ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN HẢI BẰNG
KHẢO SÁT TÍN NGƯỠNG GIẢI HẠN QUA DÂN CA NGHI LỄ TÀY Ở PÁC NẶM - BẮC KẠN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2018
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN HẢI BẰNG
KHẢO SÁT TÍN NGƯỠNG GIẢI HẠN QUA DÂN CA NGHI LỄ TÀY Ở PÁC NẶM - BẮC KẠN Ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. VŨ THỊ TÚ ANH
THÁI NGUYÊN - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, do tôi thực
hiện dưới sự hướng dẫn của PGS. TS. Vũ Thị Tú Anh trong khuôn khổ chương
trình đào tạo Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm
Thái Nguyên.
Thái Nguyên, tháng 11 năm 2018
Tác giả luận văn
Nguyễn Hải Bằng
i
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này là kết quả của một quá trình học tập và nghiên cứu của bản
thân tôi ở bộ môn Văn học Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
Khi hoàn thành luận văn, tôi muốn được gửi lời cảm ơn chân thành nhất những
người đã giúp đỡ tôi trong suốt thời gian đầy thách thức nhưng rất quan trọng
với cuộc đời và sự nghiệp của tôi. Trước tiên, tôi xin được gửi lời tới PGS. TS
Vũ Thị Tú Anh lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất, cảm ơn cô đã hướng dẫn
tôi tận tình trong quá trình hình thành ý tưởng, xây dựng đề cương nghiên cứu,
triển khai thu thập tài liệu và viết kết quả nghiên cứu thành bản luận văn này.
Tôi cũng muốn được bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô trong bộ môn Văn
học Việt Nam, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã dạy tôi
những tri thức khoa học và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành luận văn này.
Trong quá trình khảo sát, điền dã Tín ngưỡng giải hạn qua dân ca nghi lễ
Tày ở địa bàn huyện Pác Nặm, luận văn này đã nhận được nhiều sự hỗ trợ, quan
tâm và lời động viên từ nhiều ban, ngành, đồng nghiệp, bà con nhiều xã trên địa
bàn huyện. Nhân đây, tôi muốn cảm ơn thầy Then Dương Văn Mu, thầy Mo
Hoàng Văn Phúc và Hoàng Văn Lý, những người đã hướng dẫn và giúp đỡ tôi
trong các chuyến điền dã tín ngưỡng giải hạn trên địa bàn huyện Pác Nặm.
Gia đình và bạn bè tôi chính là động lực tinh thần quan trọng giúp tôi hoàn
thành luận văn này. Tôi luôn ghi nhận và cảm kích với những hỗ trợ và động
viên của họ trong suốt quá trình tôi thực hiện đề tài luận văn này.
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC .......................................................................................................... iii
DANH MỤC BẢNG, HÌNH .............................................................................. iv
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 3
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 6
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 7
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 8
6. Bố cục đề tài .................................................................................................... 8
7. Dự kiến kết quả nghiên cứu ............................................................................. 8
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ TÍN NGƯỠNG GIẢI HẠN QUA DÂN CA
NGHI LỄ DÂN TỘC TÀY HUYỆN PÁC NẶM, TỈNH BẮC KẠN .......... 9
1.1. Các công trình nghiên cứu về văn hóa, văn học dân gian, văn hóa tâm
linh của người Tày ..................................................................................... 9
1.2. Các công trình nghiên cứu về văn hóa, văn học dân gian, nghệ thuật
dân gian của người Tày ........................................................................... 12
1.3. Các công trình nghiên cứu âm nhạc dân gian ......................................... 16
1.4. Những công trình khác ............................................................................ 17
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 18
Chương 2. ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG TÍN NGƯỠNG GIẢI HẠN QUA DÂN CA
NGHI LỄ DÂN TỘC TÀY HUYỆN PÁC NẶM, TỈNH BẮC KẠN ............. 20
2.1. Những quan niệm của người Tày Pác Nặm liên quan tới tín ngưỡng
giải hạn qua dân ca nghi lễ Then của dân tộc Tày .................................. 20
2.1.1. Quan niệm về vũ trụ ................................................................................ 20
iii
2.1.2. Quan niệm về ma (phi), vía (khoăn), số phận (thổ), tướng mạo (mình)
Quan niệm về ma ..................................................................................... 20
2.2. Nguyên nhân thực hành nghi lễ Then giải hạn ........................................ 24
2.3. Thực hành trong nghi lễ giải hạn qua dân ca (Then) của người Tày ở
Pác Nặm ................................................................................................... 27
2.3.1. Người thực hành nghi lễ Then giải hạn ................................................... 27
2.3.2. Đồ lễ/ đồ cúng trong nghi lễ Then giải hạn ............................................. 30
2.3.3. Tiến hành một nghi lễ Then giải hạn của người Tày ở Pác Nặm............ 32
2.4. Thực hành trong nghi lễ giải hạn qua dân ca bằng chữ Nôm Tày
(những thầy Mo) của người Tày ở Pác Nặm ........................................... 38
2.4.1. Quan niệm về vũ trụ ................................................................................ 38
2.4.2. Tín ngưỡng giải hạn của thầy Mo, Tào ở Pác Nặm thể hiện trường phái
Nho giáo .................................................................................................. 40
2.4.3. Những văn bản về lễ cúng giải hạn cầu an của người Tày và cách diễn
xướng trong lễ cúng giải hạn (cầu an) ..................................................... 41
2.4.4. Thời gian, không gian và cách diễn xướng và trang phục, đạo cụ của
nghi lễ giải hạn (cầu an) bằng chữ Nôm tày............................................ 41
2.4.5. Nội dung của văn bản Mo giải hạn bằng chữ Nôm Tày ở Pác Nặm ....... 45
Tiêu kết chương 2 .............................................................................................. 62
Chương 3. GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT TÍN NGƯỠNG GIẢI HẠN QUA
DÂN CA NGHI LỄ DÂN TỘC TÀY HUYỆN PÁC NẶM, TỈNH
BẮC KẠN ............................................................................................... 63
3.1. Nghi lễ giải hạn qua dân ca ở Pác Nặm và sự thể hiện những giá trị
văn hóa và cuộc sống của người Tày ...................................................... 63
3.2. Giá trị nghệ thuật tín ngưỡng giải hạn qua dân ca nghi lễ Tày ở Pác Nặm
- Bắc Kạn .................................................................................................. 68
3.2.1. Các thể hát dân ca nghi lễ ........................................................................ 68
3.2.2. Thành tố văn học trong nghi lễ giải hạn qua dân ca ................................ 76
iv
3.2.3. Nghệ thuật làn điệu tín ngưỡng giải hạn qua dân ca nghi lễ Tày ở
Pác Nặm - Bắc Kạn ................................................................................ 77
3.2.4. Thành tố mỹ thuật trong các nghi lễ giải hạn qua dân ca ........................ 78
3.3. Nghi lễ giải hạn và an ninh sức khỏe, an ninh sinh kế đối với người Tày .... 80
Tiêu kết chương 3 .............................................................................................. 82
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 85
PHỤ LỤC
v
DANH MỤC BẢNG, HÌNH
Bảng:
Bảng 3.1: Bảng tổng hợp người am hiểu hát dân ca nghi lễ Tày Pác Nặm ........ 68
Bảng 3.2: Bảng thống kê số lượng người hát Then cổ, Then mới ở Pác Nặm ....... 71
Bảng 3.3: Bảng tổng hợp tên gọi và làn điệu Then Bắc Kạn ........................ 73
Bảng 3.4: Bảng so sánh số lượng người hát dân ca Tày Bắc Kạn ................. 76
Hình:
Hình 2.1: Lầu kỷ tượng trưng cho mường trời ............................................... 46
Hình 2.2: Hình nộm mão làng ........................................................................ 47
Hình 2.3: Giải hạn thêm lương thực cho bài mệnh, cho người được giải hạn .... 48
Hình 2.4: Con cháu tạ lễ công ơn sinh thành của ông bà, cha mẹ .................. 49
Hình 2.5: Mâm cúng Nam Tào, Bắc Đẩu ....................................................... 51
Hình 2.6: Lời cúng và niệm chú trong nghi lễ giải tinh kỷ của thầy Hoàng
Văn Phúc ......................................................................................... 52
Hình 2.7: Thầy cúng Hoàng Văn Phúc ban phúc lộc cho cả gia chủ ............. 57
iv
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Sự đặc sắc trong bản sắc văn hóa Tày Pác Nặm, Bắc Kạn, văn hóa Tày
Việt Nam
Văn học dân gian Việt Nam là một tổng thể đa diện nhưng thống nhất được
hợp thành bởi tinh hoa văn học dân gian của các dân tộc anh em. Một trong
những chủ thể của kho tàng ấy phải kể đến người Tày, một dân tộc có số lượng
dân cư đông nhất trong cộng đồng 53 dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Người Tày ở
Việt Nam có một kho tàng văn học dân gian thể hiện đời sống tâm linh phong
phú và sâu sắc.
Bắc Kạn là vùng văn hóa của người Tày có cuội nguồn lịch sử hàng ngàn
năm. Nơi đây đang lưu giữ một kho tàng nghệ thuật dân gian đồ sộ, trong đó phải
nhắc tới nhiều làn điệu dân ca chưa được nghiên cứu tỉ mỉ, có hệ thống. Trữ
lượng âm nhạc dân gian Bắc Kạn rất phong phú với nhiều thể hát, lối hát khác
nhau đã đặt ra yêu cầu cần phải có chính sách, phương pháp bảo tồn nguồn di
sản quý báu của nhiều thế hệ người Tày Bắc Kạn sáng tạo nên.
Nghi lễ giải hạn qua dân ca (lẩu then, lẩu pụt, Mo) của người Tày ở Pác
Nặm- Bắc Kạn, phản ánh một trong những nét văn hóa tâm linh đặc sắc mạng
đậm chất tín ngưỡng đặc thù của dân tộc Tày.
Phong tục cúng giải hạn của dân tộc Tày ở Pác Nặm- Bắc Kạn đã có từ
rất lâu, và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cho đến nay nghi
lễ này vẫn được thực hành bởi nhiều thế hệ trong các gia đình và cộng đồng
người Tày.
Pác Nặm là một huyện vùng cao của tỉnh Bắc Kạn. Tuy đời sống của đồng
bào dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, nhưng cứ vào độ xuân về, khi vào thời điểm
cỏ cây, hoa lá trong rừng nở rộ, nhất là sau tết nguyên đán thì các hộ gia đình
người Tày lại tìm gặp thầy Tào, thầy Mo, thầy Then, thầy Pụt, để xem ngày lành,
sau đó tiến hành chuẩn bị lễ vật và đi đón thầy Tào, thầy Mo, thầy Then. Thầy
1
Pụt đến nhà để làm lễ cúng giải hạn cho các con cháu gia đình, nhằm xua đuổi
cái xấu, cầu mong một năm an lành, mùa màng bội thu…
1.2. Nghiên cứu dân ca nghi lễ Tày từ góc độ văn hóa, văn học dân tộc Tày
Trong số các nghiên cứu về đời sống văn hóa, những vấn đề về tín ngưỡng
và nghi lễ của người Tày là những chủ đề được nhiều nhà khoa học quan tâm và
nghiên cứu. Tuy nhiên đời sống tín ngưỡng và nghi lễ của người Tày lại chỉ là
một phần trong các công trình nghiên cứu tổng quan về các dân tộc Tày. Tuy
nhiên theo khảo sát của chúng tôi mới chỉ một vài công trình nghiên cứu chuyên
sâu và chuyên biệt về các vấn đề tín ngưỡng và nghi lễ của người Tày, chủ yếu
tập trung vào các vấn đề (số lượng, nội dung, các chặng tín ngưỡng giải hạn dân
tộc Tày, các hình thức diễn xướng…). Trong các công trình nghiên cứu này,
Then và Mo là vấn đề thu hút được sự quan tâm của nhiều tác giả hơn cả. Then
và Mo được khảo sát trên địa bàn rộng và thường được xem xét dưới góc độ hình
thức diễn xướng dân gian. Với những người hành nghề Then và Mo, một trong
những công việc quan trọng và chủ yếu nhất của họ là thực hành nghi lễ giải hạn,
cầu an theo các yêu cầu của gia chủ.
1.3. Giảng dạy dân ca nghi lễ Tày ở Pác Nặm - Bắc Kạn
Giải hạn là một trong những nghi lễ tồn tại phổ biến trong đời sống của cộng
đồng người Tày truyền thống và hiện đại ở huyện Pác Nặm - Bắc Kạn. Là một giáo
viên công tác tại huyện Pác Nặm - Bắc Kạn 12 năm và xuất phát từ thực tiễn cuộc
sống và công việc của một giáo viên Ngữ văn ở trường THPT Bộc Bố, tôi mong
muốn tìm hiểu bản sắc dân tộc, nghi lễ văn hóa truyền thống của dân tộc Tày, cũng
như của các dân tộc khác để có thể giảng dạy những giá trị nhân văn, nhân bản cho
những người học trò địa phương thật sâu sắc và đầy đủ với tâm hồn con người và
bản sắc văn hóa địa phương. Tôi nghĩ, là một thầy giáo dạy văn, mình cần hiểu văn
học từ bối cảnh văn hóa, từ văn hóa lại hiểu thêm cái hay cái đẹp của ngôn ngữ
trong những áng văn gắn liền với phong vị đời sống văn hóa dân gian. Từ đó tạo
tiền đề đi sâu tìm hiểu, khám phá các tác phẩm và giúp học sinh có cái nhìn sâu sắc
hơn về bản sắc, văn hóa của dân tộc mình.
2
2. Lịch sử vấn đề
Cho đến nay, vấn đề tín ngưỡng giải hạn của dân tộc Tày đã trở thành đối
tượng của không ít nhà khoa học và vấn đề liên quan đến người Tày đã được đề
cập đến trong một số công trình nghiên cứu.
Ngay từ thời phong kiến, các nhà sử học đã nói tới xã hội, phong tục tập
quán của các dân tộc thiểu số trong đó có người Tày. Tiêu biểu là tác phẩm Kiến
văn tiểu lục của Lê Qúy Đôn, cuốn sách đã đề cập đến văn hóa của người Tày
nói chung.
Cuốn Văn hóa Tày Nùng của Lã Văn Lô, Hà Văn Thư đã giới thiệu khá đầy
đủ về xã hội, con người và văn hóa dân tộc Tày, Nùng ở Việt Namn nói chung.
Cuốn Các dân tộc Tày- Nùng ở Việt Nam do Viện dân tộc học xuất bản
năm 1992 là công trình nghiên cứu có tính toàn diện và công phu nhất về điều
kiện tự nhiên, dân cư, lịch sử tộc người, kinh tế truyền thống, văn hóa, vật chất,
văn hóa tinh thần, tổ chức xã hội…của hai dân tộc Tày, Nùng nói chung.
Cuốn Văn hóa truyền thống Tày- Nùng của tác giả Hoàng Quyết, Ma
Khánh Bằng, Hoàng Huy Phách, Cung Văn Lược, Vương Toản đã miêu tả và
trình bày khá đầy đủ về xã hội và văn hóa Tày Nùng, chữ nôm Tày- Nùng, văn
học dân gian, nghệ thuật làm nhà ở của người Tày, Nùng ở Việt Nam.
Cuốn Phong tục tập quán dân tộc Tày ở Việt Bắc của tác giả Hoàng Quyết,
Tuấn Dũng đã tập trung nghiên cứu sâu về đời sống văn hóa tinh thần của dân
tộc Tày ở khu vực Việt Bắc với những phong tục tập quán như tục lệ đặt tên làng,
tập quán nhà ở, ăn mặc, thờ cúng tổ tiên, lễ cưới từ xa xưa của người Tày.
Trên cơ sở các mục tiêu nghiên cứu đã nêu, tôi triển khai nghiên cứu này
nhằm thu thập hai loại tài liệu nghiên cứu. Loại thứ nhất là kết quả nghiên cứu
(sách, báo, luận án…) đã được các nhà khoa học công bố về người Tày, văn hóa
Tày và đời sống tín ngưỡng cũng như đời sống tâm linh của người Tày ở Việt
Nam. Loại thứ hai quan trọng hơn đó là các tài liệu dân tộc học do tôi thu thập
được trong quá trình điền dã ở trên địa bàn nghiên cứu.
3
Trong phạm vi nghiên cứu này, tôi sử dụng khái niệm nghi lễ giải hạn với
ý nghĩa là chỉ hình thức nghi lễ giải hạn của Then và Mo, diễn xướng giải hạn
qua các lời dân ca của dân tộc Tày.
Với tầm quan trọng của nó trong đời sống văn hóa của dân tộc Việt Nam
nói chung, của mỗi tộc người cụ thể nói riêng, tài liệu nghiên cứu về tín ngưỡng
và nghi lễ phản ánh hai xu hướng chính về các vấn đề này. Thứ nhất, đó là những
công trình nghiên cứu mang tính lý luận và trình bày những đặc điểm chung của
các tín ngưỡng, các nghi lễ của các tộc người ở Việt Nam. Một trong số các công
trình nghiên cứu tiêu biểu theo hướng này là Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng
của Việt nam (2001) của tác giả Ngô Đức Thịnh đã có những phác họa về tín
ngưỡng của các tộc người ở Việt Nam. Trong đó, tác giả trình bày về những tín
ngưỡng: Tín ngưỡng thờ tổ tiên; Tín ngưỡng thờ thành hoàng; Đạo mẫu; Tín
ngưỡng Đức Thánh Trần; Tín ngưỡng nghề nghiệp. Tác giả cũng đưa ra mối quan
hệ giữa tín ngưỡng và âm nhạc cổ truyền, cũng như đưa ra những chức năng của
tín ngưỡng trong đời sống sinh hoạt cộng đồng. Có thể nói đây là một công trình
khái quát về tín ngưỡng của tộc người ở Việt Nam.
Công trình Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam (2007) của
tác giả Nguyễn Đức Lữ tìm hiểu về tín ngưỡng dân gian trong đời sống tinh thần
như lễ hội, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ mẫu, phồn thực và
mê tín dị đoan. Tác giả cũng phân tích thực trạng của những tín ngưỡng dân gian
cũng như những biểu hiện của chúng trong giai đoạn hiện nay.
Xu hướng nghiên cứu thứ hai là những khảo cứu về tín ngưỡng và nghi lễ
của các tộc người. Trong số đó, có thể kể ra công trình nghiên cứu của tác giả Lý
Hành Sơn trong cuốn Các nghi lễ chủ yếu trong đời người của nhóm Dao tiền ở
Ba Bể, Bắc Kạn (2001) đã phân tích sắc thái địa phương, tính thống nhất và đa
dạng trong văn hóa Dao, tạo cơ sở khoa học để phát huy những mặt tích cực và
hạn chế những mặt tiêu cực của các nghi lễ trong việc xây dựng nếp sống mới ở
vùng người Dao tiền.
4
Đời sống tín ngưỡng và nghi lễ của người Tày cũng thu hút được sự quan
tâm nghiên cứu của các nhà khoa học. Một số công trình nghiên cứu tiêu biểu
liên quan đến chủ đề này bao gồm nghiên cứu của tác giả La Công ý trong Đến
với người Tày và văn hóa Tày (2010), phân tích nhiều khía cạnh của đời sống
người Tày với một sự khái quát cao. Với tư liệu thu được từ các chuyến điền dã
trong gần 30 năm, kết hợp với các tài liệu khác, tác giả La Công ý đã có một
công trình viết về người Tày và văn hóa Tày khá đặc sắc. Ngoài những phần về
dân cư, ngôn ngữ lịch sử, phong tục tập quán… tác giả xem xét đời sống tín
ngưỡng và các nghi lễ của người Tày và khẳng định: Đề cập tới những giai tầng
xã hội người Tày không thể không nhắc tới những người làm nghề cúng bái bao
gồm 4 nhóm khác nhau là: Tào, mo, then, pựt. Có thể nói đây là tầng lớp xã hội
đặc biệt cho dù xem xét về mặt nhân khẩu họ chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ nhưng
lại có ảnh hưởng hết sức to lớn đối với người dân ở địa phương.
Công trình nghiên cứu Tín ngưỡng dân gian Tày, Nùng (2009) của tác giả
Nguyễn Thị Yên, trên cơ sở tập trung khảo tả ở 4 tỉnh (Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng
Sơn, Thái Nguyên), đã có những phân tích chi tiết về đời sống tín ngưỡng dân
gian của người Tày, Nùng, thực trạng và biến đổi trong đời sống tín ngưỡng dân
gian cũng như các chức năng đời sống tín ngưỡng dân gian trong văn hóa Tày,
Nùng. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả cũng mô tả và phân tích về một
số nghi lễ tiêu biểu: Lễ cấp sắc của Pụt Nùng; Lễ cấp sắc của then Tày; Lễ đầy
tháng của Pụt Tày; Lễ mừng thọ của Then Tày… Có thể nói đây là một tác phẩm
phân tích khá sâu đời sống tín ngưỡng và lễ hội của các tộc người Tày, Nùng.
Riêng về nghi lễ Then, tác giả phân tích ở các khía cạnh: nguyên nhân, thời điểm
cũng như các hình thức diễn xướng trong nghi lễ và chức năng chữa bệnh của
những người hành nghề Then.
Từ hệ thống các nguồn tư liệu dân tộc học, xã hội học, lịch sử văn hóa
Tày, đặc biệt là tình hình nghiên cứu tin ngưỡng giải hạn những năm gần đây,
tôi thấy cho đến này cho dù còn ít những công trình nghiên cứu về tin ngưỡng
5
giải hạn dân tộc Tày, và chưa có một công trình nghiên cứu về tin ngưỡng giải
hạn dân tộc Tày một cách tỉ mỉ, nhưng diện mạo văn hóa, văn học dân gian Tày
đã được hiện diện khá đầy đủ, là cơ sở quan trọng để tôi có thể đi sâu vào tìm
hiểu tin ngưỡng giải hạn dân tộc Tày, cho đến nay vẫn là một vấn đề bỏ ngỏ,
nghiên cứu đề tài này là một việc làm hữu ích để hiểu hơn về những giá trị văn
hóa tinh thần mang đậm bản sắc của một dân tộc. Đồng thời giúp cho cá nhân tôi
có cái nhìn sâu sắc hơn về giá trị văn hóa của dân tộc Tày và có những bài giảng
hay trong phần Văn học địa phương của môn học.
Trong quá trình nghiên cứu tôi cố gắng khai thác những biểu hiện cụ thể
của tín ngưỡng giải hạn của dân tộc Tày cả về nội dung và nghệ thuật của văn
bản tín ngưỡng giải hạn, đặc điểm diễn xướng tín ngưỡng giải hạn và phương
thức bảo tồn tín ngưỡng giải hạn.
Bản thân tôi mặc dù là người con dân tộc Kinh, nhưng cũng rất may mắn
được công tác và sống gần gũi với bà con 12 năm nên phần nào cũng hiểu được
phong tục tập quán và đã nhiều lần chứng kiến lễ giải hạn của dân tộc Tày, nên
phần nào hiểu được đời sống văn hóa tín ngưỡng, phong tục tập quán của dân
tộc Tày. Từ đó tôi mong muốn tìm hiểu về mối liên hệ của tín ngưỡng giải hạn
dân tộc Tày ở huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn từ một hoạt động sinh hoạt tín
ngưỡng văn hóa đến việc khám phá những giá trị nội dung, nghệ thuật của văn
bản tin ngưỡng giải hạn dân tộc Tày ở Pắc Nặm dưới góc độ một tác phẩm Văn
học dân gian, một chủ đề Văn học địa phương nằm trong quá trình giảng dạy
môn Ngữ văn ở trường THPT. Hơn nữa giúp học sinh có cái nhìn sâu sắc hơn về
bản sắc, văn hóa của dân tộc mình, giúp các em thêm yêu quê hương mình, đất
nước mình và mỗi học sinh luôn phát huy, giữ gìn và bảo tồn giá trị văn hóa của
các dân tộc trên đất nước Việt Nam.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nghi lễ giải hạn qua những bài dân
ca: Lẩu Then và Mo Tày ở huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn.
6
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung vào nghiên cứu văn học từ góc độ văn hóa trong tín
ngưỡng giải hạn dân tộc Tày, qua đó để hiểu thế giới quan, quan niệm của người
Tày về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc, gặp nhiều may mắn trong một năm và
mùa màng được bội thu… Đặc biệt luận văn đi sâu vào tìm hiểu nội dung của
văn bản dân ca nghi lễ giải hạn dân tộc Tày về giá trị nghệ thuật và đặc điểm
diễn xướng của nghi lễ giải hạn, các yếu tố tín ngưỡng, tôn giáo ảnh hưởng đến
tín ngưỡng giải hạn dân tộc Tày huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tìm hiểu nghiên cứu tín ngưỡng giải hạn dân tộc Tày nhằm:
Thấy được những giá trị nhiều mặt của một loại hình nghệ thuật dân tộc
trên địa bàn cụ thể. Qua đó chỉ ra được các đặc điểm cũng như nét đặc thù của
tín ngưỡng giải hạn dân tộc Tày huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn.
Chỉ ra giá trị của tín ngưỡng giải hạn dân tộc Tày và phương thức bảo tồn
những giá trị này trong xã hội ngày nay.
Từ một nghiên cứu cụ thể dân ca nghi lễ giải hạn, tôi hi vọng sẽ có những
bài giảng hay trong phần Văn học địa phương và giúp các em học sinh có cái
nhìn sâu sắc hơn về bản sắc, văn hóa của dân tộc mình, giúp các em thêm yêu
quê hương mình, đất nước mình, đồng thời tôi hi vọng góp thêm tiếng nói trong
việc nghiên cứu văn học dân gian của dân tộc Tày ở tỉnh Bắc Kạn.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luân văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
Tập hợp tư liệu văn bản của dân ca nghi lễ giải hạn dân tộc Tày. Khảo sát tín
ngưỡng giải hạn dân tộc Tày (số lượng, nội dung, các chặng tín ngưỡng giải hạn
dân tộc Tày, các hình thức diễn xướng…), tại huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn.
Nghiên cứu giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật biểu hiện trong các văn bản
dân ca nghi lễ được diễn xướng trong nghi lễ giải hạn của dân tộc Tày Pác Nặm,
tỉnh Bắc Kạn.
7
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thống kê, phân loại.
Phương pháp phân tích tổng hợp.
Phương pháp đối chiếu, so sánh.
Phương pháp nghiên cứu liên ngành.
Phương pháp điền dã.
6. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, luận văn gồm các nội dung chính theo bố cục sau:
Chương 1: Tổng quan về tín ngưỡng giải hạn qua dân ca nghi lễ dân tộc
Tày huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn.
Chương 2: Đặc điểm nội dung tín ngưỡng giải hạn qua dân ca nghi lễ dân
tộc Tày huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn.
Chương 3: Giá trị nghệ thuật tín ngưỡng giải hạn qua dân ca nghi lễ dân
tộc Tày huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn.
7. Dự kiến kết quả nghiên cứu
Dựa vào nguồn tài liệu đã khảo sát từ những bài Then và Mo Tày về tín
ngưỡng giải hạn dân tộc Tày huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn, luận văn đã góp
phần giới thiệu đời sống văn hóa cũng như văn học dân gian dân tộc Tày ở huyện
Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn, luận văn sẽ đi sâu tìm hiểu tập tục tín ngưỡng giải hạn
từ các giá trị văn hóa của tín ngưỡng luận văn chỉ ra và khắc sâu được các giá trị,
nội dung và nghệ thuật trong các bản dân ca nghi lễ giải hạn của người Tày. Từ
đó nhằm cung cấp một bức tranh toàn cảnh về tín ngưỡng giải hạn dân tộc Tày
huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn.
Luận văn góp phần cho người đọc hiểu thêm bản sắc của các dân tộc thiểu
số ở Việt Nam. Qua đó giúp cho người đọc quan tâm và hiểu sâu sắc hơn nội
dung mang tính nhân văn của những bản dân ca nghi lễ truyền thống của dân tộc
Tày ở Pác Nặm. Đặc biệt qua luận văn giúp cho những thầy giáo, cô giáo dạy
môn Ngữ văn như tôi có nhiều nguồn tư liệu, kiến thức để dạy học có hiểu quả
cho các thế hệ học sinh thấy được nét đẹp bản sắc dân tộc mình. Từ đó các em
có trách nhiệm giữ gìn, bảo tồn các giá trị văn hóa, văn học bản địa, và thêm yêu
quê hương, đất nước.
8
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÍN NGƯỠNG GIẢI HẠN QUA DÂN CA NGHI LỄ
DÂN TỘC TÀY HUYỆN PÁC NẶM, TỈNH BẮC KẠN
Dân ca Tày (Tày - Nùng) nói chung và dân ca Tày Bắc Kạn nói riêng được
nhiều nhà nghiên cứu trong các lĩnh vực: văn học dân gian, âm nhạc học, dân tộc
học… giới thiệu nhưng số lượng không nhiều. Khi đề cập tới nghệ thuật, văn
học, (thơ nôm, truyện cổ tích…), đa số đều quy gộp hai tộc người Tày - Nùng
thành một. Cần nói rõ tính lịch sử quá trình sống đan cài người Tày - Nùng tạo
nên mối liên hệ chặt chẽ, hình thành tự nhiên giao thoa văn hóa Tày - Nùng nhiều
vùng khác nhau, điển hình là Lạng Sơn, tại Bắc Kạn, Cao Bằng, Tuyên Quang…
hiện tượng hợp hôn, hỗn dung Tày - Nùng chưa đậm, do đó dân ca Tày vẫn
nguyên sơ và thuần Tày.
