ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
NGÔ THỊ THÚY
VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC H’MÔNG TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ THEO ĐỊNH HƯỚNG ỨNG DỤNG
Chuyên ngành: QUẢN LÝ KINH TẾ
THÁI NGUYÊN - 2017
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
NGÔ THỊ THÚY
VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC H’MÔNG TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN
Chuyên ngành: QUẢN LÝ KINH TẾ Mã số: 60.34.04.10 LUẬN VĂN THẠC SĨ THEO ĐỊNH HƯỚNG ỨNG DỤNG
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Trung Thành
THÁI NGUYÊN - 2017
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
chưa công bố tại bất cứ nơi nào. Mọi số liệu sử dụng trong luận văn này là
những thông tin xác thực.
Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2017
Tác giả luận văn
Ngô Thị Thúy
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
Đảng ủy, Ban giám hiệu Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh,
Phòng Đào tạo đã tạo điều kiện tốt cho tôi trong suốt thời gian học tập tại đây.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Huyện ủy, UBND huyện, Chi cục Thống kê,
Phòng Lao động Thương binh & Xã hội, Phòng Nông nghiệp huyện Đồng Hỷ...,
đặc biệt là lãnh đạo các xã Văn Lăng, Tân Long và Quang Sơn của huyện
Đồng Hỷ trong thời gian qua đã quan tâm, tạo điều kiện, cung cấp số liệu giúp
tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới: PGS.TS. Lê Trung Thành, người
thầy hướng dẫn đã giúp tôi giúp cho đề tài của tôi có ý nghĩa thực tiễn và khả thi.
Cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp những người đã luôn ở bên tôi
động viên, chia sẻ và giúp đỡ tôi.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2017
Tác giả luận văn
Ngô Thị Thúy
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... ii
MỤC LỤC ........................................................................................................ iii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT ............................................ vii
DANH MỤC CÁC BẢNG ............................................................................ viii
DANH MỤC SƠ ĐỒ, ĐỒ THỊ, BIỂU ĐỒ ...................................................... x
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của luận văn ........................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 3
4. Những đóng góp của luận văn ...................................................................... 4
5. Bố cục của luận văn ...................................................................................... 4
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ CỦA
PHỤ NỮ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH .................... 5
1.1. Hộ gia đình và kinh tế hộ gia đình ............................................................. 5
1.1.1. Phát triển và phát triển kinh tế ................................................................ 5
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm hộ gia đình, hộ nông dân và kinh tế hộ gia
đình, hộ nông dân .............................................................................................. 5
1.2.1. Khái niệm giới tính và giới ..................................................................... 8
1.2.2. Đặc điểm, nguồn gốc và sự khác biệt về giới và giới tính ...................... 9
1.2.3. Nhu cầu, lợi ích giới và bình đẳng giới................................................. 11
1.2.4. Vai trò của giới ...................................................................................... 11
1.3. Dân tộc và dân tộc thiểu số ...................................................................... 12
1.3.1. Khái niệm, đặc trưng về dân tộc ........................................................... 12
1.3.2. Thành phần ............................................................................................ 13
1.3.3. Về địa bàn cư trú ................................................................................... 13
iv
1.4. Kinh tế hộ gia đình - Vai trò của người phụ nữ dân tộc thiểu số
trong quản lý và phát triển kinh tế hộ gia đình vùng dân tộc miền núi
tại Việt Nam ................................................................................................... 14
1.4.1. Vài nét khái quát về phát triển kinh tế hộ gia đình ở nước ta ............... 14
1.4.2. Vị trí của lao động nữ trong gia đình và xã hội .................................... 16
1.4.3. Vai trò người phụ nữ dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế
hộ gia đình ...................................................................................................... 18
1.5. Nội dung vai trò của phụ nữ dân tộc trong phát triển kinh tế hộ gia đình ...... 21
1.5.1. Vai trò của phụ nữ trong quản lý và điều hành sản xuất ...................... 21
1.5.2. Vai trò của phụ nữ trong sản xuất tạo ra thu nhập cho gia đình ........... 22
1.5.3. Vai trò của phụ nữ trong tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực phát
triển ................................................................................................................. 23
1.5.4. Vai trò của phụ nữ trong việc ra quyết định ............................................ 24
1.5.5. Vai trò trong tham gia công tác xã hội .................................................... 24
1.5.6. Vai trò của phụ nữ trong gia đình............................................................ 24
1.6. Các hoạt động nhằm nâng cao vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số
trong phát triển kinh tế hộ gia đình tại Việt Nam ........................................... 27
1.6.1. Xây dựng các phong trào phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế, xóa
đói giảm nghèo ................................................................................................ 28
1.6.2. Tăng cường các biện pháp giúp đỡ phụ nữ đói nghèo .......................... 28
1.6.3. Tập trung huấn luyện cán bộ Hội về kiến thức và kỹ năng cần thiết
để hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế .................................................................. 29
1.6.4. Khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn ................................. 29
1.6.5. Đẩy mạnh các hoạt động chuyển giao khoa học kỹ thuật cho phụ nữ ...... 30
1.7. Các yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong
phát triển kinh tế hộ gia đình tại Việt Nam ..................................................... 30
v
1.8. Bài học kinh nghiệm rút ra trong việc nâng cao vai trò của phụ nữ
dân tộc H’mông trong phát triển kinh tế hộ gia đình tại tỉnh Thái Nguyên ... 33
1.8.1. Một số điển hình về vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong phát
triển kinh tế hộ gia đình ở Việt Nam............................................................... 33
1.8.2. Bài học kinh nghiệm rút ra trong việc nâng cao vai trò của phụ nữ
dân tộc H’mông trong phát triển kinh tế hộ gia đình tại tỉnh Thái Nguyên ... 38
Chương 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................. 40
2.1. Các câu hỏi đặt ra mà đề tài cần giải quyết .............................................. 40
2.2. Phương pháp tiếp cận nghiên cứu ............................................................ 40
2.3. Phương pháp nghiên cứu: ........................................................................ 40
2.3.1. Chọn điểm nghiên cứu .......................................................................... 40
2.3.2. Phương pháp thu thập số liệu ................................................................ 42
2.3.3. Phương pháp tổng hợp .......................................................................... 46
2.3.4. Phương pháp phân tích .......................................................................... 46
2.4. Hệ thống hóa các chỉ tiêu nghiên cứu ...................................................... 47
2.4.1. Nhóm các chỉ tiêu chung ....................................................................... 47
2.4.2. Nhóm các chỉ tiêu về kinh tế ................................................................. 47
2.4.3. Nhóm các chỉ tiêu về xã hội .................................................................. 48
2.4.4. Nhóm chỉ tiêu về vai trò ra quyết định của người phụ nữ trong
gia đình ............................................................................................................ 48
Chương 3. THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC
H’MÔNG TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH TRÊN
ĐỊA BÀN HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN .......................... 49
3.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu ................................................................... 49
3.1.1. Điều kiện tự nhiên ................................................................................. 49
3.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội ...................................................................... 54
3.1.2.3. Cơ cấu hộ, cơ cấu nguồn thu nhập chính của các hộ ở khu vực
nông thôn có sự chuyển biến tích cực ............................................................. 57
vi
3.1.3. Nhận xét chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội .......................... 60
3.1.4. Phát triển kinh tế của huyện .................................................................. 61
3.1.5. Khái quát về thực trạng vai trò của phụ nữ huyện Đồng Hỷ ................ 62
3.1.6. Khái quát về thực trạng đồng bào dân tộc H’mông tại huyện
Đồng Hỷ .......................................................................................................... 65
3.2. Thực trạng vai trò của người phụ nữ dân tộc H’mông trong phát
triển kinh tế hộ gia đình ở các hộ nghiên cứu ................................................. 68
3.2.1. Các hoạt động nhằm nâng cao vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông
trong phát triển kinh tế hộ gia đình ................................................................. 68
3.2.2. Thực trạng vai trò của phụ nữ người H’mông trong phát triển kinh
tế hộ của đối tượng nghiên cứu ....................................................................... 71
3.3. Đánh giá chung vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong phát triển
kinh tế hộ gia đình theo giai đoạn phát triển tại địa bàn nghiên cứu ............ 104
Chương 4. GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ DÂN
TỘC H’MÔNG TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN ................ 106
4.1. Quan điểm, định hướng, mục tiêu nâng cao vai trò của phụ nữ dân
tộc H’mông trong phát triển kinh tế hộ gia đình trên địa bàn huyện Đồng
Hỷ, tỉnh Thái Nguyên .................................................................................... 106
4.2. Giải pháp nâng cao vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong phát
triển kinh tế hộ gia đình trên địa bàn huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên ... 109
4.2.1. Nhóm giải pháp chung cơ chế chính sách nhằm tạo điều kiện thúc
đẩy kinh tế gia đình phát triển ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số ................ 109
4.2.2. Nhóm giải pháp về chính sách xã hội nhằm hỗ trợ phụ nữ dân tộc
H’mông nâng cao năng lực quản lý kinh tế hộ gia đình. .............................. 111
KẾT LUẬN .................................................................................................. 117
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 118
vii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT
CBCC Cán bộ công chức
GCNQSDĐ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Hội đồng nhân dân HĐND
Hoạt động sản xuất kinh doanh HĐSXKD
HGĐ Hộ gia đình
HLHPN Hội Liên hiệp phụ nữ
LLLĐ Lực lượng lao động
NCKH Nghiên cứu khoa học
NHCS Ngân hàng chính sách
PTKT Phát triển kinh tế
QH Quốc hội
UBND Ủy ban nhân dân
viii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Công viê ̣c phu ̣ nữ DTTS đảm nhâ ̣n trong gia đình .................... 25 Bảng 2.1: Kết quả lựa chọn nhóm hộ điều tra ............................................ 44
Bảng 3.1: Tình hình sử dụng đất huyện Đồng Hỷ giai đoạn 2014-2016 .... 52
Bảng 3.2: Tình hình dân số và lao động huyện Đồng Hỷ giai đoạn
2014-2016 ................................................................................... 55
Bảng 3.3: Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu của huyện Đồng Hỷ
giai đoạn 2014-2016 ................................................................... 56
Bảng 3.4: Số hộ nông thôn huyện Đồng Hỷ chia theo loại hộ và chia
theo xã......................................................................................... 59
Bảng 3.5. Diện tích, năng suất, sản lượng một số cây trồng chính của
huyện từ năm 2014-2016 ............................................................ 61
Bảng 3.6: Số lượng gia súc, gia cầm của Huyện từ năm 2014 đến 2016 ... 62
Bảng 3.7. Thống kê số lao động nữ trong các nhóm tuổi giai đoạn
2014-2016 ................................................................................... 62
Bảng 3.8: Số lượng phụ nữ tham gia các cấp ủy đảng, chính quyền
năm 2016 .................................................................................... 64
Bảng 3.9. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu ................................. 72
Bảng 3.10: Đất đai sản xuất và tài sản của hộ .............................................. 76
Bảng 3.11: So sánh sự khác biệt về diện tích đất sản xuất giữa các vùng
nghiên cứu .................................................................................. 77
Bảng 3.12. Vai trò của giới trong việc phân công lao động và điều hành
hoạt động sản xuất của hộ .......................................................... 79
Bảng 3.13: Vai trò của phụ nữ trong hoạt động trồng ngô ........................... 79
Bảng 3.14: Vai trò của phụ nữ trong hoạt động trồng ngô ........................... 80
Bảng 3.15: Sự khác biệt về số ngày công thực hiện các công việc trồng
ngô ở các xã nghiên cứu ............................................................. 82
ix
Bảng 3.16: Vai trò của phụ nữ trong hoạt động trồng lúa ............................ 84
Bảng 3.17: Đóng góp của phụ nữ trong hoạt động trồng lúa ........................ 85
Bảng 3.18: Sự khác biệt về số ngày công thực hiện các công việc trồng
lúa ở các xã nghiên cứu .............................................................. 87
Bảng 3.19: Phân công lao động trong hoạt động lâm nghiệp ....................... 89
Bảng 3.20: Vai trò của phụ nữ trong quản lý vốn ......................................... 91
Bảng 3.21: Tham gia các lớp tập huấn .......................................................... 93
Bảng 3.22: Vai trò của phụ nữ H’mông trong việc ra quyết định của hộ ..... 94
Bảng 3.23: Phân công các hoạt động gia đình .............................................. 96
Bảng 3.24: Phân công lao động trong hoạt động cộng đồng ........................ 98
Bảng 3.25: Phân bổ thời gian trong ngày của phụ nữ ................................... 99
Bảng 3.26: Sự khác biệt về sử dụng quỹ thời gian của phụ nữ H’mông
tại các vùng nghiên cứu ............................................................ 101
x
DANH MỤC SƠ ĐỒ, ĐỒ THỊ, BIỂU ĐỒ
Hình 3.1: Trình độ văn hoá của lao động nữ tại huyện Đồng Hỷ năm 2016 .... 64
Hình 3.2: Nhà ở của đối tượng nghiên cứu .................................................... 75
Hình 3.3: Về vai trò lao động của phụ nữ dân tộc H’mông trong gia đình ... 78
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Trong quá trình phát triển của Việt Nam, vấn đề giải phóng phụ nữ, bảo đảm bình đẳng, bình quyền giữa phụ nữ và nam giới, luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm.
Đại hội đại biểu phụ nữ Toàn quốc lần thứ XI, nhiệm kỳ 2012-2017 đã đề ra 5 nhiệm vụ, trong đó nhiệm vụ “Vận động, hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững, bảo vệ môi trường” có liên quan mật thiết tới việc nâng cao vai trò phụ nữ trong kinh tế hộ gia đình. Tại đại hội đại biểu phụ nữ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2016-2021 đã đề ra khâu đột phá của nhiệm kỳ “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, tăng giàu, giảm nghèo gắn với Chương trình xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” [Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Thái Nguyên (2017)].
Hiện nay, phụ nữ Việt Nam góp một phần rất lớn vào quá trình phát triển của đất nước, thể hiện ở số nữ chiếm tỉ lệ cao trong lực lượng lao động. Lực lượng lao động nữ chiếm 52,8% trong lĩnh vực nông nghiệp và lâm nghiệp, có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển nông nghiệp, nông thôn trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước.
Tuy nhiên, người phụ nữ nhất là phụ nữ nông thôn, phụ nữ người dân tộc còn chịu nhiều thiệt thòi, chưa được quan tâm đúng mức về sức khỏe, việc làm, địa vị xã hội, cả về tâm tư tình cảm; thiếu thông tin, thiếu điều kiện học tập để nâng cao trình độ…Trong gia đình, vai trò của họ mờ nhạt so với người chồng trong việc ra các quyết định.
Dân tộc H’mông là một dân tộc ít người, chiếm 0,8% dân số toàn tỉnh và đứng thứ 7 trong các dân tộc của tỉnh Thái Nguyên, nguồn thu nhập chính của họ là từ sản xuất nông lâm nghiệp. Cũng như các dân tộc ít người khác phụ nữ dân tộc H’mông có cuộc sống rất vất vả, không có quyền quyết định các công việc trong gia đình, mặc dù họ là lao động chính.
Đồng Hỷ là một huyện có 18 xã, thị trấn, có 21 dân tộc anh em sinh sống, trong đó dân tộc H’mông có khoảng trên 2400 người, cư trú tập trung ở 3 xã phía bắc của huyện là Quang Sơn, Tân Long và Văn Lăng [Công an tỉnh Thái Nguyên (2016)].
2
Đồng bào dân tộc H’mông cư trú chủ yếu tập trung ở các sườn núi cao,
có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, địa hình hiểm trở, giao thông
đi lại khó khăn, nhiều xóm chưa có điện lưới; nhiều công trình hạ tầng thiết
yếu còn thiếu và ở mức thấp kém. Tỷ lệ hộ nghèo ở vùng đồng bào dân tộc
H’mông còn ở mức rất cao, có 3 xóm có tỷ lệ hộ nghèo 100% (xóm Lân Đăm,
xã Quang Sơn; xóm Mỏ Nước, xóm Bản Tèn xã Văn Lăng, huyện Đồng Hỷ).
Kỹ thuật canh tác ở vùng đồng bào dân tộc H’mông còn lạc hậu, trình độ dân
trí thấp, tỷ lệ tăng dân số ở mức cao.
Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang ngày càng hội nhập sâu, rộng
vào nên kinh tế thế giới, quá trình này rất cần nâng cao cảnh giác cách
mạng cho lĩnh vực an ninh quốc phòng. Vấn đề đói nghèo, dân tộc, tôn
giáo, nhân quyền luôn được các thế lực phản động lợi dụng gây chia rẽ
khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nghiên cứu để phát triển sản xuất nông
nghiệp, nâng cao đời sống của đồng bào H’mông là một hướng đi nhằm
giải quyết những vấn đề chung của tỉnh, huyện, những vấn đề riêng của
cộng đồng phù hợp với thực tiễn cơ sở.
Qua nghiên cứu thực tế cuộc sống của đồng bào dân tộc H’mông tại
huyện Đồng Hỷ, nhiều câu hỏi đặt ra cho bản thân, cho các cấp: Thực trạng vai
trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong phát triển kinh tế hộ gia đình hiện nay ra
sao? Những yếu tố nào tác động đến việc nâng cao vai trò của phụ nữ dân tộc
H’mông trong phát triển kinh tế hộ? Giải pháp nào nhằm tháo gỡ những khó
khăn trong quá trình nâng cao năng lực cho phụ nữ dân tộc?
Vì vậy, nghiên cứu về vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong phát
triển kinh tế hộ gia đình tại huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên được đặt ra
như một yêu cầu cấp bách đối với tổ chức Hội phụ nữ.
Xuất phát từ tính cấp thiết nêu trên và sự nhận thức sâu sắc về những
vai trò to lớn của phụ nữ dân tộc, cũng như những cản trở sự tiến bộ của phụ
nữ dân tộc trong quá trình đổi mới và phát triển kinh tế tại huyện Đồng Hỷ.
Vì vậy, tác giả chọn vấn đề “Vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong phát
triển kinh tế hộ gia đình trên địa bàn huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên”
để nghiên cứu.
3
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Đề tài nghiên cứu được thực hiện nhằm đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong phát triển kinh tế hộ gia
đình, góp phần tăng thu nhập và nâng cao đời sống của các hộ gia đình đồng
bào dân tộc, xây dựng nông thôn mới và phát triển kinh tế xã hội bền vững,
qua đó thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp nông thôn theo xu hướng đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên địa bàn huyện Đồng Hỷ nói riêng và tỉnh
Thái Nguyên nói chung trong những năm tới.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề “giới” và vai trò
của phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ gia đình.
- Đánh giá thực trạng vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong phát triển
kinh tế hộ gia đình trên địa bàn huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.
- Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng đóng góp của phụ nữ
dân tộc H’mông trong phát triển kinh tế hộ gia đình.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của phụ nữ dân
tộc H’mông trong phát triển kinh tế hộ gia đình trên địa bàn huyện Đồng Hỷ,
tỉnh Thái Nguyên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu: Là vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trên
địa bàn huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.
b. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu vai trò của phụ nữ dân
tộc H’mông trong phát triển kinh tế hộ gia đình, các yếu tố ảnh hưởng đến vai
trò của họ trong phát triển kinh tế hộ gia đình trên địa bàn huyện Đồng Hỷ,
tỉnh Thái Nguyên.
- Về không gian: Luận văn được nghiên cứu trên địa bàn huyện Đồng
Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.
- Về thời gian: Luận văn tiến hành nghiên cứu số liệu thứ cấp từ năm
2014 đến năm 2016, số liệu sơ cấp tháng 10 năm 2016.
4
4. Những đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về vị trí, vai trò của phụ nữ
dân tộc H’mông trong phát triển kinh tế hộ gia đình. Do vậy, kết quả nghiên
cứu sẽ có những đóng góp nhất định vào việc hoàn thiện khung lý thuyết về
phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ gia đình.
- Kết quả nghiên cứu cho thấy: Người phụ nữ hoặc người phụ nữ cùng
chồng có vai trò rất lớn vào các hoạt động: quản lý và điều hành sản xuất của
hộ; hoạt động sản xuất tạo thu nhập bao gồm trồng ngô, trồng lúa, chăn nuôi
và lâm nghiệp;tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực của hô ̣; viê ̣c ra các quyết
định của hộ; trong tham gia công tác xã hội; trong đời sống sinh hoạt hàng ngày như: Nô ̣i trơ ̣, chăm sóc sức khỏe gia đình, kèm dạy con, lấy củi đun, mua sắm tài sản hay máy móc, sử a chữa lớn nhà cử a.
- Căn cứ vào kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong phát triển kinh tế hộ gia
đình gồm: Nâng cao kiến thức cho phụ nữ; Các hoạt động huy động nguồn
lực hỗ trợ phụ nữ phát triển; Tăng cường hoạt động của Hội phụ nữ các cấp;
Nâng cao nhận thức về giới; Cần xây dựng chính sách thể hiện trách nhiệm xã
hội trong việc tái sản xuất các thế hệ tương lai; Chính sách khuyến khích phụ
nữ dân tộc H’mông duy trì và giữ gìn bản sắc văn hóa các dân tộc.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục các chữ viết tắt, danh
mục các hình và bảng, danh mục tài liệu tham khảo; luận văn được bố cục
theo 4 chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của phụ nữ trong phát
triển kinh tế hộ gia đình
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu.
Chương 3: Thực trạng vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong phát
triển kinh tế hộ gia đình trên địa bàn huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.
Chương 4: Giải pháp nâng cao vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông
trong phát triển kinh tế hộ gia đình tại huyện Đồng Hỷ.
5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH
1.1. Hộ gia đình và kinh tế hộ gia đình
1.1.1. Phát triển và phát triển kinh tế
Phát triển: là quá trình thay đổi toàn diện nền kinh tế, bao gồm sự
tăng thêm về quy mô sản lượng, cải thiện về cơ cấu, hoàn thiện thể chế
nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống [Giáo trình kinh tế chính trị Mac -
Lênin dùng cho khối ngành kinh tế - quản trị kinh doanh trong các trường
cao đẳng, đại học (2006)].
Phát triển kinh tế: có thể hiểu là quá trình lớn lên về mọi mặt của nền
kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về quy
mô sản lượng và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế xã hội [Ngô Thắng Lợi (2013)].
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm hộ gia đình, hộ nông dân và kinh tế hộ gia đình,
hộ nông dân
* Hộ gia đình: hay còn gọi đơn giản hộ là một đơn vị xã hội bao gồm
một hay một nhóm người ở chung (cùng chung hộ khẩu) và ăn chung (nhân
khẩu). Đối với những hộ có từ hai người trở lên, các thành viên trong hộ có
thể có hay không có quỹ thu chi chung hoặc thu nhập chung. Hộ gia đình
không đồng nhất với khái niệm gia đình, những người trong hộ gia đình có
thể có hoặc không có quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng hoặc hôn nhân hoặc cả
hai [Đỗ Văn Viện - Đỗ Văn Tiến (2005)].
Hộ gia đình: có ba tiêu thức chính thường được nói đến khi định nghĩa
khái niệm hộ gia đình:
- Có quan hệ huyết thống và hôn nhân
- Cùng cư trú
- Có cơ sở kinh tế chung [Đỗ Văn Viện - Đỗ Văn Tiến (2005)].
Theo một số từ điển chuyên ngành kinh tế, từ điển ngôn ngữ thì hộ
được hiểu là: tất cả những người cùng sống trong một mái nhà, bao gồm
những người có cùng huyết tộc và những người làm công [Đỗ Văn Viện - Đỗ
Văn Tiến (2005)].
6
Về phương diện thống kê, các nhà nghiên cứu Liên hợp quốc cho rằng
hộ là những người cùng sống chung dưới một mái nhà, cùng ăn chung và có
chung một ngân quỹ [Đỗ Văn Viện - Đỗ Văn Tiến (2005)].
Đại đa số các hộ ở Việt Nam đều gồm những người có quan hệ hôn
nhân, quan hệ huyết thống. Vì vậy khái niệm hộ thường được hiểu đồng nghĩa
với gia đình, nhiều khi được gộp thành khái niệm chung là hộ gia đình.
* Hộ nông dân
Theo Frank Ellis cho rằng: “Hộ nông dân là các hộ gia đình làm nông
nghiệp, tự kiếm kế sinh nhai trên những mảnh đất của mình, sử dụng chủ yếu
sức lao động của gia đình để sản xuất, thường nằm trong hệ thống kinh tế lớn
hơn, nhưng chủ yếu đặc trưng bởi sự tham gia cục bộ vào các thị trường và
có xu hướng hoạt động với mức độ không hoàn hảo cao”. [Đỗ Văn Viện - Đỗ
Văn Tiến (2005)].
Theo nhà khoa học Lê Đình Thắng (năm 1993): “Nông hộ là tế bào
kinh tế xã hội, là hình thức kinh tế cơ sở trong nông nghiệp và nông thôn”.
[Lê Đình Thắng (1993)].
Nhà khoa học Traianốp đưa ra định nghĩa: “Hộ nông dân là đơn vị sản
xuất rất ổn định” và ông coi “hộ nông dân là đơn vị tuyệt vời để tăng trưởng
và phát triển nông nghiệp”. [Trần Đức Viên (2001)].
Tác giả Mats Lundahl và Tommy Bengtsson bổ sung thêm vào quan
điểm của Traianốp: “Hộ nông dân là đơn vị sản xuất cơ bản”. [Trần Đức
Viên (2001)].
Theo nhà khoa học Lê Đình Thắng (năm 1993): “Nông hộ là tế bào
kinh tế xã hội, là hình thức kinh tế cơ sở trong nông nghiệp và nông thôn”.
[Lê Đình Thắng (1993)].
Đào Thế Tuấn (1997) chỉ ra: “Hộ nông dân là những hộ chủ yếu hoạt
động nông nghiệp theo nghĩa rộng, bao gồm cả nghề rừng, nghề cá và hoạt
động phi nông nghiệp ở nông thôn”.
Đối với nhà khoa học Nguyễn Sinh Cúc (năm 2001) thì: “Hộ nông
nghiệp là những hộ có toàn bộ hoặc 50% số lao động thường xuyên tham gia
7
trực tiếp hoặc gián tiếp các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ nông
nghiệp (làm đất, thuỷ nông, giống cây trồng, bảo vệ thực vật,...) và thông
thường nguồn sống chính của hộ dựa vào nông nghiệp”.
Xuất phát từ những khái niệm trên, có thể chỉ ra một số đặc điểm chung
như sau:
- Hộ nông dân là những hộ sống ở nông thôn, miền núi, có ngành nghề
sản xuất chính là nông nghiệp. Hộ có nguồn thu nhập chủ yếu bằng nghề nông.
Ngoài ra, hộ nông dân còn tham gia các hoạt động phi nông nghiệp, chẳng hạn
tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ... ở các mức độ khác nhau.
- Hộ nông dân là một đơn vị kinh tế cơ sở, vừa là một đơn vị sản xuất
vừa là một đơn vị tiêu dùng. Hộ nông dân phải phụ thuộc vào các hệ thống
kinh tế lớn hơn của nền kinh tế quốc dân. Các hộ nông dân càng phụ thuộc
nhiều hơn vào các hệ thống kinh tế rộng lớn không chỉ trong phạm vi một
vùng, một nước khi trình độ phát triển lên mức cao của công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, thị trường, xã hội càng mở rộng và đi vào chiều sâu.
* Kinh tế hộ nông dân
Khái niệm: Theo Frank Ellis (1988) thì kinh tế hộ nông dân là: “Các
nông hộ thu hoạch các phương tiện sống từ đất, sử dụng chủ yếu lao động gia
đình trong sản xuất nông trại, nằm trong hệ thống kinh tế rộng hơn, nhưng về
cơ bản được đặc trưng bằng việc tham gia một phần trong thị trường, hoạt động
với một trình độ không hoàn chỉnh cao”. [Đỗ Văn Viện - Đỗ Văn Tiến (2005)].
* Đặc điểm: Kinh tế hộ nông dân được phân biệt với các hình thức kinh
tế khác trong nền kinh tế thị trường bởi các đặc điểm sau:
- Đất đai: Đây là đặc điểm phân biệt giữa hộ nông dân với những người
lao động khác. Như vậy, nghiên cứu hộ nông dân là nghiên cứu những người
sản xuất có tư liệu sản xuất chủ yếu là đất đai.
- Tiền vốn: Do họ tự tạo ra chủ yếu là từ sức lao động của họ. Mục đích
sản xuất chủ yếu là phục vụ yêu cầu cần tiêu dùng trực tiếp của hộ, không
phải là lợi nhuận, hộ không quan tâm đến giá trị thặng dư. Có lúc hộ nông dân phải duy trì mức tiêu dùng tối thiểu, để đầu tư sản xuất với chi phí rất cao
để đảm bảo cuộc sống của gia đình.
8
- Lao động: Lao động sản xuất chủ yếu là do các thành viên trong hộ tự
đảm nhiệm. Sức lao động của các thành viên trong hộ không được xem là lao
động dưới hình thức hàng hoá, hộ không có khái niệm tiền công, tiền lương.
Sự hiểu biết về kinh tế hộ nông dân được thông qua các đặc trưng của hộ
nông dân nói chung. Tuỳ theo điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, mỗi vùng
mà nông hộ có những đặc trưng cụ thể. Tóm lại, kinh tế hộ nông dân luôn gắn
liền với đất đai và sử dụng lao động gia đình là chủ yếu. Mục đích chủ yếu
nhất của sản xuất trong nông hộ là đáp ứng cho tiêu dùng trực tiếp của hộ, sau
đó mới là sản xuất hàng hoá. 1.2. Giới tính và giới
1.2.1. Khái niệm giới tính và giới
Giới tính: Là khái niệm dùng để sự khác biệt giữa phụ nữ và nam giới
trên cả khía cạnh sinh học và xã hội [Đỗ Văn Viện - Đỗ Văn Tiến (2005)]. Các
đặc trưng của giới tính bị quy định và hoạt động theo các cơ chế tự nhiên, di
truyền. Nữ giới vốn có chức năng sinh lý học như tạo ra trứng, mang thai, sinh
con và cho con bú bằng bầu sữa mẹ. Nam giới có chức năng tạo ra tinh trùng. Về
mặt sinh lý học, nữ giới khác với nam giới [Tổ chức Lao động quốc tế (2002)].
Giới: Là khái niệm dùng để chỉ các đặc trưng sinh học của nữ giới và
nam giới trong tự nhiên [Đỗ Văn Viện - Đỗ Văn Tiến (2005)], chỉ sự khác
biệt về xã hội và quan hệ (về quyền lực) giữa trẻ em trai và trẻ em gái, giữa
phụ nữ và nam giới, được hình thành và khác nhau ngay trong một nền văn
hoá, giữa các nền văn hoá và thay đổi theo thời gian. Sự khác biệt này được
nhận thấy một cách rõ ràng trong vai trò, trách nhiệm, nhu cầu, khó khăn,
thuận lợi của các giới tính [Tổ chức Lao động quốc tế (2002)].
Khái niệm về “Giới” được xuất hiện ban đầu là các nước nói tiếng Anh,
vào khoảng những năm 60 của thế kỷ XX... Ở Việt Nam, khái niệm này mới
xuất hiện vào khoảng thập kỷ 80.
“Giới” là một thuật ngữ xã hội học bắt nguồn từ môn nhân học, nói đến
vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quy định cho nam và nữ. “Giới”
đề cập đến việc phân công lao động, các kiểu phân chia: nguồn lực và lợi ích
giữa nam và nữ trong một bối cảnh xã hội cụ thể.
9
“Giới” là yếu tố luôn biến đổi cũng như tương quan về địa vị trong xã
hội của nữ giới và nam giới, không phải là hiện tượng bất biến mà liên tục
thay đổi. Nó phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể. “Giới”
là sản phẩm của xã hội, có tính xã hội, dùng để phân biệt sự khác nhau trong
quan hệ nam và nữ. Đây là cơ sở để nghiên cứu sự cân bằng về giới và đảm
bảo công bằng trong xã hội.
1.2.2. Đặc điểm, nguồn gốc và sự khác biệt về giới và giới tính
1.2.2.1. Những đặc điểm cơ bản về giới tính
- Bẩm sinh: Về phương diện sinh lý thì nam giới và nữ giới khác nhau
ngay từ trong bào thai. Đó là những đặc điểm xác định bởi tự nhiên, không theo
và không phụ thuộc vào mong muốn của con người. Nó ổn định về tương quan
giữa hai giới trong quá trình sinh sản. Chức năng sinh sản của nữ giới hay nam
giới là không thể thay thế, thay đổi hay chuyển dịch cho nhau.
- Tính đồng nhất: Nam giới hay nữ giới đều có cấu tạo về mặt sinh lý giống
nhau, tham gia và mang các yếu tố đóng góp vào quá trình thụ thai như nhau.
- Tính không đổi: Về phương diện sinh lý chức năng sinh sản của nữ
giới hay nam giới là không thể thay đổi hay chuyển dịch cho nhau được. Sự
khác biệt về giới tính là bất biến cả về thời gian cũng như không gian.
- Tính do dạy và học mà có: Đứa trẻ phải học để làm con trai hoặc
con gái. Bắt đầu từ khi sinh ra đứa trẻ được dạy dỗ tuỳ theo là con trai hay
con gái. Đó là sự khác biệt về quần áo, đồ chơi, màu sắc, cách nói năng, thái
độ và có thể cả về thức ăn và tình cảm của cha, mẹ, anh chị.
- Tính đa dạng: Giới thể hiện những đặc trưng của những quan hệ xã hội
giữa nữ giới và nam giới cho nên rất đa dạng. Địa vị của người nữ giới trong xã
hội Việt Nam khác xa so với địa vị của người nữ giới ở các nước Hồi giáo. Địa
vị của phụ nữ nông thôn cũng không hoàn toàn giống nữ giới thành thị.
- Tính luôn biến đổi: Quan hệ giới luôn luôn biến đổi cùng với sự biến
đổi của các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, phong tục tập quán…
- Tính có thể thay đổi được: Các quan niệm, hành vi, chuẩn mực xã
hội là hoàn toàn có thể thay đổi được. Quan niệm “bếp núc” là thiên chức của
nữ giới đang được xem xét lại khi rất nhiều đầu bếp giỏi, các thợ may tinh
10
xảo là nam giới. Trong nhiều gia đình hạt nhân khi cả vợ và chồng đều tham
gia tích cực vào quá trình sản xuất tạo thu nhập thì nam giới cũng đang tích
cực tham gia vào công việc nội trợ như: nấu ăn, chăm sóc con cái…
1.2.2.2. Nguồn gốc và những khác biệt về giới
Nam giới và nữ giới là hai nửa hoàn chỉnh của loài người, bảo đảm cho
việc tái sản xuất con người và xã hội. Sự khác biệt về giới quy định thiên
chức của họ trong gia đình và xã hội.
Bắt đầu từ khi sinh ra đứa trẻ được đối xử tuỳ theo nó là trai hay gái.
Đó là sự khác nhau về đồ chơi, quần áo, tình cảm của bố, mẹ. Đứa trẻ được
dạy dỗ và điều chỉnh hành vi của chúng theo giới tính của mình.
Phụ nữ được xem là phái yếu. Thiên chức của phụ nữ là làm vợ, làm
mẹ, nên họ gắn bó với con cái, gia đình hơn nam giới và cũng từ đấy mối
quan tâm của họ cũng có phần khác hơn nam giới.
Nam giới được coi là phái mạnh, là trụ cột gia đình. Đặc trưng về giới
này cho phép họ dồn hết tâm trí vào lao động sản xuất, vào công việc xã hội
và ít bị ràng buộc hơn bởi con cái, gia đình. Điều này làm tăng thêm khoảng
cách khác biệt giữa phụ nữ và nam giới trong xã hội. Để thay đổi quan hệ giới
và các đặc trưng của giới cần phải vượt qua những quan niệm cũ, tức là cần
phải bắt đầu từ việc thay đổi nhận thức, hành vi của mọi người trong xã hội về
giới và quan hệ giới.
Hơn nữa, nam - nữ lại có xuất phát điểm không giống nhau để tiếp cận
với cái mới, họ có những thuận lợi, khó khăn, tính chất và mức độ khác nhau
để tham gia vào các chương trình kinh tế, từ góc độ nhận thức, nắm bắt các
thông tin xã hội. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, từ điều kiện và cơ hội
đi học tập, bồi dưỡng trình độ chuyên môn, tiếp cận và làm việc, từ vị trí
trong gia đình, ngoài xã hội khác nhau, từ tác động của định kiến xã hội, các
hệ tư tưởng, phong tục tập quán đối với mỗi giới cũng khác nhau.
Sự khác biệt về giới và giới tính là nguyên nhân cơ bản gây nên bất
bình đẳng trong xã hội. Trong nhiều năm gần đây, hầu hết các nước trên thế
giới đã dần đánh giá đúng mức vai trò của phụ nữ trong gia đình và trong xã
hội, kết quả là thực hiện các mục tiêu “bình đẳng nam nữ” để giải phóng sức
11
lao động và xây dựng củng cố thêm nền văn minh nhân loại. Tuy nhiên mức
độ bình đẳng đó tùy thuộc vào từng quốc gia và giảm dần theo chiều tăng của
sự phát triển đối với mỗi nước trên thế giới.
1.2.3. Nhu cầu, lợi ích giới và bình đẳng giới
Nhu cầu giới (còn gọi là nhu cầu thực tế): là những nhu cầu xuất phát từ
công việc và hoạt động hiện tại của phụ nữ và nam giới. Nếu những nhu cầu này
được đáp ứng thì sẽ giúp cho họ làm tốt vai trò sẵn có của mình [Trần Thị Vân
Anh (2003)].
