa: Thổ công, Táo quân, Tổ tiên, Bà mụ,

Ngọc Hoàng.

Hồi quân về

Giải hạn cả nhà

Cúng cơm tổ tiên

Mỗi bước đều có lời ca, điệu Then và lối chơi nhạc riêng.

- Then Kim (Ông Ma Văn Vịnh, 47 tuổi) xã Cao Tân, huyện Pác Nặm

biết hát Then từ năm 12 tuổi, 14 tuổi đã thành thục, ông là Thầy then đời thứ 8

thường làm then cầu an, cầu phúc, cầu lộc, kỳ yên, giải hạn, cầu va, cầu bjoóc.

Then Kim cho rằng có hai loại Then: Then vui dùng trong lễ cấp sắc và then

buồn (Toỏng tàng - Phát đường), ngoài ra then dùng chữa bệnh cho những người

ốm và có vị trí quan trọng trong việc chấn an tinh thần.

Một buổi làm Then gồm các bước tiến hành:

Xôi hương sắp mạ

Giải vẻ (Quét nhà)

Biên lẹ (Điểm lễ)

Pắt phu (Bắt phu)

Cẩm ham háp (Cấm cướp hàng, làm thất thoát hàng)

Oóc tàng (Ra đường)

Cửa Thổ công (Thổ công, Thổ địa)

Tu đẳm (Cửa tổ tiên)

Cúng tổ tiên

Hòi mạ (Hồi binh mã)

Slống slay (Hồi cung)

72

Ngoài Then Bạo và Then Kim, trên địa bàn Pác Nặm còn có Then Lưu và

Then Thi cũng mang nhiều nét giống nhau như Then cầu an, cầu phúc, giải hạn,

chữa bệnh hay Then cầu an, páo phúc, mừng thọ, đầy tháng dương sao, giải hạn.

Then Thi làm then theo sách, kết hợp giữa Tàng bốc và Tàng nặm. Nhạc cụ làm

Then có đàn tính, sóc nhạc, lệnh bài, chuông, ấn, quạt.

Qua những minh chứng khảo sát trên, có thể thấy Then Pác Nặm- Bắc Kạn

sử dụng chủ yếu trong các nghi thức lễ cộng đồng và gia đình. Lẩu Then (cấp sắc)

ít tổ chức do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Thứ nhất, một thời gian

dài Then và hình thức diễn xướng bị quy đồng cùng hình thức mê tín, dị đoan.

Thứ hai, trong quá trình xây dựng nếp sống văn hóa nhiều nơi đã loại bỏ nghi thức

Then, do đó Then mất đi môi trường hành lễ và bị mai một dần. Những năm gần

đây, bằng chính sách văn hóa của Đảng và nhà nước ta đã khôi phục lại và nêu

cao vai trò bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc Việt Nam. Từ đó hát

Then được đánh giá và nhìn nhận theo xu hướng tích cực hơn. Như trên đã nêu,

Then bao gồm nhiều nhận thức khác nhau trong quan niệm của những người làm

nghề Then lâu năm ở Bắc Kạn về tổ chức lễ, hành lễ và hát Then. Dưới đây là

bảng tổng hợp do nhóm đề tài thực hiện qua các cuộc khảo sát thực tế.

Bảng 3.3: Bảng tổng hợp tên gọi và làn điệu Then Bắc Kạn

Loại Then

Ghi chú

TT

Cầu cúng Chữa bệnh

Cầu phúc

Duyên phận

1 Kỳ Yên

Giải hạn Cầu lộc, cầu tài

Hỉn én

Tên

2 Cầu bjoóc Diệt trùng Cầu an

Cầu mong

gọi

3 Cầu va

Páo phúc

Cáp khoăn

4 Tống tiễn

Đầy tháng dương sao

5 Cầu mùa

Chúc mừng

6 Cầu đảo

Ca ngợi

7 Tâu số

Slống bióc

Nguồn: tổng hợp số liệu điền dã của tác giả năm 2018

73

Quan niệm của người Tày cho rằng người làm nghề then phải biết làm các

loại lễ cúng. Lễ cầu mong được yên lành, hạnh phúc, sống lâu thường làm vào

mùa xuân, gồm những lễ sau:

- Then kỳ yên, giải hạn và cầu thọ: dành cho những người đến tuổi 61, 73,

83.

- Then tâu số (nối số): làm lễ cho những người bị đoán số là mệnh đoản

(chết sớm).

- Then cầu bjóoc: làm lễ cầu tự, cầu hoa cho gia đình nào hiếm muộn.

- Then cáp khoăn (cáp tơ hồng): lễ hợp hôn trong đám cưới, người Tày

quan niệm tổ tiên của cô dâu chú rể là hai phi - ma thuộc hai họ khác nhau nên

phải hợp vía, để sau này vợ chồng sinh sống làm ăn hoà thuận hạnh phúc.

- Then cúng chữa bệnh gọi là then chỏi khẩy. Người ốm là bị mất vía, phải

sắm lễ làm roọng khoăn - gọi hồn gọi vía về. Nếu vía bị thần linh, âm binh giam

giữ tại ngục tù nào đấy then sẽ làm lễ phá ngục để cứu thoát vía.

- Cúng bói duyên - người Tày gọi là hỉn én - chơi én. Trai gái Tày mời

then tới làm lễ bói duyên phận. Khi then lễ, duyên phận từng người tượng trưng

bằng hình tượng con én, chim én bay đi đậu vào cành cây nào đó thì mỗi loại cây

lại biểu tượng cho số phận may rủi khác nhau được then kể ra bằng lời ca và

tiếng đàn tính.

- Then phiác: lễ cúng tống tiễn hoặc then slống bíoc: then chia ly hoặc gọi

là then tiễn hoa tàn dùng đưa tiễn trẻ em chẳng may qua đời sớm.

- Lễ cúng cầu mùa, cầu đảo, diệt trùng: thường do yêu cầu của xóm bản,

ông then tới làm lễ tại địa điểm thường là miếu thần hoặc nơi thờ thổ công.

- Then vui là lễ vui mừng, ca ngợi diễn vào những dịp gia đình có tin mừng

như: đám cưới, vào nhà mới, sinh con đầu lòng; đây là loại then kỳ yên tổ chức vào

đầu tháng giêng, tính chất hội họp họ hàng, hàng xóm đến cùng vui xuân.

- Lễ cầu xin cấp sắc cho ông bà then; tiếng Tày gọi là lẩu pút được tổ chức

xin ngọc hoàng cấp sắc cho then thăng chức.

74

Những bài then hát trong các dịp cúng lễ kể trên diễn ra theo một trình tự

chuẩn bị từ trước. Tuỳ theo vùng, địa phương có biến đổi khác nhau một chút,

nhưng nội dung chỉ là cuộc hành trình của ông (bà) then từ nơi trần gian (hạ giới)

cùng với âm binh và đoàn phục dịch lên tiên giới giao tiếp với thần linh. Tới

cung của long vương thuỷ tề, đến cung ngọc hoàng thượng đế xin một sự phù hộ

nào đó. Hành trình này gọi là tàng then nghĩa là đường then đi.

