ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH

NGÔ THỊ THÚY

VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC H’MÔNG TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ THEO ĐỊNH HƯỚNG ỨNG DỤNG

Chuyên ngành: QUẢN LÝ KINH TẾ

THÁI NGUYÊN - 2017

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH

NGÔ THỊ THÚY

VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC H’MÔNG TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN

Chuyên ngành: QUẢN LÝ KINH TẾ Mã số: 60.34.04.10 LUẬN VĂN THẠC SĨ THEO ĐỊNH HƯỚNG ỨNG DỤNG

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Trung Thành

THÁI NGUYÊN - 2017

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi,

chưa công bố tại bất cứ nơi nào. Mọi số liệu sử dụng trong luận văn này là

những thông tin xác thực.

Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về lời cam đoan của mình.

Thái Nguyên, ngày tháng năm 2017

Tác giả luận văn

Ngô Thị Thúy

ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:

Đảng ủy, Ban giám hiệu Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh,

Phòng Đào tạo đã tạo điều kiện tốt cho tôi trong suốt thời gian học tập tại đây.

Tôi xin trân trọng cảm ơn Huyện ủy, UBND huyện, Chi cục Thống kê,

Phòng Lao động Thương binh & Xã hội, Phòng Nông nghiệp huyện Đồng Hỷ...,

đặc biệt là lãnh đạo các xã Văn Lăng, Tân Long và Quang Sơn của huyện

Đồng Hỷ trong thời gian qua đã quan tâm, tạo điều kiện, cung cấp số liệu giúp

tôi hoàn thành luận văn.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới: PGS.TS. Lê Trung Thành, người

thầy hướng dẫn đã giúp tôi giúp cho đề tài của tôi có ý nghĩa thực tiễn và khả thi.

Cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp những người đã luôn ở bên tôi

động viên, chia sẻ và giúp đỡ tôi.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày tháng năm 2017

Tác giả luận văn

Ngô Thị Thúy

iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... ii

MỤC LỤC ........................................................................................................ iii

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT ............................................ vii

DANH MỤC CÁC BẢNG ............................................................................ viii

DANH MỤC SƠ ĐỒ, ĐỒ THỊ, BIỂU ĐỒ ...................................................... x

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của luận văn ........................................................................... 1

2. Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................... 3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 3

4. Những đóng góp của luận văn ...................................................................... 4

5. Bố cục của luận văn ...................................................................................... 4

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ CỦA

PHỤ NỮ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH .................... 5

1.1. Hộ gia đình và kinh tế hộ gia đình ............................................................. 5

1.1.1. Phát triển và phát triển kinh tế ................................................................ 5

1.1.2. Khái niệm, đặc điểm hộ gia đình, hộ nông dân và kinh tế hộ gia

đình, hộ nông dân .............................................................................................. 5

1.2.1. Khái niệm giới tính và giới ..................................................................... 8

1.2.2. Đặc điểm, nguồn gốc và sự khác biệt về giới và giới tính ...................... 9

1.2.3. Nhu cầu, lợi ích giới và bình đẳng giới................................................. 11

1.2.4. Vai trò của giới ...................................................................................... 11

1.3. Dân tộc và dân tộc thiểu số ...................................................................... 12

1.3.1. Khái niệm, đặc trưng về dân tộc ........................................................... 12

1.3.2. Thành phần ............................................................................................ 13

1.3.3. Về địa bàn cư trú ................................................................................... 13

iv

1.4. Kinh tế hộ gia đình - Vai trò của người phụ nữ dân tộc thiểu số

trong quản lý và phát triển kinh tế hộ gia đình vùng dân tộc miền núi

tại Việt Nam ................................................................................................... 14

1.4.1. Vài nét khái quát về phát triển kinh tế hộ gia đình ở nước ta ............... 14

1.4.2. Vị trí của lao động nữ trong gia đình và xã hội .................................... 16

1.4.3. Vai trò người phụ nữ dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế

hộ gia đình ...................................................................................................... 18

1.5. Nội dung vai trò của phụ nữ dân tộc trong phát triển kinh tế hộ gia đình ...... 21

1.5.1. Vai trò của phụ nữ trong quản lý và điều hành sản xuất ...................... 21

1.5.2. Vai trò của phụ nữ trong sản xuất tạo ra thu nhập cho gia đình ........... 22

1.5.3. Vai trò của phụ nữ trong tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực phát

triển ................................................................................................................. 23

1.5.4. Vai trò của phụ nữ trong việc ra quyết định ............................................ 24

1.5.5. Vai trò trong tham gia công tác xã hội .................................................... 24

1.5.6. Vai trò của phụ nữ trong gia đình............................................................ 24

1.6. Các hoạt động nhằm nâng cao vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số

trong phát triển kinh tế hộ gia đình tại Việt Nam ........................................... 27

1.6.1. Xây dựng các phong trào phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế, xóa

đói giảm nghèo ................................................................................................ 28

1.6.2. Tăng cường các biện pháp giúp đỡ phụ nữ đói nghèo .......................... 28

1.6.3. Tập trung huấn luyện cán bộ Hội về kiến thức và kỹ năng cần thiết

để hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế .................................................................. 29

1.6.4. Khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn ................................. 29

1.6.5. Đẩy mạnh các hoạt động chuyển giao khoa học kỹ thuật cho phụ nữ ...... 30

1.7. Các yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong

phát triển kinh tế hộ gia đình tại Việt Nam ..................................................... 30

v

1.8. Bài học kinh nghiệm rút ra trong việc nâng cao vai trò của phụ nữ

dân tộc H’mông trong phát triển kinh tế hộ gia đình tại tỉnh Thái Nguyên ... 33

1.8.1. Một số điển hình về vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong phát

triển kinh tế hộ gia đình ở Việt Nam............................................................... 33

1.8.2. Bài học kinh nghiệm rút ra trong việc nâng cao vai trò của phụ nữ

dân tộc H’mông trong phát triển kinh tế hộ gia đình tại tỉnh Thái Nguyên ... 38

Chương 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................. 40

2.1. Các câu hỏi đặt ra mà đề tài cần giải quyết .............................................. 40

2.2. Phương pháp tiếp cận nghiên cứu ............................................................ 40

2.3. Phương pháp nghiên cứu: ........................................................................ 40

2.3.1. Chọn điểm nghiên cứu .......................................................................... 40

2.3.2. Phương pháp thu thập số liệu ................................................................ 42

2.3.3. Phương pháp tổng hợp .......................................................................... 46

2.3.4. Phương pháp phân tích .......................................................................... 46

2.4. Hệ thống hóa các chỉ tiêu nghiên cứu ...................................................... 47

2.4.1. Nhóm các chỉ tiêu chung ....................................................................... 47

2.4.2. Nhóm các chỉ tiêu về kinh tế ................................................................. 47

2.4.3. Nhóm các chỉ tiêu về xã hội .................................................................. 48

2.4.4. Nhóm chỉ tiêu về vai trò ra quyết định của người phụ nữ trong

gia đình ............................................................................................................ 48

Chương 3. THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC

H’MÔNG TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH TRÊN

ĐỊA BÀN HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN .......................... 49

3.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu ................................................................... 49

3.1.1. Điều kiện tự nhiên ................................................................................. 49

3.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội ...................................................................... 54

3.1.2.3. Cơ cấu hộ, cơ cấu nguồn thu nhập chính của các hộ ở khu vực

nông thôn có sự chuyển biến tích cực ............................................................. 57

vi

3.1.3. Nhận xét chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội .......................... 60

3.1.4. Phát triển kinh tế của huyện .................................................................. 61

3.1.5. Khái quát về thực trạng vai trò của phụ nữ huyện Đồng Hỷ ................ 62

3.1.6. Khái quát về thực trạng đồng bào dân tộc H’mông tại huyện

Đồng Hỷ .......................................................................................................... 65

3.2. Thực trạng vai trò của người phụ nữ dân tộc H’mông trong phát

triển kinh tế hộ gia đình ở các hộ nghiên cứu ................................................. 68

3.2.1. Các hoạt động nhằm nâng cao vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông

trong phát triển kinh tế hộ gia đình ................................................................. 68

3.2.2. Thực trạng vai trò của phụ nữ người H’mông trong phát triển kinh

tế hộ của đối tượng nghiên cứu ....................................................................... 71

3.3. Đánh giá chung vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong phát triển

kinh tế hộ gia đình theo giai đoạn phát triển tại địa bàn nghiên cứu ............ 104

Chương 4. GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ DÂN

TỘC H’MÔNG TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH

TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN ................ 106

4.1. Quan điểm, định hướng, mục tiêu nâng cao vai trò của phụ nữ dân

tộc H’mông trong phát triển kinh tế hộ gia đình trên địa bàn huyện Đồng

Hỷ, tỉnh Thái Nguyên .................................................................................... 106

4.2. Giải pháp nâng cao vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong phát

triển kinh tế hộ gia đình trên địa bàn huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên ... 109

4.2.1. Nhóm giải pháp chung cơ chế chính sách nhằm tạo điều kiện thúc

đẩy kinh tế gia đình phát triển ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số ................ 109

4.2.2. Nhóm giải pháp về chính sách xã hội nhằm hỗ trợ phụ nữ dân tộc

H’mông nâng cao năng lực quản lý kinh tế hộ gia đình. .............................. 111

KẾT LUẬN .................................................................................................. 117

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 118

vii

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT

CBCC Cán bộ công chức

GCNQSDĐ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Hội đồng nhân dân HĐND

Hoạt động sản xuất kinh doanh HĐSXKD

HGĐ Hộ gia đình

HLHPN Hội Liên hiệp phụ nữ

LLLĐ Lực lượng lao động

NCKH Nghiên cứu khoa học

NHCS Ngân hàng chính sách

PTKT Phát triển kinh tế

QH Quốc hội

UBND Ủy ban nhân dân

viii

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1: Công viê ̣c phu ̣ nữ DTTS đảm nhâ ̣n trong gia đình .................... 25 Bảng 2.1: Kết quả lựa chọn nhóm hộ điều tra ............................................ 44

Bảng 3.1: Tình hình sử dụng đất huyện Đồng Hỷ giai đoạn 2014-2016 .... 52

Bảng 3.2: Tình hình dân số và lao động huyện Đồng Hỷ giai đoạn

2014-2016 ................................................................................... 55

Bảng 3.3: Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu của huyện Đồng Hỷ

giai đoạn 2014-2016 ................................................................... 56

Bảng 3.4: Số hộ nông thôn huyện Đồng Hỷ chia theo loại hộ và chia

theo xã......................................................................................... 59

Bảng 3.5. Diện tích, năng suất, sản lượng một số cây trồng chính của

huyện từ năm 2014-2016 ............................................................ 61

Bảng 3.6: Số lượng gia súc, gia cầm của Huyện từ năm 2014 đến 2016 ... 62

Bảng 3.7. Thống kê số lao động nữ trong các nhóm tuổi giai đoạn

2014-2016 ................................................................................... 62

Bảng 3.8: Số lượng phụ nữ tham gia các cấp ủy đảng, chính quyền

năm 2016 .................................................................................... 64

Bảng 3.9. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu ................................. 72

Bảng 3.10: Đất đai sản xuất và tài sản của hộ .............................................. 76

Bảng 3.11: So sánh sự khác biệt về diện tích đất sản xuất giữa các vùng

nghiên cứu .................................................................................. 77

Bảng 3.12. Vai trò của giới trong việc phân công lao động và điều hành

hoạt động sản xuất của hộ .......................................................... 79

Bảng 3.13: Vai trò của phụ nữ trong hoạt động trồng ngô ........................... 79

Bảng 3.14: Vai trò của phụ nữ trong hoạt động trồng ngô ........................... 80

Bảng 3.15: Sự khác biệt về số ngày công thực hiện các công việc trồng

ngô ở các xã nghiên cứu ............................................................. 82

ix

Bảng 3.16: Vai trò của phụ nữ trong hoạt động trồng lúa ............................ 84

Bảng 3.17: Đóng góp của phụ nữ trong hoạt động trồng lúa ........................ 85

Bảng 3.18: Sự khác biệt về số ngày công thực hiện các công việc trồng

lúa ở các xã nghiên cứu .............................................................. 87

Bảng 3.19: Phân công lao động trong hoạt động lâm nghiệp ....................... 89

Bảng 3.20: Vai trò của phụ nữ trong quản lý vốn ......................................... 91

Bảng 3.21: Tham gia các lớp tập huấn .......................................................... 93

Bảng 3.22: Vai trò của phụ nữ H’mông trong việc ra quyết định của hộ ..... 94

Bảng 3.23: Phân công các hoạt động gia đình .............................................. 96

Bảng 3.24: Phân công lao động trong hoạt động cộng đồng ........................ 98

Bảng 3.25: Phân bổ thời gian trong ngày của phụ nữ ................................... 99

Bảng 3.26: Sự khác biệt về sử dụng quỹ thời gian của phụ nữ H’mông

tại các vùng nghiên cứu ............................................................ 101

x

DANH MỤC SƠ ĐỒ, ĐỒ THỊ, BIỂU ĐỒ

Hình 3.1: Trình độ văn hoá của lao động nữ tại huyện Đồng Hỷ năm 2016 .... 64

Hình 3.2: Nhà ở của đối tượng nghiên cứu .................................................... 75

Hình 3.3: Về vai trò lao động của phụ nữ dân tộc H’mông trong gia đình ... 78

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của luận văn

Trong quá trình phát triển của Việt Nam, vấn đề giải phóng phụ nữ, bảo đảm bình đẳng, bình quyền giữa phụ nữ và nam giới, luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm.

Đại hội đại biểu phụ nữ Toàn quốc lần thứ XI, nhiệm kỳ 2012-2017 đã đề ra 5 nhiệm vụ, trong đó nhiệm vụ “Vận động, hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững, bảo vệ môi trường” có liên quan mật thiết tới việc nâng cao vai trò phụ nữ trong kinh tế hộ gia đình. Tại đại hội đại biểu phụ nữ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2016-2021 đã đề ra khâu đột phá của nhiệm kỳ “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, tăng giàu, giảm nghèo gắn với Chương trình xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” [Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Thái Nguyên (2017)].

Hiện nay, phụ nữ Việt Nam góp một phần rất lớn vào quá trình phát triển của đất nước, thể hiện ở số nữ chiếm tỉ lệ cao trong lực lượng lao động. Lực lượng lao động nữ chiếm 52,8% trong lĩnh vực nông nghiệp và lâm nghiệp, có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển nông nghiệp, nông thôn trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước.

Tuy nhiên, người phụ nữ nhất là phụ nữ nông thôn, phụ nữ người dân tộc còn chịu nhiều thiệt thòi, chưa được quan tâm đúng mức về sức khỏe, việc làm, địa vị xã hội, cả về tâm tư tình cảm; thiếu thông tin, thiếu điều kiện học tập để nâng cao trình độ…Trong gia đình, vai trò của họ mờ nhạt so với người chồng trong việc ra các quyết định.

Dân tộc H’mông là một dân tộc ít người, chiếm 0,8% dân số toàn tỉnh và đứng thứ 7 trong các dân tộc của tỉnh Thái Nguyên, nguồn thu nhập chính của họ là từ sản xuất nông lâm nghiệp. Cũng như các dân tộc ít người khác phụ nữ dân tộc H’mông có cuộc sống rất vất vả, không có quyền quyết định các công việc trong gia đình, mặc dù họ là lao động chính.

Đồng Hỷ là một huyện có 18 xã, thị trấn, có 21 dân tộc anh em sinh sống, trong đó dân tộc H’mông có khoảng trên 2400 người, cư trú tập trung ở 3 xã phía bắc của huyện là Quang Sơn, Tân Long và Văn Lăng [Công an tỉnh Thái Nguyên (2016)].

2

Đồng bào dân tộc H’mông cư trú chủ yếu tập trung ở các sườn núi cao,

có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, địa hình hiểm trở, giao thông

đi lại khó khăn, nhiều xóm chưa có điện lưới; nhiều công trình hạ tầng thiết

yếu còn thiếu và ở mức thấp kém. Tỷ lệ hộ nghèo ở vùng đồng bào dân tộc

H’mông còn ở mức rất cao, có 3 xóm có tỷ lệ hộ nghèo 100% (xóm Lân Đăm,

xã Quang Sơn; xóm Mỏ Nước, xóm Bản Tèn xã Văn Lăng, huyện Đồng Hỷ).

Kỹ thuật canh tác ở vùng đồng bào dân tộc H’mông còn lạc hậu, trình độ dân

trí thấp, tỷ lệ tăng dân số ở mức cao.

Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang ngày càng hội nhập sâu, rộng

vào nên kinh tế thế giới, quá trình này rất cần nâng cao cảnh giác cách

mạng cho lĩnh vực an ninh quốc phòng. Vấn đề đói nghèo, dân tộc, tôn

giáo, nhân quyền luôn được các thế lực phản động lợi dụng gây chia rẽ

khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nghiên cứu để phát triển sản xuất nông

nghiệp, nâng cao đời sống của đồng bào H’mông là một hướng đi nhằm

giải quyết những vấn đề chung của tỉnh, huyện, những vấn đề riêng của

cộng đồng phù hợp với thực tiễn cơ sở.

Qua nghiên cứu thực tế cuộc sống của đồng bào dân tộc H’mông tại

huyện Đồng Hỷ, nhiều câu hỏi đặt ra cho bản thân, cho các cấp: Thực trạng vai

trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong phát triển kinh tế hộ gia đình hiện nay ra

sao? Những yếu tố nào tác động đến việc nâng cao vai trò của phụ nữ dân tộc

H’mông trong phát triển kinh tế hộ? Giải pháp nào nhằm tháo gỡ những khó

khăn trong quá trình nâng cao năng lực cho phụ nữ dân tộc?

Vì vậy, nghiên cứu về vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong phát

triển kinh tế hộ gia đình tại huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên được đặt ra

như một yêu cầu cấp bách đối với tổ chức Hội phụ nữ.

Xuất phát từ tính cấp thiết nêu trên và sự nhận thức sâu sắc về những

vai trò to lớn của phụ nữ dân tộc, cũng như những cản trở sự tiến bộ của phụ

nữ dân tộc trong quá trình đổi mới và phát triển kinh tế tại huyện Đồng Hỷ.

Vì vậy, tác giả chọn vấn đề “Vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong phát

triển kinh tế hộ gia đình trên địa bàn huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên”

để nghiên cứu.

3

2. Mục tiêu nghiên cứu

2.1. Mục tiêu chung

Đề tài nghiên cứu được thực hiện nhằm đề xuất một số giải pháp nhằm

nâng cao vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong phát triển kinh tế hộ gia

đình, góp phần tăng thu nhập và nâng cao đời sống của các hộ gia đình đồng

bào dân tộc, xây dựng nông thôn mới và phát triển kinh tế xã hội bền vững,

qua đó thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp nông thôn theo xu hướng đẩy mạnh

công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên địa bàn huyện Đồng Hỷ nói riêng và tỉnh

Thái Nguyên nói chung trong những năm tới.

2.2. Mục tiêu cụ thể

- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề “giới” và vai trò

của phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ gia đình.

- Đánh giá thực trạng vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong phát triển

kinh tế hộ gia đình trên địa bàn huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.

- Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng đóng góp của phụ nữ

dân tộc H’mông trong phát triển kinh tế hộ gia đình.

- Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của phụ nữ dân

tộc H’mông trong phát triển kinh tế hộ gia đình trên địa bàn huyện Đồng Hỷ,

tỉnh Thái Nguyên.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

a. Đối tượng nghiên cứu: Là vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trên

địa bàn huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.

b. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu vai trò của phụ nữ dân

tộc H’mông trong phát triển kinh tế hộ gia đình, các yếu tố ảnh hưởng đến vai

trò của họ trong phát triển kinh tế hộ gia đình trên địa bàn huyện Đồng Hỷ,

tỉnh Thái Nguyên.

- Về không gian: Luận văn được nghiên cứu trên địa bàn huyện Đồng

Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.

- Về thời gian: Luận văn tiến hành nghiên cứu số liệu thứ cấp từ năm

2014 đến năm 2016, số liệu sơ cấp tháng 10 năm 2016.

4

4. Những đóng góp của luận văn

- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về vị trí, vai trò của phụ nữ

dân tộc H’mông trong phát triển kinh tế hộ gia đình. Do vậy, kết quả nghiên

cứu sẽ có những đóng góp nhất định vào việc hoàn thiện khung lý thuyết về

phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ gia đình.

- Kết quả nghiên cứu cho thấy: Người phụ nữ hoặc người phụ nữ cùng

chồng có vai trò rất lớn vào các hoạt động: quản lý và điều hành sản xuất của

hộ; hoạt động sản xuất tạo thu nhập bao gồm trồng ngô, trồng lúa, chăn nuôi

và lâm nghiệp;tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực của hô ̣; viê ̣c ra các quyết

định của hộ; trong tham gia công tác xã hội; trong đời sống sinh hoạt hàng ngày như: Nô ̣i trơ ̣, chăm sóc sức khỏe gia đình, kèm dạy con, lấy củi đun, mua sắm tài sản hay máy móc, sử a chữa lớn nhà cử a.