Nhu cầu giới thực tế là những nhu cầu được hình thành từ những điều
kiện cụ thể mà phụ nữ trải qua. Chúng nảy sinh từ những vị trí của họ trong
phân công lao động theo giới, cùng với lợi ích giới thực tế của họ là sự tồn tại
của con người. Khác với nhu cầu chiến lược, chúng được chính phụ nữ đưa ra
từ vị trí của họ chứ không phải qua can thiệp từ bên ngoài. Vì vậy, nhu cầu
giới thực tế thường là sự hưởng ứng đối với sự cần thiết được nhận thức ngay
do phụ nữ xác định trong hoàn cảnh cụ thể.
Lợi ích giới (còn gọi là nhu cầu chiến lược): là những nhu cầu của phụ
nữ và nam giới xuất phát từ sự chênh lệch về địa vị xã hội của họ. Những lợi
ích này khi được đáp ứng sẽ thay đổi vị thế của phụ nữ và nam giới theo
hướng bình đẳng [Trần Thị Vân Anh (2003)].
Bình đẳng giới: nam giới và nữ giới được coi trọng như nhau, cùng
được công nhận và có vị thế bình đẳng [Trần Thị Vân Anh (2003)].
Nam giới và phụ nữ được bình đẳng về:
- Các điều kiện để phát huy đầy đủ tiềm năng.
- Các cơ hội để tham gia đóng góp, hưởng lợi trong quá trình phát triển.
- Quyền tự do và chất lượng cuộc sống.
1.2.4. Vai trò của giới
- Vai trò sản xuất: Là các hoạt động tạo ra của cải vật chất và tinh thần
để tạo ra thu nhập hoặc để tự nuôi sống. Vai trò sản xuất bao gồm cả những
công việc mà nam giới và nữ giới làm để lấy công hoặc tiền, hoặc bằng hiện
vật. Nó bao gồm cả sản xuất hàng hoá có giá trị trao đổi và sản xuất vừa có ý
nghĩa tiêu dùng tại gia vừa có ý nghĩa sử dụng, nhưng cũng có ý nghĩa trao đổi
12
tiềm năng. Khi tư tưởng phụ hệ cố gắng thúc đẩy hình mẫu phổ biến về đàn
ông là người giữ vai trò chủ đạo trong sản xuất thì thực tế lại không sản sinh
ra hình mẫu đó.
- Vai trò tái sản xuất: Vai trò tái sản xuất bao gồm trách nhiệm sinh
đẻ, nuôi con và các công việc nội trợ trong gia đình để duy trì và tái sản xuất
sức lao động. Vai trò này không chỉ bao gồm sự tái sản xuất sinh học mà còn
cả chăm lo và duy trì lực lượng lao động (LLLĐ) hiện tại và tương lai. Khái
niệm “tái sản xuất sinh học” chỉ ngụ ý cứng nhắc vào việc sinh con, thì thuật
ngữ “tái sản xuất sức lao động” lại mở rộng hơn. Thuật ngữ này bao gồm việc
chăm sóc, xã hội hoá và nuôi dưỡng cá nhân trong suốt cuộc đời, để đảm bảo
sự kế tục của xã hội đến thế hệ sau [Trần Đức Viên (2001)].
- Vai trò cộng đồng:
+ Vai trò quản lý cộng đồng: Là các hoạt động ở cấp độ cộng đồng như
sự mở rộng vai trò tái sản xuất. Đó là các công việc nhằm đảm bảo và duy trì các
nguồn lực để sử dụng chung như nguồn nước, vệ sinh đường làng ngõ xóm,
tham gia lễ hội của làng bản, tham dự các đám hiếu hỉ…Đây là những công việc
tự nguyện, không được trả tiền và thường làm vào thời gian rảnh rỗi.
+ Vai trò chính trị cộng đồng: Gồm những hoạt động ở cấp cộng đồng
trong thể chế chính trị quốc gia. Những hoạt động này thường do nam giới thực
hiện, được trả công trực tiếp bằng tiền, hoặc gián tiếp làm tăng vị thế và quyền
lực của họ [Trần Đức Viên (2001)].
1.3. Dân tộc và dân tộc thiểu số
1.3.1. Khái niệm, đặc trưng về dân tộc
Dân tộc thiểu số là một khái niệm khoa học được sử dụng phổ biến
trên thế giới hiện nay. Các học giả phương Tây quan niệm rằng, đây là một
thuật ngữ chuyên ngành dân tộc học (minority ethnic) dùng để chỉ những
dân tộc có dân số ít.
Thuật ngữ dân tộc dùng để chỉ cộng đồng tộc người (ethnic, ethnie).
Theo nghĩa này, dân tộc là một cộng đồng người hình thành và phát triển
trong lịch sử, trên một lãnh thổ nhất định, có mối liên hệ tương đối bền vững
13
về kinh tế, ngôn ngữ, đặc điểm sinh hoạt văn hóa và ý thức tự giác dân tộc
thông qua tự nhận tên gọi của dân tộc mình, như dân tộc Thái, dân tộc Chăm,
dân tộc H’mông... Trong mỗi dân tộc có thể bao gồm nhiều nhóm địa phương
có tên gọi khác nhau, nhưng có đặc điểm về ngôn ngữ, văn hóa gần gũi nhau,
như dân tộc H’mông có các nhóm địa phương: Mông Đơ (Mông Trắng),
Mông Lềnh (Mông Hoa), Mông Sí (Mông Đỏ), Mông Đú (Mông Đen), Mông
Súa (Mông Mán), Mông Xanh.
Như vậy, khái niệm Dân tộc thiểu số dùng để chỉ những dân tộc có số
dân ít, chiếm tỷ trọng thấp trong tương quan so sánh về lượng dân số trong
một quốc gia đa dân tộc [Lô Quốc Toản (2010)].
Dân tộc Việt Nam là tất cả các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước
Việt Nam có quốc tịch Việt Nam, không phân biệt nguồn gốc.
1.3.2. Thành phần
Các dân tộc ở Việt Nam đã xuất hiện và hình thành trong hàng nghìn
năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Việt Nam có 54 dân tộc: dân tộc đông
nhất là dân tộc Kinh (Việt), chiếm 86,2% dân số. Các dân tộc thiểu số đông
dân nhất: Tày, Thái, Mường, Khmer, Hoa, Nùng, H’mông, Dao, Giarai, Êđê,
Chăm, Sán Dìu. Đa số các dân tộc này sống ở miền núi và vùng sâu vùng xa ở
miền Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long. Cuối cùng là các dân
tộc Brâu, Ơ Đu và Rơ Măm chỉ có trên 300 người [Nhóm hành động chống
đói giảm nghèo (2002)].
1.3.3. Về địa bàn cư trú
Miền núi là địa bàn cư trú chủ yếu của các dân tộc thiểu số, có một bộ
phận sống ở đồng bằng và hải đảo.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người H’mông ở Việt
Nam có dân số 1.068.189 người, đứng hàng thứ 8 trong bảng danh sách các dân
tộc ở Việt Nam, cư trú tại 62 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Nằm trong một
quốc gia đa dân tộc, dân tộc H’mông được coi là một thành viên quan trọng
trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Dân tộc H’mông thường cư
trú ở độ cao từ 800 đến 1500m so với mực nước biển, gồm hầu hết các tỉnh miền
núi phía bắc trong một địa bàn khá rộng lớn, dọc theo biên giới Việt-Trung và
14
Việt-Lào, từ Lạng Sơn đến Nghệ An. Người H’Mông cư trú tập trung tại các
tỉnh: Hà Giang, Điện Biên, Sơn La, Lào Cai, Lai Châu, Yên Bái, Cao, Nghệ An,
Đắk Lắk, Đắk Nông, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Thanh Hóa và Thái Nguyên.
Họ cư trú xen kẽ với nhau, không hình thành một vùng lãnh thổ riêng.
Đặc điểm cư trú đó có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ tổ quốc.
1.4. Kinh tế hộ gia đình - Vai trò của người phụ nữ dân tộc thiểu số
trong quản lý và phát triển kinh tế hộ gia đình vùng dân tộc miền núi
tại Việt Nam
1.4.1. Vài nét khái quát về phát triển kinh tế hộ gia đình ở nước ta
Trước xu thế phát triển của đất nước trong nền kinh tế thị trường nhiều
thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
vùng dân tộc miền núi đã và đang có những bước chuyển quan trọng trong
các hoạt động kinh tế. Trong đó nổi bật là sự phát triển của loại hình kinh tế
hộ gia đình đang ngày càng khẳng định vị trí quan trọng trong sự nghiệp phát
triển kinh tế cả nước nói chung và phát triển kinh tế miền núi nói riêng.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế gia đình có vai trò đặc biệt
quan trọng nhất là đối với những nước nông nghiệp như nước ta. Thuật ngữ
kinh tế “Kinh tế hộ gia đình” là một thuật ngữ kép, được hiểu theo nghĩa:
Kinh tế của hộ, kinh tế của gia đình.
Hộ là một nhóm người cùng huyết thống hoặc không cùng huyết thống
nhưng sống chung một mái nhà, có chung một nguồn thu nhập và cùng nhau
tiến hành sản xuất kinh doanh.
Gia đình là một nhóm người có cùng huyết thống, sống chung một mái
nhà, có chung nguồn thu nhập và cùng nhau tiến hành sản xuất kinh doanh.
Theo sự xác định của Liên hiệp quốc thì hộ bao gồm những người sống
chung dưới một mái nhà, cùng làm ăn chung, cùng chung một ngân sách, có
chung nguồn thu nhập. Như vậy, khái niệm “Kinh tế hộ” mang tính bao trùm
hơn khái niệm “Kinh tế gia đình”. Khi ta dùng thuật ngữ “kinh tế hộ gia đình”
15
là muốn đề cập đến kinh tế hộ và kinh tế gia đình, tuy đó là hai khái niệm
không hoàn toàn giống nhau nhưng nếu dùng thuật ngữ kép này thì nội dung
bao hàm hơn, dễ hiểu và dễ hình dung hơn.
Đảng và Nhà nước đã xác định vai trò quan trọng của kinh tế hộ gia
đình trong sự phát triển chung của đất nước mà theo đó là chủ trưởng, chính
sách thúc đẩy thúc đẩy một cách đồng bộ như: Xây dựng một chiến lược phát
triển toàn bộ kinh tế xã hội nông thôn; Xây dựng chiến lược phát triển cho
từng vùng, miền. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng; Xây dựng chương trình
quốc gia về lao động - việc làm; Ưu tiên các nguồn vốn cho phát triển kinh tế
- xã hội nông thôn nói chung và khu vực dân tộc miền núi nói riêng... Đã tạo
điều kiện cho kinh tế hộ gia đình ngày càng phát triển.
Đi liền với quá trình đổi mới xã hội, sự vận hành của nền kinh tế thị
trường ở nước ta đã và đang diễn ra sự phân tầng xã hội, thể hiện ở sự phân hóa
giàu nghèo. Theo kết quả điều tra, cả nước có hơn 2,338 triệu hộ nghèo (chiếm
tỷ lệ 9,88% so với tổng số hộ dân cư trên toàn quốc) và hơn 1,235 triệu hộ cận
nghèo (chiếm tỷ lệ 5,22%) theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2016-2020.
Như vậy, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều đã tăng tỷ lệ hộ nghèo từ
dưới 5% năm 2015 lên gần 10% năm 2016 do chuẩn nghèo giai đoạn 2011-
2015 tiếp cận dựa trên việc đo lường thu nhập nhưng chuẩn nghèo mới trong
giai đoạn 2016-2020 nâng tiêu chí về thu nhập và đo lường thêm các mức độ
thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản như: y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh,
thông tin. Trong đó 90% số người nghèo sinh sống ở các vùng nông thôn nhất
là ở vùng nông thôn miền núi [Nguyễn Duy Quý (2010)].
Bên cạnh những vùng, những hộ gia đình nghèo, quá đói nghèo là một
bộ phận dân cư có mức thu nhập cao đang trở thành những người giàu có. Hai
bộ phân dân cư này đều hòa nhập chung và chịu sự điều phối của cơ chế thị
trường. Ở nông thôn, nhất là ở nông thôn miền núi, đa số các hộ giàu lên
không phải do bóc lột người nghèo mà là do biết cách làm ăn, có năng lực sản
xuất kinh doanh và phát huy được nguồn lực trong cơ chế mới. Đối với những
hộ gia đình đã đủ ăn, có vốn, có khả năng phát triển chỉ cần tạo điều kiện về
16
cơ chế chính sách là họ có thể vươn lên được nhưng đối với những hộ nghèo,
có lẽ ngoài sức lao động ra, họ thiếu đủ thứ, cơ bản nhất vẫn là: Thiếu vốn,
thiếu kiến thức và thiếu các thông tin về thị trường. Nếu không được hỗ trợ về
3 yếu tố cơ bản trên thì tài sản sức lao động của các hộ gia đình nghèo sẽ
không phát huy được.
1.4.2. Vị trí của lao động nữ trong gia đình và xã hội
Trên toàn thế giới, phụ nữ đóng vai trò then chốt trong gia đình về khả
năng sản xuất và tái sản xuất. Họ chiếm trên 50% trong tổng số lao động; số
giờ lao động của họ chiếm 2/3 tổng giờ lao động của xã hội và sản xuất ra 1/2
trong tổng sản lượng nông nghiệp. Cùng với việc đảm nhiệm nhiều công việc
khác nhau, lao động nữ chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong các ngành công
nghiệp, dịch vụ với trình độ không ngừng được nâng cao [Viện nghiên cứu
chính sách lương thực Quốc tế (2001)].
Theo kết quả của những công trình nghiên cứu trước cho biết: Phụ nữ
là người tạo ra phần lớn lương thực tiêu dùng cho gia đình. 1/4 số hộ gia đình
trên thế giới do nữ làm chủ hộ và nhiều hộ gia đình khác phải phụ thuộc vào
thu nhập của lao động nữ [Đỗ Thị Bình - Trần Thị Vân Anh (2003)].
Tuy vậy, sự bất bình đẳng vẫn còn tồn tại ở rất nhiều nước trên thế giới.
đặc biệt là ở các vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, phụ nữ bị
hạn chế về mọi mặt, đời sống, điều kiện sống và làm việc tồi tàn, địa vị trong
xã hội thấp. Trong số hơn 1,3 tỷ người trên thế giới ở trong tình trạng nghèo
khổ thì có đến 70% là nữ. Có ít nhất 1/2 triệu phụ nữ tử vong do các biến
chứng về mang thai, sinh đẻ…
Phụ nữ hiện chiếm trên 50% dân số cả nước và chiếm trên 47% lực
lương lao động xã hội; tỷ lệ nữ tham gia hoạt động kinh tế chiếm 83%, gần
tương đương với nam giới là 85 %. Tỷ lệ nữ cán bộ, công chức chiếm 30%,
viên chức 61%. Lực lương lao động nữ hiện diện ở hầu hết các lãnh vực,
ngành nghề, trong đó có một số ngành nữ chiếm tỷ lệ cao như chế biến nông
sản, giáo dục, y tế, may mặc, và ngày càng nhiều lao động nữ trong các lãnh
vực kỹ thuật công nghệ (34%). So sánh ngành nghề giữa nông thôn và thành
17
thị. Ở thành thị, phụ nữ làm công nhân viên chức, các nghề tự do, hoặc lao
động chân tay, tuy nhiên, lương bổng lại không bằng nam giới. Ở khu vực
nông thôn, phụ nữ vừa làm việc đồng áng hoặc buôn bán. Tình trạng lao động
nữ chưa qua đào tạo rất phổ biến (chiếm 90%). Nhìn chung, ở nông thôn cũng
như thành thị phụ nữ đang phải làm những ngành nghề dành cho nữ như dệt
may, nông - lâm nghiệp… đều là những ngành lao động phổ thông, nặng
nhọc, năng suất thấp, dễ bị tổn thương với mức thu nhập thấp; điều kiện làm
việc thì khắc nghiệt mà tính rủi ro do mất việc rất cao. Mặc dù tham gia vào
thị trường lao động với tỷ lệ cao nhưng theo thống kê cho thấy thì thu nhập
của lao động nữ luôn chỉ bằng 3/4 lao động nam. Khi kinh tế biến động cần sa
thải nhân công thì lao động nữ cũng là “ưu tiên hàng đầu”. Lý do là vì ít đào
tạo, trình độ thấp nên cơ hội việc làm có lương cao rất hạn chế. Tỷ lệ lao động
nữ chưa qua đào tạo là 80,9%, khu vực nông thôn gần 90%, chỉ có 3,65% lao
động nữ ở nông thôn có chứng chỉ nghề. Một đặc điểm văn hóa khác biệt của
phụ nữ Việt Nam so với các nước Châu Á hay phương Tây là tuy kiếm ít tiền
hơn nhưng lại là người cai quản tài chính của gia đình [Nguyễn Thị Thanh
Hòa (2011)].
Ở Việt Nam hiện nay, tỷ lệ phụ nữ tham gia các cấp uỷ đảng từ trung
ương tới địa phương đều chưa đạt 15% (trừ cấp cơ sở đạt 15,08%). Cấp trung
ương, tỷ lệ uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X là 8,13% (giảm
0,53% so với khoá IX), uỷ viên dự khuyết đạt 14,28%; tính đến thời điểm
hiện tại, có 2/10 Bí thư Trung ương Đảng là nữ (chiếm 20%) - đạt tỷ lệ cao
nhất từ trước tới nay; cấp trưởng của các ban Đảng và Uỷ ban Kiểm tra Trung
ương là nữ có 1/6 (chiếm 16,7%); cấp phó có 3/23 là nữ (chiếm 13,04%).
Nhìn chung, số phụ nữ giữ các cương vị lãnh đạo chủ chốt cấp trung ương có
xu hướng ngày càng giảm, tuổi đời cao, báo động về sự hẫng hụt đội ngũ cán
bộ nữ lãnh đạo, quản lý. Ở các cấp địa phương, tỷ lệ uỷ viên ban chấp hành
đảng bộ nhiệm kỳ 2005-2010: cấp tỉnh là 11,75% (tăng 0,43% so với nhiệm
kỳ trước), nữ bí thư có 5/63 (chiếm 7,93%), tỷ lệ nữ phó bí thư là 7,04%; cấp
trưởng các ban Đảng tỉnh, thành ủy là phụ nữ chiếm tỷ lệ thấp; cấp huyện, tỷ
18
lệ nữ tham gia ban chấp hành là 14,74% (tăng 1,85% so với nhiệm kỳ trước)
và ở cấp xã là 15,08% (tăng 3,2% so với nhiệm kỳ trước). Đánh giá tổng quát
về tỷ lệ nữ tham gia cấp uỷ là: cấp trung ương giảm, các cấp địa phương tăng
không đáng kể. Điều đặc biệt là ở những nơi khó khăn như miền núi thì tỷ lệ
cán bộ nữ cao hơn đồng bằng. [Nguyễn Thị Thanh Hòa (2016)].
Trong cơ quan dân cử, tỉ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XIV là 133
người (đạt 26,80%), mặc dù tỷ lệ ĐBQH là nữ không đạt được ít nhất 30%
như mục tiêu, nhưng cũng đã tăng 11 người (2,4%) so với khóa XIII (có 122
đại biểu nữ, chiếm 24,4%). Cũng theo báo cáo của Hội đồng Bầu cử Quốc
gia, tỷ lệ nữ đại biểu HĐND nhiệm kỳ 2016 -2021 các cấp đều tăng so với
nhiệm kỳ trước (2011 – 2016). Cụ thể, tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp tỉnh đạt
26,46% (tăng 1,29%); cấp huyện đạt 27,51% (tăng 2,89%); cấp xã đạt 26,70%
(tăng 4,99%). [Hội đồng bầu cử quốc gia (2016)].
Mặc dù tỷ lệ phụ nữ trong hệ thống chính trị hiện nay còn hạn chế song
nhìn chung, sự gia tăng số lượng cán bộ nữ tham gia quản lý nhà nước và các
hoạt động chính trị trong những năm qua chứng tỏ năng lực của cán bộ nữ
ngày càng được nâng cao. Nhìn lại chặng đường đã qua, phụ nữ Việt Nam đã
không ngừng nỗ lực phấn đấu vươn lên; mặt khác, sự quan tâm, tạo điều kiện
của Đảng và Nhà nước đã tạo môi trường thuận lợi để chị em có cơ hội phát
triển toàn diện và tham gia trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Những đóng góp tích cực và cụ thể của phụ nữ vào thành quả của công cuộc
đổi mới đã dần làm thay đổi những định kiến về vai trò của phụ nữ trong xã
hội, khiến xã hội phải thừa nhận phụ nữ có khả năng tham gia lĩnh vực chính
trị không thua kém nam giới và nhìn nhận, đánh giá đúng hơn về vai trò, vị trí
của phụ nữ trong các hoạt động kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước.
1.4.3. Vai trò người phụ nữ dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế hộ gia đình
Khi nói đến cơ cấu tổ chức sản xuất của kinh tế hộ gia đình là nói tới
một mô hình sản xuất gọn nhẹ với sự tham gia của các thành viên trong gia
đình, dòng họ. Các thành viên trong hộ gia đình có chung nguồn thu nhập,
cùng chung lợi ích và có trách nhiệm ràng buộc với nhau. Vì vậy mà họ có
19
chung một ý chí lao động sản xuất, tuy nhiên từng thành viên có các vị thế
khác nhau trong gia đình. Vị thế đó phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố chủ
quan và khách quan kể cả phong tục tập quán của từng dân tộc.
Do đặc điểm lịch sử của đất nước, phụ nữ Việt Nam luôn giữ một vai
trò trụ cột trong sản xuất nông nghiệp. Họ là lực lượng rất quan trọng để tạo
ra của cải vật chất và xây dựng văn hóa nông thôn. Với lực lượng đông đảo:
78% phụ nữ ở nông thôn, chiếm 52% lực lượng lao động xã hội và 23% làm
chủ hộ gia đình, người phụ nữ đã và đang khẳng định vai trò quan trọng của
mình trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông
thôn. Trong quá trình hoạt động của kinh tế hộ gia đình vùng dân tộc miền
núi, người phụ nữ dân tộc thiểu số là một lực lượng, một nguồn lực lao động
quan trọng thể hiện vị thế của mình trong gia đình theo thiên chức và trách
nhiệm, theo sự phân công mang tính chất giới trong gia đình [Ủy ban dân tộc
và miền núi (2000)].
Hoạt động kinh tế gia đình trong tình hình mới đã tác động đến vai trò
của các giới, đến vai trò của người chồng và người vợ trong các công việc cụ
thể của hoạt động kinh tế hộ gia đình. Nếu trong bối cảnh của nền kinh tế tự
cung tự cấp trước đây việc phân công lao động còn mang tính tự nhiên chủ
nghĩa thì hiện nay trước yêu cầu của sự phát triển kinh tế và hoàn cảnh kinh
tế, đặc thù kinh tế của từng địa phương cũng như tương quan trình độ của
nam và nữ mà có sự phân công khác nhau trong các hoạt động trực tiếp hay
gián tiếp đến kinh tế hộ gia đình.
Hoạt động kinh tế hộ gia đình của nông dân, miền núi trong bối cảnh
hiện nay là một phức hợp các công việc trong việc tổ chức điều hành sản xuất,
phân công lao động, đầu tư và sử dụng đồng vốn một cách có hiệu quả nhất,
đòi hỏi sự tư duy, tính toán của cả vợ và chồng... chứ không phải là công việc
thuần nông giản đơn như trước đây hoạt động kinh tế hộ gia đình theo kinh
nghiệm, theo bản năng.
Người phụ nữ đảm nhận mọi công việc nặng nhọc trong gia đình nhưng
qua khảo sát, quyền quyết định của họ trong việc điều hành các công việc lớn
20
trong gia đình lại ở mức độ thấp. Điều đó thể hiện sự mâu thuẫn giữa cường
độ lao động của phụ nữ (thường gấp 1,5 - 2 lần so với nam giới) với quyền
quyết định điều hành các hoạt động kinh tế gia đình.
Như vậy: Nếu xét dưới góc độ kinh tế, năng lực quản lý kinh tế hộ
gia đình của phụ nữ là hiệu quả của quá trình tổ chức, điều hành và quản
lý sản xuất có sự tham gia của chị em với tư cách là thành viên - là người
chủ của hộ gia đình.
Năng lực quản lý kinh tế hộ gia đình của phụ nữ nếu xét dưới góc độ
chính trị - xã hội là sự thể hiện quyền bình đẳng giữa giới nam và giới nữ
trong định hướng đầu tư, trong tổ chức, phân công lao động gia đình và trong
việc sử dụng, hưởng thụ các sản phẩm sản xuất ra.
Tuy nhiên các khái niệm này đều chỉ mang tính tương đối vì năng lực
quản lý liên quan nhiều vấn đề như: Dân tộc, gia đình, văn hóa, giáo dục, xã
hội, điều kiện lao động, điều kiện sức khỏe...
Người phụ nữ dân tộc thiểu số tham gia phát triển kinh tế hộ gia đình
không những với tư cách là thành viên của gia đình, có trách nhiệm phải đóng
góp công sức tạo ra của cải nuôi sống gia đình và bản thân mà còn với tư cách
là người vợ, người mẹ, người chủ gia đình. Người phụ nữ vừa đóng vai trò
quan trọng trong sự định hướng sản xuất vừa là người trực tiếp thực hiện quy
trình lao động sản xuất đó. Hơn nữa, việc tái tạo ra sức lao động, duy trì nòi
giống lại là thiên chức bẩm sinh của người phụ nữ.
Có thể nói trong phát triển kinh tế hộ gia đình, người phụ nữ giữ một
vai trò đặc biệt không thể thiếu đối với các quy trình lao động sản xuất. Lao
động nữ có những thế mạnh mà lao động nam không thể có được: Đó là sự
cần mẫn, nhẫn nại, khéo léo và dẻo dai trong cuộc sống. Sức chịu đựng của
lao động nữ trong những điều kiện lao động khó khăn tỏ ra hơn hẳn nam giới.
Hơn nữa tính căn cơ, tiết kiệm và tính thực tế đã được thực tiễn chứng minh
là điểm nổi bật của lao động nữ. Nhưng việc phát huy vai trò đặc biệt đó để
nhân lên thành sức mạnh giúp người phụ nữ vượt qua được các mặc cảm tự
ty, hủ tục lạc hậu, vượt qua những vất vả, khó khăn mà họ phải gánh chịu để
21
làm chủ bản thân, làm chủ gia đình, chủ động trong định hướng đầu tư sản
xuất, trong chỉ tiêu, trong giáo dục con cái và trong quản lý gia đình lại là một
vấn đề hoàn toàn khác, phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan mà nếu để tự
chị em thì họ không thể thực hiện được.
Trong cuộc sống thực tế, tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã dần dần
được xóa bỏ ở mọi lĩnh vực từ gia đình đến xã hội, làm thay đổi các cơ sở
kinh tế, thay đổi các quan niệm về đạo đức, phong tục tập quán và đặc biệt là
làm thay đổi hẳn thân phận và địa vị của người phụ nữ. Hiện nay phụ nữ nước
ta nói chung và phụ nữ dân tộc thiểu số nói riêng đều đã được tham gia vào
hầu hết các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ và được nâng cao địa vị
trong gia đình. Tuy nhiên, ở nhiều khu vực nông thôn miền núi, ở nhiều vùng,
nhiều nơi, nhiều gia đình, vai trò của chị em trong quản lý kinh tế hộ gia đình
còn rất mờ nhạt, khiến chị em luôn mặc cảm tự ty, cam chịu trong cảnh nghèo
đói, phụ thuộc vào người chồng, người đàn ông trong gia đình.
Như vậy, dù được thừa nhận hay không được thừa nhận, thực tế trong
cuộc sống hàng ngày và những gì phụ nữ dân tộc thiểu số làm đã khẳng định
vai trò của họ trong gia đình, trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội,
trong bước tiến của nhân loại. Phụ nữ dân tộc thiểu số cũng phải thực hiện
nhiều vai trò, cho nên họ cần được nam giới chia sẻ, thông cảm cả về hành
động lẫn tinh thần, xã hội cũng cần có những chương trình trợ giúp để họ thực
hiện tốt hơn vai trò của mình.
1.5. Nội dung vai trò của phụ nữ dân tộc trong phát triển kinh tế hộ gia đình
1.5.1. Vai trò của phụ nữ trong quản lý và điều hành sản xuất
Phụ nữ có vai trò hết sức quan trọng đối với mọi hoạt động trong hộ gia
đình. Trong hoạt động kinh tế hộ gia đình thì việc quản lý và việc điều hành
sản xuất của hộ đóng vai trò quan trọng, quyết định việc phân công lao động
trong gia đình, phân công bán cho ai? Người xác định giá bán và bán ở đâu?
Bán như thế nào?... Trong hoạt động này người phụ nữ có vai trò quan trọng
22
trong việc quản lý kinh tế của hộ và điều hành việc sản xuất của gia đình.
Mặc dù người phụ nữ có vai trò quan trọng trong công việc gia đình và tham
gia quản lý sản xuất nhưng do phong tục tập quán, quan niệm và do nhận thức
của người dân nên việc ra quyết định cuối cùng trong gia đình chủ yếu là
người chồng. Vấn đề này phổ biến trong các hộ gia đình nông thôn, nhất là
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
1.5.2. Vai trò của phụ nữ trong sản xuất tạo ra thu nhập cho gia đình
Có nhiều nghiên cứu về vai trò phụ nữ trong sản xuất ở nhiều cấp độ và
góc độ khác nhau, những nghiên cứu đó đều nhận định: Là lực lượng lao động
quá bán ở nông thôn, phụ nữ đóng vai trò đáng kể trong đời sống hoạt động
kinh tế hộ cũng như hoạt động áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Họ là
người tham gia trực tiếp vào các hoạt động nông nghiệp, từ khâu cày, bừa,
trồng, cấy, chăm sóc đến thu hoạch. Ngoài ra, họ còn tham gia vào việc lựa
chọn phương án làm ăn của hộ gia đình: Chọn cây gì, giống nào, phân bón gì,
nuôi con nào, tiêu thụ ở đâu…
Phụ nữ là người tham gia chính vào các khâu sản xuất nông nghiệp.
Khâu làm đất nữ làm 56%, nam làm 9,8%; Khâu chọn giống, nữ làm 68,6%,
nam làm 8,6%; khâu chăm sóc, cấy trồng, nữ làm 69,2%, nam làm 5,1%;
phun thuốc sâu nữ làm 63,6%, nam làm 13,6%. Trong thu hoạch bán sản
phẩm chủ yếu là do nữ đảm nhiệm (48,3% ở Cẩm An, 71,4% ở Hoà Phú và
49,1% ở Khánh Hoà lĩnh vực này do người vợ làm) [Chương trình nghiên cứu
Việt Nam - Hà Lan (2006)].
Những nghiên cứu khác còn cho thấy, ở mỗi vùng, mỗi miền và điều
kiện cụ thể từng nơi mà vai trò của phụ nữ trong sản xuất cũng thể hiện một
cách khác nhau trong các khâu công việc.
Ở nông thôn miền núi tỉnh Thái Nguyên, lực lượng lao động nữ chiếm từ
45% đến 74,6% tổng số lao động. Trong số lao động nữ có khoảng 21% là chủ
hộ và 51,2% được quyền tham gia quản lý gia đình. Điều đó chứng tỏ một số
23
chị em phụ nữ dân tộc ít người vùng này có khả năng quản lý kinh tế hộ tự
cung tự túc. Phụ nữ không chỉ chiếm tỷ trọng cao trong lực lượng lao động mà
còn được phân công thực hiện nhiều công việc trong trong hoạt động kinh tế hộ
gia đình (Họ làm 70% công việc gia đình, 70% công việc đồng áng). Do đó
năng suất và chất lượng lao động của họ có tính chất quyết định đối với hiệu
quả sản xuất, là nguồn lực cho phát triển kinh tế hộ gia đình [Lê Thi (1999)].
1.5.3. Vai trò của phụ nữ trong tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực phát triển
* Tiếp cận vốn
Phụ nữ hiện nay có thuận lợi hơn trước đây trong việc vay vốn tín dụng
vì có nhiều nguồn từ các tổ chức chính thống, phi chính thống. Là người tham
gia trực tiếp vào các hoạt động sản xuất kinh doanh (HĐSXKD) và cũng tham
gia vào các quyết định phát triển kinh tế của gia đình, do vậy phụ nữ đóng vai
trò quan trọng trong việc sử dụng vốn và tiết kiệm. Thông qua sự uỷ thác của
ngân hàng chính sách xã hội (NHCSXH), hội phụ nữ (HPN) các địa phương
đã thực hiện việc cho vay vốn tới các hội viên kết hợp với việc kiểm soát sử
dụng vốn và trả lãi.
* Tiếp cận với khoa học kỹ thuật
Sự tiếp cận khoa học kỹ thuật thông qua hệ thống khuyến nông Nhà
nước và khuyến nông tự nguyện hoặc các chương trình, dự án đối với phụ nữ
nông thôn là cần thiết nhưng gặp một số khó khăn. Ngoài công việc sản xuất
kinh doanh, phụ nữ còn phải làm công việc gia đình và tham gia vào các hoạt
động khác. Quỹ thời gian không cho phép họ tham gia các khoá tập huấn dài
ngày hoặc ở xa vì thiếu phương tiện đi lại.
Thường thì những kiến thức họ nhận được từ các khoá tập huấn có thể áp
dụng ngay vì họ trực tiếp tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh hay
nuôi dạy con cái trong khi nam giới đến các khoá tập huấn thường không chú ý
nghe hay tham gia bởi họ nghĩ là họ biết hết. Sau đó họ lại không truyền đạt
những gì họ học được cho vợ, con. Những người phụ nữ có trình độ học vấn cao,
có khả năng tiếp thu và áp dụng tiến bộ kỹ thuật tốt hơn. Tuy nhiên trình độ của
phụ nữ nông thôn thấp khiến việc tiếp cận khoa học kỹ thuật của họ bị hạn chế.
24
* Tiếp cận thông tin
Vì quá bận bịu với công việc nên việc tiếp cận với các nguồn thông tin
của phụ nữ nông thôn còn khó khăn, chủ yếu thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng, hội họp, ở chợ, những dịp gặp nhau hoặc vào thời gian
cùng làm chung. Điều kiện kinh tế của gia đình và trình độ học vấn của phụ
nữ quyết định đến cơ hội tiếp cận thông tin, xử lý, chọn lọc thông tin của họ.
1.5.4. Vai trò của phụ nữ trong việc ra quyết định
Phụ nữ thường cùng chồng bàn bạc để ra quyết định về phát triển kinh
tế, mua sắm, chi tiêu trong gia đình, quyết định từ việc sinh con và học hành,
nghề nghiệp của con cái. Tuy nhiên thường người chồng đóng vai trò quyết
định cao hơn người vợ, đặc biệt là quyết định trong các vấn đề xã hội, vì ý
kiến của phụ nữ ít quan trọng hơn nam giới [Nguyễn Linh Khiếu (2001)].
1.5.5. Vai trò trong tham gia công tác xã hội
Những năm gần đây phụ nữ dân tộc tích cực tham gia các tổ chức đảng,
chính quyền, đoàn thể địa phương. Trên thực tế chúng ta có thể thấy được phụ
nữ dân tộc tham gia vào các hoạt động xã hội ít hơn nam giới do phong tục
tập quán “Trọng nam khinh nữ” của đồng bào dân tộc. Phụ nữ có nhiều quan
điểm khác với nam giới trong các vấn đề khác nhau. Thúc đẩy sự tham gia
của phụ nữ dân tộc thiểu số vào các vị lãnh trí đạo và quá trình hoạch định
chính sách sẽ giúp thể hiện nhiều quan điểm và cách nhìn nhận vấn đề khác
nhau khi ra quyết định, khi đó các quyết định và chính sách cũng mang tính
toàn diện hơn và phù hợp hơn, đặc biệt là với những chính sách có ảnh hưởng
tới phụ nữ dân tộc thiểu số.
1.5.6. Vai trò của phụ nữ trong gia đình
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, phụ nữ là người làm chính trong các
công việc tái sản xuất của các hộ gia đình (như: Công việc nội trợ, chăm sóc
con cái, dạy dỗ và hướng dẫn con cái học tập, chăm sóc người già, người ốm
trong gia đình. Phụ nữ thường phải thức khuya, dậy sớm chuẩn bị công việc
nội trợ từ 6-8 giờ trong ngày.
Trong mô ̣t nghiên cứ u về “Nâng cao vai trò củ a phu ̣ nữ dân tô ̣c thiểu số vào phát triển kinh tế, văn hó a, xã hô ̣i và gia đình ở cac xã ĐBKK củ a
25
tỉnh Lâm Đồ ng, đã tiến hành khảo sát 420 ngườ i dân tô ̣c thiểu số (cả nam và nữ), trong đô ̣ tuổ i từ 15 đến 60, thuô ̣c các dân tô ̣c K’ho, Chu Ru, Ma ̣, Tày, Nù ng đang cư trú ta ̣i 06 thôn ĐBKK củ a tỉnh Lâm Đồ ng là thôn Ma Bó , xã Đa ̣ Quyn; thôn Tà Sơn, xã Tà Năng (huyê ̣n Đứ c Tro ̣ng); thôn 2 và thôn 3, xã Lô ̣c Tân (huyê ̣n Bảo Lâm); thôn 1, xã Đưng K’nớ h và thôn Păng Tiêng, xã Lát (huyê ̣n La ̣c Dương). Có đến 263 ngườ i đươ ̣c hỏ i (chiếm 62%) cho rằ ng phu ̣ nữ DTTS có vai trò rất quan tro ̣ng trong tham gia vào phát triển kinh tế, xã hô ̣i ở gia đình và cô ̣ng đồ ng. Biểu hiê ̣n ở mô ̣t số những hoa ̣t đô ̣ng như tham gia lao đô ̣ng sản xuất, nuôi da ̣y chăm só c con cái, làm những công viê ̣c trong gia đình.