Hát Then mới:

Nếu Then cổ gắn bó chặt chẽ với nhiều lễ thức do những người hành nghề

Then lâu năm diễn xướng, thì Then mới là tiếp biến văn hóa từ môi trường nghi

lễ ra ngoài đời sống sinh hoạt của người dân. Tại Bắc Kạn, Then mới còn gọi là

Then văn nghệ, xuất phát từ yêu cầu phổ biến hơn nữa lối hát Then. Then mới

thường xuyên xuất hiện trên sân khấu chuyên nghiệp (trong chương trình biểu

diễn của Đoàn nghệ thuật Dân tộc tỉnh Bắc Kạn) và không chuyên (hội diễn văn

nghệ quần chúng, các đội thông tin tuyên truyền của huyện…). Tính đặc sắc của

Then mới ở chỗ người nghe cảm nhận được sự truyền cảm, ước vọng của mọi

người thông qua giai điệu mượt mà, say đắm. Mặt khác nếu các làn điệu lượn hát

không có nhạc đệm (gần đây có thêm sáo phụ họa) thì hát Then với 2 nhạc cụ

độc đáo: đàn Tính và chùm xóc nhạc đã tạo nên sắc thái tươi mới, đầy cảm xúc.

Lời ca Then mới được bổ sung liên tục do nhiều nghệ nhân đặt lời trên giai điệu

đã định hình rõ ràng của Then. Rõ ràng Then mới có vị trí ngày càng vững chắc

trong hoạt động văn hóa và được người dân tiếp nhận như loại hình âm nhạc

mang đầy bản sắc dân tộc Tày.

Âm nhạc Then mới bao gồm những làn điệu Tàng bốc và Tàng nặm do các

nghệ nhân điều chỉnh, gọt dũa tạo nên âm hưởng gần gũi với cuộc sống. Nhiều

làn điệu Then mới Bắc Kạn đã lên sân khấu biểu diễn, thu âm và phát trên đài

phát thanh, truyền hình của tỉnh lan tỏa khắp nơi. Điều này giúp dòng Then mới

có sự phát triển nhanh về chất và lượng

Bảng thống kê những người am hiểu Then cổ Then mới ở trên cho thấy

giữa người biết cả hai lối hát chủ yếu là những nghệ nhân yêu thích loại hình hát

75

Then. Điều này lý giải tại sao Then Bắc Kạn nổi trội và có số lượng nhiều nhất

trong các loại hình dân ca Tày (phổ biến) theo bảng so sánh dưới đây:

Các thể hát dân ca (phổ biến)

Then cổ Then mới

Pụt Tào Lượn Cọi Phongslư Quan làng Nàng Ới

109

24

26

32

87

56

64

44

Nguồn: tổng hợp số liệu Sở Thông tin và truyền thông tỉnh Bắc Kạn

Bảng 3.4: Bảng so sánh số lượng người hát dân ca Tày Bắc Kạn

Theo bảng so sánh, số lượng hát Then cổ có 109 người trong cả tỉnh Bắc

Kạn, trong đó huyện Pác Nặm có 12, nhiều hơn số lượng người hát lượn Cọi,

loại hình dân ca sinh hoạt giàu tính cộng đồng. Hát Pụt, Tào tồn tại trong không

gian hẹp, chỉ hát trong nghi lễ nên khó hòa nhập với đời sống đương đại.

3.2.2. Thành tố văn học trong nghi lễ giải hạn qua dân ca

Trong nghệ thuật trình diễn các nghi lễ giải hạn (đặc biệt là Then và Mo),

yếu tố văn học có vai trò quan trọng trong việc chuyển tải nội dung, độ dài ngắn

tùy thuộc đường đi, mục đích nghi lễ.

Nội dung của mỗi bài giải hạn đều miêu tả chặng đường đoàn âm binh đi

hành lễ (lên mường trời, xuống âm phủ…). Những cảnh vật thiên nhiên sinh hoạt

đời thường được thể hiện trong các nghi lễ giải hạn chỉ là cái cớ để dẫn dắt, bộc

lộ cảm xúc, tâm trạng của con người nhằm làm nổi bật yếu tố trữ tình. Đó là tình

yêu quê hương, gia đình… phù hợp với quan niệm sống, tình cảm riêng của người

Tày.

Tính trữ tình còn được thể hiện ở tinh thần lạc quan trong cuộc sống lao

động, cảnh núi rừng, sông suối quen thuộc, gần gũi hay những chốn thần tiên với

hao thơm, chim hót gợi lên ước vọng về cuộc sống lý tưởng trên thế gian

Về hình thức thể hiện, các yếu tố lời thơ, giai điệu hát, nhạc đệm trong

Then và Mo có quan hệ chặt chẽ với nhau. Theo tác giả Dương Kim Bôi, một

văn bản Then dài nhất gồm 4,949 câu với 35 chương đoạn (3), trong đó, mỗi

chương mang một tiêu đề riêng. Lời ca trong Then diễn tả cuộc sống, hành trình

của đoàn quân Then nên biểu hiện rất rõ tính tự sự. Lời ca trong Then chủ yếu

76

sử dụng lối thơ bảy chữ và thể loại thơ tự do biến chuyển một cách nhịp nhàng

không cứng nhắc, khô khan, còn giải hạn của thầy Mo bằng chữ Nôm Tày, thì

thể thơ thường là ngũ ngôn, lời thơ cũng nhịp nhàng, dễ đi vào lòng người.

3.2.3. Nghệ thuật làn điệu tín ngưỡng giải hạn qua dân ca nghi lễ Tày ở Pác

Nặm - Bắc Kạn

Về làn điệu diễn xướng thì ở mỗi địa phương lại có những làn điệu riêng

của tỉnh mình. Và cũng có những tên gọi khác nhau (đặc biệt trong lời Then giải

hạn). Theo nhạc sĩ Đỗ Minh “Làn điệu hát trong một lối Then giải hạn của Cao

Bằng có: Soi gương; soi thiếp; thàng mạ (nặm phế, pây đông ngoòng); thổ công;

tổ tiên; qua cửa hạn; cửa thuyền; lên chợ; lên chợ giời…

Nhưng ở Văn Quan- Lang Sơn lại có các làn điệu: Pây tàng; khỏa quan;

khao thuông; khẩu tu đẳm; khẩu tu pháp…

Các làn điệu được diễn ra rất sinh động từ lời ca đến nhạc điệu. Khí thế

oai phong của đoàn quân, của tướng được diễn tả trong nghi lễ. Cảnh thiên nhiên

sông núi, hoa lá… với nhạc điệu êm ái, dịu mát, thanh thản.