- Căn cứ vào kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm

nâng cao vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong phát triển kinh tế hộ gia

đình gồm: Nâng cao kiến thức cho phụ nữ; Các hoạt động huy động nguồn

lực hỗ trợ phụ nữ phát triển; Tăng cường hoạt động của Hội phụ nữ các cấp;

Nâng cao nhận thức về giới; Cần xây dựng chính sách thể hiện trách nhiệm xã

hội trong việc tái sản xuất các thế hệ tương lai; Chính sách khuyến khích phụ

nữ dân tộc H’mông duy trì và giữ gìn bản sắc văn hóa các dân tộc.

5. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục các chữ viết tắt, danh

mục các hình và bảng, danh mục tài liệu tham khảo; luận văn được bố cục

theo 4 chương sau:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của phụ nữ trong phát

triển kinh tế hộ gia đình

Chương 2: Phương pháp nghiên cứu.

Chương 3: Thực trạng vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong phát

triển kinh tế hộ gia đình trên địa bàn huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.

Chương 4: Giải pháp nâng cao vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông

trong phát triển kinh tế hộ gia đình tại huyện Đồng Hỷ.

5

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ

TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH

1.1. Hộ gia đình và kinh tế hộ gia đình

1.1.1. Phát triển và phát triển kinh tế

Phát triển: là quá trình thay đổi toàn diện nền kinh tế, bao gồm sự

tăng thêm về quy mô sản lượng, cải thiện về cơ cấu, hoàn thiện thể chế

nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống [Giáo trình kinh tế chính trị Mac -

Lênin dùng cho khối ngành kinh tế - quản trị kinh doanh trong các trường

cao đẳng, đại học (2006)].

Phát triển kinh tế: có thể hiểu là quá trình lớn lên về mọi mặt của nền

kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về quy

mô sản lượng và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế xã hội [Ngô Thắng Lợi (2013)].

1.1.2. Khái niệm, đặc điểm hộ gia đình, hộ nông dân và kinh tế hộ gia đình,

hộ nông dân

* Hộ gia đình: hay còn gọi đơn giản hộ là một đơn vị xã hội bao gồm

một hay một nhóm người ở chung (cùng chung hộ khẩu) và ăn chung (nhân

khẩu). Đối với những hộ có từ hai người trở lên, các thành viên trong hộ có

thể có hay không có quỹ thu chi chung hoặc thu nhập chung. Hộ gia đình

không đồng nhất với khái niệm gia đình, những người trong hộ gia đình có

thể có hoặc không có quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng hoặc hôn nhân hoặc cả

hai [Đỗ Văn Viện - Đỗ Văn Tiến (2005)].

Hộ gia đình: có ba tiêu thức chính thường được nói đến khi định nghĩa

khái niệm hộ gia đình:

- Có quan hệ huyết thống và hôn nhân

- Cùng cư trú

- Có cơ sở kinh tế chung [Đỗ Văn Viện - Đỗ Văn Tiến (2005)].

Theo một số từ điển chuyên ngành kinh tế, từ điển ngôn ngữ thì hộ

được hiểu là: tất cả những người cùng sống trong một mái nhà, bao gồm

những người có cùng huyết tộc và những người làm công [Đỗ Văn Viện - Đỗ

Văn Tiến (2005)].

6

Về phương diện thống kê, các nhà nghiên cứu Liên hợp quốc cho rằng

hộ là những người cùng sống chung dưới một mái nhà, cùng ăn chung và có

chung một ngân quỹ [Đỗ Văn Viện - Đỗ Văn Tiến (2005)].

Đại đa số các hộ ở Việt Nam đều gồm những người có quan hệ hôn

nhân, quan hệ huyết thống. Vì vậy khái niệm hộ thường được hiểu đồng nghĩa

với gia đình, nhiều khi được gộp thành khái niệm chung là hộ gia đình.

* Hộ nông dân

Theo Frank Ellis cho rằng: “Hộ nông dân là các hộ gia đình làm nông

nghiệp, tự kiếm kế sinh nhai trên những mảnh đất của mình, sử dụng chủ yếu

sức lao động của gia đình để sản xuất, thường nằm trong hệ thống kinh tế lớn

hơn, nhưng chủ yếu đặc trưng bởi sự tham gia cục bộ vào các thị trường và

có xu hướng hoạt động với mức độ không hoàn hảo cao”. [Đỗ Văn Viện - Đỗ

Văn Tiến (2005)].

Theo nhà khoa học Lê Đình Thắng (năm 1993): “Nông hộ là tế bào

kinh tế xã hội, là hình thức kinh tế cơ sở trong nông nghiệp và nông thôn”.

[Lê Đình Thắng (1993)].

Nhà khoa học Traianốp đưa ra định nghĩa: “Hộ nông dân là đơn vị sản

xuất rất ổn định” và ông coi “hộ nông dân là đơn vị tuyệt vời để tăng trưởng

và phát triển nông nghiệp”. [Trần Đức Viên (2001)].

Tác giả Mats Lundahl và Tommy Bengtsson bổ sung thêm vào quan

điểm của Traianốp: “Hộ nông dân là đơn vị sản xuất cơ bản”. [Trần Đức

Viên (2001)].

Theo nhà khoa học Lê Đình Thắng (năm 1993): “Nông hộ là tế bào

kinh tế xã hội, là hình thức kinh tế cơ sở trong nông nghiệp và nông thôn”.

[Lê Đình Thắng (1993)].

Đào Thế Tuấn (1997) chỉ ra: “Hộ nông dân là những hộ chủ yếu hoạt

động nông nghiệp theo nghĩa rộng, bao gồm cả nghề rừng, nghề cá và hoạt

động phi nông nghiệp ở nông thôn”.

Đối với nhà khoa học Nguyễn Sinh Cúc (năm 2001) thì: “Hộ nông

nghiệp là những hộ có toàn bộ hoặc 50% số lao động thường xuyên tham gia

7

trực tiếp hoặc gián tiếp các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ nông

nghiệp (làm đất, thuỷ nông, giống cây trồng, bảo vệ thực vật,...) và thông

thường nguồn sống chính của hộ dựa vào nông nghiệp”.

Xuất phát từ những khái niệm trên, có thể chỉ ra một số đặc điểm chung

như sau:

- Hộ nông dân là những hộ sống ở nông thôn, miền núi, có ngành nghề

sản xuất chính là nông nghiệp. Hộ có nguồn thu nhập chủ yếu bằng nghề nông.

Ngoài ra, hộ nông dân còn tham gia các hoạt động phi nông nghiệp, chẳng hạn

tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ... ở các mức độ khác nhau.

- Hộ nông dân là một đơn vị kinh tế cơ sở, vừa là một đơn vị sản xuất

vừa là một đơn vị tiêu dùng. Hộ nông dân phải phụ thuộc vào các hệ thống

kinh tế lớn hơn của nền kinh tế quốc dân. Các hộ nông dân càng phụ thuộc

nhiều hơn vào các hệ thống kinh tế rộng lớn không chỉ trong phạm vi một

vùng, một nước khi trình độ phát triển lên mức cao của công nghiệp hoá, hiện

đại hoá, thị trường, xã hội càng mở rộng và đi vào chiều sâu.

* Kinh tế hộ nông dân

Khái niệm: Theo Frank Ellis (1988) thì kinh tế hộ nông dân là: “Các

nông hộ thu hoạch các phương tiện sống từ đất, sử dụng chủ yếu lao động gia

đình trong sản xuất nông trại, nằm trong hệ thống kinh tế rộng hơn, nhưng về

cơ bản được đặc trưng bằng việc tham gia một phần trong thị trường, hoạt động

với một trình độ không hoàn chỉnh cao”. [Đỗ Văn Viện - Đỗ Văn Tiến (2005)].

* Đặc điểm: Kinh tế hộ nông dân được phân biệt với các hình thức kinh

tế khác trong nền kinh tế thị trường bởi các đặc điểm sau:

- Đất đai: Đây là đặc điểm phân biệt giữa hộ nông dân với những người

lao động khác. Như vậy, nghiên cứu hộ nông dân là nghiên cứu những người

sản xuất có tư liệu sản xuất chủ yếu là đất đai.

- Tiền vốn: Do họ tự tạo ra chủ yếu là từ sức lao động của họ. Mục đích

sản xuất chủ yếu là phục vụ yêu cầu cần tiêu dùng trực tiếp của hộ, không

phải là lợi nhuận, hộ không quan tâm đến giá trị thặng dư. Có lúc hộ nông dân phải duy trì mức tiêu dùng tối thiểu, để đầu tư sản xuất với chi phí rất cao

để đảm bảo cuộc sống của gia đình.

8

- Lao động: Lao động sản xuất chủ yếu là do các thành viên trong hộ tự

đảm nhiệm. Sức lao động của các thành viên trong hộ không được xem là lao

động dưới hình thức hàng hoá, hộ không có khái niệm tiền công, tiền lương.

Sự hiểu biết về kinh tế hộ nông dân được thông qua các đặc trưng của hộ

nông dân nói chung. Tuỳ theo điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, mỗi vùng

mà nông hộ có những đặc trưng cụ thể. Tóm lại, kinh tế hộ nông dân luôn gắn

liền với đất đai và sử dụng lao động gia đình là chủ yếu. Mục đích chủ yếu

nhất của sản xuất trong nông hộ là đáp ứng cho tiêu dùng trực tiếp của hộ, sau

đó mới là sản xuất hàng hoá. 1.2. Giới tính và giới

1.2.1. Khái niệm giới tính và giới

Giới tính: Là khái niệm dùng để sự khác biệt giữa phụ nữ và nam giới

trên cả khía cạnh sinh học và xã hội [Đỗ Văn Viện - Đỗ Văn Tiến (2005)]. Các

đặc trưng của giới tính bị quy định và hoạt động theo các cơ chế tự nhiên, di

truyền. Nữ giới vốn có chức năng sinh lý học như tạo ra trứng, mang thai, sinh

con và cho con bú bằng bầu sữa mẹ. Nam giới có chức năng tạo ra tinh trùng. Về

mặt sinh lý học, nữ giới khác với nam giới [Tổ chức Lao động quốc tế (2002)].

Giới: Là khái niệm dùng để chỉ các đặc trưng sinh học của nữ giới và

nam giới trong tự nhiên [Đỗ Văn Viện - Đỗ Văn Tiến (2005)], chỉ sự khác

biệt về xã hội và quan hệ (về quyền lực) giữa trẻ em trai và trẻ em gái, giữa

phụ nữ và nam giới, được hình thành và khác nhau ngay trong một nền văn

hoá, giữa các nền văn hoá và thay đổi theo thời gian. Sự khác biệt này được

nhận thấy một cách rõ ràng trong vai trò, trách nhiệm, nhu cầu, khó khăn,

thuận lợi của các giới tính [Tổ chức Lao động quốc tế (2002)].

Khái niệm về “Giới” được xuất hiện ban đầu là các nước nói tiếng Anh,

vào khoảng những năm 60 của thế kỷ XX... Ở Việt Nam, khái niệm này mới

xuất hiện vào khoảng thập kỷ 80.

“Giới” là một thuật ngữ xã hội học bắt nguồn từ môn nhân học, nói đến

vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quy định cho nam và nữ. “Giới”

đề cập đến việc phân công lao động, các kiểu phân chia: nguồn lực và lợi ích

giữa nam và nữ trong một bối cảnh xã hội cụ thể.

9

“Giới” là yếu tố luôn biến đổi cũng như tương quan về địa vị trong xã

hội của nữ giới và nam giới, không phải là hiện tượng bất biến mà liên tục

thay đổi. Nó phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể. “Giới”

là sản phẩm của xã hội, có tính xã hội, dùng để phân biệt sự khác nhau trong

quan hệ nam và nữ. Đây là cơ sở để nghiên cứu sự cân bằng về giới và đảm

bảo công bằng trong xã hội.

1.2.2. Đặc điểm, nguồn gốc và sự khác biệt về giới và giới tính

1.2.2.1. Những đặc điểm cơ bản về giới tính

- Bẩm sinh: Về phương diện sinh lý thì nam giới và nữ giới khác nhau

ngay từ trong bào thai. Đó là những đặc điểm xác định bởi tự nhiên, không theo

và không phụ thuộc vào mong muốn của con người. Nó ổn định về tương quan

giữa hai giới trong quá trình sinh sản. Chức năng sinh sản của nữ giới hay nam

giới là không thể thay thế, thay đổi hay chuyển dịch cho nhau.

- Tính đồng nhất: Nam giới hay nữ giới đều có cấu tạo về mặt sinh lý giống

nhau, tham gia và mang các yếu tố đóng góp vào quá trình thụ thai như nhau.

- Tính không đổi: Về phương diện sinh lý chức năng sinh sản của nữ

giới hay nam giới là không thể thay đổi hay chuyển dịch cho nhau được. Sự

khác biệt về giới tính là bất biến cả về thời gian cũng như không gian.

- Tính do dạy và học mà có: Đứa trẻ phải học để làm con trai hoặc

con gái. Bắt đầu từ khi sinh ra đứa trẻ được dạy dỗ tuỳ theo là con trai hay

con gái. Đó là sự khác biệt về quần áo, đồ chơi, màu sắc, cách nói năng, thái

độ và có thể cả về thức ăn và tình cảm của cha, mẹ, anh chị.

- Tính đa dạng: Giới thể hiện những đặc trưng của những quan hệ xã hội

giữa nữ giới và nam giới cho nên rất đa dạng. Địa vị của người nữ giới trong xã

hội Việt Nam khác xa so với địa vị của người nữ giới ở các nước Hồi giáo. Địa

vị của phụ nữ nông thôn cũng không hoàn toàn giống nữ giới thành thị.

- Tính luôn biến đổi: Quan hệ giới luôn luôn biến đổi cùng với sự biến

đổi của các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, phong tục tập quán…

- Tính có thể thay đổi được: Các quan niệm, hành vi, chuẩn mực xã

hội là hoàn toàn có thể thay đổi được. Quan niệm “bếp núc” là thiên chức của

nữ giới đang được xem xét lại khi rất nhiều đầu bếp giỏi, các thợ may tinh

10

xảo là nam giới. Trong nhiều gia đình hạt nhân khi cả vợ và chồng đều tham

gia tích cực vào quá trình sản xuất tạo thu nhập thì nam giới cũng đang tích

cực tham gia vào công việc nội trợ như: nấu ăn, chăm sóc con cái…

1.2.2.2. Nguồn gốc và những khác biệt về giới

Nam giới và nữ giới là hai nửa hoàn chỉnh của loài người, bảo đảm cho

việc tái sản xuất con người và xã hội. Sự khác biệt về giới quy định thiên

chức của họ trong gia đình và xã hội.

Bắt đầu từ khi sinh ra đứa trẻ được đối xử tuỳ theo nó là trai hay gái.

Đó là sự khác nhau về đồ chơi, quần áo, tình cảm của bố, mẹ. Đứa trẻ được

dạy dỗ và điều chỉnh hành vi của chúng theo giới tính của mình.

Phụ nữ được xem là phái yếu. Thiên chức của phụ nữ là làm vợ, làm

mẹ, nên họ gắn bó với con cái, gia đình hơn nam giới và cũng từ đấy mối

quan tâm của họ cũng có phần khác hơn nam giới.

Nam giới được coi là phái mạnh, là trụ cột gia đình. Đặc trưng về giới

này cho phép họ dồn hết tâm trí vào lao động sản xuất, vào công việc xã hội

và ít bị ràng buộc hơn bởi con cái, gia đình. Điều này làm tăng thêm khoảng

cách khác biệt giữa phụ nữ và nam giới trong xã hội. Để thay đổi quan hệ giới

và các đặc trưng của giới cần phải vượt qua những quan niệm cũ, tức là cần

phải bắt đầu từ việc thay đổi nhận thức, hành vi của mọi người trong xã hội về

giới và quan hệ giới.

Hơn nữa, nam - nữ lại có xuất phát điểm không giống nhau để tiếp cận

với cái mới, họ có những thuận lợi, khó khăn, tính chất và mức độ khác nhau

để tham gia vào các chương trình kinh tế, từ góc độ nhận thức, nắm bắt các

thông tin xã hội. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, từ điều kiện và cơ hội

đi học tập, bồi dưỡng trình độ chuyên môn, tiếp cận và làm việc, từ vị trí

trong gia đình, ngoài xã hội khác nhau, từ tác động của định kiến xã hội, các

hệ tư tưởng, phong tục tập quán đối với mỗi giới cũng khác nhau.

Sự khác biệt về giới và giới tính là nguyên nhân cơ bản gây nên bất

bình đẳng trong xã hội. Trong nhiều năm gần đây, hầu hết các nước trên thế

giới đã dần đánh giá đúng mức vai trò của phụ nữ trong gia đình và trong xã

hội, kết quả là thực hiện các mục tiêu “bình đẳng nam nữ” để giải phóng sức

11

lao động và xây dựng củng cố thêm nền văn minh nhân loại. Tuy nhiên mức

độ bình đẳng đó tùy thuộc vào từng quốc gia và giảm dần theo chiều tăng của

sự phát triển đối với mỗi nước trên thế giới.

1.2.3. Nhu cầu, lợi ích giới và bình đẳng giới

Nhu cầu giới (còn gọi là nhu cầu thực tế): là những nhu cầu xuất phát từ

công việc và hoạt động hiện tại của phụ nữ và nam giới. Nếu những nhu cầu này

được đáp ứng thì sẽ giúp cho họ làm tốt vai trò sẵn có của mình [Trần Thị Vân

Anh (2003)].

Nhu cầu giới thực tế là những nhu cầu được hình thành từ những điều

kiện cụ thể mà phụ nữ trải qua. Chúng nảy sinh từ những vị trí của họ trong

phân công lao động theo giới, cùng với lợi ích giới thực tế của họ là sự tồn tại

của con người. Khác với nhu cầu chiến lược, chúng được chính phụ nữ đưa ra

từ vị trí của họ chứ không phải qua can thiệp từ bên ngoài. Vì vậy, nhu cầu

giới thực tế thường là sự hưởng ứng đối với sự cần thiết được nhận thức ngay

do phụ nữ xác định trong hoàn cảnh cụ thể.

Lợi ích giới (còn gọi là nhu cầu chiến lược): là những nhu cầu của phụ

nữ và nam giới xuất phát từ sự chênh lệch về địa vị xã hội của họ. Những lợi

ích này khi được đáp ứng sẽ thay đổi vị thế của phụ nữ và nam giới theo

hướng bình đẳng [Trần Thị Vân Anh (2003)].

Bình đẳng giới: nam giới và nữ giới được coi trọng như nhau, cùng

được công nhận và có vị thế bình đẳng [Trần Thị Vân Anh (2003)].

Nam giới và phụ nữ được bình đẳng về:

- Các điều kiện để phát huy đầy đủ tiềm năng.

- Các cơ hội để tham gia đóng góp, hưởng lợi trong quá trình phát triển.

- Quyền tự do và chất lượng cuộc sống.

1.2.4. Vai trò của giới

- Vai trò sản xuất: Là các hoạt động tạo ra của cải vật chất và tinh thần

để tạo ra thu nhập hoặc để tự nuôi sống. Vai trò sản xuất bao gồm cả những

công việc mà nam giới và nữ giới làm để lấy công hoặc tiền, hoặc bằng hiện

vật. Nó bao gồm cả sản xuất hàng hoá có giá trị trao đổi và sản xuất vừa có ý

nghĩa tiêu dùng tại gia vừa có ý nghĩa sử dụng, nhưng cũng có ý nghĩa trao đổi

12

tiềm năng. Khi tư tưởng phụ hệ cố gắng thúc đẩy hình mẫu phổ biến về đàn

ông là người giữ vai trò chủ đạo trong sản xuất thì thực tế lại không sản sinh

ra hình mẫu đó.

- Vai trò tái sản xuất: Vai trò tái sản xuất bao gồm trách nhiệm sinh

đẻ, nuôi con và các công việc nội trợ trong gia đình để duy trì và tái sản xuất

sức lao động. Vai trò này không chỉ bao gồm sự tái sản xuất sinh học mà còn

cả chăm lo và duy trì lực lượng lao động (LLLĐ) hiện tại và tương lai. Khái

niệm “tái sản xuất sinh học” chỉ ngụ ý cứng nhắc vào việc sinh con, thì thuật

ngữ “tái sản xuất sức lao động” lại mở rộng hơn. Thuật ngữ này bao gồm việc

chăm sóc, xã hội hoá và nuôi dưỡng cá nhân trong suốt cuộc đời, để đảm bảo

sự kế tục của xã hội đến thế hệ sau [Trần Đức Viên (2001)].

- Vai trò cộng đồng:

+ Vai trò quản lý cộng đồng: Là các hoạt động ở cấp độ cộng đồng như

sự mở rộng vai trò tái sản xuất. Đó là các công việc nhằm đảm bảo và duy trì các

nguồn lực để sử dụng chung như nguồn nước, vệ sinh đường làng ngõ xóm,

tham gia lễ hội của làng bản, tham dự các đám hiếu hỉ…Đây là những công việc

tự nguyện, không được trả tiền và thường làm vào thời gian rảnh rỗi.

+ Vai trò chính trị cộng đồng: Gồm những hoạt động ở cấp cộng đồng

trong thể chế chính trị quốc gia. Những hoạt động này thường do nam giới thực

hiện, được trả công trực tiếp bằng tiền, hoặc gián tiếp làm tăng vị thế và quyền

lực của họ [Trần Đức Viên (2001)].