Bảng 1.1: Công viê ̣c phu ̣ nữ DTTS đả m nhâ ̣n trong gia đình
(Nguồn: Nguyễn Thị Bích Thu năm 2016)
Kết quả khảo sát cho thấy, phụ nữ DTTS ở các đi ̣a bàn khảo sát chi ̣u trách nhiệm chính trong nuôi da ̣y con cái và làm những công viê ̣c trong gia đình không được tính công, trả lương; đồ ng thờ i cũng tham gia nhiều vào các hoa ̣t đô ̣ng lao đô ̣ng sản xuất của gia đình. Những hoa ̣t động cô ̣ng đồ ng khác như tham gia hội họp, sinh hoa ̣t cô ̣ng đồng, giao tiếp ngoài cô ̣ng đồ ng hầu phu ̣ nữ DTTS rất ít tham gia. [Nguyễn Thị Bích Thu (2016)].
Nam giới hầu như không làm nội trợ tuy nhiên sự phân công lao động
giữa vợ và chồng còn phụ thuộc vào công việc và thành phần nghề nghiệp của
gia đình. Trong đó gia đình trí thức có tỷ lệ nữ thực hiện công việc nội trợ
thấp nhất là 42%, gia đình công nhân 60%, gia đình nông dân 87%. Còn tỷ lệ
nam tương ứng là 5%, 2,7% và 2,9%. Có thể giải thích rằng gia đình có trình
26
độ học vấn thì cơ hội bình đẳng trong phân công lao động giữa vợ và chồng
lớn hơn. Tuy nhiên, quan niệm phong kiến coi công việc nội trợ là của người
phụ nữ còn khá nặng nề trong nhóm gia đình, ngay cả trong những trường
hợp cả vợ và chồng cùng tham gia vào công việc này thì gánh nặng công việc
vẫn đặt lên vai người phụ nữ. Phỏng vấn các cặp vợ chồng thấy ngay cả trong
gia đình bình đẳng thì người vợ vẫn đóng vai trò thực hiện, còn người chồng
thì giúp hoặc chỉ đạo [Chương trình nghiên cứu Việt Nam - Hà Lan (2006)].
Theo kết quả nghiên cứu của Lê Thị Nhâm Tuyết (năm 2008), phụ nữ
nông thôn phải làm việc 8-16h/ngày gồm cả công việc nội trợ gia đình và
chăm sóc con cái, họ không có thời gian đọc báo, nghe đài, xem văn nghệ
trong khi nam giới chỉ làm 7h/ngày. Phụ nữ thành thị có điều kiện hơn do có
những dịch vụ và trang thiết bị gia đình tốt hơn nhưng thời gian dành cho
công việc gia đình vẫn gấp 1,5 lần so với nam giới [Nguyễn Thị Lân (2006)].
* Các chỉ tiêu đánh giá vai trò của phụ nữ dân tộc trong phát triển kinh
tế hộ gia đình
a. Dựa vào mức độ tham gia của phụ nữ trong các HĐSXKD: mức độ
tham gia của phụ nữ trong hoạt động sản xuất kinh doanh càng nhiều thì vai trò
của họ trong phát triển kinh tế hộ gia đình và xóa đói giảm nghèo càng cao.
b. Dựa vào thu nhập do phụ nữ tạo ra so với nam giới: nếu chỉ dựa vào
mức độ tham gia của phụ nữ vào các HĐSXKD thì cũng chưa đủ để đánh giá
vai trò của họ trong phát triển kinh tế hộ gia đình bởi tính chất công việc khác
nhau tạo ra mức thu nhập khác nhau. Do đó cần dựa vào chỉ tiêu thu nhập
bình quân của phụ nữ so với nam giới. Phần trăm thu nhập do phụ nữ tạo ra
càng lớn thì vai trò của họ càng được khẳng định trong gia đình họ. Họ không
chỉ chăm sóc con cái, chăm lo nhà cửa mà còn mang lại thu nhập cho gia
đình. Ngày nay người phụ nữ có quyền tham gia vào các quyết định của gia
đình, các công việc kinh doanh buôn bán. Mặt khác phần trăm phụ nữ tham
gia các hoạt động sản xuất và gia đình thể hiện vai trò của họ trong việc nâng
cao mức sống gia đình và của toàn xã hội.
27
1.6. Các hoạt động nhằm nâng cao vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số
trong phát triển kinh tế hộ gia đình tại Việt Nam
Theo thống kê 2011, lao động nữ ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số
chiếm 58,02% lực lượng lao động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp; sản
xuất hơn 60% sản phẩm nông nghiệp. Như vậy, phụ nữ dân tộc là một trong
hai chủ thể kinh tế quan trọng mang lại thu nhập cho các hộ gia đình, và đang
có vai trò, vị trí đặc biệt trong đời sống kinh tế - xã hội ở các vùng đồng bào
dân tộc. Hiện nay, biến đổi của lao động nữ dân tộc thiểu số đang diễn ra theo
ba xu hướng cơ bản: nâng cao chất lượng lao động nữ dân tộc thiểu số đáp
ứng nhu cầu lao động của thời kỳ mới;từng bước chuyển dần từ lao động
nông nghiệp sang lao động công nghiệp, thương mại và dịch vụ; và, chủ động,
tích cực tham gia thị trường lao động quốc tế trong và ngoài nước.
Thời gian qua, Chính phủ đã có nhiều chính sách nâng cao chất lượng,
hiệu quả của lao động dân tộc thiểu số nói chung và lao động nữ dân tộc thiểu
số nói riêng.
Đề án “Đào tạo nghề cho lao đô ̣ng nông thôn đến năm 2020” và Đề án
“Hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm giai đoạn 2010 - 2015” đã được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt nhằm tạo điều kiện tốt hơn cho lao động nông
thôn nói chung và lao động nữ nói riêng nâng cao kỹ năng nghề nghiệp và
tiếp cận tốt hơn tới việc làm có thu nhập ổn định, giúp xóa đói, giảm nghèo và
nâng cao vị thế. Ngoài chính sách dạy nghề, Nghị quyết 26-NQ/TW cũng
nhấn mạnh mục tiêu tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp và
kinh tế nông thôn, qua đó các chương trình chuyển giao khoa học kỹ thuật
nông nghiệp đã được triển khai rộng khắp.
Trong lĩnh vực tín dụng, hệ thống các Ngân hàng nhà nước (Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Chính
sách xã hội Việt Nam…) đã và đang thực hiện nhiều chương trình tín dụng
phát triển kinh tế khu vực nông thôn (Nghị định 41/2010/NĐ-CP, Nghị
định 78/2002/NĐ-CP).
28
Về khía cạnh giới trong phát triển kinh tế, Chiến lược quốc gia về bình
đẳng giới giai đoạn 2010 - 2020 đưa ra mục tiêu “Không ngừng nâng cao
năng lực nhằm bảo đảm sự tham gia ra quyết định của phụ nữ trong các hoạt
động phát triển kinh tế…”.
Như vậy, có thể nói đã có khá đầy đủ chính sách; tuy nhiên, cần có các
cơ chế cụ thể hơn để giúp nữ lao động dân tộc thiểu số tiếp cận được với
những công việc có hàm lượng tri thức, chất xám, công nghệ giúp mang lại
thu nhập cao cho cá nhân và giá trị gia tăng cao cho xã hội, cụ thể:
1.6.1. Xây dựng các phong trào phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế, xóa
đói giảm nghèo
Tiếp tục duy trì và đẩy mạnh phong trào “Phụ nữ giúp nhau phát triển
kinh tế gia đình” để thực hiện xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập; đồng thời
phát động phong trào “Phụ nữ làm kinh tế giỏi” để động viên, khuyến khích
phụ nữ vươn lên làm giàu chính đáng.
Triển khai đồng bộ 2 phong trào nhằm phù hợp với đối tượng và
điều kiện thực tế của địa phương, Đồng thời cần chỉ đạo, triển khai thực
hiện 2 phong trào này trong mối liên quan mật thiết với nhau để phát huy
hiệu quả của từng phong trào: “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia
đình” để cùng nhau xóa đói giảm nghèo, xây dựng gia đình no ấm và cuộc
sống đạt chất lượng tốt hơn. “Phụ nữ làm kinh tế giỏi” ngoài nội dung cơ
bản là khuyến khích bản thân phụ nữ tích cực, thi đua làm ăn giỏi, làm
giàu chính đáng còn khuyến khích phụ nữ làm ăn giỏi, nữ doanh nghiệp
thành đạt giúp đỡ, làm đầu tàu lôi kéo phụ nữ khác hoặc tạo việc làm cho
phụ nữ nghèo, phụ nữ dân tộc thiểu số.
1.6.2. Tăng cường các biện pháp giúp đỡ phụ nữ đói nghèo
Hàng năm thống kê, phân loại hộ đói, nghèo có phụ nữ dân tộc thiểu số
làm chủ hộ để có kế hoạch giúp đỡ cụ thể. Trong kế hoạch chỉ đạo xóa đói
giảm nghèo cần xác định cụ thể địa chỉ giúp đỡ, mục tiêu cần đạt, biện pháp
hỗ trợ phù hợp với từng hộ.
29
Trên cơ sở đó, xây dựng và chỉ đạo điểm mô hình xóa đói giảm
nghèo, xây dựng gia đình no ấm theo phương châm: hỗ trợ vốn, kiến thức
cho phụ nữ dân tộc thiểu số nghèo và nâng cao năng lực cán bộ Hội cơ sở
trong thực hiện xóa đói giảm nghèo.
Tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm mô hình xóa đói giảm nghèo có địa
chỉ; biểu dương điển hình phụ nữ làm kinh tế giỏi, xây dựng gia đình no ấm.
1.6.3. Tập trung huấn luyện cán bộ Hội về kiến thức và kỹ năng cần thiết
để hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế
Các cấp Hội tiến hành thống kê, đánh giá tình hình huấn luyện nghiệp
vụ, chương trình của cán bộ Hội các cấp để xây dựng kế hoạch huấn luyện
hàng năm, đảm bảo 100% cán bộ Hội chủ chốt các cấp quản lý chương trình
chưa qua đào tạo được huấn luyện
Các chương đào tạo và tổ chức tập huấn nâng cao kỹ năng và kiến thức
cho phụ nữ dân tộc thiểu số để nâng cao vai trò của họ đối với hộ gia đình nới
chung và với phát triển kinh tế nói riêng bao gồm một số các nội dung cần
thiết sau: quản lý tiết kiệm tín dụng, quản lý doanh nghiệp nhỏ cho cán bộ
Hội, tập huấn kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt,…. Phát huy kết quả huấn luyện,
đội ngũ cán bộ cần tranh thủ các nguồn lực và phát huy nội lực để tổ chức tập
huấn cho cán bộ cơ sở.
1.6.4. Khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn
Hỗ trợ vốn tạo việc làm gắn với khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng phát triển ngành nghề, trang trại, doanh nghiệp nhỏ và hướng dẫn cách
làm ăn. Hướng tới các hoạt động hỗ trợ vốn phải dựa trên cơ sở hiệu quả kinh tế.
Bên cạnh việc ưu tiên hỗ trợ vốn cho phụ nữ nghèo thực hiện xóa đói
giảm nghèo, cần quan tâm hỗ trợ vốn cho phụ nữ không có hoặc thiếu việc
làm có nhu cầu tự tạo việc làm; các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ thu hút
lao động nữ; phụ nữ chưa có việc làm do trung tâm dịch vụ việc làm của Hội
giới thiệu; các doanh nghiệp nhỏ do nữ làm chủ và thu hút lao động nữ.
30
Tăng cường phối hợp với Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Nông nghiệp,
Chương trình Quốc gia giải quyết việc làm trên cơ sở Nghị quyết liên tịch đã
được ký kết và chương trình phối hợp hàng năm. Tiếp tục vận động phụ nữ tham
gia nhóm phụ nữ tiết kiệm tín dụng nhằm tạo nguồn vốn tại chỗ trong chị em.
Tranh thủ các dự án quốc tế để tăng nguồn vốn cho phụ nữ, xây dựng mô
hình và đào tạo nâng cao năng lực quản lý chương trình cho Hội phụ nữ các cấp.
1.6.5. Đẩy mạnh các hoạt động chuyển giao khoa học kỹ thuật cho phụ nữ
Tăng cường phối hợp với các ngành và các hội nghề nghiệp, đặc biệt
phối hợp với ngành Nông nghiệp và phát triển nông thôn trên cơ sở chương
trình liên tịch để tổ chức các hoạt động tập huấn, hướng dẫn cách làm ăn,
chuyển giao khoa học kỹ thuật - công nghệ, trình diễn mô hình cho phụ nữ
nhằm mục đích vận động phụ nữ chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát triển các loại
hình cây con có giá trị kinh tế, mở rộng hoạt động dịch vụ chế biến.
Lồng ghép tín dụng và chuyển giao khoa học kỹ thuật. Vận động và
hướng dẫn phụ nữ nghèo, phụ nữ dân tộc mạnh dạn chuyển đổi phong tục,
thói quen canh tác, chăn nuôi lạc hậu; đầu tư cây con có năng suất cao và có
giá trị hàng hóa; ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất.
Huấn luyện và xây dựng mạng lưới nữ khuyến nông viên. Khuyến
khích phụ nữ làm kinh tế giỏi phổ biến, hướng dẫn kỹ thuật, cách làm ăn cho
phụ nữ khác, nhất là phụ nữ nghèo.
Phát triển mô hình Câu lạc bộ phụ nữ khuyến nông. Tổ chức Hội thi Phụ
nữ với khuyến nông ở các cấp [Giáo trình nghiệp vụ công tác hội phụ nữ (2004)].
1.7. Các yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong
phát triển kinh tế hộ gia đình tại Việt Nam
- Phong tục tập quán, văn hóa: Quan niệm về giới, những phong tục,
tập quán trong xã hội là những yếu tố ảnh hưởng nhiều đến vai trò của phụ nữ
dân tộc H’mông trong việc phát triển kinh tế hộ gia đình. Phụ nữ dân tộc
H’mông trước hết phải lo việc gia đình, con cái. Dù làm bất kỳ công việc gì
31
thì việc nội trợ vẫn là thuộc trách nhiệm vụ người phụ nữ, đây là quan niệm
ngự trị ở nước ta từ nhiều năm nay. Sự tồn tại của những hủ tục lạc hậu, trọng
nam khinh nữ đã kìm hãm tài năng sáng tạo của chị em, hạn chế sự cống hiến
của họ cho xã hội và cho gia đình. Họ không thể đi xa, vắng nhà lâu ngày hay
phó mặc việc nhà cho chồng hay cho gia đình được. Gánh nặng mang thai,
sinh đẻ, nuôi dưỡng con nhỏ và nội trợ gia đình đè nặng lên đôi vai người phụ
nữ. Đây là trở ngại lớn làm cho họ không thể tập trung sức lực, thời gian và trí
tuệ vào sản xuất kinh doanh và các hoạt động xã hội. Chính sự tồn tại của
những quan niệm, hủ tục trên đã khiến nhiều chị em trở nên không mạnh dạn
trong việc làm ăn, không năng động sáng tạo bằng nam giới và họ gặp nhiều
khó khăn trong giao tiếp xã hội. Như vậy, quan niệm về giới, sự bất bình đẳng nam nữ và phong tục tập quán đã là một nguyên nhân cơ bản cản trở sự tiến
bộ và vai trò của lao động nữ trong việc phát triển kinh tế - xã hội.
Yếu tố không thể nhắc đến có ảnh hưởng tới vai trò của phụ nữ dân tộc
H’mông chính là nguyên nhân chủ quan do chính họ tạo ra. Phụ nữ dân tộc
H’mông thường cho rằng, những công việc nội trợ, chăm sóc gia đình, con
cái… là việc của họ. Họ cũng tỏ ra không hài lòng về người đàn ông thạo việc
nội trợ. Vì lẽ đó , họ đã vô tình ràng buộc thêm trách nhiệm cho mình. Vậy
nên, toàn bộ công việc gia đình và sản xuất càng đè nặng lên người phụ nữ
khiến họ càng mệt mỏi, làm họ tự đánh mất dần vai trò của mình trong gia
đình cũng như trong xã hội.
- Trình độ học vấn, chuyên môn: Trình độ học vấn, chuyên môn, khoa
học kỹ thuật của phụ nữ dân tộc H’mông còn nhiều hạn chế: Đồng bào
H’mông thường sống tập trung ở vùng núi cao, nơi mà phương tiện thông tin
nghe nhìn và sách báo đến với người dân còn rất nhiều hạn chế, do vậy việc
phụ nữ dân tộc H’mông tiếp cận và nắm bắt các thông tin khoa học liên quan
đến kiến thức, phát triển sản xuất, chăn nuôi và trồng trọt gặp nhiều khó khăn.
Ngoài thời gian sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi thì người phụ nữ dường như
32
có rất ít thời gian dành cho nghỉ ngơi hoặc hưởng thụ văn hoá tinh thần, học
hỏi nâng cao hiểu biết kiến thức xã hội mà phần lớn họ dành thời gian còn lại
cho các công việc của gia đình. Phụ nữ dân tộc H’mông bị hạn chế về kỹ
thuật, chuyên môn và sự hiểu biết nên gặp không ít khó khăn trong việc nắm
bắt thông tin pháp luật, tìm nguồn vốn, tìm kiếm thị trường, khó khăn trong
việc tiếp cận và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mới, các phương tiện hiện
đại vào sản xuất và đời sống. Do vậy, hiệu quả công việc và năng suất lao
động của họ luôn thấp hơn so với nam giới.
- Yếu tố về sức khoẻ: Sự hạn chế về sức khoẻ do đặc thù của nữ giới và
thời gian làm việc cũng ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của
họ. Đặc biệt với phụ nữ dân tộc H’mông vừa phải lao động nặng, vừa phải
thực hiện thiên chức của mình là mang thai, sinh đẻ, cùng với điều kiện sinh
hoạt thấp kém đã làm cho sức khoẻ của họ bị giảm sút. Điều này không
những ảnh hưởng đến khả năng lao động mà còn làm cho vai trò của phụ nữ
trong gia đình cũng như trong việc phát triển kinh tế gia đình trở nên thấp
kém hơn.
- Khả năng tiếp nhận thông tin của phụ nữ dân tộc H’mông: Thiếu
thông tin không chỉ làm phụ nữ dân tộc H’mông gặp nhiều khó khăn trong
việc sản xuất kinh doanh mà còn làm cho phụ nữ bị hạn chế cả về tầm nhận
thức và hiểu biết xã hội. Phụ nữ phải đảm nhận một khối lượng công việc lớn
trong mỗi ngày và chiếm gần hết thời gian của họ. Do vậy cơ hội để phụ nữ
giao tiếp rộng rãi, tham gia hội họp để nắm bắt thông tin cũng rất hiếm. Theo
báo cáo của Chính phủ thì 80% lươ ̣ng báo chí phát hành đươ ̣c tập trung ở
thành thị, có nghĩa là 80% dân số nông thôn ở nước chỉ tiếp cận được với
20% lượng báo chí phát hành. Đây cũng chỉ là con số lý thuyết, trên thực tế
có nhiều vùng nông thôn xa xôi hẻo lánh người dân còn chưa hề đươ ̣c tiếp
xúc với báo chí và các hình thứ c chuyển tải thông tin khác.
33
- Các chương trình chính sách hỗ trỡ của nhà nước và địa phương: Trong
những năm qua, hiệu quả của các chương trình 135 và 134 đã được thể hiện
thông qua: hỗ trỡ vốn, ổn định sản xuất của người dân, khắc phục hiện tượng
du canh, du cư, người dân chuyển hướng thâm canh, hỗ trợ khoa học kỹ thuật
mới vào sản xuất, thu nhập của hộ gia đình được nâng cao, chất lượng cuộc sống
của các hộ dân tộc thiểu số được nâng cao dần.
Phụ nữ dân tộc nói chung và phụ nữ dân tộc H’mông được nâng cao trình
độ chuyên môn, sức khỏe, khả năng tiếp cận thông tin,… sẽ là nhân tố quan
trọng góp phần nâng cao vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong gia đình cũng
như thu nhập cho hộ.
Qua các yếu tố bao gồm cả khách quan lẫn chủ quan đã tác động không
tốt khiến cho phụ nữ dân tộc H’mông bị lâm vào vòng luẩn quẩn của sự
nghèo đói và bất bình đẳng. Vì thế cần phải tiến tới quyền bình đẳng đối với
phụ nữ dân tộc H’mông. Bình đẳng nam nữ nhằm giải phóng sức lao động xã
hội, xây dựng và củng cố thêm nền văn minh nhân loại.
1.8. Bài học kinh nghiệm rút ra trong việc nâng cao vai trò của phụ nữ
dân tộc H’mông trong phát triển kinh tế hộ gia đình tại tỉnh Thái Nguyên
1.8.1. Một số điển hình về vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong phát
triển kinh tế hộ gia đình ở Việt Nam
Nông nghiệp là sinh kế chính của đồng bào dân tộc H’mông, do đó phát
triển nông nghiệp vẫn là con đường thoát nghèo chủ đạo ở các cộng đồng
người H’mông.
1.8.1.1. Kinh nghiệm tại huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên
Nậm Pồ là một huyện miền núi, biên giới, nằm về phía Tây Bắc của
tỉnh Điện Biên. Huyện có 8 thành phần dân tộc, trong đó chủ yếu là người dân
tộc H’mông (chiếm tỷ lệ 69,18%). Để giúp cho phụ nữ các dân tộc của huyện
nói chung cũng như phụ nữ dân tộc H’mông nói riêng phát triển kinh tế hộ gia
đình, Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Nậm Pồ đã có nhiều giải pháp để nâng cao
vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế.
34
Hiện nay, Hội LHPN huyện Nậm Pồ có 5.863 hội viên, sinh hoạt ở 15
cơ sở hội; hội viên chủ yếu lao động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp.
Những năm qua, để giúp hội viên tìm được hướng đi đúng trong phát triển
kinh tế, Hội đã triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, đẩy mạnh thực hiện phong
trào “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế” tạo sự chuyển biến tích cực trong
nhận thức của hội viên. Để thúc đẩy phong trào, Hội LHPN tuyên truyền,
khuyến khích hội viên phát triển kinh tế gia đình bằng nhiều hình thức, như:
Mở rộng các loại hình sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát
triển kinh tế trang trại tổng hợp, chăn nuôi tập trung, tận dụng và khai thác
tiềm năng thế mạnh của địa phương...
Hội LHPN huyện Nậm Pồ đã xây dựng kế hoạch, tổ chức cho các cơ sở
Hội ký kết thực hiện giao ước thi đua; thường xuyên vận động gia đình hội
viên, phụ nữ duy trì thực hiện tốt các phong trào, như: “Phụ nữ giúp nhau
phát triển kinh tế”; “Phụ nữ làm kinh tế giỏi” gắn với thực hiện phong trào
“Mỗi hội viên nông thôn có một vườn rau sạch và nuôi từ 5 con gia cầm trở
lên”; tích cực tăng gia sản xuất, xóa đói giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, bảo vệ môi trường… Các phong trào đã thu hút 4.116 lượt hội viên tham
gia. Đồng thời, thực hiện hiệu quả việc giúp đỡ hội viên có hoàn cảnh khó
khăn về ngày công lao động, cho hội viên vay không lãi suất trên 88 triệu
đồng; hỗ trợ giống lợn, gà, vịt và ngô, thóc giống cho gần 200 gia đình hội
viên. Ngoài ra, Hội tích cực khai thác, tạo điều kiện thuận lợi cho hội viên,
phụ nữ tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội huyện
để phát triển kinh tế. Đến nay, Hội đang quản lý 42 tổ, 1.462 hội viên, phụ nữ
vay vốn với tổng dư nợ trên 40 tỷ đồng.
Bên cạnh việc hỗ trợ nguồn vốn vay ưu đãi, Hội LHPN huyện Nậm Pồ
thường xuyên quan tâm, giúp đỡ các hội viên bằng nhiều hình thức, như: Phối
hợp với các đơn vị mở lớp tập huấn dạy nghề và nâng cao tay nghề cho hội
viên; tổ chức các lớp tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật, trồng và chăm
35
sóc rau an toàn, kỹ thuật sản xuất, chăn nuôi, để duy trì và phát triển các mô
hình kinh tế trang trại, gia trại; xây dựng và duy trì tổ tiết kiệm tạo ra nguồn
vốn cho chị em vay không tính lãi để đầu tư sản xuất, nâng cao thu nhập;
tuyên truyền đến các hội viên thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia về
xây dựng nông thôn mới, gắn với cuộc vận động “5 không, 3 sạch”… Từ đó,
giúp chị em khẳng định vai trò làm chủ kinh tế gia đình, nhiều chị em sau khi
được tuyên truyền, học tập không còn tự ti, mặc cảm, mạnh dạn đứng ra vay
vốn đầu tư sản xuất, chăn nuôi, phát triển kinh tế gia đình. Nhờ vậy, số hộ
nghèo, đặc biệt số hộ nghèo do phụ nữ làm chủ đã giảm qua các năm.
Có thể nói, những việc làm thiết thực, cụ thể, phát huy vai trò của chị em
phụ nữ trong phát triển kinh tế - xã hội của Hội LHPN huyện Nậm Pồ đã góp
phần khẳng định vị thế của phụ nữ... Từ đó, phát huy tinh thần, khả năng sáng
tạo và những cách làm hay của mỗi hội viên trong sản xuất, kinh doanh giỏi,
tạo tiền đề vững chắc trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo và tiến trình xây
dựng nông thôn mới [Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Nậm Pồ, Điện Biên (2016)].
1.8.1.2. Kinh nghiệm tại huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái
Huyện Mù Cang Chải nằm ở phía Tây tỉnh Yên Bái, tổng số dân huyện
Mù Cang Chải là 48.656 người, trong đó 90% là dân tộc H’mông còn lại là
dân tộc Thái, Kinh và các dân tộc khác. Những năm qua, Hội LHPN huyện
Mù Cang Chải đã làm tốt các phong trào nhiệm vụ của Hội, góp phần giúp chị
em phụ nữ vùng cao được tiếp cận với các nguồn vốn, chính sách ưu đãi,
khoa học kỹ thuật hiện đại áp dụng trong trồng trọt chăn nuôi, có điều kiện
phát triển kinh tế xóa đói giảm nghèo.
Để giúp chị em phụ nữ đẩy mạnh phát triển kinh tế hộ gia đình, Hội
LHPN huyện đã chủ động phối hợp với các ngành chức năng vận động hội viên
phụ nữ gieo cấy, chăm sóc tốt diện tích lúa, ngô và thu hoạch vụ đông xuân và
cấy lúa mùa; vận động chị em tích cực trồng bảo vệ rừng, tham gia phòng cháy
chữa cháy rừng tại địa phương trong mùa khô, bảo vệ giữ gìn môi trường xanh,
36
sạch, đẹp nơi công cộng, nơi công sở và tại gia đình; xây dựng kế hoạch và
triển khai giám sát hoạt động vốn vay tại 6 xã: Hồ Bốn, Khao Mang, Nậm
Khắt, Chế Cu Nha, Cao Phạ, Nậm Có; chỉ đạo 14/14 xã, thị trấn giám sát hoạt
động vốn vay ở các tổ; chỉ đạo Hội phụ nữ các xã, thị trấn triển khai, hướng
dẫn cho các gia đình hội viên phụ nữ tham gia thực hiện Dự án “Giúp các hộ
khó khăn về kinh tế của tỉnh Yên Bái tăng thu nhập thông qua áp dụng phân
viên nén dúi sâu trong thâm canh cây lúa...”; vận động hội viên phụ nữ giúp
nhau đổi công, giúp hội viên làm nhà ở, tham gia làm đường giao thông v.v...
Đến nay, Hội Phụ nữ Mù Cang Chải đã có 33 chị có việc làm thường
xuyên với thu nhập từ 500.000 đến 1 triệu đồng/ tháng tại cơ sở sản xuất thêu dệt
thổ cẩm xã Chế Cu Nha; tổ chức 4 lớp tập huấn TOT (phân viên nén dúi sâu)
cho 62 cộng tác viên cấp thôn, 9 lớp tập huấn hỗ trợ giám sát kỹ thuật áp dụng
phân viên; ngoài ra còn giúp cây, con giống...; xây dựng và tiếp tục phát triển 3
mô hình phát triển kinh tế đến năm 2018 ở 3 bản: Trống Tông, xã La Pán Tẩn
với phong trào “5 không, 3 sạch”, bản Đề Sủa, xã Lao Chải áp dụng phân viên
nén dúi sâu, bản Háng Bla Ha B, xã Khao Mang thâm canh tăng vụ lúa xuân.
Hội chủ động phối hợp với các ngành chuyên môn mở 198 lớ p tâ ̣p huấn chuyển giao khoa học kỹ thuâ ̣t, đào tạo nghề ngắn hạn như thêu, dệt thổ cẩm, may dân dụng, chế biến nông sản cho trên 6.000 lươ ̣t hô ̣i viên; tổ chứ c hàng trăm buổi tuyên truyền, hướng dẫn về kỹ năng số ng và tổ chứ c cuô ̣c số ng gia đình, sinh đẻ có kế hoạch cho hàng chục nghìn lượt chị em; tổ chứ c xó a mù chữ cho trên 1.500 lươ ̣t hô ̣i viên. Đồng thời phát động các phong trào thi đua lao động sáng tạo gắn vớ i “Phu ̣ nữ làm kinh tế giỏ i” và ta ̣o mo ̣i điều kiê ̣n hỗ trơ ̣ hội viên vươn lên trong phát triển kinh tế gia đình.
Hội cũng đã phối hợp với Ngân hàng Chính sách xã hội huyện nhận ủy
thác trên 45 tỷ đồ ng cho 1.707 gia đình hô ̣i viên vay vố n phát triển kinh tế; vận động hội viên đóng góp vật liệu và 2.956 công lao động xóa nhà dột nát
cho 13 gia đình hội viên nghèo với tổng số tiền 130 triệu đồng [Hội Liên hiệp
Phụ nữ huyện Mù Cang Chải, Yên Bái (2016)].
37
1.8.1.3. Kinh nghiệm tại huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang
Mèo Vạc là một huyện vùng cao của tỉnh Hà Giang, thuộc quần thể
Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn, địa đầu phía Bắc của
Tổ quốc. Toàn huyện có 18 xã, thị trấn, 199 thôn bản, tổ dân phố với 14.627
hộ, 77.023 người, 17 dân tộc, trong đó dân tộc H’mông chiếm trên 78%. Cư
dân ở đây sống rải rác trên các sườn núi hoặc các thung lũng, quần tụ theo dân
tộc, dòng họ.
Hội LHPN huyện Mèo Vạc đã không ngừng đổi mới nội dung, phương
thức hoạt động, phù hợp với nhiệm vụ chính trị của địa phương, đáp ứng nhu
cầu, nguyện vọng thiết thực của hội viên phụ nữ. Nhiều hoạt động của Hội
phụ nữ được đánh giá cao, nhất là trong lĩnh vực sản xuất, phát triển kinh tế
gia đình, chương trình giảm nghèo.
Trong 5 năm qua (2011-2016), Hội LHPN huyện luôn quan tâm quán
triệt nâng cao nhận thức cho cán bộ hội viên, phụ nữ. Thực hiện hiệu quả việc
giảm nghèo bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống, phong trào “Phụ nữ
giúp nhau phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững”. Phối hợp với các đoàn thể
tổ chức mở 272 lớp tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật về sản xuất chăn
nuôi. Tín chấp các nguồn vốn vay phát triển kinh tế trên 52 tỷ đồng. Vận động
hội viên tham gia các hình thức tiết kiệm với 293 chi tổ hội, số tiền tiết kiệm
trên 3,3 tỷ đồng. Hình thành phát triển 22 mô hình phát triển kinh tế với 381
hội viên tham gia. Ra quân thực hiện phong trào nhà sạch vườn đẹp, chỉnh
trang khuân viên gia đình và ngày thứ 7 nông thôn mới. Đến nay có 2.689 gia
đình đạt tiêu chuẩn, đóng góp 3.178 ngày công lao động làm đường nông thôn,
trên 3.500 hộ di dời chuồng trại ra xa nhà. Phong trào đền ơn đáp nghĩa, nhân
đạo từ thiện được các tầng lớp phụ nữ hưởng ứng. Hỗ trợ sửa chữa xây dựng
“Mái ấm tình thương”, tặng học bổng cho học sinh nghèo... Góp phần nâng cao
chất lượng cuộc sống của các hội viên, giúp phát triển kinh tế và giảm nghèo
bền vững [Hội Liên hiệp phụ nữ huyện Mèo Vạc, Hà Giang (2016)].
38
1.8.2. Bài học kinh nghiệm rút ra trong việc nâng cao vai trò của phụ nữ
dân tộc H’mông trong phát triển kinh tế hộ gia đình tại tỉnh Thái Nguyên
- Trong hoạt động kinh tế hộ gia đình, phụ nữ dân tộc H’mông là người
lao động vất vả nhất, cường độ lao động cao (gấp 1,5 - 2 lần so với nam giới).
Họ là những người trực tiếp thực hiện quy trình sản xuất của kinh tế hộ gia
đình nhưng do quan niệm, nhận thức lạc hậu còn đang tồn tại ở một số địa
phương miền núi nên đã hạn chế quyền quyết định của họ trong xác định
hướng sản xuất, vay vốn, phân công lao động và trong sử dụng các sản phẩm
sản xuất ra. Vì vậy cần phải có sự tuyên truyền giáo dục về giới nhằm thay
đổi những quan điểm cổ hủ, lạc hậu về phụ nữ, nâng vao vai trò của chị em
trong gia đình và cộng đồng xã hội.
- Qua kết quả hoạt động tín dụng xóa đói giảm nghèo những năm qua
cho thấy: Phụ nữ dân tộc H’mông quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả hơn
nam giới.
Trong việc tính toán, xác định phương án đầu tư sản xuất, phụ nữ dân
tộc H’mông cũng thể hiện tính chính xác và thực tiễn hơn nam giới nên khả
năng quay vòng vốn nhanh hơn. Đối với phụ nữ dân tộc H’mông, sự thất
thoát vốn tín dụng (vốn vay) do liên hoan, rượu chè, cờ bạc hầu như là rất ít
(trừ một vài trường hợp cá biệt).
Qua thực tiễn cho thấy, tính tương trợ cộng đồng của người phụ nữ
cao hơn nam giới, thể hiện là các tổ tương trợ, tổ tiết kiệm và các tổ vay
vốn của phụ nữ dân tộc H’mông hoạt động có hiệu quả hơn so với các tổ do
nam giới làm chủ.
- Đi liền với việc huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn trong
nước và quốc tế bằng các chương trình mục tiêu, các dự án đầu tư là phải tổ
chức các lớp bồi dưỡng, đào tạo, tập huấn để phổ biến cách thức sản xuất
kinh doanh, cách sử dụng đồng vốn đầu tư cho đúng mục đích và có hiệu
quả. Thông qua hoạt động của Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến
39
binh, Đoàn thanh niên và các tổ chức khuyến nông, khuyến lâm để mở lớp
tập huấn chuyển giao kỹ thuật và xây dựng một số mô hình trình diễn để
tuyên truyền phổ biến cho phụ nữ đồng bào các dân tộc vùng cao, đặc biệt
đối với phụ nữ người H’mông.
- Đề cao vai trò cán bộ cơ sở, cán bộ Hội phụ nữ xã, cán bộ phụ trách
từng thôn bản, hướng dẫn giúp đỡ từng hộ phát triển kinh tế hộ gia đình. Vì
đó là những người gần gũi, hiểu biết hoàn cảnh từng hộ gia đình, hoàn cảnh
từng chị em nhất.
Qua đó xác định rõ các nguyên nhân hạn chế phát triển kinh tế hộ gia
đình như do thiếu đất canh tác, do thiếu kiến thức sản xuất, do thiếu vốn vay
hay do sinh thiếu lao động, do đẻ nhiều, ốm đau hay do tệ nạn xã hội... để từ
đó có biện pháp giúp đỡ.
40
Chương 2
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Các câu hỏi đặt ra mà đề tài cần giải quyết
- Thực trạng vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong phát triển kinh tế
hộ gia đình trên địa bàn huyện Đồng Hỷ?
- Những yếu tố nào tác động đến việc nâng cao vai trò phụ nữ dân tộc
H’mông trong phát triển kinh tế hộ?
- Giải pháp nhằm nâng cao vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong
phát triển kinh tế hộ gia đình ở huyện Đồng Hỷ trong thời gian tới?
2.2. Phương pháp tiếp cận nghiên cứu
- Tiếp cận nghiên cứu xã hội học (giới): Nhằm nghiên cứu đặc tính của
dân tộc, giới, sự khác nhau và các yếu tố ảnh hưởng đến giới, đến dân tộc.
- Tiếp cận nghiên cứu kinh tế hệ thống: Nhằm nghiên cứu các hệ thống
sản xuất kinh doanh các loại hình cây trồng, vật nuôi, các yếu tố trong nền
kinh tế của địa phương, của hộ.