Trong lĩnh vực dân tộc học, một số tài liệu chỉ rõ người Tày là tộc người
bản địa xuất hiện ở Việt Nam cách đây hàng ngàn năm, lịch sử vẫn gọi người
Tày là Âu Việt hay Tây Âu [6, tr.47].
Với âm nhạc học, số lượng nghiên cứu chưa nhiều, điển hình có các tác giả:
Đàm Thế Vấn, Hoàng Tuấn, Nông Thị Nhình là những người đã nhiều năm ghi
chép, điền dã, ghi âm làn điệu thành bản phổ.
Địa danh Bắc Kạn ghép với Thái Nguyên thành Bắc Thái trong vùng Đông
Bắc gọi là Việt Bắc dẫn đến lối tư duy đa hợp (tổng thể là chính, chi tiết là phụ)
từ nhiều lĩnh vực khác nhau.
Dân ca Tày là bộ phận của nền âm nhạc dân tộc Việt Nam, có thể chia thành
các hướng nghiên cứu sau:
1.1. Các công trình nghiên cứu về văn hóa, văn học dân gian, văn hóa tâm
linh của người Tày
Trong những năm 1950 đến 1980, ở miền Bắc Việt Nam (và trong cả nước
từ sau 1975), các hình thức tín ngưỡng và nghi lễ truyền thống bị ngăn cấm, vì
bị coi là mê tín, không khoa học và lãng phí. Trong những quãng thời gian này,
9
mê tín dị đoan được định nghĩa là bất cứ một thực hành nào liên quan trực tiếp
tới bùa chú và có liên quan đến thế giới thần linh hay các thế lực siêu nhiên. Một
trong những chính sách có tác động lớn nhất ở tất cả các mặt của đời sống kinh
tế - xã hội miền Bắc là chương trình xây dựng “cuộc sống mới và con người mới”
diễn ra trong những năm 1960 - 1980 của thế kỷ XX. Đảng và Nhà nước lúc đó
muốn xây dựng con người mới bằng chủ trương xóa bỏ mê tín dị đoan mà một
trong những biểu hiện cụ thể của nó chính là không gian thiêng như đình, chùa,
đền, miếu... và những thực hành tín ngưỡng và nghi lễ truyền thống gắn với các
không gian thiêng này. Hậu quả của chủ trương này là có một số lượng đáng kể
các không gian thiêng bị phá hủy. Ở những nơi không bị phá hủy thì các hoạt
động gắn với các không gian thiêng cũng bị ngừng hoặc nằm trong sự kiểm soát
của chính quyền nhà nước ở địa phương.
Từ năm 1986, công cuộc đổi mới đã tạo ra những biến đổi mạnh mẽ về kinh
tế, xã hội, khi nền kinh tế đất nước được chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hôi chủ
nghĩa. Cũng trong quá trình này, Đảng và Nhà nước thể hiện rõ việc coi trọng và
cởi trói cho các hoạt động tín ngưỡng, nghi lễ và lễ hội. Theo tác giả Trần Minh
Thư (2005), hàng loạt văn bản của Nhà nước ban hành thấy rõ một sự điều chỉnh
theo thời gian được thể hiện ở nhiều cấp độ, từ Hiến pháp năm đến các Chỉ thị của
Thủ tướng chính phủ liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng, nghi lễ và lễ hội nhìn
chung là theo hướng từ cấm đoán đến công nhận.
Với tầm quan trọng của nó trong đời sống văn hóa của dân tộc Việt Nam
nói chung, của mỗi tộc người cụ thể nói riêng, tài liệu nghiên cứu về tín ngưỡng
và nghi lễ phản ánh hai xu hướng chính về các vấn đề này. Thứ nhất đó là công
trình nghiên cứu mang tính lý luận và trình bày những đặc điểm chung của các
tín ngưỡng, các nghi lễ của các tộc người ở Việt Nam. Một trong số các công
trình nghiên cứu tiêu biểu theo hướng này là Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng
của Việt Nam (2001) của tác giả Ngô Đức Thịnh đã có những phác họa về tín
10
ngưỡng của các tộc người ở Việt Nam. Trong đó, tác giả đã trình bày về những
tín ngưỡng: tín ngưỡng thờ tổ tiên; tín ngưỡng thờ thành hoàng; Đạo mẫu; tín
ngưỡng Đức Thánh Trần... tác giả cũng đưa ra mối quan hệ giữa tín ngưỡng và
âm nhạc cổ truyền, cũng như đưa ra những chức năng của tín ngưỡng trong đời
sống sinh hoạt cộng đồng. Có thể nói đây là một công trình khái quát về tín
ngưỡng của các tộc người ở Viết Nam.
Công trình Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam (2007) của
tác giả Nguyễn Đức Lữ tìm hiểu về tín ngưỡng dân gian trong đời sống tinh thần
như lễ hội, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ Mẫu, phồn thực và
mê tín dị đoan. Tác giả cũng phân tích thực trạng của những tín ngưỡng dân gian
cũng như những biểu hiện của chúng trong giai đoạn hiện nay.
Xu hướng nghiên cứu thứ hai là những khảo cứu về tín ngưỡng và nghi lễ
của các tộc người. Trong số đó, có thể kể ra công trình nghiên cứu của tác giả Lý
Hành Sơn trong cuốn Các nghi lễ chủ yếu trong đời người của nhóm Dao tiền ở
Ba Bể, Bắc Kạn (2001) đã phân tích sắc thái địa phương, tính thống nhất và đa
dạng trong văn hóa Dao, tạo cơ sở khoa học để phát huy những mặt tích cực và
hạn chế những mặt tiêu cực của các nghi lễ trong việc xây dựng nếp sống mới ở
vùng người Dao tiền.
Đoàn Tuấn Anh trong công trình Nghi lễ nông nghiệp của người Ba Na ở
tỉnh Gia Lai (2012) đã nghiên cứu sâu và có hệ thống về nghi lễ nông nghiệp của
người Ba Na ở tỉnh Gia Lai, trong đó tác giả đã trình bày các yếu tố mới tác động
dẫn đến việc biến đổi của nghi lễ nông nghiệp đồng thời khẳng định lại những
giá trị bền vững và đề xuất một số giải pháp để bảo tồn.
Tác giả Nguyễn Thị Song Hà trong Nghi lễ chu kỳ đời người của người
Mường ở Hòa Bình (2011) trình bày bức tranh có hệ thống và toàn diện về nghi
lễ chu kỳ đời người của người Mường ở Hòa Bình, từ đó làm rõ những đặc điểm
và sắc thái của nó trong xã hội truyền thống, đồng thời bước đầu so sánh, làm rõ
những điểm tương đồng và khác biệt trong nghi lễ chu kỳ đời người của người
11
Mường ở Hòa Bình với người Mường ở các tỉnh khác. Làm rõ sự biến đổi của
chu kỳ đời người từ truyền thống tới hiện đại, đồng thời chỉ ra những nguyên
nhân của sự biến đổi. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu tác giả đã đề xuất một số
kiến nghị góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị trong nghi lễ chu kỳ đời
người của người Mường ở Hòa Bình trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập hiện nay.
1.2. Các công trình nghiên cứu về văn hóa, văn học dân gian, nghệ thuật dân
gian của người Tày
Đời sống tín ngưỡng và nghi lễ của người Tày cũng thu hút được sự quan
tâm nghiên cứu của các nhà khoa học. Một số công trinh nghiên cứu tiêu biểu
liên quan đến chủ đề này bao gồm nghiên cứu của tác giả La Công Ý trong Đến
với người Tày và văn hóa Tày (2010) phân tích nhiều khía cạnh của đời sống
người Tày với một sự khái quát cao. Với tư liệu thu được từ các chuyến điền dã
trong gần 30 năm, kết hợp với các tài liệu khác, tác giả La Công Ý đã có một
công trình viết về người Tày và văn hóa người Tày khá đặc sắc. Ngoài những
phần về dân cư, ngôn ngữ lịch sử, phong tục tập quán... tác giả xem đời sống tín
ngưỡng và các nghi lễ của người Tày và khẳng định: Đề cập tới những giai tầng
xã hội người Tày không thể không nhắc đến những người làm nghề cúng bái bao
gồm 4 nhóm khác nhau là Tào, Mo, Then, Pựt. Có thể nói đây là tầng lớp xã hội
đặc biệt cho dù xét về mặt nhân khẩu họ chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ nhưng lại có
ảnh hưởng hết sức to lớn đối với người dân ở địa phương. Cụ thể, trong chương
VI của cuốn sách này, ở mục “Tín ngưỡng dân gian” [29, tr.371- tr.385], tác giả
đã nêu khái quát về đời sống tín ngưỡng của người Tày ở Việt Nam, qua đó
khẳng định thuyết đa thần, thuyết linh hồn bất tử, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên,
đồng thời bàn về các ông Then, bà Then và vai trò chữa bệnh của họ thông qua
ma thuật, bùa ngải.
Từ thập kỷ 70 trong thế kỷ XX, có một vài công trình viết về dân ca và
văn hóa Tày Nùng. Trước hết phải nhắc tới Vi Hồng, tác giả cuốn sách Sli
12
lượn dân ca trữ tình Tày- Nùng, nhà xuất bản Văn hóa phát hành năm 1976.
Đây là biên khảo công phu, là kết quả nhiều năm nghiên cứu các biểu tượng
trong văn hóa dân gian Tày Nùng. Cách bố cục công trình gồm 5 phần chính
gọi là lớp đề tài:
Lớp 1: đề tài vũ trụ, lý giải thời xa xưa các quan niệm về trời đất, trăng sao
cùng hiện tượng thiên nhiên qua các truyện cổ tích, thần thoại của người Tày.
Lớp 2: thiên nhiên và miền núi, với sắc thái tươi tắn, tràn đầy sức sống, các
loài vật, cỏ cây hoa lá làm biểu tượng trong văn hóa Tày.
Lớp 3: đề tài hiện thực, ý nghĩa bao gồm những người sáng tạo ra tinh thần,
vật chất, chủ yếu bày tỏ tình cảm trai gái trao duyên.
Lớp 4: thân phận thấp hèn, mô tả sự phân chia giai cấp trong xã hội phong
kiến Tày ngày trước.
Lớp 5: xuất xứ một vài điều, tác giả cố gắng làm sáng tỏ nguồn cội sâu xa
trong nội dung sli - lượn, chứng minh người Tày là chủ nhân địa bàn cổ xưa khu
vực Việt Bắc.
Vi Hồng giới thiệu trong cuốn sách dày 315 trang nhiều đặc trưng về giai
tầng xã hội Tày Nùng, đề cao giá trị thẩm mĩ sli lượn. Đây là công trình nghiên
cứu chuyên sâu về văn học dân gian, được giới văn học rất quan tâm, tìm hiểu.
Để viết cuốn sách, trước đó (1976) Vi Hồng đã viết bài Vài suy nghĩ về hát quan
lang, lượn, phong Slư trên tạp chí văn học, điều này chứng minh tác giả trải qua
thời gian dài chuẩn bị đề tài.
Công trình nghiên cứu Tín ngưỡng dân gian Tày, Nùng (2009) của tác giả
Nguyễn Thị Yến, trên cơ sở tập trung khảo tả 4 tỉnh (Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng
Sơn, Thái Nguyên), đã có những phân tích khá chi tiết về đời sống tín ngưỡng
dân gian của người Tày, Nùng, thực trạng và biến đổi trong đời sống tín ngưỡng
dân gian cũng như các chức năng của đời sống tín ngưỡng dân gian trong văn
hóa Tày, Nùng. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả cũng mô tả và phân
tích về một số nghi lễ tiêu biểu: Quyển đẳm trong đám tang thầy cúng người Tày,
13
Hát thợ trong đám tang của người Tày, lễ cấp sắc của Pụt Nùng, Lễ cấp sắc của
Then Tày, Lễ đầy tháng của Pụt Tày, Lễ mừng thọ của Then Tày, Lễ chữa bệnh
của Then Tày. Có thể nói đây là một tác phẩm khá sâu đời sống tín ngưỡng và lễ
hội của các dân tộc Tày, Nùng. Riêng về nghi lễ Then, tác giả xem xét như một
trong những nghi lễ tiêu biểu trong đời sống tín ngưỡng của người Tày và tác giả
phân tích ở các khía cạnh: nguyên nhân, thời điểm cũng như các hình thức diễn
xướng trong nghi lễ và chức năng chữa bệnh của những người hành nghề Then.
Trong công trình nghiên cứu khác có tựa đề Đời sống tín ngưỡng của người
Tày ven biên giới Hạ Lang, Cao Bằng tác giả Nguyễn Thị Yên dành một chương
(chương2) trình bày chi tiết hơn về các hình thức văn hóa tín ngưỡng của người
Tày ở khu vực biên giới Hạ Lang, Cao Bằng. Theo tác giả thì có 4 hình thức văn
hóa tín ngưỡng tiêu biểu, đó là Then và hình thức văn hóa tín ngưỡng Then; Tào
và sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng Tào; siên và sinh hoạt sinh hoạt văn hóa tín
ngưỡng tín ngưỡng siên; thầy phường. Về vấn đề Then, tác giả đã giới thiệu
chung về Then, dụng cụ hành nghề, lý do hành nghề, các nghi lễ phục vụ cho
cộng đồng làng bản; các nghi lễ theo yêu cầu của các gia chủ; các nghi lễ đối với
bản thân Then. Trong các nghi lễ được thực hiện theo yêu cầu của các gia chủ,
tác giả khẳng định thực hành các nghi lễ giải hạn, cầu an là một trong những
công việc quan trọng nhất của những người hành nghề Then.
Tác giả Hà Đình Thành trong cuốn Văn hóa dân gian Tày, Nùng ở Việt Nam
(2010) đã nghiên cứu văn hóa dân gian Tày, Nùng trong bối cảnh văn hóa dân
gian Việt Nam để tìm ra những nét văn hóa tiêu biểu, đặc sắc của hai dân tộc
này. Tập trung phân tích tổ chức xã hội của người Tày và khẳng định tổ chức xã
hội truyền thống của người Tày ở cấp địa phương chính là thôn bản. Thôn bản
với người Tày là một cộng đồng “cộng mệnh”, tức là sự gắn bó cộng đồng trên
cơ sở cùng tồn thờ những biểu hiện tâm linh và sự che chở của thần bản mệnh
cho thôn bản. Thôn bản cũng là nơi “cộng cảm” văn hóa, là nơi nương tựa, đùm
bọc, giúp đỡ, là nơi thực hành các nghi lễ cúng tế thu hút sự tham gia của người
14
dân trong bản. Tác giả cũng khẳng định người thực hành những nghi lễ mang
tính tín ngưỡng chính Mo, Then, những người có vai trò quan trọng trong đời
sống cộng đồng tộc người và họ thường có uy tín cao trong cộng đồng.
Liên quan đến tín ngưỡng của người Tày còn có cuốn Táng mừa pja lệ đằm
của tác giả Hoàng Hạc (sưu tầm và biên soạn năm 2004). Trong công trình này,
tác giả Hoàng Hạc đã giới thiệu hình thức hát bụi trong cúng vía và cúng mụ của
dân tộc Tày. Ngoài ra ta còn có thể kể đến một số công trình đề cập đến một nghi
lễ cụ thể như: Việc tang lễ cổ truyền của người Tày của Hoàng Tuấn Nam (1990);
Then cấp sắc của người Tày ở huyện Quảng Uyên tỉnh Cao Bằng của Nguyễn
Thị Yên (2005); Tục cưới xin của dân tộc Tày của Triều Ân, Hoàng Quyết
(2010).
Năm 1984, Lã Văn Lô và Hà Văn Thư viết cuốn Văn hóa Tày Nùng dày 160
trang gồm 3 phần, 2 phần đầu do Lã Văn Lô viết, phần 3 do Hà Văn Thư viết.
Phần 1: Giới thiệu xã hội và con người, tác giả trình bày theo phương pháp
lịch sử, dẫn giải khái lược người Tày Nùng từ thời Âu Lạc tới 1945 với những
tương đồng trong văn hóa.
Phần 2: Truyền thống văn hóa, gồm 2 chương
Chương 1: Thế giới quan, nhân sinh quan, tín ngưỡng tôn giáo, phong tục
tập quán với 5 đề mục. Tác giả trình bày quan niệm cổ xưa về trời đất và con
người qua truyện thần thoại, cổ tích của người Tày - Nùng. Từ đó quy nạp hệ ý
thức bằng các hình thức tín ngưỡng nguyên thủy pha trộn với tôn giáo du nhập
từ nhiều nơi: Đạo giáo, Khổng giáo, Phật giáo phù hợp với tầng lớp nông dân
Tày. Trong các mục tiếp theo tác giả liệt kê và khảo tả một số loại hình văn hóa
dân gian: ngày hội ngày tết truyền thống, tục lệ cưới xin, sinh đẻ, ma chay, cúng
giỗ, ăn sinh nhật, làm nhà, ăn mừng nhà mới.
Chương 2: Văn học nghệ thuật truyền thống gồm 6 đề mục. Tiếng nói, chữ
viết là điều kiện tiên quyết hình thành nên các đề mục sau như: thành ngữ, tục
15
ngữ, ca dao, cổ tích thần thoại, thơ ca cổ truyền, giới thiệu một số nhà nho Tày
trước cách mạng tháng 8, cuối chương 2 là mục: nghệ thuật trang trí, nhạc múa,
mục này tác giả còn viết khiên cưỡng, sơ lược.
Phần 3: Khái quát về văn hóa Tày Nùng sau cách mạng tháng tám gồm 7
nội dung chính:
- Tư tưởng khoa học chủ nghĩa Mác-Lênin tạo ra cách làm chủ tập thể.
- Lớp người Tày - Nùng mới ra đời nêu cao chủ nghĩa anh hung cách mạng.
- Cách tổ chức đời sống và quan hệ giữa người với người.
- Cấu trúc gia đình mới với các thành phần tộc người cùng chung sống dưới
mái nhà chung.
- Khoa học kỹ thuật, văn hóa nghệ thuật trở thành nhân tố không thể thiếu
trong thôn, bản.
- Truyền thống văn hóa tốt đẹp của ông cha được khai thác, phổ biến.
- Phong trào văn hóa văn nghệ quần chúng ngày càng tiến bộ về nội dung
và hình thức.
Cuốn văn hóa Tày - Nùng đề cập tương đối toàn diện về lịch sử, xã hội,
phong tục, tập quán… của người Tày- Nùng, đặc biệt rất có ích như một tài liệu
tham khảo.
Ngoài ra một số bài viết mô tả với cảm nhận khác nhau như:
Vi Quốc Bảo (1971) viết dân ca đám cưới Tày - Nùng: Văn hóa các dân tộc
trên tạp chí Văn hóa nghệ thuật (số 3). Hoặc Lợi Chung (1993) đề cập tới âm
nhạc với không gian ban ngày ở bản Tày, Nùng trên tạp chí nghiên cứu văn hóa
nghệ thuật (số 1).
1.3. Các công trình nghiên cứu âm nhạc dân gian
- Điển hình là cuốn Dân ca Tày của nhà nghiên cứu âm nhạc Hoàng Tuấn,
dày 166 trang do nhà xuất bản âm nhạc in, phát hành năm 2000. Là người làm
công tác giảng dạy lý luận tại trường Văn hóa Nghệ thuật Việt Bắc, Nhạc viện
Hà Nội, bản thân là người Tày nên nhạc sĩ Hoàng Tuấn dành nhiều thời gian,
công sức tiến hành khảo sát, xây dựng mô hình âm nhạc dân gian Tày. Cuốn sách
chia làm 5 chương:
16
Chương 1: Đại cương về người Tày.
Chương 2: Ca hát không có nhạc đệm.
Chương 3: Hát giao duyên - lượn slao báo.
Chương 4: Ca cúng lễ hát then.
Chương 5: Nhạc khí - nhạc múa.
Đây là cuốn sách nghiên cứu toàn diện theo góc độ âm nhạc dân tộc học, từ
chương 1 tới chương 5 tác giả trình bày như không tuân theo một cấu trúc, nhưng
xem kỹ cho thấy đây là bố cục hợp lý khi nội dung lớn, tính khái quát cao, tác
giả đã khảo sát trong không gian rộng từ Cao Bằng tới Quảng Ninh, tại các vùng
cư trú dân cư Tày vùng Đông Bắc Việt Nam. Trong sách ví dụ về làn điệu, lối
hát trình bày dễ hiểu, cho thấy người viết có trình độ hiểu biết sâu sắc dân ca
Tày.
- Tác giả Nông Thị Nhình với hai cuốn sách:
+ Âm nhạc dân gian các dân tộc Tày- Nùng -Dao Lạng Sơn dày 235 trang
do nhà xuất bản Văn hóa dân tộc in năm 2000.
+ Nét chung và nét riêng của âm nhạc trong diễn xướng then Tày - Nùng
dày 279 trang do Viện âm nhạc in năm 2004.
- Dân ca đám cưới Tày- Nùng do Nông Minh Châu viết năm 1973 dày
130 trang, tác giả tập trung phần Thơ lẩu (hát đám cưới) với nhiều nội dung
phong phú.
- Cuốn Lượn Cọi Tày Nùng của Cung Khắc Lợi, Lê Bích Ngân, Nxb Văn
hóa dân tộc, Hà Nội, 1987. Cuốn sách giới thiệu một số đoạn lượn cọi được sưu
tầm và dịch ra tiếng Việt của hai tác giả với khoảng 1000 câu.
- Cuốn Lượn Cọi do Lục Văn Pảo sưu tầm - phiên âm - dịch và giới thiệu
dưới dạng song ngữ (Tày - Quốc ngữ), Nxb Văn hóa dân tộc xuất bản năm 1994.
Cuốn sách dày 647 trang với tổng số 21 bài dưới dạng song ngữ miêu tả về trình
tự các cung lượn của người Tày.
1.4. Những công trình khác
17
Điển hình là cuốn sách Văn hóa tín ngưỡng Tày Nùng, do Viện nghiên cứu
Văn hóa dân gian ấn hành năm 1997 dày 276 trang. Đây là công trình nghiên cứu
công phu nhất về văn hóa tín ngưỡng Tày Nùng ở Việt Nam do PGS. Vũ Ngọc
Khánh chủ biên cùng tập thể các nhà nghiên cứu tại Trung tâm Khoa học Xã hội
và Nhân văn quốc gia.
Năm 2004, cuốn sách Bản sắc và Truyền thống văn hóa các dân tộc tỉnh
Bắc Kạn dày 438 trang do Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc xuất bản, đây là loại
sách tổng hợp các tham chiếu về văn hóa học, dân tộc học, tín ngưỡng tôn giáo,
xã hội học cùng nhiều ngành khác. Nội dung trình bày tạo nên lượng thông tin
khoa học lớn, tập trung giới thiệu tổng quát tỉnh Bắc Kạn, được chuẩn bị công
phu nên cuốn sách đã tạo ra diện mạo rõ ràng nhìn từ nhiều góc độ khoa học xã
hội và nhân văn.
Như vậy, tín ngưỡng giải hạn qua dân ca nghi lễ của người Tày đã được các
nhà nghiên cứu tìm hiểu dưới các góc độ và mức độ khác nhau ở nhiều công trình
nghiên cứu. Trong đó, hướng tiếp cận nổi bật là nhiều tác giả nhấn mạnh đến vị
trí vai trò của ông/ bà Then, coi Then và những làn điệu dân ca trong Mo như
một hình thức diễn xướng dân gian, có chức năng chữa bệnh hoặc mang lại sự
an bình, niềm tin và sự lạc quan trong đời sống lao động thường nhật.
Mặt khác, những công trình nghiên cứu kể trên chủ yếu tập trung vào lĩnh
vực ngữ văn, văn hóa dân gian, âm nhạc dân gian Tày nói chung. Chưa thấy đề
cập chi tiết, tỉ mỉ hệ thống làn điệu, lối diễn xướng, đặc biệt đưa ra những biện
pháp bảo tồn giá trị nghệ thuật dân ca Tày ở huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn. Hơn
nữa giúp học sinh có cái nhìn sâu sắc hơn về bản sắc, văn hóa của dân tộc mình
và các em thêm yêu quê hương mình, đất nước mình và mỗi học sinh luôn phát
huy, giữ gìn và bảo tồn giá trị văn hóa của các dân tộc trên đất nước Việt Nam.
Tiểu kết chương 1
18
Văn hóa Tày và nhất là đời sống tín ngưỡng và nghi lễ của người Tày đã
được các nhà khoa học nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau. Trong đó, các
làn điệu dân ca, đặc biệt là nghi lễ Then và Mo của người Tày thu hút được sự
quan tâm nghiên cứu của một số nhà khoa học, trong đó có một số là người Tày
nghiên cứu về người Tày. Các tác giả đều nhấn mạnh vị trí và ý nghĩa của các
nghi lễ qua các làn điệu dân ca trong đời sống văn hóa Tày và có hướng tiếp cận
thiên về hình thức diễn xướng.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi một mặt ủng hộ tính hữu ích của việc xem
xét các nghi lễ dân ca của người Tày, đặc biệt là làn điệu Then và Mo (cũng như
cả một số nghi lễ khác của các tộc người khác, ví dụ như nghi lễ lên đồng...),
nhưng mặt khác cũng muốn nhấn mạnh thêm khía cạnh an ninh con người, nhất
là an ninh về sức khỏe và kinh tế trong những quan niệm và thực hành nghi lễ
giải hạn qua dân ca của người Tày. Chúng tôi nhấn mạnh rằng nghi lễ giải hạn
không phải là nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày, nhưng lại đang là
nghi lễ rất phổ biến và có tầm quan trọng đặc biệt trong cuộc sống của cộng đồng
người Tày ở địa bàn huyện Pác Nặm. Nghi lễ giải hạn của người Tày không chỉ
là sự thể hiện những giá trị văn hóa tộc người của người Tày mà còn là một cách
ứng phó của con người trước những rủi ro, bất an về sức khỏe và kinh tế.
19
Chương 2
ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG TÍN NGƯỠNG GIẢI HẠN QUA DÂN CA
NGHI LỄ DÂN TỘC TÀY HUYỆN PÁC NẶM, TỈNH BẮC KẠN
2.1. Những quan niệm của người Tày Pác Nặm liên quan tới tín ngưỡng giải
hạn qua dân ca nghi lễ Then của dân tộc Tày
2.1.1. Quan niệm về vũ trụ
Người Tày Pác Nặm quan niệm vũ trụ có 5 tầng. Thiên đường thượng giới
là tầng cao nhất, gọi là mướng phạ. Đây là tầng của Ngọc Hoàng Thượng Đế và
mường thiên đường - nơi hồn ma của loại người khi chết sẽ đến. Thứ hai, tầng
không gian vũ trụ bao la, gọi là mường bôn, là mường của mây gió trời xanh,
hồn ma chết vô gia cư. Thứ ba, tầng thế gian - mặt đất, tầng dành cho con người
và muôn loài sinh sống. Thứ tư, tầng dưới nước, xứ ấy là miền do Long Vương,
thủy thần quản lý. Các thần nơi thủy cung thường lên mặt đất để rình bắt hồn vía
của những người con trai, con gái đẹp đi làm bạn tình. Tầng cuối, nằm sâu dưới
đất là tầng âm phủ. Khi sống, nếu ai đó làm điều xấu, điều ác, hại nhân thì khi
chết sẽ bị đày xuống âm phủ, không có điều kiện để đậu thai, tái sinh được nữa.
2.1.2. Quan niệm về ma (phi), vía (khoăn), số phận (thổ), tướng mạo (mình)
Quan niệm về ma
Ma là hiện tượng siêu nhân, vô hình do ý thức con người tạo ra. Người
Tày Pác Nặm quan niệm có 8 tập hợp ma, thứ tự từ cao xuống thấp.
Thứ nhất: hệ ma trên trời (Ngọc Hoàng Thượng Đế). Hệ này là ma có
quyền uy, phép thuật cao nhất, ở trên thiên đường, nhìn thấy khắp nơi và biết
mọi việc ở thế gian vũ trụ. Ngọc Hoàng Thượng Đế là vua của thế hệ ma trên
trời. Ngọc Hoàng có lãnh thổ là vũ trụ bao la, đất đai, sông núi. Ngọc Hoàng
Thượng Đế không những là vua của thế hệ ma trên trời mà là vua của tất cả các
loại ma quỷ. Đội quân của Ngọc Hoàng có nhiều, nhưng được chia thành mấy
nhóm sau: Nhóm cận thần bên cạnh Ngọc Hoàng gồm có: Nam Tào, Bắc Đẩu,
như quan Khâm Sai của các vương triều người trần, chuyên đi làm việc dưới sự
20
chỉ bảo của Ngọc Hoàng; Nhóm thần có thần mặt trời, thần sấm sét, thần mưa,
thần gió, thần quản trị cung đình…; Nhóm quỷ là tập hợp quân, vừa làm điều
thiện, vừa làm điều ác; Nhóm phục vụ hầu hạ gồm: phụ hoàng, các công chúa,
nữ chúa.