1.3. Dân tộc và dân tộc thiểu số

1.3.1. Khái niệm, đặc trưng về dân tộc

Dân tộc thiểu số là một khái niệm khoa học được sử dụng phổ biến

trên thế giới hiện nay. Các học giả phương Tây quan niệm rằng, đây là một

thuật ngữ chuyên ngành dân tộc học (minority ethnic) dùng để chỉ những

dân tộc có dân số ít.

Thuật ngữ dân tộc dùng để chỉ cộng đồng tộc người (ethnic, ethnie).

Theo nghĩa này, dân tộc là một cộng đồng người hình thành và phát triển

trong lịch sử, trên một lãnh thổ nhất định, có mối liên hệ tương đối bền vững

13

về kinh tế, ngôn ngữ, đặc điểm sinh hoạt văn hóa và ý thức tự giác dân tộc

thông qua tự nhận tên gọi của dân tộc mình, như dân tộc Thái, dân tộc Chăm,

dân tộc H’mông... Trong mỗi dân tộc có thể bao gồm nhiều nhóm địa phương

có tên gọi khác nhau, nhưng có đặc điểm về ngôn ngữ, văn hóa gần gũi nhau,

như dân tộc H’mông có các nhóm địa phương: Mông Đơ (Mông Trắng),

Mông Lềnh (Mông Hoa), Mông Sí (Mông Đỏ), Mông Đú (Mông Đen), Mông

Súa (Mông Mán), Mông Xanh.

Như vậy, khái niệm Dân tộc thiểu số dùng để chỉ những dân tộc có số

dân ít, chiếm tỷ trọng thấp trong tương quan so sánh về lượng dân số trong

một quốc gia đa dân tộc [Lô Quốc Toản (2010)].

Dân tộc Việt Nam là tất cả các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước

Việt Nam có quốc tịch Việt Nam, không phân biệt nguồn gốc.

1.3.2. Thành phần

Các dân tộc ở Việt Nam đã xuất hiện và hình thành trong hàng nghìn

năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Việt Nam có 54 dân tộc: dân tộc đông

nhất là dân tộc Kinh (Việt), chiếm 86,2% dân số. Các dân tộc thiểu số đông

dân nhất: Tày, Thái, Mường, Khmer, Hoa, Nùng, H’mông, Dao, Giarai, Êđê,

Chăm, Sán Dìu. Đa số các dân tộc này sống ở miền núi và vùng sâu vùng xa ở

miền Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long. Cuối cùng là các dân

tộc Brâu, Ơ Đu và Rơ Măm chỉ có trên 300 người [Nhóm hành động chống

đói giảm nghèo (2002)].

1.3.3. Về địa bàn cư trú

Miền núi là địa bàn cư trú chủ yếu của các dân tộc thiểu số, có một bộ

phận sống ở đồng bằng và hải đảo.

Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người H’mông ở Việt

Nam có dân số 1.068.189 người, đứng hàng thứ 8 trong bảng danh sách các dân

tộc ở Việt Nam, cư trú tại 62 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Nằm trong một

quốc gia đa dân tộc, dân tộc H’mông được coi là một thành viên quan trọng

trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Dân tộc H’mông thường cư

trú ở độ cao từ 800 đến 1500m so với mực nước biển, gồm hầu hết các tỉnh miền

núi phía bắc trong một địa bàn khá rộng lớn, dọc theo biên giới Việt-Trung và

14

Việt-Lào, từ Lạng Sơn đến Nghệ An. Người H’Mông cư trú tập trung tại các

tỉnh: Hà Giang, Điện Biên, Sơn La, Lào Cai, Lai Châu, Yên Bái, Cao, Nghệ An,

Đắk Lắk, Đắk Nông, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Thanh Hóa và Thái Nguyên.

Họ cư trú xen kẽ với nhau, không hình thành một vùng lãnh thổ riêng.

Đặc điểm cư trú đó có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng

và bảo vệ tổ quốc.

1.4. Kinh tế hộ gia đình - Vai trò của người phụ nữ dân tộc thiểu số

trong quản lý và phát triển kinh tế hộ gia đình vùng dân tộc miền núi

tại Việt Nam

1.4.1. Vài nét khái quát về phát triển kinh tế hộ gia đình ở nước ta

Trước xu thế phát triển của đất nước trong nền kinh tế thị trường nhiều

thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,

vùng dân tộc miền núi đã và đang có những bước chuyển quan trọng trong

các hoạt động kinh tế. Trong đó nổi bật là sự phát triển của loại hình kinh tế

hộ gia đình đang ngày càng khẳng định vị trí quan trọng trong sự nghiệp phát

triển kinh tế cả nước nói chung và phát triển kinh tế miền núi nói riêng.

Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế gia đình có vai trò đặc biệt

quan trọng nhất là đối với những nước nông nghiệp như nước ta. Thuật ngữ

kinh tế “Kinh tế hộ gia đình” là một thuật ngữ kép, được hiểu theo nghĩa:

Kinh tế của hộ, kinh tế của gia đình.

Hộ là một nhóm người cùng huyết thống hoặc không cùng huyết thống

nhưng sống chung một mái nhà, có chung một nguồn thu nhập và cùng nhau

tiến hành sản xuất kinh doanh.

Gia đình là một nhóm người có cùng huyết thống, sống chung một mái

nhà, có chung nguồn thu nhập và cùng nhau tiến hành sản xuất kinh doanh.

Theo sự xác định của Liên hiệp quốc thì hộ bao gồm những người sống

chung dưới một mái nhà, cùng làm ăn chung, cùng chung một ngân sách, có

chung nguồn thu nhập. Như vậy, khái niệm “Kinh tế hộ” mang tính bao trùm

hơn khái niệm “Kinh tế gia đình”. Khi ta dùng thuật ngữ “kinh tế hộ gia đình”

15

là muốn đề cập đến kinh tế hộ và kinh tế gia đình, tuy đó là hai khái niệm

không hoàn toàn giống nhau nhưng nếu dùng thuật ngữ kép này thì nội dung

bao hàm hơn, dễ hiểu và dễ hình dung hơn.

Đảng và Nhà nước đã xác định vai trò quan trọng của kinh tế hộ gia

đình trong sự phát triển chung của đất nước mà theo đó là chủ trưởng, chính

sách thúc đẩy thúc đẩy một cách đồng bộ như: Xây dựng một chiến lược phát

triển toàn bộ kinh tế xã hội nông thôn; Xây dựng chiến lược phát triển cho

từng vùng, miền. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng; Xây dựng chương trình

quốc gia về lao động - việc làm; Ưu tiên các nguồn vốn cho phát triển kinh tế

- xã hội nông thôn nói chung và khu vực dân tộc miền núi nói riêng... Đã tạo

điều kiện cho kinh tế hộ gia đình ngày càng phát triển.

Đi liền với quá trình đổi mới xã hội, sự vận hành của nền kinh tế thị

trường ở nước ta đã và đang diễn ra sự phân tầng xã hội, thể hiện ở sự phân hóa

giàu nghèo. Theo kết quả điều tra, cả nước có hơn 2,338 triệu hộ nghèo (chiếm

tỷ lệ 9,88% so với tổng số hộ dân cư trên toàn quốc) và hơn 1,235 triệu hộ cận

nghèo (chiếm tỷ lệ 5,22%) theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2016-2020.

Như vậy, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều đã tăng tỷ lệ hộ nghèo từ

dưới 5% năm 2015 lên gần 10% năm 2016 do chuẩn nghèo giai đoạn 2011-

2015 tiếp cận dựa trên việc đo lường thu nhập nhưng chuẩn nghèo mới trong

giai đoạn 2016-2020 nâng tiêu chí về thu nhập và đo lường thêm các mức độ

thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản như: y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh,

thông tin. Trong đó 90% số người nghèo sinh sống ở các vùng nông thôn nhất

là ở vùng nông thôn miền núi [Nguyễn Duy Quý (2010)].

Bên cạnh những vùng, những hộ gia đình nghèo, quá đói nghèo là một

bộ phận dân cư có mức thu nhập cao đang trở thành những người giàu có. Hai

bộ phân dân cư này đều hòa nhập chung và chịu sự điều phối của cơ chế thị

trường. Ở nông thôn, nhất là ở nông thôn miền núi, đa số các hộ giàu lên

không phải do bóc lột người nghèo mà là do biết cách làm ăn, có năng lực sản

xuất kinh doanh và phát huy được nguồn lực trong cơ chế mới. Đối với những

hộ gia đình đã đủ ăn, có vốn, có khả năng phát triển chỉ cần tạo điều kiện về

16

cơ chế chính sách là họ có thể vươn lên được nhưng đối với những hộ nghèo,

có lẽ ngoài sức lao động ra, họ thiếu đủ thứ, cơ bản nhất vẫn là: Thiếu vốn,

thiếu kiến thức và thiếu các thông tin về thị trường. Nếu không được hỗ trợ về

3 yếu tố cơ bản trên thì tài sản sức lao động của các hộ gia đình nghèo sẽ

không phát huy được.

1.4.2. Vị trí của lao động nữ trong gia đình và xã hội

Trên toàn thế giới, phụ nữ đóng vai trò then chốt trong gia đình về khả

năng sản xuất và tái sản xuất. Họ chiếm trên 50% trong tổng số lao động; số

giờ lao động của họ chiếm 2/3 tổng giờ lao động của xã hội và sản xuất ra 1/2

trong tổng sản lượng nông nghiệp. Cùng với việc đảm nhiệm nhiều công việc

khác nhau, lao động nữ chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong các ngành công

nghiệp, dịch vụ với trình độ không ngừng được nâng cao [Viện nghiên cứu

chính sách lương thực Quốc tế (2001)].

Theo kết quả của những công trình nghiên cứu trước cho biết: Phụ nữ

là người tạo ra phần lớn lương thực tiêu dùng cho gia đình. 1/4 số hộ gia đình

trên thế giới do nữ làm chủ hộ và nhiều hộ gia đình khác phải phụ thuộc vào

thu nhập của lao động nữ [Đỗ Thị Bình - Trần Thị Vân Anh (2003)].

Tuy vậy, sự bất bình đẳng vẫn còn tồn tại ở rất nhiều nước trên thế giới.

đặc biệt là ở các vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, phụ nữ bị

hạn chế về mọi mặt, đời sống, điều kiện sống và làm việc tồi tàn, địa vị trong

xã hội thấp. Trong số hơn 1,3 tỷ người trên thế giới ở trong tình trạng nghèo

khổ thì có đến 70% là nữ. Có ít nhất 1/2 triệu phụ nữ tử vong do các biến

chứng về mang thai, sinh đẻ…

Phụ nữ hiện chiếm trên 50% dân số cả nước và chiếm trên 47% lực

lương lao động xã hội; tỷ lệ nữ tham gia hoạt động kinh tế chiếm 83%, gần

tương đương với nam giới là 85 %. Tỷ lệ nữ cán bộ, công chức chiếm 30%,

viên chức 61%. Lực lương lao động nữ hiện diện ở hầu hết các lãnh vực,

ngành nghề, trong đó có một số ngành nữ chiếm tỷ lệ cao như chế biến nông

sản, giáo dục, y tế, may mặc, và ngày càng nhiều lao động nữ trong các lãnh

vực kỹ thuật công nghệ (34%). So sánh ngành nghề giữa nông thôn và thành

17

thị. Ở thành thị, phụ nữ làm công nhân viên chức, các nghề tự do, hoặc lao

động chân tay, tuy nhiên, lương bổng lại không bằng nam giới. Ở khu vực

nông thôn, phụ nữ vừa làm việc đồng áng hoặc buôn bán. Tình trạng lao động

nữ chưa qua đào tạo rất phổ biến (chiếm 90%). Nhìn chung, ở nông thôn cũng

như thành thị phụ nữ đang phải làm những ngành nghề dành cho nữ như dệt

may, nông - lâm nghiệp… đều là những ngành lao động phổ thông, nặng

nhọc, năng suất thấp, dễ bị tổn thương với mức thu nhập thấp; điều kiện làm

việc thì khắc nghiệt mà tính rủi ro do mất việc rất cao. Mặc dù tham gia vào

thị trường lao động với tỷ lệ cao nhưng theo thống kê cho thấy thì thu nhập

của lao động nữ luôn chỉ bằng 3/4 lao động nam. Khi kinh tế biến động cần sa

thải nhân công thì lao động nữ cũng là “ưu tiên hàng đầu”. Lý do là vì ít đào

tạo, trình độ thấp nên cơ hội việc làm có lương cao rất hạn chế. Tỷ lệ lao động

nữ chưa qua đào tạo là 80,9%, khu vực nông thôn gần 90%, chỉ có 3,65% lao

động nữ ở nông thôn có chứng chỉ nghề. Một đặc điểm văn hóa khác biệt của

phụ nữ Việt Nam so với các nước Châu Á hay phương Tây là tuy kiếm ít tiền

hơn nhưng lại là người cai quản tài chính của gia đình [Nguyễn Thị Thanh

Hòa (2011)].

Ở Việt Nam hiện nay, tỷ lệ phụ nữ tham gia các cấp uỷ đảng từ trung

ương tới địa phương đều chưa đạt 15% (trừ cấp cơ sở đạt 15,08%). Cấp trung

ương, tỷ lệ uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X là 8,13% (giảm

0,53% so với khoá IX), uỷ viên dự khuyết đạt 14,28%; tính đến thời điểm

hiện tại, có 2/10 Bí thư Trung ương Đảng là nữ (chiếm 20%) - đạt tỷ lệ cao

nhất từ trước tới nay; cấp trưởng của các ban Đảng và Uỷ ban Kiểm tra Trung

ương là nữ có 1/6 (chiếm 16,7%); cấp phó có 3/23 là nữ (chiếm 13,04%).

Nhìn chung, số phụ nữ giữ các cương vị lãnh đạo chủ chốt cấp trung ương có

xu hướng ngày càng giảm, tuổi đời cao, báo động về sự hẫng hụt đội ngũ cán

bộ nữ lãnh đạo, quản lý. Ở các cấp địa phương, tỷ lệ uỷ viên ban chấp hành

đảng bộ nhiệm kỳ 2005-2010: cấp tỉnh là 11,75% (tăng 0,43% so với nhiệm

kỳ trước), nữ bí thư có 5/63 (chiếm 7,93%), tỷ lệ nữ phó bí thư là 7,04%; cấp

trưởng các ban Đảng tỉnh, thành ủy là phụ nữ chiếm tỷ lệ thấp; cấp huyện, tỷ

18

lệ nữ tham gia ban chấp hành là 14,74% (tăng 1,85% so với nhiệm kỳ trước)

và ở cấp xã là 15,08% (tăng 3,2% so với nhiệm kỳ trước). Đánh giá tổng quát

về tỷ lệ nữ tham gia cấp uỷ là: cấp trung ương giảm, các cấp địa phương tăng

không đáng kể. Điều đặc biệt là ở những nơi khó khăn như miền núi thì tỷ lệ

cán bộ nữ cao hơn đồng bằng. [Nguyễn Thị Thanh Hòa (2016)].

Trong cơ quan dân cử, tỉ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XIV là 133

người (đạt 26,80%), mặc dù tỷ lệ ĐBQH là nữ không đạt được ít nhất 30%

như mục tiêu, nhưng cũng đã tăng 11 người (2,4%) so với khóa XIII (có 122

đại biểu nữ, chiếm 24,4%). Cũng theo báo cáo của Hội đồng Bầu cử Quốc

gia, tỷ lệ nữ đại biểu HĐND nhiệm kỳ 2016 -2021 các cấp đều tăng so với

nhiệm kỳ trước (2011 – 2016). Cụ thể, tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp tỉnh đạt

26,46% (tăng 1,29%); cấp huyện đạt 27,51% (tăng 2,89%); cấp xã đạt 26,70%

(tăng 4,99%). [Hội đồng bầu cử quốc gia (2016)].

Mặc dù tỷ lệ phụ nữ trong hệ thống chính trị hiện nay còn hạn chế song

nhìn chung, sự gia tăng số lượng cán bộ nữ tham gia quản lý nhà nước và các

hoạt động chính trị trong những năm qua chứng tỏ năng lực của cán bộ nữ

ngày càng được nâng cao. Nhìn lại chặng đường đã qua, phụ nữ Việt Nam đã

không ngừng nỗ lực phấn đấu vươn lên; mặt khác, sự quan tâm, tạo điều kiện

của Đảng và Nhà nước đã tạo môi trường thuận lợi để chị em có cơ hội phát

triển toàn diện và tham gia trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Những đóng góp tích cực và cụ thể của phụ nữ vào thành quả của công cuộc

đổi mới đã dần làm thay đổi những định kiến về vai trò của phụ nữ trong xã

hội, khiến xã hội phải thừa nhận phụ nữ có khả năng tham gia lĩnh vực chính

trị không thua kém nam giới và nhìn nhận, đánh giá đúng hơn về vai trò, vị trí

của phụ nữ trong các hoạt động kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước.

1.4.3. Vai trò người phụ nữ dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế hộ gia đình

Khi nói đến cơ cấu tổ chức sản xuất của kinh tế hộ gia đình là nói tới

một mô hình sản xuất gọn nhẹ với sự tham gia của các thành viên trong gia

đình, dòng họ. Các thành viên trong hộ gia đình có chung nguồn thu nhập,

cùng chung lợi ích và có trách nhiệm ràng buộc với nhau. Vì vậy mà họ có

19

chung một ý chí lao động sản xuất, tuy nhiên từng thành viên có các vị thế

khác nhau trong gia đình. Vị thế đó phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố chủ

quan và khách quan kể cả phong tục tập quán của từng dân tộc.

Do đặc điểm lịch sử của đất nước, phụ nữ Việt Nam luôn giữ một vai

trò trụ cột trong sản xuất nông nghiệp. Họ là lực lượng rất quan trọng để tạo

ra của cải vật chất và xây dựng văn hóa nông thôn. Với lực lượng đông đảo:

78% phụ nữ ở nông thôn, chiếm 52% lực lượng lao động xã hội và 23% làm

chủ hộ gia đình, người phụ nữ đã và đang khẳng định vai trò quan trọng của

mình trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông

thôn. Trong quá trình hoạt động của kinh tế hộ gia đình vùng dân tộc miền

núi, người phụ nữ dân tộc thiểu số là một lực lượng, một nguồn lực lao động

quan trọng thể hiện vị thế của mình trong gia đình theo thiên chức và trách

nhiệm, theo sự phân công mang tính chất giới trong gia đình [Ủy ban dân tộc

và miền núi (2000)].

Hoạt động kinh tế gia đình trong tình hình mới đã tác động đến vai trò

của các giới, đến vai trò của người chồng và người vợ trong các công việc cụ

thể của hoạt động kinh tế hộ gia đình. Nếu trong bối cảnh của nền kinh tế tự

cung tự cấp trước đây việc phân công lao động còn mang tính tự nhiên chủ

nghĩa thì hiện nay trước yêu cầu của sự phát triển kinh tế và hoàn cảnh kinh

tế, đặc thù kinh tế của từng địa phương cũng như tương quan trình độ của

nam và nữ mà có sự phân công khác nhau trong các hoạt động trực tiếp hay

gián tiếp đến kinh tế hộ gia đình.

Hoạt động kinh tế hộ gia đình của nông dân, miền núi trong bối cảnh

hiện nay là một phức hợp các công việc trong việc tổ chức điều hành sản xuất,

phân công lao động, đầu tư và sử dụng đồng vốn một cách có hiệu quả nhất,

đòi hỏi sự tư duy, tính toán của cả vợ và chồng... chứ không phải là công việc

thuần nông giản đơn như trước đây hoạt động kinh tế hộ gia đình theo kinh

nghiệm, theo bản năng.

Người phụ nữ đảm nhận mọi công việc nặng nhọc trong gia đình nhưng

qua khảo sát, quyền quyết định của họ trong việc điều hành các công việc lớn

20

trong gia đình lại ở mức độ thấp. Điều đó thể hiện sự mâu thuẫn giữa cường

độ lao động của phụ nữ (thường gấp 1,5 - 2 lần so với nam giới) với quyền

quyết định điều hành các hoạt động kinh tế gia đình.

Như vậy: Nếu xét dưới góc độ kinh tế, năng lực quản lý kinh tế hộ

gia đình của phụ nữ là hiệu quả của quá trình tổ chức, điều hành và quản

lý sản xuất có sự tham gia của chị em với tư cách là thành viên - là người

chủ của hộ gia đình.

Năng lực quản lý kinh tế hộ gia đình của phụ nữ nếu xét dưới góc độ

chính trị - xã hội là sự thể hiện quyền bình đẳng giữa giới nam và giới nữ

trong định hướng đầu tư, trong tổ chức, phân công lao động gia đình và trong

việc sử dụng, hưởng thụ các sản phẩm sản xuất ra.

Tuy nhiên các khái niệm này đều chỉ mang tính tương đối vì năng lực

quản lý liên quan nhiều vấn đề như: Dân tộc, gia đình, văn hóa, giáo dục, xã

hội, điều kiện lao động, điều kiện sức khỏe...