Trong lời Then giải hạn cũng như trong các lời giải hạn bằng chữ Nôm

Tày của các thầy Tào, thầy Mo, trên địa bàn Pác Nặm mang nhiều yếu tố trữ tình,

nhẹ nhàng, êm dịu, nghe man mác êm tai rất phù hợp với không khí buổi tối của

miền núi tĩnh mịch trong đêm khuya hoặc cảnh ấm cúng trong một gia đình khi

đông qua xuân tới bên bếp lửa nhà sàn. Trong Then và Mo cũng có những

chương, đoạn êm ả, mát dịu như khí trời buổi sáng, như tiếng suối, như những

làn mây mỏng tà tà bên sườn núi. Nhà thơ Nông Quốc Chấn, một nhà thơ người

Tày quê ở Ngân Sơn- Bắc Kạn từng viết:

…Tiếng đàn tính lọt tai vào ruột

Tiếng vang lên ngọn cây, đỉnh núi cao cao vút

Vượn trố mắt nhìn chân ngã, quên con

Chim trong tổ bay ngơ ngác, quên con

Ve đậu trên cành hoa im tiếng…

(Tiếng đàn tính)

77

Còn với nhà thơ Nông Viết Toại đã từng nói: Cái gì cũ cũng chán, nhưng

Then đã nghe 50 năm mà trước đó đã có hàng trăm năm rồi, mình còn thích

nghe, tất nhiên là người Tày, Nùng.

Trong nghi lễ Then và Mo, lời ca cũng đóng vai trò lớn trong việc chỉ

đường, dẫn lỗi cho từng chặng diễn ra nghi lễ. Khi trình diễn, người làm Then

và Mo không phân chia tách bạch giữa các chương, đoạn, chúng tiếp nối nhau

một cách liên tục cho tới khi hết bài bản nội dung một cuộc Then và Mo.

Âm nhạc trong Then và Mo có sự ảnh hưởng, tiếp thu các làn điệu dân ca ở

từng địa phương tạo nên sự đa dạng về màu sắc. Âm nhạc trong Then và Mo có

sự giao lưu, tiếp thu, cái biến phù hợp với nội dung lời ca và quá trình phóng tác

của người làm Then và Mo. Âm nhạc trong Then và Mo mang tính chất êm dịu,

ấm cúng, nhẹ nhàng, tâm tình, an ủi… Giai điệu thường được diễn ra theo bước

lần với sắc thái vừa phải, không mạnh quá tầm cữ, âm nhạc không lên cao xuống

thấp quá. Âm nhạc trong Then và Mo là sự kết hợp giữa lời ca và giai điệu. Lời ca

trong Then và Mo có cốt truyện dài, ngắn khác nhau nên nhiều khi giai điệu kết

thúc không trọn ven mà thay đổi phụ thuộc vào lời ca. Đặc điểm lời ca chịu tác

động bởi ngôn ngữ đơn âm và đa thanh trong tiếng Tày, tạo nên sự trầm bổng nhất

định, ảnh hưởng không nhỏ đến cấu trúc câu, đoạn của âm nhạc. Trong Then, phổ

biến là dạng hát mang tính chất giãi bày nên mỗi vần thơ được vang lên với nhiều

âm sắc khác nhau. Đó là hiện tượng vuốt giọng, láy giọng, hoặc hỗ trợ bằng tiếng

đưa hơi. Chính vì điều đó mà các thầy Then khi thực hành nghi lễ giải hạn thường

kết hợp nhiều làn điệu để có thể đệm đàn hòa âm với lời ca cho đỡ đơn điệu. Còn

trong giải hạn bằng chữ Nôm Tày thì các thầy Mo cũng thường kết hợp các dụng

cụ hành nghề, đặc biệt trong lời giải hạn các thầy Mo thường lượn để cho nghi lễ

thêm trang trọng và linh thiêng hơn.

3.2.4. Thành tố mỹ thuật trong các nghi lễ giải hạn qua dân ca

Yếu tố mỹ thuật không chỉ tạo nên không gian huyền ảo, mà còn mang

những giá trị thẩm mỹ, tâm linh riêng. Đặc biệt trong Then biểu tượng con én

78

không thể thiếu khi trang trí bàn thờ, mũ của thầy Then, bởi nó là loại chim

thiêng, cầu nối giữa con người với chốn thần linh, tổ tiên.

Nghệ thuật trang trí trong Then gồm có trang trí trong nghi lễ (bàn thờ, lễ

vật, không gian) và trên trang phục, đạo cụ. Không gian tiến hành buổi lễ, nhiều

tấm thảm, chăn được treo lên như những bức vách nhằm giới hạn không gian.

Trên mâm lễ trang trí những cây hoa năm cánh được làm bằng giấy kim tiền,

cắm trên khúc thân chuối. Ở mâm chay có những vật trang trí như hình người,

quần áo, cây hoa, cầu đón vía… được cắt bằng giấy màu xanh, đỏ…

Áo trong nghi lễ Then là loại áo dài của phụ nữ Tày, có nhiều màu như

chàm, đỏ, xanh, vàng, tím, trắng để mặc trong mỗi chương, đoạn khác nhau. Áo

lễ của Then thường không trang trí hoa văn cầu kỳ như áo trong nghi lễ lên đồng

của người Kinh, được mặc chung cho cả Then nam và nữ.

Mũ lễ là loại tam kim, gồm hai mảnh bìa cứng bọc bằng vải màu chàm

hoặc màu đen. Khi gấp lại, mũ hình tứ giác cân, phía bên trên mũ là ba điểm

nhọn, trong đó phần nhọn ở giữa cao hơn một chút. Trước mũ dính hai sợi tua

bằng vải màu hình lệch bài rủ xuống hai bên, phía sau được gắn những sợi dây

dài thêu hoa văn hình chim, phượng…

Bên cạnh đó, đạo cụ là thành phần không thể thiếu trong mỗi lần thực hiện

nghi lễ. Trong Then, gồm có: ấn, tính tẩu, bộ xóc nhạc, bộ gieo quẻ âm dương.

Tính tẩu là dụng cụ giúp Then giao tiếp với thần linh, còn bộ xóc nhạc làm bằng

đồng hoặc kim loại, gồm nhiều chuỗi gộp lại, mỗi chuỗi có các vòng tròn nhỏ,

thường được đựng trong túi có đầu buộc rút, tạo nên nét đặc trưng riêng về đạo

cụ của mỗi thầy Then. Ngoài ra trong quá trình hành lễ Then còn nhiều đạo cụ

khác.

Còn trong nghi lễ giải hạn bằng chữ Nôm Tày của các thầy Mo ở Pác Nặm,

trang phục khác với các thầy Then là áo thầy Mo là áo chàm đen, quần vải đen.

Dụng cụ gồm có: ấn, lệnh, chuông mo hoặc quả nhạc… Tạo nên sắc thái riêng

của mình.

79

3.3. Nghi lễ giải hạn và an ninh sức khỏe, an ninh sinh kế đối với người Tày

Ngoài việc phản ánh những giá trị văn hóa, văn học và thực tiễn cuộc sống

như đã nêu trên, điểm mà chúng tôi nhấn mạnh ở khảo sát này là chức năng về

an ninh con người, thể hiện rõ nhất ở khía cạnh sức khỏe thể chất và tinh thần

cũng như kinh tế đối với người thực hành nghi lễ giải hạn.

Là bản thân làm thầy nên các thầy Then, Mo… và những đối tượng trực

tiếp được được các thầy chữa trị bằng thực hành nghi lễ. Khả năng trị liệu bằng

liệu pháp tinh thần đã được diễn giải và khẳng định trong nhiều công trình nghiên

cứu, nhất là các nghiên cứu về nghi lễ lên đồng của người Việt. Ví dụ, tác giả

Nguyễn Thị Hiền trong bài Lên đồng ở Việt Nam một sinh hoạt văn hóa linh

mang tính trị liệu đã phân tích khá kỹ về một số đặc điểm trị liệu của lên đồng ở

Việt Nam trên bình diện cá nhân, cụ thể là những ông Đồng, bà Đồng. Ở góc độ

này, chúng tôi thấy các nghi lễ giải hạn trên Pác Nặm cũng có một chức năng

tương tự, đó là nó đem lại những hy vọng về an ninh sức khỏe và kinh tế cho con

người.