Loại ma thư hai là các thánh thần ngự trị ở các núi cao, hang động lớn, bao
gồm thần thổ địa, thần lửa, thần cây to, chuyên cai quản cả một vùng rộng lớn hệ
thống núi nhất định. Ở Pác Nặm có thần canh giữ và người dân quan niệm là rất
thiêng, cứ vào ngày rằm thường có lễ vật, đặc biệt là những ngày mùng 1, mùng
2, mùng 3 và ngày 15 tháng 1, ngày âm lịch đầu năm. Điển hình như Bó nặm tại
trung tâm xã Bộc Bố huyện Pác Nặm.
Loại ma thứ ba là các thần đồi núi thấp ở gần làng, gần bản, nơi có cộng
đồng dân cư sinh sống. Nhóm này có rất nhiều loại, đứng đầu là thần của tên núi
đó.
Loại ma thứ tư là ma tổ của dòng họ, của từng người gia đình. Người Tày
nhà nào cũng có bản thờ tổ tiên, có nhà thờ đến 5 đời, nhưng chủ yếu là thờ đến
đời thứ thứ ba. Ma tổ có 3 nhóm. Nhóm thứ nhất là đi lên thiên đàng thượng giới,
ở lãnh địa nào là do Ngọc Hoàng Thượng Đế phân chia theo từng tộc, từng họ
riêng. Người Tày khi làm giỗ người chết thì chỉ cần làm một lần để đưa hồn ma
lên thiên đang với tổ tiên. Lên thiên đàng không phải để đậu thai sinh lại, mà là
lên trên ấy với ông bà, tổ tiên. Nhóm thứ hai là đi theo thể xác ở nghĩa địa, nhập
hội với tổ tiên đi trước ở nghĩa địa đó, thành một nhóm ma của một dòng họ.
Người Tày ở Pác Nặm không có nghĩa địa chung. Mỗi dòng họ có một nghĩa địa
riêng, rải rác trên những mảnh đất tốt ở các chân đồi núi thấp. Nhóm thứ ba là đi
theo con cháu về nhà của mình ở, hoặc nhà con cháu trong nội tộc làm ma tổ và
được thờ bởi ống nhang bằng cây nứa ở vách cửa sổ, gian đứng số một trong nhà
sàn. Ma tổ này trực tiếp ở với người sống, bảo vệ, phù hộ cho con cháu. Ngày lễ
tết hay những ngày trong nhà có việc lớn đều được con cháu thắp hương.
Loại ma thứ năm là loại ma ở những gia đình làm nghề thầy thuốc, thầy
cúng, chuyền nghề trị ốm đau, cứu người. Người Tày đặt tên cho loại ma này là
21
“then thư”, dịch ra chung là tổ thư, thư pháp. Ở đây những người hành nghề
cúng bái, loại ma “then thư” này vừa là ma tổ chung, vừa là tổ thư, pháp thư, thờ
ở vị trí thứ hai, sau hoặc ngoài ống nhang thờ ma tổ.
Loại ma thứ sáu là Mật “phi phai ra”, là loại ma của những người chết vô
gia cư, không có dòng tộc, con cháu tôn thờ và các loài động vật bốn chân mà
con người nuôi. Mật này chỉ ở vị trí chôn cất.
Loại ma thứ bảy là ma cà rồng, ma ôn, ma điên, ma dại. Loại ma này là
vía của một số người biến thành. Đây là loại ma ác, người nào bị ma cà rồng
nhập vào là ốm đau triền miên, gia đình đó bị khuynh gia, bại sản.
Loại ma thứ tám là Long Vương, thủy tề, chuyên ở dưới nước. Long
Vương có đội quân ở gần người nhất là thuồng luồng. Khi thấy con gái đẹp, phụ
nữ đến tuổi sinh sản ốm đau, chữa thuốc mà lâu chưa khỏi, khát nước, da vàng
là do Long Vương bắt vía.
Ngoài tám loại ma này ra, người Tày ở Pác Nặm quan niệm còn có nhiều
ma thần khác như Bà Mụ, Ông Bụt, Ông Tiên, Cô Tiên. Đây là những loại ma
thần thân thiện, giúp đỡ con người.
Quan niệm về vía (khoăn)
Cũng giống như nhiều tộc người khác, người Tày ở Pác Nặm cũng quan
niệm con người có hai phần: phần thể xác và phần hồn. Phần thể xác là hình
dáng, thể tạng, trang phục, hành động, lời nói của con người mà người khác cảm
nhận được. Người Tày Pác Nặm quan niệm phần hồn là phần không nhìn thấy,
không cảm nhận được, hiểu biết qua tưởng tượng của mọi người, gọi là vía. Khi
người còn sống thì nó là vía, khi chết đi là ma. Vía của người có loại vía chính
và bóng vía (khoăn ngấu). Vía chính thì đàn ông có 7 vía, đàn bà có 9 vía. Đàn
bà hơn đàn ông 2 vía vì đàn bà phải sinh con, chia vía gốc cho con. Bóng vía thì
đàn ông có 70 bóng vía, đàn bà có 90 bóng vía.
Mỗi người có ba bóng vía. Nhóm thứ nhất là vía hộ thân (khoăn ngấu), có
ba vía luôn đi theo người, bảo về người. Nhóm thứ hai là vía chuyên đi làm mọi
22
việc (khoăn ham), chuyên đi lao động sản xuất, kiếm các thứ về nuôi khoăn khấu.
Nhóm thứ ba là nhóm đi ngoại giao (khoăn tam bách), luôn đi thăm dò tin tức,
có gì thì báo cho cơ thể biết bằng cách báo mộng qua những giấc mơ. Mỗi nhóm
vía có ba con (tham tua khoăn) và có 30 bóng vía (tham thíp khoăn ngấu). Trong
số vía này, nếu không có con nào bị ma bắt, ma hại thì người sẽ khỏe mạnh bình
thường. Nếu có vía bị bắt đi thì người sẽ ốm yếu.
Vía người cũng có nhiều loại, nhiều kiểu: Có vía già, vía khỏe (khoăn
kheng); có vía non (khoăn ón); có vía dữ (khoăn rại). Đại bộ phận con người đều
có vía già, vía khỏe. Có một nhóm người có vía non, những người này thường
hay bị ma làm, ma nhập. Người nào có vía dữ thì thường đem lại cho ta điều rủi
ro.
Quan niệm về số phận (thổ)
Mỗi con người đều có một số phận riêng. Khi số phận trục trặc thì con
người long đong, lận đận. Số phận đã hết thì cơ thể của con người bị chết. Vì
vậy, ốm đau, tai nạn, rủi ro hay khi gặp may, giàu có đều là do số phận của người
đó.
Quan niệm về tướng mạo (mình)
Tướng mạo là hình dáng, phong thái của mỗi người. Từ phong thái của
mỗi người, người ta có thể nhận diện gần đúng về bản thân, số phận của người
đó.
Cách tìm ra ma (mjõ)
Như đã nói, người Tày ở Pác Nặm quan niệm có 8 loại ma. Để tránh việc
bị ma làm hại, người Tày nơi đây có những cách tìm ra ma để phòng trừ những
chuyện không mong muốn trong cuộc sống. Ở cộng đồng người Tày Pác Nặm,
có một số người có khả năng đặc biệt tìm ra ma, đó là thầy bói, thầy cúng, thầy
xem sách chữ Nho và Then…
Qua vũ trụ cũng như quan niệm của người Tày ở Pác Nặm về phi, khoăn,
thổ, mình, chúng ta thấy rõ nét sự ảnh hưởng của Tam giáo (Nho giáo, Phật
23
giáo, Đạo giáo), đặc biệt là ảnh hưởng của Đạo giáo trong tâm thức của người
Tày nơi đây. Sự ảnh hưởng này biểu hiện ở sự tiếp thu các quan niệm về thế
giới và hệ thống thần linh của Đọa giáo. Trong tâm thức dân gian, các vị thần
linh (Ngọc Hoàng, Thái Thượng Lão Quân, Phật Bà Quan Âm…) không hình
thành một hệ thống chặt chẽ mà mang tính pha tạp, hỗn độn. Ảnh hưởng của
Phật giáo được thể hiện rõ nét qua biểu tượng Phật Bà Quan Âm, một vị thần
cứu vớt, che chở cho con người và quan niệm Diêm Vương. Phật Bà Quan Âm
và Diêm Vương là sự hòa trộn giữa Phật giáo và Đạo giáo, đã được dân gian
hóa.
2.2. Nguyên nhân thực hành nghi lễ Then giải hạn
Ở đâu có người Tày cư trú, sinh sống, an cư lạc nghiệp bằng nghề nông là
ở đó có Then. Then là sản phẩm văn hóa tinh thần của họ. Vùng đất vùng cao
Pác Nặm tuy còn nhiều kho khăn về đời sống kinh tế, còn là một huyện nghèo
của cả nước. Thế nhưng nơi đây, dù trải qua nhiều bước thăng trầm, Then vẫn
tồn tại trong đời sống văn hóa tinh thần của người Tày như một minh chứng cho
sức sống trường tồn của tinh thần dân tộc. Tại sao họ lại mê Then đến như vậy?
Họ mê Then vì nhiều lẽ, nhưng trước hết: “khi xã hội phát triển cũng tức là khoa
học chưa phát triển thì nhận thức con người - người dân miền núi nhất là ở vùng
cao, vùng sâu, vùng xa có nhiều hạn chế. Một là, họ cần tìm chỗ bấu víu, để
nương tựa, tìm lại sự cân bằng về mặt tinh thần”. Đó cũng chính là giải pháp để
con người định lại cái tâm của chính mình. Hai là, sức cuốn hút đầy chất thiêng
của Then. Ba là, Then cũng như Tào, Pụt, Mo rất phù hợp với phong tục tập quán
tín ngưỡng của đồng bào, với cuộc sống vốn bình dị, không ồn ào của cư dân
miền núi. Bốn là, Then là một trong những thể loại dân ca dân gian, như một
hình thức văn nghệ trong các gia đình, thôn bản… Tiếng đàn, lời Then, lúc nhặt
như đưa người nghe vào một thế giới thần tiên hư hư thực thực, cùng những ước
mơ dung dị, khát vọng sống đời thường của con người… Vì thế mới có Then giải
24
hạn với ước muốn tránh khỏi tai họa, rủi ro trong năm của con người bình dị ở
Pác Nặm.
Để lý giải vấn đề này, chúng tôi muốn bắt đầu bằng một số trường hợp cụ
thể mà chúng tôi đã khảo sát, điền dã ở tại địa phương thuộc các xã năm trên địa
bàn huyện Pác Nặm.
Để phân tích các trường hợp trên, chúng tôi nhận thấy người Tày ở Pác
Nặm tiến hành nghi lễ giải hạn bởi 3 lý do. Thứ nhất, họ hay những thành viên
trong gia đình của họ gặp phải những rủi lớn, hay những ốm đau bất thường mà
họ cho rằng không thể lý giải chúng được bằng những tri thức khoa học, nên họ
mời thầy Then đến giải hạn mong xua đi những ốm đau, bệnh tật trong năm. Cụ
thể qua điền dã chúng tôi đã tìm đến gia đình nhà ông Nông Thanh Mạ, tại thôn
Nà Coóc, xã Bộc Bố, huyện Pác Nặm; gia đình ông Nông Thanh Tuấn, tại xã
Nhạn Môn, huyện Pác Nặm, gia đình ông Hà Văn Lập, tại xã Bằng Thành, huyện
Pác Nặm.
Nguyên nhân thứ hai mà người Tày Pác Nặm tìm đến nghi lễ Then giải
hạn là những bất an về đời sống vật chất, đời sống kinh tế của gia đình, hay gặp
những giấc mơ xấu, ác… Cụ thể qua điền dã chúng tôi đã tìm hiểu đến gia đình
nhà ông Chu Văn Chính, tại xã Nhạn Môn, huyện Pác Nặm.
Thứ ba, ước mong bố mẹ sống lâu, sống khỏe cùng con cháu. Người Tày
Pắc Nặm cũng thường giải hạn sao xấu đầu năm, cũng là một nguyên nhân các
gia đình người Tày ở đây đã tiến hành nghi lễ Then giải hạn. Cụ thể qua điền dã
chúng tôi đã tìm hiểu đến gia đình nhà ông Nông Thanh Yến, tại thôn Nà Coóc,
xã Bộc Bố, huyện Pác Nặm; gia đình ông Lường Văn Quân, tại xã Công Bằng,
huyện Pác Nặm.
Theo quan niệm của các thầy Then ở Pác Nặm, có hai nguyên nhân mà
người dân cần thực hành nghi lễ Then giải hạn. Thứ nhất, thực hành nghi lễ này
khi gặp năm xung tháng hạn. Năm xung tháng hạn được tính theo chu kỳ 10 năm:
ví dụ người sinh năm 1954 thì các năm hạn sẽ là năm 1964, 1974, 1984, 1994…
25
Đối với đàn bà thì 39 tuổi là có hạn, đàn ông là 37 tuổi, tương tự thì đàn bà có
hạn vào những năm 39, 49, 59, 69… tuổi, còn đàn ông có hạn vào những năm
37, 47, 57, 67… tuổi. Hạn của con người được quan niệm là gặp các sao xấu
chiếu, đặc biệt là các sao La Hầu, Kế Đô, Thủy Diệu, Mộc Đực, Văn Hán, Thái
Bạch (tương tự như quan niệm của người việt). Để nhận biết được gia chủ gặp
hạn gì, các thầy Then dùng sách chữ Nho.
Thứ hai, theo quan niệm của các thầy Then, thực hành nghi lễ Then giải
hạn khi gặp những điều kỳ lạ như: rắn, ba ba, chim… vào nhà, hay vô tình làm
kinh động đến tổ tiên, như: chặt cây đổ vào mồ mả, đóng đinh trước bàn thờ,…
hay bị ma bắt vía đi với từng biểu hiện cụ thể, như: người bị rơi xuống nước,
về nhà bị ốm yếu và hay khát nước là do ma của Long Vương đã bắt vía, bị
tai nạn ở đường mà về nhà người ngẩn ngơ thì phải làm giải hạn đón vía ở nơi
bị tai nạn.
Trong vòng một đời người, người Tày ở Pác Nặm quan niệm có 3 đợt giải
hạn. Đợt 1 là sơ giải (30-50 tuổi), chủ yếu là giải hoa, con gà, con lợn. Đường đi
của các thầy Then khi thắp cúng ở giải hạn đợt 1 này là trên đường của ma quỷ
lên trời, đến ngã ba tang cáp (một đường lên thiên đàng, một đường xuống âm
phủ, một đường xuống Long Vương và một đường đi về thế gian nơi loại người
sinh sống). Khi đọc lời khắp cúng, các thầy Then giải đưa con ma về đúng chỗ
của nó rồi thu quân về. Những người dưới 30 ít làm nghi lễ Than giải hạn vì quan
niệm lúc này vía còn non, trừ khi gặp những rủi ro lớn thì mới thực hành nghi lễ
này, không thì sẽ làm nghi lễ Then giải hạn cho cả gia đình.
Đợt 2 là trung giải (50-70 tuổi). Vị trí giải hạn là theo con đường lên thiên
đàng, đoàn quân của nhà thầy đưa lễ lạt trả lễ tới mè kị mè hạn (nhóm ma này
chuyên sinh ra kị hạn cho con người) và yêu cầu nhóm ma này không được quay
lại quấy rầy hồn vía của gia chủ.
Đợt 3 là đại giải hạn (những người trên 70 tuổi). Vị trí giải hạn cũng là xứ
mè kị mè hạn, nhưng các thầy Then đưa vía của người này đi du lịch ở thượng
26
giới để vía gia chủ thấy được nơi mình sẽ đến khi về với tổ tiên, từ đó yên tâm
về tinh thần, chăm sóc sức khỏe cho tốt.
Dù là nguyên nhân này hay nguyên nhân khác, người Tày ở Pác Nặm tìm
đến con đường tâm linh này đều có một mục tiêu chung nhất là đảm bảo an ninh
con người về mặt sức khỏe và kinh tế. Người hành lễ trong nghi lễ Then giải hạn
của người Tày ở Pác Nặm là các thầy Then, do gia đình, gia chủ mời đến.
2.3. Thực hành trong nghi lễ giải hạn qua dân ca (Then) của người Tày ở
Pác Nặm
2.3.1. Người thực hành nghi lễ Then giải hạn
Trong giai đoạn hiện nay, quá trình đô thị hóa đang diễn ra nhanh chóng
từ Bắc vào Nam, huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn cũng không ra ngoài quy luật
đó. Đây là một trong những tác nhân làm mất đi môi trường, không gian văn hóa
đặc hữu của nhiều thể hát của người Tày, trong đó nhiều lối hát nghi lễ đặc sắc
cũng chịu ảnh hưởng, điển hình là hát Then, giải hạn Then. Sự phân hóa hát Then
ở Pác Nặm- Bắc Kạn thành 2 dạng biệt lập: Then cổ và Then mới, đồng bào Tày
vẫn gọi là Then cổ và Then văn nghệ. Xuất phát từ yêu cầu xây dựng đời sống
văn hóa, một bộ phận hát Then từ hình thức nghi lễ, tín ngưỡng giải hạn đã nhanh
chóng hòa nhập vào đời sống xã hội hiện đại. Trong khi đó, hát Pụt và Tào, Mo
vẫn giữ nguyên lối hát nghi lễ như trước, ít biến đổi. Điều này lý giải tại sao khi
tiến hành khảo sát gặp không ít những khó khăn. Để khảo sát được nghi lễ giải
hạn qua dân ca (Then) của người Tày ở Pác Nặm, chúng tôi đã tìm đến gia ông
Dương Văn Mu, đã nhiều đời làm thầy Then tại thôn Bản Bòn, xã Cao Tân,
huyện Pác Nặm.
Qua những thầy Then trên địa bàn huyện, chúng tôi nhận thấy rằng hành
nghề Then không phải là sự lựa chọn do sở thích các nhân mà là do căn số mà
buộc phải thành thầy Then. Muốn hành nghề, Then phải nhận thấy và có thời
gian học nghề nhất định. Nếu như ở các địa phương khác, xét về giới thì Then
tuyệt đại đa số là nữ (bà Then), trong khi khảo sát của tôi ở Pác Nặm tất cả thầy
Then đều là đàn ông.
27
Một đặc điểm khác là các thầy Then ở Pác Nặm chỉ xem bói và hành lễ
theo yêu cầu của gia chủ, chứ không xem tướng mạo cho cộng đồng cư dân nơi
đây. Then có thể thực hiện được nhiều nghi lễ khác nhau, trong đó mỗi loại nghi
lễ đáp ứng những nhu cầu khác nhau của đời sống trần tục như bói toán, giải hạn,
cầu yên… Ngoài những ngày đi hành lễ cho các gia đình, họ cũng đi cầy bừa,
cấy hái như bao người nông dân khác.
Hệ thống thần linh của Then. Hệ thống thần linh của Then bao gồm Ngọc
Hoàng và các thiên tướng; tổ nghề Then và dòng dõi Then; các thần linh tại địa
phương (thành hoàng, thổ thần, tổ tiên).
Một số quy định về đón Then (tỏn Then), đưa Then (thống Then)
Người đón Then, đưa Then có thể là nam hay nữ, nhưng phải là người
khỏe mạnh, nhanh nhẹn, tháo vát. Trước ngày đón Then, đưa Then không được
làm điều xấu, không ăn tạp, không ăn thịt chó. Phụ nữ đang hành kinh, hay đàn
ông có vợ đẻ chưa đầy tháng thì cũng không được đón Then và đưa Then.
Trên đường đi đón và đưa Then, người đó phải đội mũ nón từ nhà đến nhà
Then. Nón, ô hay mũ vành rộng là đồ bảo vệ đồ nghề của Then vì ở trên không
trung có một bầy ma quái, quỷ dữ, ôn binh… luôn luôn rình mò để cướp lấy đồ
nghề của Then. Trong trường hợp Then ở xa nhà, đi đón và đưa cả ngày, nếu dọc
đường muốn đi vệ sinh thì phải treo đồ nghề của Then lên cành cây cao và lấy
nón, ô, hay mũ che kín phía trên. Chỗ đi vệ sinh phải khuất nơi để đồ nghề. Đi
đưa Then, người nào mang thứ gì thì phải đến tận nhà Then, không được tùy ý
trao đổi với nhau.
Khi đến nhà Then, người đón vào nhà, ngồi trên cây phân giữa dọc theo
sàn nhà ở phía ngoài, bên trên khuôn bếp. Đến nơi, không nhất thiết phải chờ chủ
nhà làm thủ tục tiếp khách mà chỉ cần gặp Then hay người nhà Then và nói đến
đón Then và lấy đồ cúng về trước. Khi đó, Then thắp hương lên bàn thờ (tang
tịnh) rồi lấy đồ cúng, tính tẩu đặt ở cái chiếu dưới bàn thờ. Người đón đến đứng
ở phái dưới chiếu chính giữa táng tịnh vái lậy 3 lần rồi đến nhận hòm và tính tẩu,
khoác quai hòm lên vai và rời khỏi nhà.
28
Khi ăn bữa cơm sau cúng và làm thủ tục thanh toán xong, Then hạ trùng
ba dây đàn tính, lấy mảnh vải đỏ gói bầu đàn lại, xoay một nửa vòng mâm thờ,
xếp các dụng cụ bầy trên mâm vào hòm rồi khóa lại, chuyển dưới chiếu ngồi,
giao cho người đưa đồ đem về nhà trước. Đưa Then phải là hai người, một người
mang đồ cúng (hòm, tính tẩu) và một người gánh vật trả lễ (bao gồm: một đùi
trước của lợn, một con gà luộc chín, túi đựng gạo cắm hương, một con gà còn
sống, một cụm lúa). Đến nhà Then, con gà sống để ở dưới sàn, còn lại đồ cúng
và đồ lễ đều đem đến đặt ở cái chiếu dưới táng tịnh, giao cho người nhà của
Then. Trên đường đưa Then, hai người này phải đi thẳng đến nhà Then, không
được rẽ vào bất cứ đâu.
Dụng cụ hành nghề Then
Đàn tính (tiếng Tày là tính tẩu). Đây là dụng cụ hành nghề quan trọng nhất
và đặc trưng nhất của Then. Tính tẩu gồm 3 dây, cần đàn bằng gỗ, hộp đàn bằng
vỏ quả bầu khô. Đàn tính được làm theo những quy định riêng, nếu như mặt hộp
đàn (tẩu) có đường kính 2 nắm tay thì thân đàn gàn phải có chiều dài 9 nắm tay.
Chùm nhạc xóc (hay còn gọi là cỗ nhạc- cỗ ngựa). Chùm nhạc xóc làm bằng
đồng hay bằng sắt, tượng trưng cho âm binh của Then, dùng trong những lúc Then
đi đường, sử dụng bằng cách móc vào ngón chân cái để đệm theo nhịp đàn tính. Với
đàn tính và chùm nhạc xóc, Then khắp theo 3 điệu: mo, khắp và ru.
Ấn. Ấn được làm bằng đồng, sử dụng với ý nghĩa thừa lệch Ngọc Hoàng
Thượng Đế để đi hành đạo. Vì vậy, ấn được đặt vào bát hương chính của then.
Thẻn. Thẻn là bộ gieo quẻ âm dương, được làm bằng nửa miếng gỗ hoặc
tre dung để hỏi ý kiến thần linh.
Bằng sắc. Bằng sắc là chứng chỉ hành nghề của Then, được cấp trong
những dịp cấp sắc hay tăng cấp. Sắc được viết bằng chữ Hán trên giấy vàng và
được cất rất kỹ vì là vật thiêng của Ngọc Hoàng Thượng Đế. Cùng với ấn, bằng
sắc là thứ giấy thông hành để Then hành nghề.
29
Ngoài những dụng cụ trên Then còn có quạt, chuông, kính gương, 6 cái
bát, 4 cái đĩa… Tất cả những dụng cụ này (trừ đàn tính) đều được cất trong một
cái hòm, gọi là hòm then.
Những điều kiêng kỵ trong khi hành nghề Then
Như đã nói ở trên, những người hành nghề Then có những quy định bắt
buộc phải thực hiện. Khi hành nghề Then, có 4 con vật mà những thầy Then
không bao giờ được phép ăn, đó là chó, ngựa, rắn, én. Vì theo quan niệm của đời
xưa để lại, chó là con vật đã ngậm và mang sách Nho về cho các thầy cúng từ
bên Trung Quốc sang, ngựa là con vật do Ngọc Hoàng Thượng Đế sai xuống trần
gian để cứu nhân độ thế; rắn tượng trưng cho bạch xà, bạch tượng, quân của
Long Vương; én là con vật mang thư, chạy thư cho ma thầy khi hành lễ. Ngoài
ra, Then cũng không được ăn tiết canh, không được ăn những con vật mang thai
như trâu, bò… vì quan niệm cái bao tử trong bụng mẹ là mầm sống, đã có sự
sống, nếu giết mổ mầm sống đang phôi thai, chưa được nhìn thấy ánh mặt trời,
chưa được hít thở khí trời là mang tội diệt chủng. Trong một năm, có những ngày
thầy Then không được hành nghề, vì quan niệm đây là những ngày “thát chủ”.
Đó là những ngày “xuân chi long, thu chi khuyển, đông chi ngưu, hạ chi dương”,
nghĩa là ngày thìn vào mùa xuân, ngày tuất vào mùa thu, ngày sửu vào mùa đông,
ngày mùi vào mùa hè.
2.3.2. Đồ lễ/ đồ cúng trong nghi lễ Then giải hạn
Nhà xung (rướn xung)
Nhà xung (rướn xung) được quan niệm là nhà dành cho ma tà, quỷ quái.
Nhà xung là một cái nhà 3 tầng, được kết cấu đơn giản, có 4 cột cao khoảng 1m
bằng cuống lá chuối, các que cây nứa (hoặc cây vầu) liên kết với các cuống lá
chuối này tạo thành 3 tầng, mặt các tầng thì dùng lá chuối phủ. Tầng 1 của nhà
xung gồm có: một nắm cơm, một con gà luộc chín. Tầng 2 là áo của cả gia đình
tiến hành nghi lễ Then giải hạn, được sắp xếp gọn vào trong theo thứ tự từ dưới
lên trên. Tầng 3 của nhà xung là cành cây, tượng trưng cho hoa lá, có sự sống.
30
Vách và mái vòm của nhà xung được che bằng lá chuối. Khi tiến hành nghi lễ
Then giải hạn, nhà xung được đặt ở phía trước các mâm cỗ dành cho phần cúng
giải, để các loại ma cần cúng đến nhận nhà (để đuổi các loại ma đi khỏi nhà người
thì phải có nhà cho ma ở) và hương cỗ bàn bày đủ các thứ cần cho một đám cúng
theo yêu cầu của từng loại ma.
Cầu cọc (cấu lắc)
Cầu cọc (cấu lắc) là dụng cụ làm bằng gỗ, có đánh dấu gốc, ngọn vì khi
hành lễ thì phải đặt đúng chiều, gốc cây quay về phía chủ, còn ngọn cây quay ra
phía bên ngoài, để giải ma đi không quay lại nữa.
Ống gạo giải và đồng tiền giải (khẩu, tiến giải)
Trước ngày hành lễ, chủ nhà phải đi 3 nhà cùng làng, khác họ, xin mỗi nhà
3 nắm gạo (tẻ hoặc nếp) để đủ 9 nắm gạo giải (9 nắm gạo thể hiện cho 9 vía, lấy
vía đàn bà làm chuẩn). Số gạo này cho vào một cái túi riêng, không ai được dùng
đến. trước lúc vào cùng giải, người hành lễ lấy ra 39 đồng tiền kim loại có sơn
một mặt trắng, một mặt đen. Nếu giải hạn cho nam thì dùng 37 đồng tiền xu, nếu
giải hạn cho nữ thì dung 39 đồng xu. Khi tiến hành giải hạn, lấy mặt trắng (mặt
dương) làm chuẩn, mặt đen (mặt âm) không lấy. Lúc đổ tiền lẫn gạo giải, số mặt
trắng phải hiện quá bán (nam 19 đồng, nữ 20 đồng). Lễ vật giải hạn còn còn có
một con gà trống sống nhốt trong lồng và một cụm lúa nếp phủ trên lồng gà. Đây
là những trường hợp đặc biệt, các lễ vật cho cúng giải hạn ngoài những vật chung
trên còn có những lễ vật khác, tùy thuộc vào thầy Then và phong tục địa phương
nơi đó.
Nếu giải hạn cho người dưới 30 tuổi, lễ vật còn có thêm hình nhân (nếu là
nam thì 7 hình nhân, nữ là 9 hình nhân). Đến khi đổ giải, người hành lễ đốt hình
nhân để tiến hành chuộc vía. Nếu giải cho người cao tuổi (trên 60 tuổi), lễ vật
cúng giải có thêm mô hình vũ trụ bao la, trời đất trăng sao. Mô hình được bày
trong một cái mẹt hình tròn thể hiện không gian vũ trụ. Trong mẹt trải một lớp
bột gạo trắng mỏng tượng trưng cho không gian mây trắng đang bay trong gió
31
bão. Trong mẹt còn có mặt trăng được nặn từ bột gạo nếp, mặt trời thì màu đỏ,
mặt trăng thì mầu vàng.