2.3. Phương pháp nghiên cứu:
2.3.1. Chọn điểm nghiên cứu
Đồng Hỷ là huyện trung du - miền núi nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh
Thái Nguyên. Huyện Đồng Hỷ có diện tích đất tự nhiên 45.475,52 ha, trong
đó đất nông nghiệp 15.266,72 ha (chiếm 33,57%), có 22.855,66 ha đất lâm
nghiệp (chiếm 50,26%) chia thành 18 đơn vị hành chính (15 xã và 3 thị trấn)
với dân số trên 114.300 người, trong đó nữ 57.644 người chiếm 50,45%. Do
đặc điểm nghiên cứu của đề tài là “Vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong
phát triển kinh tế hộ gia đình tại huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên” nên việc
chọn điểm nghiên cứu là những xã có lực lượng phụ nữ dân tộc H’mông lớn,
thu nhập chủ yếu từ việc phát triển kinh tế hộ gia đình như trồng trọt, chăn
nuôi... Trong những năm qua, Đảng và nhà nước đã có nhiều chính sách quan
tâm, hỗ trợ đến kinh tế của các hộ gia đình đồng bào dân tộc H’mông, đời
41
sống của đồng bào dân tộc H’mông đã có những chuyển biến tích cực; tuy
nhiên, so với những dân tộc khác trên địa bàn huyện Đồng Hỷ thì đời sống
kinh tế của các hộ gia đình dân tộc H’mông còn nghèo nàn, trình độ dân trí
thấp... đây vẫn là bài toán khó. Với những lý do trên, các xã có số lượng hộ
gia đình người dân tộc H’mông trên địa bàn huyện Đồng Hỷ được chọn là
điểm nghiên cứu của luận văn. Đề tài sẽ tiến hành chọn 3 xã có số lượng hộ
gia đình người dân tộc H’mông lớn nhất làm điểm nghiên cứu:
- Xã Văn Lăng: là một xã vùng cao miền núi của huyện Đồng Hỷ, cách
trung tâm huyện Đồng Hỷ 24 km về phía bắc, thuộc vùng III vùng đặc biệt khó
khăn với diện tích đất tự nhiên là 6.416,28, dân số trung bình là 5.480 người, có
1.297 hộ dân trong đó có 235 hộ là người dân tộc H’mông. Đời sống nhân dân
chủ yếu dựa vào sản xuất nông, lâm nghiệp và canh tác nương rẫy nên còn gặp
nhiều khó khăn. Tỷ lệ hộ nghèo chiếm tới 40,2% trên toàn xã, có 15/16 xóm xác
định là xóm đặc biệt khó khăn, trong đó có 5 xóm có nhiều đồng bào dân tộc
H’mông sinh sống như: Bản Tèn, Mỏ Nước, Liên Phương, Khe Cạn, Vân Lăng.
Tỷ lệ hộ nghèo là đồng bào dân tộc H’mông trên số hộ dân tộc H’mông tại các
xóm của xã Văn Lăng ở mức khá cao như: xóm Bản Tèn, Mỏ Nước, Liên
Phương, Vân Lăng đều là 100%, xóm Khe Cạn tỷ lệ này là 52%.
- Xã Tân Long: là xã nằm tại phía bắc của huyện và theo chiều kim
đồng hồ từ phía đông, lần lượt tiếp giáp với xã La Hiên của huyện Võ Nhai,
xã Quang Sơn, Hóa Trung, Minh Lập, Hòa Bình, Văn Lăng và xã Thần Xa
thuộc Võ Nhai. Có diện tích đất tự nhiên là 4.114,07 ha, dân số trung bình là
5.658 người với 1.415 hộ. Xã Tân Long được chia thành 9 xóm là Ba Đình,
Đồng Mẫu, Làng Mới, Mỏ Ba, Đồng Luông, Đồng Mây, Làng Giếng, Hồng
Phong, Lân Quang. Trong đó có 221 hộ dân tộc H’mông, sống tập trung ở 2
xóm Mỏ Ba, Lân Quang. Tỷ lệ hộ nghèo là đồng bào dân tộc H’mông trên số
hộ dân tộc H’mông tại xã Tân Long ở mức khá cao như: xóm Mỏ Ba (72%),
xóm Lân Quang (47%).
42
- Xã Quang Sơn: Quang sơn là một xã miền núi nằm ở phía Bắc của
huyện Đồng Hỷ, phía Bắc giáp xã La Hiên huyện Võ Nhai, Phía Tây giáp xã
Hoá Trung và xã Tân Long huyện Đồng Hỷ, Phía Nam giáp xã Khe Mo và
Thị trấn Sông Cầu. Có diện tích 1.401,89 ha, dân số là 3.016 người với 806
hộ dân. Xã Quang Sơn có 2 xóm có đồng bào dân tộc H’mông sinh sống là
xóm Lân Đăm và xóm Trung Sơn với 64 hộ đồng bào dân tộc H’mông, tỷ lệ
hộ nghèo còn ở mức khá cao, với xóm Lân Đăm có 100% hộ đồng bào dân
tộc H’mông là hộ nghèo, xóm Trung Sơn (36%). Nguyên nhân nghèo chủ yếu
là do thiếu đất sản xuất, vốn, thiếu lao động và đông con.
2.3.2. Phương pháp thu thập số liệu
2.3.2.1. Nguồn số liệu thứ cấp
Các báo cáo tổng quan về điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội của
huyện Đồng Hỷ; niên giám thống kê tỉnh và huyện; các báo cáo chuyên
ngành, những báo cáo khoa học đã được công bố và các thông tin, tài liệu do
các cơ quan của huyện Đồng Hỷ và tỉnh Thái Nguyên cung cấp: UBND tỉnh
Thái Nguyên, Chi cục thống kê huyện, Phòng Kinh tế, Phòng Nội vụ, Phòng
Lao động Thương binh và Xã hội; Ban vì sự tiến bộ phụ nữ, Hội phụ nữ các
cấp; UBND huyện, các phòng, ban ngành, đoàn thể huyện Đồng Hỷ; UBND
xã Tân Long, xã Văn Lăng, xã Quang Sơn của huyện Đồng Hỷ. Một số sách,
báo, tạp chí, các công trình nghiên cứu có liên quan đến vấn đề vai trò phụ nữ
trong phát triển kinh tế hộ gia đình.
Các tài liệu trên giúp đề tài có cái nhìn tổng quan về tình hình lao động,
việc làm nói chung và của phụ nữ dân tộc H’mông trên địa bàn huyện Đồng
Hỷ nói riêng. Vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong phát triển kinh tế hộ
gia đình tại huyện Đồng Hỷ.
Phương pháp thu thập: thông qua ghi chép, thống kê các dữ liệu cần
thiết cho đề tài với các chỉ tiêu được chuẩn bị sẵn.
43
2.3.2.2. Nguồn số liệu sơ cấp
Thu thập số liệu mới được thực hiện qua các phương pháp sau:
* Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA: Rapid Rural Appraisal):
Đi thực tế để quan sát đánh giá thực trạng việc sản xuất, trồng trọt, chăn nuôi,
các hoạt động tạo thu thập; những thông tin qua những hộ gia đình ở vùng
nghiên cứu và các cán bộ, thu thập những tài liệu thông tin đã có tại nơi
nghiên cứu.
* Phương pháp đánh giá nông thôn có người dân tham gia (PRA: Trực
tiếp tiếp xúc với các hộ gia đình đồng bào dân tộc H’mông tại các nơi nghiên
cứu, tạo điều kiện và thúc đẩy sự tham gia của hộ gia đình đồng bào dân tộc
H’mông vào những vấn đề cần nghiên cứu, đàm thoại với họ để thu thập
những thông tin nhằm nắm được thực trạng việc phát triển kinh tế hộ gia đình,
đời sống và những tiềm năng, những khó khăn, nhu cầu... . Phương pháp được
sử dụng nhằm đánh giá khả năng phát triển kinh tế hộ gia đình hộ đồng bào
dân tộc H’mông hiện tại và tương lai. Xác định và đề ra các vấn đề ưu tiên để
tiếp tục nghiên cứu, đánh giá khả năng thực hiện và đề ra những giải pháp
phát triển kinh tế hộ gia đình đồng bào dân tộc H’mông.
* Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo: Sử dụng phương pháp này để
thu thập các thông tin rộng rãi từ các chuyên gia qua các hội nghị hội thảo,
điều tra, phỏng vấn trực tiếp người có kinh nghiệm trong lĩnh vực của đề tài
nghiên cứu trong việc xác định những khó khăn, vướng mắc, xây dựng
phương hướng và giải pháp để thực hiện trong thời gian tới.
* Phương pháp sinh hoạt chi đoàn, chi hội gắn với phỏng vấn, điều tra
nhóm nhỏ:
Trong các buổi sinh hoạt chi đoàn, chi hội, lồng ghép các chủ đề về
phát triển kinh tế để các đoàn viên, hội viên bày tỏ quan điểm của mình về
vấn đề này, sau đó chủ tọa tập hợp các ý kiến và thảo luận.
44
* Phương pháp điều tra: Gồm các bước sau:
Từ ba xã có số lượng hộ gia đình đồng bào dân tộc H’mông lớn nhất trong
toàn huyện Đồng Hỷ. Lựa chọn ở mỗi xã các bản mang tính đặc trưng đại diện
cho các xã, lấy đó làm cơ sở để chọn điểm và chọn đối tượng làm mẫu điều tra.
- Chọn mẫu điều tra
Hộ nghiên cứu là các hộ gia đình phụ nữ dân tộc H’mông làm kinh tế
trong độ tuổi lao động, có độ tuổi từ 18 đến 55 tuổi. Hộ nghiên cứu phải nằm
trong các xã đã được chọn, đồng thời mang tính đại diện cho các hộ trong vùng.
Số mẫu điều tra được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên dựa theo danh sách hộ.
Trong đó: n: số mẫu nghiên cứu;
Sử dụng công thức Yamane (1967) tính kích thước mẫu như sau:
N: tổng thể mẫu;
e: Sai số tiêu chuẩn ± 5%
Tổng số hộ gia đình đồng bào dân tộc H’mông trên địa bàn huyện
Đồng Hỷ là: 520 hộ.
Ta có số mẫu nghiên cứu:
520
n = = 226,087 làm tròn = 226 hộ (1 + 520*0.0025)
Kết quả chọn mẫu được trình bày trong bảng sau:
Bảng 2.1: Kết quả lựa chọn nhóm hộ điều tra
Tổng số hộ dân tộc Số hộ dân tộc H’mông Tên xã H’mông được chọn nghiên cứu
Xã Tân Long 221 96
Xã Quang Sơn 64 28
Xã Văn Lăng 235 102
Tổng cộng 520 226
45
Sau khi xác định được số lượng mẫu cần điều tra và địa điểm điều tra,
bước tiếp theo là xây dựng phiếu điều tra tình hình sản xuất, kinh doanh cho
các hộ điều tra.
Thu thập tình hình của hộ bằng phiếu điều tra xây dựng trước. Qua
phiếu điều tra này sẽ cho phép thu thập được các thông tin định tính và định
lượng về các vấn đề liên quan đến nguồn lực, thông tin lao động, nguồn vốn
cũng như thuận lợi khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ.
- Nội dung điều tra
Nội dung điều tra có các thông tin chủ yếu như: lao động, trình độ văn
hóa, trình độ chuyên môn của phụ nữ. Các nguồn lực của gia đình như ruộng
đất, tư liệu sản xuất, vốn,... hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ, sử dụng
thu nhập và phúc lợi gia đình, tiếp cận các dịch vụ trợ giúp sản xuất, … Các
thông tin liên quan đến toàn bộ hoạt động phụ nữ trong quản lý và điều hành
sản xuất, phụ nữ trong hoạt động sản xuất tạo thu nhập, phụ nữ trong tiếp cận
khoa học kỹ thuật, phụ nữ trong quản lý vốn, phụ nữ trong kiểm soát các
nguồn lực của hộ, … được thể hiện bằng những câu hỏi cụ thể để phụ nữ hiểu
và trả lời chính xác, đầy đủ.
d. Phương pháp điều tra
- Phỏng vấn trực tiếp với phụ nữ dân tộc H’mông; đàm thoại với phụ
nữ thông qua một loạt các câu hỏi mở và phù hợp với tình hình thực tế, sử
dụng linh hoạt và thành thạo các dạng câu hỏi: Ai? Cái gì? Ở đâu? Khi nào?
Tại sao? Như thế nào? và Bao nhiêu?… Phỏng vấn số phụ nữ đã chọn, kiểm
tra tính thực tiễn của các thông tin thông qua quan sát trực tiếp.
- Thảo luận nhóm: thông qua hình thức thảo luận của các nhóm phụ nữ,
nhằm thu thập các thông tin về hoạt động sản xuất tạo thu nhập, tiếp cận khoa
học kỹ thuật, quản lý vốn, quản lý và điều hành sản xuất,…
46
- Phỏng vấn sâu: trong quá trình thực hiện các nội dung của luận văn, ý
kiến một số chuyên gia đang hoạt động ở lĩnh vực giáo dục, lao động và việc
làm, công tác Hội Liên hiệp Phụ nữ và ý kiến của lãnh đạo cấp ủy, chính
quyền địa phương,... đã được thu thập về các yếu tố ảnh hưởng tới năng lực
và sự đóng góp của phụ nữ, các nhóm giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò
của phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ gia đình.
- Quy trình điều tra: Sau khi phiếu điều tra sơ bộ được xây dựng, 20
mẫu điều tra thử được tiến hành để kiểm định sự phù hợp của mẫu phiếu. Sau
khi điều chỉnh, điều tra được tiến hành với quy mô mẫu là 226 hộ. Tuy nhiên
để tăng độ chính xác và để loại trừ những mẫu không đạt chất lượng hoặc số
liệu điều tra trùng nhau nên số lượng mẫu được tăng lên là 240 hộ.
2.3.3. Phương pháp tổng hợp
Công cụ để tổng hợp số liệu điều tra là bảng tính excel, SPSS 16.
Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tổ thống kê để tổng hợp số liệu và sử
dụng bảng thống kê, đồ thị thống kê để trình bày kết quả tổng hợp số liệu.
2.3.4. Phương pháp phân tích
* Phương pháp thống kê mô tả:
Thống kê mô tả là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng kinh tế - xã
hội bằng việc mô tả thông qua các số liệu thu thập được. Phương pháp này
được sử dụng để phân tích tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh và tình hình phát
triển kinh tế qua các năm.
* Phương pháp thống kê kinh tế
- Sử dụng hệ thống chỉ tiêu, chỉ số, tổng hợp tính toán số liệu trên cơ sở
tài liệu điều tra.
- Phân tích mức độ ảnh hưởng của việc phát triển kinh tế hộ gia đình
đến tình hình kinh tế chính trị xã hội của địa phương.
- Tiến hành tổng hợp, phân tích, xử lý dữ liệu bằng excel, SPSS 16.
47
* Phương pháp so sánh:
Phương pháp so sánh được ứng dụng rộng rãi trong các nghiên cứu
KTXH trong luận văn tác giả sử dụng phương pháp này nhằm xác định mức
biến động của dân số, tình hình phát triển kinh tế, xu hướng biến động dân số,
đất canh tác, đất lâm nghiệp qua các năm. So sánh kết quả và hiệu quả của
trình độ, khả năng tiếp cận thông tin…của phụ nữ dân tộc H’mông tại các xã
nghiên cứu trong phát triển kinh tế hộ gia đình.
- Sử dụng cách thức so sánh: với hộ gia đình phụ nữ có trình độ học
vấn khác nhau, khả năng kiểm soát nguồn lực của hộ khác nhau, khả năng
tiếp cận thông tin khác nhau…
- Đối chiếu so sánh với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và
của Đoàn - Hội về phát triển kinh tế hộ gia đình vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
* Công cụ xử lý số liệu
Sử dụng phần mềm Microsoft Office Excel 2007 và phần mềm phân
tích số liệu thống kê SPSS 16 (Statistical Package for Social Sciences).
* Phương pháp dự báo.
2.4. Hệ thống hóa các chỉ tiêu nghiên cứu
2.4.1. Nhóm các chỉ tiêu chung
+ Tổng số hộ, số khẩu, số khẩu nữ
+ Diện tích đất
+ Tổng số phụ nữ, độ tuổi, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn
2.4.2. Nhóm các chỉ tiêu về kinh tế
+ Thu nhập bình quân, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu, thu
nhập từ trồng trọt, từ chăn nuôi, từ ngành nghề tiểu thủ công nghiệp
+ Tỷ lệ đóng góp của phụ nữ trong sản xuất tạo thu nhập, xóa đói giảm
nghèo
+ Vai trò của phụ nữ trong sản xuất
+ Tỷ lệ tham gia của phụ nữ trong các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi và
lâm nghiệp
+ Tỷ lệ tham gia của phụ nữ trong kiểm soát nguồn lực của hộ
48
+ Tỷ lệ tham gia của phụ nữ trong việc ra quyết định trồng cây gì, nuôi con
gì, bán cho ai, giá bán...
2.4.3. Nhóm các chỉ tiêu về xã hội
+ Số hộ nghèo, số hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ, số hộ nghèo do
thiếu vốn, số hộ nghèo do thiếu kiến thức, số hộ nghèo do đông con
+ Tổng lao động, lao động nữ, lao động không có việc làm
+ Giáo dục - đào tạo,…
2.4.4. Nhóm chỉ tiêu về vai trò ra quyết định của người phụ nữ trong gia đình
+ Phụ nữ trong quản lý và điều hành sản xuất
+ Phụ nữ trong hoạt động sản xuất tạo thu nhập
+ Phụ nữ trong tiếp cận khoa học kỹ thuật
+ Phụ nữ trong quản lý vốn
+ Phụ nữ trong phân công lao động của gia đình
+ Phụ nữ trong tiếp cận thông tin
49
Chương 3
THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC H’MÔNG
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN
3.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
3.1.1. Điều kiện tự nhiên
3.1.1.1. Vị trí địa lý, địa hình
Đồng Hỷ là huyện trung du - miền núi nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh
Thái Nguyên. Huyện lỵ đặt tại thị trấn Chùa Hang, cách trung tâm thành phố
Thái Nguyên 3 km về phía Đông Bắc. Địa phận huyện Đồng Hỷ trải dài từ
21032’ đến 21051’ độ vĩ bắc, 105046’ đến 106004’ độ kinh đông.
Phía Bắc: giáp huyện Võ Nhai và huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn.
Phía Nam: giáp huyện Phú Bình và thành phố Thái Nguyên.
Phía Đông: giáp huyện Yên Thế tỉnh Bắc Giang.
Phía Tây: giáp huyện Phú Lương và thành phố Thái Nguyên.
Huyện Đồng Hỷ có diện tích tự nhiên 45.524,44 ha chia thành 18 đơn
vị hành chính (15 xã và 3 thị trấn) với dân số trên 11 vạn người. Có địa hình
phức tạp, không thống nhất. Với độ cao trung bình khoảng 100m so với mặt
biển, cao nhất là Lũng Phượng - Văn Lăng, Mỏ Ba - Tân Long trên 600m,
thấp nhất là Huống Thượng 20m. Phía Bắc giáp huyện Võ Nhai có địa hình
núi cao, diện tích đất nông nghiệp ít, chiếm gần 9% tổng diện tích đất tự
nhiên. Phía Tây Nam giáp thành phố Thái Nguyên, địa hình tương đối bằng
phẳng, có dòng sông Cầu chảy qua, diện tích đất nông nghiệp chiếm gần 20%
diện tích đất tự nhiên, phù hợp với sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi. Phía
Đông Nam tiếp giáp huyện Yên Thế, Bắc Giang có nhiều đồi núi thấp với
diện tích đất nông nghiệp chiếm gần 14% diện tích đất tự nhiên, thích hợp
trồng cây ăn quả và chăn nuôi đại gia súc.
50
Huyện Đồng Hỷ có đường quốc lộ 1B đi qua cùng với hệ thống đường
liên huyện, liên xã, liên thôn đang dần được nhựa hóa, bê tông hóa đã tạo
thành mạng lưới giao thông khá hoàn chỉnh. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc
lưu thông giữa huyện với thành phố, thị xã, các huyện trong tỉnh và các tỉnh
khác. Với vị trí liền kề thành phố Thái Nguyên, đô thị loại I trực thuộc tỉnh
Thái Nguyên, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, du lịch,
dịch vụ của tỉnh Thái Nguyên và Vùng Trung du miền núi Bắc Bộ nên chịu sự
tác động lớn về giao lưu trong nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội. Đây là điều
kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ, phổ biến và quảng bá các mặt hàng nông lâm
sản của huyện. Ngoài ra trên địa bàn huyện còn có nhiều núi đá vôi, điều kiện
tự nhiên này có thể giúp cho huyện Đồng Hỷ phát triển mạnh mẽ ngành khai
thác và sản xuất nguyên vật liệu xây dựng.
Với lợi thế về vị trí địa lý và giao thông nêu trên, huyện Đồng Hỷ có
điều kiện thuận lợi để thực hiện quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa. Điều
này sẽ tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới trong các ngành công nghiêp và dịch
vụ cũng như việc làm phi nông nghiệp trong nông thôn. Tuy nhiên, các cơ hội
việc làm này có sớm hay muộn còn phụ thuộc vào tốc độ công nghiệp hóa -
đô thị hóa và khả năng thụ hút lao động của các ngành công nghiệp và dịch vụ
sẽ phát triển trên địa bàn Huyện.
3.1.1.2. Đặc điểm thời tiết khí hậu
Khí hậu của huyện Đồng Hỷ mang tính đặc trưng của vùng miền núi và
trung du, chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa nên đặc điểm khí hậu
chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa nóng mưa nhiều từ tháng 4 đến tháng 10, mùa
lạnh mưa ít từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau.
Nhiệt độ trung bình năm là 24,6oC, nhiệt độ cao nhất là 28,90C, nhiệt
độ thấp nhất là 170C.
Độ ẩm không khí lớn nhất vào tháng 3 và tháng 7: 88%, thấp nhất vào
tháng 2 và tháng 11: 77%.
51
Lượng mưa trung bình lớn nhất hằng năm là 2.000 - 2.500 mm; Số
ngày mưa trong năm khoảng 150 - 160 ngày; Lượng mưa tháng lớn nhất là
489 mm, lượng mưa tháng nhỏ nhất là 22 mm.
Khí hậu nóng ẩm thuận lợi cho phát triển ngành nông, lâm nghiệp, với
điều kiện nhiệt độ cao có thể làm nhiều vụ trong một năm mà vòng sinh
trưởng của cây trồng vẫn có thể đảm bảo, thêm vào đó với điều kiện mưa ẩm
nên có nhiều loài thực vật phát triển.
Nhìn chung, điều kiện thời tiết khí hậu của huyện Đồng Hỷ có những
điều kiện thuận lợi cho sinh trưởng, phát triển của cây trồng, vật nuôi. Tuy
nhiên, vùng này cũng phải chịu những thay đổi đột ngộ của khí hậu, thời thiết
và thủy văn gây ra như: lũ lụt, hạn hán, sâu bệnh...gây ảnh hưởng không nhỏ
đến phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp. Vì vậy, cần có những giải pháp chủ
động phòng, chống thiên tai, đồng thời khai thác những điều kiện thuận lợi
nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất nông lâm nghiệp.
3.1.1.3. Đất đai và các tài nguyên thiên nhiên khác
i). Đất đai
Đất đai là nguồn tài nguyên quý giá nhất cho sự phát triển kinh tế -
xã hội, là tư liệu sản xuất đặc biệt và không thể thay thế trong sản xuất
nông nghiệp. Vấn đề sử dụng đất đai có ý nghĩa rất lớn trong vấn đề phát
triển kinh tế của huyện. Trong những năm qua, công tác quản lý nhà nước
về đất đai đã được Lãnh đạo huyện Đồng Hỷ quan tâm chỉ đạo thường
xuyên, triển khai thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2011
- 2015, thành lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đến năm 2020. Khai
hoang đưa vào sử dụng nhiều diện tích đất chưa sử dụng, năm 2014 diện
tích đất chưa sử dụng là 3.010,63 ha chiếm 6,62% tổng diện tích đất tự
nhiên đến năm 2016 chỉ còn 2.041,67 ha chiếm 4,49%. Tình hình sử dụng
đất huyện Đồng Hỷ thể hiện ở Bảng 3.1:
52
Bảng 3.1: Tình hình sử dụng đất huyện Đồng Hỷ giai đoạn 2014-2016
Năm 2014
Năm 2015
Năm 2016
Chỉ tiêu
Diện tích (ha)
Diện tích (ha)
Diện tích (ha)
TỔNG DIỆN TÍCH TỰ NHIÊN
1. Đất Nông nghiệp Đất trồng cây hàng năm Đất trồng lúa Đất cỏ dùng vào chăn nuôi Đất trồng cây hàng năm khác Đất trồng cây lâu năm 2. Đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản 3. Đất Lâm nghiệp (Diện tích đất có rừng) Rừng tự nhiên Rừng trồng 4. Đất ở Đất ở nông thôn Đất ở thành thị 5. Đất chuyên dung 6. Đất chưa sử dụng Đất bằng chưa sử dụng Đất đồi núi chưa sử dụng Núi đá không có rừng cây
Cơ cấu (%) 100,00 33,11 55,40 64,85 0,26 34,89 44,60 0,57 48,66 54,04 45,96 2,06 87,74 12,26 8,98 6,62 13,31 20,20 66,49
Cơ cấu (%) 100,00 33,57 47,19 70,30 0,30 29,40 52,81 0,86 50,26 52,32 47,68 2,11 88,23 11,77 8,71 4,49 2,98 3,16 93,86
45.475,52 15.266,72 7.204,77 5.064,66 21,66 2.118,45 8.061,95 393,07 22.855,66 11.958,84 10.896,82 958,43 845,59 112,84 3.959,97 2.041,67 60,86 64,59 1.916,22
45.475,52 15.057,08 8.340,91 5.409,11 21,66 2.910,14 6.716,17 257,76 22128,96 11.958,84 10.170,12 935,82 821,1 114,72 4.085,27 3010,63 400,79 608,11 2.001,73
Cơ cấu (%) 100,18 33,57 47,19 72,72 0,41 32,80 52,81 1,05 50,26 52,32 49,98 2,11 89,69 11,98 8,71 4,49 2,98 3,16 90,67
45.475,52 15.266,72 7.204,77 5.239,66 29,66 2.363,45 8.061,95 476,07 22.855,66 11.958,84 11.422,82 958,43 859,59 114,84 3.959,97 2.041,67 60,86 64,59 1.851,22
(Nguồn: Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Đồng Hỷ)
53
Qua các bảng 3.1 ta thấy diện tích đất nông, lâm nghiệp trên địa bàn
huyện chiếm tỷ lệ chủ yếu. Đây chính là tiềm năng rất lớn để huyện đẩy mạnh
thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp, xây dựng các mô hình liên kết
trong chuỗi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, ứng dụng khoa học và
công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp.
ii).Tài nguyên nước
Đa số sông, suối của huyện Đồng Hỷ đều bắt nguồn từ khu vực núi cao
phía Bắc và Đông Bắc chảy vào sông Cầu. Mật độ sông, suối bình quân
0,2km/km2 gồm các sông, suối lớn như: Sông Cầu, sông Linh Nham,suối
Ngòi Trẹo.
Ngoài ra còn có hàng chục con suối lớn nhỏ khác cộng với hàng chục
hồ nước lớn, nhỏ phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Nước ngầm qua thăm dò
được đánh giá là rất phong phú. Chất lượng nguồn nước của huyện Đồng Hỷ
do tác động của con người nên đang bị ô nhiễm, cần có giải pháp hữu hiệu để
giảm thiểu mức độ ô nhiễm nhằm đảm bảo chất lượng và tiềm năng khai thác
phục vụ đời sống.
iii). Tài nguyên rừng
Theo số liệu điều tra năm 2016, diện tích rừng tự nhiên của huyện
Đồng Hỷ là 11.985,84 ha. Trong những năm qua, thực hiện kế hoạch tỉnh
giao, huyện đã tiến hành giao đất cho dân phục vụ khoanh nuôi, tái sinh,
trồng rừng (Diện tích đất đồi núi chưa sử dụng năm 2005 là 5.362,7 ha
đến năm 2016 chỉ còn lại 3,16 ha) giúp nâng diện tích rừng trồng đến năm
2016 đạt 11.422,82 ha. Đây chính là tiềm năng lớn cho ngành lâm nghiệp
của địa phương.
iv). Tài nguyên khoáng sản
Đồng Hỷ có nhiều mỏ khoáng sản với trữ lượng khá lớn, thành phần đa
dạng như: quặng sắt, chì, kèm, vàng, đá xây dựng, đất sét...tập trung ở Trại
Cau, Linh Sơn, làng Hích, làng Mới, Khe Mo, Tiến Bộ...
54
Nhìn chung tài nguyên khoáng sản ở Đồng Hỷ rất phong phú, có nhiều
loại có trữ lượng lớn và có ý nghĩa kinh tế cao. Tuy nhiên, do khâu quản lý
chưa chặt chẽ, vẫn còn hiện tượng khai thác lậu nên ảnh hướng không nhỏ
đến môi trường, cảnh quan xung quanh.
v). Tài nguyên du lịch
Huyện Đồng Hỷ có di tích văn hóa Chùa Hang bao gồm quần thể Chùa
Hang, hang động núi đá thực vật với tổng diện tích quy hoạch gần 8 ha. Ngoài
ra còn có các di tích lịch sử cách mạng như: Đền Văn Hán, cụm di tích
Phượng Hoàng, Đền Linh Sơn, suối Tiên.. hằng năm có các lễ hội lớn vào
tháng giêng như: Hội Chùa Hang, hội Đền Hích...
3.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
3.1.2.1. Tình hình dân số và lao động
Theo số liệu thống kê của Chi cục Thống kê huyện Đồng Hỷ ở Biểu
3.2. Năm 2014 dân số trung bình của huyện là 112.200 người đến năm 2016
là 115.523 người.
55
Bảng 3.2: Tình hình dân số và lao động huyện Đồng Hỷ giai đoạn 2014-2016
Năm 2014
Năm 2015
Năm 2016
So sánh (%)
STT
Chỉ tiêu
ĐVT
Số lượng
Số lượng
Số lượng
2015/ 2014
2016/ 2015
Cơ cấu (%)
Cơ cấu (%)
Cơ cấu (%)
Tốc độ phát triển bình quân (%)
Số hộ trung bình
hộ
29.526
30.280
100
30.555 người 112.200 100 114.300 100 115.523 người người
100
I II Dân số trung bình Thành thị 1 2 Nông thôn III Giới tính 1 Nam 2 Nữ
102,55 100,91 101,73 101,87 101,07 101,47 18.652 16,62 19.520 17,08 19.909 17,08 104,65 101,99 103,32 93.548 83,38 94.480 82,92 94.417 82,92 101,00 100,46 99,93 112.200 100 114.300 100 114.300 101,87 100,00 100,94 55.520 49,48 56.636 49,55 57.321 49,55 102,01 101,21 101,61 56.680 50,52 57.664 50,45 58.202 50,45 101,74 100,93 101,33
người người
IV Số người trong độ tuổi lao động
66.030
100
67.266
100
67.266
100
101,87 100,00 100,94
1
Lao động nông nghiệp
39.090
59,2
38.341
38.106 56,65 98,08
99,39
98,74
người
57
2
Lao động phi nông nghiệp
người
26.940
40,8
28.924
29.510 43,87 107,36 102,03 104,70
43
V Một số chỉ tiêu bình quân
1 Bình quân khẩu/ hộ
người
3,80
3,77
3,78
2 Bình quân lao động/hộ
người
2,24
2,22
2,20
(Nguồn: Chi cục Thống kê huyện Đồng Hỷ)
56
Đồng Hỷ là một huyện thuần nông nên số lao động nông nghiệp chiếm
tỷ lệ khá lớn. Năm 2014 số lao động nông nghiệp là 39.090 người chiếm tỷ lệ
59,2% đến năm 2016 giảm xuống còn 38.106 người chiếm tỷ lệ 56,65%, bên
cạnh đó tỷ lệ lao động phi nông nghiệp cũng tăng nhanh từ 40,8% năm 2014
lên 43,87% năm 2016. Điều đó cho chúng ta thấy tốc độ đô thị hóa nhanh,
diện tích đất nông nghiệp giảm cùng với việc xây dựng các cụm khu công
nghiệp đã thu hút lao động nông nghiệp chuyển sang hoạt động trong lĩnh vực
phi nông nghiệp.
3.1.2.2. Kết quả phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện qua 3
năm 2014 - 2016
Trong những năm qua, kinh tế huyện Đồng Hỷ đã có bước phát triển
khá toàn diện trên các lĩnh vực. Thể hiện trong bảng sau:
Bảng 3.3: Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu của
huyện Đồng Hỷ giai đoạn 2014-2016
Chỉ tiêu
Năm 2014
454,4 112.200
Năm 2015 454,4 114.300
Năm 2016 454,4 115.523
Đơn vị tính km2 người
1.600.150
1.728.532 2.001.890
triệu đồng
92
triệu đồng
87
87
81.148
tấn
47.602
51.968
110
trang trại
78
95
48,3
%
47
47,8
1.449
triệu đồng
1.538
1.472
189.268 477.460
1. Diện tích tự nhiên 2. Dân số trung bình 3. Giá trị sản xuất nông nghiệp (giá thực tế) 4. Giá trồng trị sản phẩm trọt/1ha đất nông nghiệp(giá thực tế) 5. Sản lượng lương thực có hạt 6. Số trang trại hiện có trên địa bàn có đến thời điểm 1/7 hàng năm 7. Độ che phủ rừng 8. Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010) 9. Tổng thu N.sách trong cân đối 10. Tổng chi cân đối Ngân sách
triệu đồng triệu đồng
91.593 406.660
106.501 460.500
(Nguồn: Chi cục Thống kê huyện Đồng Hỷ)
57
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hằng năm đạt 14,7%; GDP bình
quân đầu người năm 2016 đạt 36 triệu đồng, tăng 2,1 lần so với năm 2010. Cơ
cấu kinh tế tiếp tục dịch chuyển tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng công
nghiệp - xây dựng và dịch vụ. So với năm 2010, tỷ trọng ngành công nghiệp -
xây dựng tăng từ 47,5% lên 50,12%; dịch vụ tăng từ 27,4% lên 29,28%; nông,
lâm nghiệp, thủy sản giảm từ 25,6% xuống còn 20,6%. Kinh tế tập thể được
quan tâm, tạo điều kiện phát triển; trong giai đoạn 2011-2016 đã thành lập
mới được 11 tổ hợp tác và 17 hợp tác xã. Thu ngân sách tăng bình quân hằng
năm 15,82%, trong đó thu cân đối (không tính thu cấp quyền sử dụng đất)
tăng bình quân 16,05%. Năm 2016, tổng thu ngân sách trong cân đối đạt
189.268 tỷ đồng.
3.1.2.3. Cơ cấu hộ, cơ cấu nguồn thu nhập chính của các hộ ở khu vực nông
thôn có sự chuyển biến tích cực
Trong những năm qua, cơ cấu kinh tế trên địa bàn huyện Đồng Hỷ có
sự chuyển biến tích cực. Cơ sở hạ tầng khu vực nông thôn được cải thiện nên
tạo điều kiện thu hút đầu tư các ngành nghề phi nông, lâm nghiệp vào khu vực
nông thôn, từ đó sản xuất phát triển, tạo ra nhiều việc làm khu vực nông thôn,
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động khu vực nông thôn. Từ sự chuyển dịch
cơ cấu lao động đã tác động đến cơ cấu ngành nghề khu vực nông thôn có sự
chuyển dịch theo hướng giảm số lượng và tỷ trọng nhóm hộ nông, lâm nghiệp
và thủy sản; tăng số lượng và tỷ trọng nhóm hộ công nghiệp, xây dựng và
dịch vụ. (UBND tỉnh Thái Nguyên, Ban chỉ đạo tổng điều tra nông thôn, nông
nghiệp và thủy sản 01/7/2016, tháng 3/2017)
Theo kết quả sơ bộ, tại thời điểm 01/7/2016, số hộ khu vực nông
thôn có ngành sản xuất chính là nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn
huyện Đồng Hỷ là 17.860 hộ (chiếm 70,4%), số hộ có ngành sản xuất chính
là công nghiệp, xây dựng là 2.513 hộ (chiếm 9,9%), số hộ có ngành sản
xuất chính là thương mại, dịch vụ là 4.098 hộ (chiếm 16,2%), hộ khác là
981 hộ (chiếm 3,5%).
58
So với cả nước, tuy tỷ trọng hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản cao hơn,
tỷ trọng hộ công nghiệp và hộ dịch vụ thấp hơn (cả nước hộ nông, lâm
nghiệp, thủy sản chiếm 53,9%, hộ công nghiệp và xây dựng chiếm 20,1%,
hộ dịch vụ chiếm 19,4%) nhưng so với bình quân chung các tỉnh trung du và
miền núi phía bắc thì tỷ trọng hộ nông, lâm nghiệp, thủy sản có tỷ trọng thấp
hơn, hộ công nghiệp, xây dựng và hộ dịch vụ có tỷ trọng cao hơn (vùng
Trung du và miền núi phía Bắc có tỷ trọng tương ứng là 75,4%, 9,6% và
11,7%). So với năm 2011 (sau 5 năm), tỷ trọng hộ nông, lâm nghiệp, thủy
sản giảm 10,2%; tỷ trọng hộ công nghiệp, xây dựng tăng 6,4%; tỷ trọng hộ
dịch vụ tăng 1,6%. So với năm 2006 (sau 10 năm), tỷ trọng hộ nông, lâm
nghiệp và thủy sản giảm 17,3%, hộ công nghiệp và xây dựng tăng 9,8% và
hộ dịch vụ tăng 4,5%.
Trong tổng số 15 xã của huyện Đồng Hỷ, có xã Hóa Thượng có tỷ
trọng hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản dưới 50%.
Do cơ cấu lao động và cơ cấu hộ chuyển dịch theo hướng giảm dần khu
vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, tăng dần tỷ trọng khu vực công nghiệp,
xây dựng và khu vực dịch vụ nên cơ cấu nguồn thu nhập chính cũng có sự
chuyển dịch theo hướng tương tự.