Người phụ nữ dân tộc thiểu số tham gia phát triển kinh tế hộ gia đình

không những với tư cách là thành viên của gia đình, có trách nhiệm phải đóng

góp công sức tạo ra của cải nuôi sống gia đình và bản thân mà còn với tư cách

là người vợ, người mẹ, người chủ gia đình. Người phụ nữ vừa đóng vai trò

quan trọng trong sự định hướng sản xuất vừa là người trực tiếp thực hiện quy

trình lao động sản xuất đó. Hơn nữa, việc tái tạo ra sức lao động, duy trì nòi

giống lại là thiên chức bẩm sinh của người phụ nữ.

Có thể nói trong phát triển kinh tế hộ gia đình, người phụ nữ giữ một

vai trò đặc biệt không thể thiếu đối với các quy trình lao động sản xuất. Lao

động nữ có những thế mạnh mà lao động nam không thể có được: Đó là sự

cần mẫn, nhẫn nại, khéo léo và dẻo dai trong cuộc sống. Sức chịu đựng của

lao động nữ trong những điều kiện lao động khó khăn tỏ ra hơn hẳn nam giới.

Hơn nữa tính căn cơ, tiết kiệm và tính thực tế đã được thực tiễn chứng minh

là điểm nổi bật của lao động nữ. Nhưng việc phát huy vai trò đặc biệt đó để

nhân lên thành sức mạnh giúp người phụ nữ vượt qua được các mặc cảm tự

ty, hủ tục lạc hậu, vượt qua những vất vả, khó khăn mà họ phải gánh chịu để

21

làm chủ bản thân, làm chủ gia đình, chủ động trong định hướng đầu tư sản

xuất, trong chỉ tiêu, trong giáo dục con cái và trong quản lý gia đình lại là một

vấn đề hoàn toàn khác, phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan mà nếu để tự

chị em thì họ không thể thực hiện được.

Trong cuộc sống thực tế, tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã dần dần

được xóa bỏ ở mọi lĩnh vực từ gia đình đến xã hội, làm thay đổi các cơ sở

kinh tế, thay đổi các quan niệm về đạo đức, phong tục tập quán và đặc biệt là

làm thay đổi hẳn thân phận và địa vị của người phụ nữ. Hiện nay phụ nữ nước

ta nói chung và phụ nữ dân tộc thiểu số nói riêng đều đã được tham gia vào

hầu hết các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ và được nâng cao địa vị

trong gia đình. Tuy nhiên, ở nhiều khu vực nông thôn miền núi, ở nhiều vùng,

nhiều nơi, nhiều gia đình, vai trò của chị em trong quản lý kinh tế hộ gia đình

còn rất mờ nhạt, khiến chị em luôn mặc cảm tự ty, cam chịu trong cảnh nghèo

đói, phụ thuộc vào người chồng, người đàn ông trong gia đình.

Như vậy, dù được thừa nhận hay không được thừa nhận, thực tế trong

cuộc sống hàng ngày và những gì phụ nữ dân tộc thiểu số làm đã khẳng định

vai trò của họ trong gia đình, trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội,

trong bước tiến của nhân loại. Phụ nữ dân tộc thiểu số cũng phải thực hiện

nhiều vai trò, cho nên họ cần được nam giới chia sẻ, thông cảm cả về hành

động lẫn tinh thần, xã hội cũng cần có những chương trình trợ giúp để họ thực

hiện tốt hơn vai trò của mình.

1.5. Nội dung vai trò của phụ nữ dân tộc trong phát triển kinh tế hộ gia đình

1.5.1. Vai trò của phụ nữ trong quản lý và điều hành sản xuất

Phụ nữ có vai trò hết sức quan trọng đối với mọi hoạt động trong hộ gia

đình. Trong hoạt động kinh tế hộ gia đình thì việc quản lý và việc điều hành

sản xuất của hộ đóng vai trò quan trọng, quyết định việc phân công lao động

trong gia đình, phân công bán cho ai? Người xác định giá bán và bán ở đâu?

Bán như thế nào?... Trong hoạt động này người phụ nữ có vai trò quan trọng

22

trong việc quản lý kinh tế của hộ và điều hành việc sản xuất của gia đình.

Mặc dù người phụ nữ có vai trò quan trọng trong công việc gia đình và tham

gia quản lý sản xuất nhưng do phong tục tập quán, quan niệm và do nhận thức

của người dân nên việc ra quyết định cuối cùng trong gia đình chủ yếu là

người chồng. Vấn đề này phổ biến trong các hộ gia đình nông thôn, nhất là

vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

1.5.2. Vai trò của phụ nữ trong sản xuất tạo ra thu nhập cho gia đình

Có nhiều nghiên cứu về vai trò phụ nữ trong sản xuất ở nhiều cấp độ và

góc độ khác nhau, những nghiên cứu đó đều nhận định: Là lực lượng lao động

quá bán ở nông thôn, phụ nữ đóng vai trò đáng kể trong đời sống hoạt động

kinh tế hộ cũng như hoạt động áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Họ là

người tham gia trực tiếp vào các hoạt động nông nghiệp, từ khâu cày, bừa,

trồng, cấy, chăm sóc đến thu hoạch. Ngoài ra, họ còn tham gia vào việc lựa

chọn phương án làm ăn của hộ gia đình: Chọn cây gì, giống nào, phân bón gì,

nuôi con nào, tiêu thụ ở đâu…

Phụ nữ là người tham gia chính vào các khâu sản xuất nông nghiệp.

Khâu làm đất nữ làm 56%, nam làm 9,8%; Khâu chọn giống, nữ làm 68,6%,

nam làm 8,6%; khâu chăm sóc, cấy trồng, nữ làm 69,2%, nam làm 5,1%;

phun thuốc sâu nữ làm 63,6%, nam làm 13,6%. Trong thu hoạch bán sản

phẩm chủ yếu là do nữ đảm nhiệm (48,3% ở Cẩm An, 71,4% ở Hoà Phú và

49,1% ở Khánh Hoà lĩnh vực này do người vợ làm) [Chương trình nghiên cứu

Việt Nam - Hà Lan (2006)].

Những nghiên cứu khác còn cho thấy, ở mỗi vùng, mỗi miền và điều

kiện cụ thể từng nơi mà vai trò của phụ nữ trong sản xuất cũng thể hiện một

cách khác nhau trong các khâu công việc.

Ở nông thôn miền núi tỉnh Thái Nguyên, lực lượng lao động nữ chiếm từ

45% đến 74,6% tổng số lao động. Trong số lao động nữ có khoảng 21% là chủ

hộ và 51,2% được quyền tham gia quản lý gia đình. Điều đó chứng tỏ một số

23

chị em phụ nữ dân tộc ít người vùng này có khả năng quản lý kinh tế hộ tự

cung tự túc. Phụ nữ không chỉ chiếm tỷ trọng cao trong lực lượng lao động mà

còn được phân công thực hiện nhiều công việc trong trong hoạt động kinh tế hộ

gia đình (Họ làm 70% công việc gia đình, 70% công việc đồng áng). Do đó

năng suất và chất lượng lao động của họ có tính chất quyết định đối với hiệu

quả sản xuất, là nguồn lực cho phát triển kinh tế hộ gia đình [Lê Thi (1999)].

1.5.3. Vai trò của phụ nữ trong tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực phát triển

* Tiếp cận vốn

Phụ nữ hiện nay có thuận lợi hơn trước đây trong việc vay vốn tín dụng

vì có nhiều nguồn từ các tổ chức chính thống, phi chính thống. Là người tham

gia trực tiếp vào các hoạt động sản xuất kinh doanh (HĐSXKD) và cũng tham

gia vào các quyết định phát triển kinh tế của gia đình, do vậy phụ nữ đóng vai

trò quan trọng trong việc sử dụng vốn và tiết kiệm. Thông qua sự uỷ thác của

ngân hàng chính sách xã hội (NHCSXH), hội phụ nữ (HPN) các địa phương

đã thực hiện việc cho vay vốn tới các hội viên kết hợp với việc kiểm soát sử

dụng vốn và trả lãi.

* Tiếp cận với khoa học kỹ thuật

Sự tiếp cận khoa học kỹ thuật thông qua hệ thống khuyến nông Nhà

nước và khuyến nông tự nguyện hoặc các chương trình, dự án đối với phụ nữ

nông thôn là cần thiết nhưng gặp một số khó khăn. Ngoài công việc sản xuất

kinh doanh, phụ nữ còn phải làm công việc gia đình và tham gia vào các hoạt

động khác. Quỹ thời gian không cho phép họ tham gia các khoá tập huấn dài

ngày hoặc ở xa vì thiếu phương tiện đi lại.

Thường thì những kiến thức họ nhận được từ các khoá tập huấn có thể áp

dụng ngay vì họ trực tiếp tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh hay

nuôi dạy con cái trong khi nam giới đến các khoá tập huấn thường không chú ý

nghe hay tham gia bởi họ nghĩ là họ biết hết. Sau đó họ lại không truyền đạt

những gì họ học được cho vợ, con. Những người phụ nữ có trình độ học vấn cao,

có khả năng tiếp thu và áp dụng tiến bộ kỹ thuật tốt hơn. Tuy nhiên trình độ của

phụ nữ nông thôn thấp khiến việc tiếp cận khoa học kỹ thuật của họ bị hạn chế.

24

* Tiếp cận thông tin

Vì quá bận bịu với công việc nên việc tiếp cận với các nguồn thông tin

của phụ nữ nông thôn còn khó khăn, chủ yếu thông qua các phương tiện

thông tin đại chúng, hội họp, ở chợ, những dịp gặp nhau hoặc vào thời gian

cùng làm chung. Điều kiện kinh tế của gia đình và trình độ học vấn của phụ

nữ quyết định đến cơ hội tiếp cận thông tin, xử lý, chọn lọc thông tin của họ.

1.5.4. Vai trò của phụ nữ trong việc ra quyết định

Phụ nữ thường cùng chồng bàn bạc để ra quyết định về phát triển kinh

tế, mua sắm, chi tiêu trong gia đình, quyết định từ việc sinh con và học hành,

nghề nghiệp của con cái. Tuy nhiên thường người chồng đóng vai trò quyết

định cao hơn người vợ, đặc biệt là quyết định trong các vấn đề xã hội, vì ý

kiến của phụ nữ ít quan trọng hơn nam giới [Nguyễn Linh Khiếu (2001)].

1.5.5. Vai trò trong tham gia công tác xã hội

Những năm gần đây phụ nữ dân tộc tích cực tham gia các tổ chức đảng,

chính quyền, đoàn thể địa phương. Trên thực tế chúng ta có thể thấy được phụ

nữ dân tộc tham gia vào các hoạt động xã hội ít hơn nam giới do phong tục

tập quán “Trọng nam khinh nữ” của đồng bào dân tộc. Phụ nữ có nhiều quan

điểm khác với nam giới trong các vấn đề khác nhau. Thúc đẩy sự tham gia

của phụ nữ dân tộc thiểu số vào các vị lãnh trí đạo và quá trình hoạch định

chính sách sẽ giúp thể hiện nhiều quan điểm và cách nhìn nhận vấn đề khác

nhau khi ra quyết định, khi đó các quyết định và chính sách cũng mang tính

toàn diện hơn và phù hợp hơn, đặc biệt là với những chính sách có ảnh hưởng

tới phụ nữ dân tộc thiểu số.

1.5.6. Vai trò của phụ nữ trong gia đình

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, phụ nữ là người làm chính trong các

công việc tái sản xuất của các hộ gia đình (như: Công việc nội trợ, chăm sóc

con cái, dạy dỗ và hướng dẫn con cái học tập, chăm sóc người già, người ốm

trong gia đình. Phụ nữ thường phải thức khuya, dậy sớm chuẩn bị công việc

nội trợ từ 6-8 giờ trong ngày.

Trong mô ̣t nghiên cứ u về “Nâng cao vai trò củ a phu ̣ nữ dân tô ̣c thiểu số vào phát triển kinh tế, văn hó a, xã hô ̣i và gia đình ở cac xã ĐBKK củ a

25

tỉnh Lâm Đồ ng, đã tiến hành khảo sát 420 ngườ i dân tô ̣c thiểu số (cả nam và nữ), trong đô ̣ tuổ i từ 15 đến 60, thuô ̣c các dân tô ̣c K’ho, Chu Ru, Ma ̣, Tày, Nù ng đang cư trú ta ̣i 06 thôn ĐBKK củ a tỉnh Lâm Đồ ng là thôn Ma Bó , xã Đa ̣ Quyn; thôn Tà Sơn, xã Tà Năng (huyê ̣n Đứ c Tro ̣ng); thôn 2 và thôn 3, xã Lô ̣c Tân (huyê ̣n Bảo Lâm); thôn 1, xã Đưng K’nớ h và thôn Păng Tiêng, xã Lát (huyê ̣n La ̣c Dương). Có đến 263 ngườ i đươ ̣c hỏ i (chiếm 62%) cho rằ ng phu ̣ nữ DTTS có vai trò rất quan tro ̣ng trong tham gia vào phát triển kinh tế, xã hô ̣i ở gia đình và cô ̣ng đồ ng. Biểu hiê ̣n ở mô ̣t số những hoa ̣t đô ̣ng như tham gia lao đô ̣ng sản xuất, nuôi da ̣y chăm só c con cái, làm những công viê ̣c trong gia đình.

Bảng 1.1: Công viê ̣c phu ̣ nữ DTTS đả m nhâ ̣n trong gia đình

(Nguồn: Nguyễn Thị Bích Thu năm 2016)

Kết quả khảo sát cho thấy, phụ nữ DTTS ở các đi ̣a bàn khảo sát chi ̣u trách nhiệm chính trong nuôi da ̣y con cái và làm những công viê ̣c trong gia đình không được tính công, trả lương; đồ ng thờ i cũng tham gia nhiều vào các hoa ̣t đô ̣ng lao đô ̣ng sản xuất của gia đình. Những hoa ̣t động cô ̣ng đồ ng khác như tham gia hội họp, sinh hoa ̣t cô ̣ng đồng, giao tiếp ngoài cô ̣ng đồ ng hầu phu ̣ nữ DTTS rất ít tham gia. [Nguyễn Thị Bích Thu (2016)].

Nam giới hầu như không làm nội trợ tuy nhiên sự phân công lao động

giữa vợ và chồng còn phụ thuộc vào công việc và thành phần nghề nghiệp của

gia đình. Trong đó gia đình trí thức có tỷ lệ nữ thực hiện công việc nội trợ

thấp nhất là 42%, gia đình công nhân 60%, gia đình nông dân 87%. Còn tỷ lệ

nam tương ứng là 5%, 2,7% và 2,9%. Có thể giải thích rằng gia đình có trình

26

độ học vấn thì cơ hội bình đẳng trong phân công lao động giữa vợ và chồng

lớn hơn. Tuy nhiên, quan niệm phong kiến coi công việc nội trợ là của người

phụ nữ còn khá nặng nề trong nhóm gia đình, ngay cả trong những trường

hợp cả vợ và chồng cùng tham gia vào công việc này thì gánh nặng công việc

vẫn đặt lên vai người phụ nữ. Phỏng vấn các cặp vợ chồng thấy ngay cả trong

gia đình bình đẳng thì người vợ vẫn đóng vai trò thực hiện, còn người chồng

thì giúp hoặc chỉ đạo [Chương trình nghiên cứu Việt Nam - Hà Lan (2006)].

Theo kết quả nghiên cứu của Lê Thị Nhâm Tuyết (năm 2008), phụ nữ

nông thôn phải làm việc 8-16h/ngày gồm cả công việc nội trợ gia đình và

chăm sóc con cái, họ không có thời gian đọc báo, nghe đài, xem văn nghệ

trong khi nam giới chỉ làm 7h/ngày. Phụ nữ thành thị có điều kiện hơn do có

những dịch vụ và trang thiết bị gia đình tốt hơn nhưng thời gian dành cho

công việc gia đình vẫn gấp 1,5 lần so với nam giới [Nguyễn Thị Lân (2006)].

* Các chỉ tiêu đánh giá vai trò của phụ nữ dân tộc trong phát triển kinh

tế hộ gia đình

a. Dựa vào mức độ tham gia của phụ nữ trong các HĐSXKD: mức độ

tham gia của phụ nữ trong hoạt động sản xuất kinh doanh càng nhiều thì vai trò

của họ trong phát triển kinh tế hộ gia đình và xóa đói giảm nghèo càng cao.

b. Dựa vào thu nhập do phụ nữ tạo ra so với nam giới: nếu chỉ dựa vào

mức độ tham gia của phụ nữ vào các HĐSXKD thì cũng chưa đủ để đánh giá

vai trò của họ trong phát triển kinh tế hộ gia đình bởi tính chất công việc khác

nhau tạo ra mức thu nhập khác nhau. Do đó cần dựa vào chỉ tiêu thu nhập

bình quân của phụ nữ so với nam giới. Phần trăm thu nhập do phụ nữ tạo ra

càng lớn thì vai trò của họ càng được khẳng định trong gia đình họ. Họ không

chỉ chăm sóc con cái, chăm lo nhà cửa mà còn mang lại thu nhập cho gia

đình. Ngày nay người phụ nữ có quyền tham gia vào các quyết định của gia

đình, các công việc kinh doanh buôn bán. Mặt khác phần trăm phụ nữ tham

gia các hoạt động sản xuất và gia đình thể hiện vai trò của họ trong việc nâng

cao mức sống gia đình và của toàn xã hội.

27

1.6. Các hoạt động nhằm nâng cao vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số

trong phát triển kinh tế hộ gia đình tại Việt Nam

Theo thống kê 2011, lao động nữ ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số

chiếm 58,02% lực lượng lao động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp; sản

xuất hơn 60% sản phẩm nông nghiệp. Như vậy, phụ nữ dân tộc là một trong

hai chủ thể kinh tế quan trọng mang lại thu nhập cho các hộ gia đình, và đang

có vai trò, vị trí đặc biệt trong đời sống kinh tế - xã hội ở các vùng đồng bào

dân tộc. Hiện nay, biến đổi của lao động nữ dân tộc thiểu số đang diễn ra theo

ba xu hướng cơ bản: nâng cao chất lượng lao động nữ dân tộc thiểu số đáp

ứng nhu cầu lao động của thời kỳ mới;từng bước chuyển dần từ lao động

nông nghiệp sang lao động công nghiệp, thương mại và dịch vụ; và, chủ động,

tích cực tham gia thị trường lao động quốc tế trong và ngoài nước.

Thời gian qua, Chính phủ đã có nhiều chính sách nâng cao chất lượng,

hiệu quả của lao động dân tộc thiểu số nói chung và lao động nữ dân tộc thiểu

số nói riêng.

Đề án “Đào tạo nghề cho lao đô ̣ng nông thôn đến năm 2020” và Đề án

“Hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm giai đoạn 2010 - 2015” đã được Thủ

tướng Chính phủ phê duyệt nhằm tạo điều kiện tốt hơn cho lao động nông

thôn nói chung và lao động nữ nói riêng nâng cao kỹ năng nghề nghiệp và

tiếp cận tốt hơn tới việc làm có thu nhập ổn định, giúp xóa đói, giảm nghèo và

nâng cao vị thế. Ngoài chính sách dạy nghề, Nghị quyết 26-NQ/TW cũng

nhấn mạnh mục tiêu tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp và

kinh tế nông thôn, qua đó các chương trình chuyển giao khoa học kỹ thuật

nông nghiệp đã được triển khai rộng khắp.

Trong lĩnh vực tín dụng, hệ thống các Ngân hàng nhà nước (Ngân

hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Chính

sách xã hội Việt Nam…) đã và đang thực hiện nhiều chương trình tín dụng

phát triển kinh tế khu vực nông thôn (Nghị định 41/2010/NĐ-CP, Nghị

định 78/2002/NĐ-CP).

28

Về khía cạnh giới trong phát triển kinh tế, Chiến lược quốc gia về bình

đẳng giới giai đoạn 2010 - 2020 đưa ra mục tiêu “Không ngừng nâng cao

năng lực nhằm bảo đảm sự tham gia ra quyết định của phụ nữ trong các hoạt

động phát triển kinh tế…”.

Như vậy, có thể nói đã có khá đầy đủ chính sách; tuy nhiên, cần có các

cơ chế cụ thể hơn để giúp nữ lao động dân tộc thiểu số tiếp cận được với

những công việc có hàm lượng tri thức, chất xám, công nghệ giúp mang lại

thu nhập cao cho cá nhân và giá trị gia tăng cao cho xã hội, cụ thể:

1.6.1. Xây dựng các phong trào phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế, xóa

đói giảm nghèo

Tiếp tục duy trì và đẩy mạnh phong trào “Phụ nữ giúp nhau phát triển

kinh tế gia đình” để thực hiện xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập; đồng thời

phát động phong trào “Phụ nữ làm kinh tế giỏi” để động viên, khuyến khích

phụ nữ vươn lên làm giàu chính đáng.

Triển khai đồng bộ 2 phong trào nhằm phù hợp với đối tượng và

điều kiện thực tế của địa phương, Đồng thời cần chỉ đạo, triển khai thực

hiện 2 phong trào này trong mối liên quan mật thiết với nhau để phát huy

hiệu quả của từng phong trào: “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia

đình” để cùng nhau xóa đói giảm nghèo, xây dựng gia đình no ấm và cuộc

sống đạt chất lượng tốt hơn. “Phụ nữ làm kinh tế giỏi” ngoài nội dung cơ

bản là khuyến khích bản thân phụ nữ tích cực, thi đua làm ăn giỏi, làm

giàu chính đáng còn khuyến khích phụ nữ làm ăn giỏi, nữ doanh nghiệp

thành đạt giúp đỡ, làm đầu tàu lôi kéo phụ nữ khác hoặc tạo việc làm cho

phụ nữ nghèo, phụ nữ dân tộc thiểu số.