Tất cả các lễ vật trên được bày hết ở gian giữa, bên trên cửa ra vào, ngang
với cây phân đôi theo sàn cùng thẳng đứng với đòn nóc (gian chính của nhà sàn).
Trước khi hành lễ, người nhà và người hành lễ phải kiểm tra kỹ, không được
thiếu sót lễ vật nào. Khi các lễ vật đã được chuẩn bị đầy đủ thì người hành lễ mới
quay lên mâm hương thờ tổ thư để đọc lời cúng, bắt đầu nghi lễ Then giải hạn.
Để thực hiện được một nghi lễ Then giải hạn, chủ nhà phải nhờ đến anh em họ
hàng, hàng xóm đến giúp sức, ít nhất phải có khoảng 10 người thì mới kịp hành
lễ vì những lễ vật này cần phải hoàn thành trước khi người hành lễ đến nhà.
2.3.3. Tiến hành một nghi lễ Then giải hạn của người Tày ở Pác Nặm
Thời gian tiến hành lễ giải hạn thường bắt đầu vào buổi sáng, trình tự lần lượt
là lễ xôi hương, an đẳm, chừa giải, tổng khân và cuối cùng là chừa tỏn khoẳn.
Xôi hương (xin phép đốt hương ở nhà cúng)
Khi gia đình và thầy Then tiến hành bày xong mâm thờ ma tổ thư của
Then, bày xong rã áo đón vía, mọi mặt chuẩn bị cho nghi lễ đã xong hết thì thầy
Then bắt đầu hành lễ cúng. Bước đầu tiên hành lễ là xin phép đốt hương ở nhà
cúng (lễ xôi hương).
Gia chủ đốt một nắm que hương, cắm vào các ống nhang thờ ma tổ, mỗi
ống nhang hai que hương. Sau đó, cắm hương vào bát gạo mâm thờ tổ thư Then
ba que nhang thẳng theo hàng ngang, cho hương thật đều nhau, không que hương
nào cao hơn hay thấp hơn. Tiếp đến, cắm một que hương vào bát gạo ở rã áo đón
vía sát quả trứng, trong vòng bạc và một que hương cắm vào khay nước chè. Rót
nước chè, nước sạch và rượu vào các bát lá thanh thảo, chén uống nước, chén
uống rượu trong mâm và báo cho thầy Then biết mọi thứ đã đầy đủ.
Thầy Then mở hòm lấy áo khăn, mũ hành lễ, quạt giấy, thẻn, sách ra đặt
cạnh mâm, lấy tính tẩu ra để lên đàn tính cho căng cả 3 dây thanh, trung, trầm.
Gia chủ bắt đầu khấn báo ma tổ (phi đắm) theo nội dung: kính báo tổ tiên từ cụ
kị, ông bà, cha mẹ…
32
Khi gia chủ báo tổ được nửa phần lời khấn thì đồng thời thầy Then bắt đầu
cầm đàn tính, bắt đầu khắp. Nội dung khắp trong lễ xôi hương này là: báo cho
ma thầy gồm tổ thư, pháp thư, binh thư, ải xả, ải giang… (tập đoàn ma Then)
biết hôm nay, nhà này, họ này ốm đau, bệnh nạn, mời binh thư, tổ thư, pháp thư
đến tại nơi hương án để đi tìm, đi cứu con cháu vào nhà này. Xướng mời tổ tiên
dòng họ nhà cúng đất rướn Cư, đẳm họ Ma do mải mê công việc, không quản
nổi hồn vía con cháu về nhà. Từ giờ này, con cháu trong nhà được thắp đèn, đốt
hương đi soi, đi kiếm, đi mời.
Nếu tổ thư, pháp thư, binh thư nhà thầy và tổ tiên đất rướn Cư, đẳm họ
Ma đồng tâm hiệp lực làm việc này cho hay, chạy việc này cho tốt, chấp nhận
cho thắp sáng, khói hương bay thì cho quẻ được xấp, ngửa. Xin được quẻ âm
dương rồi thì nói lời cảm ơn và đi vào hành lễ chính.
Lễ an đẳm (lễ cúng tổ tiên, ma tổ của cả dòng họ)
Lễ vật trong lễ an đẳm này gồm có: hua khoẳn bâm (mâm một con lợn,
một con gà luộc chín, rã áo đón vía). Số lễ vật này bày ở cái chiếu trải giữa mâm
thờ ma tổ của gia đình cúng. Một chai rượu, một chồng chén, một nắm đũa xấp
cạnh mâm.
Thầy Then đọc lời cúng trong lễ an đẳm. Nội dung là báo cáo cho ma tổ
của dòng họ nhà cúng đi mời hết tổ tiên của dòng họ đến “lúc rướn quan, lan
rướn đẳm, mời tướng má nằng trang tì, khúy trang rướn…” thầy có lời mới “đắm
ké, đắm con, đắm lăng” (tổ gia, tổ tiên, tổ sau) về nhận lễ rồi cùng nhau vào mâm
cô báo hết số lễ vật gia đình chuẩn bị, ăn cho no, uống cho say rồi cùng với tổ
thư, binh thư, pháp thư nhà thầy, sẽ lấy của cải, tiền bạc, đi tìm hồn, tìm vía con
cháu tên là… Tổ tiên có chấp nhận thì xin cho quẻ. Xin được quẻ rồi thì thầy
Then nói lời cảm ơn và giáo cho ma tổ là không được đi đâu, ai đến đều ở lại để
ra tay tìm bằng được hồn vía con cháu về.
Lễ cúng giải (chừa giải)
33
Sau khi tiến hành an đẳm xong, tiến hành ngay lễ cúng giải. Theo quan
niệm, trước khi tiến hành đón vía từ nơi nào đó về, phải giải trong nhà cho sạch,
cho gọn, không còn điều gì nữa. Vì thế, cúng giải hạn là công việc cầu kỳ, tỉ mỉ
nhất kể cả lễ vật và lời cúng.
Sau khi đã chuẩn bị hết các lễ vật (nhà xung, gạo giải, đồng tiền giải, gà
sống nhốt trong lồng) thì gia chủ tiến hành bày các lễ vật. Tất cả các đồ lễ được
bày ở chiếu, ở sát vách cửa ra vào ở gian trái ngoài cùng. Khi kiểm tra lại lần
cuối và chắc chắn đã đầy đủ lễ vật, thầy Then quay lên mâm thờ tổ thư, lấy cái
quạt giấy ra, mở giật 3 lần với bát gạo cắm hương, lên dây tính tẩu và bắt đầu
vào bài cúng. Nội dung bài cúng là nêu rõ lý do thực hành lễ này, sau đó mời tổ
thư, pháp thư, binh thư, binh mã của nhà thầy có đến đủ hay không thì xin quẻ.
Được quẻ xong, thầy Then mời ma tổ của cả dòng họ Ma, đã được gia chủ, được
thầy mời về, đã ăn no, uống đủ, chuẩn bị cùng tập đoàn ma nhà thầy đi làm nhiệm
vụ. Thầy Then lại xin quẻ tiếp để biết ma tổ của dòng họ Ma có đồng ý như vậy
hay không. Khi đã được quẻ âm dương, thầy mới báo tổ thư và ma tổ cử mỗi bên
một vài người, lấy sổ ra ghi chép thật đầy đủ, giao cho binh mã nhà thầy vận
chuyển, biết có ghi đủ, đủ lễ hay không thì thầy lại xin quẻ.
Sau đó thầy bắt đầu đọc lời cúng báo chủ ma thầy và chủ ma tổ đi tìm hết
góc ngách trong nhà, trong chuồng trại gia súc, dưới sàn, ngoài bãi, trong vườn,
ngoài ao, gốc cây, khu vực gia đình ở, làm việc có con ma tà, ôn quỷ nào đều rủ
đi theo hết để đến chỗ đẹp nhất thì cho ăn lễ vật. Con ma tả, ôn quỷ nào không
đi thì thầy dùng binh thư rượt đuổi, bắt đi hết, chỉ để lại các loại ma hữu ích giúp
người.
Đến lúc này, thầy Then nghỉ ngơi và chuẩn bị đến lễ giải. Nội dung của
phần dẫn giải được tiến hành theo nhiều bước. Đầu tiên là gia chủ đem 4 chén
rượu, một chai rượu, một đĩa trong đó có từ 10 nghìn đồng trở lên đến mời rượu
và giao tiền cho gia chủ. Gia chủ nhận và lấy cái mẹt có đựng một ống gạo, tiền
34
giải và con dao đến đặt giữa gian, bên dưới mâm thờ tổ thư thầy Then. Thầy
Then rút que hương dành cho tổ thư trong bát ra để làm phép vào ống gạo, tiền
giải. Sau khi làm phép xong, thầy Then đẩy mẹt giải trước mặt gia chủ, rồi lại
cắm que hương ấy vào vị trí ban đầu. Gia chủ nằm trên một cái ghế gỗ (tắng
nằng) theo hướng cửa ra vào. Đến lúc này, thầy Then quay vào bàn thờ đọc lời
cúng. Nội dung của lời cúng đã đến ngã tư các hướng, tà ma đã được ăn uống no
nê, đầy đủ, đã nhận nhiều lễ vật rồi, không được phép quay lại đường về nữa. Để
chặn các loại tà ma này không quay lại, tổ thư, pháp thư, binh thư, tổ tiên của họ
nhà giải đã có đầy đủ khí giới, phép thuật ngăn lại.
Đọc xong lời cùng dẫn, thầy xin quẻ âm dương. Xin được quẻ âm dương
rồi, thầy bắt đầu đọc lệnh: tất cả các loại tà ôn, ma quỷ, mật mãnh, hồn muôn
thú… sát hại nhân, ai ở ở đâu thì đi về đấy, đông đi đông, tây đi tây, nam đi nam,
bắc đi bắc. Tất cả phải theo lệnh thầy, đi cho nhanh, chạy cho mau, ai chậm thầy
tôi bắt trói. Giải… gia chủ nói theo then Danh một tiếng “giải” kéo dài, rồi để
ống tiền giải vào thân con dao cho tung tóe khắp mọi nơi. Đàn ông thì 37 đồng
tiền giải, đàn bà 39 đồng tiền giải, tương đương với các cửa. Muốn đuổi hết phải
đủ cho mỗi con ma một đồng tiền, thiếu tiền là ma không đi, coi như đợt giải ấy
không có giá trị. Các cửa ải ma đến chia thành từng tốp, mỗi tốp có 4 con, tương
đương với sinh, tử, thọ, lão. Số 1 là sinh, số 2 là tử, số 3 là thọ, số 4 là lão. Mặt
tiền giải được sơn hai mặt, một mặt đen và một mặt trắng. Mặt trắng là may, là
tốt, còn mặt đen là rủi, là xấu. Nhưng trong mặt trắng, số 2 là số tử, nếu các nhóm
tiền (4 đồng một nhóm) còn dư 2 là phải giải lại. Giải được thì phải là số mặt
trắng hiện từ 19 đồng trở lên đối với đàn ông, 20 đồng trở lên đối với đàn bà. Khi
tiến hành giải như vậy, thầy biết được số ma tà, ôn quỷ còn chần chừ, không
muốn đi và dung lệnh để đuối hết đi, lấy phép ngăn cấm không cho chúng quay
lại nhà giải.
35
Sau khi cúng giải, đổ giải thành công, thầy Then đọc lời cúng thu quân,
thu ma tổ quay trở lại. Đường đi về là theo mây, theo gió. Khi đi có thể gặp bao
nhiêu sự cố nhưng khi về thì chỉ cần đi một hồi là tới nơi. Khi đã về đến nhà,
thầy hỏi lại tổ thư, pháp thư và ma tổ có thiếu vắng ai hay không, xin quẻ rồi thì
mời cả đoàn vào nhận lễ ăn cỗ.
Khi đã hoàn thành xong lễ cúng giải thì chuyển sang các kiểu cúng trả lễ
cho từng loại ma bắt giữ vía người cụ thể để chuộc vía, đón vía về cho cơ thể
người ốm.
Cúng trả lễ cho con ma báo điềm gở (tổng khân)
Không gian hành lễ là một bãi đất bên phải sân nhà của gia đình gia chủ.
Lễ vật gồm có: một mâm gồm có một thủ lớn luộc, 4 chân lợn luộc, một con gà
luộc, một bát cơm, một chén rượu, một chai rượu. Những lễ vật này được gia
đình chuẩn bị theo yêu cầu của thầy. Bên cạnh mâm cúng này còn có một mẹt
đựng đồ chay, gồm có: chuối xanh thái lát, 4 mẩu mía, một quả đu đủ, một chai
rượu, một gói bánh kẹo. Trên mẹt này có 5 cành tao roạng, được làm bằng ống
tre nhỏ, có găm giấy đỏ, dùng để trấn trạch, tránh cho ma quay lại làm hại người.
hai mâm lễ này đặt song song ở hàng trên. Hàng dưới là một mâm cúng bao gồm
hai bát gạo cắm hương, một chén nước chè, một chai rượu, một đèn dầu và một
cành gai bưởi, bên cạnh mâm lễ là một con gà sống nhốt trong lồng. Sau khi đã
chuẩn bị xong các lễ vật này, thầy cầm hai que hương đã được đặt trước gương
và bắt đầu xuống sân cúng.
Lời khắp cùng đầu tiên ông thầy phải xướng đến thổ công, sau đó mời tổ
tiên xuống dự sau. Tổ thư không cần xướng đến nữa, vì đã đi theo ngay khi gia
đình mang mâm hương phụ xuống. Khi xướng xong thổ công, thầy nhờ thổ công
đi mời các thần thổ địa ở khu vực nhà này đến nhận cỗ, sau đó giao khu vực này
cho tổ thư, pháp thư, binh thư và tổ tiên dòng họ này mượn để làm việc. Khi công
việc được triển khai thì thổ công, thiên thần, thổ địa vùng này không được nhòm
ngó, tranh phần, gây sự.
36
Khi hành lễ, thầy mời con ma ấy về nhận lễ, cảm ơn và mời nó ở đâu về
thì đi về nơi ấy. Thầy dùng bát gạo đem vào gian nhà trong cùng, lấy gạo ném
khắp gian nhà rồi ném đến gian hai, gian ba… và khắp cả nhà nhằm xua đuổi ma
tà ra hết khỏi nhà này và đi về xứ sở của mình, không được quấy rối, làm hại nhà
này, họ này nữa.
Khi xóc thẻ thành công, có nghĩa là con ma đã đồng ý nhận lễ và không
quay lại quấy nhiễu người nhà này, họ này nữa thì thầy rút dao gọt mía, đu đủ,
chặt hương, tắt đèn và lên nhà tiếp tục làm công việc tiếp theo.
Hành lễ đón vía (chừa tỏn khoăn)
Trong lúc thầy Then cúng tổng khan ở sân bãi thì trên nhà gia đình chuẩn
bị thêm mâm quần áo đón vía và mâm cơm đón vía, bày theo vị trí nhất định.
Đầu tiên, thầy khắp lời cúng báo cho tổ thư, pháp thư, binh thư, binh mã,
cùng với tổ tiên gia chủ đến nhận lễ vật, cùng với các quán tướng nhà thầy, mang
đến nơi trả lễ cho đám ma ấy, đón vía con cháu về nhà. Thầy xin quẻ âm dương
để biết tổ tiên của dòng họ và các quan tướng nhà thầy đã đến đủ hay chưa. Khi
xin được quẻ âm dương rồi, thầy mời hai đoàn quân ma này lấy sổ sách ra ghi
chép tất cả các lễ vật cúng cũng như vị trí bày của các lễ vật. Thầy Then lại tiếp
tục xin quẻ âm dương để biết được hai đoàn ma đã nhận đủ lễ vật hay chưa. Khi
được xác nhận hai đoàn ma này đã nhận đủ lễ vật này cho binh mã nhà thầy,
khiêng lễ vật đến nơi đón vía bị giam giữ, cầm tù.
Thầy Then dùng lời để xin trả vía cho gia chủ, xin quẻ âm dương, được
quẻ có nghĩa là đã xin được vía về rồi. Thầy Then dùng luôn binh thư chặn đường
bảo vệ phía sau, thúc giục ma tổ khẩn trương đem con vía về ngay nhà. Để nhân
biết vía đã về nhà hay chưa, thầy vừa khắp vừa nhìn vào gương có thắp hương.
Tiếp đó, thầy Then mời vía của người được giải đi lên vũ trụ để du ngoạn. Mô
hình du lịch là một cái mẹt đựng các mô hình, vũ trụ, bầu trời, trăng sao… Mục
đích của việc này là để vía của các cụ biết được mường thiên (là nơi ở sau khi
chết được 3 năm), để các cụ an tâm tĩnh dưỡng và không bị ma nào bắt vía.
37
Sau đó thầy Then yểm bùa không cho mà tà vào làm hại người trong nhà
nữa. Cuối cùng thầy buộc thai khoăn vào tay người giải và các con cháu trong
nhà, thai khoăn này được đeo tới lúc nào đứt.
Lúc này, nghi lễ Then giải hạn đã hoàn thành. Người tham gia nghi lễ đến
đặt tiền mừng vào cái đĩa quần áo đón vía. Số tiền mừng ở đây tùy thuộc vào
kiều kiện của gia đình. Số tiền mừng này dùng để người giải bồi dưỡng sức khỏe,
gọi là tiền gọi vía (tiến roỏng khoăn). Con cháu phải ăn hết mâm cơm đón vía,
con gà gọi vía. Như vậy nghi lễ đã xong, tất cả mọi người tham gia nghi lễ ăn
bữa cơm thân mật với gia đình người giải hạn.
2.4. Thực hành trong nghi lễ giải hạn qua dân ca bằng chữ Nôm Tày (những
thầy Mo) của người Tày ở Pác Nặm
2.4.1. Quan niệm về vũ trụ
Khác với các thầy Then trên địa bàn huyện, trong nghi lễ giải hạn của các
thầy Mo dân tộc Tày ở Pác Nặm có quan niệm về thế giới vũ trụ gồm 3 phần:
Mường bân (mường trời); mường lương gian (mường người sống); mường âm ti
địa ngục (mường âm phủ dưới mặt đất). Trong mường bân (mường trời) lại chia
ra nhiều tầng bậc khác nhau. Trong tâm thức của người Tày ở Pác Nặm luôn có
quan niệm trên trời xanh thăm thẳm vẫn tồn tại một thế giới khác phồn hoa và
đẹp hơn lương gian (mường người sống), trong đó tầng trên cùng là Ngọc Vàng
(Ngọc Hoàng Thượng Đế), ở đó Ngọc Vàng là người có quyền năng cao nhất. Ở
bên cạnh Ngọc Vàng có các Thòng Slư (đồng tử), có Tây Vương Mẫu, có Đông
Vương Cung và các quan hầu cận.
Ở tầng thứ 2 là tầng ở của các vị thần như: Nam Tào, Bắc Đẩu, quan Thế
Âm Bồ Tát, Thánh Hoa, bà Thánh Mẫu (mẻ Thánh Va, a Thánh Mẫu), tinh chủ
Bắc Cực… ở đây mỗi vị thần lại cai quản một khu vực riêng và có chức năng
khác nhau như Nam Tào chuyên quản lý sổ sách, số mệnh của người trần gian,
mọi chuyện sinh tử ở trần gian đều do ông thần này quyết định cho nên một khi
có người ốm đau không qua khỏi đều được quy kết rằng là Nam Tào chấm sổ,
38
nghĩa là Nam Tào đã gạch sổ. Còn Bắc Đẩu thì chuyên quản lý việc ốm đau,
bệnh tật ở trần gian. Quan thế âm thì có lòng từ bi hễ nghe thấy tiếng thở than,
cầu xin là thần tiên sẽ xuống giúp. Bà Thánh Hoa, Thánh Mẫu thì cai quản những
linh hồn còn bé nhỏ, ban phát cho hoa (mẻ byoóc păn mà); (mẻ va păn hẩu) và
quản lý các linh hồn dưới 18 tuổi, khi những thực thể sống đó chưa đến 18 tuổi,
bởi theo quan niệm của người Tày ở đây cho rằng đến 19 tuổi mới đến tuổi kỷ
(tuổi chải chai nản là tuổi có xung, có hạn ách). Còn Tinh chủ bắc cực thì quản
12 vị thần Hung Tinh (tinh sấu) và 6 vị thần Cát Tinh (tinh tốt) và Nhị thập bát
tinh tú (24 tinh tú).
Ở tầng thứ 3 là tầng Dương Chu, trên tầng Hành Khiên, Thổ Địa, Thổ
Công. Ở tầng này chia ra nhiều địa phận khác cùng thứ bậc như Dương Chu (chỗ
ở của người chết khi về trời), chỗ ở của tổ tiên con người.
Ở tầng thứ 4 là tầng cuối cùng của mường bân, bao gồm có các thần Hành
bình, Hành khiển, Sơn thần, Thổ Công, Thổ Địa… Ở bậc này các vị thần là ở
gần gũi với người sống nhất nên con người có thể tự thắp hương, khấn vái và cầu
xin trực tiếp được.
Ở mường lương gian gồm có con người là chủ đạo của mường này và
ngoài ra còn có các thực thể sống khác như: trâu, bò, lợn, gà và các loại đông vật
khác. Người Tày ở Pác Nặm có quạn niệm tất cả các cơ thể sống, có máu đỏ chạy
trong cơ thể là đều có hồn, như: hồn người, hồn trâu, hồn bò… (khoăn cần, khoăn
mò, khoăn vài…). Trong đó hồn người có tam hồn và thất phách, nếu có đủ (3
hồn và 7 phách) thì con người luôn được khỏe mạnh, sảng khoái, gặp nhiều thuận
lợi trong cuộc sống. Nhưng nếu có những con hồn và phách thất lạc thì con người
sẽ bị ốm đau, bệnh tật và mất của cải… Tùy thuộc vào hồn, phách thất lạc đi
những cung nào đó trên trời hay dưới địa ngục (âm ti) thì người ốm sẽ có những
triệu chứng bệnh khác nhau hoặc có những giấc mơ khác nhau. Qua đó những
thầy Mo ở Pác Nặm sẽ xem cụ thể và có những lễ giải hạn, lấy lại hồn phách (au
khoăn) cho phù hợp.
39
Còn ở mường âm ti địa ngục, người Tày ở Băc Kạn nói chung và người
Tày ở Pác Nặm nói riêng đều có quan niệm là dưới đất vẫn tồn tại một thế giới
khác. Ở đó có địa phủ chuyên cai quản các loại tà ma, quỷ quái, như: quỷ Dạ
xoa, Bà La xát, thần chết… có thủy cung, nơi ở của các loại rồng, rắn, thuồng
luồng, thủy quái khác ở dưới nước. Nếu như hồn phách con người bị thất lạc
hoặc bị bắt xuống địa ngục thì sẽ bệnh tật, ốm đau… Nếu chết mà không chuộc
được hồn về thì mãi mãi linh hồn người đó sẽ không siêu thoát về mường dương
chu được mà sẽ bị giam cầm và các quỷ hành hạ, đánh đập, nhúng vạc dầu, xích
chân, xích tay… Nên người Tày ở Pác Nặm cũng thường tìm đến đến các thầy
Mo nhờ làm lễ giải hạn cho mình và người thân trong gia đình.
2.4.2. Tín ngưỡng giải hạn của thầy Mo, Tào ở Pác Nặm thể hiện trường phái
Nho giáo
Người Tày ở Pác Nặm không có tôn thờ hoặc theo một giáo phái nào,
nhưng trong thơ tịch cổ và những bàn thờ của những nhà làm thầy cúng thì có
thế thấy rằng: người Tày có ảnh hưởng lớn Phật giáo và Đạo giáo và phần nào
cũng ảnh hưởng của trường phái Nho giáo. Trong các bàn thờ nhà thầy cúng
luôn có dòng chữ thờ phụng hương hỏa: Tổ sư Hồng Y giáo chủ tuyên văn vương
lai hạ giáng và tổ sư Khổng Phu Tử lai vị tọa… Đây là 2 vị tổ sư của Nho giáo
và có nguồn gốc từ Trung Quốc.
Ngoài ảnh hưởng Nho giáo, người Tày nơi đây cũng ảnh hưởng mạnh Phật
giáo. Trên bàn thờ luôn có bài vị của Quan Âm Bồ Tát, và trong những lời giải
hạn vẫn có những lời, đoạn nói đến những mãnh tướng, các vị quan (Tí Chu,
Ngụy Vương Dần, Mão Trịnh…). Ngoài ra còn thờ các vị thần: Thổ Công, Thổ
Địa, Thần tài… Nhưng qua khảo sát người Tày ở Pác Nặm, đặc biệt là những
người làm thầy Mo, họ không đi theo hẳn một đạo phái nào mà họ tận dụng
những tinh hoa của các đạo phái khác nhau để làm nên một di sản riêng cho dân
tộc mình. Đó chính là tín ngưỡng bản địa (theo lời của thầy Mo Hoàng Văn Lý -
tại Xã Bộc Bố, huyện Pác Nặm).
40
2.4.3. Những văn bản về lễ cúng giải hạn cầu an của người Tày và cách diễn
xướng trong lễ cúng giải hạn (cầu an)
Các loại về lễ giải hạn của người Tày ở Pác Nặm
Trong những phong tục giải hạn (cầu an) của người Tày ở Pác Nặm được chia ra
làm nhiều lễ giải hạn khác nhau:
- Lễ giải hạn cầu tự, cầu an, giải sung hạn dành cho người lớn.
- Lễ mừng thọ là lễ làm cho người có tuổi từ 61 trở lên.
- Lễ cúng tu đẳm (lễ mời tổ tiên).
- Lễ giải chải tinh kỷ.
- Lễ giải tạp, lễ giải kiến quái. Lễ này chỉ giải khi gia chủ thấy những điềm
gở, những giấc mơ xấu…
Những văn bản về lễ cúng giải hạn của người Tày ở Pác Nặm tùy thuộc
những lễ mà gia chủ yêu cầu thì thầy cúng sẽ chuẩn bị những văn bản, sách vở
cúng phù hợp với thể loại lễ đó mang theo. Theo như thầy Mo Hoàng Văn Phúc
và con trai là thầy Hoàng Văn Lý ở Bộc Bố- Pác Nặm thì văn bản làm nghi lễ
giải hạn cầu an hiện nay có khoảng 15 danh mục giải hạn, mỗi danh mục lại có
1 đến 2 quyển văn bản phục vụ cho từng lễ đó. Cho nên để thực hiện một nghi lễ
giải hạn thì thầy cúng phải có nhiều sách vở, như: thư tịch cổ, nhiều ra còn nhiều
sách vở khác liên quan đến lễ cúng giải hạn đó.
Trước đây vào giai đoạn nhà nước cấm bói toán, mê tín di đoan. Các thầy
cúng ở Pác Nặm (trong đó có cả Then) nói vui háp xéc chử tọc bấu chắc, nghĩa là
cả một gánh sách mà chẳng biết chữ nào. Ở đây có hàm ý mỉa mai, chua xót cho
những người làm nghề thầy cúng. Thư tịch cổ bị thất truyền, phần nào mất đi nhiều
giá trị văn hóa trong tín ngưỡng giải hạn của người Tày ở Pác Nặm.
2.4.4. Thời gian, không gian và cách diễn xướng và trang phục, đạo cụ của
nghi lễ giải hạn (cầu an) bằng chữ Nôm tày
Thời gian
Người Tày trên Pác Nặm, khi bản thân hoặc người thân mình bị ốm đau,
bệnh tật hoặc bị mệt mỏi, ăn ngủ không yên… Họ không lý giải được thì họ tìm
41
đến thầy Mo để xem nguyên do. Người đến xem thường mang theo 1 cái áo và
một bát gạo, vài que hương. Sau khi trình bày nội dung sự việc với thầy cúng và
được thầy chấp nhận thì đặt cái áo và bát gạo bọc trong vải trắng hoặc đỏ lên
trước bàn thờ của nhà thầy, sau đó thầy sẽ làm những nghi lễ tại nhà và hẹn gia
chủ được ngày tốt đến và thực hiện nghi lễ giải hạn tại nhà. Lúc này thầy cúng
căn cứ vào những con ma (tua phi) bói được và sẽ dặn gia chủ chuẩn bị những lễ
vật cho phù hợp với công việc sắp tới. Đến ngày đi làm lễ, gia chủ phải có người
sang đón thầy cúng (lặp thông) nghĩa là đón túi mo, đựng các đồ hành nghề của
thầy. Ở Pác Nặm người Tày có quan niệm kiêng kị không bao giờ thầy cúng tự
đeo túi đồ nghề đi làm lễ giải hạn mà phải có người đón đưa.
Đến nhà gia chủ, thầy cúng bước vào cửa là đã phù phép nôi niệm (nhập
môn thành sỹ) và viết chữ (sỹ), đến khi làm xong việc thì quay ra thầy viết thêm
chữ (khẩu) và sau khi hoàn tất thầy viết chữ (cát) có nghĩa là tốt. Ngay sau khi
đến nhà thầy cúng sẽ hỏi về họ tên từng thành viên trong nhà và bổ sung vào sớ
bài mệnh, bài giải… Thời gian làm lễ thường là vào buổi sáng trong ngày.
