intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn tốt nghiệp: Chất lượng lao động Thanh niên dân tộc thiểu số, trường hợp nghiên cứu tại huyện Quan Hóa Tỉnh Thanh Hóa

Chia sẻ: Truong Tung | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:42

99
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn là khám phá những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng lao động trẻ trong các nhóm dân tộc thiểu số từ các nghiên cứu trường hợp của huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Kiểm tra vai trò của đào tạo nghề nâng cao chất lượng lao động trẻ trong các nhóm dân tộc thiểu số.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn tốt nghiệp: Chất lượng lao động Thanh niên dân tộc thiểu số, trường hợp nghiên cứu tại huyện Quan Hóa Tỉnh Thanh Hóa

  1. ĐẠI HỌC KINH TẾ ­ ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI ĐẠI HỌC UPSALA – THỤY ĐIỂN CHƯƠNG TRÌNH THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP  CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ CÔNG ĐỀ TÀI Chất lượng lao động Thanh Niên dân tộc thiểu số Trường hợp nghiên cứu tại huyện Quan Hóa ­  tỉnh Thanh Hóa ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­                                                      Giảng viên hướng dẫn:     TS. Nguyễn Mạnh Hùng ­ Viện Kinh tế và Chính trị thế giới                  GS.TS  Lennart Wikander ­ Trường ĐH Uppsala Thụy Điển Nhóm hoc viên: ̣ Trương Công Điệp Lý Trường Yên Hoàng Tùng Lơp: MPPM – Intake 4A ́
  2. Hà Nội, tháng 3 năm 2012 MỤC LỤC 1. Mở đầu 2
  3. 1.1.Giới thiệu  vấn đề ( bối cảnh chung, tầm quan trọng của vấn đề ) 1.2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu 1.3. Cấu trúc luận văn 2.  Tổng quan tài liệu nghiên cứu và khung khổ lý thuyết  3. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với thanh niên DTTS 3.1. Các chủ trương, chính sách nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói chung  3.2. Các chủ trương, chính sách nâng cao chất lượng nguồn lao động là thanh niên  DTTS 4. Tổng quan tình hình lao động là thanh niên DTTS tỉnh Thanh Hóa  4.1.Tình hình dân số, lao động và việc làm tỉnh Thanh Hóa 4.2. Thực trạng học nghề của thanh niên DTTS 4.3. Thực trạng tay nghề qua đào tạo của Thanh niên dân tộc ít người tỉnh Thanh  Hóa 4.4. Một số chính sách của tỉnh về nâng cao chất lượng nguồn lao động là thanh  niên DTTS 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp hàm số  Mincerian căn bản  5.2. Phương pháp hàm số  Mincerian mở rộng 6. Nghiên cứu trường hợp huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa 6.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội huyện Quan Hóa tỉnh Thanh Hóa 6.2. Phân tích số liệu thống kê về thực trạng chất lượng lao động là thanh niên  DTTS huyện Quan Hóa 6.3. Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng lao động là người DTTS  huyện Quan Hóa 7. Kết Luận và giải pháp 8. Hạn chế của luận văn và hướng nghiên cứu tiếp theo 9. Tài liệu tham khảo 3
  4. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT: Tiến sỹ: TS. Giáo sư, tiến sỹ: GS.TS. Dân tộc thiểu số DTTS Thanh niên TN Ủy ban nhân dân: UBND Quyết định QĐ Chính Phủ CP Thủ tướng Chính Phủ TTg Trung Ương TW  Đoàn Thanh Niên cộng sản Hồ Chí Minh ĐTN CS HCM  Nhà Xuất bản NXB Hợp đồng lao động HĐ LĐ Trung   tâm   giáo   dục   thường   xuyên   và   dạy  TT GDTX & DN nghề 4
  5. TÓM TẮT LUẬN VĂN 1. Tiêu đề (Tên đề tài luận văn):  Chất lượng lao động Thanh Niên dân tộc thiểu số, trường hợp nghiên cứu tại  huyện Quan Hóa ­ tỉnh Thanh Hóa 2. Trình độ:  Bài luận văn chương trình Thạc sĩ Quản lý công 3. Nhóm tác giả:  ­ Trương Công Điệp ­ Hoàng Tùng ­ Lý Trường Yên 4. Giảng viên hướng dẫn:  TS. Nguyễn Mạnh Hùng ­ Viện Kinh tế và Chính trị thế giới GS.TS  Lennart Wikander ­ Trường ĐH Uppsala Thụy Điển 5. Ngày tháng hoàn thành: Tháng 3 năm 2012 6. Mục đích:  Xác định đào tạo nghề và nâng cao chất lượng lao động cho Thanh Niên vùng   DTTS là cần thiết để họ có việc làm hoặc tìm được việc làm cho thu nhập ổn định,   góp phần xóa đói, giảm nghèo.  Lý do: ­ Thanh niên DTTS có nhu cầu đào tạo nghề, song chất lượng, số lượng còn   hạn chế; 5