1.6.2. Tăng cường các biện pháp giúp đỡ phụ nữ đói nghèo

Hàng năm thống kê, phân loại hộ đói, nghèo có phụ nữ dân tộc thiểu số

làm chủ hộ để có kế hoạch giúp đỡ cụ thể. Trong kế hoạch chỉ đạo xóa đói

giảm nghèo cần xác định cụ thể địa chỉ giúp đỡ, mục tiêu cần đạt, biện pháp

hỗ trợ phù hợp với từng hộ.

29

Trên cơ sở đó, xây dựng và chỉ đạo điểm mô hình xóa đói giảm

nghèo, xây dựng gia đình no ấm theo phương châm: hỗ trợ vốn, kiến thức

cho phụ nữ dân tộc thiểu số nghèo và nâng cao năng lực cán bộ Hội cơ sở

trong thực hiện xóa đói giảm nghèo.

Tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm mô hình xóa đói giảm nghèo có địa

chỉ; biểu dương điển hình phụ nữ làm kinh tế giỏi, xây dựng gia đình no ấm.

1.6.3. Tập trung huấn luyện cán bộ Hội về kiến thức và kỹ năng cần thiết

để hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế

Các cấp Hội tiến hành thống kê, đánh giá tình hình huấn luyện nghiệp

vụ, chương trình của cán bộ Hội các cấp để xây dựng kế hoạch huấn luyện

hàng năm, đảm bảo 100% cán bộ Hội chủ chốt các cấp quản lý chương trình

chưa qua đào tạo được huấn luyện

Các chương đào tạo và tổ chức tập huấn nâng cao kỹ năng và kiến thức

cho phụ nữ dân tộc thiểu số để nâng cao vai trò của họ đối với hộ gia đình nới

chung và với phát triển kinh tế nói riêng bao gồm một số các nội dung cần

thiết sau: quản lý tiết kiệm tín dụng, quản lý doanh nghiệp nhỏ cho cán bộ

Hội, tập huấn kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt,…. Phát huy kết quả huấn luyện,

đội ngũ cán bộ cần tranh thủ các nguồn lực và phát huy nội lực để tổ chức tập

huấn cho cán bộ cơ sở.

1.6.4. Khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn

Hỗ trợ vốn tạo việc làm gắn với khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế

theo hướng phát triển ngành nghề, trang trại, doanh nghiệp nhỏ và hướng dẫn cách

làm ăn. Hướng tới các hoạt động hỗ trợ vốn phải dựa trên cơ sở hiệu quả kinh tế.

Bên cạnh việc ưu tiên hỗ trợ vốn cho phụ nữ nghèo thực hiện xóa đói

giảm nghèo, cần quan tâm hỗ trợ vốn cho phụ nữ không có hoặc thiếu việc

làm có nhu cầu tự tạo việc làm; các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ thu hút

lao động nữ; phụ nữ chưa có việc làm do trung tâm dịch vụ việc làm của Hội

giới thiệu; các doanh nghiệp nhỏ do nữ làm chủ và thu hút lao động nữ.

30

Tăng cường phối hợp với Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Nông nghiệp,

Chương trình Quốc gia giải quyết việc làm trên cơ sở Nghị quyết liên tịch đã

được ký kết và chương trình phối hợp hàng năm. Tiếp tục vận động phụ nữ tham

gia nhóm phụ nữ tiết kiệm tín dụng nhằm tạo nguồn vốn tại chỗ trong chị em.

Tranh thủ các dự án quốc tế để tăng nguồn vốn cho phụ nữ, xây dựng mô

hình và đào tạo nâng cao năng lực quản lý chương trình cho Hội phụ nữ các cấp.

1.6.5. Đẩy mạnh các hoạt động chuyển giao khoa học kỹ thuật cho phụ nữ

Tăng cường phối hợp với các ngành và các hội nghề nghiệp, đặc biệt

phối hợp với ngành Nông nghiệp và phát triển nông thôn trên cơ sở chương

trình liên tịch để tổ chức các hoạt động tập huấn, hướng dẫn cách làm ăn,

chuyển giao khoa học kỹ thuật - công nghệ, trình diễn mô hình cho phụ nữ

nhằm mục đích vận động phụ nữ chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát triển các loại

hình cây con có giá trị kinh tế, mở rộng hoạt động dịch vụ chế biến.

Lồng ghép tín dụng và chuyển giao khoa học kỹ thuật. Vận động và

hướng dẫn phụ nữ nghèo, phụ nữ dân tộc mạnh dạn chuyển đổi phong tục,

thói quen canh tác, chăn nuôi lạc hậu; đầu tư cây con có năng suất cao và có

giá trị hàng hóa; ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất.

Huấn luyện và xây dựng mạng lưới nữ khuyến nông viên. Khuyến

khích phụ nữ làm kinh tế giỏi phổ biến, hướng dẫn kỹ thuật, cách làm ăn cho

phụ nữ khác, nhất là phụ nữ nghèo.

Phát triển mô hình Câu lạc bộ phụ nữ khuyến nông. Tổ chức Hội thi Phụ

nữ với khuyến nông ở các cấp [Giáo trình nghiệp vụ công tác hội phụ nữ (2004)].

1.7. Các yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong

phát triển kinh tế hộ gia đình tại Việt Nam

- Phong tục tập quán, văn hóa: Quan niệm về giới, những phong tục,

tập quán trong xã hội là những yếu tố ảnh hưởng nhiều đến vai trò của phụ nữ

dân tộc H’mông trong việc phát triển kinh tế hộ gia đình. Phụ nữ dân tộc

H’mông trước hết phải lo việc gia đình, con cái. Dù làm bất kỳ công việc gì

31

thì việc nội trợ vẫn là thuộc trách nhiệm vụ người phụ nữ, đây là quan niệm

ngự trị ở nước ta từ nhiều năm nay. Sự tồn tại của những hủ tục lạc hậu, trọng

nam khinh nữ đã kìm hãm tài năng sáng tạo của chị em, hạn chế sự cống hiến

của họ cho xã hội và cho gia đình. Họ không thể đi xa, vắng nhà lâu ngày hay

phó mặc việc nhà cho chồng hay cho gia đình được. Gánh nặng mang thai,

sinh đẻ, nuôi dưỡng con nhỏ và nội trợ gia đình đè nặng lên đôi vai người phụ

nữ. Đây là trở ngại lớn làm cho họ không thể tập trung sức lực, thời gian và trí

tuệ vào sản xuất kinh doanh và các hoạt động xã hội. Chính sự tồn tại của

những quan niệm, hủ tục trên đã khiến nhiều chị em trở nên không mạnh dạn

trong việc làm ăn, không năng động sáng tạo bằng nam giới và họ gặp nhiều

khó khăn trong giao tiếp xã hội. Như vậy, quan niệm về giới, sự bất bình đẳng nam nữ và phong tục tập quán đã là một nguyên nhân cơ bản cản trở sự tiến

bộ và vai trò của lao động nữ trong việc phát triển kinh tế - xã hội.

Yếu tố không thể nhắc đến có ảnh hưởng tới vai trò của phụ nữ dân tộc

H’mông chính là nguyên nhân chủ quan do chính họ tạo ra. Phụ nữ dân tộc

H’mông thường cho rằng, những công việc nội trợ, chăm sóc gia đình, con

cái… là việc của họ. Họ cũng tỏ ra không hài lòng về người đàn ông thạo việc

nội trợ. Vì lẽ đó , họ đã vô tình ràng buộc thêm trách nhiệm cho mình. Vậy

nên, toàn bộ công việc gia đình và sản xuất càng đè nặng lên người phụ nữ

khiến họ càng mệt mỏi, làm họ tự đánh mất dần vai trò của mình trong gia

đình cũng như trong xã hội.

- Trình độ học vấn, chuyên môn: Trình độ học vấn, chuyên môn, khoa

học kỹ thuật của phụ nữ dân tộc H’mông còn nhiều hạn chế: Đồng bào

H’mông thường sống tập trung ở vùng núi cao, nơi mà phương tiện thông tin

nghe nhìn và sách báo đến với người dân còn rất nhiều hạn chế, do vậy việc

phụ nữ dân tộc H’mông tiếp cận và nắm bắt các thông tin khoa học liên quan

đến kiến thức, phát triển sản xuất, chăn nuôi và trồng trọt gặp nhiều khó khăn.

Ngoài thời gian sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi thì người phụ nữ dường như

32

có rất ít thời gian dành cho nghỉ ngơi hoặc hưởng thụ văn hoá tinh thần, học

hỏi nâng cao hiểu biết kiến thức xã hội mà phần lớn họ dành thời gian còn lại

cho các công việc của gia đình. Phụ nữ dân tộc H’mông bị hạn chế về kỹ

thuật, chuyên môn và sự hiểu biết nên gặp không ít khó khăn trong việc nắm

bắt thông tin pháp luật, tìm nguồn vốn, tìm kiếm thị trường, khó khăn trong

việc tiếp cận và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mới, các phương tiện hiện

đại vào sản xuất và đời sống. Do vậy, hiệu quả công việc và năng suất lao

động của họ luôn thấp hơn so với nam giới.

- Yếu tố về sức khoẻ: Sự hạn chế về sức khoẻ do đặc thù của nữ giới và

thời gian làm việc cũng ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của

họ. Đặc biệt với phụ nữ dân tộc H’mông vừa phải lao động nặng, vừa phải

thực hiện thiên chức của mình là mang thai, sinh đẻ, cùng với điều kiện sinh

hoạt thấp kém đã làm cho sức khoẻ của họ bị giảm sút. Điều này không

những ảnh hưởng đến khả năng lao động mà còn làm cho vai trò của phụ nữ

trong gia đình cũng như trong việc phát triển kinh tế gia đình trở nên thấp

kém hơn.

- Khả năng tiếp nhận thông tin của phụ nữ dân tộc H’mông: Thiếu

thông tin không chỉ làm phụ nữ dân tộc H’mông gặp nhiều khó khăn trong

việc sản xuất kinh doanh mà còn làm cho phụ nữ bị hạn chế cả về tầm nhận

thức và hiểu biết xã hội. Phụ nữ phải đảm nhận một khối lượng công việc lớn

trong mỗi ngày và chiếm gần hết thời gian của họ. Do vậy cơ hội để phụ nữ

giao tiếp rộng rãi, tham gia hội họp để nắm bắt thông tin cũng rất hiếm. Theo

báo cáo của Chính phủ thì 80% lươ ̣ng báo chí phát hành đươ ̣c tập trung ở

thành thị, có nghĩa là 80% dân số nông thôn ở nước chỉ tiếp cận được với

20% lượng báo chí phát hành. Đây cũng chỉ là con số lý thuyết, trên thực tế

có nhiều vùng nông thôn xa xôi hẻo lánh người dân còn chưa hề đươ ̣c tiếp

xúc với báo chí và các hình thứ c chuyển tải thông tin khác.

33

- Các chương trình chính sách hỗ trỡ của nhà nước và địa phương: Trong

những năm qua, hiệu quả của các chương trình 135 và 134 đã được thể hiện

thông qua: hỗ trỡ vốn, ổn định sản xuất của người dân, khắc phục hiện tượng

du canh, du cư, người dân chuyển hướng thâm canh, hỗ trợ khoa học kỹ thuật

mới vào sản xuất, thu nhập của hộ gia đình được nâng cao, chất lượng cuộc sống

của các hộ dân tộc thiểu số được nâng cao dần.

Phụ nữ dân tộc nói chung và phụ nữ dân tộc H’mông được nâng cao trình

độ chuyên môn, sức khỏe, khả năng tiếp cận thông tin,… sẽ là nhân tố quan

trọng góp phần nâng cao vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong gia đình cũng

như thu nhập cho hộ.

Qua các yếu tố bao gồm cả khách quan lẫn chủ quan đã tác động không

tốt khiến cho phụ nữ dân tộc H’mông bị lâm vào vòng luẩn quẩn của sự

nghèo đói và bất bình đẳng. Vì thế cần phải tiến tới quyền bình đẳng đối với

phụ nữ dân tộc H’mông. Bình đẳng nam nữ nhằm giải phóng sức lao động xã

hội, xây dựng và củng cố thêm nền văn minh nhân loại.

1.8. Bài học kinh nghiệm rút ra trong việc nâng cao vai trò của phụ nữ

dân tộc H’mông trong phát triển kinh tế hộ gia đình tại tỉnh Thái Nguyên

1.8.1. Một số điển hình về vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong phát

triển kinh tế hộ gia đình ở Việt Nam

Nông nghiệp là sinh kế chính của đồng bào dân tộc H’mông, do đó phát

triển nông nghiệp vẫn là con đường thoát nghèo chủ đạo ở các cộng đồng

người H’mông.

1.8.1.1. Kinh nghiệm tại huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên

Nậm Pồ là một huyện miền núi, biên giới, nằm về phía Tây Bắc của

tỉnh Điện Biên. Huyện có 8 thành phần dân tộc, trong đó chủ yếu là người dân

tộc H’mông (chiếm tỷ lệ 69,18%). Để giúp cho phụ nữ các dân tộc của huyện

nói chung cũng như phụ nữ dân tộc H’mông nói riêng phát triển kinh tế hộ gia

đình, Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Nậm Pồ đã có nhiều giải pháp để nâng cao

vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế.

34

Hiện nay, Hội LHPN huyện Nậm Pồ có 5.863 hội viên, sinh hoạt ở 15

cơ sở hội; hội viên chủ yếu lao động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp.

Những năm qua, để giúp hội viên tìm được hướng đi đúng trong phát triển

kinh tế, Hội đã triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, đẩy mạnh thực hiện phong

trào “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế” tạo sự chuyển biến tích cực trong

nhận thức của hội viên. Để thúc đẩy phong trào, Hội LHPN tuyên truyền,

khuyến khích hội viên phát triển kinh tế gia đình bằng nhiều hình thức, như:

Mở rộng các loại hình sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát

triển kinh tế trang trại tổng hợp, chăn nuôi tập trung, tận dụng và khai thác

tiềm năng thế mạnh của địa phương...

Hội LHPN huyện Nậm Pồ đã xây dựng kế hoạch, tổ chức cho các cơ sở

Hội ký kết thực hiện giao ước thi đua; thường xuyên vận động gia đình hội

viên, phụ nữ duy trì thực hiện tốt các phong trào, như: “Phụ nữ giúp nhau

phát triển kinh tế”; “Phụ nữ làm kinh tế giỏi” gắn với thực hiện phong trào

“Mỗi hội viên nông thôn có một vườn rau sạch và nuôi từ 5 con gia cầm trở

lên”; tích cực tăng gia sản xuất, xóa đói giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu kinh

tế, bảo vệ môi trường… Các phong trào đã thu hút 4.116 lượt hội viên tham

gia. Đồng thời, thực hiện hiệu quả việc giúp đỡ hội viên có hoàn cảnh khó

khăn về ngày công lao động, cho hội viên vay không lãi suất trên 88 triệu

đồng; hỗ trợ giống lợn, gà, vịt và ngô, thóc giống cho gần 200 gia đình hội

viên. Ngoài ra, Hội tích cực khai thác, tạo điều kiện thuận lợi cho hội viên,

phụ nữ tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội huyện

để phát triển kinh tế. Đến nay, Hội đang quản lý 42 tổ, 1.462 hội viên, phụ nữ

vay vốn với tổng dư nợ trên 40 tỷ đồng.

Bên cạnh việc hỗ trợ nguồn vốn vay ưu đãi, Hội LHPN huyện Nậm Pồ

thường xuyên quan tâm, giúp đỡ các hội viên bằng nhiều hình thức, như: Phối

hợp với các đơn vị mở lớp tập huấn dạy nghề và nâng cao tay nghề cho hội

viên; tổ chức các lớp tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật, trồng và chăm

35

sóc rau an toàn, kỹ thuật sản xuất, chăn nuôi, để duy trì và phát triển các mô

hình kinh tế trang trại, gia trại; xây dựng và duy trì tổ tiết kiệm tạo ra nguồn

vốn cho chị em vay không tính lãi để đầu tư sản xuất, nâng cao thu nhập;

tuyên truyền đến các hội viên thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia về

xây dựng nông thôn mới, gắn với cuộc vận động “5 không, 3 sạch”… Từ đó,

giúp chị em khẳng định vai trò làm chủ kinh tế gia đình, nhiều chị em sau khi

được tuyên truyền, học tập không còn tự ti, mặc cảm, mạnh dạn đứng ra vay

vốn đầu tư sản xuất, chăn nuôi, phát triển kinh tế gia đình. Nhờ vậy, số hộ

nghèo, đặc biệt số hộ nghèo do phụ nữ làm chủ đã giảm qua các năm.

Có thể nói, những việc làm thiết thực, cụ thể, phát huy vai trò của chị em

phụ nữ trong phát triển kinh tế - xã hội của Hội LHPN huyện Nậm Pồ đã góp

phần khẳng định vị thế của phụ nữ... Từ đó, phát huy tinh thần, khả năng sáng

tạo và những cách làm hay của mỗi hội viên trong sản xuất, kinh doanh giỏi,

tạo tiền đề vững chắc trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo và tiến trình xây

dựng nông thôn mới [Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Nậm Pồ, Điện Biên (2016)].

1.8.1.2. Kinh nghiệm tại huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái

Huyện Mù Cang Chải nằm ở phía Tây tỉnh Yên Bái, tổng số dân huyện

Mù Cang Chải là 48.656 người, trong đó 90% là dân tộc H’mông còn lại là

dân tộc Thái, Kinh và các dân tộc khác. Những năm qua, Hội LHPN huyện

Mù Cang Chải đã làm tốt các phong trào nhiệm vụ của Hội, góp phần giúp chị

em phụ nữ vùng cao được tiếp cận với các nguồn vốn, chính sách ưu đãi,

khoa học kỹ thuật hiện đại áp dụng trong trồng trọt chăn nuôi, có điều kiện

phát triển kinh tế xóa đói giảm nghèo.

Để giúp chị em phụ nữ đẩy mạnh phát triển kinh tế hộ gia đình, Hội

LHPN huyện đã chủ động phối hợp với các ngành chức năng vận động hội viên

phụ nữ gieo cấy, chăm sóc tốt diện tích lúa, ngô và thu hoạch vụ đông xuân và

cấy lúa mùa; vận động chị em tích cực trồng bảo vệ rừng, tham gia phòng cháy

chữa cháy rừng tại địa phương trong mùa khô, bảo vệ giữ gìn môi trường xanh,

36

sạch, đẹp nơi công cộng, nơi công sở và tại gia đình; xây dựng kế hoạch và

triển khai giám sát hoạt động vốn vay tại 6 xã: Hồ Bốn, Khao Mang, Nậm

Khắt, Chế Cu Nha, Cao Phạ, Nậm Có; chỉ đạo 14/14 xã, thị trấn giám sát hoạt

động vốn vay ở các tổ; chỉ đạo Hội phụ nữ các xã, thị trấn triển khai, hướng

dẫn cho các gia đình hội viên phụ nữ tham gia thực hiện Dự án “Giúp các hộ

khó khăn về kinh tế của tỉnh Yên Bái tăng thu nhập thông qua áp dụng phân

viên nén dúi sâu trong thâm canh cây lúa...”; vận động hội viên phụ nữ giúp

nhau đổi công, giúp hội viên làm nhà ở, tham gia làm đường giao thông v.v...

Đến nay, Hội Phụ nữ Mù Cang Chải đã có 33 chị có việc làm thường

xuyên với thu nhập từ 500.000 đến 1 triệu đồng/ tháng tại cơ sở sản xuất thêu dệt

thổ cẩm xã Chế Cu Nha; tổ chức 4 lớp tập huấn TOT (phân viên nén dúi sâu)

cho 62 cộng tác viên cấp thôn, 9 lớp tập huấn hỗ trợ giám sát kỹ thuật áp dụng

phân viên; ngoài ra còn giúp cây, con giống...; xây dựng và tiếp tục phát triển 3

mô hình phát triển kinh tế đến năm 2018 ở 3 bản: Trống Tông, xã La Pán Tẩn

với phong trào “5 không, 3 sạch”, bản Đề Sủa, xã Lao Chải áp dụng phân viên

nén dúi sâu, bản Háng Bla Ha B, xã Khao Mang thâm canh tăng vụ lúa xuân.

Hội chủ động phối hợp với các ngành chuyên môn mở 198 lớ p tâ ̣p huấn chuyển giao khoa học kỹ thuâ ̣t, đào tạo nghề ngắn hạn như thêu, dệt thổ cẩm, may dân dụng, chế biến nông sản cho trên 6.000 lươ ̣t hô ̣i viên; tổ chứ c hàng trăm buổi tuyên truyền, hướng dẫn về kỹ năng số ng và tổ chứ c cuô ̣c số ng gia đình, sinh đẻ có kế hoạch cho hàng chục nghìn lượt chị em; tổ chứ c xó a mù chữ cho trên 1.500 lươ ̣t hô ̣i viên. Đồng thời phát động các phong trào thi đua lao động sáng tạo gắn vớ i “Phu ̣ nữ làm kinh tế giỏ i” và ta ̣o mo ̣i điều kiê ̣n hỗ trơ ̣ hội viên vươn lên trong phát triển kinh tế gia đình.