Tục chọn ngày để làm lễ giải hạn là thường chọn ngày thiên sả, mục đích
là tránh ngày quỷ cách, ngày (bội pang). Tức là ngày ma không ăn cỗ, còn ngày
(bội pang) là ma ăn rồi lại đòi ăn nữa. Ngoài ra thầy cúng cũng thường tránh
ngày (thần cách) và (tuyệt va), nếu làm lễ giải hạn cho trẻ con. Còn lại những
ngày xấu khác không kiêng kị, vì quan niệm của người Tày là gặp sấu mới phải
sửa, phải giải.
Không gian diễn xướng
Tùy thuộc vào việc giải hạn của gia chủ, thầy cúng sẽ sắp đặt vị trí, không
gian diễn xướng. Ví dụ trong giải hạn cầu an, cầu mo đẳm, au khoăn… thì mâm
thầy sẽ đặt ở chính đối diện bàn thờ gia chủ, còn những mâm lễ khác thì đặt lệch
với bàn thờ tổ tiên. Trong lễ giải hạn tinh kỷ (chải tinh kỷ), thì gồm có mâm thầy,
mâm mời tinh kỷ ngồi, mâm thổ địa và tổ tiên, trên mâm có bài mệnh và cắm
(đăng mệnh), có nghĩa là đèn soi sáng cho bản mệnh có cắm lục vần màu đỏ,
42
tương trưng cho hồn người sống. Trên bát gạo có cắm bài mệnh và có 1 quả trứng
sống, mấy cọng cỏ tranh, tương trưng cho những tai ách. Bên cạch bát gạo bài
mệnh còn có bát gạo cắm bài giải, trên lá bài giải được phân ra 2 phần, trên viết
họ tên các thành viên trong gia đình, còn bên dưới ghi những sao sấu, những
điểm sấu trong bản mệnh ứng với từng người trong năm đó.
Trong đơn vị quản lý hành chính hiện nay thì cấp chính quyền gần dân
nhất là thôn rồi đến xã, huyện…Càng làm việc với cấp cao thì nội dung công
việc càng nặng nề hơn. Trong tâm linh của người Tày cũng vậy, có quan điểm
tương tự và có thể nói theo theo người Kinh là (trần sao âm vậy).
Mâm thấp nhất là mâm mạo làng, là mâm xính quân chuyên chuyển những
tai ách, những cái xấu do thầy cúng sai khiến, cho mão làng gánh đi khắp 5
phương. Ngoài ra một số lễ cũng được làm ngoài nhà, như cúng thần (mo slấn),
cúng ma gà, ma cà rồng (phi cáy, phi đắp)… Tùy vào từng việc mà thầy cúng có
cách bài trí sắp đặt riêng, như cúng thần, ma thương, mà gà, ma cà rồng…thì
thầy cúng thường đặt lễ ở ngoài sàn hoặc ngoài sân, nhất thiết là phải ra khỏi mái
nhà của gia chủ thì mới cúng.
Còn nếu cúng lòi (ngũ lôi), thì lại phải vào gốc cây to, nơi ít người qua lại.
Sau khi cúng xong thầy cúng gửi lòi lại gốc cây đó và cây đó tuyệt đối không
được chặt, bởi quan niệm nếu chặt cây sẽ giải phóng cho lòi quay lại và người
chặt cây đó sẽ bị lòi ám ảnh dẫn đến bệnh điên khùng, người Tày thường gọi đó
là (lòi bả), có nghĩa là ngũ lôi điên.
Đặc biệt hơn là cúng phi bân, phi phạ (ma mường trời). Khi làm lễ này
trước tiên thầy cúng cùng gia chủ và người phụ việc cho thầy cúng thống nhất
cách thức làm, những thứ cần chuẩn bị, khi đã đủ thì thầy cúng cùng gia chủ đi
vào khe suối vắng không người qua lại thì làm lễ. Trong suốt thời gian làm lễ
tuyệt đối người ngoài không được nói năng gì, mà chỉ ra hiệu cho nhau khi có
việc gì. Toàn bộ đồ lễ vật trừ phần cho thầy cúng còn lại là sử dụng ăn hết tại
43
chỗ, nêu không ăn hết thì cũng bỏ lại không được lấy về, và cho đến khi ra khỏi
vùng là lễ cúng thì mọi người mới được nói chuyện.
Cách diễn xướng của cúng giải hạn bằng Nôm Tày
Giải hạn bằng Nôm Tày tất nhiên là nói bằng tiếng Tày, nhưng giai điệu
nói theo kiểu Tày cổ (Tày bốc), gần giống giọng của người Tày Bảo Lạc- Cao
Bằng và Tày ở Hà Giang. Nôm Tày có xen lẫn một số đoạn nói bằng tiếng Quan
hỏa.
Trong cuộc sống ngày nay, người Tày ở Pác Nặm chủ yếu là sử dụng ngôn
ngữ (Tày nặm). Tày nặm nói ít giọng hơn Tày bốc và là ngôn ngữ chủ đạo nên
hiên nay một số giai điệu của các bài cúng đã được thể hiện bằng tiếng Tày nặm,
gần giống với thể văn xuôi.
Nhưng để lới cúng đi vào lòng người và có sức truyền cảm hơn thì lời cổ
vẫn tạo được sự cuốn hút và mê hoặc. Người Tày có câu:
“Lượn van sle Tày slo
Mo van sle Tày bốc”
Có nghĩa: “Lượn hay nhất Tày chợ slo
Mo hay nhất Tày cổ”
Khi vào lễ cúng giải hạn, việc đầu tiên của thầy cúng là sỉnh slay, mời tổ
sư, sự phụ xuống ngồi nhập đàn để giúp cho thầy làm tốt công việc cho gia chủ.
Việc thứ hai là sỉnh Nam Tào, Bắc Đẩu, sỉnh tinh chủ (nếu là giải hạn tinh chủ).
Sỉnh những sao tốt, sấu ứng với từng người trong năm đó. Việc thứ ba là sỉnh
mao làng (mão nhân lang), người nhận thay gia chủ gánh vác những tai ương,
kiếp nạn xấu, và không thể quên là sỉnh bàn thờ tổ tiên của gia chủ đến chứng
kiến và giúp đỡ cho công việc giải hạn được trọn vẹn và thành công.
Khi sỉnh tất cả những bước trên, thầy cúng thường cầm một cọng cỏ tranh,
nhẩm quyết và đếm quyết trên đầu ngón tay, sau đó đặt cọng cỏ tranh xuống
mâm tương ứng với lời sỉnh của thầy mời những vị thần thánh đó ngồi.
44
Những đạo cụ, trang phục trong nghi lễ giải hạn bằng chữ Nôm Tày ở Pác
Nặm
Về đạo cụ của thầy Mo trên Pác Nặm gồm có: ấn, là con dấu vuông được
khắc bằng đồng hoặc bằng gỗ, thể hiện cho người Tày có cấp, có sắc, có chức vụ
trong cõi tâm linh. Lệnh, làm bằng gỗ là công cụ thừa lệnh Ngọc Hoàng Thượng
Đế ra lệnh hoặc ban phát những chữ phù phép cho gia chủ cũng như tà ma, quỷ
quái… Sỉnh chảo (quẻ âm dương), là hai mảnh tre hoặc gỗ được bổ làm đôi, dùng
để chứng giám cho những sự việc, những lời cầu xin có đúng như ý nguyện hay
không. Chuông mo hoặc quả nhạc, là quả chuông, được đánh hoặc sung theo
nhịp mo của thầy ở những thời điểm dứt câu hoặc kết thúc công đoạn nào đó.
Ngoài ra còn có bút lông nghiên mực, kéo cắt… để phục vụ cho công việc chuẩn
bị ban đầu.
Trang phục gồm có: mảo pài (là cái mũ mo), cái mũ này thể hiện người có
hàm phẩm thấp nên mũ cũng khác với mũ của thầy Tào. Mũ có hình tròn đội trên
đầu và có dây thít lại, bên trên mũ có 2 mảnh chụp lên trên, đằng trước thêu chữ
nhật (mặt trời), đằng sau thêu chữ nguyệt (mặt trăng). Áo mo thường là áo vải
chàm đen, quần vải chàm đen.
Ngoài ra còn có một số vận dụng khác như: thông mo (túi đựng đồ của
thầy mo, thầy cúng); ô đen dùng để che mưa, che nắng và che chở cho bản mệnh
của thầy đề phòng những người khác có phép thuật làm hại mình.
2.4.5. Nội dung của văn bản Mo giải hạn bằng chữ Nôm Tày ở Pác Nặm
Trong lễ giải hạn cũng tùy thuộc vào công việc, mục đích, yêu cầu của gia
chủ mà thầy cúng chuẩn bị những văn bản, nội dung phù hợp, nên nội dung văn
bản là rất rộng lớn. Ở đề tài này tôi chỉ đề cập, khảo sát một nội dung, văn bản là
chải Tinh kỷ (dâng sao giải hạn).
Cũng giống như giải hạn bằng Then, người Tày ở Pác Nặm có nhiều gia
đình tìm đến thầy Mo, Tào… để chọn ngày lành, tháng tốt để làm lễ giải hạn đầu
năm. Người Tày có quan niệm thành phần quan trọng nhất là người thầy cúng,
45
họ được cộng đồng tin tưởng là có thể giao tiếp được với giới tâm linh, có thể
dâng lễ lên các thần, thánh để các thần thánh sau khi đã nhận lễ sẽ xóa đi những
hạn khắc, tai nạn, rủi ro, sẽ dịch chuyển những ngôi sao xấu (hung tinh) đang
chiếm vào bản mệnh của gia chủ, và cầu xin thánh thần ban phát cho gia chủ
những điều tốt đẹp, như: sức khỏe, tiền tài, gia đình hòa thuận…
Để chuẩn bị cho nghi lễ giải Tinh kỷ, gia chủ phải chuẩn bị thịt 4 con gà
luộc, trong đó phải có 1 con gà trống để lên bàn thờ tổ tiên, 1 con đặt trong lầu
kỷ (mái nhà làm bằng cọng lá chuối), nơi tượng trưng cho nơi mường trời ở.
Hình 2.1: Lầu kỷ tượng trưng cho mường trời
Còn một con đặt mâm Thổ Địa. Họ quan niệm, mỗi địa phương đều có
Thổ Địa quản lý từng khu vực của mình, nên làm giải ở địa phương nào thì mời
Thổ Địa ở địa phương đó đến giúp công việc của gia chủ.
46
Còn một con gà luộc đặt xuống mâm mão làng. Theo quan niệm, mão làng
chuyên nhận chuyển thuê bất kể thứ gì, và ở đây thầy cúng và gia chủ mời mão
làng đến để chuyển những tai ách, hung họa, điều xấu ra biển cả.
Hình 2.2: Hình nộm mão làng
Nếu gia chủ mà giải hạn vào đúng năm tuổi đẻ, ví dụ như, đẻ năm Ngọ
mà giải hạn vào những năm Ngọ, thì còn phải chuẩn bị thêm 1 cái bồ đựng
gạo (khẩu mỉnh) và lấy cọng lá chuối về làm tượng trưng cho cái đập và lấy
bánh dày to bằng cái đĩa về đặt ốp vào (đắp đập), số lượng bánh dày càng
nhiều càng tốt.
47
Hình 2.3: Giải hạn thêm lương thực cho bài mệnh, cho người được giải hạn
Nó mang ý nghĩa là đắp đập, che chắn cho bồ gạo luôn được đầy đặn và
không bị tiêu tốn, mất mát để rồi gia chủ luôn được mạnh khỏe, ấm no và hạnh
phúc.
Ngoài ra trong nghi lễ thì gia chủ phải đào một cây chuối con, một gốc tre
để đi trồng, trên cây tre còn đan những cái rỏ nhỏ, bên trong có lót giấy và rắc
mấy hạt gạo, những cái rỏ đó gọi là rọ hồn. Những người tuổi 49; 61; 73 còn phải
làm thêm cầu để nối số cho thượng thọ và được chia chia ra làm 3 loại cầu, loại
nhỏ nhất là dài khoảng 30-40 cm và cầu này sau khi làm lễ giải hạn và cầu may
xong thì được đưa lên buộc trên cửa ra vào cầu đó, được gọi là (cầu khoen), nghĩa
là cầu treo.
Loại cầu thứ 2 dài khoảng 12-15 cm, được thầy cúng viết chữ xuống mặt
cầu “trường sinh bảo mệnh - bát quái hộ thân”. Cầu này được đem đóng xuống
nơi đất rộng có người qua lại, gọi là (cầu đin), cầu đất. Với loại cầu này thầy
cúng sẽ sắp mâm cúng lễ vật ra tạ Thổ Công, Thổ Địa, sau đó cầu xin địa phủ
48
Chưởng Bạ, người giữ sổ sinh tử để thân chủ được sống lâu dài. Sau khi đã xin
được thì mới cho thân chủ bước qua cầu về nhà.
Loại cầu thứ 3 là (thiêng kiều), nghĩa là cầu có mái che. Loại này cầu kì
hơn, được làm ở tuổi 73 và 85, nếu 73 thì làm nhà cầu 4 cột, còn 85 tuổi thì làm
nhà 8 cột. Vì vậy nhìn vào thức bên ngoài thì họ hiểu là gia chủ này đã làm lễ
tuổi đẻ ở độ tuổi cao hay thấp.
Trên nóc thương lương của cây cầu này có 1 con cá hoặc rồng làm bằng gỗ,
trên con cá được viết 2 mặt, một mặt viết địa chỉ, họ tên, ngày tháng, năm sinh của
người có tuổi đẻ đó, còn mặt kia tên của 28 vì sao tinh tú. Con cá được đặt lên với
hướng đi vào nhà, với cầu này nếu gia chủ đã cao niên thì sẽ được con cháu cõng
qua cầu và về nhà, lúc đó con cháu trong gia chủ thể hiện sự hiếu thảo, mang ơn
ông bà, cha mẹ sinh thành bằng những lời chúc sống lâu, lời chúc đó được thể hiện
qua những câu lượn chúc thọ và có quà tặng cho ông bà, cha mẹ bằng những lễ vật
như áo, khăn, tiền,… sau đó bón cơm, thức ăn và một chút rượu chúc tụng ông bà,
cha mẹ. Cuối cùng là vái lạy sống 4 lần ông bà, cha mẹ.
Hình 2.4: Con cháu tạ lễ công ơn sinh thành của ông bà, cha mẹ
49
“Slổng slép chảo mạy vác
Slổng pác chủa mạy thông
Slổng bằng ông Bành tổ”
Dịch nghĩa: “Sông như mười khúc cây (ngọc am)
Sống như một trăm khúc(cây thông)
Sống như ông Bành tổ”…
Sau khi gia chủ đã chuẩn bị đầy đủ những lễ vật thì thầy cúng cùng người
phụ việc bắt đầu sắp đặt các loại mâm theo trình tự. trong nghi lễ gồm có 1 cái
mâm, 3 cái bát con đựng gạo, một mảnh vải đỏ hoặc giấy đỏ loát mâm, 5 cái
chén, một chén nước lã có ngọn thanh thảo bỏ vào. Sau khi đặt 3 bát gạo ngay
ngắn, người giúp việc sẽ đổ xuống trước 3 bát gạo và đặt tiền lễ rồi bắt đầu thắp
hương. Hương được thắp 5 que tương trưng cho ngũ hành kim, mộc, thủy, hỏa,
thổ. Trong đó bát giữa cắm 3 que và 2 bát còn lại mỗi bát một que.
Sau khi thắp hương xong mâm thầy thì mới sắp các mâm tiếp theo theo
hàng dọc cùng chiều với thầy ngồi, trên cùng là lầu kỷ, lầu kỷ được làm bằng 4
cọng lá chuối, làm cột và được xiên ngang bằng tre, chia làm 2 tầng. Tầng dưới
có 3 bát gạo, có đặt 1 quả trứng sống và cắm bài mệnh của cả nhà và một hình
người cắt bằng giấy màu đỏ cắm xuống bát gạo gọi là (pát khẩu khoăn), nghĩa là
(bát gạo hồn). Trên bát gạo hồn này còn được cắm 1 số cây nến nhỏ, tượng trưng
cho với số thành viên trong nhà, còn tầng trên một bát gạo khác được cắm bài vị
của các vị Nam Tào, Bắc Đẩu
50
Hình 2.5: Mâm cúng Nam Tào, Bắc Đẩu
Mâm tiếp theo là mâm Thổ Địa và gia tiên, mâm này được đặt kế tiếp lầu
kỷ, được lót lá chuối và đặt 2 bát gạo và 2 cái chén, 1 cây nến.
Trong nghi lễ, việc đầu tiên thầy cúng sỉnh các tổ sư của thầy xuống nhập
mâm với nét mặt nghiêm túc, thầy nhẩm và viết xuống mâm những chữ phép sau
đó niệm chú, trình bày nội dung công việc của gia chủ, thầy cúng mời tổ sư xuống
mâm giúp việc. Lúc này lời của thầy trầm bổng, theo khói hương cuồn cuộn dâng
lên, dường như lời khấn như được thăng hoa lên đến tận mây xanh, nghe vừa uy
nghi vừa huyền bí.
51
Hình 2.6: Lời cúng và niệm chú trong nghi lễ giải tinh kỷ
của thầy Hoàng Văn Phúc
“Ai hương khửn mừa cạ
Ai lạ khửn mừa thâng
Hương bấu cằm lăng lại
Páo thâng slay cò lọc
Páo thâng slay họ Hoàng”
Dịch nghĩa: “Khói hương lên truyền lời
Khói hướng đến bày tỏ
Hương chẳng lên nói chơi
Chẳng nói lời gì xấu
Báo đến thầy sư tổ
Báo đến thầy họ Hoàng”
52
Sau khi trình bày xong những nội dung công việc với sử tổ, thầy cúng lấy
quẻ âm dương làm cơ sở để chứng giám cho việc các sư tổ đã hạ giáng bằng cách
tung quẻ âm dương.
“Cốc mạy khỏi lồng mai
Pyai mạy hết chứng kiến
Kép khoẳm đẳm chỏ slay
Kép nay xay lồng pyọm”
Dịch nghĩa: “lấy gốc cây đánh dấu
Lấy ngọn cây xuống xem
Mảnh úp có tổ tiên
Mảnh ngửa liền xuống đủ”
Sau khi xin xấp, ngửa đã được thầy liên mời rượu,mời chè tổ sư:
“Liền mì lẩu tắc mà
Liền mì chè tắc khửn”
Dịch nghĩa: “Đã có rượu rót ra
Đã có trà dâng hiến”
Ba tuần rượu, chè đã rót xong thầy cúng cầu tổ sư phù hộ cho 2 bên là gia
chủ và thầy cúng. Công việc đã được suôn sẻ.
“Cụm hẩu slong bưởng đẩy khoái lạc
Slong phạc đẩy bình an”
Dịch nghĩa: “Phù hộ cho hai bên được khoái lạc
Hai họ được bình an”
Tiếp theo nghi lễ, thầy cúng mời đến lầu kỷ, mời các vị Nam Tào, Bắc
Đẩu, Cửu tinh, la hán… khi gọi nhẩm đến vị nào thì thầy bấm móng tay cái vào
cọng cỏ tranh và đặt xuống mâm. Sau khi sỉnh qua một lượt thầy cúng lại lấy quẻ
âm dương để chứng giám cho các vị đã xuống nhập môn.
Trong nghi lễ giải hạn của người Tày ở Pác Nặm thì phần lời cúng và phần
phù phép luôn đi liền nhau và có liện hệ chặt chẽ. Sau khi rót rượu các mâm thầy
53
cúng cầm lệnh vẽ trong không khí những chữ như: tai, ách, nạn, thương, đoản,
phá… Khi thầy hành lễ thì gia chủ và con cháu trong gia đình mỗi người đội
khăn, mũ chỉnh tề, cầm hương, nam thì đứng còn nữ thì ngồi, sau hồi chuông
cúng của thầy bắt đầu vang lên con cháu đồng loạt lạy vái 3 lạy và dâng hương
lên bàn thờ, mâm thầy. Mâm thầy cúng như dẫn dắt con cháu đi từ cõi xưa đến
hiện tại bằng những lời thơ năm chữ lôi vần, lôi điệu.
“Cón vô lập vô nguyên
Cón vô thiên vô tỉ
Bích lịch chảo thiên địa
Bàn cổ chỉ âm dương
Khổn độn chảo pù pá
La tỉ chảo lục cần ”
Dịch nghĩa: “Trước đây còn hỗn đôn
Còn lẫn lộn lung tung
Bích lịc phân trời đất
Bàn cổ chia âm dương
Khổn độn tạo đồi núi
La địa tạo ra người”
Lời cúng cho ta biết được những căn nguyên, nguồn gốc của những tai
ách, bệnh tật đến từ đâu và người xưa đã có những cách hóa giải và cho đến nay
gia đình ta cũng vậy.
Lời cúng có thể được thay đổi theo từng hoàn cảnh, từng nội dung công
việc mà không cần phải căn cứ theo sách vở. Những nội dung phải nói sát với
thực tiễn mà vẫn có điệu có vần. Để làm được như vậy thầy cúng phải có hiểu
biết và vốn thơ ca tương đối thì mới ứng khẩu thành thơ được.
Sau khi đã mời được các vị Nam Tào, Bắc Đẩu, Cửu Tinh… xuống hết thì
thầy cúng lấy tờ tiền âm phủ đốt thả xuống bát nước trong và vẽ phù chú lên bát
nước, sau đó người phụ việc mới được cầm bát nước đó đem xuống bếp đổ vào
nồi nước luộc gà và mới được tiến hành thịt gà.
54
Xuyên suốt buổi lễ là cả cuộc hành trình đi lên mường trời của cả đoàn,
gồm có tổ sư, thầy cúng, thổ địa, thổ công và binh mã của thầy cúng. Trải qua
quãng đường dài, qua bao nhiêu cửa ải, trên đường đi đến ải nào cũng phải đốt
tiền để qua thì mới đến được đích của giải hạn đó.
Nếu là chải tinh kỷ cửu tinh thì khi gánh đồ đến cửa ải cửu tinh là bầy đồ
vật ra và mời rượu chè và sau đó là gọi hồn người gia chủ về cho hết, sau đó là
che chở hồn phách bản mệnh, cả nhà gia chủ không để các sao sấu chiếu vào bản
mệnh.
“Tải ết hết puông đán lồng dà
Tải nhỉ au khả hải ma chiếu
Tải slam au mạy phấy lồng khen
Biển khẩu pác tua slưu
Biển khẩu đưa tua ngược
Biển khẩu pác tua luồng”
Dịch nghĩa: “Thứ nhất lấy trái núi xuống che
` Thứ hai lấy dòng sông ngăn lối
Thứ ba lấy bụi tre xuống cản
Biến vào miệng con hùm
Biến vào móng con mãng xà
Biến vào miệng con rồng”
Đoạn tiếp theo thầy cúng cắt sao sấu ra khỏi bản mệnh bằng cách cắt tượng
trưng bài vị màu vàng bên trên ghi họ tên cả nhà, bên dưới ghi các hạn, sao hung
tinh. Thầy đưa kéo cắt đôi bài vị màu vàng và giữ lại phần họ tên rồi cho vào
(thông khoăn), nghĩa là túi đựng áo của cả nhà, nửa còn lại thầy đặt xuống mâm
mão làng với ngụ ý là những những điều xấu sẽ để mão làng nhận chuyển giúp
cho.
Hoàn thành việc gọi hồn xong là đến khúc quay lại. Khi thực hiện nghi lễ
này với động tác thong dong đi qua từng cửa ải, đi đến đâu nộp tiền đến đấy, khi
quay xuống nhịp đi sẽ dồn dập, gấp gáp hơn.
55
“Tò khửn lầu án không
Tò lồng lầu án khái
Slip không sơn hết không lầu lải
Slip khái sơn hết khái lầu lồng”
Dịch nghĩa: “Khi lên mình đếm khúc
Lúc xuống mình vượt rào
Khúc dồn một khúc mình qua
Đoạn dồn một đoạn mình về”
Khi về đến dương gian lại tạ lễ Thổ Địa, tổ sư, thần nông, mão làng một
lần nữa là tiễn Thổ Địa, Thổ Công, thần nông về chốn cũ, và đưa túi áo cho
gia chủ. Lúc này con cháu nếu ai biết biết về chuyện Nôm Tày sẽ đứng ra nhận
túi áo từ tay thầy và nói: khoăn mà, mì mo đây slay lục pây thắp đẩy khoăn
mà, pây xa đẳm khoăn tẩu lẻ khoăn mà pảo slí…(hồn phách ơi hãy về, hôm
nay có thầy, thợ đi đón được hồn phách về nhập gia môn, về nhập nhập hồn
cả nhà đầy đủ…).
Sau khi ném nắm gạo vào mão làng thì người giúp việc bê nguyên cả mâm
mão làng ra khỏi nhà thì mới đốt tiền vàng, đốt hết những gì cháy được. Đến đây
mọi việc coi như đã xong, bát gạo cắm bài mệnh của cả nhà và quả trứng được
đặt lên góc bàn thờ tổ tiên, sau 3 ngày lấy quả trứng và bát gạo xuống cả nhà ăn,
còn tờ bài mệnh được đặt để ở góc bàn thờ, với ý niệm là cho tổ tiên luôn phù
hộ, che chở cho cả nhà được mạnh khỏe. Lúc này các mâm được thu dọn, chỉ để
lại mâm thầy cúng.
Theo quan niệm của người Tày ở Pác Nặm, thì lễ luôn đi với hội, xong
phần lễ là đến phần hội. Phần cúng đã xong gia chủ chủ dọn cơm ra mời anh em,
con cháu, họ hàng cùng ăn bữa cơm mừng sức khỏe cho gia chủ. Khi các mâm
đã đầy đủ người ngồi thì một người trong gia đình thay mặt cho cả nhà, tay cầm
khay có 4 chén rượu đứng dậy tuyên bố lý do và mời tất cả ăn uống vui vẻ với
gia đình. Khi đã ăn uống no, say người đại diện gia đình lại cầm khay 4 chén
rượu đứng dậy nói những lời yêu cầu thầy cúng thuật lại nội dung công việc của
56
ngày hôm nay, và không quên nhắc khéo thầy chúc tụng và ban phúc lộc cho gia
chủ, lúc này thầy cúng nhận lễ và mới có lời tóm tắt sự việc của ngày hôm nay
và điểm mẫu chốt là chúc phúc cho cả nhà gia chủ.
Hình 2.7: Thầy cúng Hoàng Văn Phúc ban phúc lộc cho cả gia chủ
“Ăn lại vít lồng thôm
Ăn khôm vít lồng tả
Ăn nhả vít lồng vằng
Chấp bấu hẩu lồng vậy
Khẩy bấu hẩu lồng thâng
Khẩy chấp quá tỉ đai
Chai nản quá tỉ táng
Hết lăng củng đẩy lỉ
Chỉ lăng củng hẩu pền
Thắp ngần chèn hẩu tấu
Khẩu nặm hẩu đẩy pền”
57
Dịch nghĩa: “Cái xấu vứt xuống ao
Cái đắng vứt xuống suối
Cái dối bỏ xuống vực
Đau ốm khống xuống trú
Bệnh tật không cho xuống
Đau ốm qua chỗ khác
Tại nạn đi chỗ khác
Làm gì cũng được lợi
Đụng đâu cũng được việc
Tìm bạc tiền cũng được
Thóc ngô cũng được mùa”
Với thời gian chúc tụng khoảng 15 đến 20 phút bằng những câu văn vần
chữ Nôm Tày, chau chuốt từng lời đã làm cho không khí thêm phần vui vẻ. Lúc
này con cháu sẽ cầm chén rượu đi cảm ơn từng bà con, anh em hàng xóm đã đến
giúp đỡ gia đình.
Kết thúc phần hội, người đại diện gia chủ tuyên bố lý do và được tung hô
(cáo xếnh) lần cuối. Khi thầy ra cửa về thì người trong nhà sẽ có trách nhiệm đưa
lễ vật về tận nhà thầy với phần lễ là: 1 con gà, 1 chai rượu, túm gạo và hoa quả,
bánh kẹo…Khi đến nhà thầy mọi lễ vật được đặt lên bàn thờ, thắp hương tạ lễ
lần nữa là nghi lễ giải đã hoàn tất.
Cũng giống trong tín ngưỡng giải hạn của người Tày, nét đặc trưng nhất
của người Dao Tiền trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên chính là thờ Bàn Hồ (tổ
tiên) và Bàn Vương (người có công lớn đối với người Dao). Trên mỗi bàn thờ
được đặt trang trọng ở gian giữa gồm một bát hương và một chén đựng nước.
Ông Bàn Hữu Ngọc, dân tộc Dao, Trưởng xóm thôn Nà Lẹng, xã Bộc Bố, huyện
Pác Nặm cho biết: Theo thế hệ trước truyền lại Bàn Hồ là một long khuyển, từ
trên trời giáng xuống trần, được Bình Vương yêu quý, nuôi trong cung vua. Một
lần, Bình Vương nhận được chiếu thư của Cao Vương, nên đã hội triều tìm cách
58
đánh Cao Vương. Bàn Hồ xin đi giết Cao Vương. Bình Vương hứa, nếu Bàn Hồ
giết được Cao Vương sẽ gả công chúa cho. Khi Bàn Hồ đến, Cao Vương cho là
điềm may và giữ lại bên mình để nuôi. Một lần, Cao Vương uống rượu say bị
Bàn Hồ cắn chết, rồi mang đầu về báo công với Bình Vương. Giữ lời hứa, Bình
Vương gả con gái cho Bàn Hồ. Vợ chồng Bàn Hồ sinh được 6 con gái, 6 con trai,
đều được Bình Vương ban sắc thành 12 họ, sinh sôi tạo ra những vùng cư trú
rộng khắp của người Dao Tiền.