59
Bảng 3.4: Số hộ nông thôn huyện Đồng Hỷ chia theo loại hộ và chia theo xã
Số hộ
Chia ra
STT
Xã
Hộ khác
Hộ dịch vụ
Tổng số
Hộ công nghiệp, xây dựng
Số hộ
Số hộ
Số hộ
Số hộ
Cơ cấu (%)
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15
Xã Văn Lăng Xã Tân Long Xã Hòa Bình Xã Quang Sơn Xã Minh Lập Xã Văn Hán Xã Hóa Trung Xã Khe Mo Xã Cây Thị Xã Hóa Thượng Xã Hợp Tiến Xã Linh Sơn Xã Tân Lợi Xã Nam Hòa Xã Huống Thượng Tổng số
1.221 1.414 777 887 1.755 2.698 1.236 1.832 902 3.208 1.578 2.490 1.186 2.599 1.579 25.362
Hộ nông, lâm nghiệp, thủy sản Cơ cấu (%) 93,04% 92,08% 77,09% 58,06% 76,75% 88,47% 56,55% 78,28% 78,82% 33,29% 82,19% 54,38% 88,28% 78,45% 58,58% 70,42%
1.136 1.302 599 515 1.347 2.387 699 1.434 711 1.068 1.297 1.354 1.047 2.039 925 17.860
26 46 59 157 148 63 196 97 35 605 130 395 72 215 269 2.513
7 8 12 35 68 66 57 56 44 228 24 132 9 52 93 891
Cơ cấu (%) 4,26% 4,10% 13,77% 20,29% 10,94% 6,75% 22,98% 13,37% 12,42% 40,74% 8,05% 24,46% 4,89% 11,27% 18,49% 16,16%
Cơ cấu (%) 2,13% 3,25% 7,59% 17,70% 8,43% 2,34% 15,86% 5,29% 3,88% 18,86% 8,24% 15,86% 6,07% 8,27% 17,04% 9,91%
0,57% 52 0,57% 58 1,54% 107 3,95% 180 3,87% 192 2,45% 182 4,61% 284 3,06% 245 4,88% 112 7,11% 1.307 1,52% 127 5,30% 609 0,76% 58 2,00% 293 5,89% 292 3,51% 4.098 (Nguồn:Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2016)
60
3.1.3. Nhận xét chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội
3.1.3.1. Những thuận lợi
Đồng Hỷ là một trong những huyện được nhiều sự đầu tư của tỉnh Thái
Nguyên cũng như các nhà đầu tư nước ngoài mới gần đây có 1 trường đại học
Việt Bắc đã xây xong và đang đi vào hoạt động do tiếp giáp với thành phố Thái
Nguyên và có con đường giao thông với Lạng Sơn cho nên Đồng Hỷ thu hút
được mặt hàng dịch vụ lớn nhất là về các sản phẩm nông nghiệp phát triển đầu
tư mạnh và cây lâm nghiệp lâu năm có năng suất lớn hiệu quả kinh tế cao.
Đất đai tương đối màu mỡ cùng với chế độ khí hậu, thời tiết ôn hòa là cơ
sở cho việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, thâm canh tăng vụ, tăng năng suất cây
trồng nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trên một đơn vị diện tích
Tình hình kinh tế có bước tiến mạnh mẽ, cơ cấu kinh tế chuyển dịch
đúng hướng, tiềm năng từ các thành phần kinh tế bước đầu được huy động.
Trình độ dân trí của người dân được nâng cao, có kinh nghiệm và trình độ
thâm canh nông nghiệp, có khả năng ứng dụng những tiến bộ KHKT vào sản xuất.
3.1.3.2. Khó khăn
Về giao thông chưa được phát triển trong các xã, đường giao thông còn
hạn chế, dẫn đến khả năng thu hút đầu tư vào khu vực cụm công nghiệp như ở
Nam Hòa, Quang Sơn, xã Minh Lập tuy đã có trình duyệt dự án được phê
duyệt nhưng các nhà đầu tư vẫn chưa có động thái nào là làm nên làm ảnh
hưởng đến đời sống của người dân ở vùng của dự án đang được triển khai.
Ngoài ra, việc sinh đẻ có kế hoạch chưa được phổ biến rộng rãi, trình độ
dân trí còn chưa cao cho nên tỷ lệ sinh con thứ 3 vẫn con rất nhiều cụ thể như ở
xã Nam Hòa hiện có trên 2.450 hộ với hơn 10.000 nhân khẩu, sinh sống tại 22
xóm. Trong đó, người dân tộc thiểu số chiếm 86%. Từ đầu năm đến nay, xã có
trên 80 trẻ sơ sinh thì số trẻ là con thứ 3 trong gia đình là 11 cháu.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm và chưa được mở rộng, vẫn còn
những thôn xóm, xã độc canh cây lúa, sự chỉ đạo chưa sâu sắc, nhân dân sản
xuất kinh doanh còn ở dạng tự phát. Địa hình đồi núi nhiều nên việc giải phóng
mặt bằng trở nên khó khăn.
61
3.1.4. Phát triển kinh tế của huyện
Thực hiện sự Chỉ đạo của Chính phủ và Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội
của huyện Đồng Hỷ giai đoạn 2010 - 2015, kinh tế của huyện đã có những chuyển
biến tích cực. Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn
theo hướng từng bước nhanh chóng hình thành nền nông nghiệp hàng hoá phù hợp
với nhu cầu thị trường và điều kiện sinh thái của vùng. Chuyển dịch cơ cấu ngành
nghề, cơ cấu lao động, tạo việc làm mới thu hút lao động nông thôn. Áp dụng
những tiến bộ khoa học, công nghệ về giống, chăm sóc…vào trong sản xuất nông,
lâm nghiệp nâng giá trị thu nhập cùng đơn vị diện tích, cụ thể:
- Về trồng trọt, cây trồng chủ yếu của huyện vẫn là lúa nước nhưng diện
tích lúa nước đang có sự tăng nhẹ từ năm 2014 đến năm 2016 có xu hướng đi
xuống. Nguyên nhân chủ yếu là do năng suất lúa tăng, do áp dụng tiến bộ khoa
học vào sản xuất, cơ giới hóa… Qua bảng 3.6 cho thấy một số cây trồng chủ
lực của huyện đã được huyện quan tâm, đầu tư có hiệu quả về khoa học kỹ
thuật áp dụng vào sản xuất giống cây mới, biện pháp canh tác mới trong sản
xuất như lúa, rau màu, khoai lang, chè… nhất là cây lúa và cây chè do vậy mà
năng suất 2 loại cây này luôn tăng qua từng năm.
Bảng 3.5. Diện tích, năng suất, sản lượng một số cây trồng chính của
huyện từ năm 2014-2016
Diện tích (ha)
Năng suất (tạ/ha)
Sản lượng (tấn)
Loại cây
2014
2015
2016
2014
2015
2016 2014
2015
2016
Lúa Vụ xuân
2.798,4 3.026,4 3.019,5
52,43
51,53 55,49 14.672 15.596 16.755
Lúa Vụ mùa
4.495,1 4.628,2 4.621,9
44,74
48,42 52,16 19.951 22.408 24.408
Rau màu
1.176
1.300 1.359
178,8
180,7 173,9 21.025 23.500 23.638
Khoai lang
293
56,94
57,74 58,94
2.397 2.021
1.727
421
350
312
308
294 155,32
158,1 148,8
4.846 4.870
4.376
Sắn
368
545
531
15,08
15,3 15,66
555
834
832
Lạc
140
114
103
15,64
15,17 15,14
219
173
156
Đậu tương
26
23
44
550,4
550 556,8
1.431 1.265
2.450
Mía
2.295
3.180 3.245,3
117,3 117,91,48 120,7 30.875 31.950 34.107
Chè
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2016)
62
- Về chăn nuôi:
Bảng 3.6: Số lượng gia súc, gia cầm của Huyện từ năm 2014 đến 2016
Đvt: con
Lợn Năm Trâu Bò Gia cầm Tổng số Lợn nái Lợn Thịt
2014 8.982 1.060 58.440 8.702 49.677 890.000
2015 8.896 1.070 62.233 8.741 53.433 864.343
2016 8.729 1.456 65.500 8.916 56.517 984.162
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2016)
Sau bảng số liệu 3.6 ta thấy được tỷ lệ chăn nuôi ngày một gia tăng tỷ lệ
trâu bò đang có xu hướng giảm một cách rõ rệt cho thấy được việc trâu, bò
phục vụ vào mục đích cày kéo không còn được sử dụng nhiều nữa thay vào
đó là phát triển về máy móc. Về chăn nuôi lợn mục đích thịt và sinh sản đang
có xu hướng gia tăng , chăn nuôi gia cầm gà (vịt…) cho thấy rằng việc chăn
nuôi gia cầm mất ít thời gian mà cho hiệu quả năng suất cao đích nhu cầu của
gia đình, và tăng thêm đời sống thu nhập về kinh tế cho hộ.
3.1.5. Khái quát về thực trạng vai trò của phụ nữ huyện Đồng Hỷ
3.1.5.1. Số lượng lao động nữ
Số lượng lao động nữ trong độ tuổi lao động được chia thành 6 nhóm,
cụ thể như bảng dưới đây:
Bảng 3.7. Thống kê số lao động nữ trong các nhóm tuổi giai đoạn 2014-2016
Đvt: người
Nhóm tuổi Năm 15-17 18-19 20-29 30-39 40-49 Trên 50
2014 3.355 2.274 10.299 8.668 7.657 8.728
2015 3.407 2.309 10.459 8.803 7.776 8.864
2016 3.344 2.267 10.267 8.642 7.633 8.702
(Nguồn: Phòng lao động - TBXH huyện năm 2014, 2015, 2016)
63
Qua bảng trên ta thấy: Lao động nữ trong nhóm tuổi từ 20-29 chiếm tỷ
trọng cao nhất trong lực lượng nữ trong độ tuổi lao động. Lực lượng lao
động này đã có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất cũng như trong cuộc sống
và ngày càng tăng qua các năm, còn lao động nữ trong nhóm tuổi từ 18-19
lại chiếm tỷ trọng thấp nhất. Lao động nữ trong nhóm tuổi 15-39 chiếm
60%, đây là nhóm tuổi là lao động chính trong các hộ gia đình và cũng là
nhóm tuổi đang ở độ tuổi sinh sản. Lao động chính trong nhóm tuổi từ 15 -
19 chiếm tỷ lệ 13,73%. Đây là lượng lao động trẻ nhưng thường thiếu kinh
nghiệm trong sản xuất kinh doanh, thiếu kiến thức về xã hội, trong đó quan
trọng là kiến thức về chăm sóc sức khoẻ sinh sản nên đã ảnh hưởng không
nhỏ tới thu nhập và chất lượng cuộc sống của các hộ gia đình. Nữ trong
nhóm tuổi này có xu hướng giảm qua các năm trong khi các nhóm tuổi khác
lại tăng là do hiện nay nữ trong nhóm tuổi này thường đi làm tại các khu
công nghiệp trên địa bàn huyện, làm tại những khu công nghiệp này họ sẽ có
thu nhập cao hơn, điều này đã phần nào giải quyết được việc làm, góp phần
tăng thu nhập cho các hộ gia đình.
3.1.5.2. Trình độ của lao động nữ huyện Đồng Hỷ
Với số lượng đông đảo trong lực lượng lao động ở khu vực miền
núi nhưng trình độ văn hoá, chuyên môn của lao động nữ lại không cao.
Qua biểu đồ 3.2 ta thấy, số lao động nữ chưa tốt nghiệp tiểu học là 8%, tốt
nghiệp tiểu học là 20%, tốt nghiệp THCS là 43%, tốt nghiệp THPT là
29%. Tuy hiện nay số lao động nữ đã tốt nghiệp THPT ngày càng tăng lên
nhưng còn một bộ phận lớn vẫn hạn chế về nhận thức và trình độ nên
đang gặp khó khăn trong tìm kiếm việc làm, tạo thu nhập cho gia đình. Vì
vậy, các cấp, các ngành huyện Đồng Hỷ cần có chính sách ưu tiên đào
tạo, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn cho lao động nông thôn đặc
biệt là lao động nữ.
64
Hình 3.1: Trình độ văn hoá của lao động nữ tại huyện Đồng Hỷ năm 2016
(Nguồn: Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Đồng Hỷ năm 2016)
3.1.5.3. Tỷ lệ phụ nữ huyện Đồng Hỷ tham gia cấp ủy, chính quyền
Bên cạnh sự tham gia quan trọng trong các hoạt động kinh tế, lao động
nữ còn tham gia vào công tác quản lý, điều hành của cấp ủy, chính quyền.
Mặc dù với số lượng không nhiều so với lao động nam nhưng số lượng này
đang tăng dần qua các năm. Hiện nay, xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền
là nhiệm vụ hàng đầu được thể hiện trong các văn kiện của đại hội các cấp
trong đó tỷ lệ nữ giới tham gia các tổ chức này cũng có quy định rõ để tăng sự
đóng góp của nữ giới cũng như thực hiện việc bình đẳng giới.
Bảng 3.8: Số lượng phụ nữ tham gia các cấp ủy đảng,
chính quyền năm 2016
Số lượng 13/41 Tỷ lệ (%) 31,7
Các cấp chính quyền nữ tham gia 1. Tham gia Ban chấp hành Đảng bộ huyện 2. Tham gia Ban chấp hành Đảng bộ các xã, 65/242 26 thị trấn
3. Cán bộ lãnh đạo nữ các phòng ban, ngành 47/132 35,6 cấp huyện
11/99 15/39 11,1 39,47
4. Cán bộ lãnh đạo nữ cấp xã 5. Đại biểu HĐND cấp huyện 6. Số xã có tỷ lệ nữ tham gia đại biểu HĐND 8/18 44,4 đạt trên 25%
(Nguồn: Hội Liên hiệp phụ nữ huyện Đồng Hỷ năm 2016)
65
Tính đến năm 2016, tỷ lệ nữ tham gia Ban chấp hành Đảng bộ huyện
đạt 31,7 %. Tỷ lệ nữ tham gia Ban chấp hành Đảng bộ các xã, thị trấn đạt 26%.
Tỷ lệ cán bộ lãnh đạo nữ các phòng ban, ngành cấp huyện đạt 35,6%, cấp xã
11,1%. Tỷ lệ nữ tham gia đại biểu Hội đồng nhân dân huyện, nhiệm kỳ 2016-
2021 đạt 39%, Cấp xã/thị trấn có 8/18 đơn vị có tỷ lệ nữ đạt trên 25%, các chị
đã phát huy được vai trò và khẳng định vị thế trong mọi lĩnh vực công tác. Có
thể thấy huyện Đồng Hỷ đã thực hiện tốt việc xây dựng đội ngũ cán bộ nữ
tham gia vào các chức danh, các cơ quan lãnh đạo, điều hành, thể hiện ở tỷ lệ
nữ tham gia vào các chức danh lãnh đạo cao hơn so với quy định của Trung
ương và qua đó cũng thể hiện vai trò quan trọng của phụ nữ trong hệ thống
chính trị của huyện.
3.1.6. Khái quát về thực trạng đồng bào dân tộc H’mông tại huyện Đồng Hỷ
3.1.6.1. Tỷ lệ hộ nghèo, địa bàn cư trú, tình hình an ninh chính trị
Tổng số hộ nghèo dân tộc H’mông ở 11 xóm trên địa bàn huyện Đồng
Hỷ là 425 hộ/ 520 hộ bằng 82%. Trong đó có 9 xóm ở 3 xã đặc biệt khó khăn
có nhiều đồng bào dân tộc H’mông sinh sống, có 3 xóm có tỷ lệ hộ nghèo còn
100%: xóm Lân Đăm xã Quang Sơn, Xóm Mỏ Nước, Bản Tèn xã Văn Lăng.
Địa bàn cư trú: Vị trí địa lý, địa hình, địa bàn sinh sống của đồng bào
H’mông là vùng cao, vùng khó khăn, một số nơi thuộc vùng chiến lược về
chính trị, an ninh quốc phòng. Địa bàn này cũng là vùng các tổ chức tuyên
truyền phát triển về Đạo Tin lành và các tổ chức hoạt động bất hợp pháp khác,
đã xuất hiện xây nhà truyền đạo không xin phép ở một số xóm, ngoài ra một
số tổ chức y tế nhân đạo vẫn tổ chức thăm khám bệnh hàng năm.
Do nhận thức về đường lối chính sách của đồng bào còn hạn chế nên
dẫn đến tình trạng các hộ đồng bào H’mông đẻ nhiều, thường có 4-5 con trở
lên, cá biệt có gia đình 9-11 người con; nạn cưới tảo hôn vẫn còn tồn tại khá
phổ biến; một số gia đình không cho con đi học ở nhà để lao động; trẻ em
trong độ tuổi đi học bậc mầm non, tiểu học đạt trên 90%, bậc trung học cơ sở
66
đạt trên 60%, số em học trung học phổ thông, đại học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp, dạy nghề chỉ có 20 em.
Công tác tổ chức khám chữa bệnh và chăm lo y tế, văn hóa... đối với
vùng này chưa được quan tâm đúng mức.
3.1.6.2. Về điều kiện sống và canh tác
- Các xóm, bản đặc biệt khó khăn có nhiều đồng bào H’mông sinh sống
cách xa khu trung tâm của xã, địa hình phức tạp, chia cắt thành từng vùng
riêng biệt, đi lại khó khăn, đất dốc, dễ bị rửa trôi, xói mòn, bạc màu.
- Cơ sở hạ tầng khó khăn và rất thiếu thốn: Đường giao thông đến trung
tâm các xóm, bản chủ yếu là đường cấp phối, đường đất nhiều điểm sạt lở, có
bản chỉ đi được xe máy vào mùa khô. Không có vốn để xây dựng kè chống sạt
lở, thoát nước, cứng hóa mặt đường nên nhiều con đường sau khi mở qua mùa
mưa là không đi được nữa.
Trường học: các phòng học được xây dựng tạm (bằng gỗ) đã xuống
cấp, số phòng học mẫu giáo và tiểu học ở một số điểm trường còn thiếu, các
em học sinh phải học ghép lớp. Thêm vào đó nhà công vụ cho giáo viên tại
các phân trường cùng chưa được đầu tư xây dựng, chỉ là nhà tạm.
Hệ thống điện: Theo kết quả điều tra, số hộ đồng bào H’mông sinh
sống được sử dụng điện chỉ đạt tỷ lệ 48,5%, một số xóm, bản chưa có điện
lưới quốc gia hoặc điện mới chỉ đến được trung tâm của xóm.
Nước sinh hoạt: Đồng bào sinh sống ở đây rất thiếu về nước sinh hoạt,
nguồn nước không đảm bảo vệ sinh ảnh hưởng đến cuộc sống sinh hoạt
thường ngày.
- Sản xuất nông nghiệp: Về trồng trọt, đồng bào chủ yếu trồng ngô,
trồng lúa một vụ, một số trồng màu và trồng cây công nghiệp; về chăn nuôi
đại gia súc chủ yếu là trâu, bò. Do đồng bào canh tác nông nghiệp lạc hậu
quảng canh chưa áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đưa giống mới vào sản
xuất; sản xuất phụ thuộc vào điều kiện thời tiết tự nhiên nên năng suất cây
67
trồng, vật nuôi không cao, chưa phát huy hết được tiềm năng, thế mạnh của
vùng nên đời sống gặp nhiều khó khăn.
- Về lâm nghiệp: Tổng diện tích đất rừng hiện có của 9 xóm, bản
khoảng 2.630 ha (trong đó: đất rừng tự nhiên 1.376 ha, đất rừng đã trồng
1.523 ha). Mặc dù diện tích đất rừng còn nhiều song do việc xác định các loại
rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng chưa rõ ràng về chỉ giới; tập
quán canh tác của bà con trồng ngô 2-3 vụ thì bỏ, sau 2-3 năm mới quay lại
trồng tiếp nên việc tạo nguồn thu từ trồng rừng nâng cao thu nhập còn rất hạn
chế, chưa phát huy hết được những lợi thế của vùng.
3.1.6.3. Nguyên nhân của tình hình trên
- Do di dân tự do, đồng bào dân tộc H’mông có sự gia tăng dân số cơ
học quá nhanh: Theo số liệu của Ban chỉ đạo cuộc tổng điều tra dân số Việt
Nam, năm 1979 toàn tỉnh Bắc Thái có 650 người dân tộc H’mông (Thái
Nguyên có 644 người); năm 1989 có 2.264 người; năm 1999 có 4.831 người;
năm 2009 có 7.230 người và qua điều tra, khảo sát đầu năm 2014 có 7.792
người. Việc gia tăng dân số dẫn đến tình trạng thiếu đất sản xuất, canh tác.
- Tập quán sinh hoạt, canh tác của đồng bào còn lạc hậu. Công tác
khuyên nông, tập huấn kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi cho đồng bào chưa được
thường xuyên và phát huy hiệu quả.
- Trình độ dân trí thấp, cuộc sống nghèo khó nên các thế lực thù địch,
tôn giáo gia tăng các hoạt động nhằm tranh thủ lôi kéo đồng bào. Trong khi
đó, đối với chính quyền địa phương: sự chỉ đạo, năm thực trạng chưa sâu, chỉ
đạo chưa kiên quyết, đồng bộ, chưa giành nguồn lực thích đáng để tạo thê
vươn lên; công tác quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực: dân tộc, tôn giáo, y
tế... còn nhiều hạn chế.
- Đồng bào có tập quán sinh sống di cư tự do, thường sống ở vùng núi
cao. Các xóm bản đều cách xa trung tâm của xã, địa hình phức tạp, chia cắt
thành từng vùng riêng biệt, cơ sở hạ tầng thấp kém, đi lại khó khăn.
68
3.2. Thực trạng vai trò của người phụ nữ dân tộc H’mông trong phát
triển kinh tế hộ gia đình ở các hộ nghiên cứu
Trong phần này, luận văn sẽ đi sâu phân tích thực trạng vai trò của phụ
nữ người H’mông trong phát triển kinh tế hộ gia đình ở huyện Đồng Hỷ.
Trước hết, tác giả sẽ phân tích các hoạt động mà huyện Đồng Hỷ đã và đang
thực hiện nhằm nâng cao vai trò của phụ nữ người H’mông; sau đó, tác giả
phân tích thực trạng vai trò của phụ nữ người H’mông trong phát triển kinh tế
hộ gia đình của đối tượng điều tra.
3.2.1. Các hoạt động nhằm nâng cao vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông
trong phát triển kinh tế hộ gia đình
Ban Thường vụ Hội LHPN huyện chỉ đạo 100% cơ sở Hội tổ chức các
hoạt động khuyến khích, hỗ trợ phụ nữ phát triển sản xuất, kinh doanh, làm
giàu chính đáng gắn với bảo vệ môi trường như: Đẩy mạnh công tác tập huấn
nâng cao kiến thức, hỗ trợ cho vay vốn, đào tạo nghề, giới thiệu việc làm cho
phụ nữ, thực hiện có hiệu quả các giải pháp giúp phụ nữ thoát nghèo bền
vững. Trong giai đoạn 2011-2016, 100% hộ nghèo do phụ nữ làm chủ được
Hội giúp đỡ trong đó có 34 hộ đồng bào dân tộc H’mông vươn lên thoát
nghèo, có thu nhập ổn định.
3.2.1.1. Xây dựng các phong trào phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói
giảm nghèo
Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Đồng Hỷ tiếp tục duy trì
và đẩy mạnh phong trào “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình” nhằm
thực hiện xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập; đồng thời Hội cũng đã phát
động phong trào “Phụ nữ làm kinh tế giỏi” để động viên, khuyến khích phụ
nữ vươn lên làm giàu chính đáng.
Những hoạt động “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, giảm nghèo bền
vững” của Hội phụ nữ các cấp đã góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho hội viên phụ nữ và đóng góp tích cực trong việc thực hiện mục tiêu
xóa đói, giảm nghèo của huyện.
69
3.2.1.2. Tăng cường các biện pháp giúp đỡ phụ nữ đói nghèo có địa chỉ
Hàng năm, Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Đồng Hỷ tiến hành thống kê,
phân loại hộ đói, nghèo có phụ nữ dân tộc thiểu số, đặc biệt là phụ nữ người
H’mông làm chủ hộ để có kế hoạch giúp đỡ cụ thể. Phối hợp với Phòng Lao
động Thương binh xã hội của huyện tiến hành rà soát, xác định cụ thể địa chỉ
giúp đỡ, mục tiêu cần đạt, biện pháp hỗ trợ phù hợp với từng hộ.
Trong giai đoạn 2011-2016, các cấp Hội phụ nữ huyện Đồng Hỷ đã
mạnh dạn thành lập các mô hình kinh tế tập thể nhằm giúp hội viên phụ nữ có
điều kiện phát triển kinh tế vươn lên làm giàu. Nhiều mô hình liên kết, các tổ/
nhóm sở thích, tổ hợp tác, hợp tác xã được thành lập đã giải quyết việc làm
cho lao động nữ. Cụ thể: Thành lập mô hình “Trồng và chế biến sắn dây”
gồm 30 thành viên là người dân tộc H’mông tại xóm Liên Phương, xã Văn
Lăng; Mô hình ngân hàng bò nái sinh sản tại 6 xã; Mô hình sản xuất rau
sạch, rau an toàn; Mô hình tổ hợp tác “Chăn nuôi lợn thịt an toàn, đảm bảo
vệ sinh môi trường sử dụng đệm lót sinh học” tại xã Huống Thượng....Đồng
thời, tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm mô hình xóa đói giảm nghèo có địa
chỉ; biểu dương điển hình phụ nữ làm kinh tế giỏi, xây dựng gia đình no ấm.
3.2.1.3. Tập trung huấn luyện cán bộ Hội về kiến thức và kỹ năng cần thiết để
hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế
Xác định việc củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động Hội và xây dựng
tổ chức Hội vững mạnh là nhiệm vụ trọng tâm, then chốt, trong thời gian qua
các cấp Hội coi trọng việc tập huấn kiến thức cho cán bộ Hội, đặc biệt là kiến
thức và kỹ năng cần thiết để hỗ trợ hội viên phụ nữ phát triển kinh tế, đặc biệt
là phụ nữ người H’mông.
Chủ động tham mưu với Cấp uỷ về công tác phát triển đảng viên, tạo
điều kiện thuận lợi cho cán bộ Hội được tham gia học tập nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị để từng bước chuẩn hóa đội ngũ cán
70
bộ Hội. Đến cuối nhiệm kỳ, 100% Chủ tịch Hội LHPN các xã, thị trấn đạt
chuẩn chức danh. Hàng năm Ban Thường vụ Hội LHPN huyện đã chọn cử
cán bộ hội chủ chốt cấp xã tham gia đầy đủ các lớp tập huấn nghiệp vụ do Hội
LHPN tỉnh tổ chức. Phối hợp với Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện mở 7
lớp tập huấn nghiệp vụ cho 764 lượt cán bộ Hội cơ sở. Trong 5 năm đã có 587
chị được kết nạp vào Đảng.
3.2.1.4. Khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn
Các cấp Hội đã chủ động phối hợp với các Ngân hàng, khai thác nguồn
lực từ các chương trình, dự án, huy động nội lực đóng góp từ hội viên phụ nữ ...
để hỗ trợ cho hội viên phụ nữ phát triển kinh tế. Cụ thể: Từ năm 2011-2016,
Hội phụ nữ đã tín chấp với Ngân hàng CSXH với tổng dư nợ trên 80 tỷ đồng
cho 2.700 hộ vay; Hỗ trợ cho 60 chị là hội viên phụ nữ nghèo, phụ nữ
HIV/AIDS, phụ nữ dân tộc thiểu số và phụ nữ là nạn nhân bị buôn bán trở về
với số vốn trên 300 triệu đồng để phát triển kinh tế. Ngoài ra, chị em giúp
nhau phát triển kinh tế bằng cây, con giống, ngày công lao động, tiền mặt
không lấy lãi với tổng trị giá hơn 4 tỷ đồng. Đặc biệt, trong giai đoạn 2011-
2016, Hội LHPN huyện đã phối hợp với Sở NN&PTNT tỉnh Thái Nguyên;
Phòng NN&PTNT huyện Đồng Hỷ hỗ trợ lợn giống, bò nái sinh sản...trị giá
hơn 300 triệu đồng cho 50 chị hội viên phụ nữ nghèo phát triển kinh tế. Có
264/264 chi/tổ phụ nữ tham gia các loại hình tiết kiệm với 17.448 hội viên
tham gia gửi tiền tiết kiệm, tổng số tiền tiết kiệm 5.933.704.000đ đạt 100,5%
chỉ tiêu tỉnh giao.
3.2.1.5. Đẩy mạnh các hoạt động chuyển giao khoa học kỹ thuật cho phụ nữ
Phối hợp với các ngành tổ chức 169 lớp cho 7.426 lượt cán bộ, hội viên
tham gia tập huấn chuyển giao KHKT nông nghiệp với nhiều nội dung thiết
thực như: kỹ thuật chăm sóc lúa lai, ngô lai, sử dụng phân bón trên cây chè,
cách phòng trừ sâu bệnh cho cây trồng, vật nuôi, các sản phẩm thuốc bảo vệ
71
thực vật, chăm sóc chế biến chè an toàn theo quy trình VietGap…Sau khi
được tập huấn nhiều chị đã mạnh dạn chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi
theo hướng nâng cao giá trị sử dụng đất đạt giá trị kinh tế cao. Điển hình như
mô hình trồng trọt, chăn nuôi của gia đình chị Nông Thị Tâm - Chi hội trưởng
phụ nữ xóm Viến Ván, xã Quang Sơn; Mô hình chăn nuôi lợn thịt của gia
đình chị Phạm Thị Toan - hội viên phụ nữ xóm Già, xã Huống Thượng.
Hoạt động dạy nghề và giới thiệu việc làm tiếp tục được đẩy mạnh.
Trong nhiệm kỳ có 634 lao động nữ được đào tạo các ngành nghề, tư vấn giới
thiệu việc làm cho 1.437 lao động;
Phát triển mô hình Câu lạc bộ phụ nữ khuyến nông. Tổ chức Hội thi
Phụ nữ với khuyến nông ở các cấp.
3.2.2. Thực trạng vai trò của phụ nữ người H’mông trong phát triển kinh tế
hộ của đối tượng nghiên cứu
3.2.2.1. Đặc điểm của hộ nghiên cứu
Sau khi tiến hành điều tra các hộ theo hệ thống câu hỏi của phiếu điều
tra và tổng hợp số liệu thu được một số thông tin cần thiết về hộ điều tra phục
vụ nghiên cứu. Hộ nghiên cứu là các hộ gia đình phụ nữ dân tộc H’mông, có
độ tuổi từ 18 đến 55 tuổi. Hộ nghiên cứu phải nằm trong các xã được chọn,
đồng thời mang tính đại diện cho các hộ trong vùng. Kết quả chọn mẫu được
trình bày trong bảng sau:
Thông tin chung về hộ điều tra
Lao động là yếu tố cơ bản nhất quyết định sự tồn tại và phát triển trong
quá trình sản xuất của con người, không có một quá trình sản xuất nào diễn ra
mà không có sự tham gia của lao động. Đối với hộ gia đình thì số nhân khẩu,
số lao động trong hộ và trình độ học vấn của chủ hộ là những yếu tố quan
trọng phản ánh tình trạng hộ gia đình, nhất là hộ gia đình nghèo. Đối với hộ
nghèo, nếu đông người mà số lao động ít thì mức sống thường rất thấp, trình
độ của chủ hộ thấp thì khả năng tổ chức sản xuất kém.
72
Bảng 3.9. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu
Chỉ tiêu nghiên cứu Tần số Tỷ lệ %
Tên xã Xã Văn Lăng Xã Quang Sơn Xã Tân Long
Tổng số 102 28 96 226 45.1 12.4 42.5 100.0
Tuổi 18-24 tuổi 25-34 tuổi 35-44 tuổi 45-54 tuổi Trên 55 tuổi
Tổng số 28 84 37 66 11 226 12.4 37.2 16.4 29.2 4.9 100.0
Trình độ Không biết chữ Cấp 1 Cấp 2 Cấp 3 Đại học/ Cao đẳng
Tổng số 49 111 57 7 2 226 21.7 49.1 25.2 3.1 .9 100.0
Công việc Làm nương Làm ruộng Làm thuê
Tổng số 175 45 6 226 77.4 19.9 2.7 100.0
Bao nhiêu con 1 con 2 con 3 con 4 con 5 con 6 con
Tổng số 3 92 51 22 25 33 226 1.3 40.7 22.6 9.7 11.1 14.6 100.0
Loại hộ Hộ nghèo Hộ trung bình Hộ khá
Tổng số 176 26 24 226
77.9 11.5 10.6 100.0 (Nguồn: tổng hợp từ số liệu điều tra năm 2016)
73
Điều tra 226 hộ ở 3 xã Tân Long, Quang Sơn, Văn Lăng của huyện
Đồng Hỷ, cho thấy:
Về cơ cấu nhóm tuổi của đối tượng nghiên cứu:
Trong số 226 đối tượng được nghiên cứu, số lượng người có độ tuổi
dưới 25 có 28 người chiếm 12,4%, độ tuổi có tỷ lệ chiếm cao nhất là 25 tuổi
đến 34 tuổi (chiếm 37,2%), độ tuổi từ 35 - 44 tuổi có 37 người (chiếm
16,4%), độ tuổi từ 45-54 tuổi có 66 người chiếm tỷ lệ 29,2%, còn lại là độ
tuổi trên 55 tuổi có 11 người (chiếm 4,9%). Trong cơ cấu nhóm tuổi của đối
tượng nghiên cứu, có thể khẳng định đây là một lợi thế, một tiềm năng về
nguồn nhân lực khi mà số lượng lao động trong độ tuổi lao động chiếm một tỷ
lệ lớn. Tuy nhiên tỷ lệ lao động trong độ tuổi 45-54 tuổi có mức khá cao,
trong khi độ tuổi 18-24 tuổi có tỷ lệ thấp, điều đó cho thấy hiện nay là thời
điểm “dân số vàng” của đối tượng nghiên cứu, nhưng về lâu dài thì tỷ lệ lao
động này có xu hướng “già hóa”, trong khi lực lượng lao động trẻ kế cận có tỷ
lệ thấp. Đặt ra những vấn đề về giải quyết an sinh xã hội, tạo công ăn việc làm
phù hợp cho những đối tượng nghiên cứu.
Về trình độ học vấn
Trong số 226 người tham gia khảo sát, thì số người có trình độ trung
học phổ thông và đại học, cao đẳng là 7 người chiếm 4%, người có trình độ
tiểu học chiếm tỷ lệ cao nhất là 49,1%, người không biết chữ là 49 người
(21,7%) và có trình độ trung học cơ sở là 57 người (25,2%).Với kết quả khảo
sát trên ta có thấy rằng trình độ của phụ nữ dân tộc H’mông tại vùng nghiên
cứu còn rất thấp, chủ yếu mới chỉ học qua các lớp tiểu học, tỷ lệ không biết
chữ nhiều, với trình độ dân trí thấp như vậy sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến việc
lựa chọn các hoạt động sản xuất nhằm nâng cao thu nhập, hạn chế việc tiếp
cận thông tin, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
74
Về công việc của đối tượng điều tra:
Do đặc thù của đối tượng nghiên cứu là phụ nữ đồng bào dân tộc
H’mông, sống chủ yếu trên những vùng đồi núi cao, nên trong số 226 người
tham gia khảo sát, chủ yếu là làm nương có 175 người chiếm tỷ lệ 77,4%; ở
một số vùng thấp hơn, đối tượng nghiên cứu tham gia làm ruộng có 45 người
(19,9%), một số ít do ít đất trồng trọt nên đi làm thuê có 6 người (2,7%).
Về số con của đối tượng điều tra:
Số con của đối tượng điều tra phụ thuộc rất lớn vào độ tuổi của đối
tượng nghiên cứu, như đã phân tích ở trên, độ tuổi của đối tượng nghiên cứu
từ 24-35 tuổi chiếm tỷ lệ lớn, nhưng qua khảo sát số gia đình có 01 con là 3
gia đình chiếm tỷ lệ 1,3%; có 02 con có 92 gia đình chiếm tỷ lệ 40,7%, số gia
đình có 3 con có 51 người (22,6%). Số gia đình sinh từ 4 con trở lên có 80
người chiếm tỷ lệ 35,4%. Người dân đồng bào dân tộc vẫn mang nặng tư
tưởng sinh đẻ tự nhiên, phải đông con để nhiều lao động tham gia sản xuất và
quan trọng nhất là phong tục và đức tin của đồng bào dân tộc H’mông là
không được phép phá thai. Tuy vậy, với nhiều gia đình, họ cũng xác định
được việc đẻ nhiều con sẽ càng làm cho cuộc sống khó khăn hơn, trong quá
trình đi khảo sát, tác giả thấy rằng ở những gia đình phụ nữ lớn tuổi thì số con
rất lớn, thậm chí trên thực tế có những hộ người dân tộc H’mông sinh 13 con
như gia đình anh Hùng Văn Dình (1974) và vợ là chị Vương Thị De (1973) ở
xóm Mỏ Ba, Tân Long hay như hộ gia đình ông Ngô Văn Sùng (1956) cũng ở
Mỏ Ba, Tân Long có đến 20 người con của 2 người vợ. Qua kết quả điều tra
cho thấy, người dân tộc H’mông đã có ý thức hơn trong việc sinh đẻ có kế
hoạch, tuy nhiên số lượng con vẫn lớn (Từ 3 đến 4 người con).
Về loại hộ của đối tượng nghiên cứu:
Qua khảo sát 226 hộ, số hộ nghèo là 176 hộ chiếm tỷ lệ 77,9%; số hộ
trung bình là 26 hộ chiếm 11,5%; chỉ có 24 hộ chiếm 10,6% là hộ khá. Như
vậy, có thể thấy các hộ dân vùng đồng bào dân tộc H’mông chủ yếu là hộ
nghèo, đời sống kinh tế còn gặp nhiều khó khăn.
75
Về nhà ở của đối tượng nghiên cứu
Hình 3.2: Nhà ở của đối tượng nghiên cứu
(Nguồn: tổng hợp từ số liệu điều tra năm 2016)
Do phong tục, tập quán của người H’mông nên họ chủ yếu sinh sống
trong những căn nhà gỗ ván, trong 226 đối tượng nghiên cứu có 149 hộ ở nhà
gỗ ván chiếm (65,9%). Có một số ít hộ đồng bào dân tộc H’mông do sinh
sống cùng người dân tộc Kinh và các dân tộc khác, đồng thời điều kiện kinh
tế khá hơn nên họ làm nhà xây vừa để đảm bảo điều kiện sống, vừa an toàn,
trong các hộ nghiên cứu, những hộ làm nhà xây có 48 hộ chiếm 21,2%. Còn
lại là những hộ không có điều kiện, kinh tế còn khó khăn nên nhà của họ là
nhà tranh tre, chiếm 12,8%.