Hội cũng đã phối hợp với Ngân hàng Chính sách xã hội huyện nhận ủy

thác trên 45 tỷ đồ ng cho 1.707 gia đình hô ̣i viên vay vố n phát triển kinh tế; vận động hội viên đóng góp vật liệu và 2.956 công lao động xóa nhà dột nát

cho 13 gia đình hội viên nghèo với tổng số tiền 130 triệu đồng [Hội Liên hiệp

Phụ nữ huyện Mù Cang Chải, Yên Bái (2016)].

37

1.8.1.3. Kinh nghiệm tại huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang

Mèo Vạc là một huyện vùng cao của tỉnh Hà Giang, thuộc quần thể

Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn, địa đầu phía Bắc của

Tổ quốc. Toàn huyện có 18 xã, thị trấn, 199 thôn bản, tổ dân phố với 14.627

hộ, 77.023 người, 17 dân tộc, trong đó dân tộc H’mông chiếm trên 78%. Cư

dân ở đây sống rải rác trên các sườn núi hoặc các thung lũng, quần tụ theo dân

tộc, dòng họ.

Hội LHPN huyện Mèo Vạc đã không ngừng đổi mới nội dung, phương

thức hoạt động, phù hợp với nhiệm vụ chính trị của địa phương, đáp ứng nhu

cầu, nguyện vọng thiết thực của hội viên phụ nữ. Nhiều hoạt động của Hội

phụ nữ được đánh giá cao, nhất là trong lĩnh vực sản xuất, phát triển kinh tế

gia đình, chương trình giảm nghèo.

Trong 5 năm qua (2011-2016), Hội LHPN huyện luôn quan tâm quán

triệt nâng cao nhận thức cho cán bộ hội viên, phụ nữ. Thực hiện hiệu quả việc

giảm nghèo bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống, phong trào “Phụ nữ

giúp nhau phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững”. Phối hợp với các đoàn thể

tổ chức mở 272 lớp tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật về sản xuất chăn

nuôi. Tín chấp các nguồn vốn vay phát triển kinh tế trên 52 tỷ đồng. Vận động

hội viên tham gia các hình thức tiết kiệm với 293 chi tổ hội, số tiền tiết kiệm

trên 3,3 tỷ đồng. Hình thành phát triển 22 mô hình phát triển kinh tế với 381

hội viên tham gia. Ra quân thực hiện phong trào nhà sạch vườn đẹp, chỉnh

trang khuân viên gia đình và ngày thứ 7 nông thôn mới. Đến nay có 2.689 gia

đình đạt tiêu chuẩn, đóng góp 3.178 ngày công lao động làm đường nông thôn,

trên 3.500 hộ di dời chuồng trại ra xa nhà. Phong trào đền ơn đáp nghĩa, nhân

đạo từ thiện được các tầng lớp phụ nữ hưởng ứng. Hỗ trợ sửa chữa xây dựng

“Mái ấm tình thương”, tặng học bổng cho học sinh nghèo... Góp phần nâng cao

chất lượng cuộc sống của các hội viên, giúp phát triển kinh tế và giảm nghèo

bền vững [Hội Liên hiệp phụ nữ huyện Mèo Vạc, Hà Giang (2016)].

38

1.8.2. Bài học kinh nghiệm rút ra trong việc nâng cao vai trò của phụ nữ

dân tộc H’mông trong phát triển kinh tế hộ gia đình tại tỉnh Thái Nguyên

- Trong hoạt động kinh tế hộ gia đình, phụ nữ dân tộc H’mông là người

lao động vất vả nhất, cường độ lao động cao (gấp 1,5 - 2 lần so với nam giới).

Họ là những người trực tiếp thực hiện quy trình sản xuất của kinh tế hộ gia

đình nhưng do quan niệm, nhận thức lạc hậu còn đang tồn tại ở một số địa

phương miền núi nên đã hạn chế quyền quyết định của họ trong xác định

hướng sản xuất, vay vốn, phân công lao động và trong sử dụng các sản phẩm

sản xuất ra. Vì vậy cần phải có sự tuyên truyền giáo dục về giới nhằm thay

đổi những quan điểm cổ hủ, lạc hậu về phụ nữ, nâng vao vai trò của chị em

trong gia đình và cộng đồng xã hội.

- Qua kết quả hoạt động tín dụng xóa đói giảm nghèo những năm qua

cho thấy: Phụ nữ dân tộc H’mông quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả hơn

nam giới.

Trong việc tính toán, xác định phương án đầu tư sản xuất, phụ nữ dân

tộc H’mông cũng thể hiện tính chính xác và thực tiễn hơn nam giới nên khả

năng quay vòng vốn nhanh hơn. Đối với phụ nữ dân tộc H’mông, sự thất

thoát vốn tín dụng (vốn vay) do liên hoan, rượu chè, cờ bạc hầu như là rất ít

(trừ một vài trường hợp cá biệt).

Qua thực tiễn cho thấy, tính tương trợ cộng đồng của người phụ nữ

cao hơn nam giới, thể hiện là các tổ tương trợ, tổ tiết kiệm và các tổ vay

vốn của phụ nữ dân tộc H’mông hoạt động có hiệu quả hơn so với các tổ do

nam giới làm chủ.

- Đi liền với việc huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn trong

nước và quốc tế bằng các chương trình mục tiêu, các dự án đầu tư là phải tổ

chức các lớp bồi dưỡng, đào tạo, tập huấn để phổ biến cách thức sản xuất

kinh doanh, cách sử dụng đồng vốn đầu tư cho đúng mục đích và có hiệu

quả. Thông qua hoạt động của Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến

39

binh, Đoàn thanh niên và các tổ chức khuyến nông, khuyến lâm để mở lớp

tập huấn chuyển giao kỹ thuật và xây dựng một số mô hình trình diễn để

tuyên truyền phổ biến cho phụ nữ đồng bào các dân tộc vùng cao, đặc biệt

đối với phụ nữ người H’mông.

- Đề cao vai trò cán bộ cơ sở, cán bộ Hội phụ nữ xã, cán bộ phụ trách

từng thôn bản, hướng dẫn giúp đỡ từng hộ phát triển kinh tế hộ gia đình. Vì

đó là những người gần gũi, hiểu biết hoàn cảnh từng hộ gia đình, hoàn cảnh

từng chị em nhất.

Qua đó xác định rõ các nguyên nhân hạn chế phát triển kinh tế hộ gia

đình như do thiếu đất canh tác, do thiếu kiến thức sản xuất, do thiếu vốn vay

hay do sinh thiếu lao động, do đẻ nhiều, ốm đau hay do tệ nạn xã hội... để từ

đó có biện pháp giúp đỡ.

40

Chương 2

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Các câu hỏi đặt ra mà đề tài cần giải quyết

- Thực trạng vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong phát triển kinh tế

hộ gia đình trên địa bàn huyện Đồng Hỷ?

- Những yếu tố nào tác động đến việc nâng cao vai trò phụ nữ dân tộc

H’mông trong phát triển kinh tế hộ?

- Giải pháp nhằm nâng cao vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong

phát triển kinh tế hộ gia đình ở huyện Đồng Hỷ trong thời gian tới?

2.2. Phương pháp tiếp cận nghiên cứu

- Tiếp cận nghiên cứu xã hội học (giới): Nhằm nghiên cứu đặc tính của

dân tộc, giới, sự khác nhau và các yếu tố ảnh hưởng đến giới, đến dân tộc.

- Tiếp cận nghiên cứu kinh tế hệ thống: Nhằm nghiên cứu các hệ thống

sản xuất kinh doanh các loại hình cây trồng, vật nuôi, các yếu tố trong nền

kinh tế của địa phương, của hộ.

2.3. Phương pháp nghiên cứu:

2.3.1. Chọn điểm nghiên cứu

Đồng Hỷ là huyện trung du - miền núi nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh

Thái Nguyên. Huyện Đồng Hỷ có diện tích đất tự nhiên 45.475,52 ha, trong

đó đất nông nghiệp 15.266,72 ha (chiếm 33,57%), có 22.855,66 ha đất lâm

nghiệp (chiếm 50,26%) chia thành 18 đơn vị hành chính (15 xã và 3 thị trấn)

với dân số trên 114.300 người, trong đó nữ 57.644 người chiếm 50,45%. Do

đặc điểm nghiên cứu của đề tài là “Vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong

phát triển kinh tế hộ gia đình tại huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên” nên việc

chọn điểm nghiên cứu là những xã có lực lượng phụ nữ dân tộc H’mông lớn,

thu nhập chủ yếu từ việc phát triển kinh tế hộ gia đình như trồng trọt, chăn

nuôi... Trong những năm qua, Đảng và nhà nước đã có nhiều chính sách quan

tâm, hỗ trợ đến kinh tế của các hộ gia đình đồng bào dân tộc H’mông, đời

41

sống của đồng bào dân tộc H’mông đã có những chuyển biến tích cực; tuy

nhiên, so với những dân tộc khác trên địa bàn huyện Đồng Hỷ thì đời sống

kinh tế của các hộ gia đình dân tộc H’mông còn nghèo nàn, trình độ dân trí

thấp... đây vẫn là bài toán khó. Với những lý do trên, các xã có số lượng hộ

gia đình người dân tộc H’mông trên địa bàn huyện Đồng Hỷ được chọn là

điểm nghiên cứu của luận văn. Đề tài sẽ tiến hành chọn 3 xã có số lượng hộ

gia đình người dân tộc H’mông lớn nhất làm điểm nghiên cứu:

- Xã Văn Lăng: là một xã vùng cao miền núi của huyện Đồng Hỷ, cách

trung tâm huyện Đồng Hỷ 24 km về phía bắc, thuộc vùng III vùng đặc biệt khó

khăn với diện tích đất tự nhiên là 6.416,28, dân số trung bình là 5.480 người, có

1.297 hộ dân trong đó có 235 hộ là người dân tộc H’mông. Đời sống nhân dân

chủ yếu dựa vào sản xuất nông, lâm nghiệp và canh tác nương rẫy nên còn gặp

nhiều khó khăn. Tỷ lệ hộ nghèo chiếm tới 40,2% trên toàn xã, có 15/16 xóm xác

định là xóm đặc biệt khó khăn, trong đó có 5 xóm có nhiều đồng bào dân tộc

H’mông sinh sống như: Bản Tèn, Mỏ Nước, Liên Phương, Khe Cạn, Vân Lăng.

Tỷ lệ hộ nghèo là đồng bào dân tộc H’mông trên số hộ dân tộc H’mông tại các

xóm của xã Văn Lăng ở mức khá cao như: xóm Bản Tèn, Mỏ Nước, Liên

Phương, Vân Lăng đều là 100%, xóm Khe Cạn tỷ lệ này là 52%.

- Xã Tân Long: là xã nằm tại phía bắc của huyện và theo chiều kim

đồng hồ từ phía đông, lần lượt tiếp giáp với xã La Hiên của huyện Võ Nhai,

xã Quang Sơn, Hóa Trung, Minh Lập, Hòa Bình, Văn Lăng và xã Thần Xa

thuộc Võ Nhai. Có diện tích đất tự nhiên là 4.114,07 ha, dân số trung bình là

5.658 người với 1.415 hộ. Xã Tân Long được chia thành 9 xóm là Ba Đình,

Đồng Mẫu, Làng Mới, Mỏ Ba, Đồng Luông, Đồng Mây, Làng Giếng, Hồng

Phong, Lân Quang. Trong đó có 221 hộ dân tộc H’mông, sống tập trung ở 2

xóm Mỏ Ba, Lân Quang. Tỷ lệ hộ nghèo là đồng bào dân tộc H’mông trên số

hộ dân tộc H’mông tại xã Tân Long ở mức khá cao như: xóm Mỏ Ba (72%),

xóm Lân Quang (47%).

42

- Xã Quang Sơn: Quang sơn là một xã miền núi nằm ở phía Bắc của

huyện Đồng Hỷ, phía Bắc giáp xã La Hiên huyện Võ Nhai, Phía Tây giáp xã

Hoá Trung và xã Tân Long huyện Đồng Hỷ, Phía Nam giáp xã Khe Mo và

Thị trấn Sông Cầu. Có diện tích 1.401,89 ha, dân số là 3.016 người với 806

hộ dân. Xã Quang Sơn có 2 xóm có đồng bào dân tộc H’mông sinh sống là

xóm Lân Đăm và xóm Trung Sơn với 64 hộ đồng bào dân tộc H’mông, tỷ lệ

hộ nghèo còn ở mức khá cao, với xóm Lân Đăm có 100% hộ đồng bào dân

tộc H’mông là hộ nghèo, xóm Trung Sơn (36%). Nguyên nhân nghèo chủ yếu

là do thiếu đất sản xuất, vốn, thiếu lao động và đông con.

2.3.2. Phương pháp thu thập số liệu

2.3.2.1. Nguồn số liệu thứ cấp

Các báo cáo tổng quan về điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội của

huyện Đồng Hỷ; niên giám thống kê tỉnh và huyện; các báo cáo chuyên

ngành, những báo cáo khoa học đã được công bố và các thông tin, tài liệu do

các cơ quan của huyện Đồng Hỷ và tỉnh Thái Nguyên cung cấp: UBND tỉnh

Thái Nguyên, Chi cục thống kê huyện, Phòng Kinh tế, Phòng Nội vụ, Phòng

Lao động Thương binh và Xã hội; Ban vì sự tiến bộ phụ nữ, Hội phụ nữ các

cấp; UBND huyện, các phòng, ban ngành, đoàn thể huyện Đồng Hỷ; UBND

xã Tân Long, xã Văn Lăng, xã Quang Sơn của huyện Đồng Hỷ. Một số sách,

báo, tạp chí, các công trình nghiên cứu có liên quan đến vấn đề vai trò phụ nữ

trong phát triển kinh tế hộ gia đình.

Các tài liệu trên giúp đề tài có cái nhìn tổng quan về tình hình lao động,

việc làm nói chung và của phụ nữ dân tộc H’mông trên địa bàn huyện Đồng

Hỷ nói riêng. Vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong phát triển kinh tế hộ

gia đình tại huyện Đồng Hỷ.

Phương pháp thu thập: thông qua ghi chép, thống kê các dữ liệu cần

thiết cho đề tài với các chỉ tiêu được chuẩn bị sẵn.

43

2.3.2.2. Nguồn số liệu sơ cấp

Thu thập số liệu mới được thực hiện qua các phương pháp sau:

* Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA: Rapid Rural Appraisal):

Đi thực tế để quan sát đánh giá thực trạng việc sản xuất, trồng trọt, chăn nuôi,

các hoạt động tạo thu thập; những thông tin qua những hộ gia đình ở vùng

nghiên cứu và các cán bộ, thu thập những tài liệu thông tin đã có tại nơi

nghiên cứu.

* Phương pháp đánh giá nông thôn có người dân tham gia (PRA: Trực

tiếp tiếp xúc với các hộ gia đình đồng bào dân tộc H’mông tại các nơi nghiên

cứu, tạo điều kiện và thúc đẩy sự tham gia của hộ gia đình đồng bào dân tộc

H’mông vào những vấn đề cần nghiên cứu, đàm thoại với họ để thu thập

những thông tin nhằm nắm được thực trạng việc phát triển kinh tế hộ gia đình,

đời sống và những tiềm năng, những khó khăn, nhu cầu... . Phương pháp được

sử dụng nhằm đánh giá khả năng phát triển kinh tế hộ gia đình hộ đồng bào

dân tộc H’mông hiện tại và tương lai. Xác định và đề ra các vấn đề ưu tiên để

tiếp tục nghiên cứu, đánh giá khả năng thực hiện và đề ra những giải pháp

phát triển kinh tế hộ gia đình đồng bào dân tộc H’mông.

* Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo: Sử dụng phương pháp này để

thu thập các thông tin rộng rãi từ các chuyên gia qua các hội nghị hội thảo,

điều tra, phỏng vấn trực tiếp người có kinh nghiệm trong lĩnh vực của đề tài

nghiên cứu trong việc xác định những khó khăn, vướng mắc, xây dựng

phương hướng và giải pháp để thực hiện trong thời gian tới.

* Phương pháp sinh hoạt chi đoàn, chi hội gắn với phỏng vấn, điều tra

nhóm nhỏ:

Trong các buổi sinh hoạt chi đoàn, chi hội, lồng ghép các chủ đề về

phát triển kinh tế để các đoàn viên, hội viên bày tỏ quan điểm của mình về

vấn đề này, sau đó chủ tọa tập hợp các ý kiến và thảo luận.

44

* Phương pháp điều tra: Gồm các bước sau:

Từ ba xã có số lượng hộ gia đình đồng bào dân tộc H’mông lớn nhất trong

toàn huyện Đồng Hỷ. Lựa chọn ở mỗi xã các bản mang tính đặc trưng đại diện

cho các xã, lấy đó làm cơ sở để chọn điểm và chọn đối tượng làm mẫu điều tra.

- Chọn mẫu điều tra

Hộ nghiên cứu là các hộ gia đình phụ nữ dân tộc H’mông làm kinh tế

trong độ tuổi lao động, có độ tuổi từ 18 đến 55 tuổi. Hộ nghiên cứu phải nằm

trong các xã đã được chọn, đồng thời mang tính đại diện cho các hộ trong vùng.

Số mẫu điều tra được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên dựa theo danh sách hộ.

Trong đó: n: số mẫu nghiên cứu;

Sử dụng công thức Yamane (1967) tính kích thước mẫu như sau:

N: tổng thể mẫu;

e: Sai số tiêu chuẩn ± 5%

Tổng số hộ gia đình đồng bào dân tộc H’mông trên địa bàn huyện

Đồng Hỷ là: 520 hộ.

Ta có số mẫu nghiên cứu:

520

n = = 226,087 làm tròn = 226 hộ (1 + 520*0.0025)

Kết quả chọn mẫu được trình bày trong bảng sau:

Bảng 2.1: Kết quả lựa chọn nhóm hộ điều tra

Tổng số hộ dân tộc Số hộ dân tộc H’mông Tên xã H’mông được chọn nghiên cứu

Xã Tân Long 221 96

Xã Quang Sơn 64 28

Xã Văn Lăng 235 102

Tổng cộng 520 226

45

Sau khi xác định được số lượng mẫu cần điều tra và địa điểm điều tra,

bước tiếp theo là xây dựng phiếu điều tra tình hình sản xuất, kinh doanh cho

các hộ điều tra.

Thu thập tình hình của hộ bằng phiếu điều tra xây dựng trước. Qua

phiếu điều tra này sẽ cho phép thu thập được các thông tin định tính và định

lượng về các vấn đề liên quan đến nguồn lực, thông tin lao động, nguồn vốn

cũng như thuận lợi khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ.

- Nội dung điều tra

Nội dung điều tra có các thông tin chủ yếu như: lao động, trình độ văn

hóa, trình độ chuyên môn của phụ nữ. Các nguồn lực của gia đình như ruộng

đất, tư liệu sản xuất, vốn,... hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ, sử dụng

thu nhập và phúc lợi gia đình, tiếp cận các dịch vụ trợ giúp sản xuất, … Các

thông tin liên quan đến toàn bộ hoạt động phụ nữ trong quản lý và điều hành

sản xuất, phụ nữ trong hoạt động sản xuất tạo thu nhập, phụ nữ trong tiếp cận

khoa học kỹ thuật, phụ nữ trong quản lý vốn, phụ nữ trong kiểm soát các

nguồn lực của hộ, … được thể hiện bằng những câu hỏi cụ thể để phụ nữ hiểu

và trả lời chính xác, đầy đủ.

d. Phương pháp điều tra

- Phỏng vấn trực tiếp với phụ nữ dân tộc H’mông; đàm thoại với phụ

nữ thông qua một loạt các câu hỏi mở và phù hợp với tình hình thực tế, sử

dụng linh hoạt và thành thạo các dạng câu hỏi: Ai? Cái gì? Ở đâu? Khi nào?

Tại sao? Như thế nào? và Bao nhiêu?… Phỏng vấn số phụ nữ đã chọn, kiểm

tra tính thực tiễn của các thông tin thông qua quan sát trực tiếp.

- Thảo luận nhóm: thông qua hình thức thảo luận của các nhóm phụ nữ,

nhằm thu thập các thông tin về hoạt động sản xuất tạo thu nhập, tiếp cận khoa

học kỹ thuật, quản lý vốn, quản lý và điều hành sản xuất,…

46

- Phỏng vấn sâu: trong quá trình thực hiện các nội dung của luận văn, ý

kiến một số chuyên gia đang hoạt động ở lĩnh vực giáo dục, lao động và việc

làm, công tác Hội Liên hiệp Phụ nữ và ý kiến của lãnh đạo cấp ủy, chính

quyền địa phương,... đã được thu thập về các yếu tố ảnh hưởng tới năng lực

và sự đóng góp của phụ nữ, các nhóm giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò

của phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ gia đình.