Người Dao Tiền quan niệm, Bàn Vương ảnh hưởng rất lớn tới mỗi cá nhân
và gia đình, do đó, việc thờ cúng Bàn Vương giúp cho con cháu họ luôn tưởng nhớ
tới nguồn cội và có trách nhiệm trong việc lưu truyền truyền thống đó cho các thế
hệ về sau. Việc thờ cúng Bàn Vương phải chú trọng như thờ cúng tổ tiên mình làm
cho các thành viên trong cộng đồng tộc người này trở nên gắn bó với nhau hơn. Do
đó, việc thờ luôn được các gia đình người Dao Tiền.
Thờ cúng thổ thần của người Dao Tiền cũng gần giống như dân tộc
Tày, Nùng với các miếu được xây dựng ngay đầu xóm, đặt dưới gốc cây to. Miếu
thường xây dựng bằng cột gỗ lợp mái gianh rộng khoảng 1 - 2 m2. Nhưng lễ cúng
thổ thần hằng năm được người Dao Tiền tổ chức khá lớn vào dịp đầu xuân năm
mới. Mâm cúng nhất định phải có con lợn từ 30 kg trở lên, 2 con gà luộc, gói cơm
nếp, giấy bản đã cắt… Lễ cúng do nhân dân trong làng đóng góp, cầu mong con
người có sức khỏe, mùa màng tốt tươi, trâu, bò, lợn, gà.
Với quan niệm vạn vật đều có linh hồn, đồng bào Dao Tiền tin rằng trong
thế giới đang sống luôn có những vị thần, như: thần gió, thần mưa, thần coi sóc
lúa gạo và hoa màu, thần chăn nuôi. Vì thế, người Dao Tiền ở nhiều thôn trên
địa bàn huyện Pác Nặm, hiện vẫn duy trì tục cúng các vị thần nêu trên, trong đó
có lễ cúng thóc được tổ chức hằng năm vào ngày 15/8 âm lịch gần giống như lễ
mừng cơm mới của người Nùng nhưng lại có những nghi lễ riêng. Tại lễ cúng,
người Dao Tiền lấy một bó lúa nhỏ, các nông cụ sản xuất, hình người, mặt trời
được làm bằng giấy và đặt trước bàn thờ tổ tiên. Trong suốt ngày cúng, các thành
59
viên trong gia đình không ra khỏi nhà hoặc sang chơi nhà khác, vì sợ hồn lúa đi
theo và ở lại nhà đó, mùa màng sẽ thất bát.
Người Dao Tiền còn kiêng kỵ các ngày xấu trong năm, như: Ngày Kinh Trập
- kỵ sâu bọ; ngày Xuân Phân - kỵ gió; ngày Cốc Vũ - kỵ lũ; ngày Lập Hạ - hại sức
khỏe; ngày Tết Thanh minh… Những ngày kiêng kỵ này người Dao Tiền không đi
làm bất cứ việc gì ở ngoài đồng, chỉ ở nhà nghỉ ngơi, không nói to.
Mặc dù một số nghi lễ còn tốn kém, nặng về hủ tục nhưng tín ngưỡng của
dân tộc Dao Tiền nói chung mang những giá trị tích cực, đặc trưng và có nét văn
hóa độc đáo. Để góp phần giữ gìn, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa nói
chung, giá trị tín ngưỡng nói riêng của người Dao Tiền ở Pác Nặm, cần có sự
nghiên cứu để bảo tồn và phát huy phù hợp với đời sống văn hóa mới.
Cũng như nhiều dân tộc khác, đồng bào dân tộc Mông trên địa bàn huyện
Pác Nặm quan niệm vạn vật hữu linh, đa thần, họ cho rằng đó là một lực lượng
siêu nhiên, có mặt, ngự trị ở mọi lúc, mọi nơi. Vào những ngày đầu năm mới,
người Mông lại mời Thầy mo, người có uy tín trong cộng đồng đến giải hạn -
nối số cho toàn thể gia đình mình với mong muốn cầu chúc cho một năm mới
mạnh khỏe, an khang, làm ăn no đủ, mùa màng tốt tươi.
Để thực hiện nghi lễ “Giải hạn - nối số”, gia chủ sẽ đến nhờ thầy mo trong
bản chọn ngày lành tháng tốt. Sau đó, họ chuẩn bị đầy đủ lễ vật gồm: gà luộc,
gạo, rượu, thịt lợn đã được luộc chín cùng hoa quả, bánh kẹo, tiền vàng mã,
hương thắp. Đặc biệt là cây chuối non nối số với ý nghĩa tượng trưng cho sự
trường sinh.
Đến ngày lành, gia chủ mời họ hàng trong bản đến dự. Sáng sớm, thầy mo
đến làm lễ. Thầy mo mặc trang phục của đồng bào dân tộc Mông màu chàm, đầu
đội mũ nồi, mang theo: Sách chữ nho, chuông, bộ gieo quẻ âm dương, “cây phan”
được cắt tỉ mỉ bằng giấy và một số vật dụng khác.
Khi giờ tốt đến, thầy mo làm thủ tục xin quẻ âm dương, trời đất. Người
được nối số và giải hạn sẽ được đưa ra để làm lễ. Thầy mo xướng các bài trong
nghi lễ giải hạn và đi vòng quanh người được giải hạn 3 vòng cầu thần linh phù
60
hộ, bảo vệ che chở.nghi lễ giải hạn và đi vòng quanh người được giải hạn (3
vòng). Kết thúc buổi lễ, gia chủ sẽ mời họ hàng, dân bản cùng thưởng thức những
món ăn do chính gia đình mình chuẩn bị để cùng chung vui. Họ sẽ mang cây
chuối non đi trồng ở vườn để mong cho cây trái tốt tươi, số mệnh của người được
nối số sẽ bình an, mạnh khỏe.
Nghi lễ giải hạn - nối số phản ánh rõ nét phong tục tập quán, đời sống sinh
hoạt văn hóa của người Mông, đây là dịp củng cố mối quan hệ cộng đồng, với
ước mong tổ tiên, thần linh chứng giám phù hộ cho dân bản sức khỏe dồi dào,
những điều tốt đẹp, may mắn, bình an.
61
Tiêu kết chương 2
Có thể nói, người Tày ở Pác Nặm cho thấy một hệ thống quan niệm về thế
giới quan, nhân sinh quan của người Tày với niềm tin rằng xung quanh cuộc sống
của họ luôn có sự hiện diện của nhiều loại ma (phi), trong đó có loại ma lành
(phúc thần) và ma ác (hung thần). Những loại ma này có thể gây ra những ảnh
hưởng tiêu cực tới mỗi cá nhân, mỗi gia đình và thậm chí cả cộng đồng làng bản.
Để giải trừ những hiểm họa do các loại ma ác gây ra cho con người về sức khỏe,
kinh tế… là một số cá nhân có khả năng tìm ra ma (thầy Mo, Tào, Then…) và
một số cá nhân có khả năng thực hành các nghi lễ để trừ ma, giải hạn (các thầy
Then, Mo). Họ là những người hành nghề cúng uy tín cao trong cuộc sống cộng
đồng người Tày ở địa bàn huyện Pác Nặm.
Quan trong hơn, nghi lễ tín ngưỡng giải hạn chỉ diễn ra khi có nhu cầu về
an ninh con người ở các góc độ sức khỏe và kinh tế của các cá nhân và gia đình
trong cộng đồng người Tày. Vì các thầy Then, Mo…thường làm các nghi lễ giải
hạn theo yêu cầu của các gia chủ. Tùy theo độ tuổi, giới tính, nguyên nhân phải
thực hành nghi lễ, các lễ vật và các bước tiến hành trong nghi lễ này có những
sự khác biệt. Tuy vậy, điểm chung nhất ở các nghi lễ giải hạn là dù thực hiện qua
nhiều trình tự khác nhau, hình thức khác nhau, mục tiêu cuối cùng là nhằm đem
lại cho con người một sự an ủi, động viên và cao hơn nữa là tâm lý (thể chất và
tinh thần) tốt về sức khỏe, vật chất, ở mỗi người.
62
Chương 3
GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT TÍN NGƯỠNG GIẢI HẠN QUA DÂN CA
NGHI LỄ DÂN TỘC TÀY HUYỆN PÁC NẶM, TỈNH BẮC KẠN
3.1. Nghi lễ giải hạn qua dân ca ở Pác Nặm và sự thể hiện những giá trị văn
hóa và cuộc sống của người Tày
Nghi lễ giải hạn của người Tày ở Pác Nặm đã thể hiện rõ nét những giá trị
văn hóa độc đáo của người Tày. Thứ nhất, nghi lễ giải hạn phản ánh thế giới tâm
linh của người Tày nói chung, người Tày huyện Pác Nặm tỉnh Bắc Kạn nói riêng.
Thế giới tâm linh của người Tày là thế giới đa thần. Tất cả các vị thần trong quan
niệm dân gian đều được hình tượng hóa như những nhân vật có thật. Ngoài tổ
tiên, tổ sư là những con người đang tồn tại và đã khuất, các vị thần trong nghi lễ
giải hạn của người Tày đều có dáng vẻ riêng biệt như Phật Quan Âm, Thổ Công,
Nam Tào, Bắc Đẩu… Qua nhãn quan của các thầy cúng, các gia đình thực hiện
nghi lễ giải hạn, vũ trụ quan của họ hiện lên thật rõ ràng và cụ thể với ba tầng
chính đó là: cõi trời, cõi đất và cõi nhân gian.
Với vai trò là người liên hệ với thần linh, các thầy Then, Tào, Mo,… đã
đi lại dễ dàng từ cõi này đến cõi khác khi họ thực hành các nghi lễ giải hạn. Cõi
trời (hay thiên đường thượng đế - mướng phạ) được hiện lên trong tâm thức của
người Tày là một hình ảnh lý tưởng của cõi nhân gian. Ngoài cung phủ tráng
lệ, nguy nga thì mướng phạ này hiện lên rất bình dị, rất đời thường với rừng
núi, biển cả, ruộng vườn, chim muông… Thế giới ba tầng và thế giới đa thần
trong cuộc sống tâm linh của người Tày phản ánh sự giao thoa, hội nhập giữa
yếu tố tín ngưỡng bản địa với các tín ngưỡng du nhập (Tam giáo, đặc biệt là
Đạo giáo).
Nghi lễ giải hạn ở Pác Nặm còn là sự cụ thể hóa quan niệm vật linh giáo
trong tín ngưỡng dân gian bản địa của người Tày. Quả trứng, chim én đã trở
thành biểu tượng nghề nghiệp của thầy Then. Sứ mệnh con người được hình dung
như một cây cầu (cầu vía), muốn khỏe mạnh dài lâu thì phải chú ý sửa sang, tu
63
chỉnh cho cây cầu được chắn chắn, bền lâu. Tuổi thọ và sức khỏe của những
người cao tuổi được gắn với bịch lúa gạo, tượng trưng cho sức sống dồi dào và
nguồn cung đầy đủ, no ấm của họ.
Thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng quan trọng nhất của người Tày được
thể hiện rõ nét trong cac nghi lễ giải hạn. Giống như người Tày ở các địa phương
khác, người Tày ở Pác Nặm cũng chủ yếu thờ tổ tiên 3 đời và mỗi khi cầu cúng,
họ chỉ xướng tên bố mẹ, ông bà và cụ, còn từ đời thứ tư trở về trước thì được gộp
vào tổ tiên chung. Với mỗi người vừa mới mất, họ lập bàn thờ, bàn vị thờ riêng
một chỗ, đến khi nào mãn tang mới dỡ bỏ. Theo quan niệm của người Tày ở Pác
Nặm, tổ tiên là một loại ma lành, thường hiện về phù hộ, giúp đỡ, che chở cho
con cháu. Tuy nhiên, không chu cấp đầy đủ, để ma thiếu thốn ăn uống, đồ dung
sinh hoạt thì ma lành sẽ về quấy nhiễu. Hay ai đó làm điều gì không tốt, không
hay, không phải, làm ma phật ý thì mà lành cũng có thể gây tai họa, mang đến
cho con cháu, gia đình những điều không may.
Vì thế, việc thờ cúng tổ tiên được người Tày hết sức coi trọng. Cũng giống
như người Kinh, bàn thờ tổ tiên của người Tày là chốn tôn nghiêm nhất trong
mỗi ngôi nhà của mình. Những người phụ nữ đang trong thời kỳ có kinh nguyệt,
mang thai, vừa mới sinh nở đều không được đến gần bàn thờ tổ tiên, vì quan
niệm phụ nỡ ở giai đoạn này là ô uế nhất.
Với tầm quan trọng đó, khi thực hành bất cứ nghi lễ cúng nào trong gia
đình của người Tày, thắp hương thờ cúng tổ tiên là bước quan trọng đầu tiên và
không thể bỏ qua. Trong nghi lễ giải hạn cũng tương tự, hai bước quan trọng đầu
tiên là lễ xôi hương và lễ an đẳm (nghị lễ giải hạn bằng Then và Mo), với mục
đích là xin phép tổ tiên được thắp hương thực hành nghi lễ, báo cáo với ma tổ
của cả dòng họ lý do thực hành nghi lễ và nhờ sự trợ giúp của ma tổ để nghi lễ
giải hạn được hoàn thành trọn vẹn.
Trong nghi lễ giải hạn bằng Then và thầy Mo, thì việc thờ tổ sư trong gia
đình những thầy Then và thầy Mo cũng là một biểu hiện của thờ cúng tổ tiên của
64
người Tày. Bản thân những ông Then và ông Mo được truyền nghề theo gia tộc.
Tính gia tộc ở đây được thể hiện theo hai khía cạch: thứ nhất là gia tộc tổ tiên
của bản thân thầy Then và thầy Mo; thứ hai là gia tộc của ngành thầy cúng mà ở
đó thầy Then và thầy Mo là một thành viên có ngôi thứ và địa vị nhất định trong
mối tương quan với các thành viên khác. Một gia đình thầy Then và thầy Mo có
đủ thầy cha hoặc thầy mẹ (người truyền nghề, dạy nghề cho họ) và có các thứ
bậc anh chị em nhất định. Vì thế điểm giống nhau với thờ cúng tổ tiên là họ cũng
phải thờ người thầy của mình khi những người này quá cố, nên gọi là thờ tổ sư.
Tuy nhiên, điểm khác với thờ cúng tổ tiên trong gia đình người Tày là những
người làm Then và thầy Mo có thể có nhiều hơn một thầy cha hay thầy mẹ, vì
thế trong trường hợp người thầy của họ mất đi, bắt buộc những thầy Then và thầy
Mo phải mời một người khác thay thế để thực hành nghi lễ cấp sắc, nâng sắc cho
họ.
Thờ cúng tổ sư là đối tượng chủ yếu và quan trọng bậc nhất đối với những
người hành nghề Then, hoặc các thầy Tào, thầy Mo…trên Pác Nặm. Trong quan
niệm của các thầy cúng trên Pác Nặm, tổ sư bao gồm những vị tiền bối có hành
nghề của gia đình qua các thế hệ và những thầy cha hay thầy mẹ trực tiếp làm lễ
cấp sắc, nâng sắc cho họ. Và vì thế, thờ tổ sư cũng là một hình thức thờ cúng tổ
tiên. Điều này thể hiện ở chỗ mỗi người hành nghề thầy phải nhớ đầy đủ danh
sách tổ tiên hành nghề của gia đình mình và người thầy của mình để thờ phụng
tại nhà cũng như khi đi hành lễ tại các gia đình trên địa bàn hoặc bất kỳ nơi đâu.
Như vậy, nghi lễ giải hạn qua dân ca của người Tày ở Pác Nặm, thể hiện
sinh động thế giới tâm linh của dân tộc mình. Vì thế, những người hành nghề
thầy cúng nói chung luôn có uy tín cao trong đời sống cộng đồng. Vai trò của
tầng lớp này trong đời sống tâm linh, tín ngưỡng của người Tày được hầu hết các
nhà nghiên cứu về văn hóa dân gian Tày khẳng định:
Tác giả Lã Văn Lô và Hà Văn Thư, trong cuốn Văn hóa Tày Nùng (1984)
đã khẳng định: “Tầng lớp Tào, Mo, Then, Pụt tức là những người hành nghề cúng
bái, phần lớn là nông dân lao động, có người thuộc giai cấp bọc lột, ít nhiều có
65
ảnh hưởng trong dân gian. Họ là những cố vấn không thể thiếu được trong việc
ma chay, cúng bái, cưới xin… là những việc quan trọng nhất trong đời sống xã
hội trước đây”.
Tác giả Hà Đình Thành trong cuốn Văn hóa Tày Nùng ở Việt Nam (2010)
cũng có những nhật định như trên: “Đối với người Tày, tín ngưỡng, phong tục
và lễ hội là lĩnh vực quan trọng của đời sống văn hóa tâm linh. Nó có vai trò chi
phối đến tâm tư, tình cảm, hành vi của con người trong xã hội. Tín ngưỡng tôn
giáo của người Tày là tín ngưỡng dân gian xây dựng trên quan niệm linh hồn và
vạn vật hữu linh. Người sống thì có “khoẳn” (hồn), chết thì thành “phi”, với nhiều
loại phi khác nhau như phi phạ (ma trời), phi bản (thần bản), phi hươn (ma nhà),
phi sấn (ma núi)… Từ những quan niệm đó, người Tày hình thành nhiều tín
ngưỡng dân gian khác nhau. Trong phạm vi gia đình có thờ tổ tiên, thờ bà mụ,
Phật Bà Quan Âm… Ngoài thôn bản thì thờ Thổ thần, một số thôn bản có thờ
Thành hoàng, thờ Pựt ở đèo có nhiều người qua lại. Đặc biệt trong thôn bản có
nhiều thầy cúng như Mo, Tào, Then, Pựt, là những người thực hành nghi lễ tín
ngưỡng chủ yếu, có vai trò lớn trong đời sống tín ngưỡng của nhân dân. Tín
ngưỡng của các thầy Mo, Tào, Then, Pựt vừa có cái riêng, lại vừa có nét chung,
khiến người ta rất khó phân biệt. Về bản chất, tín ngưỡng của các thầy Mo, Tào,
Then, Pựt là sự pha trộn giữa tín ngưỡng bản địa với những ảnh hưởng của Đạo
giáo, trong đó Đạo giáo được thể hiện đậm hơn ở các thầy Tào, còn chất dân gian
lại đậm hơn ở Then, Mo, Pựt”.
Trên địa bàn Pác Nặm, những người hành nghề cúng bái có một vị trí và
vai trò quan trọng trong đời sống của người Tày. Đối với người Tày những thầy
Then,Mo… là những người duy nhất có thể liên hệ với thế giới thần linh, đem
lại sự an tâm về tinh thần cho họ trong đời sống cũng như trong lao động.
Hơn nữa, nghi lễ tín ngưỡng giải hạn còn phản ánh đời sống xã hội của
người Tày nói chung, người Tày ở Pác Nặm nói riêng. Ra đời trong lòng dân
gian, tồn tại và phát triển lâu dài trong đời sống xã hội của người Tày ở Pác Nặm
66
một cách chân thực. Nói cách khác nó là một phần của cuộc sống thực cộng đồng
người Tày.
Như một minh chứng cho nhận định trên. Trong lời cúng Then và Mo giải
hạn (chương 2 - đã dẫn) cho thấy rõ ý nghĩa này. Lời khắp cúng chuộc vía và
giải hạn tinh kỷ cho thấy những khung cảnh rất quen thuộc, phản ánh môi trường
sống tư nhiên của cộng đồng người Tày. Đó là hình ảnh bản làng miền núi với
những dãy núi, đèo cao, với những cây đa, hốc đá… Hành trình đi chuộc vía về
chẳng khác gì chặng đường cụ thể ở dân gian, đi từ đầu bản tới những vùng đất
xa xôi hơn theo trình tự nhất định. Ta có thể nhận ra những địa danh đã đi vào
tầm thức của người dân.
Môi trường sống của người Tày còn được thể hiện đậm nét ở những lễ vật,
đồ cúng được sử dụng trong các nghi lễ tín ngưỡng giải hạn. Những lễ vật này là
những sản vật mà cộng đồng người Tày tự nuôi trồng ở nhà hay những thứ dễ
dàng kiếm được trên địa bàn của họ. Ví dụ như nhà xung được làm từ những bộ
phận của cây chuối, cây nứa, những cây trồng dễ dàng tìm được trong bất cứ gia
đình người Tày nào. Tất cả những lễ vật trong nghi lễ tín ngưỡng giải hạn còn
phản ánh đời sống kinh tế của người dân, đó là phương thức mưu sinh chủ yếu
từ nông nghiệp và lâm nghiệp, rất gần ngũi và quen thuộc.
Nghi lễ tín ngưỡng giải hạn còn thể hiện những nét đẹp trong truyền thống
văn hóa của người Tày nói chung, người Tày ở Pác Nặm nói riêng. Đó là tinh
thần cộng đồng, sự đoàn kết tương trợ giữa các thành viên trong gia đình, dòng
họ và rộng hơn là làng bản. Để thực hành một nghi lễ giải hạn, gia đình hành lễ
phải nhờ đến sự trợ giúp về công sức của rất nhiều người không chỉ trong gia
đình, dòng họ mà cả bản làng, người thân, có thể là bạn bè trong quá trình hành
lễ.
Bên cạnh tính công đồng, nghi lễ giải hạn còn thể hiện truyền thống kính
già yêu trẻ, tuân theo tôn ti trật tự nhất định và kiểu mẫu gia đình phụ quyền ở
67
Pác Nặm. Truyền thống này được thể hiện ở cách sắp xếp mâm cỗ khi nghi lễ đã
thành công. Sự sắp xếp mâm cỗ tùy theo địa vị xã hội, giới tính và độ tuổi.
Sự sắp xếp này tuân theo quy tắc thầy cúng ngồi ở vị trí đầu tiên, ở không
gian hành lễ chính, sau đó sắp xếp theo địa vị xã hội và vai vế trong dòng tộc,
sắp xếp theo độ tuổi. Sự sắp xếp mâm cỗ này một mặt thể hiện uy tín cũng như
tầm quan trọng của những người hành lễ, thể hiện truyền thống kính trọng người
già của người Tày, mặt khác cũng thể hiện rất rõ nét kiểu mẫu gia đình của người
Tày ở Pác Nặm, Bắc Kạn.
3.2. Giá trị nghệ thuật tín ngưỡng giải hạn qua dân ca nghi lễ Tày ở Pác Nặm -
Bắc Kạn
3.2.1. Các thể hát dân ca nghi lễ
* Hát Then cổ:
Trong quá trình khảo sát, các thể hát dân ca nghi lễ ở Pác Nặm tập trung
vào 3 thể: hát Then, Mo, Pụt. Dân ca nghi lễ chỉ hát trong quá trình cầu cúng với
các bước trình tự. Hầu hết dân ca nghi lễ sử dụng thơ Nôm Tày, nhiều bản Nôm
Tày hiện nay đang được lưu giữ, bảo quản trong các gia đình làm Then, Tào, Pụt,
Mo. Dưới đây là số liệu khảo sát tổng hợp của nhóm đề tài:
Bảng 3.1: Bảng tổng hợp người am hiểu hát dân ca nghi lễ Tày Pác Nặm
Các xã trong địa bàn huyện
Các
TT
Tổng
Bộc
An
Xuân
Bằng
Nhan
Giáo
Công
Nhạn
Cao
thể hát
Bố
Thắng
La
Thành
Môn
Hiệu
Bằng
Môn
Tân
1 Then
2
0
2
2
2
3
2
3
3
19
2
Pụt
1
1
0
0
0
1
0
0
0
03
3 Mo
2
0
1
0
0
0
2
0
0
05
Nguồn: tổng hợp số liệu điền dã của tác giả năm 2018
Trong giai đoạn hiện nay, quá trình đô thị hóa đang diễn ra nhanh chóng,
huyện Pác Nặm cũng không ra ngoài quy luật đó. Đây là một trong những tác
nhân làm mất đi môi trường, không gian văn hóa đặc hữu của nhiều thể hát của
người Tày, trong đó nhiều lối hát nghi lễ đặc sắc cũng chịu ảnh hưởng, điển hình
68
là hát Then. Sự phân hóa hát Then ở huyện Pác Nặm thành 2 dạng biệt lập: Then
cổ và Then mới, đồng bào Tày vẫn gọi là Then cổ và Then văn nghệ. Xuất phát
từ yêu cầu xây dựng đời sống văn hóa, một bộ phận hát Then từ hình thức nghi
lễ đã nhanh chóng hòa nhập vào đời sống xã hội hiện đại. Trong khi đó, hát Pụt
và Tào, Mo vẫn giữ nguyên lối hát nghi lễ như trước, ít biến đổi. Điều này lý giải
tại sao khi tiến hành khảo sát đề tài ghi lại những thông số tích cực của lối hát
Then với nhiều nghệ nhân biết hát chiếm số lượng lớn nhất trong các thể hát dân
ca Tày.
Trong quá trinh khảo sát trên địa bàn huyện Pác Nặm thực hiện trong năm
2017-2018, đề tài nhận được rất nhiều ý kiến, quan điểm của đồng bào về loại
hình hát Then. Nhìn tổng quan, sự phát triển của hát Then ra ngoài nghi lễ và hòa
nhập nhanh chóng trong xã hội hiện nay cho thấy đồng bào Tày rất thích nghe
hát Then, nhiều làn điệu đã trở nên quen thuộc và rất nổi tiếng toàn tỉnh. Đồng
thời chứng minh khả năng linh hoạt, đa dạng của hát Then khi hòa nhập tốt vào
cộng đồng và đã hình thành nhanh chóng một lớp trẻ kế thừa lối hát Then. Điều
này rõ ràng, rất có ích cho kế hoạch phát triển, nâng cao hơn nữa nghệ thuật Then
truyền thống trong bối cảnh hiện nay.
Về Then cổ, ông Dương Văn Mu, ở thôn Bản Bòn, xã Cao Tân, huyện Pác
Nặm kể lại: ông đi hát then từ năm 15 tuổi, còn nhỏ đi hái hoa cho thầy then.
Trong gia đình đến ông là đời thứ 4, hiện nay chuyên đặt lời cho nhiều bài Then
thông thường gồm 7 chữ. Bằng kinh nghiệm ông Dương Văn Mu phân biệt sự
khác nhau của làn điệu then tại các vùng Tày là do tiết tấu, ví dụ Then Tuyên
Quang đàn tính đánh chủ yếu các nốt cao, then Cao Bằng đàn tính đánh ở phần
âm giữa, Then Lạng Sơn đàn tính có âm thấp, còn then Pác Nặm - Bắc Kạn có
tiết tấu phức tạp, kết hợp giữa tàng nặm và tàng bốc, then tàng nặm lấy nhiều hơi
khi hát. Còn ông Ma Văn Vịnh xã Cao Tân, huyện Pác Nặm biết hát Then từ năm
12 tuổi, 14 tuổi đã thành thục, ông là Thầy then đời thứ 8, thường đi làm then
chủ yếu là cầu an, cầu phúc, giải hạn, chữa bệnh. Theo ông Vịnh, một bài then
69
cổ gồm rất nhiều chương, nhiều đoạn. Ví dụ như đoạn Then giải hạn gồm 3
chương, 40 cửa có lời như sau:
(Trích đoạn chương 3, cửa 39 trong 40 cửa - Khoa giải sung cung giải hạn)
Cuốc shổ điểm binh mạ nhằng đông
Cai đông điếm binh quân nhằng đủ
Phân quân dú ngọn pé giải sung
Phân mạ dú ngọn sông giải hạn…
…Nhục tiếng tổng mạ la khửn khái
Khửn thâng tồng cà lương
Quá thâng mường cà vạt
Khảm quá tồng sích ca
Khảm quá nà vàng để
Tổng vàng để pàn phia
Tổng xích ca pàn đán
Khửn tạm cải mè sinh
Quá tạm ông mè để
Khảm thâng khái quan sung
Lọt thâng cung quan hạn…
…Đông Tây Nam lủng chỏi
Lọt thâng Bắc Đẩu lồng dào
Vua Nam Tào lồng giải
Khoái khoái oóc mà khái giải sung
Khoái khoái lồng mà thâng cung giải hạn…
…Hết lăng cụng lì, chi lăng cụng đảy
Đảy kin dú siên niên vạn đại.
Người làm nghề Then phân hát Then thanh 2 kiểu tàng bốc và tàng nặm,
cách chia nhằm chuẩn hóa hệ thống làn điệu trong Then. Nếu Then Cao Bằng
cung đoạn các cửa rõ ràng, đường Then đi theo lối thì ở Pác Nặm - Bắc Kạn các
70
cửa Then tùy theo yêu cầu của gia chủ và tính chất cuộc lễ, thầy Then chủ động
trình tự các bước nghi lễ, do đó Then Pác Nặm- Bắc Kạn gần với Pụt nhiều hơn.