  6. ­ Cơ hội tìm việc làm thấp, thu nhập không cao; ­ Chất lượng lao động thấp do  ảnh hưởng bởi các yếu tố  văn hóa, phong tục  tập quán và điều kiện địa lý khó khăn, dân trí thấp. 7. Phương pháp nghiên cứu:   ­ Phương pháp hàm số căn bản và mở rộng ­ Phương pháp kế thừa các dữ liệu sẵn có; ­ Phương pháp thống kê trên cơ sở  các báo cáo số liệu tổng hợp thực hiện dạy   nghề đã được  huyện Quan Hóa phê duyệt năm 2011;  ­ Phương pháp quan sát thực tiễn tại trường dạy nghề của huyện Quan Hóa và  tình hình việc làm của đối tượng nghiên cứu (TN ­ DTTS). Nhóm cũng dựa trên một số đề án đã được Ủy ban Nhân dân huyện, Ủy ban Nhân  dân tỉnh và Quyết định của Chính phủ đã phê duyệt.  8. Kết quả và kết luận:  Qua phân tích thực trạng TN DTTS tỉnh Thanh Hóa nói chung và của Huyện Quan  Hóa nói riêng về  chất lượng lao động và tìm kiếm việc làm cho thấy có nhiều yếu tố  tác động đến chất lượng lao động, bao gồm cả  yếu tố  nội tại bản thân TN là người   DTTS là trình độ văn hóa thấp, còn nặng phương thức lao động tự cấp tự túc, thiếu kỹ  năng và kỷ luật lao động, tự ty dân tộc, các yếu tố văn hóa ảnh hưởng rất lớn đến chất   lượng và quá trình học nghề chưa thành công. Mặt khác các yếu tố về môi trường đào tạo, kinh phí dành cho đào tạo nghề vùng   DTTS còn hạn chế; công tác vận động tuyên truyền chưa sâu rộng tới người lao động,   làm cho họ chưa nhận thức được việc lao động có kỹ năng, được đào tạo cho thu nhập   cao hơn lao động tự do, không có kỹ năng nghề; Nhà nước cần hỗ trợ đầu tư nhiều hơn   để  khuyến khích TN tham gia học nghề và tham gia tổ  chức Đoàn hội góp phần củng   cố và giữ vững, ổn định hệ thống chính trị, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống người   dân vùng dân tộc thiểu số. 6
  7. 9. Đề xuất cho nghiên cứu tương lai:   Nếu có điều kiện nhóm sẽ tiếp tục tìm tòi, nghiên cứu sâu hơn, trực tiếp hơn để  kiến nghị  đề  xuất với Nhà nước tăng cường hỗ  trợ  cho TN DTTS học nghề, nâng cao   chất lượng lao động nói chung, kỹ năng nghề cho TN DTTS nói riêng, để  họ vươn lên   xóa đói giảm nghèo nhanh, bền vững ở vùng dân tộc miền núi. 10. Đóng góp của luận văn:  Nhóm hy vọng sẽ có nhiều bạn trẻ là TN DTTS quan tâm đến vấn đề  nhóm đã  nghiên cứu và chỉ ra nguyên nhân hạn chế về chất lượng lao động là TN DTTS. Từ  đó   họ  nỗ  lực và cố  gắng hơn học tập, rèn luyện kỹ  năng cho bản thân và tích cực tuyên   truyền về học nghề, thực hiện tốt kỷ luật lao động, xóa bỏ  tập tục lạc hậu, tiếp cận   học nghề mới đáp ứng nhu cầu thị trường, tìm được việc làm cho thu nhập ổn định và   thoát nghèo nhanh chóng, bền vững. 11. Ý chính:  Nâng cao chất lượng lao động cho Thanh niên dân tộc thiểu số  là vấn đề  mà  đề tài hướng vào làm đối tượng nghiên cứu chính. 7
  8. 1. Mở đầu 1.1. Giới thiệu vấn đề   Trong quá trình thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo vùng dân tộc thiếu số  (DTTS) và miền núi những năm qua cơ bản đã từng bước được cải thiện. Đối với vùng   đồng bào miền núi tỉnh Thanh Hóa tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 70% năm 2005 ­ xuống còn  42,73% năm 2011 (7 huyện nghèo vẫn ở mức cao 50,67%). Tuy nhiên, trước thách thức  có nguy cơ  tái nghèo  ở  7 huyện thuộc Nghị  quyết 30a về đầu tư  cho 62 huyện nghèo  nhất nước; Thanh Hóa có 7 huyện đều thuộc vùng dân tộc miền núi, trong đó huyện  Quan Hóa là một trong huyện nghèo có tỷ  lệ  hộ  nghèo cao 51,01% năm 2011. Nguyên   nhân là người dân chủ yếu sinh sống bằng nghề trồng trọt và chăn nuôi, dân trí thấp, lao  động không có tay nghề  và thiếu việc làm vào những tháng nhàn rỗi mùa vụ  hoặc có   việc làm nhưng thu nhập thấp... Đặc biệt là Thanh Niên, tuy có sức lao động nhưng lại  không có công việc thường xuyên để tạo ra thu nhập cho gia đình và bản thân, trình độ  học vấn đa số  hết tiểu học, họ  có nhu cầu học nghề  nhưng chưa biết về trường lớp   đào tạo nghề hoặc chưa có sự quan tâm đúng mức của các cấp chính quyền.  Xác định đào tạo nghề  cho Thanh Niên vùng DTTS là cần thiết để  họ  có việc  làm hoặc tìm được việc làm cho thu nhập  ổn định, góp phần xóa đói, giảm nghèo.   Chúng tôi thấy rằng cần thiết phải chọn đề tài nghiên cứu "Chất lượng lao động Thanh   Niên dân tộc thiểu số, trường hợp nghiên cứu tại huyện Quan Hóa ­  tỉnh Thanh Hóa".  1.2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu Câu hỏi nghiên cứu Các yếu tố  quan trọng quyết định chất lượng của lao động trẻ  trong các nhóm   dân tộc thiểu số là gì? Mục tiêu nghiên cứu 8