- Quy trình điều tra: Sau khi phiếu điều tra sơ bộ được xây dựng, 20

mẫu điều tra thử được tiến hành để kiểm định sự phù hợp của mẫu phiếu. Sau

khi điều chỉnh, điều tra được tiến hành với quy mô mẫu là 226 hộ. Tuy nhiên

để tăng độ chính xác và để loại trừ những mẫu không đạt chất lượng hoặc số

liệu điều tra trùng nhau nên số lượng mẫu được tăng lên là 240 hộ.

2.3.3. Phương pháp tổng hợp

Công cụ để tổng hợp số liệu điều tra là bảng tính excel, SPSS 16.

Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tổ thống kê để tổng hợp số liệu và sử

dụng bảng thống kê, đồ thị thống kê để trình bày kết quả tổng hợp số liệu.

2.3.4. Phương pháp phân tích

* Phương pháp thống kê mô tả:

Thống kê mô tả là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng kinh tế - xã

hội bằng việc mô tả thông qua các số liệu thu thập được. Phương pháp này

được sử dụng để phân tích tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh và tình hình phát

triển kinh tế qua các năm.

* Phương pháp thống kê kinh tế

- Sử dụng hệ thống chỉ tiêu, chỉ số, tổng hợp tính toán số liệu trên cơ sở

tài liệu điều tra.

- Phân tích mức độ ảnh hưởng của việc phát triển kinh tế hộ gia đình

đến tình hình kinh tế chính trị xã hội của địa phương.

- Tiến hành tổng hợp, phân tích, xử lý dữ liệu bằng excel, SPSS 16.

47

* Phương pháp so sánh:

Phương pháp so sánh được ứng dụng rộng rãi trong các nghiên cứu

KTXH trong luận văn tác giả sử dụng phương pháp này nhằm xác định mức

biến động của dân số, tình hình phát triển kinh tế, xu hướng biến động dân số,

đất canh tác, đất lâm nghiệp qua các năm. So sánh kết quả và hiệu quả của

trình độ, khả năng tiếp cận thông tin…của phụ nữ dân tộc H’mông tại các xã

nghiên cứu trong phát triển kinh tế hộ gia đình.

- Sử dụng cách thức so sánh: với hộ gia đình phụ nữ có trình độ học

vấn khác nhau, khả năng kiểm soát nguồn lực của hộ khác nhau, khả năng

tiếp cận thông tin khác nhau…

- Đối chiếu so sánh với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và

của Đoàn - Hội về phát triển kinh tế hộ gia đình vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

* Công cụ xử lý số liệu

Sử dụng phần mềm Microsoft Office Excel 2007 và phần mềm phân

tích số liệu thống kê SPSS 16 (Statistical Package for Social Sciences).

* Phương pháp dự báo.

2.4. Hệ thống hóa các chỉ tiêu nghiên cứu

2.4.1. Nhóm các chỉ tiêu chung

+ Tổng số hộ, số khẩu, số khẩu nữ

+ Diện tích đất

+ Tổng số phụ nữ, độ tuổi, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn

2.4.2. Nhóm các chỉ tiêu về kinh tế

+ Thu nhập bình quân, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu, thu

nhập từ trồng trọt, từ chăn nuôi, từ ngành nghề tiểu thủ công nghiệp

+ Tỷ lệ đóng góp của phụ nữ trong sản xuất tạo thu nhập, xóa đói giảm

nghèo

+ Vai trò của phụ nữ trong sản xuất

+ Tỷ lệ tham gia của phụ nữ trong các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi và

lâm nghiệp

+ Tỷ lệ tham gia của phụ nữ trong kiểm soát nguồn lực của hộ

48

+ Tỷ lệ tham gia của phụ nữ trong việc ra quyết định trồng cây gì, nuôi con

gì, bán cho ai, giá bán...

2.4.3. Nhóm các chỉ tiêu về xã hội

+ Số hộ nghèo, số hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ, số hộ nghèo do

thiếu vốn, số hộ nghèo do thiếu kiến thức, số hộ nghèo do đông con

+ Tổng lao động, lao động nữ, lao động không có việc làm

+ Giáo dục - đào tạo,…

2.4.4. Nhóm chỉ tiêu về vai trò ra quyết định của người phụ nữ trong gia đình

+ Phụ nữ trong quản lý và điều hành sản xuất

+ Phụ nữ trong hoạt động sản xuất tạo thu nhập

+ Phụ nữ trong tiếp cận khoa học kỹ thuật

+ Phụ nữ trong quản lý vốn

+ Phụ nữ trong phân công lao động của gia đình

+ Phụ nữ trong tiếp cận thông tin

49

Chương 3

THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC H’MÔNG

TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH TRÊN ĐỊA BÀN

HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN

3.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu

3.1.1. Điều kiện tự nhiên

3.1.1.1. Vị trí địa lý, địa hình

Đồng Hỷ là huyện trung du - miền núi nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh

Thái Nguyên. Huyện lỵ đặt tại thị trấn Chùa Hang, cách trung tâm thành phố

Thái Nguyên 3 km về phía Đông Bắc. Địa phận huyện Đồng Hỷ trải dài từ

21032’ đến 21051’ độ vĩ bắc, 105046’ đến 106004’ độ kinh đông.

Phía Bắc: giáp huyện Võ Nhai và huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn.

Phía Nam: giáp huyện Phú Bình và thành phố Thái Nguyên.

Phía Đông: giáp huyện Yên Thế tỉnh Bắc Giang.

Phía Tây: giáp huyện Phú Lương và thành phố Thái Nguyên.

Huyện Đồng Hỷ có diện tích tự nhiên 45.524,44 ha chia thành 18 đơn

vị hành chính (15 xã và 3 thị trấn) với dân số trên 11 vạn người. Có địa hình

phức tạp, không thống nhất. Với độ cao trung bình khoảng 100m so với mặt

biển, cao nhất là Lũng Phượng - Văn Lăng, Mỏ Ba - Tân Long trên 600m,

thấp nhất là Huống Thượng 20m. Phía Bắc giáp huyện Võ Nhai có địa hình

núi cao, diện tích đất nông nghiệp ít, chiếm gần 9% tổng diện tích đất tự

nhiên. Phía Tây Nam giáp thành phố Thái Nguyên, địa hình tương đối bằng

phẳng, có dòng sông Cầu chảy qua, diện tích đất nông nghiệp chiếm gần 20%

diện tích đất tự nhiên, phù hợp với sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi. Phía

Đông Nam tiếp giáp huyện Yên Thế, Bắc Giang có nhiều đồi núi thấp với

diện tích đất nông nghiệp chiếm gần 14% diện tích đất tự nhiên, thích hợp

trồng cây ăn quả và chăn nuôi đại gia súc.

50

Huyện Đồng Hỷ có đường quốc lộ 1B đi qua cùng với hệ thống đường

liên huyện, liên xã, liên thôn đang dần được nhựa hóa, bê tông hóa đã tạo

thành mạng lưới giao thông khá hoàn chỉnh. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc

lưu thông giữa huyện với thành phố, thị xã, các huyện trong tỉnh và các tỉnh

khác. Với vị trí liền kề thành phố Thái Nguyên, đô thị loại I trực thuộc tỉnh

Thái Nguyên, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, du lịch,

dịch vụ của tỉnh Thái Nguyên và Vùng Trung du miền núi Bắc Bộ nên chịu sự

tác động lớn về giao lưu trong nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội. Đây là điều

kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ, phổ biến và quảng bá các mặt hàng nông lâm

sản của huyện. Ngoài ra trên địa bàn huyện còn có nhiều núi đá vôi, điều kiện

tự nhiên này có thể giúp cho huyện Đồng Hỷ phát triển mạnh mẽ ngành khai

thác và sản xuất nguyên vật liệu xây dựng.

Với lợi thế về vị trí địa lý và giao thông nêu trên, huyện Đồng Hỷ có

điều kiện thuận lợi để thực hiện quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa. Điều

này sẽ tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới trong các ngành công nghiêp và dịch

vụ cũng như việc làm phi nông nghiệp trong nông thôn. Tuy nhiên, các cơ hội

việc làm này có sớm hay muộn còn phụ thuộc vào tốc độ công nghiệp hóa -

đô thị hóa và khả năng thụ hút lao động của các ngành công nghiệp và dịch vụ

sẽ phát triển trên địa bàn Huyện.

3.1.1.2. Đặc điểm thời tiết khí hậu

Khí hậu của huyện Đồng Hỷ mang tính đặc trưng của vùng miền núi và

trung du, chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa nên đặc điểm khí hậu

chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa nóng mưa nhiều từ tháng 4 đến tháng 10, mùa

lạnh mưa ít từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau.

Nhiệt độ trung bình năm là 24,6oC, nhiệt độ cao nhất là 28,90C, nhiệt

độ thấp nhất là 170C.

Độ ẩm không khí lớn nhất vào tháng 3 và tháng 7: 88%, thấp nhất vào

tháng 2 và tháng 11: 77%.

51

Lượng mưa trung bình lớn nhất hằng năm là 2.000 - 2.500 mm; Số

ngày mưa trong năm khoảng 150 - 160 ngày; Lượng mưa tháng lớn nhất là

489 mm, lượng mưa tháng nhỏ nhất là 22 mm.

Khí hậu nóng ẩm thuận lợi cho phát triển ngành nông, lâm nghiệp, với

điều kiện nhiệt độ cao có thể làm nhiều vụ trong một năm mà vòng sinh

trưởng của cây trồng vẫn có thể đảm bảo, thêm vào đó với điều kiện mưa ẩm

nên có nhiều loài thực vật phát triển.

Nhìn chung, điều kiện thời tiết khí hậu của huyện Đồng Hỷ có những

điều kiện thuận lợi cho sinh trưởng, phát triển của cây trồng, vật nuôi. Tuy

nhiên, vùng này cũng phải chịu những thay đổi đột ngộ của khí hậu, thời thiết

và thủy văn gây ra như: lũ lụt, hạn hán, sâu bệnh...gây ảnh hưởng không nhỏ

đến phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp. Vì vậy, cần có những giải pháp chủ

động phòng, chống thiên tai, đồng thời khai thác những điều kiện thuận lợi

nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất nông lâm nghiệp.

3.1.1.3. Đất đai và các tài nguyên thiên nhiên khác

i). Đất đai

Đất đai là nguồn tài nguyên quý giá nhất cho sự phát triển kinh tế -

xã hội, là tư liệu sản xuất đặc biệt và không thể thay thế trong sản xuất

nông nghiệp. Vấn đề sử dụng đất đai có ý nghĩa rất lớn trong vấn đề phát

triển kinh tế của huyện. Trong những năm qua, công tác quản lý nhà nước

về đất đai đã được Lãnh đạo huyện Đồng Hỷ quan tâm chỉ đạo thường

xuyên, triển khai thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2011

- 2015, thành lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đến năm 2020. Khai

hoang đưa vào sử dụng nhiều diện tích đất chưa sử dụng, năm 2014 diện

tích đất chưa sử dụng là 3.010,63 ha chiếm 6,62% tổng diện tích đất tự

nhiên đến năm 2016 chỉ còn 2.041,67 ha chiếm 4,49%. Tình hình sử dụng

đất huyện Đồng Hỷ thể hiện ở Bảng 3.1:

52

Bảng 3.1: Tình hình sử dụng đất huyện Đồng Hỷ giai đoạn 2014-2016

Năm 2014

Năm 2015

Năm 2016

Chỉ tiêu

Diện tích (ha)

Diện tích (ha)

Diện tích (ha)

TỔNG DIỆN TÍCH TỰ NHIÊN

1. Đất Nông nghiệp Đất trồng cây hàng năm Đất trồng lúa Đất cỏ dùng vào chăn nuôi Đất trồng cây hàng năm khác Đất trồng cây lâu năm 2. Đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản 3. Đất Lâm nghiệp (Diện tích đất có rừng) Rừng tự nhiên Rừng trồng 4. Đất ở Đất ở nông thôn Đất ở thành thị 5. Đất chuyên dung 6. Đất chưa sử dụng Đất bằng chưa sử dụng Đất đồi núi chưa sử dụng Núi đá không có rừng cây

Cơ cấu (%) 100,00 33,11 55,40 64,85 0,26 34,89 44,60 0,57 48,66 54,04 45,96 2,06 87,74 12,26 8,98 6,62 13,31 20,20 66,49

Cơ cấu (%) 100,00 33,57 47,19 70,30 0,30 29,40 52,81 0,86 50,26 52,32 47,68 2,11 88,23 11,77 8,71 4,49 2,98 3,16 93,86

45.475,52 15.266,72 7.204,77 5.064,66 21,66 2.118,45 8.061,95 393,07 22.855,66 11.958,84 10.896,82 958,43 845,59 112,84 3.959,97 2.041,67 60,86 64,59 1.916,22

45.475,52 15.057,08 8.340,91 5.409,11 21,66 2.910,14 6.716,17 257,76 22128,96 11.958,84 10.170,12 935,82 821,1 114,72 4.085,27 3010,63 400,79 608,11 2.001,73

Cơ cấu (%) 100,18 33,57 47,19 72,72 0,41 32,80 52,81 1,05 50,26 52,32 49,98 2,11 89,69 11,98 8,71 4,49 2,98 3,16 90,67

45.475,52 15.266,72 7.204,77 5.239,66 29,66 2.363,45 8.061,95 476,07 22.855,66 11.958,84 11.422,82 958,43 859,59 114,84 3.959,97 2.041,67 60,86 64,59 1.851,22

(Nguồn: Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Đồng Hỷ)

53

Qua các bảng 3.1 ta thấy diện tích đất nông, lâm nghiệp trên địa bàn

huyện chiếm tỷ lệ chủ yếu. Đây chính là tiềm năng rất lớn để huyện đẩy mạnh

thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp, xây dựng các mô hình liên kết

trong chuỗi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, ứng dụng khoa học và

công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp.

ii).Tài nguyên nước

Đa số sông, suối của huyện Đồng Hỷ đều bắt nguồn từ khu vực núi cao

phía Bắc và Đông Bắc chảy vào sông Cầu. Mật độ sông, suối bình quân

0,2km/km2 gồm các sông, suối lớn như: Sông Cầu, sông Linh Nham,suối

Ngòi Trẹo.

Ngoài ra còn có hàng chục con suối lớn nhỏ khác cộng với hàng chục

hồ nước lớn, nhỏ phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Nước ngầm qua thăm dò

được đánh giá là rất phong phú. Chất lượng nguồn nước của huyện Đồng Hỷ

do tác động của con người nên đang bị ô nhiễm, cần có giải pháp hữu hiệu để

giảm thiểu mức độ ô nhiễm nhằm đảm bảo chất lượng và tiềm năng khai thác

phục vụ đời sống.

iii). Tài nguyên rừng

Theo số liệu điều tra năm 2016, diện tích rừng tự nhiên của huyện

Đồng Hỷ là 11.985,84 ha. Trong những năm qua, thực hiện kế hoạch tỉnh

giao, huyện đã tiến hành giao đất cho dân phục vụ khoanh nuôi, tái sinh,

trồng rừng (Diện tích đất đồi núi chưa sử dụng năm 2005 là 5.362,7 ha

đến năm 2016 chỉ còn lại 3,16 ha) giúp nâng diện tích rừng trồng đến năm

2016 đạt 11.422,82 ha. Đây chính là tiềm năng lớn cho ngành lâm nghiệp

của địa phương.

iv). Tài nguyên khoáng sản

Đồng Hỷ có nhiều mỏ khoáng sản với trữ lượng khá lớn, thành phần đa

dạng như: quặng sắt, chì, kèm, vàng, đá xây dựng, đất sét...tập trung ở Trại

Cau, Linh Sơn, làng Hích, làng Mới, Khe Mo, Tiến Bộ...

54

Nhìn chung tài nguyên khoáng sản ở Đồng Hỷ rất phong phú, có nhiều

loại có trữ lượng lớn và có ý nghĩa kinh tế cao. Tuy nhiên, do khâu quản lý

chưa chặt chẽ, vẫn còn hiện tượng khai thác lậu nên ảnh hướng không nhỏ

đến môi trường, cảnh quan xung quanh.

v). Tài nguyên du lịch

Huyện Đồng Hỷ có di tích văn hóa Chùa Hang bao gồm quần thể Chùa

Hang, hang động núi đá thực vật với tổng diện tích quy hoạch gần 8 ha. Ngoài

ra còn có các di tích lịch sử cách mạng như: Đền Văn Hán, cụm di tích

Phượng Hoàng, Đền Linh Sơn, suối Tiên.. hằng năm có các lễ hội lớn vào

tháng giêng như: Hội Chùa Hang, hội Đền Hích...

3.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội

3.1.2.1. Tình hình dân số và lao động

Theo số liệu thống kê của Chi cục Thống kê huyện Đồng Hỷ ở Biểu

3.2. Năm 2014 dân số trung bình của huyện là 112.200 người đến năm 2016

là 115.523 người.

55

Bảng 3.2: Tình hình dân số và lao động huyện Đồng Hỷ giai đoạn 2014-2016

Năm 2014

Năm 2015

Năm 2016

So sánh (%)

STT

Chỉ tiêu

ĐVT

Số lượng

Số lượng

Số lượng

2015/ 2014

2016/ 2015

Cơ cấu (%)

Cơ cấu (%)

Cơ cấu (%)

Tốc độ phát triển bình quân (%)

Số hộ trung bình

hộ

29.526

30.280

100

30.555 người 112.200 100 114.300 100 115.523 người người

100

I II Dân số trung bình Thành thị 1 2 Nông thôn III Giới tính 1 Nam 2 Nữ

102,55 100,91 101,73 101,87 101,07 101,47 18.652 16,62 19.520 17,08 19.909 17,08 104,65 101,99 103,32 93.548 83,38 94.480 82,92 94.417 82,92 101,00 100,46 99,93 112.200 100 114.300 100 114.300 101,87 100,00 100,94 55.520 49,48 56.636 49,55 57.321 49,55 102,01 101,21 101,61 56.680 50,52 57.664 50,45 58.202 50,45 101,74 100,93 101,33

người người

IV Số người trong độ tuổi lao động

66.030

100

67.266

100

67.266

100

101,87 100,00 100,94

1

Lao động nông nghiệp

39.090

59,2

38.341

38.106 56,65 98,08

99,39

98,74

người

57

2

Lao động phi nông nghiệp

người

26.940

40,8

28.924

29.510 43,87 107,36 102,03 104,70

43

V Một số chỉ tiêu bình quân

1 Bình quân khẩu/ hộ

người

3,80

3,77

3,78

2 Bình quân lao động/hộ

người

2,24

2,22

2,20

(Nguồn: Chi cục Thống kê huyện Đồng Hỷ)

56

Đồng Hỷ là một huyện thuần nông nên số lao động nông nghiệp chiếm

tỷ lệ khá lớn. Năm 2014 số lao động nông nghiệp là 39.090 người chiếm tỷ lệ

59,2% đến năm 2016 giảm xuống còn 38.106 người chiếm tỷ lệ 56,65%, bên

cạnh đó tỷ lệ lao động phi nông nghiệp cũng tăng nhanh từ 40,8% năm 2014

lên 43,87% năm 2016. Điều đó cho chúng ta thấy tốc độ đô thị hóa nhanh,

diện tích đất nông nghiệp giảm cùng với việc xây dựng các cụm khu công

nghiệp đã thu hút lao động nông nghiệp chuyển sang hoạt động trong lĩnh vực

phi nông nghiệp.

3.1.2.2. Kết quả phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện qua 3

năm 2014 - 2016

Trong những năm qua, kinh tế huyện Đồng Hỷ đã có bước phát triển

khá toàn diện trên các lĩnh vực. Thể hiện trong bảng sau:

Bảng 3.3: Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu của

huyện Đồng Hỷ giai đoạn 2014-2016

Chỉ tiêu

Năm 2014

454,4 112.200

Năm 2015 454,4 114.300

Năm 2016 454,4 115.523

Đơn vị tính km2 người

1.600.150

1.728.532 2.001.890

triệu đồng

92

triệu đồng

87

87

81.148

tấn

47.602

51.968

110

trang trại

78

95

48,3

%

47

47,8

1.449

triệu đồng

1.538

1.472

189.268 477.460

1. Diện tích tự nhiên 2. Dân số trung bình 3. Giá trị sản xuất nông nghiệp (giá thực tế) 4. Giá trồng trị sản phẩm trọt/1ha đất nông nghiệp(giá thực tế) 5. Sản lượng lương thực có hạt 6. Số trang trại hiện có trên địa bàn có đến thời điểm 1/7 hàng năm 7. Độ che phủ rừng 8. Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010) 9. Tổng thu N.sách trong cân đối 10. Tổng chi cân đối Ngân sách

triệu đồng triệu đồng

91.593 406.660

106.501 460.500

(Nguồn: Chi cục Thống kê huyện Đồng Hỷ)

57

Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hằng năm đạt 14,7%; GDP bình

quân đầu người năm 2016 đạt 36 triệu đồng, tăng 2,1 lần so với năm 2010. Cơ

cấu kinh tế tiếp tục dịch chuyển tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng công

nghiệp - xây dựng và dịch vụ. So với năm 2010, tỷ trọng ngành công nghiệp -

xây dựng tăng từ 47,5% lên 50,12%; dịch vụ tăng từ 27,4% lên 29,28%; nông,

lâm nghiệp, thủy sản giảm từ 25,6% xuống còn 20,6%. Kinh tế tập thể được

quan tâm, tạo điều kiện phát triển; trong giai đoạn 2011-2016 đã thành lập

mới được 11 tổ hợp tác và 17 hợp tác xã. Thu ngân sách tăng bình quân hằng

năm 15,82%, trong đó thu cân đối (không tính thu cấp quyền sử dụng đất)

tăng bình quân 16,05%. Năm 2016, tổng thu ngân sách trong cân đối đạt

189.268 tỷ đồng.