Sau khi khảo sát, nhóm đề tài thống kê người hát Then cổ và Then mới
theo bảng dưới đây:
Bảng 3.2: Bảng thống kê số lượng người hát Then cổ, Then mới ở Pác Nặm
TT Huyện, thị xã
Then cổ Then mới
Ghi chú
1
Pác Nặm
12
7
Nhiều người biết hát Then cổ và
Then mới
Nguồn: Tổng hợp số liệu điền dã của tác giả năm 2018
Chỉ một số trong bảng thống kê là làm thầy Then từ nhỏ, còn lại chủ yếu
là những người am hiểu dân ca Tày nắm vững nghệ thuật hát Then cổ và Then
mới. Một số thầy Then cổ đã trao đổi với nhóm khảo sát đề tài về loại Then cầu
cúng và lối hát Then, điều này là cơ sở để phân loại hệ thống làn điệu Then, đồng
thời cho thấy hát Then ở Pác Nặm - Bắc Kạn đa dạng và phong phú về lối hát.
Mặt khác quá trình thẩm thấu âm nhạc dân gian trong khối Tày Việt Bắc cũng
ghi nhận nhiều làn điệu du nhập vào Pác Nặm - Bắc Kạn được nhiều người am
hiểu dân ca Tày Pác Nặm - Bắc Kạn kể lại. Điển hình như từ Lạng Sơn sang có
lượn Lạng, từ Cao Bằng xuống có hát Then, Mo và các điệu hát khác như Nàng
Ới của người Nùng. Điều này làm giàu thêm kho tàng âm nhạc dân gian Pác Nặm
- Bắc Kạn.
Trong nghi lễ then có nhiều hình thức, tên gọi khác nhau, điều này gây
khó khăn không ít khi phân loại và xác định tính chất âm nhạc. Bởi giai điệu
Then khi làm lễ thường chỉ sử dụng một vài làn điệu, các âm trục chính trong
giai điệu đều giống nhau, chỉ khác ở cách chơi của đàn Tính.
Trong dân ca nghi lễ, phổ biến hơn cả là hát Then. Sau đây là một số loại
Then do các thầy Then lâu năm, có uy tín trong nghề ở Pác Nặm - Bắc Kạn phân
biệt trong quá trình hành nghề:
71
- Then Bạo (Dương Văn Mu, 65 tuổi) - Thôn Bản Bòn, xã Cao Tân, huyện
Pác Nặm, cho rằng có 3 làn điệu Then:
+ Thượng thanh: Làn điệu cao.
+ Trung thanh: Làn điệu trung bình.
+ Hạ thanh: Làn điệu thấp.
Then Bạo chuyên làm then kỳ yên, giải hạn, cầu phúc, cầu lộc, cầu tài, nộp
bjoóc, nộp lẩu. Then giải hạn có trình tự sau:
Chiêu binh mã phải qua các cửa: Thổ công, Táo quân, Tổ tiên, Bà mụ,
Ngọc Hoàng.
Hồi quân về
Giải hạn cả nhà
Cúng cơm tổ tiên
Mỗi bước đều có lời ca, điệu Then và lối chơi nhạc riêng.
- Then Kim (Ông Ma Văn Vịnh, 47 tuổi) xã Cao Tân, huyện Pác Nặm
biết hát Then từ năm 12 tuổi, 14 tuổi đã thành thục, ông là Thầy then đời thứ 8
thường làm then cầu an, cầu phúc, cầu lộc, kỳ yên, giải hạn, cầu va, cầu bjoóc.
Then Kim cho rằng có hai loại Then: Then vui dùng trong lễ cấp sắc và then
buồn (Toỏng tàng - Phát đường), ngoài ra then dùng chữa bệnh cho những người
ốm và có vị trí quan trọng trong việc chấn an tinh thần.
Một buổi làm Then gồm các bước tiến hành:
Xôi hương sắp mạ
Giải vẻ (Quét nhà)
Biên lẹ (Điểm lễ)
Pắt phu (Bắt phu)
Cẩm ham háp (Cấm cướp hàng, làm thất thoát hàng)
Oóc tàng (Ra đường)
Cửa Thổ công (Thổ công, Thổ địa)
Tu đẳm (Cửa tổ tiên)
Cúng tổ tiên
Hòi mạ (Hồi binh mã)
Slống slay (Hồi cung)
72
Ngoài Then Bạo và Then Kim, trên địa bàn Pác Nặm còn có Then Lưu và
Then Thi cũng mang nhiều nét giống nhau như Then cầu an, cầu phúc, giải hạn,
chữa bệnh hay Then cầu an, páo phúc, mừng thọ, đầy tháng dương sao, giải hạn.
Then Thi làm then theo sách, kết hợp giữa Tàng bốc và Tàng nặm. Nhạc cụ làm
Then có đàn tính, sóc nhạc, lệnh bài, chuông, ấn, quạt.
Qua những minh chứng khảo sát trên, có thể thấy Then Pác Nặm- Bắc Kạn
sử dụng chủ yếu trong các nghi thức lễ cộng đồng và gia đình. Lẩu Then (cấp sắc)
ít tổ chức do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Thứ nhất, một thời gian
dài Then và hình thức diễn xướng bị quy đồng cùng hình thức mê tín, dị đoan.
Thứ hai, trong quá trình xây dựng nếp sống văn hóa nhiều nơi đã loại bỏ nghi thức
Then, do đó Then mất đi môi trường hành lễ và bị mai một dần. Những năm gần
đây, bằng chính sách văn hóa của Đảng và nhà nước ta đã khôi phục lại và nêu
cao vai trò bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc Việt Nam. Từ đó hát
Then được đánh giá và nhìn nhận theo xu hướng tích cực hơn. Như trên đã nêu,
Then bao gồm nhiều nhận thức khác nhau trong quan niệm của những người làm
nghề Then lâu năm ở Bắc Kạn về tổ chức lễ, hành lễ và hát Then. Dưới đây là
bảng tổng hợp do nhóm đề tài thực hiện qua các cuộc khảo sát thực tế.
Bảng 3.3: Bảng tổng hợp tên gọi và làn điệu Then Bắc Kạn
Loại Then
Ghi chú
TT
Cầu cúng Chữa bệnh
Cầu phúc
Duyên phận
1 Kỳ Yên
Giải hạn Cầu lộc, cầu tài
Hỉn én
Tên
2 Cầu bjoóc Diệt trùng Cầu an
Cầu mong
gọi
3 Cầu va
Páo phúc
Cáp khoăn
4 Tống tiễn
Đầy tháng dương sao
5 Cầu mùa
Chúc mừng
6 Cầu đảo
Ca ngợi
7 Tâu số
Slống bióc
Nguồn: tổng hợp số liệu điền dã của tác giả năm 2018
73
Quan niệm của người Tày cho rằng người làm nghề then phải biết làm các
loại lễ cúng. Lễ cầu mong được yên lành, hạnh phúc, sống lâu thường làm vào
mùa xuân, gồm những lễ sau:
- Then kỳ yên, giải hạn và cầu thọ: dành cho những người đến tuổi 61, 73,
83.
- Then tâu số (nối số): làm lễ cho những người bị đoán số là mệnh đoản
(chết sớm).
- Then cầu bjóoc: làm lễ cầu tự, cầu hoa cho gia đình nào hiếm muộn.
- Then cáp khoăn (cáp tơ hồng): lễ hợp hôn trong đám cưới, người Tày
quan niệm tổ tiên của cô dâu chú rể là hai phi - ma thuộc hai họ khác nhau nên
phải hợp vía, để sau này vợ chồng sinh sống làm ăn hoà thuận hạnh phúc.
- Then cúng chữa bệnh gọi là then chỏi khẩy. Người ốm là bị mất vía, phải
sắm lễ làm roọng khoăn - gọi hồn gọi vía về. Nếu vía bị thần linh, âm binh giam
giữ tại ngục tù nào đấy then sẽ làm lễ phá ngục để cứu thoát vía.
- Cúng bói duyên - người Tày gọi là hỉn én - chơi én. Trai gái Tày mời
then tới làm lễ bói duyên phận. Khi then lễ, duyên phận từng người tượng trưng
bằng hình tượng con én, chim én bay đi đậu vào cành cây nào đó thì mỗi loại cây
lại biểu tượng cho số phận may rủi khác nhau được then kể ra bằng lời ca và
tiếng đàn tính.
- Then phiác: lễ cúng tống tiễn hoặc then slống bíoc: then chia ly hoặc gọi
là then tiễn hoa tàn dùng đưa tiễn trẻ em chẳng may qua đời sớm.
- Lễ cúng cầu mùa, cầu đảo, diệt trùng: thường do yêu cầu của xóm bản,
ông then tới làm lễ tại địa điểm thường là miếu thần hoặc nơi thờ thổ công.
- Then vui là lễ vui mừng, ca ngợi diễn vào những dịp gia đình có tin mừng
như: đám cưới, vào nhà mới, sinh con đầu lòng; đây là loại then kỳ yên tổ chức vào
đầu tháng giêng, tính chất hội họp họ hàng, hàng xóm đến cùng vui xuân.
- Lễ cầu xin cấp sắc cho ông bà then; tiếng Tày gọi là lẩu pút được tổ chức
xin ngọc hoàng cấp sắc cho then thăng chức.
74
Những bài then hát trong các dịp cúng lễ kể trên diễn ra theo một trình tự
chuẩn bị từ trước. Tuỳ theo vùng, địa phương có biến đổi khác nhau một chút,
nhưng nội dung chỉ là cuộc hành trình của ông (bà) then từ nơi trần gian (hạ giới)
cùng với âm binh và đoàn phục dịch lên tiên giới giao tiếp với thần linh. Tới
cung của long vương thuỷ tề, đến cung ngọc hoàng thượng đế xin một sự phù hộ
nào đó. Hành trình này gọi là tàng then nghĩa là đường then đi.
Hát Then mới:
Nếu Then cổ gắn bó chặt chẽ với nhiều lễ thức do những người hành nghề
Then lâu năm diễn xướng, thì Then mới là tiếp biến văn hóa từ môi trường nghi
lễ ra ngoài đời sống sinh hoạt của người dân. Tại Bắc Kạn, Then mới còn gọi là
Then văn nghệ, xuất phát từ yêu cầu phổ biến hơn nữa lối hát Then. Then mới
thường xuyên xuất hiện trên sân khấu chuyên nghiệp (trong chương trình biểu
diễn của Đoàn nghệ thuật Dân tộc tỉnh Bắc Kạn) và không chuyên (hội diễn văn
nghệ quần chúng, các đội thông tin tuyên truyền của huyện…). Tính đặc sắc của
Then mới ở chỗ người nghe cảm nhận được sự truyền cảm, ước vọng của mọi
người thông qua giai điệu mượt mà, say đắm. Mặt khác nếu các làn điệu lượn hát
không có nhạc đệm (gần đây có thêm sáo phụ họa) thì hát Then với 2 nhạc cụ
độc đáo: đàn Tính và chùm xóc nhạc đã tạo nên sắc thái tươi mới, đầy cảm xúc.
Lời ca Then mới được bổ sung liên tục do nhiều nghệ nhân đặt lời trên giai điệu
đã định hình rõ ràng của Then. Rõ ràng Then mới có vị trí ngày càng vững chắc
trong hoạt động văn hóa và được người dân tiếp nhận như loại hình âm nhạc
mang đầy bản sắc dân tộc Tày.
Âm nhạc Then mới bao gồm những làn điệu Tàng bốc và Tàng nặm do các
nghệ nhân điều chỉnh, gọt dũa tạo nên âm hưởng gần gũi với cuộc sống. Nhiều
làn điệu Then mới Bắc Kạn đã lên sân khấu biểu diễn, thu âm và phát trên đài
phát thanh, truyền hình của tỉnh lan tỏa khắp nơi. Điều này giúp dòng Then mới
có sự phát triển nhanh về chất và lượng
Bảng thống kê những người am hiểu Then cổ Then mới ở trên cho thấy
giữa người biết cả hai lối hát chủ yếu là những nghệ nhân yêu thích loại hình hát
75
Then. Điều này lý giải tại sao Then Bắc Kạn nổi trội và có số lượng nhiều nhất
trong các loại hình dân ca Tày (phổ biến) theo bảng so sánh dưới đây:
Các thể hát dân ca (phổ biến)
Then cổ Then mới
Pụt Tào Lượn Cọi Phongslư Quan làng Nàng Ới
109
24
26
32
87
56
64
44
Nguồn: tổng hợp số liệu Sở Thông tin và truyền thông tỉnh Bắc Kạn
Bảng 3.4: Bảng so sánh số lượng người hát dân ca Tày Bắc Kạn
Theo bảng so sánh, số lượng hát Then cổ có 109 người trong cả tỉnh Bắc
Kạn, trong đó huyện Pác Nặm có 12, nhiều hơn số lượng người hát lượn Cọi,
loại hình dân ca sinh hoạt giàu tính cộng đồng. Hát Pụt, Tào tồn tại trong không
gian hẹp, chỉ hát trong nghi lễ nên khó hòa nhập với đời sống đương đại.
3.2.2. Thành tố văn học trong nghi lễ giải hạn qua dân ca
Trong nghệ thuật trình diễn các nghi lễ giải hạn (đặc biệt là Then và Mo),
yếu tố văn học có vai trò quan trọng trong việc chuyển tải nội dung, độ dài ngắn
tùy thuộc đường đi, mục đích nghi lễ.
Nội dung của mỗi bài giải hạn đều miêu tả chặng đường đoàn âm binh đi
hành lễ (lên mường trời, xuống âm phủ…). Những cảnh vật thiên nhiên sinh hoạt
đời thường được thể hiện trong các nghi lễ giải hạn chỉ là cái cớ để dẫn dắt, bộc
lộ cảm xúc, tâm trạng của con người nhằm làm nổi bật yếu tố trữ tình. Đó là tình
yêu quê hương, gia đình… phù hợp với quan niệm sống, tình cảm riêng của người
Tày.
Tính trữ tình còn được thể hiện ở tinh thần lạc quan trong cuộc sống lao
động, cảnh núi rừng, sông suối quen thuộc, gần gũi hay những chốn thần tiên với
hao thơm, chim hót gợi lên ước vọng về cuộc sống lý tưởng trên thế gian
Về hình thức thể hiện, các yếu tố lời thơ, giai điệu hát, nhạc đệm trong
Then và Mo có quan hệ chặt chẽ với nhau. Theo tác giả Dương Kim Bôi, một
văn bản Then dài nhất gồm 4,949 câu với 35 chương đoạn (3), trong đó, mỗi
chương mang một tiêu đề riêng. Lời ca trong Then diễn tả cuộc sống, hành trình
của đoàn quân Then nên biểu hiện rất rõ tính tự sự. Lời ca trong Then chủ yếu
76
sử dụng lối thơ bảy chữ và thể loại thơ tự do biến chuyển một cách nhịp nhàng
không cứng nhắc, khô khan, còn giải hạn của thầy Mo bằng chữ Nôm Tày, thì
thể thơ thường là ngũ ngôn, lời thơ cũng nhịp nhàng, dễ đi vào lòng người.
3.2.3. Nghệ thuật làn điệu tín ngưỡng giải hạn qua dân ca nghi lễ Tày ở Pác
Nặm - Bắc Kạn
Về làn điệu diễn xướng thì ở mỗi địa phương lại có những làn điệu riêng
của tỉnh mình. Và cũng có những tên gọi khác nhau (đặc biệt trong lời Then giải
hạn). Theo nhạc sĩ Đỗ Minh “Làn điệu hát trong một lối Then giải hạn của Cao
Bằng có: Soi gương; soi thiếp; thàng mạ (nặm phế, pây đông ngoòng); thổ công;
tổ tiên; qua cửa hạn; cửa thuyền; lên chợ; lên chợ giời…
Nhưng ở Văn Quan- Lang Sơn lại có các làn điệu: Pây tàng; khỏa quan;
khao thuông; khẩu tu đẳm; khẩu tu pháp…
Các làn điệu được diễn ra rất sinh động từ lời ca đến nhạc điệu. Khí thế
oai phong của đoàn quân, của tướng được diễn tả trong nghi lễ. Cảnh thiên nhiên
sông núi, hoa lá… với nhạc điệu êm ái, dịu mát, thanh thản.
Trong lời Then giải hạn cũng như trong các lời giải hạn bằng chữ Nôm
Tày của các thầy Tào, thầy Mo, trên địa bàn Pác Nặm mang nhiều yếu tố trữ tình,
nhẹ nhàng, êm dịu, nghe man mác êm tai rất phù hợp với không khí buổi tối của
miền núi tĩnh mịch trong đêm khuya hoặc cảnh ấm cúng trong một gia đình khi
đông qua xuân tới bên bếp lửa nhà sàn. Trong Then và Mo cũng có những
chương, đoạn êm ả, mát dịu như khí trời buổi sáng, như tiếng suối, như những
làn mây mỏng tà tà bên sườn núi. Nhà thơ Nông Quốc Chấn, một nhà thơ người
Tày quê ở Ngân Sơn- Bắc Kạn từng viết:
…Tiếng đàn tính lọt tai vào ruột
Tiếng vang lên ngọn cây, đỉnh núi cao cao vút
Vượn trố mắt nhìn chân ngã, quên con
Chim trong tổ bay ngơ ngác, quên con
Ve đậu trên cành hoa im tiếng…
(Tiếng đàn tính)
77
Còn với nhà thơ Nông Viết Toại đã từng nói: Cái gì cũ cũng chán, nhưng
Then đã nghe 50 năm mà trước đó đã có hàng trăm năm rồi, mình còn thích
nghe, tất nhiên là người Tày, Nùng.
Trong nghi lễ Then và Mo, lời ca cũng đóng vai trò lớn trong việc chỉ
đường, dẫn lỗi cho từng chặng diễn ra nghi lễ. Khi trình diễn, người làm Then
và Mo không phân chia tách bạch giữa các chương, đoạn, chúng tiếp nối nhau
một cách liên tục cho tới khi hết bài bản nội dung một cuộc Then và Mo.
Âm nhạc trong Then và Mo có sự ảnh hưởng, tiếp thu các làn điệu dân ca ở
từng địa phương tạo nên sự đa dạng về màu sắc. Âm nhạc trong Then và Mo có
sự giao lưu, tiếp thu, cái biến phù hợp với nội dung lời ca và quá trình phóng tác
của người làm Then và Mo. Âm nhạc trong Then và Mo mang tính chất êm dịu,
ấm cúng, nhẹ nhàng, tâm tình, an ủi… Giai điệu thường được diễn ra theo bước
lần với sắc thái vừa phải, không mạnh quá tầm cữ, âm nhạc không lên cao xuống
thấp quá. Âm nhạc trong Then và Mo là sự kết hợp giữa lời ca và giai điệu. Lời ca
trong Then và Mo có cốt truyện dài, ngắn khác nhau nên nhiều khi giai điệu kết
thúc không trọn ven mà thay đổi phụ thuộc vào lời ca. Đặc điểm lời ca chịu tác
động bởi ngôn ngữ đơn âm và đa thanh trong tiếng Tày, tạo nên sự trầm bổng nhất
định, ảnh hưởng không nhỏ đến cấu trúc câu, đoạn của âm nhạc. Trong Then, phổ
biến là dạng hát mang tính chất giãi bày nên mỗi vần thơ được vang lên với nhiều
âm sắc khác nhau. Đó là hiện tượng vuốt giọng, láy giọng, hoặc hỗ trợ bằng tiếng
đưa hơi. Chính vì điều đó mà các thầy Then khi thực hành nghi lễ giải hạn thường
kết hợp nhiều làn điệu để có thể đệm đàn hòa âm với lời ca cho đỡ đơn điệu. Còn
trong giải hạn bằng chữ Nôm Tày thì các thầy Mo cũng thường kết hợp các dụng
cụ hành nghề, đặc biệt trong lời giải hạn các thầy Mo thường lượn để cho nghi lễ
thêm trang trọng và linh thiêng hơn.
3.2.4. Thành tố mỹ thuật trong các nghi lễ giải hạn qua dân ca
Yếu tố mỹ thuật không chỉ tạo nên không gian huyền ảo, mà còn mang
những giá trị thẩm mỹ, tâm linh riêng. Đặc biệt trong Then biểu tượng con én
78
không thể thiếu khi trang trí bàn thờ, mũ của thầy Then, bởi nó là loại chim
thiêng, cầu nối giữa con người với chốn thần linh, tổ tiên.
Nghệ thuật trang trí trong Then gồm có trang trí trong nghi lễ (bàn thờ, lễ
vật, không gian) và trên trang phục, đạo cụ. Không gian tiến hành buổi lễ, nhiều
tấm thảm, chăn được treo lên như những bức vách nhằm giới hạn không gian.
Trên mâm lễ trang trí những cây hoa năm cánh được làm bằng giấy kim tiền,
cắm trên khúc thân chuối. Ở mâm chay có những vật trang trí như hình người,
quần áo, cây hoa, cầu đón vía… được cắt bằng giấy màu xanh, đỏ…
Áo trong nghi lễ Then là loại áo dài của phụ nữ Tày, có nhiều màu như
chàm, đỏ, xanh, vàng, tím, trắng để mặc trong mỗi chương, đoạn khác nhau. Áo
lễ của Then thường không trang trí hoa văn cầu kỳ như áo trong nghi lễ lên đồng
của người Kinh, được mặc chung cho cả Then nam và nữ.
Mũ lễ là loại tam kim, gồm hai mảnh bìa cứng bọc bằng vải màu chàm
hoặc màu đen. Khi gấp lại, mũ hình tứ giác cân, phía bên trên mũ là ba điểm
nhọn, trong đó phần nhọn ở giữa cao hơn một chút. Trước mũ dính hai sợi tua
bằng vải màu hình lệch bài rủ xuống hai bên, phía sau được gắn những sợi dây
dài thêu hoa văn hình chim, phượng…
Bên cạnh đó, đạo cụ là thành phần không thể thiếu trong mỗi lần thực hiện
nghi lễ. Trong Then, gồm có: ấn, tính tẩu, bộ xóc nhạc, bộ gieo quẻ âm dương.
Tính tẩu là dụng cụ giúp Then giao tiếp với thần linh, còn bộ xóc nhạc làm bằng
đồng hoặc kim loại, gồm nhiều chuỗi gộp lại, mỗi chuỗi có các vòng tròn nhỏ,
thường được đựng trong túi có đầu buộc rút, tạo nên nét đặc trưng riêng về đạo
cụ của mỗi thầy Then. Ngoài ra trong quá trình hành lễ Then còn nhiều đạo cụ
khác.
Còn trong nghi lễ giải hạn bằng chữ Nôm Tày của các thầy Mo ở Pác Nặm,
trang phục khác với các thầy Then là áo thầy Mo là áo chàm đen, quần vải đen.
Dụng cụ gồm có: ấn, lệnh, chuông mo hoặc quả nhạc… Tạo nên sắc thái riêng
của mình.
79
3.3. Nghi lễ giải hạn và an ninh sức khỏe, an ninh sinh kế đối với người Tày
Ngoài việc phản ánh những giá trị văn hóa, văn học và thực tiễn cuộc sống
như đã nêu trên, điểm mà chúng tôi nhấn mạnh ở khảo sát này là chức năng về
an ninh con người, thể hiện rõ nhất ở khía cạnh sức khỏe thể chất và tinh thần
cũng như kinh tế đối với người thực hành nghi lễ giải hạn.
Là bản thân làm thầy nên các thầy Then, Mo… và những đối tượng trực
tiếp được được các thầy chữa trị bằng thực hành nghi lễ. Khả năng trị liệu bằng
liệu pháp tinh thần đã được diễn giải và khẳng định trong nhiều công trình nghiên
cứu, nhất là các nghiên cứu về nghi lễ lên đồng của người Việt. Ví dụ, tác giả
Nguyễn Thị Hiền trong bài Lên đồng ở Việt Nam một sinh hoạt văn hóa linh
mang tính trị liệu đã phân tích khá kỹ về một số đặc điểm trị liệu của lên đồng ở
Việt Nam trên bình diện cá nhân, cụ thể là những ông Đồng, bà Đồng. Ở góc độ
này, chúng tôi thấy các nghi lễ giải hạn trên Pác Nặm cũng có một chức năng
tương tự, đó là nó đem lại những hy vọng về an ninh sức khỏe và kinh tế cho con
người.
Ban đầu, đa số các thầy cúng (Then, Mo…) ở Pác Nặm tham gia vào hành
nghề như một giải pháp để thoát khỏi bệnh tật, cơ đầy cho chính mình, nhưng
sau này công việc của họ là thực hành các nghi lễ “cứu nhân độ thế” theo tinh
thần đạo Phật, tức chữa bệnh và đem lại an ninh sức khỏe cho con người. Các
thầy cúng như một vị quan chức nhà trời có tên hiệu, ấn tín, bằng sắc… được
Ngọc Hoàng Thượng Đế cho phép đi lại gặp gỡ giữa các thần linh. Nhiệm vụ
chính của các thầy là giúp đỡ, chăm sóc người dân về mặt tâm linh. Chính nhiệm
vụ này, các thầy cúng đã thể hiện được khả năng chữa bệnh bằng liệu pháp tinh
thần của mình.
Trong quan niệm của các thầy cúng trên Pác Nặm, bệnh tật của con người
có hai loại: bệnh về thể xác và bệnh về tinh thần (bệnh âm) và các thầy cúng là
người đi chữa bệnh âm cho con người (giống với quan niệm trong nghi lễ lên
đồng của người Kinh). Bệnh âm được thầy cúng quan niệm là các loại bệnh liên
80
quan tới hồn vía (bị ma bắt mất vía) với những biểu hiện là đi bệnh viện không
khỏi, không tìm ra căn nguyên của bệnh. Bằng việc thực hành nghi lễ giải hạn,
cùng với các biện pháp hành nghề mang tính đặc trưng của mỗi người, thầy cúng
đã đem lại niềm tin cho người bệnh như là một sự giải tỏa những bất an về tâm
lý, sức khỏe.
Có thể nói chữa bệnh bằng cúng bái đã ăn sâu trong tiềm thức của người
Tày ở Pác Nặm cả trong quá khứ và thời hiện tại. Hầu hết người dân Pác Nặm
đều thừa nhận hai tập quán chữa bệnh của người Tày nơi đây: tập quán chữa
bệnh bằng thảo mộc và tập quán chữa bệnh bằng cúng bái. Nghi lễ giải hạn là
một trong những nghi lễ thể hiện tập quán chữa bệnh bằng cúng bái của người
Tày ở Pác Nặm. Người dân nơi đây cứ vào đầu năm, khi độ xuân về là họ thường
tìm đến các thầy Then, Mo… hoặc trong cuộc sống họ gặp và mơ phải những
điều xấu, điều rủi… họ cũng tìm đến các thầy cúng, như mong muốn xóa đi được
những điều không may trong cuộc sống của họ, móng muốn có được cuộc sống
tươi đẹp, may mắn trong cuộc sống thường nhật.
Ngoài chức năng an ninh về sức khỏe, một chức năng quan trọng khác liên
quan đến đảm bảo an ninh về kinh tế (không thiếu thốn, ước mong của cải dồi
dào, sản xuất thuận lợi…). Nảy sinh và phát triển và phát triển trong lòng dân
gian nên một phần nào đó nghi lễ giải hạn ẩn chứa trong đó những nguyện vọng
chính đáng của người dân qua nhiều thế hệ. Đó là những mong muốn hết sức đời
thường, bình dị của người nông dân.
81
Tiêu kết chương 3
Phần trình bày trong chương này cho thấy nghi lễ giải hạn của người Tày
ở Pác Nặm đã và đang chiếm một vị trí quan trọng trong văn hóa và cuộc sống
của người tày ở đây. Nghi lễ giải hạn ở mọi hình thức từ thầy Then, Mo…đều
mang một giá trị văn hóa và phản ánh thực tiễn cuộc sống của người Tày ở Pác
Nặm. Nói cách khác, nó thể hiện đời sống tâm linh, những giá trị văn hóa, tính
cố kết trong cộng đồng. Quan trọng hơn, nghi lễ giải hạn là sự thể hiện nhu cầu
an ninh về sức khỏe và kinh tế của con người trong đời sống hàng ngày. Nghi lễ
giải hạn chính là cách người dân mong muốn “hóa giải” những bất an và tìm cách
đạt được an ninh trong cuộc sống của họ.
Lễ giải hạn nói chung cũng như lẩu then, lẩu pựt đều là các hình thức diễn
xướng cổ của người dân tộc Tày, Nùng, là hình thức sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng
dân gian lâu đời. Với lòng tin thuần phác, người dân tộc Tày, Nùng làm lễ giải
hạn nhằm cầu mong một cuộc sống an lành cho những người đang sống, những
người đã khuất và cả thế giới tâm linh đều yên ổn. Họ cần một chỗ dựa tinh thần
song không cuồng tín, khi gặp tai họa, ốm đau thì theo quan niệm chung của mọi
người “Vô phúc vái tứ phương, ma cũng cầu, thuốc cũng chữa”.
Tuy nhiên, hiện nay do ảnh hưởng của cơ chế kinh tế thị trường, cũng như
nhận thức về giá trị văn hóa truyền thống ở một bộ phận người dân có những
thay đổi nhất định, cùng sự giao thoa giữa các yếu tố văn hóa mới đã tác động
đến loại hình dân gian truyền thống này khiến lễ giải hạn đã không còn giữ
nguyên ý nghĩa ban đầu của nó, như: Một số gia đình có điều kiện sẵn sàng bỏ
ra hàng triệu đồng, thậm chí hàng chục triệu đồng để mời thầy về cúng lễ cho gia
đình làm ăn phát đạt; một số gia đình không có điều kiện nhưng vì quá “tín” nên
sẵn sàng bán cả tài sản trong nhà để làm lễ; lễ giải hạn bị lạm dụng (làm lễ giải
hạn khi làm ăn buôn bán không thuận lợi, mất của, thi cử, lận đận tình duyên...)
nên các nghi lễ trở nên rườm rà và tổ chức một cách bừa bãi...