  9. Luận văn này là để  khám phá những yếu tố  quan trọng  ảnh hưởng đến chất  lượng lao động trẻ  trong các nhóm dân tộc thiểu số từ các nghiên cứu trường hợp của  Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Đặc biệt, nó là để  kiểm tra vai trò của đào tạo nghề  nâng  cao chất lượng lao động trẻ trong các nhóm dân tộc thiểu số. 1.3. Cấu trúc luận văn Được chia làm 5 phần chính và 7 tiểu mục, phần mở  đầu gồm các nội dung: lý   do chọn đề tài, câu hỏi nghiên cứu, mục đích nghiên cứu; Phần thứ hai là khung khổ lý thuyết, tổng quan tài liệu nghiên cứu, tổng quan về  lao động, việc làm tỉnh Thanh Hóa, những chính sách của Đảng và Nhà nước nâng cao   chất lượng lao động nói chung và chất lượng lao động là Thanh Niên dân tộc thiểu số  nói riêng; Phần thứ ba là trường hợp nghiên cứu chất lượng lao động là Thanh niên DTTS   tại huyện Quan Hóa tỉnh Thanh Hóa: thực trạng, những nhân tố   ảnh hưởng đến chất  lượng lao động và chính sách của Nhà nước dành cho Thanh niên DTTS; Phần thứ tư là phương pháp nghiên cứu; Cuối cùng là kết luận và một số kiến nghị về giải pháp nâng cao chất lượng lao   động Thanh Niên dân tộc thiểu số. 2.  Tổng quan tài liệu nghiên cứu và khung khổ lý thuyết Lý thuyết về chất lượng lao động  Vốn con người  Adam Smith có thể là nhà kinh tế học đầu tiên phát triển khái niệm về vốn con   người là đạt được những khả năng hữu ích của người dân hoặc thành viên trong xã hội.  Việc đạt được những tài năng thông qua giáo dục, học tập hoặc học nghề, thường mất   một khoản chi phí thực thế, là vốn cố  định và được thực hiện trong cá nhân đó. Tay  nghề  của công nhân được nâng cao có thể  được xem như  một máy móc hoặc công cụ  trong nghề tạo điều kiện dễ dàng và giảm bớt sức lao động. Và thông qua đó nó có giá   9
  10. là một khoản chi phí nhất đinh, hoàn lại khoản chi phí đó bằng lợi nhuận. Nói một cách  ngắn gọn, Adam Smith đã khẳng định vốn con người là kỹ  năng, sự  khéo léo trong tay   nghề (thể chất, trí tuệ, tâm lý, …), và phán đoán.  Trong một công bố  tài chính vào năm 1928, Arthur Cecil Pigou đã tìm cách định   nghĩa rõ hơn thuật ngữ “vốn con người” bằng sự so sánh giữa vốn con người và sự đầu  tư  vật chất. Tuy nhiên, khái niệm được biết đến nhiều nhất về  “vốn con người” đã   thuộc về Jacob Mincer and Gary Becker của Trường Kinh tế Chicago. Đặc biệt là, trong   cuốn sách của Becker có tựa đề Vốn Con Người, xuất bản vào năm 1964, đã trở  thành  một tham chiếu tiêu chuẩn trong nhiều năm. Theo quan niệm của cuốn sách này, vốn   con người tương tự  như  "phương tiện vật chất để  sản xuất”, ví dụ  nhà máy và máy   móc: một người có thể  đầu tư  vào vốn  người (thông qua giáo dục, đào tạo, chăm sóc   sức khoẻ) và kết quả  của sự  đầu tư  đó phụ  thuộc một phần vào tỉ  lệ  mang lại cho   người đó về  vốn con người. Vốn con người có thể  thay thế  được, những không thể  chuyển nhượng lại  được giống như  đất đai, lao  động, hoặc vốn cố   định   (Becker,  1964).  Khái niệm vốn con người cũng có thể tìm thấy trong nhiều công trình nghiên cứu   hiện đại. Ví dụ, Hersch (1991) nói rõ rằng vốn con người là đề  cập đến kinh nghiệm   làm việc và giáo dục, trong đó vốn làm việc được xác định bằng số  năm kinh nghiệm  làm việc chính thức và giáo dục chính thức được tính bằng năm. Hỗ trợ cho quan điểm  này,  Jacobsen (1998) nhấn mạnh rằng bất kỳ thứ gì tạo ra năng suất lao động cao hơn,   bao gồm giáo dục và đào tạo, sức khoẻ thể chất, được xem là vốn con người. Trong các   bài viết và nghiên cứu của Ngân hàng Thế  Giới, vốn con người được định nghĩa là các   kỹ năng và năng lực được hợp nhất vào con người (World Bank 1995). Hầu hết các công trình nghiên cứu đều mô tả  vốn con người là: khả  năng, trình  độ, kinh nghiệm và kiến thức đạt được thông qua giáo dục chính thức và những kỹ  năng và kiến thức chuyên môn đạt được trong quá trình đào tạo. Năng suất lao động  10