Ban đầu, đa số các thầy cúng (Then, Mo…) ở Pác Nặm tham gia vào hành

nghề như một giải pháp để thoát khỏi bệnh tật, cơ đầy cho chính mình, nhưng

sau này công việc của họ là thực hành các nghi lễ “cứu nhân độ thế” theo tinh

thần đạo Phật, tức chữa bệnh và đem lại an ninh sức khỏe cho con người. Các

thầy cúng như một vị quan chức nhà trời có tên hiệu, ấn tín, bằng sắc… được

Ngọc Hoàng Thượng Đế cho phép đi lại gặp gỡ giữa các thần linh. Nhiệm vụ

chính của các thầy là giúp đỡ, chăm sóc người dân về mặt tâm linh. Chính nhiệm

vụ này, các thầy cúng đã thể hiện được khả năng chữa bệnh bằng liệu pháp tinh

thần của mình.

Trong quan niệm của các thầy cúng trên Pác Nặm, bệnh tật của con người

có hai loại: bệnh về thể xác và bệnh về tinh thần (bệnh âm) và các thầy cúng là

người đi chữa bệnh âm cho con người (giống với quan niệm trong nghi lễ lên

đồng của người Kinh). Bệnh âm được thầy cúng quan niệm là các loại bệnh liên

80

quan tới hồn vía (bị ma bắt mất vía) với những biểu hiện là đi bệnh viện không

khỏi, không tìm ra căn nguyên của bệnh. Bằng việc thực hành nghi lễ giải hạn,

cùng với các biện pháp hành nghề mang tính đặc trưng của mỗi người, thầy cúng

đã đem lại niềm tin cho người bệnh như là một sự giải tỏa những bất an về tâm

lý, sức khỏe.

Có thể nói chữa bệnh bằng cúng bái đã ăn sâu trong tiềm thức của người

Tày ở Pác Nặm cả trong quá khứ và thời hiện tại. Hầu hết người dân Pác Nặm

đều thừa nhận hai tập quán chữa bệnh của người Tày nơi đây: tập quán chữa

bệnh bằng thảo mộc và tập quán chữa bệnh bằng cúng bái. Nghi lễ giải hạn là

một trong những nghi lễ thể hiện tập quán chữa bệnh bằng cúng bái của người

Tày ở Pác Nặm. Người dân nơi đây cứ vào đầu năm, khi độ xuân về là họ thường

tìm đến các thầy Then, Mo… hoặc trong cuộc sống họ gặp và mơ phải những

điều xấu, điều rủi… họ cũng tìm đến các thầy cúng, như mong muốn xóa đi được

những điều không may trong cuộc sống của họ, móng muốn có được cuộc sống

tươi đẹp, may mắn trong cuộc sống thường nhật.

Ngoài chức năng an ninh về sức khỏe, một chức năng quan trọng khác liên

quan đến đảm bảo an ninh về kinh tế (không thiếu thốn, ước mong của cải dồi

dào, sản xuất thuận lợi…). Nảy sinh và phát triển và phát triển trong lòng dân

gian nên một phần nào đó nghi lễ giải hạn ẩn chứa trong đó những nguyện vọng

chính đáng của người dân qua nhiều thế hệ. Đó là những mong muốn hết sức đời

thường, bình dị của người nông dân.

81

Tiêu kết chương 3

Phần trình bày trong chương này cho thấy nghi lễ giải hạn của người Tày

ở Pác Nặm đã và đang chiếm một vị trí quan trọng trong văn hóa và cuộc sống

của người tày ở đây. Nghi lễ giải hạn ở mọi hình thức từ thầy Then, Mo…đều

mang một giá trị văn hóa và phản ánh thực tiễn cuộc sống của người Tày ở Pác

Nặm. Nói cách khác, nó thể hiện đời sống tâm linh, những giá trị văn hóa, tính

cố kết trong cộng đồng. Quan trọng hơn, nghi lễ giải hạn là sự thể hiện nhu cầu

an ninh về sức khỏe và kinh tế của con người trong đời sống hàng ngày. Nghi lễ

giải hạn chính là cách người dân mong muốn “hóa giải” những bất an và tìm cách

đạt được an ninh trong cuộc sống của họ.

Lễ giải hạn nói chung cũng như lẩu then, lẩu pựt đều là các hình thức diễn

xướng cổ của người dân tộc Tày, Nùng, là hình thức sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng

dân gian lâu đời. Với lòng tin thuần phác, người dân tộc Tày, Nùng làm lễ giải

hạn nhằm cầu mong một cuộc sống an lành cho những người đang sống, những

người đã khuất và cả thế giới tâm linh đều yên ổn. Họ cần một chỗ dựa tinh thần

song không cuồng tín, khi gặp tai họa, ốm đau thì theo quan niệm chung của mọi

người “Vô phúc vái tứ phương, ma cũng cầu, thuốc cũng chữa”.

Tuy nhiên, hiện nay do ảnh hưởng của cơ chế kinh tế thị trường, cũng như

nhận thức về giá trị văn hóa truyền thống ở một bộ phận người dân có những

thay đổi nhất định, cùng sự giao thoa giữa các yếu tố văn hóa mới đã tác động

đến loại hình dân gian truyền thống này khiến lễ giải hạn đã không còn giữ

nguyên ý nghĩa ban đầu của nó, như: Một số gia đình có điều kiện sẵn sàng bỏ

ra hàng triệu đồng, thậm chí hàng chục triệu đồng để mời thầy về cúng lễ cho gia

đình làm ăn phát đạt; một số gia đình không có điều kiện nhưng vì quá “tín” nên

sẵn sàng bán cả tài sản trong nhà để làm lễ; lễ giải hạn bị lạm dụng (làm lễ giải

hạn khi làm ăn buôn bán không thuận lợi, mất của, thi cử, lận đận tình duyên...)

nên các nghi lễ trở nên rườm rà và tổ chức một cách bừa bãi...

82

Ngoài ra, các thầy then, thầy mo, thầy pựt.. đang dần ít đi, dẫn tới nguy cơ

mai một ngày càng cao. Vì vậy, việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa

truyền thống, trong đó có lễ giải hạn là việc làm hết sức cần thiết, cần sự quan

tâm của các cấp, các ngành và của toàn xã hội để loại hình văn hóa tín ngưỡng

dân gian mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc này giữ được nguyên giá trị ban đầu.