Tình hình đất sản xuất và tài sản của hộ nghiên cứu
Do đặc điểm địa hình cư trú chủ yếu tập trung ở các sườn núi cao có
điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, địa hình hiểm trở, giao thông đi
lại khó khăn; cùng với đó là tập quán canh tác lạc hậu nên việc phát triển
kinh tế hộ gia đình của đồng bào dân tộc H’mông tại các xã được nghiên cứu
chủ yếu dựa vào trồng trọt, một số ít có thêm hoạt động chăn nuôi. Do đó,
quy mô đất đai sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến việc tạo công ăn việc
làm và thu nhập của họ.
Kết quả điều tra cho thấy, diện tích đất bãi của các hộ vùng nghiên cứu
bình quân là 2.158,85 m2 , diện tích đất ruộng là 6.648,52 m2. Hộ có diện tích
đất bãi và đất ruộng cao nhất là xã Văn Lăng.
76
Những nhóm hộ có tổng diện tích đất thấp chủ yếu tập trung ở xã
Quang Sơn Thiếu đất là một trong những yếu tố cản trở việc sản xuất kinh
doanh đặc biệt là các hộ nghèo thuần nông và đây cũng là một trong những
nguyên nhân chính của các hộ nghèo, nhưng việc giải quyết vấn đề này là rất
khó vì tổng diện tích đất của toàn xã hội luôn là một số không đổi.
Bảng 3.10: Đất đai sản xuất và tài sản của hộ
Số trung
Độ lệch
Mẫu
Sai số
bình
chuẩn
Văn Lăng
102 2210.20
1857.641
183.934
Quang Sơn
28
903.57
613.045
115.855
Diện tích đất bãi
Tân Long
96 2470.42
1152.323
117.608
Tổng số
226 2158.85
1547.091
102.911
Văn Lăng
102 7466.49 71251.502 7054.950
Quang Sơn
28
42.86
226.779
42.857
Diện tích đất ruộng
Tân Long
96 7706.08 73464.714 7497.961
Tổng số
226 6648.52 67556.538 4493.794
Văn Lăng
102
1.0105 989931.093
9.80204
Quang Sơn
28
7.1505 1486998.676
2.81005
Diện tích đất rừng
Tân Long
96
1.3705 674349.609
6.88304
Tổng số
226
1.9205 967605.690
6.43604
Văn Lăng
102
10.98
56.892
5.633
Quang Sơn
28
.00
.000
.000
Diện tích đất ao hồ
Tân Long
96
3.75
36.742
3.750
Tổng số
226
6.55
45.172
3.005
Văn Lăng
102
22.55
124.206
12.298
Quang Sơn
28 8571.43 38269.443 7232.245
Diện tích đất khác
Tân Long
96
10.42
102.062
10.417
Tổng số
226 1076.55 13554.939
901.661
(Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)
77
Bảng 3.11: So sánh sự khác biệt về diện tích đất sản xuất giữa
các vùng nghiên cứu
ANOVA
F
Bậc tự do (df)
Mức ý nghĩa
Tổng độ lệch bình phương
Trung bình bình phương
Giữa các mẫu
5.371007
2
2.685007 12.352
.000
Diện tích
Trong nội bộ các mẫu
4.848008
223 2174111.311
đất bãi
Tổng số
5.38508
225
Giữa các mẫu
1.39709
2
6.987008
.152
.859
Diện tích
Trong nội bộ các mẫu
1.025012
223
4.599009
đất ruộng
Tổng số
1.027012
225
Giữa các mẫu
8.780012
2 4.3900012
4.849
.009
Diện tích
Trong nội bộ các mẫu
2.019014
223 9.0530011
đất rừng
Tổng số
2.107014
225
Giữa các mẫu
3956.004
2
1978.002
.969
.381
Diện tích
Trong nội bộ các mẫu 455151.961
223
2041.040
đất ao hồ
Tổng số
459107.965
225
Giữa các mẫu
1.79509
2
8.976008
5.062
.007
Diện tích
Trong nội bộ các mẫu
3.955010
223
1.773008
đất khác
Tổng số
4.134010
225
(Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)
Kết quả phân tích ANOVA ở bảng trên cho ta thấy có diện tích đất bãi,
diện tích đất rừng, diện tích đất ao hồ và diện tích đất khác là có sự khác biệt
giữa các xã nghiên cứu (sig <0.05), còn đối với diện tích đất ruộng không có
sự khác biệt (sig>0.05). Điều này cho thấy diện tích đất sản xuất ở các xã
nghiên cứu cơ bản là không giống nhau, nguyên nhân là mỗi một xã lại có
điều kiện tự nhiên, đặc điểm khi hậu, thổ nhưỡng khác nhau, do vậy ảnh
hưởng trực tiếp đến diện tích đất sản xuất của từng vùng nghiên cứu.
78
Tuy nhiên, diện tích đất ruộng không có sự khác biệt nhiều giữa các
xã là do việc canh tác lúa nước phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thời tiết,
đặc điểm đất đai, trong khi người H’mông ở huyện Đồng Hỷ không như
người H’mông ở vùng trung du miền núi phía Bắc khác là biết trồng lúa
nước trên ruộng bậc thang, do vậy để trồng lúa nước, người dân phải chọn
những nơi địa hình bằng phẳng, có diện tích đủ rộng mới có thể canh tác
được. Vì thế nên diện tích đất trồng lúa là không có sự khác biệt giữa các
vùng nghiên cứu.
3.2.2.2. Thực trạng vai trò của người phụ nữ dân tộc H’mông trong phát triển
kinh tế hộ gia đình tại các hộ nghiên cứu
* Trong hoạt động quản lý và điều hành sản xuất
Hình 3.3: Về vai trò lao động của phụ nữ dân tộc H’mông trong gia đình
(Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)
Trong 226 người phụ nữ dân tộc H’mông tham gia khảo sát thì số
người là lao động chính trong gia đình là 220 người, chiếm tỷ lệ 97,3%, chỉ
có 6 người là lao động phụ chiếm tỷ lệ 2,7%. Điều đó cho thấy vai trò rất
quan trọng của phụ nữ H’mông trong lao động sản xuất tại gia đình, nó cũng
thể hiện vị trí của người phụ nữ trong gia đình, là lao động chủ lực sản xuất ra
của cải vật chất.
79
Bảng 3.12. Vai trò của giới trong việc phân công lao động và điều hành
hoạt động sản xuất của hộ
Vợ
Cả vợ và chồng
Chồng
Tần số Tỷ lệ % Tần số Tỷ lệ % Tần số Tỷ lệ %
48
21.24
136
60.18
42
18.58
Người phân công lao động trong gia đình Phân công bán cho ai
51
22.57
154
68.14
21
9.29
Phân công bán ở đâu
52
23.01
156
69.03
18
7.96
Người xác định giá bán
51
22.57
157
69.47
18
7.96
Tổng số
202
22.35
603
66.70
99
10.95
(Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)
Kết quả nghiên cứu cho thấy: Trong tổng số 226 mẫu nghiên cứu thì hộ
gia đình có người chồng quyết định phân công lao động và điều hành hoạt
động sản xuất chiếm tỷ lệ thấp nhất 10,95%, tiếp theo là hộ có người vợ đứng
ra chỉ đạo công việc là 22,35% và chiếm tỷ lệ cao nhất là cả 2 vợ chồng cùng
quyết định chung là 66,7%. Điều này cho thấy vai trò quan trọng của người
phụ nữ trong gia đình hoặc trực tiếp điều hành hay cùng với chồng quyết định
công việc lớn trong gia đình.
* Trong hoạt động sản xuất tạo thu nhập
- Trong hoạt động trồng trọt
Bảng 3.13: Vai trò của phụ nữ trong hoạt động trồng ngô
Vợ
Chồng
Đi thuê
Tổng công lao động
Tỷ lệ %
Tỷ lệ %
Ngày công
2.527
Ngày công 1479,5 58,55
Ngày công 1024,5 40,54
Làm đất
Tỷ lệ % 0,91
23
Trồng ngô
1.668
970,5 58,18
686,5 41,16
0,66
11
Chăm sóc ngô
2.033
1188 58,44
832 40,92
0,64
13
Thu hoạch
1.778
967,5 54,42
730,5 41,09
4,50
80
Tổng cộng
8.006
4605,5 57,53
3273,5 40,89
127
1,59
(Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)
80
Bảng trên cho thấy các hoạt động trồng ngô của hộ gia đình. Các hoạt
động này bao gồm các hoạt động cơ bản sau: làm đất, trồng ngô, chăm sóc và
thu hoạch ngô. Hộ chủ yếu sử dụng lao động của gia đình, việc thuê lao động
chủ yếu ở những hộ có diện tích trồng ngô lớn, lao động của gia đình ít và vào
những lúc mùa vụ như thu hoạch ngô là những hoạt động mang tính thời vụ.
Do tập quán canh tác và kinh tế hộ chủ yếu là tự cung, tự cấp nên tỷ lệ lao
động đi thuê rất thấp, trung bình các hoạt động trồng ngô chỉ có 1,59% là lao
động đi thuê. Các hoạt động còn lại đều do gia đình đảm nhiệm.
Giữa người vợ và người chồng, người vợ tham gia vào tất cả những
hoạt động của quá trình trồng ngô và chiếm tỷ trọng cao trong từng hoạt
động: làm đất chiếm 58,55% tổng số công làm đất, trồng ngô chiếm 58,18%
tổng số công trồng ngô, chăm sóc ngô 58,44% ngày công chăm sóc ngô và
thu hoạch ngô 54,42% tổng số ngày công thu hoạch.
Số còn lại là công việc của người chồng. Người chồng tham gia vào tất
cả các công việc của quá trình trồng ngô. Tuy nhiên, tỷ trọng tham gia vào
từng hoạt động của người chồng thấp hơn so với người vợ: làm đất chiếm
40,54% tổng số công làm đất, trồng ngô chiếm 41,16% tổng số công trồng
ngô, chăm sóc ngô 40,92% ngày công chăm sóc ngô và thu hoạch ngô
41,09% tổng số ngày công thu hoạch.
Trong số 226 mẫu điều tra nghiên cứu, số ngày công thực hiện các
công việc của hoạt động trồng ngô được thể hiện ở bảng sau:
Mẫu
Độ lệch chuẩn
Sai số
Số trung bình
Số ngày công làm đất của vợ
Số ngày công làm đất của chồng
Bảng 3.14: Vai trò của phụ nữ trong hoạt động trồng ngô
Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số
102 28 96 226 102 28 96 226
7.9853 2.7143 6.1354 6.5465 5.9363 1.1071 4.0417 4.5332
4.93796 2.08801 3.08688 4.28136 4.25119 1.70705 2.50858 3.68450
.48893 .39460 .31505 .28479 .42093 .32260 .25603 .24509
Số ngày công làm đất lao động đi thuê
Số ngày công trồng ngô của vợ
Số ngày công trồng ngô của chồng
Số ngày công trồng ngô lao động đi thuê
Số ngày công chăm sóc ngô của vợ
Số ngày công chăm sóc ngô của chồng
Số ngày công chăm sóc ngô lao động đi thuê
Số ngày công thu hoạch của vợ
Số ngày công thu hoạch của chồng
Số ngày công thu hoạch lao động đi thuê
81
Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số
102 28 96 226 102 28 96 226 102 28 96 226 102 28 96 226 102 28 96 226 102 28 96 226 102 28 96 226 102 28 96 226 102 28 96 226 102 28 96 226
1.10263 .56695 .51031 .83442 3.56309 1.18187 2.35193 3.04790 3.63834 .86984 2.05163 2.97129 .49507 .52453 .20412 .40257 3.55937 1.96665 2.73555 3.22154 3.07469 1.31887 3.09327 3.09771 .57482 .00000 .51031 .50882 2.96424 2.15780 2.10090 2.63558 2.81277 1.41234 2.29487 2.58591 2.15063 .52453 1.25337 1.67555
.1471 .1071 .0521 .1018 5.0490 1.7143 4.2448 4.2942 3.8431 .6429 2.8802 3.0376 .0490 .1429 .0208 .0487 5.3039 2.6429 5.9688 5.2566 3.8235 .9643 4.3229 3.6814 .0784 .0000 .0521 .0575 4.6863 2.2857 4.4323 4.2810 3.6373 1.0714 3.4323 3.2323 .5588 .1429 .1979 .3540
.10918 .10714 .05208 .05551 .35280 .22335 .24004 .20274 .36025 .16438 .20939 .19765 .04902 .09913 .02083 .02678 .35243 .37166 .27920 .21429 .30444 .24924 .31571 .20606 .05692 .00000 .05208 .03385 .29350 .40779 .21442 .17532 .27851 .26691 .23422 .17201 .21294 .09913 .12792 .11146 (Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)
82
Trung bình số ngày công làm đất trồng ngô của người vợ là 6,54 ngày
công, trong khi người chồng có số ngày công làm đất là 4,53 ngày. Các hoạt
động khác của quá trình trồng ngô cũng thể hiện số ngày công của người vợ
thực hiện các công việc này cũng lớn hơn so với ngày công mà người chồng
bỏ ra: thể hiện ngày công trồng ngô của vợ là 4,29 ngày, của chồng là 3,03
ngày; ngày công chăm sóc ngô của vợ là 5,25 ngày, trong khi ngày công chăm
sóc ngô của chồng chỉ có 3,68 ngày; đến vụ thu hoạch, người vợ phải bỏ ra
4,3 ngày công để thu hoạch ngô, còn người chồng chỉ có 3,2 ngày công để
thực hiện công việc này.
Bảng trên chỉ cho ta thấy được vai trò quan trọng của người phụ nữ
trong hoạt động trồng ngô - hoạt động mang thu nhập chính cho các hộ gia
đình người dân tộc H’mông.
Bảng 3.15: Sự khác biệt về số ngày công thực hiện các công việc
trồng ngô ở các xã nghiên cứu
ANOVA
df
F
Tổng độ lệch bình phương
Mức ý nghĩa
Trung bình bình phương 319.290 20.427
.000
Giữa các mẫu
638.580
2
Số ngày công
Trong nội bộ các mẫu
3485.682
223
15.631
làm đất của vợ
Tổng số
4124.262
225
Giữa các mẫu
552.653
2
276.327 24.630
.000
Số ngày công
làm đất
Trong nội bộ các mẫu
2501.848
223
11.219
của chồng
Tổng số
3054.501
225
Giữa các mẫu
.447
2
.319
.727
.224
Số ngày công
làm đất lao
Trong nội bộ các mẫu
156.212
223
.701
động đi thuê
Tổng số
156.659
225
Giữa các mẫu
244.716
2
122.358 14.785
.000
Số ngày công
trồng ngô
Trong nội bộ các mẫu
1845.467
223
8.276
của vợ
Tổng số
2090.183
225
Giữa các mẫu
229.139
2
114.570 14.539
.000
Số ngày công
trồng ngô
Trong nội bộ các mẫu
1757.291
223
7.880
của chồng
83
Tổng số
1986.430
225
Giữa các mẫu
.323
2
.996
.371
.161
Số ngày công
trồng ngô lao
Trong nội bộ các mẫu
36.142
223
.162
động đi thuê
Tổng số
36.465
225
Giữa các mẫu
240.202
2
120.101 12.785
.000
Số ngày công
chăm sóc ngô
Trong nội bộ các mẫu
2094.913
223
9.394
của vợ
Tổng số
2335.115
225
Giữa các mẫu
248.285
2
124.142 14.488
.000
Số ngày công
chăm sóc ngô
Trong nội bộ các mẫu
1910.777
223
8.569
của chồng
Tổng số
2159.062
225
Giữa các mẫu
.140
2
.269
.765
.070
Số ngày công
.261
chăm sóc ngô
Trong nội bộ các mẫu
58.112
223
lao động đi thuê
Tổng số
58.252
225
Giữa các mẫu
130.423
2
65.212 10.152
.000
Số ngày công
thu hoạch
Trong nội bộ các mẫu
1432.485
223
6.424
của vợ
Tổng số
1562.908
225
Giữa các mẫu
151.309
2
75.654 12.467
.000
Số ngày công
thu hoạch
Trong nội bộ các mẫu
1353.245
223
6.068
của chồng
Tổng số
1504.554
225
Giữa các mẫu
7.866
2
3.933
1.406
.247
Số ngày công
thu hoạch lao
Trong nội bộ các mẫu
623.815
223
2.797
động đi thuê
Tổng số
631.681
225
(Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)
Qua bảng phân tích ANOVA ở trên cho thấy thấy tất cả các yếu tố
kiểm định về ngày công của vợ và của chồng đều có sig < 5%, điều đó khẳng
định có sự khác biệt về số ngày công của vợ và của chồng trong các hoạt động
trồng ngô ở các vùng nghiên cứu. Tuy có sự khác biệt về số ngày công thực
hiện các công việc của quá trình trồng ngô, nhưng ở các vùng nghiên cứu thì tỷ
lệ ngày công tham gia đóng góp của người vợ đều luôn cao hơn so với sự tham
gia đóng góp ngày công của chồng.
84
+ Trong hoạt động trồng lúa
Bảng 3.16: Vai trò của phụ nữ trong hoạt động trồng lúa
Vợ
Chồng
Đi thuê
Tổng công lao động
Ngày công
420
Tỷ lệ % 56,91
Ngày công 314
Tỷ lệ % 42,55
Ngày công 4
Làm đất
738
Tỷ lệ % 0,54
Cấy lúa
691
414
59,91
273
39,51
0,58
4
Chăm sóc lúa
649
374
57,63
275
42,37
0
0
Gặt
611
317
51,88
288
47,14
0,98
6
Thu hoạch
612
344
56,21
268
43,79
0
0
Tổng số
3301
1869
56,62
1418
42,96
14
0,42
(Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)
Bảng trên cho thấy các hoạt động trồng lúa của hộ gia đình, bao gồm
các hoạt động cơ bản sau: làm đất, cấy lúa, chăm sóc lúa, gặt và thu hoạch
lúa. Trong các hoạt động này, sử dụng chủ yếu lao động của gia đình, chỉ thuê
lao động vào những lúc mùa vụ như làm đất, cấy lúa và gặt lúa là những hoạt
động mang tính thời vụ, tuy nhiên chỉ có một số ít là lao động thuê ngoài,
chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong hoạt động trồng lúa của hộ. Tỷ lệ trung bình của lao
động đi thuê trong các hoạt động trồng lúa chỉ chiếm 0,42%.
Trong hộ gia đình, người vợ tham gia vào tất cả các khâu của quá trình
trồng lúa và chiếm tỷ lệ cao trong các hoạt động trồng lúa của hộ, tỷ lệ trung
bình là 56,62% các hoạt động của quá trình trồng lúa do người vợ đảm nhận, cụ
thể: làm đất chiếm 56,91% tổng số công làm đất, cấy lúa chiếm 59,91% tổng số
công cấy lúa, chăm sóc lúa 57,63% ngày công chăm sóc lúa, gặt lúa 51,88%
ngày công gặt lúa và thu hoạch lúa 56,21% tổng số ngày công thu hoạch.
Người chồng tham gia vào tất cả các công việc của quá trình trồng lúa.
Tuy nhiên, tỷ trọng tham gia vào từng hoạt động của người chồng thấp hơn
so với người vợ: làm đất chiếm 42,55% tổng số công làm đất, cấy lúa chiếm
39,51% tổng số công cấy lúa, chăm sóc lúa 42,37% ngày công chăm sóc lúa,
85
gặt lúa 47,14% ngày công gặt lúa và thu hoạch lúa 43,79% tổng số ngày
công thu hoạch. Tỷ lệ trung bình của người chồng tham gia vào quá trình
trồng lúa là 42,96%.
Trong số 226 mẫu điều tra nghiên cứu, việc đóng góp ngày công của vợ
và ngày công của chồng trong các hoạt động của quá trình trồng lúa được thể
hiện trong bảng sau:
Số trung bình
Mẫu
Độ lệch chuẩn
Sai số
Văn Lăng
102
3.1471
3.63807
.36022
Đóng góp ngày công làm đất của vợ
Quang Sơn
28
.0357
.18898
.03571
Tân Long
96
1.0208
2.55458
.26073
Bảng 3.17: Đóng góp của phụ nữ trong hoạt động trồng lúa
Tổng số
226
1.8584
3.18850
.21210
Văn Lăng
102
2.2647
2.80356
.27759
Đóng góp ngày công làm đất lúa của chồng
Quang Sơn
28
.0357
.18898
.03571
Tân Long
96
.8542
2.05697
.20994
Tổng số
226
1.3894
2.45288
.16316
Văn Lăng
102
.0196
.19803
.01961
Đóng góp ngày công làm đất lúa thuê
Quang Sơn
28
.0000
.00000
.00000
Tân Long
96
.0208
.20412
.02083
Tổng số
226
.0177
.18773
.01249
Văn Lăng
102
2.8627
3.25725
.32252
Đóng góp ngày công cấy lúa của vợ
Quang Sơn
28
.0714
.37796
.07143
Tân Long
96
1.2500
2.68328
.27386
Tổng số
226
1.8319
2.97180
.19768
Văn Lăng
102
1.7373
2.60825
.25825
Đóng góp ngày công cấy lúa của chồng
Quang Sơn
28
.0357
.18898
.03571
Tân Long
96
.9896
2.41702
.24669
Tổng số
226
1.2088
2.41724
.16079
Văn Lăng
102
.0196
.19803
.01961
Đóng góp ngày công cấy lúa thuê
Quang Sơn
28
.0000
.00000
.00000
Tân Long
96
.0208
.20412
.02083
Tổng số
226
.0177
.18773
.01249
Văn Lăng
102
2.6863
3.38014
.33468
Đóng góp ngày công chăm sóc lúa của vợ
86
Quang Sơn Tân Long Tổng số
28 96 226
.0357 1.0312 1.6549
.18898 2.42119 2.92960
.03571 .24711 .19487
Văn Lăng
102
1.9118
2.77579
.27484
Đóng góp ngày công chăm sóc lúa của chồng
Quang Sơn Tân Long Tổng số
28 96 226
.0357 .8229 1.2168
.18898 2.17156 2.43162
.03571 .22163 .16175
Văn Lăng
102
.0000
.00000
.00000
Đóng góp ngày công chăm sóc lúa đi thuê
Quang Sơn Tân Long Tổng số
28 96 226
.0000 .0000 .0000
.00000 .00000 .00000
.00000 .00000 .00000
Văn Lăng
102
2.1618
2.45066
.24265
Đóng góp ngày công gặt lúa của vợ
Quang Sơn Tân Long Tổng số
28 96 226
.0357 .9948 1.4027
.18898 2.19388 2.30155
.03571 .22391 .15310
Văn Lăng
102
1.5833
2.07899
.20585
Đóng góp ngày công gặt lúa của chồng
Quang Sơn Tân Long Tổng số
28 96 226
.0357 .6823 1.0088
.18898 1.65294 1.84690
.03571 .16870 .12285
Văn Lăng
102
.0196
.19803
.01961
Đóng góp ngày công gặt lúa thuê
Quang Sơn Tân Long Tổng số
28 96 226
.0357 .0312 .0265
.18898 .22725 .20913
.03571 .02319 .01391
Văn Lăng
102
2.2990
2.76135
.27341
Đóng góp ngày công thu hoạch của vợ
Quang Sơn Tân Long Tổng số
28 96 226
.1429 1.0938 1.5199
.75593 2.43258 2.56486
.14286 .24827 .17061
Văn Lăng
102
1.7598
2.43401
.24100
Đóng góp ngày công thu hoạch của chồng
Quang Sơn Tân Long Tổng số
28 96 226
.0000 .9167 1.1836
.00000 2.12586 2.21874
.00000 .21697 .14759
Văn Lăng
102
.0000
.00000
.00000
Đóng góp ngày công thu hoạch đi thuê
Quang Sơn Tân Long Tổng số
28 96 226
.0000 .0000 .0000
.00000 .00000 .00000
.00000 .00000 .00000
(Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)
87
Bảng trên chỉ cho ta thấy trong các hoạt động của quá trình trồng lúa:
lầm đất, cấy lúa, chăm sóc và gặt lúa đều có sự tham gia góp sức của vợ và
chồng, tuy nhiên cũng như hoạt động trồng ngô, số ngày công của người vợ
tham gia các quá trình của hoạt động trồng lúa đều cao hơn so với người
chồng. Điều đó cho ta thấy được vai trò quan trọng của người phụ nữ trong
hoạt động trồng lúa, cùng với hoạt động trồng ngô để mang lại thu nhập cho
các hộ gia đình người dân tộc H’mông.
Trong phần này, chúng ta kiểm định sự khác biệt về đóng góp ngày
công của vợ, đóng góp ngày công của chồng vào hoạt động trồng lúa ở các
vùng nghiên cứu, được thể hiện trong bảng dưới đây:
Bảng 3.18: Sự khác biệt về số ngày công thực hiện
các công việc trồng lúa ở các xã nghiên cứu
ANOVA
df
F
Mức ý nghĩa
Tổng độ lệch bình phương
Trung bình bình phương
Giữa các mẫu
329.752
2 164.876 18.781
.000
Đóng góp ngày công
Trong nội bộ các mẫu
1957.717
223
8.779
làm đất lúa của vợ
Tổng số
2287.469
225
Giữa các mẫu
156.959
2
78.479 14.623
.000
Đóng góp
ngày công làm đất
Trong nội bộ các mẫu
1196.776
223
5.367
lúa của chồng
Tổng số
1353.735
225
Giữa các mẫu
.010
2
.005
.142
.868
Đóng góp ngày công
Trong nội bộ các mẫu
7.919
223
.036
làm đất lúa thuê
Tổng số
7.929
225
Giữa các mẫu
227.675
2 113.838 14.428
.000
Đóng góp ngày công
Trong nội bộ các mẫu
1759.436
223
7.890
cấy lúa của vợ
Tổng số
1987.111
225
Giữa các mẫu
71.630
2
35.815
6.425
.002
Trong nội bộ các mẫu
1243.052
223
5.574
Đóng góp ngày công cấy lúa của chồng
88
Tổng số
1314.682
225
Giữa các mẫu
.010
2
.142
.868
.005
Trong nội bộ các mẫu
7.919
223
.036
Đóng góp ngày công cấy lúa thuê
Tổng số
7.929
225
Giữa các mẫu
219.248
2 109.624 14.281
.000
Trong nội bộ các mẫu
1711.831
223
7.676
Đóng góp ngày công chăm sóc lúa của vợ
Tổng số
1931.080
225
Giữa các mẫu
103.216
2
51.608
9.378
.000
Trong nội bộ các mẫu
1227.160
223
5.503
Đóng góp ngày công chăm sóc lúa của chồng
Tổng số
1330.376
225
Giữa các mẫu
.000
2
.000
.
.
Trong nội bộ các mẫu
.000
223
.000
Đóng góp ngày công chăm sóc lúa đi thuê
Tổng số
.000
225
Giữa các mẫu
127.066
2
63.533 13.306
.000
Trong nội bộ các mẫu
1064.793
223
4.775
Đóng góp ngày công gặt lúa của vợ
Tổng số
1191.858
225
Giữa các mẫu
70.416
2
35.208 11.264
.000
Trong nội bộ các mẫu
697.066
223
3.126
Đóng góp ngày công gặt lúa của chồng
Tổng số
767.482
225
Giữa các mẫu
.009
2
.106
.899
.005
Trong nội bộ các mẫu
9.831
223
.044
Đóng góp ngày công gặt lúa thuê
Tổng số
9.841
225
Giữa các mẫu
132.446
2
66.223 10.958
.000
Trong nội bộ các mẫu
1347.715
223
6.044
Đóng góp ngày công thu hoạch của vợ
Tổng số
1480.160
225
Giữa các mẫu
79.931
2
39.965
8.672
.000
Trong nội bộ các mẫu
1027.699
223
4.609
Đóng góp ngày công thu hoạch của chồng
Tổng số
1107.629
225
Giữa các mẫu
.000
2
.000
.
.
Trong nội bộ các mẫu
.000
223
.000
Đóng góp ngày công thu hoạch thuê
Tổng số
.000
225
(Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)
89
Qua bảng phân tích ANOVA ở trên cho thấy thấy tất cả các yếu tố
kiểm định về ngày công của vợ và của chồng đều có sig < 5%, điều đó khẳng
định có sự khác biệt về số ngày công của vợ và của chồng trong các hoạt động
trồng lúa ở các vùng nghiên cứu.
Trong hoạt động chăn nuôi của hộ
Như đã phân tích ở trên, có thể khẳng định vai trò quan trọng của người
phụ nữ trong hoạt động trồng trọt của hộ. Bên cạnh hoạt động trồng trọt, các
hộ gia đình người dân tộc H’mông cũng tiến hành các hoạt động chăn nuôi,
chăn nuôi của hộ gồm nuôi gà, lợn, trâu và bò. Tuy nhiên hoạt động chăn nuôi
gà và lợn của hộ chủ yếu là để phục vụ nhu cầu chăn nuôi lấy thịt cải thiện
bữa ăn của gia đình và phục vụ những ngày lễ, tết, cúng ma, cưới hỏi theo
phong tục của người H’mông; đối với trâu và bò thì người dân chủ yếu nuôi
để lấy sức kéo phục vụ cho hoạt động sản xuất của hộ.
Qua khảo sát ở các hộ nghiên cứu, hoạt động chăn nuôi của hộ chủ yếu
do người phụ nữ và con cái trong gia đình đảm nhận. Trẻ con trong nhà
thường có nhiệm vụ đi chăn trâu, bò cho gia đình. Người phụ nữ thường cho
ăn và chăm sóc gia cầm, vật nuôi.
Trong hoạt động lâm nghiệp
Bảng 3.19: Phân công lao động trong hoạt động lâm nghiệp
Vợ
Chồng
Người khác
Cả vợ và chồng
Tần số
Tỷ lệ %
Tỷ lệ %
Tần số
Tỷ lệ %
Tần số
Phân công phát cây, dọn đồi
64 28,32
Tần số 150 66,37
10 4,42
Tỷ lệ % 0,88
2
Phân công cuốc hố, trồng cây
58 25,66
157 69,47
10 4,42
1
0,44
Phân công chăm sóc rừng
59 26,11
155 68,58
11 4,87
1
0,44
80 35,40
135 59,73
10 4,42
1
0,44
Phân công lấy măng, sản phẩm phụ Phân công khai thác gỗ, bán
51 22,57
143 63,27
31 13,72
1
0,44
Tổng số
312 27,61
740 65,49
72 6,37
6
0,53
(Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)
90
Bảng trên cho thấy các hoạt động lâm nghiệp của hộ gia đình, bao gồm
các hoạt động cơ bản sau: phát cây, dọn đồi, cuốc hố, trồng cây, lấy măng, sản
phẩm phụ, khai thác gỗ, bán. Trong các hoạt động này, sử dụng chủ yếu lao
động của gia đình, qua khảo sát điều tra, ngoài vợ và chồng tham gia vào các
hoạt động lâm nghiệp thì có bố, mẹ và con cái tham gia vào hoạt động này. Tuy
nhiên, chủ yếu vẫn là vợ và chồng, người khác chiếm tỷ lệ rất ít, chỉ có 0,53%.
Do địa bàn cư trú của người H’mông chủ yếu trên vùng núi cao, hoạt
động lâm nghiệp không mang lại nhiều về giá trị kinh tế cho gia đình nhưng
lại có ảnh hưởng lớn đến việc bảo vệ rừng, đem lại lợi ích lâu dài cho người
dân đó là giữ đất, chống xói mòn đất, chống lũ quét và lũ ống, đảm bảo an
toàn cho đời sống của họ và tận dụng các sản phẩm phụ của rừng để phục vụ
cho đời sống của hộ gia đình.
Trong các hộ gia đình tiến hành nghiên cứu, hoạt động lâm nghiệp chủ
yếu là sự đóng góp, tham gia của cả vợ và chồng, tỷ lệ trung bình tham gia
các hoạt động lâm nghiệp của vợ và chồng là 65,49%.
Một số gia đình do phụ nữ làm chủ, người chồng đi làm thuê ở nơi khác
hoặc không có chồng hoặc người chồng không có khả năng lao động nên toàn
bộ hoạt động lâm nghiệp do người vợ gánh vác, tỷ lệ trung bình của người vợ
tham gia hoạt động lâm nghiệp chiếm tỷ lệ 27,61%. Một số hộ khác, người
chồng gánh vác chủ yếu công việc này chiếm 6,37%.
Qua phân tích vai trò người phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ thông qua
sự tham gia của họ vào các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi và hoạt động lâm
nghiệp, có thể thấy vai trò quan trọng của họ đối với kinh tế của hộ gia đình.
Trong cuộc sống hàng ngày của các gia đình dân tộc H’mông thì người
phụ nữ và nam giới đều tham gia các hoạt động sản xuất để tạo thu nhập. Các
hoạt động tạo thu nhập của hộ phong phú và đa dạng, ở mỗi loại hộ khác nhau
đều có ít nhất 02 hoạt động tạo thu nhập, chủ yếu vẫn là sản xuất nông, lâm
nghiệp, chăn nuôi, ngoài ra một số hộ còn hoạt động dịch vụ trong nông
nghiệp, đi làm thuê...
91
Do phong tục tập quán của người H’mông có nhiều lễ hội, lễ cúng và
người H’mông có sự cố kết cộng đồng cao, người đàn ông chủ yếu tham gia
các hoạt động này và việc uống rượu đối với người dân tộc được coi là không
thể thiếu. Việc dành thời gian để tham gia các hoạt động này cũng như việc
uống và say rượu đã làm giảm khả năng lao động cũng như vai trò của nam
giới người H’mông trong phát triển kinh tế gia đình. Điều này cũng là một
trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ hộ nghèo rất cao ở những gia đình
người H’mông và gánh nặng công việc gia đình chủ yếu đè lên đôi vai của
người phụ nữ dân tộc H’mông.
* Trong tiếp cận và kiểm soát nguồn lực của hộ
- Trong việc tiếp cận và quản lý vốn
Bên cạnh việc tham gia vào các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi và lâm
nghiệp, người phụ nữ còn tham gia vào việc quản lý các nguồn lực của hộ như
vốn vay. Trong số 226 hộ của mẫu nghiên cứu thì có 181 hộ có vay vốn từ
nguồn Ngân hàng chính sách xã hội huyện Đồng Hỷ.Vai trò của người phụ nữ
trong quản lý vốn được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 3.20: Vai trò của phụ nữ trong quản lý vốn
Cả vợ và
Vợ
Chồng
Người khác
chồng
Tần
Tỷ lệ
Tần
Tỷ lệ
Tần
Tỷ lệ
Tần
Tỷ lệ
số
%
số
%
số
%
số
%
Người quản lý vốn
32
17,68
119
65,75
30 16,57
0
0
Người đứng tên
vay vốn
48
26,52
14
7,73
118 65,19
1
0,55
Người đi trả tiền
37
20,44
89
49,17
54 29,83
1
0,55
Người quyết định
sử dụng vốn
28
15,47
121
66,85
31 17,13
1
0,55
Tổng số
145
20,03
343
47,38
233 32,18
3
0,41
(Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)
92
Qua nghiên cứu khảo sát cho thấy, trong các hộ gia đình người H’mông
có sự thay đổi trong suy nghĩ là chỉ có người đàn ông mới được nắm quyền
quản lý và sử dụng tài sản, nguồn vốn trong gia đình. Thể hiện ở tỷ lệ người
quản lý vốn trong gia đình gồm cả vợ và chồng có tỷ lệ cao nhất, chiếm
65,75%, người phụ nữ quản lý vốn trong gia đình chiếm 17,68%, trong khi
những hộ được vay vốn có người chồng quản lý vốn là 16,57%.
Qua bảng trên cho thấy, trong việc đứng tên vay vốn có tới 65,19%
nguồn vốn vay là do người chồng đứng tên, có 26,52% là người vợ đứng tên
và 7,73% là cả hai vợ chồng cùng đứng tên vay vốn. Kết quả điều tra tại các
hộ cho thấy trong quá trình ra quyết định sử dụng tài chính, hầu hết đều cho
rằng cả vợ và chồng bàn bạc thống nhất nhưng nếu có sự không đồng thuận
thì quyết định cuối cùng thuộc về người chồng. Vì đứng tên trong sở hữu tài
sản như đất đai, xe máy, nông cụ …của hộ là người chồng. Có thể do nam giới là
chủ hộ và là người có trình độ học vấn cao hơn, nên việc đứng ra vay vốn chủ
yếu do người chồng thực hiện.
Nhưng việc trả lãi hàng tháng và sử dụng nguồn vốn thuộc về cả hai vợ
chồng, có 66,85% là cả hai thực hiện nhiệm vụ này, người chồng quyết định sử
dụng vốn có 17,13%, còn lại thuộc về người vợ. Như vậy, người vợ trực tiếp quản
lý tài chính như thủ quỹ của gia đình, còn quyền quyết định sử dụng tài chính vào
mục đích gì, sử dụng thế nào lại được cả hai vợ chồng bàn bạc thống nhất.
Qua phân tích trên cho thấy, người phụ nữ tham gia vào quá trình vay,
trả lãi và quản lý nguồn vốn vay của hộ phục vụ cho sản xuất và phát triển
kinh tế của hộ gia đình.
- Trong tiếp cận khoa học kỹ thuật
Hiện nay mạng lưới thông tin các loại hầu như đã phủ khắp các vùng,
kể cả các vùng sâu, vùng xa. Phụ nữ H’mông cũng nhận được các loại thông
tin từ nhiều nguồn khác nhau. Tuy nhiên mức độ tiếp nhận các nguồn khác
nhau thì không giống nhau. Mặt khác còn phải xem xét nguồn tin nào là
nguồn phụ nữ thích nhất và dễ tiếp thu nhất để xây dựng các chương trình cải
tiến việc cung cấp thông tin cho phụ nữ vùng dân tộc thiểu số.