  11. Samuel­ son và Nordhaus định nghĩa năng suất lao động là toàn bộ  đầu ra được   phân chia bởi các đầu vào lao động (Koch and McGrath 1996). Theo Tổ chức Hợp Tác   và Phát Triển Kinh Tế  (OECD), năng suất lao động  được định nghĩa là  "Tỉ lệ của một   số đo số lượng đầu ra với số đo số lượng đầu vào” (2001) tổng giá trị  gia tăng (GVA).   Horowitz và Sherman (1980) lại đề  cập đến năng suất lao động được xác định bởi thu  nhập đồng thời và số  đo vật chất  (ví dụ  tình trạng thiết bị). Năng suất lao động xác   định sẽ thay đổi như một chức năng của tổng hệ số năng suất.  Sản lượng của mỗi công nhân tương ứng với “sản phẩm lao động trung bình” và  có thể đối lập với sản phẩm lao động biên tế. Sản phẩm lao động biên tế liên quan đến   việc tăng sản lượng do việc tăng đầu vào lao động biên tế.  Năng suất lao động có thể  được xác định theo các phương diện vật chất hoặc phương diện giá cả. Trong khi sản lượng tạo ra thông thường có thể xác định trong khu vực tư nhân,   rất khó xác định nó trong khu vực nhà nước hoặc các tổ chức phi chính phủ. Có thể khó   xác định đầu vào hơn theo một cách không thiên lệch ngay khi chúng ta đi chệnh khỏi ý   tưởng về lao động đồng nhất ("trên mỗi công nhân” hoặc "trên mỗi giờ lao động"):   Cường độ nỗ lực lao động, và chất lượng của nỗ lực lao động nói chung.  Hoạt động sáng tạo liên quan đến việc tạo ra cải tiến kỹ thuật.  Các lợi ích về hiệu suất liên quan do các hệ thống quản lý, tổ  chức, điều  phối và kỹ thuật khác nhau.  Các tác động đến năng suất của một số hình thức lao động lên một số hình   thức lao động khác. Những phương diện về  năng suất này liên quan đến định tính, chứ  không phải  định lượng, các quy mô đầu vào lao động. Nếu bạn cho rằng một công ty/một nước  đang sử dụng lao động cường độ cao hơn nhiều, bạn có thể không muốn nói rằng điều   này là do năng suất lao động của công ty đó/nước đó cao hơn. Quan điểm này trở  nên  đặc biệt quan trọng khi một phần lớn những gì được tạo ra trong một nền kinh tế chỉ  bao gồm dịch vụ. Ban quản lý có thể  rất quan tâm đến năng suất lao động của công  11
  12. nhân, song chính bản thân ban quản lý lại rất khó chứng minh được những hiệu quả về  nâng suất. Kiến thức chuyên ngành về  quản lý hiện đại nhấn mạnh tác dụng quan   trọng của văn hoá công việc tổng thể hoặc văn hoá tổ  chức của doanh nghiệp. Nhưng   một lần nữa có thể không chứng minh được các ảnh hưởng cụ thể của bất kỳ một văn   hoá cụ thể nào về năng suất. Xét về  các phương diện kinh tế  vĩ mô, việc kiểm soát giờ  làm việc (tức là thể  hiện năng suất lao động của mỗi giờ làm việc) phải đưa ra một thống kê về năng suất   có thể sẵn sàng so sánh được, nhưng điều này thường không được thực hiện do tính tin  cậy của số  liệu về số giờ làm việc. Ví dụ, Mỹ  và Anh  không có số  giờ  làm việc dài   hơn Châu Âu ­ nếu không được tính đến thì điều này sẽ  làm cho các con số  về  năng  suất trong những nước này tăng lên. Khi so sánh về thống kê năng suất lao động của các  nước, cần phải xem xét vấn đề về tỉ giá hối đoái bởi vì những khác biệt trong việc tính   toán sản lượng như thế nào trong các nước khác nhau, rõ ràng và hiển nhiên là các vấn   đề này liên quan đến việc quy đổi các đơn vị tiền tệ khác nhau ra một cơ sở tiêu chuẩn. Các hệ  số tác động đến năng suất lao động hoặc hiệu quả  của các vai trò công   việc cá nhân là cùng một loại chung với những hệ số tác động đến hiệu quả  của các   công ty sản xuất như một tổng thể. Chúng bao gồm: (1) điều kiện vật chất, địa điểm, vật lý ­hữu cơ của thiết bị  và các yếu tố  công  nghệ;  (2) các yếu tố giá trị niềm tin văn hoá, thái độ cá nhân, động cơ và hành vi;  (3) những  ảnh hưởng quốc tế  tức là các mức độ  cải tiến và hiệu suất về  phía   các chủ lao động và người quản lý của các công ty nước ngoài đầu tư vào trong nước;  (4) môi trường quản lý ­ tổ  chức và môi trường kinh tế  rộng lớn hơn và môi  trường chính trị­ pháp luật;  (5) các mức độ  linh hoạt của thị  trường lao động nội địa và các tổ  chức hoạt   động lao động  – ví dụ sự có mặt của các rào cản và đường phân ranh giới nghề truyền   thống đối với việc tham gia nghề;   12