Mặt khác qua các hình thức giải hạn khác nhau của người Tày ở Pác Nặm,

nó mang giá trị nghệ thuật là hết sức to lớn và đậm đà bản sắc dân tộc. Trong

nghi lễ giải hạn luôn mang trong nó về hình thức như lời hát dân ca, nên rất gần

gũi với cuộc sống người dân lao động. Thành tố mỹ thuật trong các nghi lễ giải

hạn rất nhiều, yếu tố mỹ thuật không chỉ tạo nên không gian huyền ảo, mà còn

mang những giá trị thẩm mỹ, tâm linh riêng. Thành tố văn học trong nghi lễ giải

hạn cũng giá trị nghệ thuật lớn giúp tôi có cái nhìn trong quá trình giảng dạy bộ

môn Ngữ văn tại trường học với chủ đề văn học địa phương nằm trong chương

trình THPT. Hơn nữa qua đề tài này giúp các học sinh có cái nhìn sâu sắc hơn về

bản sắc, văn hóa của dân tộc mình và từ đó giúp các em thêm yêu quê hương

mình, đất nước mình và mỗi học sinh luôn phát huy, giữ gìn và bảo tồn những

giá trị văn hóa của dân tộc mình trên miền đất vùng cao Pác Nặm thân yêu này.

KẾT LUẬN

83

Nghi lễ giải hạn là một thành tố quan trọng của văn hóa dân tộc Tày và

cho đến nay nghi lễ giải hạn của người Tày được các nhà khoa học tiếp cận theo

hướng hình thức diễn xướng. Trong khảo sát này, khi mô tả, phân tích và lý giải

về những quan niệm cũng như các thực hành của nghi lễ giải hạn của người Tày

(giải hạn bằng Then và Mo qua chữ Nho, chữ Nôm Tày) chúng tôi nhấn mạnh

thêm khía cạnh quan trọng đó là an ninh con người, nhất là an ninh về sức khỏe

và kinh tế của các chủ thể khi thực hành nghi lễ.

Trong bối cảnh quá trình vận động của xã hội hiện đại, nghi lễ giải hạn có

một số biến đổi ở các góc độ khác nhau. Sự biến đổi này là một sự thích nghi của

con người và của các thực hành nghi lễ giải hạn đối với đời sống xã hội hiện đại.

Chúng tôi muốn nhận mạnh rằng dù nghi lễ giải hạn có biến đổi ở các góc độ

khác nhau, song chức năng của nó không thay đổi mà còn thậm chí được củng

cố, đó là đáp ứng nhu cầu an ninh con người về mặt sức khỏe và kinh tế. Điều

này góp phần lý giải cho sự phục hồi và phát triển của nghi lễ giải hạn trong cuộc

sống đương đại ở cộng đồng người Tày ở Pác Nặm.

Pác Nặm là địa bàn khảo sát của luận văn này, là một trong những huyện

vùng cao, huyện nghèo của cả nước, còn gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế- xã

hội và giao thông đi lại. Người Tày ở đây là cư dân đa số và nhiều người thuộc

bản địa, nên phần nào tạo nên bản sắc văn hóa mang đậm dân tộc Tày ở vùng đất

Pác Nặm.

Người Tày ở Pác Nặm có một hệ thống quan niệm về thế giới quan, nhân

sinh quan với niềm tin rằng xung quanh họ có sự hiện diện của nhiều loại ma

lành và ma ác. Để trừ giải những hiểm họa do các loại ma ác gây ra, cac thầy

cúng (Then, Mo…) có khả năng tìm ra ma và thực hành các nghi lễ để trừ ma,

giải hạn (như các nghi lễ giải hạn đã nói ở chương 2). Nghi lễ giải hạn không

phải là một nghi lễ trong chu kỳ đời thường của người Tày, nhưng đang là một

nghi lễ rất phổ biến và có vị trí quan trọng trong cuộc sống của cộng đồng người

Tày ở địa bàn Pác Nặm.

84

Nghi lễ giải hạn diễn ra khi con người có nhu cầu về an ninh ở các góc độ

sức khỏe và kinh tế với một niềm tin rằng các thầy cúng và những nghi lễ do họ

thực hiện có thể thỏa mãn phần nào nhu cầu an ninh của các gia chủ. Mục tiêu cuối

cùng của các nghi lễ giải hạn là mang lại cho gia chủ một sự an ủi, động viên và cao

hơn là sự yê tâm về sức khỏe thể chất và tinh thần trong đời sống.

Theo cách này, nghi lễ giải hạn có thể được coi là cách người dân mong

muốn “hóa giải” những bất an và tìm cách đạt được an ninh trong cuộc sống và

là cách thức ứng phó của con người trước những rủi ro, bất an về sức khỏe và

kinh tế.

Trên cơ sở đó, nghi lễ giải hạn là những giá trị văn hóa và phản ánh thực

tiễn cuộc sống của người Tày ở Pác Nặm nói riêng và ở Việt Nam nói chung.

Trong bối cảnh quá trình vận động của xã hội hiện đại, nghi lễ giải hạn có một

số biến đổi ở các góc độ khác nhau, song sự biến đổi này chính là một sự thích

ứng của con người và của các thực hành nghi lễ giải hạn đối với đời sống xã hội

hiện đại, nhằm đáp ứng nhu cầu an ninh con người cả về mặt sức khỏe lẫn kinh

tế. Thực tế này góp phần lý giải cho sự phục hồi và phát triển của nghi lễ giải

hạn trong cuộc sống đương đại của cộng đồng người Tày ở Pác Nặm.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

85

1. Phan Quốc Anh (2006), Nghi lễ vòng đời của người Chăm Ahier ở Ninh Thuận,

H. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

2. Triệu Ân (1994), Ca dao Tày, Nùng, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

3. Triệu Ân (1997), Tục cưới xin người Tày, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

4. Triệu Ân (2000), Then Tày những khúc hát, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

5. Triệu Ân, Hoàng Quyết (1996), Từ điển, thành ngữ, tục ngữ dân tộc Tày,

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

6. Nguyễn Chí Bền (1999), Văn hóa Việt Nam: những suy nghĩ, NXB Văn hóa

dân tộc, Hà Nội.

7. Diệp Trung Bình (2005), Phong tục và nghi lễ vòng đời người của người

Sán Dìu ở Việt Nam, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

8. Đỗ Thúy Bình (1994), Hôn nhân và gia đình các dân tộc Tày, Nùng, Thái

ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

9. Hoàng Hữu Bình (1998), Các tộc người ở trung du miền núi phía Bắc Việt Nam,

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

10. Nguyễn Thị Thanh Bình (2013), "Tổng quan nghiên cứu về những biến đổi

của dân tộc Tày từ năm 1980 đến nay", Tạp chí Dân tộc học, Hà Nội.

11. Nguyễn Từ Chi (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa tộc người, NXB Văn hóa

dân tộc, Hà Nội.

12. Hoàng Quyết, Tuấn Dũng (1995), Phong tục, tập quán của người Tày ở Việt

Bắc, H. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

13. Nguyễn Khoa Điềm (2001), Bảo tồn phát huy văn hóa truyền thống các dân

tộc thiểu số, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội.

14. Nguyễn Huy Hồng (2012), Nghệ thuật múa rối Tày, Nùng, NXB Văn hóa

dân tộc, Hà Nội.

15. Dương Hải Hưng (2003), Sự cố kết cộng đồng của người Tày vùng núi phía

Bắc Việt Nam, Luận án tiến sỹ Tâm lý học, Đại học sư phạm Hà Nội.