82
Ngoài ra, các thầy then, thầy mo, thầy pựt.. đang dần ít đi, dẫn tới nguy cơ
mai một ngày càng cao. Vì vậy, việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống, trong đó có lễ giải hạn là việc làm hết sức cần thiết, cần sự quan
tâm của các cấp, các ngành và của toàn xã hội để loại hình văn hóa tín ngưỡng
dân gian mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc này giữ được nguyên giá trị ban đầu.
Mặt khác qua các hình thức giải hạn khác nhau của người Tày ở Pác Nặm,
nó mang giá trị nghệ thuật là hết sức to lớn và đậm đà bản sắc dân tộc. Trong
nghi lễ giải hạn luôn mang trong nó về hình thức như lời hát dân ca, nên rất gần
gũi với cuộc sống người dân lao động. Thành tố mỹ thuật trong các nghi lễ giải
hạn rất nhiều, yếu tố mỹ thuật không chỉ tạo nên không gian huyền ảo, mà còn
mang những giá trị thẩm mỹ, tâm linh riêng. Thành tố văn học trong nghi lễ giải
hạn cũng giá trị nghệ thuật lớn giúp tôi có cái nhìn trong quá trình giảng dạy bộ
môn Ngữ văn tại trường học với chủ đề văn học địa phương nằm trong chương
trình THPT. Hơn nữa qua đề tài này giúp các học sinh có cái nhìn sâu sắc hơn về
bản sắc, văn hóa của dân tộc mình và từ đó giúp các em thêm yêu quê hương
mình, đất nước mình và mỗi học sinh luôn phát huy, giữ gìn và bảo tồn những
giá trị văn hóa của dân tộc mình trên miền đất vùng cao Pác Nặm thân yêu này.
KẾT LUẬN
83
Nghi lễ giải hạn là một thành tố quan trọng của văn hóa dân tộc Tày và
cho đến nay nghi lễ giải hạn của người Tày được các nhà khoa học tiếp cận theo
hướng hình thức diễn xướng. Trong khảo sát này, khi mô tả, phân tích và lý giải
về những quan niệm cũng như các thực hành của nghi lễ giải hạn của người Tày
(giải hạn bằng Then và Mo qua chữ Nho, chữ Nôm Tày) chúng tôi nhấn mạnh
thêm khía cạnh quan trọng đó là an ninh con người, nhất là an ninh về sức khỏe
và kinh tế của các chủ thể khi thực hành nghi lễ.
Trong bối cảnh quá trình vận động của xã hội hiện đại, nghi lễ giải hạn có
một số biến đổi ở các góc độ khác nhau. Sự biến đổi này là một sự thích nghi của
con người và của các thực hành nghi lễ giải hạn đối với đời sống xã hội hiện đại.
Chúng tôi muốn nhận mạnh rằng dù nghi lễ giải hạn có biến đổi ở các góc độ
khác nhau, song chức năng của nó không thay đổi mà còn thậm chí được củng
cố, đó là đáp ứng nhu cầu an ninh con người về mặt sức khỏe và kinh tế. Điều
này góp phần lý giải cho sự phục hồi và phát triển của nghi lễ giải hạn trong cuộc
sống đương đại ở cộng đồng người Tày ở Pác Nặm.
Pác Nặm là địa bàn khảo sát của luận văn này, là một trong những huyện
vùng cao, huyện nghèo của cả nước, còn gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế- xã
hội và giao thông đi lại. Người Tày ở đây là cư dân đa số và nhiều người thuộc
bản địa, nên phần nào tạo nên bản sắc văn hóa mang đậm dân tộc Tày ở vùng đất
Pác Nặm.
Người Tày ở Pác Nặm có một hệ thống quan niệm về thế giới quan, nhân
sinh quan với niềm tin rằng xung quanh họ có sự hiện diện của nhiều loại ma
lành và ma ác. Để trừ giải những hiểm họa do các loại ma ác gây ra, cac thầy
cúng (Then, Mo…) có khả năng tìm ra ma và thực hành các nghi lễ để trừ ma,
giải hạn (như các nghi lễ giải hạn đã nói ở chương 2). Nghi lễ giải hạn không
phải là một nghi lễ trong chu kỳ đời thường của người Tày, nhưng đang là một
nghi lễ rất phổ biến và có vị trí quan trọng trong cuộc sống của cộng đồng người
Tày ở địa bàn Pác Nặm.
84
Nghi lễ giải hạn diễn ra khi con người có nhu cầu về an ninh ở các góc độ
sức khỏe và kinh tế với một niềm tin rằng các thầy cúng và những nghi lễ do họ
thực hiện có thể thỏa mãn phần nào nhu cầu an ninh của các gia chủ. Mục tiêu cuối
cùng của các nghi lễ giải hạn là mang lại cho gia chủ một sự an ủi, động viên và cao
hơn là sự yê tâm về sức khỏe thể chất và tinh thần trong đời sống.
Theo cách này, nghi lễ giải hạn có thể được coi là cách người dân mong
muốn “hóa giải” những bất an và tìm cách đạt được an ninh trong cuộc sống và
là cách thức ứng phó của con người trước những rủi ro, bất an về sức khỏe và
kinh tế.
Trên cơ sở đó, nghi lễ giải hạn là những giá trị văn hóa và phản ánh thực
tiễn cuộc sống của người Tày ở Pác Nặm nói riêng và ở Việt Nam nói chung.
Trong bối cảnh quá trình vận động của xã hội hiện đại, nghi lễ giải hạn có một
số biến đổi ở các góc độ khác nhau, song sự biến đổi này chính là một sự thích
ứng của con người và của các thực hành nghi lễ giải hạn đối với đời sống xã hội
hiện đại, nhằm đáp ứng nhu cầu an ninh con người cả về mặt sức khỏe lẫn kinh
tế. Thực tế này góp phần lý giải cho sự phục hồi và phát triển của nghi lễ giải
hạn trong cuộc sống đương đại của cộng đồng người Tày ở Pác Nặm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
85
1. Phan Quốc Anh (2006), Nghi lễ vòng đời của người Chăm Ahier ở Ninh Thuận,
H. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
2. Triệu Ân (1994), Ca dao Tày, Nùng, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
3. Triệu Ân (1997), Tục cưới xin người Tày, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
4. Triệu Ân (2000), Then Tày những khúc hát, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
5. Triệu Ân, Hoàng Quyết (1996), Từ điển, thành ngữ, tục ngữ dân tộc Tày,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
6. Nguyễn Chí Bền (1999), Văn hóa Việt Nam: những suy nghĩ, NXB Văn hóa
dân tộc, Hà Nội.
7. Diệp Trung Bình (2005), Phong tục và nghi lễ vòng đời người của người
Sán Dìu ở Việt Nam, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
8. Đỗ Thúy Bình (1994), Hôn nhân và gia đình các dân tộc Tày, Nùng, Thái
ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
9. Hoàng Hữu Bình (1998), Các tộc người ở trung du miền núi phía Bắc Việt Nam,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
10. Nguyễn Thị Thanh Bình (2013), "Tổng quan nghiên cứu về những biến đổi
của dân tộc Tày từ năm 1980 đến nay", Tạp chí Dân tộc học, Hà Nội.
11. Nguyễn Từ Chi (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa tộc người, NXB Văn hóa
dân tộc, Hà Nội.
12. Hoàng Quyết, Tuấn Dũng (1995), Phong tục, tập quán của người Tày ở Việt
Bắc, H. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
13. Nguyễn Khoa Điềm (2001), Bảo tồn phát huy văn hóa truyền thống các dân
tộc thiểu số, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội.
14. Nguyễn Huy Hồng (2012), Nghệ thuật múa rối Tày, Nùng, NXB Văn hóa
dân tộc, Hà Nội.
15. Dương Hải Hưng (2003), Sự cố kết cộng đồng của người Tày vùng núi phía
Bắc Việt Nam, Luận án tiến sỹ Tâm lý học, Đại học sư phạm Hà Nội.
16. Đinh Gia Khánh (1995), Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
86
17. Vũ Ngọc Khánh (sưu tầm và biên soạn) (2004), Truyền thống văn hóa các
dân tộc thiểu số Việt Nam, NXB Thanh Niên, Hà Nội.
18. Triệu Thị Mai (2001), Lễ cầu tự của người Tày Cao Bằng, NXB Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
19. Hoàng Nam (2002), Đặc trưng văn hóa cổ truyền các dân tộc Việt Nam,
NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
20. Hoàng Nam (2005), Văn hóa các dân tộc vùng Đông Bắc Việt Nam, NXB
Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
21. Nông Thị Nhình (2004), Nét chung và riêng của âm nhạc trong diễn xướng
Then Tày, Nùng, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
22. Hoàng Quyết (1993), Văn hóa truyền thống Tày, Nùng, NXB Văn hóa dân
tộc, Hà Nội.
23. Lý Hành Sơn (2001), Các nghi lễ chủ yếu trong đời người của nhóm giao
tiền Ba Bể, Bắc Kạn, H. Viện dân tộc học.
24. Hà Đình Thành (2010), Văn hóa dân gian Tày, Nùng ở Việt Nam, NXB Đại
học quốc gia Hà Nội.
25. Tô Ngọc Thanh (2001), Văn hóa các dân tộc thiểu số, NXB Chính trị quốc
gia Hà Nội.
26. Ngô Đức Thịnh (2001), Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam,
NXB Trẻ, Hà Nội.
27. Ngô Đức Thịnh (Chủ biên) (1993), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
28. Ngô Đức Thịnh (2006), Văn hóa, văn hóa dân tộc người và văn hóa Việt Nam,
NXB khoa học xã hội, Hà Nội.
29. La Công Ý (2010), Đến với người Tày và văn hóa Tày, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội.
30. Nguyễn Thị Yên (2009), Then chúc thọ của người Tày, NXB Văn hóa dân tộc,
Hà Nội.
31. Nguyễn Thị Yên (2009), Then Tày, NXB văn hóa dân tộc, Hà Nội.
87
Phụ lục 1: DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI CUNG CẤP THÔNG TIN
Giới
Họ và tên
Tuổi
Thôn/xã
Nghề nghiệp
Ghi chú
tính
Nghệ nhân đã được
Hoàng Văn Phúc 88
Nam Nà coóc-Bộc Bố
Thầy Tào
Bộ VH-TT cấp
chứng nhận
Hoàng Văn Lý
50 Nam Nà coóc-Bộc Bố
Thầy Tào
Con trai ông Phúc
Dương Văn Mu
65 Nam Bản Bòn-Cao Tân
Thầy Then
Ma Văn Vịnh
47 Nam Cao Tân-Pác Nặm
Thầy Then
Nông Thạnh Mạ
46 Nam Nà coóc-Bộc Bố
Nông dân
Nông Thanh Tuấn
57 Nam Nhan Môn-Pác Nặm Nông dân
Hà Văn Lập
46 Nam Bằng Thành-Pác Nặm Nông dân
Nông Thanh Yến
49 Nam Nà coóc-Bộc Bố
Buôn bán
Lường Văn Quân
53 Nam Công Bằng-Pác Nặm Nông dân
Chu Văn Chính
49 Nam Nhạn Môn-Pác Nặm Cán bộ xã
Nguyên là Trưởng
Cán bộ nghỉ
Hoàng Hữu Tổ
61
Nam Nà coóc-Bộc Bố
phòng văn hóa
hưu
huyện Pác Nặm
Hoàng Thị Mỵ
Nữ
67 Giáo Hiệu- Pác Nặm Nông dân
Chủ
tịch xã
Hoàng Văn Ngôn Nam 42
Bằng Thành-Pác Nặm
Bằng Thành
Lường Thị Hoài Nữ
36
TP. Bắc Kạn
Cán bộ
Cán bộ thư viện tỉnh
Cán bộ thư viện
Ma Thị Đồng
Nữ
31
Bộc Bố-Pác Nặm
Cán bộ
huyện
Phụ lục 2: MỘT SỐ ĐOẠN TRONG LỜI THEN CÚNG
Lời Then (cúng) theo tiếng Tày
Thâng nậy tưởng ngó thọoc khoăn đo
Thầy ngó pây xa vỉa đảy pjọm khoăn ơi
Hẩu khoẳn kin khẩu nhứa đảy im
Hẩu khoẳn kin lẩu ngon là mì khoăn ời
Giở nậy khoăn xo đẳm xo tang pây là
Khoăn xo ta, xo nái theo thầy pẩy lỉn khoăn ời
Mứa lô lả khoăn
Mứa lô a lãng vỉa
Mứa tính mè vua bếp hai chồng
Mứa tính pò thổ công hai vợ
Mè bép quản phấy vắn trang gia
Thổ công quản đin lướn cấu du
Bẩu đảy téch khoăn nậy hẹt rang
Bẩu đảy xăng khoăn nậy khảu thẳm
Khoăn tua nậy đẳm cái cháo chương
Vỉa tua nảy thầy luông ngỏ quản
Mứa lô lả lãng khoăn
Mứa lô a lãng vỉa
Mứa tính pò thửa đin bản dú
Mưa tính mè thin nhả bản tom chương
Chác đin mí lài pò thửa đin cai quản
Chác nhả mí kì mè thin nhả dừ canh
Bẩu đảy tách khoăn nậy hẹt rang
Bẩu đảy xăng khoăn nậy khau thẳm
Khoăn tua nậy đằm chảy cháo chương
Vỉa tua nậy thầy luông cháo quản
Mứa lô lả lãng khoăn
Mứa lô a lãng vỉa
Mứa tính cốc may pò hua khao
Mứa tính thẳm hin ao hua hóoc
Pò hua khao quản mạy ráo hua bản
Ao hua hóoc quản thẳm thóoc hua mướng
Bẩu đảy tó khoăn nậy hẹt rang
Bẩu đảy xăng khoăn nậy khau thẳm
Khoăn tua nạy đẩm cái cháo chương
Vỉa tua nẩy thầy luông ngó quản
Mứa lô lả lãng khoăn
Mứa lô a lãng vỉa
Mứa tính náng thửa lương pom thảu
Mưa tính già phù thủy pú kem
Náng thửa lương quản đon đin trang bản
Già phù thủy quản pú trang tồng
Bấu đảy tó khoăn nậy khau thẳm
Khoăn tua nậy đẳm cải cháo chương
Vỉa tua nậy thầy luông cháo quản
Mứa lô lả lãng khoăn
Mứa lô a lãng vỉa
Mứa tính pò thấn cải hua mướng
Mứa tính pò thấu luông tham thẩu
Thấn cải quản bản cải cấn chương
Thấn luông quản pú luông cấn đặt
Bấu đáy tó khoăn nậy hẹ răng
Bấu đảy xăng khoăn nậy khan thẳm
Khoăn tua nậy đẳm cải cháo chương
Vỉa tua nậy thầy luông cháo quản
Lời Then dịch ra tiếng việt
Đến đây thầy tôi tìm đủ vía
Thầy tôi đã tìm đủ con hồn
Cho vía ăn cơm thịt đủ no
Cho hồn uống rượu ngon đủ say
Giờ này xin tổ tiên để đi chơi
Đi thôi hỡi làng hồn
Xin ông bà bên vải để được đi chơi
Đi thôi hỡi làng vía
Đi chào bà vua bếp hai chồng
Đi chào ông thổ công hai vợ
Vua bếp quản lửa khói trong nhà
Thổ công quản khuôn viên nhà ở
Không được trách hồn này làm chi
Không được nhốn vía này vào ngục
Con hồn này tổ tiên người ta giữ
Con vía này thầy cao công tao quản
Đi hỡi ôi làng hồn
Đi hỡi ôi làng vía
Đi trình ông thổ địa làng ở
Đi trình bà ma cỏ làng thờ
Thước đất có vài ông thổ địa
Thước cỏ có vài con ma cỏ đứng canh
Không được trách hồn này làm chi
Không được nhốt vía này vào ngục
Con hồn này tổ tiên người ta giữ
Con vía này thầy công cao tao quản
Đi thôi hỡi làng hồn
Đi thôi hỡi làng vía
Đi trình gốc cây ông đầu trắng
Đi trình ông hang đá ông đầu bạc
Ông đầu trắng quản cây đa đầu bản
Chú đầu bạc quản hang đá đầu mường
Không được trách hồn này làm chi
Không được nhốt vía này vào ngục
Con hồn này tổ tiên người ta giữ
Con vía này thầy cao công tao quản
Đi thôi hỡi làng hồn
Đi thôi hỡi làng vía
Đi trình nàng tiên nữ áo vàng
Đi trình bà phù thủy núi Kem
Nữ áo vàng quản gò cao giữa bản
Bà phù thủy quản núi giữa đồng
Không được trách hồn này làm chi
Không được nhốt vía này vào ngục
Con hồn này tổ tiên người ta giữ
Con vía này thầy cao công tao quản
Đi thôi hỡi làng hồn
Đi thôi hỡi làng vía
Đi trình ông thần to đến mường
Đi trình ông thần lớn đầu bản
Thần to quản làng lớn người ở
Thần lớn quản mường lớn người trú
Không được trách hồn này làm chi
Không được nhốt vía này vào ngục
Con hồn này tổ tiên người ta giữ
Con vía này thầy cao công tao quản
Phụ lục 3:
KHOA GIẢI SUNG CUNG GIẢI HẠN
Cuốc shổ điểm binh mạ nhằng đông
Cai đông điếm binh quân nhằng đủ
Phân quân dú ngọn pé giải sung
Phân mạ dú ngọn sông giải hạn…
…Nhục tiếng tổng mạ la khửn khái
Khửn thâng tồng cà lương
Quá thâng mường cà vạt
Khảm quá tồng sích ca
Khảm quá nà vàng để
Tổng vàng để pàn phia
Tổng xích ca pàn đán
Khửn tạm cải mè sinh
Quá tạm ông mè để
Khảm thâng khái quan sung
Lọt thâng cung quan hạn…
…Đông Tây Nam lủng chỏi
Lọt thâng Bắc Đẩu lồng dào
Vua Nam Tào lồng giải
Khoái khoái oóc mà khái giải sung
Khoái khoái lồng mà thâng cung giải hạn…
…Hết lăng cụng lì, chi lăng cụng đảy
Đảy kin dú siên niên vạn đại.
Phụ lục 4:
NGUYÊN BẢN LỜI KHẮP CÚNG XIN CÁC THẦN GÁC CỬA ẢI
BẰNG LỜI THEN (KHI VÍA BỊ LONG VƯƠNG BẮT)
1. Cửa ải thứ nhất (thần thuồng luồng - tiếng Tày là thần ngược)
Lứa thần khảm nặm pế Long Vương
Lứa tưởng khảm nặm thông Long Xá
Loòng thâng thẳm thấn ngược canh tu
Loòng thâng thẳm thấn ngũ gác cổng
Thấn ngược đăm cai pế
Khay tu hẩu thầy cải ngó pây thấn ơi
Cái đuây hẩu tưởng luông ngó lống thấn ời
Thống táng hẩu quân binh tưởng khản thấn ơi
Thầy ngó là bấn khản tu đai
Tưởng ngó nhăng mí mè náng tiên chuộc mình
Binh ngó cùng mí khảng đén rung soi thoóc
Tham tang pây lấu bjoóc Long Vương
Tham thoóc khảu thủy cung long xá thấn ơi
2. Cửa ải thứ hai (thần rùa, ba ba - thấn pha, thấn tấu)
Nhàng pà thâng thẳm cái thấn pha
Quá pây thâng thẳm luông thấn tấu
Thấn tấu au thi lải canh tu
Thần pha au thi kha gác cổng
Khay tu hẩu thầy cải ngó pây thấn ơi
Cái đuây hẩu tưởng luông ngó lống thần ời
Thống táng hẩu quân binh tưởng khản thấn ơi
Thầy ngó là bấn khản tu đai
Tưởng ngó nhăng mí mè náng tiên chuộc mình
Binh ngó cùng mí khảng đén rung soi thoóc
Tham tang pây lấu bjoóc Long Vương
Tham thoóc khảu thủy cung long xá thấn ơi
3. Cửa ải thứ ba (thần cá trạch răng - thấn pia sát)
Nhàng thâng thẳm pja sát lăng cưa
Pò thấn pja hua thiểm pấn khoác
Gác thẳm cải lối pây long cung
Khay tu hẩu thầy cải ngó pây thấn ơi
Cái đuây hẩu tưởng luống ngó lống thần ời
Thống táng hẩu quân binh tưởng khản thấn ơi
Thầy ngó là bấn khản tu đai
Tưởng ngó nhăng mí mè náng tiên chuộc mình
Binh ngó cùng mí khảng đén rung soi thoóc
Tham táng pây lấu bjoóc Long Vương
Tham thoóc khảu thủy cung long xá thấn ơi
4. Cửa ải thứ tư (thần cua, tôm biển - thấn pu, thấn củng)
Nhàng thâng thẳm thấn củng canh tu
Nhàng thâng thẳm thấn pu gác cổng
Thấn củng cẳm kiếm khát trang hua
Thấn pu hả kín đeng rặng tỏn
Thong kín dơ pây nả cà ngặc
Sốc kha cháu nghều ngào theo lăng
Khay tu hẩu thầy cải ngó pây thấn ơi
Cái đuây hẩu tưởng luông ngó lống thần ời
Thống táng hẩu quân binh tưởng khản thấn ơi
Thầy ngó là bấn khản tu đai
Tưởng ngó nhăng mí mè náng tiên chuộc mình
Binh ngó cùng mí khảng đén rùng soi thoóc
Tham táng pây lấu bjoóc Long Vương
Tham thoóc khảu thủy cung long xá thấn ơi
5. Cửa ải thứ năm (thần chó biển - thần ma nặm, ma ngao)
Pây thâng thẳm ma nặm khuân khao
Nhàng thâng thẳm ma ngao khuân lái
Thấn ma nặm canh cổng thả quan
Thấn ma ngao gác cổng thả thầy
Khay tu hẩu thầy cải ngó pây thấn ơi
Cái đuây hẩu tưởng luông ngó lống thần ời
Thống táng hẩu quân binh tưởng khản thấn ơi
Thầy ngó là bấn khản tu đai
Tưởng ngó nhăng mí mè náng tiên chuộc mình
Binh ngó cùng mí khảng đén rùng soi thoóc
Tham táng pây lấu bjoóc Long Vương
Thám thoóc khảu thủy cung long xá thấn ơi
6. Cửa ải thứ sáu (thần lợn nước - thấn mu nặm, long trư)
Nhàng thâng thẳm ma nặm bưởng khoa
Hả thấn mu canh tu bưởng thại
Mu nặm muộn tẩu nặm xa hoi
Thấn mu bá đinh ba canh cổng
Khay tu hẩu thầy cải ngó pây thấn ơi
Cái đuây hẩu tưởng luông ngó lống thần ời
Thống táng hẩu quân binh tưởng khản thấn ơi
Thầy ngó là bấn khản tu đai
Tưởng ngó nhăng mí mè náng tiên chuộc mình
Binh ngó cùng mí khảng đén rùng soi thoóc
Tham táng pây lấu bjoóc Long Vương
Tham thoóc khảu thủy cung long xá thấn ơi
7. Cửa ải thứ bảy (thần trâu nước - thấn vái nặm)
Nhàng thâng thẳm vái nặm canh thông
Pây thâng thẳm thấn vại gác bể
Thấn vái phúm trang thông cờ giảo
Khay tu hẩu thầy cải ngó pây thấn ơi
Cái đuây hẩu tưởng luông ngó lống thần ời
Thống táng hẩu quân binh tưởng khản thấn ơi
Thầy ngó là bấn khản tu đai
Tưởng ngó nhăng mí mè náng tiên chuộc mình
Binh ngó cùng mí khảng đén rùng soi thoóc
Tham táng pây lấu bjoóc Long Vương
Tham thoóc khảu thủy cung long xá thấn ơi
8. Cửa ải thứ tám (thần cá ác canh động-thấn pja thưa, pja măng, pja mập)
Pây thâng thảm pja măng pja mập
Thấn pja ác hẹt thấu ác tẩu nặm
Tua cải mắn pây téng pây tặp
Tua nọi ả pác kin cá đoán
Chà mác cà ná chô
Cấu phai thê phai luây ná chổi
Khay tu hẩu thầy cải ngó pây thấn ơi
Cái đuây hẩu tưởng luông ngó lống thần ời
Thống táng hẩu quân binh tưởng khản thấn ơi
Thầy ngó là bấn khản tu đai
Tưởng ngó nhăng mí mè náng tiên chuộc mình
Binh ngó cùng mí khảng đén rùng soi thoóc
Tham táng pây lấu bjoóc Long Vương
Tham thoóc khảu thủy cung long xá thấn ơi
9. Cửa ải thứ chin (thần đỉa biên canh giữ)
Nhàng pà pây thâng thẳm thấn ping nặm pế
Pinh rặng pinh chứng cải cờ nặn
Thấn pinh mí cẩu pác cẩu hua
Mè ngúa kin pừa toọc cà them
Mộng hăn tưởng đuông lyoóc phấy vắn
Khay tu hẩu thầy cải ngó pây thấn ơi
Cái đuây hẩu tưởng luông ngó lống thần ời
Thống táng hẩu quân binh tưởng khản thấn ơi
Thầy ngó là bấn khản tu đai
Tưởng ngó nhăng mí mè náng tiên chuộc mình
Binh ngó cùng mí khảng đén rùng soi thoóc
Tham táng pây lấu bjoóc Long Vương
Tham thoóc khảu thủy cung long xá thấn ơi
10. Cửa ải thứ mười (thần cái voi - pja trang)
Nhàng pà thâng thẳm luông pja trạng
Thấn pja cờ khảng giảo, khảng rướn
Rí thút chùa mạy cuống trang đông
Lèn tẩu nặm phóng tứn lấm pào
Dà rào phun nặm tưởng phạ phâu
Khay tu hẩu thầy cải ngó pây thấn ơi
Cái đuây hẩu tưởng luống ngó lống thần ời
Thống táng hẩu quân binh tưởng khản thấn ơi
Thầy ngó là bấn khản tu đai
Tưởng ngó nhăng mí mè náng tiên chuộc mình
Binh ngó cùng mí khảng đén rùng soi thoóc
Tham táng pây lấu bjoóc Long Vương
Tham thoóc khảu thủy cung long xá thấn ơi
Phụ lục 5:
NGUYÊN LỜI (TRÍCH DẪN) CHẢI TINH KỶ (DÂNG SAO GIẢI HẠN)
BẰNG CHỮ NÔM TÀY CỦA THẦY MO Ở PÁC NẶM
1. Cung nộp pang (cung trả lễ)
Lầu mì của mà vàn
Lầu mì pang mà hẩu
Lầu mì slam sleng khả
Lầu mì hả sleng pài
Mì khẩu mỉnh mà tèn
Mì khẩu khoăn mà pố
Lầu mì lệ mì làm
Lầu mì tham mà tủ
Thu tỉ mà nạp pang
Công sào mà cao lệ
Cao pây phải tắm na
Cao pây phà tắm thí
Cao pây phằn pết ké
Cao pây mẻ cáy luông
Pết cây mà chuộc thua
Mè dường mà chuộc chẩu
Khẩu lẩu mà vàn ơn
Kim ngần mà thể mỉnh
Nộp pây slam slíp mạ
Nộp pây hả slíp chèn
Khỏi cao kim tằng cân
Khỏi cao ngần tằng phả
Mạ tỉ nẳng thụ an
Chèn pác quản khẩu tang
Ngần xiên chàng chuộc mỉnh
Khỏi ỷ lầu mà tang
Mạo làng lầu mà thể
Mọi slức khỏi cao tủ
Của dương khỏi cao tuyền
Mạ chèn hẩu pỏ kho
Hẩu pỏ kho khay tu
Mạ chèn hẩu pỏ châu
Hẩu pỏ châu mà tiểm
Tiểm au pang cò lọc
Tiểm au pang chọc A
2. Cung hồi hương (lấy hồn về nhà)
Dắc khửn mạ lâm xa
Tẩu chờ nẩy đắc đắn
Tẩu chờ nẩy đắc điêng
Óc tu kỷ tở nai
Óc tu chai tở nản
Khoăn dú tỉ lò hầu
Khoăn dú tỉ thổ tú
Khoăn dú tỉ kim tinh
Khoăn dú tỉ thủy tinh
Óc tu kỉ tở nai
Óc tu chai tổ nản
Kỷ pắc nà hẩu hấy
Kỷ pắc lẩy hẩu byai
Mai tỉ luồn hẩu dú
Khoăn dú kỷ tả phằng
Đang dú lăng thụ nản
Mạ pơi khoăn mạ pơi
Tẩu pơi mỉnh tẩu pơi
Thổ tỉ mà lặp khoăn
Thần nông mà lặp mỉnh
Lặp mỉnh lầu tở tứn
Lặp khoăn lầu tẻ tẻo
Tẻo pây khoăn tẻo pây
Chai lồng mường pỏ kỷ