  13. (6) các hệ thống tiền công và tiền thưởng cá nhân, và hiệu quả của các nhân viên   quản lý nhân sự  và những người khác trong tuyển dụng, đào tạo, thông báo, và người   lao động thúc đầy  hiệu quả trên cơ sở tiền công và những khích lệ khác. Chất lượng lao động  Có nhiều cách khác nhau để  định nghĩa chất lượng lao động. Đã từ  lâu, theo lý   thuyết về Vốn Con Người, kiến thức giáo dục và những kỹ năng kỹ thuật đã là hai đại   diện về  chất lượng của sức lao động. Tuy nhiên, khái niệm chất lượng lao động đã  được liên tục phát triển để phản ánh những thay đổi trong nền kinh tế và xã hội. Năm  1966, trong cuốn sách “chất lượng lao động và phát triển kinh tế tại một số nước: Một  công trình nghiên cứu  sơ bộ”, Galenson và Pyatt đã đề xuất rằng chất lượng lao động   được xác định bởi trình độ  giáo dục, sức khoẻ, chỗ  ở  và an sinh xã hội. Trình độ  giáo   dục được xác định thông qua việc tuyển sinh vào trường học, bao gồm tỉ lệ phần trăm   của nhóm có độ tuổi tương ứng trong trường tiểu học, cơ sở, dạy nghề và đại học; sức   khoẻ được xác định về  các phương diện như: tỷ  lệ tử vong  ở trẻ em, số dân trên một   bác sỹ và trên một giường bệnh, tỉ lệ nạp calorice trên đầu người; nhà ở được xác định  theo chỗ ở trên đầu người và tỉ lệ đầu tư  vào nhà ở trên tổng sản phẩm quốc dân và an   sinh xã hội được xác định bằng tỉ số trợ cấp trên thu nhập quốc dân và chi phí an sinh xã  hội trung bình trên đầu người. Để hỗ trợ cho những yếu tố trên, theo VIT­CORP (2008), Có một số tiêu chí mà   Ngân Hàng Thế  Giới khuyến cáo trong nhiều vấn đề  khác nhau của các Chỉ  Số  Phát   Triển Thế  Giới để  đánh giá chất lượng lao động, như  hệ  thống giáo dục và công tác   đào tạo nguồn nhân lực; tính  sẵn có của nguồn lao động cũng như các nhà quản lý hành  chính có chất lượng và trình độ giáo dục cao; và sự  thành thục tiếng Anh, kỹ thuật, và   công nghệ tiên tiến trong khi Ward (1997) lập luận rằng trong các mô hình tổ chức sản   xuất mới, chất lượng lao động vượt xa kiến thức giáo dục và các kỹ  năng kỹ  thuật.   Trong môi trường kinh doanh hiện nay, một số phương diện xã hội của lao động đã trở  nên phổ  biến hơn trong việc đánh giá sức lao động trong công ty. San và các cộng sự  (2006) đã hợp nhất 7 yếu tố chính, là (i) giáo dục, (ii) đào tạo, (iii) năng suất lao động,   13
  14. (iv) những thay đổi trong cơ  cấu sức lao động, (v) an toàn và sức khoẻ, (vi) đạo đức  công việc và các mối quan hệ công nghiệp, (vii) các mô hình quản lý lao động và chất  lượng nghề nghiệp của người lao động để tạo ra chất lượng chỉ số lao động trong các  công nhân ngành sản xuất của Đài Loan. 3. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với thanh niên DTTS 3.1. Những chính sách cải thiện chất lượng nguồn nhân lực nói chung Trong những năm qua Đảng và Nhà nước có nhiều chính sách nhằm nâng cao   chất lượng nguồn nhân lực như là:  Chính sách cử tuyển con em là đồng bào dân tộc vào  học tại các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp trong cả nước; Chính   sách hỗ trợ con em đồng bào dân tộc thiểu số vào học các trường nội trú từ THCS đến   THPT và trường dự  bị  đại học dân tộc Trung  ương  ở  3 khu vực miền Bắc ­ Trung ­   Nam. Từ năm 2009 có đề án 65/CP về đào tạo cán bộ công chức nguồn lãnh đạo quản   lý cho giai đoạn 2011 ­ 2015 và định hướng đến 2020; Chính sách đào tạo nâng cao năng   lực cán bộ  quản lý các cấp vùng DTTS thuộc  chương trình thực hiện Quyết  định:   135/1998/QĐ ­ TTg;  Đề án 1956/CP về đào tạo nghề cho lao động nông thôn; đào tạo  nghề cho lao động thuộc hộ nghèo theo Nghị Quyết 30/CP.  Nghị  quyết Hội nghị  lần thứ  7 BCH TƯ  Đảng khóa X về" tăng cường sự  lãnh   đạo của Đảng đối với công tác Thanh Niên thời kỳ đẩy mạnh CNH ­ HĐH và chương  trình hành động thực  hiện NQ  của BCH  Đảng bộ  tỉnh Thanh Hóa; Quyết  định số:  103/2008/QĐ ­ TTg ngày 21/7/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án   hỗ trợ TN học nghề tạo việc làm giai đoạn 2008 ­ 2015; Quyết định số; 1956/2009/QĐ  ­ TTg ngày 27/11/2009 của Thủ  tướng Chính phủ  về  việc đào tạo nghề  cho lao động  nông thôn; Quyết định số: 1216/2011/QĐ ­ TTg Ngày 22/7/2011 của thủ  tướng Chính phủ  phê duyệt qui hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giao đoạn 2011 ­ 2020 và qui hoạch  phát triển nguồn nhân lực tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2011 ­ 2020.   14