16. Đinh Gia Khánh (1995), Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á,

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

86

17. Vũ Ngọc Khánh (sưu tầm và biên soạn) (2004), Truyền thống văn hóa các

dân tộc thiểu số Việt Nam, NXB Thanh Niên, Hà Nội.

18. Triệu Thị Mai (2001), Lễ cầu tự của người Tày Cao Bằng, NXB Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

19. Hoàng Nam (2002), Đặc trưng văn hóa cổ truyền các dân tộc Việt Nam,

NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

20. Hoàng Nam (2005), Văn hóa các dân tộc vùng Đông Bắc Việt Nam, NXB

Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

21. Nông Thị Nhình (2004), Nét chung và riêng của âm nhạc trong diễn xướng

Then Tày, Nùng, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

22. Hoàng Quyết (1993), Văn hóa truyền thống Tày, Nùng, NXB Văn hóa dân

tộc, Hà Nội.

23. Lý Hành Sơn (2001), Các nghi lễ chủ yếu trong đời người của nhóm giao

tiền Ba Bể, Bắc Kạn, H. Viện dân tộc học.

24. Hà Đình Thành (2010), Văn hóa dân gian Tày, Nùng ở Việt Nam, NXB Đại

học quốc gia Hà Nội.

25. Tô Ngọc Thanh (2001), Văn hóa các dân tộc thiểu số, NXB Chính trị quốc

gia Hà Nội.

26. Ngô Đức Thịnh (2001), Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam,

NXB Trẻ, Hà Nội.

27. Ngô Đức Thịnh (Chủ biên) (1993), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa,

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

28. Ngô Đức Thịnh (2006), Văn hóa, văn hóa dân tộc người và văn hóa Việt Nam,

NXB khoa học xã hội, Hà Nội.

29. La Công Ý (2010), Đến với người Tày và văn hóa Tày, NXB Khoa học xã

hội, Hà Nội.

30. Nguyễn Thị Yên (2009), Then chúc thọ của người Tày, NXB Văn hóa dân tộc,

Hà Nội.

31. Nguyễn Thị Yên (2009), Then Tày, NXB văn hóa dân tộc, Hà Nội.

87

Phụ lục 1: DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI CUNG CẤP THÔNG TIN