93
Việc tiếp cận các kênh thông tin đối với nam giới thường thông qua
điện thoại thông minh, hội họp, xem ti vi, … còn phụ nữ do đảm nhiệm công
việc đồng áng, nội trợ, chăm sóc sức khoẻ cho các thành viên trong gia đình
nên họ nắm bắt kiến thức chủ yếu qua các lớp tập huấn do Hội phụ nữ tổ chức,
qua việc đi chợ mua, bán sản phẩm và qua chính kinh nghiệm mà họ tích luỹ
được trong quá trình lao động. Trong vùng nghiên cứu, phụ nữ H’mông
thường nắm bắt thông tin qua người chồng, qua tổ chức Hội phụ nữ và các hội
đoàn thể khác, qua họ hàng, qua thông tin khi giao lưu trên thị trường, ….hay
tích luỹ kinh nghiệm của chính bản thân.
- Trong tiếp cận thông tin, nâng cao trình độ
Bảng 3.21: Tham gia các lớp tập huấn
Vợ
Cả vợ và chồng
Chồng
Tần
Tần
Tần
Tỷ lệ %
Tỷ lệ %
Tỷ lệ %
số
số
số
Kiến thức về giới
27
33
11,95
14,60
1
0,44
Lớp quản lý kinh tế hộ
8
26
3,54
11,50
4
1,77
Kỹ thuật trồng trọt
75
119
33,19
52,65
10
4,42
Kỹ thuật chăn nuôi
50
92
22,12
40,71
7
3,10
Kỹ thuật trồng rừng
41
105
18,14
46,46
10
4,42
Kỹ thuật trồng chè
18
37
7,96
16,37
1
0,44
Phòng trừ dịch hại
32
85
14,16
37,61
3
1,33
Tổng
251
497
15,87
31,42
36
2,28
(Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)
Do nhiều nguyên nhân khác nhau: Trình độ dân trí thấp, nhiều chị em
người H’mông không biết chữ; thời gian dành cho các công việc sản xuất,
chăm sóc sức khỏe gia đình... đã chiếm gần như toàn bộ thời gian của người
phụ nữ H’mông, vì vậy mà tỷ lệ tham gia các lớp tập huấn của phụ nữ rất
thấp, trung bình chỉ khoảng 15,87% người vợ tham gia các lớp tập huấn.
Trong các phân tích ở trên, có thể thấy rằng phụ nữ giành hầu hết thời
gian cho hoạt động sản xuất tạo thu nhập và nội trợ trong gia đình nên quỹ thời gian để tiếp cận thông tin, học tập nâng cao trình độ không còn nhiều.
94
Hơn nữa, quan niệm truyền thống của người dân tộc cho rằng người
phụ nữ không cần phải học nhiều. Mặt khác, sau ngày làm việc vất vả, họ
không có nhu cầu học tập, họ lại tự hài lòng với trình độ hiện tại của mình và
cho rằng không cần thiết phải thay đổi điều đó.
Qua phân tích trên, thêm một lần nữa khẳng định rằng thời gian phụ nữ lao
động sản xuất để tạo thu nhập cho hộ gia đình rất cao, nhưng họ vẫn phải thực
hiện trách nhiệm làm công việc nội trợ, chăm sóc sức khỏe gia đình, nuôi dạy con
cái, tham gia mua sắm, sửa chữa, xây dựng nhà cửa… Đòi hỏi hàng ngày đối với
phụ nữ trong gia đình đều phải làm nội trợ gấp 2 lần so với nam giới, nhưng họ
vẫn giành thời gian ít ỏi để tham gia sinh hoạt hội đoàn thể, tham gia các hoạt
động cộng đồng. Vì thế, thời gian ngủ, nghỉ để tái sản xuất sức lao động cho phụ
nữ giảm đi nhất là trong những thời điểm khẩn trương của mùa vụ, làm ảnh
hưởng không nhỏ tới sức khoẻ của phụ nữ. Nếu phụ nữ muốn có thời gian để
thăm hỏi, giao lưu bạn bè hoặc tham dự các lớp học, các buổi tập huấn nâng cao
kiến thức về mọi mặt thì rất cần có được sự chia sẻ công việc nội trợ, chăm sóc
con cái từ các thành viên khác trong gia đình, trước hết là người chồng.
* Trong việc ra các quyết định của hộ gia đình
Bảng 3.22: Vai trò của phụ nữ H’mông trong việc ra quyết định của hộ
Vợ
Cả vợ và chồng
Chồng
Tần số Tỷ lệ % Tần số Tỷ lệ % Tần số Tỷ lệ %
48 47 47
21,24 20,80 20,80
157 156 157
69,47 69,03 69,47
21 23 22
9,29 10,18 9,73
46
20,35
156
69,03
24
10,62
44
19,47
159
70,35
23
10,18
48 47
21,24 20,80
156 160
69,03 70,80
22 19
9,73 8,41
43
19,03
166
73,45
17
7,52
Quyết định trồng cây gì Quyết định bán cho ai Quyết định giá bán Quyết định áp dụng kỹ thuật vào sản xuất Quyết định mua sắm, sửa chữa lớn Quyết định sử dụng thu nhập Quyết định cho con đi học Định hướng nghề nghiệp cho con
Tổng số
370
20,46
70,08
1267
171
9,46 (Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)
95
Bảng trên cho thấy, việc quyết định phương thức sản xuất và cách thức
sản xuất của hộ đều được sự thống nhất của cả vợ và chồng, tỷ lệ hộ trả lời cả
vợ và chồng cùng quyết định trồng cây gì? Bán cho ai? Giá bán? Áp dụng kỹ
thuật gì vào sản xuất chiếm tới trên 69,03%. Tuy nhiên, cũng có tới trên
20,35% phụ nữ quyết định việc sản xuất của hộ gia đình.
Đối với việc mua sắm các dụng cụ đắt tiền, sửa sang, xây dựng nhà cửa
trong gia đình thì cũng có tới 70,35% đồng ý rằng việc mua sắm , sửa chữa
lớn tài sản của hộ có sự đồng thuận của cả 2 vợ chồng.
Trong quyết định sử dụng thu nhập của gia đình cũng có sự nhất trí cao
giữa hai vợ chồng, thể hiện ở tỷ lệ 69,03% cả hai vợ chồng cùng quyết định sử
dụng thu nhập của gia đình, tỷ lệ phụ nữ quyết định sử dụng thu nhập của hộ
cũng chiếm tới 21,24%, chỉ có 9,73% là quyết định của người chồng.
Việc quyết định cho con cái đi học và định hướng nghề nghiệp cho con
cái cũng được bàn bạc, thống nhất giữa vợ và chồng, chiếm trên 70,8% là vợ
và chồng quyết định, người phụ nữ ra các quyết định này trong gia đình chiếm
trên 19,3%, còn lại là do người chồng ra quyết định.
Có thể nói, đối với việc ra các quyết định của hộ gia đình trên địa bàn
nghiên cứu đã có sự thống nhất cao giữa vợ và chồng, từ việc lựa chọn
phương thức sản xuất, sử dụng thu nhập đến việc học hành, nghề nghiệp cho
con cái. Trung bình tỷ lệ ra quyết định do cả vợ và chồng chiếm tỷ lệ 70,08%,
có 20,46% các quyết định là do người phụ nữ thực hiện, chỉ có 9,46% các
quyết định là của người chồng. Qua đó có thể thấy vai trò quan trọng của
người phụ nữ dân tộc H’mông trong việc ra các quyết định của hộ gia đình.
Chúng tôi cũng đi sâu tìm hiểu vai trò của người phụ nữ trong hoạt động
đầu tư vào lĩnh vực phi nông nghiệp cũng như đầu tư vào các dịch vụ bán lẻ. Tuy
nhiên, do địa bàn nghiên cứu là khu vực vùng núi đặc biệt khó khăn, ít có hoạt
động phi nông nghiệp, nên các hộ nghiên cứu không trả lời câu hỏi này.
Như vậy, chúng ta có thể thấy, người phụ nữ đóng vai trò quan trọng
giống như người chồng trong gia đình, họ bình đẳng tham gia vào các quyết
định của hộ.
96
* Trong tham gia công tác xã hội
Hầu hết phụ nữ người H’mông được hỏi ý kiến đều cho rằng các chức
vụ lãnh đạo chủ chốt của xóm đều do nam giới nắm giữ. Phụ nữ chỉ giữ chức
vụ Chi hội trưởng phụ nữ.
Thực tế tại các xã thuộc vùng nghiên cứu, phụ nữ H’mông tham gia công
tác chính quyền còn thấp, chưa tương xứng với lực lượng nữ ở địa phương.
Nguyên nhân là do phụ nữ người H’mông có trình độ dân trí thấp, họ sống khép
kín, ít tiếp xúc với bên ngoài; Bên cạnh đó, thời gian họ dành cho công việc sản
xuất tạo thu nhập, chăm sóc gia đình đã chiếm rất nhiều thời gian trong ngày của
họ. Nên phụ nữ người H’mông rất hạn chế tham gia công tác xã hội. Điều này ảnh
hưởng lớn đến vai trò của phụ nữ người H’mông trong gia đình và xã hội.
* Vai trò của phụ nữ trong gia đình
Trong các hoạt động của gia đình
Bảng 3.23: Phân công các hoạt động gia đình
Vợ
Cả vợ và chồng
Chồng
Tần số Tỷ lệ % Tần số Tỷ lệ % Tần số Tỷ lệ %
Nội trợ
188
83,19
36
15,93
2
0,88
157
69,47
69
30,53
0
0
Chăm sóc sức khỏe gia đình Kèm, dạy con học
97
42,92
73
32,30
6
2,65
Lấy củi đun
89
39,38
133
58,85
4
1,77
34
15,04
183
80,97
8
3,54
Mua sắm, xây dựng, sửa chữa nhà ở Tổng số
565
50,00
494
43,72
20
1,77
(Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)
Qua nghiên cứu thực tế cho thấy vai trò quan trọng của người phụ nữ
không chỉ tham gia vào phát triển kinh tế hộ mà còn vào các hoạt động sinh
hoạt của gia đình. Đối với công việc nội trợ, phụ nữ vẫn là người thực hiện
chủ yếu với tỷ lệ 83,19%, chỉ có 15,93% hoạt động này được thực hiện bởi cả
hai vợ chồng, người chồng thực hiện công việc này chiếm 0,88%.
97
Vai trò trong công tác chăm sóc sức khoẻ gia đình
Trong số 226 hộ tiến hành điều tra nghiên cứu, có thể thấy hoạt động
chăm sóc sức khỏe gia đình chủ yếu do phụ nữ thực hiện, với tỷ lệ cao
69,47%, có 30,53% hoạt động này do cả vợ và chồng thực hiện, không có
hộ nào chỉ có người chồng đảm nhận công việc này. Hoạt động chăm sóc
sức khỏe ở đây bao gồm chăm sóc sức khỏe cho con cái và chăm sóc sức
khỏe các thành viên trong gia đình, nhất là người lớn tuổi. Tuy nhiên đồng
bào dân tộc H’mông sinh sống ở vùng núi cao, địa hình hiểm trở, đi lại khó
khăn cùng với trình độ dân trí thấp và do phong tục tập quán của người
H’mông, khi trong nhà có người bị bệnh, người H’mông tin rằng có ma
trong người, gia chủ thường mời thày cúng về bắt ma. Ngoài việc mua
thuốc, lấy thuốc cho người bệnh uống, thì việc nấu ăn, tắm rửa, chăm sóc
cho người ốm yếu do phụ nữ trong gia đình làm là chính. Nhưng khi người
vợ bị ốm thì thường tự chăm sóc bản thân, trừ khi không thể “gượng dậy”
được thì người chăm sóc mình mới là chồng và các con. Qua đây có thể
thấy vai trò quan trọng của người phụ nữ dân tộc H’mông trong hoạt động
chăm sóc sức khỏe của gia đình.
Đối với hoạt động kèm dạy con học
Trong quá trình khảo sát, do trình độ dân trí thấp và dành nhiều thời
gian cho hoạt động sản xuất, trồng trọt, chăn nuôi và hoạt động lâm nghiệp
nên việc kèm, dạy con học của người phụ nữ dân tộc H’mông còn nhiều hạn
chế. Trong số 226 hộ điều tra, chỉ có 97 hộ có người phụ nữ tham gia kèm
dạy con học (chiếm tỷ lệ 42,92%), có 32,3% là do cả vợ và chồng thực hiện.
Những hộ này chủ yếu là những hộ có tuổi đời còn trẻ, số lượng con không
nhiều. Qua đó cũng thấy được người H’mông đã quan tâm hơn đến việc học
hành của con cái, lo cho tương lai của thế hệ trẻ sau này và cũng nói lên
được vai trò quan trọng của người phụ nữ dân tộc H’mông trong hoạt động
kèm, dạy con học.
98
Trong sinh hoạt cộng đồng
Bảng 3.24: Phân công lao động trong hoạt động cộng đồng
Vợ
Cả vợ và chồng
Chồng
Tần số Tỷ lệ % Tần số Tỷ lệ % Tần số Tỷ lệ %
Hoạt động cộng đồng
48
21,24
162
71,68
16
7,08
Tổng số
48
21,24
162
71,68
16
7,08
(Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)
Trong việc tiếp cận các kênh thông tin, nam giới thường đi hội họp,
nghe đài, xem TV, đọc sách báo... Còn phụ nữ đảm nhiệm các công việc đồng
áng, chăn nuôi, làm nội trợ, nên họ là lực lượng chính tham dự các lớp tập
huấn về khuyến nông để nắm bắt kỹ thuật mới. Hàng ngày phụ nữ ít thời gian
nghe đài, xem TV, đọc sách báo... do vậy, họ ít được tiếp cận các kênh thông
tin đại chúng để nâng cao nhận thức và hiểu biết.
Trong quan hệ xã hội, phụ nữ thường tích cực tham gia các công việc
huy động của thôn xã như vệ sinh môi trường, giúp đỡ người nghèo, lao động
xây dựng trường học,bệnh xá, đường xá, phòng chống dịch bệnh...Các chi hội
phụ nữ thôn đều có đoạn đường tự quản về vệ sinh môi trường được phụ nữ rất
hăng hái và tự nguyện tham gia, qua đó họ vận động gia đình và bà con lối xóm
cùng giữ vệ sinh chung. Đó là một trong những ưu điểm lớn về khía cạnh xã
hội của phụ nữ nông thôn. Nếu biết phát huy tốt khía cạnh xã hội của phụ nữ sẽ
nâng cao hơn nữa vai trò của chị em trong phát triển cộng đồng.
Trong việc tham gia họp thôn, nam giới thưòng giành quyền đi họp
nhiều hơn phụ nữ vì quan niệm người chồng là chủ hộ và họ có vai trò quan
trọng hơn trong việc đại diện gia đình bàn bạc, tham gia ra quyết định công
việc thôn như xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế, sửa chữa đình,
chùa. Trong quan hệ dòng tộc như họp dòng họ, xây mồ mả, nhà thờ họ, giỗ
chạp vai trò và sự tham gia của phụ nữ thấp hơn nam giới vì những quan
niệm trọng nam khinh nữ còn khá phổ biến.
99
- Sử dụng quỹ thời gian của phụ nữ tại điểm nghiên cứu
Qua việc tổng hợp, phỏng vấn những phụ nữ tại vùng nghiên cứu, tác
giả đã tổng hợp việc sử dụng quỹ thời gian trung bình trong một ngày của
người phụ nữ dân tộc H’mông, được thể hiện trong bảng sau:
Mẫu
Số trung bình
Giá trị nhỏ nhất
Giá trị lớn nhất
Giờ thực hiện công việc nội trợ
Giờ thực hiện việc lấy củi đun
Giờ thực hiện công việc chăm sóc sức khỏe
Giờ dạy con học hành
Giờ tham gia công tác xã hội
Giờ vui chơi
Giờ ngủ, nghỉ
Bảng 3.25: Phân bổ thời gian trong ngày của phụ nữ
Văn Lăng Giờ thực hiện công việc tạo thu nhập Quang Sơn Tân Long Tổng số Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số
102 28 96 226 102 28 96 226 102 28 96 226 102 28 96 226 102 28 96 226 102 28 96 226 102 28 96 226 102 28 96 226
8.55 8.93 8.41 8.54 1.95 2.89 2.24 2.19 1.93 1.79 1.85 1.88 1.26 1.00 1.24 1.22 .794 1.036 1.240 1.013 1.3333 .8929 1.1979 1.2212 1.6863 1.7500 1.7083 1.7035 5.9510 5.6786 5.8021 5.8540
6 8 7 6 1 2 1 1 1 0 0 0 1 0 0 0 .0 .0 .0 .0 .00 .00 .00 .00 .00 .00 .00 .00 2.00 2.00 2.00 2.00
12 12 12 12 4 4 4 4 4 3 3 4 4 2 2 4 2.0 2.0 3.0 3.0 4.00 2.00 3.00 4.00 6.00 6.00 6.00 6.00 8.00 7.00 8.00 8.00 (Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)
100
Qua Bảng 3.25 một lần nữa khẳng định rằng thời gian phụ nữ lao
động sản xuất để tạo thu nhập cho hộ gia đình rất cao, trung bình khoảng
8,54 giờ (chiếm tới 35,83%) thời gian trong ngày nhưng họ vẫn phải thực
hiện trách nhiệm làm công việc nội trợ, lấy củi đun, chăm sóc sức khỏe gia
đình, dạy con học (21,79%) là một đòi hỏi hàng ngày đối với phụ nữ trong
gia đình. Qua điều tra hộ cho thấy bất luận chủ hộ là nam hay nữ, phụ nữ
đều phải làm nội trợ gấp 3 lần so với nam giới, thời gian trung bình trong
ngày người phụ nữ bỏ ra khoảng 2,2 giờ (9,2%) để thực hiện công việc nội
trợ, công việc lấy củi làm chất đốt 1,8 giờ (7,5%), chăm sóc sức khoẻ cho
bố mẹ già, con nhỏ 1,2 giờ (5%) và dạy con học 1,01 giờ (4,2%), nhưng họ
vẫn dành thời gian ít ỏi để tham gia sinh hoạt hội đoàn thể, tham gia các
hoạt động cộng đồng. Vì thế, thời gian ngủ, nghỉ để tái sản xuất sức lao
động cho phụ nữ rất ít 5,85 giờ (24,37%) và giảm đi nhất là trong những
thời điểm khẩn trương của mùa vụ, làm ảnh hưởng không nhỏ tới sức khoẻ
của phụ nữ. Họ thường không có thời gian xem Tivi, đọc báo để tiếp nhận
nhiều thông tin bổ ích cũng rất hạn chế đối với phụ nữ. Nếu phụ nữ muốn
có thời gian để thăm hỏi, giao lưu bạn bè hoặc tham dự các lớp học, các
buổi tập huấn nâng cao kiến thức về mọi mặt thì rất cần có được sự chia sẻ
công việc nội trợ, chăm sóc con cái từ các thành viên khác trong gia đình,
trước hết là người chồng. Ngoài ra qua bảng cũng cho ta thấy được đa phần
phụ nữ gánh vác hết việc nhà thời gian của họ không con là bao nhiêu dành
cho bản thân mình cả họ gạt bỏ hết xã hội để chăm lo cho gia đình của họ
chăm lo cho con cái.
101
Bảng 3.26: Sự khác biệt về sử dụng quỹ thời gian của phụ nữ H’mông
tại các vùng nghiên cứu
ANOVA
df
F
Mức ý nghĩa
Tổng độ lệch bình phương
Trung bình bình phương
Giữa các mẫu
5.949
2
2.974
3.067
.049
Giờ thực hiện công việc tạo thu nhập
Trong nội bộ các mẫu
216.268 223
.970
Tổng số
222.217 225
Giữa các mẫu
19.896
2
9.948 33.148
.000
Giờ thực hiện công việc nội trợ
Trong nội bộ các mẫu
66.923 223
.300
Tổng số
86.819 225
Giữa các mẫu
.582
2
.291
.641
.528
Giờ thực hiện công việc lấy củi đun
Trong nội bộ các mẫu
101.192 223
.454
Tổng số
101.774 225
Giữa các mẫu
1.596
2
.798
2.998
.052
Trong nội bộ các mẫu
59.343 223
.266
hiện thực Giờ công việc chăm sóc sức khỏe
Tổng số
60.938 225
Giờ dạy con học hành Giữa các mẫu
9.830
2
4.915 11.284
.000
Trong nội bộ các mẫu
97.130 223
.436
Tổng số
106.960 225
Giữa các mẫu
4.353
2
2.177
4.641
.011
Giờ tham gia công tác xã hội
Trong nội bộ các mẫu
104.585 223
.469
Tổng số
108.938 225
Giờ vui chơi
Giữa các mẫu
.093
2
.047
.084
.919
Trong nội bộ các mẫu
123.044 223
.552
Tổng số
123.137 225
Giờ ngủ, nghỉ
Giữa các mẫu
2.080
2
1.040
1.073
.344
Trong nội bộ các mẫu
216.102 223
.969
Tổng số
218.181 225
(Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)
102
Tiến hành kiểm định sự khác biệt về sử dụng quỹ thời gian của phụ nữ
H’mông tại các vùng nghiên cứu, có thể thấy giờ thực hiện công việc tạo thu
nhập, nội trợ, dạy con học hành, tham gia công tác xã hội, giờ ngủ, nghỉ ở các
vùng có sự khác nhau (sig < 0,05); giờ thực hiện việc lấy củi, chăm sóc sức
khỏe các thành viên trong gia đình và giờ vui chơi ở các vùng là tương tự
nhau, không có sự khác biệt.
3.2.2.3. Một số yếu tố ảnh hưởng tới việc nâng cao vai trò phụ nữ dân tộc
H’mông trong phát triển kinh tế hộ tại vùng nghiên cứu
* Phong tục tập quán, văn hóa
- Phong tục tập quán là một nguyên nhân cơ bản cản trở phụ nữ dân tộc
H’mông tham gia vào quá trình phát triển kinh tế; một quan niệm ngự trị ở
nước ta từ nhiều năm nay, đó là phụ nữ trước hết phải lo việc gia đình - con cái,
dù làm bất kỳ công việc gì, thì việc nội trợ vẫn là trách nhiệm của họ.
- Quan niệm “Trọng nam hơn nữ”: việc đấy chỉ có nam giới làm, phụ
nữ không làm được,… phụ nữ chỉ cần học như vậy là đủ.
Chính vì vậy đã kìm hãm tài năng sáng tạo của phụ nữ dân tộc H’mông,
hạn chế sự cống hiến của họ cho xã hội và cho gia đình.
- Do ảnh hưởng của tư tưởng từ ngàn đời xưa để lại, chính bản thân người
phụ nữ dân tộc H’mông vẫn còn tư tưởng tự ti, an phận và thụ động. Điều này đã
hạn chế sự độc lập suy nghĩ, sáng tạo, khả năng cống hiến của phụ nữ, đó chính
là lực cản bên trong kìm hãm họ. Nhiều phụ nữ dân tộc H’mông ngại phát biểu ý
kiến, không bộc bạch chính kiến, ngại tranh luận với nam giới, mặc dù ý kiến
của họ có thể là chính xác. Nhiều phụ nữ không muốn học tập để nâng cao trình
độ, từ chối tham gia các lớp tập huấn về khoa học kỹ thuật… Tâm lý tự ti, mặc
cảm, không vận động để tự mình thoát mình đã hạn chế vai trò của chính họ.
* Trình độ học vấn, chuyên môn KHKT và khả năng tiếp cận thông tin
của lao động nữ hạn chế
Trình độ học vấn, sự tiếp cận và tiếp thu các biện pháp kỹ thuật vào sản
xuất nông lâm nghiệp của đại bộ phận phụ nữ dân tộc H’mông vùng nghiên
103
cứu còn chậm và hạn chế. Điều này ảnh hưởng tới sự ra quyết định trong sản
xuất, quản lý hộ và tham gia công tác quản lý cộng đồng.
Ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số các phương tiên thông tin nghe, nhìn,
sách báo, các ấn phẩm đến với người dân hạn chế. Do vậy việc phụ nữ dân tộc
H’mông tiếp cận và nắm bắt các thông tin kỹ thuật về chăn nuôi, trồng trọt và
thị trường còn gặp nhiều khó khăn.
* Yếu tố về sức khỏe
Với phụ nữ dân tộc H’mông vừa phải lao động nặng, vừa phải thực hiện
thiên chức của mình là phải mang thai, sinh con và cho con bú bằng sữa mẹ,
cùng với điều kiện sinh hoạt thấp kém đã làm cho sức khoẻ của họ bị giảm sút.
Những công việc nặng thì phụ nữ không làm được. Điều này không những ảnh
hưởng đến khả năng lao động mà còn làm vai trò của phụ nữ trong gia đình
cũng như trong việc phát triển kinh tế gia đình trở nên thấp hơn.
* Các chương trình chính sách hỗ trỡ của nhà nước và địa phương: Cơ
hội tiếp cận các nguồn lực hạn chế: Nguồn vốn thế chấp tại ngân hàng chính
sách xã hội ít có cơ hội cho phụ nữ dân tộc H’mông đứng tên vay vốn, do phụ
nữ người H’mông đi lấy chồng là người nhà chồng, các tài sản và đất đứng
tên chồng, do người chồng làm chủ. Ngân hàng chính sách và tín dụng của
hội phụ nữ cho vay với mức rất thấp, không đủ để sản xuất. Vẫn phổ biến việc
người phụ nữ H’mông đi lấy chồng không được bố mẹ chia đất cũng như thừa
kế các tài sản.
Qua nghiên cứu thấy rằng khi thu nhập của gia đình thấp, người phụ nữ
dân tộc H’mông phải vất vả hơn để kiếm sống nuôi gia đình, với các hộ khó
khăn nam giới có xu hướng ít chia sẻ công việc nội trợ với phụ nữ. Bên cạnh đó,
do nghèo nên không có điều kiện để đầu tư cho sản xuất, hiệu quả sản xuất thấp.
Nhận thức và sự tham gia của cộng đồng để tiến tới bình đẳng chưa
cao: Thực tế tại địa bàn nghiên cứu, các lớp tập huấn nâng cao nhận thức về
giới chủ yếu là phụ nữ tham dự. Nam giới ít tham gia nội dung này, nhất là
nam giới giữ vai trò chủ chốt tại cơ sở. Dẫn tới hiệu quả công tác truyền thông
về giới chưa cao, chậm quá trình thay đổi nhận thức xã hội về giới.
104
Việc cụ thể hoá và thực thi các chính sách về bình đẳng giới còn hạn
chế: Nhà nước đã ban hành Luật bình đẳng giới, có nghị định hướng dẫn thực
hiện Luật bình đẳng giới. Nhưng cấp uỷ địa phương chưa có nghị quyết
chuyên đề để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Luật bình đẳng giới và bàn về vấn
đề phụ nữ. Hoạt động của Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ chủ yếu do cơ quan
thường trực của Ban thực hiện.
3.3. Đánh giá chung vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong phát triển
kinh tế hộ gia đình theo giai đoạn phát triển tại địa bàn nghiên cứu
- Lực lươ ̣ng lao đô ̣ng nữ dân tộc H’mông ở huyện Đồng Hỷ có cơ cấu
lao động rất thuận lơ ̣i cho sản xuất nông nghiê ̣p và phát triển kinh tế. Có đến
65% số lươ ̣ng lao đô ̣ng trong đô ̣ tuổi từ 18 đến 44 tuổi.
- Trình độ của lao động nữ người H’mông rất thấp, tỷ lệ không biết
chữ là 21,7%, có trình độ tiểu học mà chủ yếu là học lớp 1, lớp 2 là 49,1%.
Đây là mô ̣t trong những khó khăn ảnh hưởng đến các cơ hô ̣i tiếp cận và làm chủ các tiến bô ̣ khoa ho ̣c kỹ thuật mới trong sản xuất nông nghiệp và đối với các công viê ̣c phi nông nghiê ̣p khác.
- Trong việc quản lý và điều hành sản xuất của hộ, kết quả nghiên cứu
cho thấy việc quản lý và điều hành sản xuất của hộ đều có vai trò rất lớn của
người vợ hoặc cả vợ và chồng, tỷ lệ này chiếm 89%. Điều này cho thấy vai trò
của phụ nữ người H’mông trong việc quản lý và điều hành sản xuất của hộ.
- Trong hoạt động sản xuất tạo thu nhập: Hoạt động sản xuất tạo thu
nhập của hộ trên vùng nghiên cứu bao gồm trồng ngô, trồng lúa, chăn nuôi và
lâm nghiệp. Trong các hoạt động này, tỷ lệ đóng góp công sức của người phụ
nữ hoặc người phụ nữ cùng chồng tham gia có tỷ lệ lớn, từ 90 đến 98%, thể
hiện vai trò quan trọng của phụ nữ người H’mông trong hoạt động sản xuất
tạo thu nhập cho hộ gia đình.
- Trong viê ̣c tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực của hô ̣, tỷ lê ̣ người vợ
đứng tên vay vốn chỉ có 26,25%. Kết quả điều tra cho thì trong quá trình ra
105
quyết định sử dụng tài chính của hộ đều có sự bàn bạc giữa vợ và chồng,
nhưng nếu không có sự đồng thuận thì quyền quyết định cuối cùng thuộc về
người chồng, việc đứng tên các tài sản lớn trong gia đình cũng đều thuộc về
người chồng. Điều đó gây hạn chế rất nhiều đến các quyết định cũng như
quyền lơ ̣i của phu ̣ nữ đối với nguồn lực của hộ.
- Trong viê ̣c ra các quyết định của hộ, kết quả của nghiên cứu cho thấy
việc ra quyết định của hộ đều có vai trò của người vợ hoặc cả vợ và chồng, tỷ
lệ này chiếm 80-90%. Điều này nói lên vai trò quan trọng của người phụ nữ
H’mông trong việc ra các quyết định của hộ.
- Trong tham gia công tác xã hội, người phụ nữ H’mông sống khép kín,
ít tiếp xúc với bên ngoài; thời gian họ dành cho công việc sản xuất tạo thu
nhập, chăm sóc gia đình đã chiếm rất nhiều thời gian trong ngày của họ. Nên
phụ nữ người H’mông rất hạn chế tham gia công tác xã hội. Điều này ảnh
hưởng lớn đến vai trò của phụ nữ người H’mông trong gia đình và xã hội.
- Trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, người phụ nữ H’mông hầu hết
đảm nhiê ̣m các công viê ̣c như: Nô ̣i trơ ̣, chăm sóc sức khỏe gia đình, tỷ lệ này
của người vợ 70-83%. Với các hoạt động khác: Kèm dạy con, lấy củi đun, mua
sắm tài sản hay máy móc, sử a chữa lớn nhà cử a đều có vai trò rất lớn của người
vợ tham gia cùng người chồng trong việc thực hiện các hoạt động của gia đình.
Tóm lại, kết quả nghiên cứu cho thấy phụ nữ dân tộc H’mông có vai trò
quan trọng trong các hoạt động sản xuất tạo ra thu nhập cho gia đình, quản lý
và điều hành sản xuất, trong việc ra quyết định của hộ. Tuy nhiên, vai trò của
người phu ̣ nữ dân tộc H’mông chưa được đánh giá đúng mức đối với việc tiếp
cận và kiểm soát nguồn lực của hộ, việc tham gia công tác xã hội còn nhiều
hạn chế. Như vậy, vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông là rất quan trọng không
thể thiếu được đối với gia đình.
106
Chương 4
GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ
DÂN TỘC H’MÔNG TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN
4.1. Quan điểm, định hướng, mục tiêu nâng cao vai trò của phụ nữ dân
tộc H’mông trong phát triển kinh tế hộ gia đình trên địa bàn huyện Đồng
Hỷ, tỉnh Thái Nguyên
Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng khẳng định: tiếp tục đổi mới
toàn diện, mạnh mẽ theo con đường xã hội chủ nghĩa, tạo nền tảng để đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Đảng ta đang chủ trương đẩy mạnh thực hiện các chính sách ổn định kinh tế
vĩ mô, gắn tăng trưởng kinh tế với bảo đảm an sinh xã hội, cơ cấu lại nền kinh
tế, chú trọng xây dựng và chỉnh đốn Đảng, phát huy dân chủ và củng cố khối
đại đoàn kết dân tộc.
Để thực hiện mục tiêu đó, chúng ta phải phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc, trong đó có vai trò quan trọng của phụ nữ. Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI đã khẳng định: Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật
chất, tinh thần của phụ nữ; nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện các luật pháp,
chính sách đối với lao động nữ, tạo điều kiện để phụ nữ tham gia vào cấp uỷ
và bộ máy quản lý nhà nước; kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và
các hành vi bạo lực, buôn bán, xâm hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ.
Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá X) cũng đã chỉ rõ: Phấn
đấu đến năm 2020, phụ nữ được nâng trình độ về mọi mặt, có trình độ học
vấn, chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và hội nhập quốc tế; có việc làm, được cải thiện rõ rệt về đời sống vật chất,
văn hoá, tinh thần; tham gia ngày càng nhiều hơn vào công việc xã hội, bình
đẳng trên mọi lĩnh vực, đóng góp ngày càng lớn hơn cho xã hội và gia đình.
Phấn đấu để nước ta là một trong các quốc gia có thành tựu bình đẳng giới
tiến bộ nhất của khu vực.
107
Nước ta hiện nay đang ngày càng hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế
thế giới, quá trình này rất cần nâng cao cảnh giác cách mạng cho lĩnh vực an
ninh quốc phòng. Vấn đề đói nghèo, dân tộc, tôn giáo, nhân quyền luôn được
các thế lực phản động lợi dụng gây chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc, phá
hoại an ninh chính trị, quốc phòng.
Trong giai đoạn 2016-2020, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách
rất quan trọng cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi với mục tiêu thực hiện
tốt chủ trương, giải pháp lớn về đại đoàn kết các dân tộc, quan tâm đầu tư
phát triển toàn diện vùng dân tộc thiểu số và miền núi, giảm nghèo bền vững,
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào.
Trong đó, nhóm chính sách chung bao gồm: Chương trình mục tiêu
quốc gia xây dựng nông thôn mới với yêu cầu phân bổ nguồn lực cho vùng
đặc biệt khó khăn, dân tộc thiểu số, miền núi phải được ưu tiên cao hơn 2-4
lần so với nơi khác; Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững,
trong đó, vùng dân tộc thiểu số và miền núi được thụ hưởng Dự án hỗ trợ đầu
tư phát triển kinh tế - xã hội các huyện nghèo 30a (tổng vốn 18.745 tỷ đồng)
và Dự án Chương trình 135 với 3 hợp phần (tăng 1 hợp phần so với giai đoạn
2011-2015) với số vốn kế hoạch 15.936 tỷ đồng.
Chính phủ cũng đã ban hành các chính sách đặc thù, trong đó, đáng
chú ý là các chính sách: Quyết định số 2085/QĐ-TTg, ngày 31/10/2016 về
việc Phê duyệt Chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng dân
tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2017 - 2020, mục tiêu nhằm: Góp phần
giảm tỷ lệ hộ nghèo ở vùng DTTS và miền núi từ 3% đến 4% năm; Giải
quyết đất sản xuất, chuyển đổi nghề cho trên 80% số hộ đồng bào DTTS
nghèo, hộ nghèo ở vùng đặc biệt khó khăn thiếu đất sản xuất; cơ bản giải
quyết tình trạng thiếu nước sinh hoạt cho hộ DTTS nghèo và hộ nghèo sống
phân tán ở vùng đặc biệt khó khăn. Đề án hỗ trợ phát triển KT-XH các dân
tộc thiểu số rất ít người giai đoạn 2016-2025, trong đó hỗ trợ trực tiếp cho
108
12 dân tộc rất ít người ở 194 thôn, bản thuộc 93 xã ở 37 huyện của 12 tỉnh
với vốn kế hoạch 1.800 tỷ đồng; Chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ
thông ở xã, thôn đặc biệt khó khăn, tập trung hỗ trợ gạo, tiền ăn, tiền thuê
chỗ ở, tiền thuê người nấu ăn cho các em.
Ngoài các chính sách trên, Chính phủ cũng đã ban hành chính sách bảo
vệ và phát triển rừng, gắn với chính sách giảm nghèo nhanh, bền vững và hỗ
trợ đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2015-2020 và Nghị quyết số 52/NQ-
CP ngày 15/6/2016 của Chính phủ về đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực các
dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2030; Đề án giảm
thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng dân tộc thiểu
số giai đoạn 2015-2025.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XIX đã xác định: Mục tiêu
tổng quát phát triển kinh tế 5 năm (2015-2020) của tỉnh là huy động và sử
dụng hiệu quả các nguồn lực; phát triển kinh tế nhanh và bền vững, xây dựng
Thái Nguyên sớm trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại, trung tâm
vùng trung du và miền núi phía Bắc về phát triển công nghiệp, dịch vụ, y tế
và giáo dục - đào tạo.
Nhà nước đã có nhiều chính sách phát triển kinh tế xã hội vùng đồng
bào dân tộc thiểu số miền núi, đời sống vùng đồng bào dân tộc đã có những
bước phát triển. Tuy nhiên đây là những chính sách chung cho vùng đồng bào
dân tộc thiểu số, đầu tư còn dàn trải, chưa đồng bộ, nguồn vốn ít, thiếu tập
trung nên chưa giải quyết được những khó khăn cho vùng đồng bào dân tộc
H’mông sinh sống.
Do vậy, tỉnh Thái Nguyên đã xây dựng Đề án số 2037/QĐ-UBND ngày
16/9/2014 về Phát triển kinh tế - xã hội, ổn định sản xuất và đời sống các
xóm, bản đặc biệt khó khăn có nhiều đồng bào dân tộc H’mông sinh sống tỉnh
Thái Nguyên đến năm 2020.
109
Mục tiêu tổng quát: Đầu tư hỗ trợ giảm nghèo cho xóm, bản đặc biệt
khó khăn có nhiều đồng bào dân tộc H’mông sinh sống, nhằm tạo sự chuyến
biến rõ nét về sản xuất và đời sống, từng bước tạo ra sản phẩm hàng hóa, tăng
thu nhập ổn định và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần một cách bền vững,
góp phần xóa đói, giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách chênh lệch mức sống
giữa các dân tộc; góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, giữ vững an ninh trật
tự an toàn xã hội trong vùng.