  15. Phó Thủ  tướng Chính phủ  Nguyễn Sinh Hùng nói:  Ưu tiên đầu tư, đẩy mạnh   công tác giáo dục­ đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Cần thực hiện tốt   công tác đào tạo nghề  cho lao động nông thôn để  chuyển đổi lao động sang lĩnh vực   công nghiệp, dịch vụ  và đào tạo, nâng cao trình độ  cho nông dân thông qua khuyến   nông, khuyến lâm, khuyến ngư, chuyển giao kỹ thuật,  ứng dụng công nghệ trong nông   nghiệp. Đặc biệt quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng trường lớp học,   đồng thời, tăng chất lượng đội ngũ giáo viên và các trường đạt chuẩn quốc gia. Tiếp   tục chăm lo, đào tạo và đổi mới công tác cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản   lý các cấp, các ngành, xem đây là một khâu quyết định để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ  Đảng bộ đề ra trong thời gian tới.  Đại bộ  phận dân đang sống  ở  nông thôn và là nông dân. Diện tích có hạn và  nguồn lực nằm  ở  đấy nếu chỉ  tập trung vào nông nghiệp thôi thì thu nhập không thể  cao được. Cho nên chúng ta phải chuyển một bộ phận lớn lao động. Từ nông thôn sang   làm các ngành công nghiệp, chuyển một bộ  phận lớn hơn từ  nông thôn sang làm các  ngành dịch vụ. Đấy là ngành phát triển với một cơ cấu kỹ thuật có chất lượng, có năng   suất và có thu nhập cao hơn. Muốn chuyển được như vậy thì dứt khoát phải đào tạo. 3  người lao động ở nông thôn phải đào tạo cả 3: 1 người làm nông nghiệp, 1 người làm   dịch vụ  và 1 người làm công nghiệp. Có như  vậy thì mới chuyển đổi cơ  cấu kinh tế  thành công được. Và mới tạo ra được một lực lượng lao động mới trong 2 năm tới, 5   năm tới, 10 năm tới có chất lượng cao hơn, năng suất cao hơn, thu nhập cao hơn1. 3.2.  Các  chủ  trương,  chính sách nâng  cao chất lượng  nguồn  lao  động là   thanh niên DTTS Khái niệm dân tộc thiểu số được hiểu là: dùng để chỉ những dân tộc có số dân ít,  chiếm tỷ trọng thấp trong tương quan so sánh về  lượng dân số  trong một quốc gia đa   dân tộc. Khái niệm “dân tộc thiểu số” cũng không có ý nghĩa biểu thị  tương quan so   sánh về dân số giữa các quốc gia dân tộc trên phạm vi khu vực và thế giới.  Báo Vĩnh Long online ngày 05/2/2012 trích bài phát biểu của Phó thủ Tướng Nguyễn Sinh  1 Hùng 15
  16. Căn cứ vào tình hình thực tiễn về công tác dạy nghề và giải quyết việc làm cho   TN là đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ sở dạy nghề còn nhiều hạn chế và bất cập, cơ  chế chính sách thiếu đồng bộ, nên chưa nhận được sự  quan tâm của nhiều thành phần   xã hội tham gia mà chủ  yếu là Nhà nước đầu tư; chi Ngân sách cho dạy nghề  dài hạn  mới đạt 50% nhu cầu, hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn, bộ  đội xuất  ngũ, Thanh niên DTTS mới đáp  ứng khoảng 25% số  lượng hàng năm, chủ  yếu là các  nghề đơn giản, phổ thông; Nhà nước Việt Nam xác định giải quyết việc làm cho thanh  niên và TN DTTS là vấn đề bức xúc của toàn xã hội trong giai đoạn hiện nay. Vì   vậy,   năm   2009,   Chính   Phủ   ra  Quyết   định   số   1956/2009/QĐ­TTg   ngày  27/11/2009  về  việc phê duyệt đề  án “Đào tạo nghề  cho lao động nông thôn đến năm   2020”; trong đó dân tộc thiểu số được coi là đối tượng số 1, được ưu tiên học nghề  và  có hỗ  trợ  kinh phí học nghề  cũng như  giới thiệu việc làm sau khi tốt nghiệp; Trong   Quyết định 135 giai đoạn II (2006 ­ 2010) của Chính Phủ dành riêng một hợp phần cho   đào tạo nghề ngắn hạn hàng năm dành đối tượng Thanh niên là người dân tộc thiểu số.   Quyết định số: 103/2008/QĐ ­ TTg ngày 21/7/2008 của Thủ  tướng Chính phủ  về  việc  phê duyệt đề án hỗ trợ TN học nghề tạo việc làm giai đoạn 2008 ­ 2015. Nghị  Quyết số: 24/NQ/TW ngày 12/3/2003 nhấn mạnh "...ở nhiều vùng dân tộc   miền núi tỷ  lệ đói nghèo còn cao so với bình quân chung cả nước , khoảng cách chênh  lệc về mức sống giữa các vùng, giữa các dân tộc ngày càng tăng, chất lượng, hiệu quả  giáo dục và đào tạo còn thấp, việc đào tạo nghề chưa được quan tâm, công tác chăm sóc   sức khỏe cho đồng bào ở vùng sâu, vùng xã còn nhiều khó khăn....";  4. Tổng quan tình hình lao động là thanh niên DTTS tỉnh Thanh Hóa  4.1.Tình hình dân số, lao động và việc làm tỉnh Thanh Hóa Thanh Hóa   có   11 huyện  miền  núi có   7 dân tộc  cùng sinh  sống gồm:   Người   Mường, Thái, Thổ, Dao, mông, Khơ mú và Kinh Dân tộc Mường  ở  Thanh Hóa sống chủ  yếu tập trung  ở  các huyện Cẩm Thủy,   Thạch Thành và Ngọc Lặc, người Mường thuộc nhóm ngôn ngữ Việt ­ Mường nên họ  16