Giới

Họ và tên

Tuổi

Thôn/xã

Nghề nghiệp

Ghi chú

tính

Nghệ nhân đã được

Hoàng Văn Phúc 88

Nam Nà coóc-Bộc Bố

Thầy Tào

Bộ VH-TT cấp

chứng nhận

Hoàng Văn Lý

50 Nam Nà coóc-Bộc Bố

Thầy Tào

Con trai ông Phúc

Dương Văn Mu

65 Nam Bản Bòn-Cao Tân

Thầy Then

Ma Văn Vịnh

47 Nam Cao Tân-Pác Nặm

Thầy Then

Nông Thạnh Mạ

46 Nam Nà coóc-Bộc Bố

Nông dân

Nông Thanh Tuấn

57 Nam Nhan Môn-Pác Nặm Nông dân

Hà Văn Lập

46 Nam Bằng Thành-Pác Nặm Nông dân

Nông Thanh Yến

49 Nam Nà coóc-Bộc Bố

Buôn bán

Lường Văn Quân

53 Nam Công Bằng-Pác Nặm Nông dân

Chu Văn Chính

49 Nam Nhạn Môn-Pác Nặm Cán bộ xã

Nguyên là Trưởng

Cán bộ nghỉ

Hoàng Hữu Tổ

61

Nam Nà coóc-Bộc Bố

phòng văn hóa

hưu

huyện Pác Nặm

Hoàng Thị Mỵ

Nữ

67 Giáo Hiệu- Pác Nặm Nông dân

Chủ

tịch xã

Hoàng Văn Ngôn Nam 42

Bằng Thành-Pác Nặm

Bằng Thành

Lường Thị Hoài Nữ

36

TP. Bắc Kạn

Cán bộ

Cán bộ thư viện tỉnh

Cán bộ thư viện

Ma Thị Đồng

Nữ

31

Bộc Bố-Pác Nặm

Cán bộ

huyện

Phụ lục 2: MỘT SỐ ĐOẠN TRONG LỜI THEN CÚNG

Lời Then (cúng) theo tiếng Tày

Thâng nậy tưởng ngó thọoc khoăn đo

Thầy ngó pây xa vỉa đảy pjọm khoăn ơi

Hẩu khoẳn kin khẩu nhứa đảy im

Hẩu khoẳn kin lẩu ngon là mì khoăn ời

Giở nậy khoăn xo đẳm xo tang pây là

Khoăn xo ta, xo nái theo thầy pẩy lỉn khoăn ời

Mứa lô lả khoăn

Mứa lô a lãng vỉa

Mứa tính mè vua bếp hai chồng

Mứa tính pò thổ công hai vợ

Mè bép quản phấy vắn trang gia

Thổ công quản đin lướn cấu du

Bẩu đảy téch khoăn nậy hẹt rang

Bẩu đảy xăng khoăn nậy khảu thẳm

Khoăn tua nậy đẳm cái cháo chương

Vỉa tua nảy thầy luông ngỏ quản

Mứa lô lả lãng khoăn

Mứa lô a lãng vỉa

Mứa tính pò thửa đin bản dú

Mưa tính mè thin nhả bản tom chương

Chác đin mí lài pò thửa đin cai quản

Chác nhả mí kì mè thin nhả dừ canh

Bẩu đảy tách khoăn nậy hẹt rang

Bẩu đảy xăng khoăn nậy khau thẳm

Khoăn tua nậy đằm chảy cháo chương

Vỉa tua nậy thầy luông cháo quản

Mứa lô lả lãng khoăn

Mứa lô a lãng vỉa

Mứa tính cốc may pò hua khao

Mứa tính thẳm hin ao hua hóoc

Pò hua khao quản mạy ráo hua bản

Ao hua hóoc quản thẳm thóoc hua mướng

Bẩu đảy tó khoăn nậy hẹt rang

Bẩu đảy xăng khoăn nậy khau thẳm

Khoăn tua nạy đẩm cái cháo chương

Vỉa tua nẩy thầy luông ngó quản

Mứa lô lả lãng khoăn

Mứa lô a lãng vỉa

Mứa tính náng thửa lương pom thảu

Mưa tính già phù thủy pú kem

Náng thửa lương quản đon đin trang bản

Già phù thủy quản pú trang tồng

Bấu đảy tó khoăn nậy khau thẳm

Khoăn tua nậy đẳm cải cháo chương

Vỉa tua nậy thầy luông cháo quản

Mứa lô lả lãng khoăn

Mứa lô a lãng vỉa

Mứa tính pò thấn cải hua mướng

Mứa tính pò thấu luông tham thẩu

Thấn cải quản bản cải cấn chương

Thấn luông quản pú luông cấn đặt

Bấu đáy tó khoăn nậy hẹ răng

Bấu đảy xăng khoăn nậy khan thẳm

Khoăn tua nậy đẳm cải cháo chương

Vỉa tua nậy thầy luông cháo quản

Lời Then dịch ra tiếng việt

Đến đây thầy tôi tìm đủ vía

Thầy tôi đã tìm đủ con hồn

Cho vía ăn cơm thịt đủ no

Cho hồn uống rượu ngon đủ say

Giờ này xin tổ tiên để đi chơi

Đi thôi hỡi làng hồn

Xin ông bà bên vải để được đi chơi

Đi thôi hỡi làng vía

Đi chào bà vua bếp hai chồng

Đi chào ông thổ công hai vợ

Vua bếp quản lửa khói trong nhà

Thổ công quản khuôn viên nhà ở

Không được trách hồn này làm chi

Không được nhốn vía này vào ngục

Con hồn này tổ tiên người ta giữ

Con vía này thầy cao công tao quản

Đi hỡi ôi làng hồn

Đi hỡi ôi làng vía

Đi trình ông thổ địa làng ở

Đi trình bà ma cỏ làng thờ

Thước đất có vài ông thổ địa

Thước cỏ có vài con ma cỏ đứng canh

Không được trách hồn này làm chi

Không được nhốt vía này vào ngục

Con hồn này tổ tiên người ta giữ

Con vía này thầy công cao tao quản

Đi thôi hỡi làng hồn

Đi thôi hỡi làng vía

Đi trình gốc cây ông đầu trắng

Đi trình ông hang đá ông đầu bạc

Ông đầu trắng quản cây đa đầu bản

Chú đầu bạc quản hang đá đầu mường

Không được trách hồn này làm chi

Không được nhốt vía này vào ngục

Con hồn này tổ tiên người ta giữ

Con vía này thầy cao công tao quản

Đi thôi hỡi làng hồn

Đi thôi hỡi làng vía

Đi trình nàng tiên nữ áo vàng

Đi trình bà phù thủy núi Kem

Nữ áo vàng quản gò cao giữa bản

Bà phù thủy quản núi giữa đồng

Không được trách hồn này làm chi

Không được nhốt vía này vào ngục

Con hồn này tổ tiên người ta giữ

Con vía này thầy cao công tao quản

Đi thôi hỡi làng hồn

Đi thôi hỡi làng vía

Đi trình ông thần to đến mường

Đi trình ông thần lớn đầu bản

Thần to quản làng lớn người ở

Thần lớn quản mường lớn người trú

Không được trách hồn này làm chi

Không được nhốt vía này vào ngục

Con hồn này tổ tiên người ta giữ

Con vía này thầy cao công tao quản

Phụ lục 3:

KHOA GIẢI SUNG CUNG GIẢI HẠN

Cuốc shổ điểm binh mạ nhằng đông

Cai đông điếm binh quân nhằng đủ

Phân quân dú ngọn pé giải sung

Phân mạ dú ngọn sông giải hạn…

…Nhục tiếng tổng mạ la khửn khái

Khửn thâng tồng cà lương

Quá thâng mường cà vạt

Khảm quá tồng sích ca

Khảm quá nà vàng để

Tổng vàng để pàn phia

Tổng xích ca pàn đán

Khửn tạm cải mè sinh

Quá tạm ông mè để

Khảm thâng khái quan sung

Lọt thâng cung quan hạn…

…Đông Tây Nam lủng chỏi

Lọt thâng Bắc Đẩu lồng dào

Vua Nam Tào lồng giải

Khoái khoái oóc mà khái giải sung

Khoái khoái lồng mà thâng cung giải hạn…

…Hết lăng cụng lì, chi lăng cụng đảy

Đảy kin dú siên niên vạn đại.

Phụ lục 4:

NGUYÊN BẢN LỜI KHẮP CÚNG XIN CÁC THẦN GÁC CỬA ẢI

BẰNG LỜI THEN (KHI VÍA BỊ LONG VƯƠNG BẮT)