Mục tiêu cụ thể: Hình thành các nhóm hộ sản xuất, chăn nuôi, đưa tiến
bộ kỹ thuật vào trồng trọt và chăn nuôi, phát huy thế mạnh, lợi thế của từng
vùng, tăng thu nhập cho người dân. Phấn đấu giảm nghèo các xóm, bản trong
Đề án bình quân mỗi năm 4% trở lên theo chuẩn nghèo từng giai đoạn.
4.2. Giải pháp nâng cao vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong phát
triển kinh tế hộ gia đình trên địa bàn huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên
4.2.1. Nhóm giải pháp chung cơ chế chính sách nhằm tạo điều kiện thúc
đẩy kinh tế gia đình phát triển ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số
4.2.1.1. Chính sách về vốn
- Ở khu vực miền núi, hoạt động kinh tế gia đình chủ yếu sản xuất nông
lâm nghiệp, có chu kỳ sản xuất kéo dài từ 1 đến 5 năm (tùy từng loại cây, loại
con). Để sử dụng vốn có hiệu quả, Nhà nước cần có chính sách tín dụng với
thời hạn cho vay phù hợp với chu kỳ sản xuất mà cây, con đó cho thu hoạch
sản phẩm đầu tiên (từ 1 đến 5 năm)
- Cải tiến, đa dạng hóa các phương thức cho vay và thanh toán, nên sửa
đổi một số quy định cứng nhắc về thủ tục tín dụng, về thuế, về lệ phí... nhằm
vừa rút ngắn quãng đường của đồng vốn đến đúng các địa chỉ đầu tư vừa
giảm các chi phí tín dụng, tăng hiệu quả hoạt động của các tổ chức tín dụng
và kích thích được người sản xuất vay vốn.
110
4.2.1.2. Chính sách về phát triển khoa học công nghệ
- Nhà nước nên có các chính sách khuyến khích các tổ chức, các nhà
khoa học nghiên cứu, triển khai ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
sản xuất nông lâm nghiệp nhằm tăng năng suất, chất lượng và hạ giá thành
sản phẩm phục vụ mục tiêu xuất khẩu và nhu cầu tiêu dùng trong nước.
- Khuyến khích và hướng dẫn các hộ gia đình sử dụng các loại giống
mới trong trồng trọt và chăn nuôi, tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật
nuôi phù hợp.
- Chính sách khuyến khích các hộ gia đình áp dụng kỹ thuật vào sản
xuất nhất là ứng dụng máy móc để giảm nhẹ sức lao động bằng cách giúp các
hộ gia đình được mua trả góp hoặc nhà nước trợ giá một phần tùy theo từng
loại công cụ máy móc.
- Chú trọng nghiên cứu đầu tư phát triển công nghệ chế biến. Do đường
giao thông vận chuyển khó khăn nên nếu sản phẩm được sơ chế hoặc chế biến
tại chỗ sẽ có giá trị kinh tế cao hơn, có tác dụng khuyến khích các gia đình
phát triển sản xuất.
4.2.1.3. Hoàn thiện hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến nghề đến các
xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Đa dạng hóa phương thức khuyến nông,
khuyến lâm, khuyến nghề thông qua các tổ chức Nhà nước và tổ chức xã hội.
- Nâng cao trình độ của cán bộ làm công tác khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến nghề. Có chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với cán bộ là người dân tộc
thiểu số, người biết tiếng dân tộc nhằm mở rộng các hoạt động khuyến nông,
khuyến lâm đến với đồng bào các dân tộc các vùng sâu, vùng xa...
- Đề cao vai trò của công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến nghề
trong việc phổ biến, tập huấn, chuyển giao và ứng dụng các tiến bộ khoa học
công nghệ hỗ trợ nông dân các dân tộc phát huy tiềm năng của họ trong phát
triển kinh tế hộ gia đình.
111
4.2.2. Nhóm giải pháp về chính sách xã hội nhằm hỗ trợ phụ nữ dân tộc
H’mông nâng cao năng lực quản lý kinh tế hộ gia đình.
Như phần trên đã trình bày, vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong
quản lý kinh tế gia đình là rất quan trọng, nhưng để giúp chị em khắc phục
các hạn chế khách quan và chủ quan đòi hỏi phải có những chính sách xã hội
sát hợp hơn để giúp phụ nữ dân tộc H’mông nâng cao năng lực quản lý kinh
tế hộ gia đình, có điều kiện vươn lên hòa nhập với cộng đồng.
Do phụ nữ có cấu trúc giới tính và chức năng thiên bẩm khác với nam
giới nên trong cùng một môi trường làm việc, nữ giới thường có “điểm xuất
phát” thấp hơn nam giới. Các chính sách xã hội có mục đích chung là phải rút
ngắn khoảng cách đó, tạo sự bình đẳng giữa giới nam và giới nữ.
4.2.2.1. Nâng cao kiến thức cho phụ nữ
Nâng cao kiến thức cho phụ nữ thông qua các lớp bồi dưỡng chuyện
môn, tập huấn kỹ thuật, chuyên đề... về các lĩnh vực đời sống, sản xuất, quản
lý nhằm nâng cao nô ̣i lực cho phu ̣ nữ. Đây là biện pháp đầu tiên, cơ bản và
quyết định nhằm tạo ra năng lực thực để họ có thể tiếp cận với thực tế sản
xuất mà không ngần ngại, lo lắng đồng thời có cơ sở để ra quyết định cũng
như thực hiện quyết định của mình
Nâng cao ho ̣c vấn, kiến thứ c kinh tế, kỹ thuật, quản lý và pháp luật nhằm tạo nô ̣i lực cho phu ̣ nữ. Hướng tới gia tăng đóng góp của ho ̣ cho gia
đình, xã hô ̣i và tự khẳng định vai trò của mình. Trong thực tế, các trường hơ ̣p
phu ̣ nữ không tham gia quyết định cũng như thực hiê ̣n quyết định là vì họ
thiếu yếu tố cơ bản là nội lực. Hay nói cách khác là họ không biết nên không
thể tham gia. Kiến thứ c gia tăng sẽ giúp ho ̣ quyết định mạnh dạn và tự tin hơn. Thông qua các lớp đào tạo, người phụ nữ H’mông sẽ nắm được các hoạt
động quản lý và điều hành sản xuất của hộ; giúp ra các quyết định của hộ
như: trồng cây gì? Nuôi con gì? Khi nào? ở đâu?...cho phù hợp. Khi đó giai
đoạn thực hiê ̣n sẽ dễ dàng hơn và ngươ ̣c lại quá trình tham gia thực hiê ̣n sẽ kích thích quá trình ra quyết định và như vậy vai trò của phu ̣ nữ đươ ̣c nâng cao. Để nâng cao kiến thứ c cho phu ̣ nữ cần có các biê ̣n pháp đồng bô ̣ sau dây:
112
Một là: Tổ chứ c tốt phong trào ho ̣c bổ túc văn hoá, mở nhiều lớp bổ túc văn hoá từ các lớp xoá mù chữ đến các lớp cấp I, cấp II. Đô ̣ng viên và tạo
điều kiê ̣n để chị em tham gia.
Hai là: Thực hiê ̣n tốt kế hoạch giáo du ̣c và đào tạo của địa phương. Trong đó cần đặc biệt quan tâm, bảo đảm các chỉ tiêu về số lươ ̣ng nữ ho ̣c sinh
dân tô ̣c người H’mông.
Cần có kế hoạch cu ̣ thể trong việc đào tạo giáo viên người dân tô ̣c thiểu
số. Xây dựng và phát triển các trung tâm dạy nghề, mở rô ̣ng các hình thứ c dạy nghề ngắn hạn cho phụ nữ dân tô ̣c H’mông. Tăng cường công tác cử tuyển con em đồng bào dân tô ̣c H’mông vào các trường chuyên nghiệp để đào tạo. Cần có chính sách ưu tiên cho những ho ̣c sinh và sinh viên là dân tô ̣c
H’mông, sau khi tốt nghiê ̣p trở về phu ̣c vu ̣ huyê ̣n nhà.
Ngoài ra, còn phải chú trọng các hình thức giáo du ̣c khác để nâng
cao dân trí cho cô ̣ng đồng, nhất là những nhận thức về giới cũng như phát
triển giới trong giai đoạn hiê ̣n nay nhằm tạo điều kiê ̣n tốt hơn cho phu ̣ nữ
dân tô ̣c H’mông.
4.2.2.2. Các hoạt động huy động nguồn lực hỗ trợ phụ nữ phát triển
Giải pháp về vốn: Qua phân tích ở trên, lao đô ̣ng nữ người H’mông
thường bị phân biệt khi tiếp xúc với nguồn vốn. Cần gắn các chương trình cho vay vốn, tạo công ăn việc làm thông qua các tổ chức đoàn thể như: hội phu ̣ nữ, hô ̣i nông dân, đoàn thanh niên...hay xây dựng các tổ, nhóm phụ nữ nhằm hỗ trợ nhau về vốn và hỗ trợ nhau trong sản xuất của hộ. Có như vậy mới tăng
cường khả năng tiếp cận vốn của lao đô ̣ng người H’mông.
Giảm thiểu những thủ tu ̣c hành chình rườm rà trong quá trình cho vay như thế chấp, phương án kinh doanh, cam kết..., tăng thời gian và số lươ ̣ng
vốn cho vay/lần. Thật sự qua nghiên cứ u thực tế số vốn đươ ̣c sử du ̣ng đúng mu ̣c đích rất ít, điều này khó đánh giá đươ ̣c là đúng hay sai. Nhưng có mô ̣t điều người H’mông thường có thói quen sử du ̣ng vốn cho những hoạt đô ̣ng đô ̣t xuất, trước mắt như: trả nơ ̣ khoản vay trước, đóng tiền ho ̣c cho con, ốm
đau, cưới, ma chay... lý do có thể giải thích đươ ̣c điều này là nguồn vốn tích
luỹ của hô ̣ rất hạn hẹp.
113
Giải pháp giải quyết vấn đề mất công bằng trong giáo dục: Cần hỗ trơ ̣
những gia đình khó khăn, đông con trong quá trình phổ cập giáo du ̣c. Cố gắng
hỗ trợ đô ̣ng viên các gia đình tạo điều kiện hết sức cho trẻ em đươ ̣c đi ho ̣c hết
phổ thông, nhất là các trẻ em là nữ.
Tuyên truyền kiến thứ c về giới, tránh phân biê ̣t nam và nữ trong giáo dục. Loại bỏ quan điểm "con gái không cần học nhiều", "con gái là con nhà
người ta"... Coi đầu tư giáo du ̣c cho con cái chính là đầu tư cho tương lai.
Giải pháp giải quyết vấn đề mất công bằng trong y tế: Tăng cường khả
năng tham gia hoạt đô ̣ng cồng đồng của nữ người H’mông, tổ chức các hoạt
động truyền thông dân số nhằm thu hút sự tham gia của lao động nữ nhất là lao động nam. Cần phải nêu cao vai trò của nam giới trong vấn đề KHHGĐ,
nâng dần tỷ lê ̣ lao đô ̣ng nam tham gia thực hiê ̣n các biê ̣n pháp KHHGD, chăm sóc sứ c khoẻ cho người vợ.
Cần nâng cấp các trạm xá xã cả về số lươ ̣ng loại dịch vu ̣ và chất lươ ̣ng
dịch vu ̣. Theo thống kê, dịch vu ̣ ở các trạm xá mới chỉ giải quyết đươ ̣c các
bê ̣nh đơn giản, khi gặp những trường hơ ̣p khó khăn thường phải lên tuyến
trên, do đó tăng chi phí của gia đình người H’mông. Do địa hình bị chia cắt,
đi lại khó khăn, dân cư sống không tập trung, cần có ít nhất một cán bô ̣ y tế
thường trực để có thể thăm khám và giải quyết bước đầu.
Hàng tháng cần phát các thông tin về chăm sóc sứ c khoẻ y tế trên các phương tiện thông tin địa phương. Thông qua các tổ chức đoàn thể để nâng cao sự hiểu biết về chăm sóc sứ c khoẻ.
Tăng cường sự tham gia của lao đô ̣ng nữ người H’mông trong các hoạt
đô ̣ng của cô ̣ng đồng, tham gia công tác quản lý, công tác xã hô ̣i: Có tham gia
sinh hoạt cô ̣ng đồng thì lao đô ̣ng nữ người H’mông mới có nhiều cơ hô ̣i trao
đổi thông tin, ho ̣c hỏi kinh nghiê ̣m mo ̣i mặt. Mô ̣t mặt giúp nâng cao nhận thứ c đồng thời giảm thiểu đươ ̣c tính tự ti, ru ̣t rè, ngại va chạm của phu ̣ nữ nông thôn nói chung. Để làm đươ ̣c viê ̣c đó cần có sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, các tổ chứ c từ huyê ̣n cho đến tận cấp thôn bản. Cần đưa ra thành các điều khuyến khích lao đô ̣ng nữ người H’mông tham gia trong các hương ước
thôn bản. Tiếp tu ̣c khôi phu ̣c và phát triển những loại hình sinh hoạt văn hoá
114
cô ̣ng đồng của các dân tô ̣c, nhằm thúc đẩy sự tham gia của lao đô ̣ng nữ người
H’mông. Hình thành các câu lạc bô ̣ văn hoá, thể thao tại các thôn bản, có kế
hoạch sinh hoạt theo định kỳ mô ̣t tháng 1 lần tại các nhà văn hoá thôn, xóm. 4.2.2.3. Tăng cường hoạt động của Hội phụ nữ các cấp
Thực tế đã khẳng định vai trò quan trọng của Hội phụ nữ trong việc vận
động, hướng dẫn và giúp đỡ chị em dân tộc thiểu số nâng cao trình độ văn
hóa, kiến thức quản lý và tổ chức sản xuất, tham gia tích cực phong trào xóa
đói giảm nghèo ở nông thôn miền núi. Do trình độ dân trí thấp, ít cơ hội được
tiếp xúc xã hội nên phụ nữ các dân tộc thiểu số hay mặc cảm tự ti và cam chịu
hoàn cảnh của mình. Vì vậy, đi đôi với việc tạo ra môi trường cho phụ nữ có
điều kiện để phát triển (sự đầu tư của Nhà nước cho vùng, khu vực phát triển,
quan niệm đúng đắn về giới, bình đẳng giới của cộng đồng...) là việc đưa chị
em tham gia vào các hoạt động của Hội phụ nữ, thông qua các hoạt động này,
chị em được tìm hiểu, tiếp cận với cách thức tổ chức sản xuất gia đình, với
kiến thức khoa học kỹ thuật, với đồng vốn và sử dụng đồng vốn trong phát
triển kinh tế gia đình. Do cùng giới, chị em nhận được sự cảm thông, giúp đỡ
tận tình của cán bộ Hội nên dần dần xóa bỏ mặc cảm, tự ti để mạnh dạn học
hỏi, phát huy được khả năng của bản thân.
4.2.2.4. Nâng cao nhận thức về giới
- Đưa vấn đề giới tính vào công tác hoạch định chính sách.
Vấn đề giới và giới tính cần phải được thể chế thành luật pháp và các
chính sách kinh tế xã hội cụ thể, phải khắc phục được những bất bình đẳng
còn tồn tại dưới các dạng với mức độ khác nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho
phụ nữ nói chung và phụ nữ các dân tộc H’mông nói riêng tham gia vào các
hoạt động kinh tế - xã hội, giúp họ tiếp cận dần với nền kinh tế thị trường, xóa
bỏ các mặc cảm tự ti để hòa nhập vào cộng đồng, vào xã hội.
- Có chính sách hỗ trợ công tác tuyên truyền, giáo dục giới tính nhằm
nâng cao nhận thức và trách nhiệm của mọi tầng lớp trong xã hội, của chính
quyền các cấp, của cộng đồng và gia đình đối với phụ nữ.
Trên thực tế, sự bình đẳng giữa giới nam và giới nữ ở nhiều nơi, nhiều
cấp chưa được quan tâm đúng mức, chị em vẫn còn chịu nhiều áp lực như:
115
Cường độ lao động, công việc gia đình, sinh đẻ... Hiện nay, trong nhiều gia
đình đồng bào dân tộc H’mông phụ nữ có thời gian làm việc gấp từ 2 đến 3
lần so với nam giới.
Vì vậy, cần phải tạo ra sự thay đổi cơ bản các quan niệm về phụ nữ
trong mọi tầng lớp xã hội, đặc biệt là ở vùng nông thôn miền núi, nơi có trình
độ dân trí thấp, nơi đang còn tồn tại nhiều quan niệm lạc hậu về phụ nữ nhằm
khắc phục tình trạng phân biệt đối xử giữa các giới trong phân công lao động,
trong công tác đào tạo, học tập và trong cơ cấu cán bộ lãnh đạo của chính
quyền các cấp.
- Nhà nước cần có những biện pháp kiên quyết nhằm hạn chế đi đến
chấm dứt các tập tục lạc hậu lỗi thời ở khu vực miền núi và đồng bào dân tộc
trong hôn nhân, sinh đẻ nhiều con, tang ma...
Muốn người phụ nữ dân tộc H’mông tham gia vào quản lý kinh tế gia
đình (tham gia vào loại lao động mang tính trí tuệ) thì điều kiện đầu tiên là
phải giải phóng phụ nữ dân tộc H’mông ra khỏi gánh nặng của công việc gia
đình, người nam giới với những quan niệm đúng đắn về người phụ nữ sẽ cùng
chia sẻ trách nhiệm công việc gia đình với phụ nữ để người phụ nữ có thời
gian học tập, nâng cao trình độ của mình.
4.2.2.5. Cần xây dựng chính sách thể hiện trách nhiệm xã hội trong việc tái
sản xuất các thế hệ tương lai
Con người là động lực của sự phát triển. Việc quan tâm tới thế hệ tương
lai là trách nhiệm chung của toàn xã hội, nhưng hiện nay việc sinh đẻ, nuôi
dạy con cái hoàn toàn phụ thuộc vào hoàn cảnh của mỗi gia đình.
- Trong phạm vi kế hoạch hóa gia đình, khi sinh con, nếu hộ gia đình
có nhiều khó khăn mức sống thấp thì cần có sự giúp đỡ của Nhà nước, của
cộng đồng xã hội đối với đứa trẻ.
- Trách nhiệm xã hội cần được thể hiện cụ thể ở chính sách y tế là phải
chăm lo, bảo vệ và giữ gìn sức khỏe phụ nữ một cách tốt nhất. Nên có chính
sách miễn hoàn toàn viện phí cho phụ nữ dân tộc thiểu số ở những vùng đặc
biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa.
116
- Trách nhiệm đó cần phải thể hiện trong công tác truyền thông dân số,
kế hoạch hóa gia đình để cả cộng đồng xã hội thực hiện, đảm bảo cho các gia
đình có điều kiện nuôi dạy con cái, con cái có điều kiện để mở mang tri thức,
khi trưởng thành dễ hòa nhập với cuộc sống, đảm bảo chất lượng nguồn lao
động trong tương lai.
- Tăng cường các hệ thống dịch vụ phục vụ gia đình nhằm giảm nhẹ công
việc gia đình cho phụ nữ và các trẻ em gái để họ có thời gian nghỉ ngơi, học tập.
4.2.2.6. Chính sách khuyến khích phụ nữ dân tộc H’mông duy trì và giữ gìn
bản sắc văn hóa các dân tộc
Phụ nữ dân tộc H’mông có vai trò quan trọng trong giữ gìn bản sắc văn
hóa truyền thống nhưng để chị em có điều kiện thể hiện được vai trò nên đòi
hỏi Nhà nước nên có một số chính sách hỗ trợ như:
- Nhà nước nên có chính sách khuyến khích việc dạy và học chữ, tiếng
dân tộc trong các trường phổ thông cơ sở, trường phổ thông dân tộc nội trú và
trong đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc, công tác xóa đói giảm nghèo,
khuyến nông, khuyến lâm, cán bộ Hội phụ nữ, Hội nông dân... có quan hệ
trực tiếp với đồng bào dân tộc.
- Trong chính sách giải quyết việc làm, cần phải đầu tư khôi phục, duy
trì các ngành nghề truyền thống của phụ nữ dân tộc như: Dệt vải, dệt thổ cẩm,
đan lát thêu thùa, may áo váy dân tộc... tiến tới tìm thị trường xuất khẩu để
khuyến khích các nghề truyền thống phát triển.
- Tuyên truyền, khuyến khích trẻ em gái tiếp thu các giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc mình.
- Có chính sách đãi ngộ, khuyến khích các già làng trong việc lưu
truyền giá trị văn hóa truyền thống của từng dân tộc.
Phụ nữ dân tộc H’mông là người có vai trò quyết định trong việc lưu
truyền bản sắc văn háo các dân tộc một cách bền vững nhất. Họ có lòng tự
hào, kiêu hãnh về những giá trị văn hóa của dân tộc mình. Vì vậy, nếu có
chính sách khuyến khích phụ nữ giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc thì đó chính
là những biện pháp khơi dậy lòng tự hào dân tộc, vượt qua các mặc cảm tự ti
giúp họ dễ hòa nhập vào cộng đồng để cùng phát triển.
117
KẾT LUẬN
Vấn đề nâng cao năng lực cho phụ nữ dân tộc H’mông quản lý kinh tế
hộ gia đình là vấn đề có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội sâu sắc. Vấn đề đó
không những có tác động tích cực đối với phát triển kinh tế hộ gia đình mà
còn ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thái
Nguyên nói chung và huyện Đồng Hỷ nói riêng.
Với thời gian và kinh phí có hạn, luận văn đã tập trung giải quyết một
số vất đề sau đây: Đã hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề “giới”
và vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ gia đình. Phân tích, đánh giá
thực trạng vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong phát triển kinh tế hộ gia
đình trên địa bàn huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên. Điều tra phỏng vấn 226
hộ đồng bào dân tộc H’mông trên địa bàn huyện Đồng Hỷ, ứng dụng một số
công cụ phân tích dữ liệu như Excell, phần mềm SPSS để đo lường kết quả
nghiên cứu về vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong các hoạt động: quản
lý và điều hành sản xuất của hộ; hoạt động sản xuất tạo thu nhập; trong viê ̣c
tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực của hộ; việc ra các quyết định của hộ;
tham gia công tác xã hội và trong đời sống sinh hoạt hàng ngày. Căn cứ vào kết quả nghiên cứu, đề xuất về phương hướng và một số giải pháp phát huy
vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong phát triển kinh tế hộ gia đình trên địa
bàn huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.
118
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Trần Thị Vân Anh (2001), “Giới và phát triển nông thôn”, tài liệu tập
huấn phiển triển bền vững nông thôn của chương trình VNRP.
2. Đỗ Thị Bình - Trần Thị Vân Anh (2003), “Giới và công tác giảm nghèo”,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
3. Nguyễn Sinh Cúc (2001), Phân tích điều tra nông thôn năm 2000
4. Chương trình nghiên cứu Việt Nam - Hà Lan (2006), Kết quả nghiên cứu
các đề án VNRP, NXB Nông nghiệp.
5. Phạm Văn Dũng (2006), Giáo trình kinh tế chính trị Mác- Lênin dùng
cho khối ngành kinh tế - quản trị kinh doanh trong các trường cao đẳng,
đại học, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Nguyễn Thị Thanh Hòa (2011), Thực hiện bình đẳng giới để phụ nữ Việt
Nam tích cực tham gia xây dựng, phát triển đất nước, Quản lý nhà nước,
số 189
7. Nguyễn Thị Thanh Hòa (2016), Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ
nữ trong hệ thống chính trị, Hà Nội
8. Hội đồng bầu cử quốc gia (2016), Báo cáo tổng kết cuộc bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021,
Hà Nội.
9. Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Thái Nguyên, Nghị quyết Đại hội Đại biểu phụ nữ
tỉnh Thái Nguyên lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2017-2021.
10. Hội Liên hiệp phụ nữ huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên, Nghị quyết Đại hội
phụ nữ huyện Đồng Hỷ lần thứ XXIII, nhiệm kỳ 2017-2021.
11. Hội Liên hiệp phụ nữ huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên, Báo cáo chính trị của
Ban chấp hành trình tại Đại hội phụ nữ huyện Nậm Pồ lần thứ II, nhiệm kỳ
2016-2021.
119
12. Hội Liên hiệp phụ nữ huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang, Báo cáo chính trị của
Ban chấp hành trình tại Đại hội đại biểu phụ nữ huyện Nậm Pồ lần thứ XVII,
nhiệm kỳ 2016-2021.
13. Hội Liên hiệp phụ nữ huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái, Báo cáo chính trị
của Ban chấp hành trình tại Đại hội đại biểu phụ nữ huyện Mù Cang Chải
lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2016-2021.
14. Nguyễn Thị Hiên - Lê Ngọc Hùng (2006), “Nâng cao năng lực phát triển
bền vững bình đẳng giới và giảm nghèo”, Nxb Lý luận chính trị.
15. Nguyễn Linh Khiếu (2001), Gia đình và phụ nữ trong biến đổi văn hóa
xã hội nông thôn”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội
16. Nguyễn Thị Lân (2006), Vai trò của phụ nữ dân tộc Dao trong hoạt động
xóa đói giảm nghèo, NXB Nông nghiệp, Hà Nội
17. Ngô Thắng Lợi (2013), Giáo trình kinh tế phát triển, NXB Đại học Kinh tế
quốc dân.
18. Nhóm hành động chống đói giảm nghèo (2002), Đẩy mạnh công tác phát
triển đối với các dân tộc thiểu số.
19. Nguyễn Duy Quý (2010), Công cuộc đổi mới – những thành tựu và bài
học kinh nghiệm, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Lê Đình Thắng (1993), Phát triển kinh tế hộ theo hướng sản xuất hàng hoá,
NXB Nông nghiệp, Hà Nội
21. Nguyễn Thị Bích Thu (2016), Vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số khu
vực Tây Nguyên trong phát triển kinh tế - xã hội nhìn từ trường hợp tỉnh
Lâm Đồng.
22. Đỗ Văn Viện - Đỗ Văn Tiến (2005), Giáo trình kinh tế hộ nông dân - Đại
học Nông nghiệp I - Hà Nội.
23. Lô Quốc Toản (2010), Phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh
miền núi phía Bắc nước ta hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
24. Lê Thi (1999), Việc làm đời sống phụ nữ trong chuyển đổi kinh tế ở
Việt Nam, Nxb khoa học - xã hội, Hà Nội.
120
25. Trần Đức Viên (2001), Nông nghiệp trên đất dốc, thách thức và tiềm
năng, NXB Nông nghiệp Hà Nội.
26. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Quyết định số 2037/QĐ-UBND
ngày 16/9/2014 về việc phê duyệt Đề án “Phát triển kinh tế - xã hội, ổn
định sản xuất và đời sống các xóm, bản đặc biệt khó khăn có nhiều đồng
bào dân tộc Mông sinh sống tỉnh Thái nguyên đến năm 2020”.
27. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Ban chỉ đạo Tổng điều tra nông
thôn, nông nghiệp và thủy sản (2017), Kết quả sơ bộ tổng điều tra nông
thôn, nông nghiệp và thủy sản 01/7/2016.
28. Ủy ban dân tộc và miền núi (2000), Một số kiến nghị về giải pháp nâng
cao năng lực quản lý kinh tế hộ gia đình của phụ nữ một số dân tộc thiểu
số miền núi phía bắc.
29. Viện nghiên cứu chính sách lương thực Quốc tế (2001), Chương trình hỗ
trợ ngành nông nghiệp, Trung tâm thông tin Nông nghiệp & phát triển
nông thôn, 2001.
121
PHỤ LỤC PHIẾU ĐIỀU TRA KINH TẾ HỘ
Huyện: Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên Xóm:…………….…….....................Xã:…………………………………...
Họ và tên người được phỏng vấn: ...............................................................
I- MỘT SỐ THÔNG TIN CHỦ YẾU VỀ HỘ
1.1- Danh sánh những người trong gia đình (gồm cả chủ hộ):
TT Họ và tên Tuổi
giới tính
Trình độ văn hóa
Nghề nghiệp
Quan hệ với chủ hộ (vợ, chồng)
Là lao động chính hay phụ
1 2
Gia đình sinh bao nhiêu con?
2 3 4 5 6
1.2- Theo chuẩn nghèo mới:
+ Là hộ nghèo + Là hộ TB + Là hộ khá
II- ĐIỀU KIỆN SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA HỘ
- Đất ao hồ: ................m2 - Đất khác: ..................m2
Giá trị: ................................... Giá trị: ................................... Giá trị: ...................................
2.1- Tình hình sử dụng đất đai của hộ ông (bà): - Đất soi bãi (nương rẫy): ....................m2 - Đất ruộng: ..................m2 - Đất rừng: ....................m2 2.2. Những tài sản chủ yếu của gia đình ông (bà): Loại nhà ở: Nhà xây Nhà sàn, gỗ, ván Nhà tranh tre, nứa lá Tài sản của hộ (xe máy, ô tô, tivi, tủ lạnh): ..................................(đồng) Phương tiện sản xuất: Máy cày bừa Trâu Bò Máy móc khác Giá trị: ................................... Giá trị: ................................... Giá trị: ................................... Giá trị: ...................................
Không
2.3. Tình hình vốn dùng cho sản xuất kinh doanh trong năm Có vay vốn không? Có Nếu có vay vốn thì vay từ ngân hàng nào: .................................................................
+ Ông hay bà là người quản lý vốn? Vợ
Cả vợ và chồng chồng
người khác
+ Ông hay bà đứng tên vay vốn? Vợ
Cả vợ và chồng chồng
người khác
+ Ông hay bà là người đi trả tiền? Vợ
Cả vợ và chồng chồng
người khác
+ Ông hay bà quyết định sử dụng vốn? Vợ
Cả vợ và chồng chồng
người khác
122
III. THU NHẬP CỦA GIA ĐÌNH
STT Các nguồn thu
Số tiền/năm (đồng)
Trồng trọt Chăn nuôi Thuỷ sản Lâm nghiệp Tiểu thủ CN
So mức độ đóng góp của vợ với chồng Thấp hơn Ngang bằng Cao hơn
1 2 3 4 5 6 Dịch vụ 7
Từ làm thuê
IV. THÔNG TIN VỀ PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG
Ai trong gia đình ông (bà) là người phân công lao động, điều hành hoạt
động sản xuất kinh doanh trong gia đình:
4.1. Phân công lao động trong sản phẩm của nhà
vợ Cả vợ và chồng Chồng Người khác
Các loại công việc
Ai làm chính Vợ và chồng Chồng
Vợ
Người khác
- Bán cho ai - Bán ở đâu - Giá bán
4.2. Phân công lao động trong hoạt động Lâm nghiệp
Ai làm chính
Các loại công việc
Vợ
Vợ và chồng Chồng Người khác
- Phát cây, dọn đồi, đốt - Cuốc hố, trồng cây -Chăm sóc rừng -Lấy măng, sản phẩm phụ - Khai thác gỗ, bán
4.3. Phân công lao động trong các hoạt động khác
123
Ai làm chính
Các hoạt động
Vợ
Vợ và chồng Chồng
Người khác
1.Hoạt động tái sản xuất: - Nội trợ: Nấu cơm, giặt… - Chăm sóc sức khoẻ gia đình - Kèm dạy học cho con - Lấy củi đun - Mua sắm, xây dựng, sửa chữa 2.Hoạt động cộng đồng (họp xóm, đám ma, đám cưới...)
V. HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT CỦA HỘ
Ai trong gia đình là người phân công lao động, điều hành hoạt động sản
xuất kinh doanh trong gia đình: Chồng Vợ
Bố Mẹ Con trai Con gái
1. Trồng Ngô
Vụ ngô (đông xuân)
Vụ ngô (hè thu)
Diện tích đất (m2) Tổng sản lượng ngô đầu ra (kg) Giá bán trên thị trường Tổng chi Giống Phân bón Thuốc bảo vệ thực vật Thuê (lao động) Chi khác
Lao động đầu vào cho sản xuất ngô
- Giá một ngày công = ………………………. đồng
Đóng góp ngày công
Ngày công
Vợ
Chồng Lao động thuê 3 ngày
0 ngày
Ví dụ: 10 ngày 7 ngày
Trồng ngô: - Làm đất (cày, bừa) - Trông ngô - Chăm sóc (bón phân, làm cỏ, phun thuốc) - Thu hoạch
124
2. Trồng lúa
VỤ CHIÊM (đông xuân)
VỤ MÙA (hè thu)
Diện tích đất (m2)
Tổng sản lượng thóc đầu ra (kg)
Giá bán trên thị trường
Tổng chi
Giống
Phân bón
Thuốc bảo vệ thực vật
Thuê (lao động, cày bừa)
Chi khác
Lưu ý: Tổng các mục phải cân bằng với tổng sản lượng thóc lúa thu hoạch được.
Lao động đầu vào cho sản xuất lúa
- Giá một ngày công = ………………………. đồng
Ngày công
Ví dụ: 10 ngày
1. Trồng lúa:
3 ngày
0 ngày
- Làm đất (cày, bừa)
Đóng góp ngày công Vợ Chồng Lao động thuê 7 ngày
- Cấy (Gieo mạ, nhổ mạ, cấy)
- Chăm sóc (bón phân, làm cỏ, phun thuốc)
- Gặt
- Sau thu hoạch (tuốt, phơi, xay sát)
3. Hoạt động chăn nuôi
Thu - chi từ chăn nuôi gia súc, gia cầm
Lợn
Gà
Vịt
Bò
Trâu
Cá
Khác
Bán được mấy con
Mỗi con bao nhiêu kg
Giá bán
Tổng thu nhập
Chi phí (1.000đ)
Thức ăn
Thuốc men
Các chi phí khác
125
Lao động đầu vào cho chăn nuôi - Giá một ngày công cho hoạt động chăn nuôi (nếu đi thuê) = ……. đồng
Lao động chính
Hoạt động
Ngày công/ lứa
Chồng (%) Lao động thuê
Vợ (%)
1. Chăn nuôi Chăn nuôi gà (mua thức ăn, chăm sóc, đem bán) Chăn nuôi lợn (mua thức ăn, chăm sóc, đem bán) Chăn nuôi cá (mua thức ăn, chăm sóc, đem bán) Chăn nuôi trâu bò (mua thức ăn, chăm sóc, đem bán)
1. Hoạt động trồng hoa - màu Lao động đầu vào cho sản xuất hoa - màu
- Giá một ngày công (nếu đi thuê) = ………………………. đồng
Đóng góp ngày công
Vụ hoa màu
Ngày công
1. Vụ màu ………………. Ví dụ: 10 ngày
Vợ 7 ngày
Chồng 3 ngày
Lao động thuê 0 ngày
- Làm đất - Trông hoa (màu) - Bón phân - Làm cỏ - Phun thuốc - Tưới tiêu - Phun thuốc - Chuyên chở, đem bán
VI. TIẾP CẬN THÔNG TIN
Các nguồn thông tin
Người được tiếp cận Vợ Chồng (con gái) (con trai)
- Từ chồng - Hội phụ nữ, hội nông dân - Họ hàng, người thân quen - Từ chợ - Cán bộ khuyến nông - Cửa hàng vật tư nông nghiệp - Xem ti vi, đài, sách báo, tạp chí, bản tin - Kinh nghiệp của bản thân
Ông bà có được tham dự các lớp tập huấn không: có
không
126
- Quản lý kinh tế hộ: - Kiến thức về Giới: - Kỹ thuật trồng trọt: - Kỹ thuật chăm nuôi: - Kỹ thuật trồng rừng : - Kỹ thuật trồng chè: - Phòng trừ dịch hại:
Vợ Vợ Vợ Vợ Vợ Vợ Vợ
Cả vợ và chồng Cả vợ và chồng Cả vợ và chồng Cả vợ và chồng Cả vợ và chồng Cả vợ và chồng Cả vợ và chồng
Chồng Chồng Chồng Chồng Chồng Chồng Chồng
Người khác Người khác Người khác Người khác Người khác Người khác Người khác
Ông bà được tham dự các nội dung gì sau đây :
IV- TRONG GIA ĐÌNH ÔNG BÀ AI LÀ NGƯỜI RA QUYẾT ĐỊNH
TT
Nội dung
Chồng
Vợ
1 Lựa chọn nuôi con gì 2 Lựa chọn trồng cây gì 3 Sản xuất như thế nào, sản xuất bao nhiêu 4 Bán cho ai 5 Giá bán bao nhiêu 6 Áp dụng khoa học kỹ thuật vào SX 7 Mua sắm, xây dựng, sửa chữa lớn trong nhà 8 Sử dụng thu nhập của gia đình 9 Cho con cái học hành 10 Định hướng nghề nghiệp cho con cái
Người quyết định chính Vợ và chồng
Người khác trong giá đình
V- SỬ DỤNG QUỸ THỜI GIAN CỦA PHỤ NỮ
Trong một ngày, bà sử dụng quỹ thời gian cho từng việc như thế nào?
Loại công việc
Số giờ thực hiện (giờ)
Công việc tạo thu nhập Công việc nội trợ Lấy củi đun Chăm sóc sức khỏe gia đình Dạy con học hành Tham gia công tác xã hội Vui chơi, thăm bạn bè Ngủ, nghỉ
VI- CÁC NỘI DUNG KHÁC
+ Đi họp, tập huấn, nghe tuyên truyền là việc của đàn ông: + Làm nhà, mua bán tài sản lớn là việc của đàn ông: + Mua bán đồ dùng hàng ngày là việc của phụ nữ: + Quyền quyết định cuối cùng là của đàn ông: + Vợ phải nghe chồng:
đúng đúng đúng đúng đúng
sai sai sai sai sai
CHỦ HỘ (ký tên)
CÁN BỘ ĐIỀU TRA (ký tên)