  17. sống gần vùng đồng bằng đồi núi thấp, họ sản xuất bằng trồng lúa nước, ngành nghề  chính là thủ công có nghề dệt vải thổ cẩm, đan lát. Có thể khái quát đời sống sinh hoạt  của người Mường là "Cơm đồ, nhà gác, nước vác, lợn thui, ngày tiến, năm lui" có nghĩa   là: cơm thì đồ bằng chõ để gạo chín bằng hơi nước, nhà thì làm nhà sàn, nước thường  được đựng vào  ống cây bương, cây luồng để  dùng ăn uống, thịt lợn được nướng trên  bếp lửa cho chín bằng than củi, cách tính ngày tháng được tính theo sao trên trời thường  là chòm sao tua rua đi qua mặt trăng... Chỉ  có dân tộc Mường mới có đẩy đủ  các đặc  điểm trên.  Dân tộc Thái sống chủ  yếu  ở các huyện Quan Hóa, Quan Sơn và huyện Mường  Lát, Người Thái cũng có nghề  trồng lúa nước và lúa nương và được đúc kết như  câu  thành ngữ  "Mương ­ Phai ­ Lái ­ Lin" tức là khơi mương, đắp đập, dẫn nước qua vật   chướng ngại, đặt máng trên các cánh đồng thung lũng. Họ  làm ruộng cấy một vụ  lúa   nếp, hiện nay chuyển sang 2 vụ lúa tẻ. Họ làm nương để trồng thêm lúa, ngô, hoa màu,   cây thực phẩm và đặc biệt là cây bông, cây thuốc nhuộm, dâu tằm để dệt vải, làm gốm;  dệt thổ cẩm là nghề và là một trong những mặt hàng truyền thống độc đáo.  Người Mông  ở  Thanh Hóa có khoảng 14.000 người, chủ  yếu sống  ở  vùng núi  cao các Huyện Mường Lát, Quan Hóa và Quan Sơn, sản xuất chính là trồng lúa nương  và ruộng bậc thang, trồng ngô, cây đay để dệt thành sản phẩm vải lanh, vải đũi, nghề  rèn cũng là nghề truyền thống của người Mông. Song họ có tập tục sống du canh, du cư  nên họ  sống tạm bợ  từ  nhà cửa cho đến đồ  dùng sinh hoạt, Nhà nước rất khó khăn  trong đầu tư xây dựng để ổn định cuộc sống của họ. Các dân tộc Dao, Thổ và Khơ mú ở Thanh Hóa chiếm tỷ lệ khoảng 
  18. hoang dã của núi rừng, chính vì vậy mà họ  thường thích sống tự  do, ít kỷ  luật, khuôn   phép và thường thì họ  bằng lòng với cuộc sống khó khăn về  vật chất cộng với hiểu   biết còn hạn chế. * Đặc điểm của Thanh niên DTTS: Thanh niên DTTS chiếm khoảng 13% tổng số  TN toàn tỉnh. Trình độ văn  hóa, đạo đức, nếp sống của TN ngày càng chuyển biến tích  cực và có nhiều tiến bộ. TN DTTS ngày càng có nhiều cố gắng trong học tập nâng cao  trình độ học vấn, kiến thức khoa học kỹ thuật, số cán bộ có bằng đại học, thạc sỹ ngày  càng tăng . Tuy nhiên, trình độ  chuyên môn kỹ  thuật của TN DTTS còn thấp hơn mặt  bằng chung của tỉnh. Về lao động, việc làm và nghề  nghiệp, phần lớn là TN các DTTS chịu khó, cần  cù, song tiếp xúc với kinh tế  thị  trường còn chậm, đa số  họ  có việc làm nhưng chất  lượng, năng suất lao động không cao. Cùng với dân tộc của họ, họ sinh sống chủ yếu ở  vùng biên giới rừng núi, vùng sâu, vùng xa; giao thông đi lại khó khăn;  ở  rải rác. Đời  sống tinh thần, vật chất của TN DTTS còn nhiều thiếu thốn, khó khăn; họ mong muốn   đời sống ổn định, không còn đói nghèo. TN DTTS bị ràng buộc bởi nhiều phong tục lạc   hậu nhất là tang ma, cưới hỏi, tín ngưỡng truyền thống, bản địa. Họ  có nhu cầu giao  lưu văn hóa, hoạt động tập thể, tiếp cận với phương tiện hiện đại, giữ gìn bản sắc văn   hóa truyền thống của dân tộc họ.  Tuy nhiên, họ nặng tâm lý tự ty, một số ỷ lại chính sách Nhà nước, không muốn  tự học hỏi vươn lên hoặc tự thỏa mãn với cuốc sống hiện tại3. Dân số trung bình năm 2011 ước 3.411,2 nghìn người, tăng 4,4 nghìn người so với   năm 2010, tốc độ  tăng dân số  0,13%; tỷ  lệ  sinh 14,4%o, tỷ lệ chết 7,4%o, tỷ  lệ tăng tự  nhiên 7,0%o và mức giảm sinh 0,1%o. 9 tháng năm 2011 đã sắp xếp 44,6 nghìn lao động có   việc làm mới, đạt 78,2% kế hoạch (trong đó xuất khẩu lao động 6. 820 người) và cả năm   giải quyết được 57 nghìn lao động có việc làm mới, đạt 100% kế  hoạch. Tổng kinh phí   năm 2011 là 44.820 triệu đồng. Tỷ lệ lao động qua đào tạo toàn tỉnh 9 tháng năm 2011 đạt  43,0%, tăng 6,0% so với năm 2010. Trong  đó Thanh niên độ  tuổi từ  16 ­ 30 khoảng   Sđd trang 120 – 121. 3 18