1. Cửa ải thứ nhất (thần thuồng luồng - tiếng Tày là thần ngược)

Lứa thần khảm nặm pế Long Vương

Lứa tưởng khảm nặm thông Long Xá

Loòng thâng thẳm thấn ngược canh tu

Loòng thâng thẳm thấn ngũ gác cổng

Thấn ngược đăm cai pế

Khay tu hẩu thầy cải ngó pây thấn ơi

Cái đuây hẩu tưởng luông ngó lống thấn ời

Thống táng hẩu quân binh tưởng khản thấn ơi

Thầy ngó là bấn khản tu đai

Tưởng ngó nhăng mí mè náng tiên chuộc mình

Binh ngó cùng mí khảng đén rung soi thoóc

Tham tang pây lấu bjoóc Long Vương

Tham thoóc khảu thủy cung long xá thấn ơi

2. Cửa ải thứ hai (thần rùa, ba ba - thấn pha, thấn tấu)

Nhàng pà thâng thẳm cái thấn pha

Quá pây thâng thẳm luông thấn tấu

Thấn tấu au thi lải canh tu

Thần pha au thi kha gác cổng

Khay tu hẩu thầy cải ngó pây thấn ơi

Cái đuây hẩu tưởng luông ngó lống thần ời

Thống táng hẩu quân binh tưởng khản thấn ơi

Thầy ngó là bấn khản tu đai

Tưởng ngó nhăng mí mè náng tiên chuộc mình

Binh ngó cùng mí khảng đén rung soi thoóc

Tham tang pây lấu bjoóc Long Vương

Tham thoóc khảu thủy cung long xá thấn ơi

3. Cửa ải thứ ba (thần cá trạch răng - thấn pia sát)

Nhàng thâng thẳm pja sát lăng cưa

Pò thấn pja hua thiểm pấn khoác

Gác thẳm cải lối pây long cung

Khay tu hẩu thầy cải ngó pây thấn ơi

Cái đuây hẩu tưởng luống ngó lống thần ời

Thống táng hẩu quân binh tưởng khản thấn ơi

Thầy ngó là bấn khản tu đai

Tưởng ngó nhăng mí mè náng tiên chuộc mình

Binh ngó cùng mí khảng đén rung soi thoóc

Tham táng pây lấu bjoóc Long Vương

Tham thoóc khảu thủy cung long xá thấn ơi

4. Cửa ải thứ tư (thần cua, tôm biển - thấn pu, thấn củng)

Nhàng thâng thẳm thấn củng canh tu

Nhàng thâng thẳm thấn pu gác cổng

Thấn củng cẳm kiếm khát trang hua

Thấn pu hả kín đeng rặng tỏn

Thong kín dơ pây nả cà ngặc

Sốc kha cháu nghều ngào theo lăng

Khay tu hẩu thầy cải ngó pây thấn ơi

Cái đuây hẩu tưởng luông ngó lống thần ời

Thống táng hẩu quân binh tưởng khản thấn ơi

Thầy ngó là bấn khản tu đai

Tưởng ngó nhăng mí mè náng tiên chuộc mình

Binh ngó cùng mí khảng đén rùng soi thoóc

Tham táng pây lấu bjoóc Long Vương

Tham thoóc khảu thủy cung long xá thấn ơi

5. Cửa ải thứ năm (thần chó biển - thần ma nặm, ma ngao)

Pây thâng thẳm ma nặm khuân khao

Nhàng thâng thẳm ma ngao khuân lái

Thấn ma nặm canh cổng thả quan

Thấn ma ngao gác cổng thả thầy

Khay tu hẩu thầy cải ngó pây thấn ơi

Cái đuây hẩu tưởng luông ngó lống thần ời

Thống táng hẩu quân binh tưởng khản thấn ơi

Thầy ngó là bấn khản tu đai

Tưởng ngó nhăng mí mè náng tiên chuộc mình

Binh ngó cùng mí khảng đén rùng soi thoóc

Tham táng pây lấu bjoóc Long Vương

Thám thoóc khảu thủy cung long xá thấn ơi

6. Cửa ải thứ sáu (thần lợn nước - thấn mu nặm, long trư)

Nhàng thâng thẳm ma nặm bưởng khoa

Hả thấn mu canh tu bưởng thại

Mu nặm muộn tẩu nặm xa hoi

Thấn mu bá đinh ba canh cổng

Khay tu hẩu thầy cải ngó pây thấn ơi

Cái đuây hẩu tưởng luông ngó lống thần ời

Thống táng hẩu quân binh tưởng khản thấn ơi

Thầy ngó là bấn khản tu đai

Tưởng ngó nhăng mí mè náng tiên chuộc mình

Binh ngó cùng mí khảng đén rùng soi thoóc

Tham táng pây lấu bjoóc Long Vương

Tham thoóc khảu thủy cung long xá thấn ơi

7. Cửa ải thứ bảy (thần trâu nước - thấn vái nặm)

Nhàng thâng thẳm vái nặm canh thông

Pây thâng thẳm thấn vại gác bể

Thấn vái phúm trang thông cờ giảo

Khay tu hẩu thầy cải ngó pây thấn ơi

Cái đuây hẩu tưởng luông ngó lống thần ời

Thống táng hẩu quân binh tưởng khản thấn ơi

Thầy ngó là bấn khản tu đai

Tưởng ngó nhăng mí mè náng tiên chuộc mình

Binh ngó cùng mí khảng đén rùng soi thoóc

Tham táng pây lấu bjoóc Long Vương

Tham thoóc khảu thủy cung long xá thấn ơi

8. Cửa ải thứ tám (thần cá ác canh động-thấn pja thưa, pja măng, pja mập)

Pây thâng thảm pja măng pja mập

Thấn pja ác hẹt thấu ác tẩu nặm

Tua cải mắn pây téng pây tặp

Tua nọi ả pác kin cá đoán

Chà mác cà ná chô

Cấu phai thê phai luây ná chổi

Khay tu hẩu thầy cải ngó pây thấn ơi

Cái đuây hẩu tưởng luông ngó lống thần ời

Thống táng hẩu quân binh tưởng khản thấn ơi

Thầy ngó là bấn khản tu đai

Tưởng ngó nhăng mí mè náng tiên chuộc mình

Binh ngó cùng mí khảng đén rùng soi thoóc

Tham táng pây lấu bjoóc Long Vương

Tham thoóc khảu thủy cung long xá thấn ơi

9. Cửa ải thứ chin (thần đỉa biên canh giữ)

Nhàng pà pây thâng thẳm thấn ping nặm pế

Pinh rặng pinh chứng cải cờ nặn

Thấn pinh mí cẩu pác cẩu hua

Mè ngúa kin pừa toọc cà them

Mộng hăn tưởng đuông lyoóc phấy vắn

Khay tu hẩu thầy cải ngó pây thấn ơi

Cái đuây hẩu tưởng luông ngó lống thần ời

Thống táng hẩu quân binh tưởng khản thấn ơi

Thầy ngó là bấn khản tu đai

Tưởng ngó nhăng mí mè náng tiên chuộc mình

Binh ngó cùng mí khảng đén rùng soi thoóc

Tham táng pây lấu bjoóc Long Vương

Tham thoóc khảu thủy cung long xá thấn ơi

10. Cửa ải thứ mười (thần cái voi - pja trang)

Nhàng pà thâng thẳm luông pja trạng

Thấn pja cờ khảng giảo, khảng rướn

Rí thút chùa mạy cuống trang đông

Lèn tẩu nặm phóng tứn lấm pào

Dà rào phun nặm tưởng phạ phâu

Khay tu hẩu thầy cải ngó pây thấn ơi

Cái đuây hẩu tưởng luống ngó lống thần ời

Thống táng hẩu quân binh tưởng khản thấn ơi

Thầy ngó là bấn khản tu đai

Tưởng ngó nhăng mí mè náng tiên chuộc mình

Binh ngó cùng mí khảng đén rùng soi thoóc

Tham táng pây lấu bjoóc Long Vương

Tham thoóc khảu thủy cung long xá thấn ơi

Phụ lục 5:

NGUYÊN LỜI (TRÍCH DẪN) CHẢI TINH KỶ (DÂNG SAO GIẢI HẠN)

BẰNG CHỮ NÔM TÀY CỦA THẦY MO Ở PÁC NẶM

1. Cung nộp pang (cung trả lễ)

Lầu mì của mà vàn

Lầu mì pang mà hẩu

Lầu mì slam sleng khả

Lầu mì hả sleng pài

Mì khẩu mỉnh mà tèn

Mì khẩu khoăn mà pố

Lầu mì lệ mì làm

Lầu mì tham mà tủ

Thu tỉ mà nạp pang

Công sào mà cao lệ

Cao pây phải tắm na

Cao pây phà tắm thí

Cao pây phằn pết ké

Cao pây mẻ cáy luông

Pết cây mà chuộc thua

Mè dường mà chuộc chẩu

Khẩu lẩu mà vàn ơn

Kim ngần mà thể mỉnh

Nộp pây slam slíp mạ

Nộp pây hả slíp chèn

Khỏi cao kim tằng cân

Khỏi cao ngần tằng phả

Mạ tỉ nẳng thụ an

Chèn pác quản khẩu tang

Ngần xiên chàng chuộc mỉnh

Khỏi ỷ lầu mà tang

Mạo làng lầu mà thể

Mọi slức khỏi cao tủ

Của dương khỏi cao tuyền

Mạ chèn hẩu pỏ kho

Hẩu pỏ kho khay tu

Mạ chèn hẩu pỏ châu

Hẩu pỏ châu mà tiểm

Tiểm au pang cò lọc

Tiểm au pang chọc A

2. Cung hồi hương (lấy hồn về nhà)

Dắc khửn mạ lâm xa

Tẩu chờ nẩy đắc đắn

Tẩu chờ nẩy đắc điêng

Óc tu kỷ tở nai

Óc tu chai tở nản

Khoăn dú tỉ lò hầu

Khoăn dú tỉ thổ tú

Khoăn dú tỉ kim tinh

Khoăn dú tỉ thủy tinh

Óc tu kỉ tở nai

Óc tu chai tổ nản

Kỷ pắc nà hẩu hấy

Kỷ pắc lẩy hẩu byai

Mai tỉ luồn hẩu dú

Khoăn dú kỷ tả phằng

Đang dú lăng thụ nản

Mạ pơi khoăn mạ pơi

Tẩu pơi mỉnh tẩu pơi

Thổ tỉ mà lặp khoăn

Thần nông mà lặp mỉnh

Lặp mỉnh lầu tở tứn

Lặp khoăn lầu tẻ tẻo

Tẻo pây khoăn tẻo pây

Chai lồng mường pỏ kỷ