  19. 1.027.000 người chiếm 30% dân số; chiếm 46% số người trong độ tuổi lao động của tỉnh.   Khu vực miền núi, nơi tập trung chủ yếu của đồng bào DTTS có dân số 1,1 triệu người,   lao động trong độ tuổi chiếm khoảng 65%4. Tuy nhiên, tỷ lệ lao động qua đào tạo tìm được việc làm đúng nghề chỉ đạt 80, 2%   trên tổng số lao động được đào tạo;  Trong đó: Ngành nông nghiệp đạt 90%, Công nghiệp  đạt 80% và dịch vụ đạt 75%.  Đối với những người có việc làm mới sau khi hoàn thành khóa học tìm được việc  làm trực tiếp tại doanh nghiệp đã cam kết tạo việc làm đạt 2.756/44.600 người;  sản   xuất tại gia đình, doanh nghiệp 4.932/44.600 người, chủ  yếu là cung cấp nguyên vật  liệu và thu mua, bao tiêu sản phẩm đối với các nghề  mây giang xiên, thêu ren ­ đính   cườm, dệt chiếu. Sau học nghề, người lao động được làm nghề  và thu nhập bình quân từ  40 ­ 90   ngàn đồng/ngày, góp phần cải thiện đời sống. So với trước khi học nghề, người lao   động ngoài việc trồng trọt, chăn nuôi tạo ra nguồn thu nhập chính, thì có thể  sử  dụng   thời gian nông nhàn làm nghề phụ để tăng thêm thu nhập cho gia đình. Đối với những người tiếp tục sản xuất, kinh doanh như trước khi học nghề Người lao động sau học nghề đã áp dụng những kiến thức khoa học kỹ thuật vào   sản xuất, nâng cao năng suất lao động đối với nghề  kỹ  thuật trồng lúa cao sản. Với   việc áp dụng kỹ thuật cấy lúa đã tiết kiệm công lao động, giống và hạn chế được sâu   bệnh hại. Nâng cao hiệu quả trong sản xuất lúa. So với phương pháp trồng lúa truyền  thống, phương pháp mới giảm chi phí giống từ  150.000 đồng/sào xuống còn 120.000   đồng/sào;   giảm   công   cấy   từ   200.000   đồng/sào   xuống   còn   150.000   đồng/sào;   giảm  lượng thuốc bảo vệ thực vật từ 350.000 đồng/sào xuống còn 150.000 đồng/sào; lượng   phân bón không đổi; năng suất tăng từ 54 tạ/ha lên 59 tạ/ha (đối với vụ mùa). 4  Báo cáo kết quả thực hiện Quyết định số: 1956/QĐ ­ TTg năm 2011 của Sở Lao động TBXH   tỉnh Thanh Hóa.  19
  20. Về Khả năng nhân rộng của các mô hình dạy nghề ở địa phương Đối với nghề  Kỹ  thuật trồng lúa cao sản trước mắt có thể  nhân rộng  ở  tất cả  các xã thuộc huyện Thọ Xuân là huyện trọng điểm lúa của tỉnh Thanh Hóa. Đối với nghề dệt chiếu cói có thể  nhân rộng để  duy trì và phát triển làng nghề  truyền thống ở huyện Nga Sơn. Nghề mây giang xiên có thể nhân rộng ở huyện Thiệu   Hóa, Yên Định, Quảng Xương, Hoằng Hóa, Hậu Lộc... Nghề  thêu ren­đính cườm có   thể   nhân   rộng   ở   các   huyện   Thọ   Xuân,   Quảng   Xương,   Nông   Cống,   Quan   Hóa,   Bá   Thước, Thường Xuân... 4.2. Thực trạng học nghề của Thanh niên dân tộc thiểu số: Xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, những năm gần đây tỷ  lệ   TN   DTTS   tham   gia   vào   các   lớp   học   nghề   tăng   lên   đáng   kể   khoảng   trên   2000  người/năm, tập trung chủ  yếu các ngành nghề  ngắn hạn 3 ­ 6 tháng, các nghề  khác có   thời gian đào tạo 18 tháng trở  lên có rất ít. Tuy nhiên, tình trạng học nghề xong nhưng   không tự  kiếm được việc làm chiếm đến 20%, số  còn lại 80% chủ  yếu tập trung vào  ngành nông nghiệp vốn cho sản phẩm với thu nhập thấp, chưa đủ  để  góp phần giảm   nghèo cho hộ gia đình TN DTTS. Mặt khác, những TN DTTS học nghề trồng trọt, chăn   nuôi sau mùa vụ  thường ly hương để  kiếm việc làm phổ  thông  ở  các tỉnh khác, tỷ  lệ  này chiếm đến 40% trên tổng số TN DTTS toàn vùng 11 huyện miền núi. 4.3. Một số  chính sách của tỉnh Thanh Hóa về  nâng cao chất lượng nguồn   lao động là thanh niên dân tộc thiểu số. Nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề  và giới thiệu việc làm cho thanh niên,  UBND tỉnh Thanh Hóa có công văn gửi Trung  ương Đoàn về  việc xin thành lập trung  tâm hướng nghiệp, dạy nghề  và giới thiệu việc làm cho thanh niên tỉnh Thanh Hóa và  được chấp nhận tại quyết định số: 385/QĐ ­ TƯ/ĐTN ngày 31/10/2008 của Ban bí thư  TW Đoàn. Chính sách cử  tuyển con em là đồng bào dân tộc vào học tại trường Đại học   Hồng Đức, trường Cao đẳng Y tế; Chính sách hỗ trợ con em đồng bào dân tộc thiểu số  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2