3.1.2.3. Cơ cấu hộ, cơ cấu nguồn thu nhập chính của các hộ ở khu vực nông

thôn có sự chuyển biến tích cực

Trong những năm qua, cơ cấu kinh tế trên địa bàn huyện Đồng Hỷ có

sự chuyển biến tích cực. Cơ sở hạ tầng khu vực nông thôn được cải thiện nên

tạo điều kiện thu hút đầu tư các ngành nghề phi nông, lâm nghiệp vào khu vực

nông thôn, từ đó sản xuất phát triển, tạo ra nhiều việc làm khu vực nông thôn,

thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động khu vực nông thôn. Từ sự chuyển dịch

cơ cấu lao động đã tác động đến cơ cấu ngành nghề khu vực nông thôn có sự

chuyển dịch theo hướng giảm số lượng và tỷ trọng nhóm hộ nông, lâm nghiệp

và thủy sản; tăng số lượng và tỷ trọng nhóm hộ công nghiệp, xây dựng và

dịch vụ. (UBND tỉnh Thái Nguyên, Ban chỉ đạo tổng điều tra nông thôn, nông

nghiệp và thủy sản 01/7/2016, tháng 3/2017)

Theo kết quả sơ bộ, tại thời điểm 01/7/2016, số hộ khu vực nông

thôn có ngành sản xuất chính là nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn

huyện Đồng Hỷ là 17.860 hộ (chiếm 70,4%), số hộ có ngành sản xuất chính

là công nghiệp, xây dựng là 2.513 hộ (chiếm 9,9%), số hộ có ngành sản

xuất chính là thương mại, dịch vụ là 4.098 hộ (chiếm 16,2%), hộ khác là

981 hộ (chiếm 3,5%).

58

So với cả nước, tuy tỷ trọng hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản cao hơn,

tỷ trọng hộ công nghiệp và hộ dịch vụ thấp hơn (cả nước hộ nông, lâm

nghiệp, thủy sản chiếm 53,9%, hộ công nghiệp và xây dựng chiếm 20,1%,

hộ dịch vụ chiếm 19,4%) nhưng so với bình quân chung các tỉnh trung du và

miền núi phía bắc thì tỷ trọng hộ nông, lâm nghiệp, thủy sản có tỷ trọng thấp

hơn, hộ công nghiệp, xây dựng và hộ dịch vụ có tỷ trọng cao hơn (vùng

Trung du và miền núi phía Bắc có tỷ trọng tương ứng là 75,4%, 9,6% và

11,7%). So với năm 2011 (sau 5 năm), tỷ trọng hộ nông, lâm nghiệp, thủy

sản giảm 10,2%; tỷ trọng hộ công nghiệp, xây dựng tăng 6,4%; tỷ trọng hộ

dịch vụ tăng 1,6%. So với năm 2006 (sau 10 năm), tỷ trọng hộ nông, lâm

nghiệp và thủy sản giảm 17,3%, hộ công nghiệp và xây dựng tăng 9,8% và

hộ dịch vụ tăng 4,5%.

Trong tổng số 15 xã của huyện Đồng Hỷ, có xã Hóa Thượng có tỷ

trọng hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản dưới 50%.

Do cơ cấu lao động và cơ cấu hộ chuyển dịch theo hướng giảm dần khu

vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, tăng dần tỷ trọng khu vực công nghiệp,

xây dựng và khu vực dịch vụ nên cơ cấu nguồn thu nhập chính cũng có sự

chuyển dịch theo hướng tương tự.

59

Bảng 3.4: Số hộ nông thôn huyện Đồng Hỷ chia theo loại hộ và chia theo xã

Số hộ

Chia ra

STT

Hộ khác

Hộ dịch vụ

Tổng số

Hộ công nghiệp, xây dựng

Số hộ

Số hộ

Số hộ

Số hộ

Cơ cấu (%)

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15

Xã Văn Lăng Xã Tân Long Xã Hòa Bình Xã Quang Sơn Xã Minh Lập Xã Văn Hán Xã Hóa Trung Xã Khe Mo Xã Cây Thị Xã Hóa Thượng Xã Hợp Tiến Xã Linh Sơn Xã Tân Lợi Xã Nam Hòa Xã Huống Thượng Tổng số

1.221 1.414 777 887 1.755 2.698 1.236 1.832 902 3.208 1.578 2.490 1.186 2.599 1.579 25.362

Hộ nông, lâm nghiệp, thủy sản Cơ cấu (%) 93,04% 92,08% 77,09% 58,06% 76,75% 88,47% 56,55% 78,28% 78,82% 33,29% 82,19% 54,38% 88,28% 78,45% 58,58% 70,42%

1.136 1.302 599 515 1.347 2.387 699 1.434 711 1.068 1.297 1.354 1.047 2.039 925 17.860

26 46 59 157 148 63 196 97 35 605 130 395 72 215 269 2.513

7 8 12 35 68 66 57 56 44 228 24 132 9 52 93 891

Cơ cấu (%) 4,26% 4,10% 13,77% 20,29% 10,94% 6,75% 22,98% 13,37% 12,42% 40,74% 8,05% 24,46% 4,89% 11,27% 18,49% 16,16%

Cơ cấu (%) 2,13% 3,25% 7,59% 17,70% 8,43% 2,34% 15,86% 5,29% 3,88% 18,86% 8,24% 15,86% 6,07% 8,27% 17,04% 9,91%

0,57% 52 0,57% 58 1,54% 107 3,95% 180 3,87% 192 2,45% 182 4,61% 284 3,06% 245 4,88% 112 7,11% 1.307 1,52% 127 5,30% 609 0,76% 58 2,00% 293 5,89% 292 3,51% 4.098 (Nguồn:Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2016)

60

3.1.3. Nhận xét chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội

3.1.3.1. Những thuận lợi

Đồng Hỷ là một trong những huyện được nhiều sự đầu tư của tỉnh Thái

Nguyên cũng như các nhà đầu tư nước ngoài mới gần đây có 1 trường đại học

Việt Bắc đã xây xong và đang đi vào hoạt động do tiếp giáp với thành phố Thái

Nguyên và có con đường giao thông với Lạng Sơn cho nên Đồng Hỷ thu hút

được mặt hàng dịch vụ lớn nhất là về các sản phẩm nông nghiệp phát triển đầu

tư mạnh và cây lâm nghiệp lâu năm có năng suất lớn hiệu quả kinh tế cao.

Đất đai tương đối màu mỡ cùng với chế độ khí hậu, thời tiết ôn hòa là cơ

sở cho việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, thâm canh tăng vụ, tăng năng suất cây

trồng nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trên một đơn vị diện tích

Tình hình kinh tế có bước tiến mạnh mẽ, cơ cấu kinh tế chuyển dịch

đúng hướng, tiềm năng từ các thành phần kinh tế bước đầu được huy động.

Trình độ dân trí của người dân được nâng cao, có kinh nghiệm và trình độ

thâm canh nông nghiệp, có khả năng ứng dụng những tiến bộ KHKT vào sản xuất.

3.1.3.2. Khó khăn

Về giao thông chưa được phát triển trong các xã, đường giao thông còn

hạn chế, dẫn đến khả năng thu hút đầu tư vào khu vực cụm công nghiệp như ở

Nam Hòa, Quang Sơn, xã Minh Lập tuy đã có trình duyệt dự án được phê

duyệt nhưng các nhà đầu tư vẫn chưa có động thái nào là làm nên làm ảnh

hưởng đến đời sống của người dân ở vùng của dự án đang được triển khai.

Ngoài ra, việc sinh đẻ có kế hoạch chưa được phổ biến rộng rãi, trình độ

dân trí còn chưa cao cho nên tỷ lệ sinh con thứ 3 vẫn con rất nhiều cụ thể như ở

xã Nam Hòa hiện có trên 2.450 hộ với hơn 10.000 nhân khẩu, sinh sống tại 22

xóm. Trong đó, người dân tộc thiểu số chiếm 86%. Từ đầu năm đến nay, xã có

trên 80 trẻ sơ sinh thì số trẻ là con thứ 3 trong gia đình là 11 cháu.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm và chưa được mở rộng, vẫn còn

những thôn xóm, xã độc canh cây lúa, sự chỉ đạo chưa sâu sắc, nhân dân sản

xuất kinh doanh còn ở dạng tự phát. Địa hình đồi núi nhiều nên việc giải phóng

mặt bằng trở nên khó khăn.

61

3.1.4. Phát triển kinh tế của huyện

Thực hiện sự Chỉ đạo của Chính phủ và Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội

của huyện Đồng Hỷ giai đoạn 2010 - 2015, kinh tế của huyện đã có những chuyển

biến tích cực. Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn

theo hướng từng bước nhanh chóng hình thành nền nông nghiệp hàng hoá phù hợp

với nhu cầu thị trường và điều kiện sinh thái của vùng. Chuyển dịch cơ cấu ngành

nghề, cơ cấu lao động, tạo việc làm mới thu hút lao động nông thôn. Áp dụng

những tiến bộ khoa học, công nghệ về giống, chăm sóc…vào trong sản xuất nông,

lâm nghiệp nâng giá trị thu nhập cùng đơn vị diện tích, cụ thể:

- Về trồng trọt, cây trồng chủ yếu của huyện vẫn là lúa nước nhưng diện

tích lúa nước đang có sự tăng nhẹ từ năm 2014 đến năm 2016 có xu hướng đi

xuống. Nguyên nhân chủ yếu là do năng suất lúa tăng, do áp dụng tiến bộ khoa

học vào sản xuất, cơ giới hóa… Qua bảng 3.6 cho thấy một số cây trồng chủ

lực của huyện đã được huyện quan tâm, đầu tư có hiệu quả về khoa học kỹ

thuật áp dụng vào sản xuất giống cây mới, biện pháp canh tác mới trong sản

xuất như lúa, rau màu, khoai lang, chè… nhất là cây lúa và cây chè do vậy mà

năng suất 2 loại cây này luôn tăng qua từng năm.

Bảng 3.5. Diện tích, năng suất, sản lượng một số cây trồng chính của

huyện từ năm 2014-2016

Diện tích (ha)

Năng suất (tạ/ha)

Sản lượng (tấn)

Loại cây

2014

2015

2016

2014

2015

2016 2014

2015

2016

Lúa Vụ xuân

2.798,4 3.026,4 3.019,5

52,43

51,53 55,49 14.672 15.596 16.755

Lúa Vụ mùa

4.495,1 4.628,2 4.621,9

44,74

48,42 52,16 19.951 22.408 24.408

Rau màu

1.176

1.300 1.359

178,8

180,7 173,9 21.025 23.500 23.638

Khoai lang

293

56,94

57,74 58,94

2.397 2.021

1.727

421

350

312

308

294 155,32

158,1 148,8

4.846 4.870

4.376

Sắn

368

545

531

15,08

15,3 15,66

555

834

832

Lạc

140

114

103

15,64

15,17 15,14

219

173

156

Đậu tương

26

23

44

550,4

550 556,8

1.431 1.265

2.450

Mía

2.295

3.180 3.245,3

117,3 117,91,48 120,7 30.875 31.950 34.107

Chè

(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2016)

62

- Về chăn nuôi:

Bảng 3.6: Số lượng gia súc, gia cầm của Huyện từ năm 2014 đến 2016

Đvt: con

Lợn Năm Trâu Bò Gia cầm Tổng số Lợn nái Lợn Thịt

2014 8.982 1.060 58.440 8.702 49.677 890.000

2015 8.896 1.070 62.233 8.741 53.433 864.343

2016 8.729 1.456 65.500 8.916 56.517 984.162

(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2016)

Sau bảng số liệu 3.6 ta thấy được tỷ lệ chăn nuôi ngày một gia tăng tỷ lệ

trâu bò đang có xu hướng giảm một cách rõ rệt cho thấy được việc trâu, bò

phục vụ vào mục đích cày kéo không còn được sử dụng nhiều nữa thay vào

đó là phát triển về máy móc. Về chăn nuôi lợn mục đích thịt và sinh sản đang

có xu hướng gia tăng , chăn nuôi gia cầm gà (vịt…) cho thấy rằng việc chăn

nuôi gia cầm mất ít thời gian mà cho hiệu quả năng suất cao đích nhu cầu của

gia đình, và tăng thêm đời sống thu nhập về kinh tế cho hộ.

3.1.5. Khái quát về thực trạng vai trò của phụ nữ huyện Đồng Hỷ

3.1.5.1. Số lượng lao động nữ

Số lượng lao động nữ trong độ tuổi lao động được chia thành 6 nhóm,

cụ thể như bảng dưới đây:

Bảng 3.7. Thống kê số lao động nữ trong các nhóm tuổi giai đoạn 2014-2016

Đvt: người

Nhóm tuổi Năm 15-17 18-19 20-29 30-39 40-49 Trên 50

2014 3.355 2.274 10.299 8.668 7.657 8.728

2015 3.407 2.309 10.459 8.803 7.776 8.864

2016 3.344 2.267 10.267 8.642 7.633 8.702

(Nguồn: Phòng lao động - TBXH huyện năm 2014, 2015, 2016)

63

Qua bảng trên ta thấy: Lao động nữ trong nhóm tuổi từ 20-29 chiếm tỷ

trọng cao nhất trong lực lượng nữ trong độ tuổi lao động. Lực lượng lao

động này đã có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất cũng như trong cuộc sống

và ngày càng tăng qua các năm, còn lao động nữ trong nhóm tuổi từ 18-19

lại chiếm tỷ trọng thấp nhất. Lao động nữ trong nhóm tuổi 15-39 chiếm

60%, đây là nhóm tuổi là lao động chính trong các hộ gia đình và cũng là

nhóm tuổi đang ở độ tuổi sinh sản. Lao động chính trong nhóm tuổi từ 15 -

19 chiếm tỷ lệ 13,73%. Đây là lượng lao động trẻ nhưng thường thiếu kinh

nghiệm trong sản xuất kinh doanh, thiếu kiến thức về xã hội, trong đó quan

trọng là kiến thức về chăm sóc sức khoẻ sinh sản nên đã ảnh hưởng không

nhỏ tới thu nhập và chất lượng cuộc sống của các hộ gia đình. Nữ trong

nhóm tuổi này có xu hướng giảm qua các năm trong khi các nhóm tuổi khác

lại tăng là do hiện nay nữ trong nhóm tuổi này thường đi làm tại các khu

công nghiệp trên địa bàn huyện, làm tại những khu công nghiệp này họ sẽ có

thu nhập cao hơn, điều này đã phần nào giải quyết được việc làm, góp phần

tăng thu nhập cho các hộ gia đình.

3.1.5.2. Trình độ của lao động nữ huyện Đồng Hỷ

Với số lượng đông đảo trong lực lượng lao động ở khu vực miền

núi nhưng trình độ văn hoá, chuyên môn của lao động nữ lại không cao.

Qua biểu đồ 3.2 ta thấy, số lao động nữ chưa tốt nghiệp tiểu học là 8%, tốt

nghiệp tiểu học là 20%, tốt nghiệp THCS là 43%, tốt nghiệp THPT là

29%. Tuy hiện nay số lao động nữ đã tốt nghiệp THPT ngày càng tăng lên

nhưng còn một bộ phận lớn vẫn hạn chế về nhận thức và trình độ nên

đang gặp khó khăn trong tìm kiếm việc làm, tạo thu nhập cho gia đình. Vì

vậy, các cấp, các ngành huyện Đồng Hỷ cần có chính sách ưu tiên đào

tạo, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn cho lao động nông thôn đặc

biệt là lao động nữ.

64

Hình 3.1: Trình độ văn hoá của lao động nữ tại huyện Đồng Hỷ năm 2016

(Nguồn: Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Đồng Hỷ năm 2016)

3.1.5.3. Tỷ lệ phụ nữ huyện Đồng Hỷ tham gia cấp ủy, chính quyền

Bên cạnh sự tham gia quan trọng trong các hoạt động kinh tế, lao động

nữ còn tham gia vào công tác quản lý, điều hành của cấp ủy, chính quyền.

Mặc dù với số lượng không nhiều so với lao động nam nhưng số lượng này

đang tăng dần qua các năm. Hiện nay, xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền

là nhiệm vụ hàng đầu được thể hiện trong các văn kiện của đại hội các cấp

trong đó tỷ lệ nữ giới tham gia các tổ chức này cũng có quy định rõ để tăng sự

đóng góp của nữ giới cũng như thực hiện việc bình đẳng giới.

Bảng 3.8: Số lượng phụ nữ tham gia các cấp ủy đảng,

chính quyền năm 2016

Số lượng 13/41 Tỷ lệ (%) 31,7

Các cấp chính quyền nữ tham gia 1. Tham gia Ban chấp hành Đảng bộ huyện 2. Tham gia Ban chấp hành Đảng bộ các xã, 65/242 26 thị trấn

3. Cán bộ lãnh đạo nữ các phòng ban, ngành 47/132 35,6 cấp huyện

11/99 15/39 11,1 39,47

4. Cán bộ lãnh đạo nữ cấp xã 5. Đại biểu HĐND cấp huyện 6. Số xã có tỷ lệ nữ tham gia đại biểu HĐND 8/18 44,4 đạt trên 25%

(Nguồn: Hội Liên hiệp phụ nữ huyện Đồng Hỷ năm 2016)

65

Tính đến năm 2016, tỷ lệ nữ tham gia Ban chấp hành Đảng bộ huyện

đạt 31,7 %. Tỷ lệ nữ tham gia Ban chấp hành Đảng bộ các xã, thị trấn đạt 26%.

Tỷ lệ cán bộ lãnh đạo nữ các phòng ban, ngành cấp huyện đạt 35,6%, cấp xã

11,1%. Tỷ lệ nữ tham gia đại biểu Hội đồng nhân dân huyện, nhiệm kỳ 2016-

2021 đạt 39%, Cấp xã/thị trấn có 8/18 đơn vị có tỷ lệ nữ đạt trên 25%, các chị

đã phát huy được vai trò và khẳng định vị thế trong mọi lĩnh vực công tác. Có

thể thấy huyện Đồng Hỷ đã thực hiện tốt việc xây dựng đội ngũ cán bộ nữ

tham gia vào các chức danh, các cơ quan lãnh đạo, điều hành, thể hiện ở tỷ lệ

nữ tham gia vào các chức danh lãnh đạo cao hơn so với quy định của Trung

ương và qua đó cũng thể hiện vai trò quan trọng của phụ nữ trong hệ thống

chính trị của huyện.

3.1.6. Khái quát về thực trạng đồng bào dân tộc H’mông tại huyện Đồng Hỷ

3.1.6.1. Tỷ lệ hộ nghèo, địa bàn cư trú, tình hình an ninh chính trị

Tổng số hộ nghèo dân tộc H’mông ở 11 xóm trên địa bàn huyện Đồng

Hỷ là 425 hộ/ 520 hộ bằng 82%. Trong đó có 9 xóm ở 3 xã đặc biệt khó khăn

có nhiều đồng bào dân tộc H’mông sinh sống, có 3 xóm có tỷ lệ hộ nghèo còn

100%: xóm Lân Đăm xã Quang Sơn, Xóm Mỏ Nước, Bản Tèn xã Văn Lăng.

Địa bàn cư trú: Vị trí địa lý, địa hình, địa bàn sinh sống của đồng bào

H’mông là vùng cao, vùng khó khăn, một số nơi thuộc vùng chiến lược về

chính trị, an ninh quốc phòng. Địa bàn này cũng là vùng các tổ chức tuyên

truyền phát triển về Đạo Tin lành và các tổ chức hoạt động bất hợp pháp khác,

đã xuất hiện xây nhà truyền đạo không xin phép ở một số xóm, ngoài ra một

số tổ chức y tế nhân đạo vẫn tổ chức thăm khám bệnh hàng năm.

Do nhận thức về đường lối chính sách của đồng bào còn hạn chế nên

dẫn đến tình trạng các hộ đồng bào H’mông đẻ nhiều, thường có 4-5 con trở

lên, cá biệt có gia đình 9-11 người con; nạn cưới tảo hôn vẫn còn tồn tại khá

phổ biến; một số gia đình không cho con đi học ở nhà để lao động; trẻ em

trong độ tuổi đi học bậc mầm non, tiểu học đạt trên 90%, bậc trung học cơ sở

66

đạt trên 60%, số em học trung học phổ thông, đại học, cao đẳng, trung học

chuyên nghiệp, dạy nghề chỉ có 20 em.

Công tác tổ chức khám chữa bệnh và chăm lo y tế, văn hóa... đối với

vùng này chưa được quan tâm đúng mức.

3.1.6.2. Về điều kiện sống và canh tác

- Các xóm, bản đặc biệt khó khăn có nhiều đồng bào H’mông sinh sống

cách xa khu trung tâm của xã, địa hình phức tạp, chia cắt thành từng vùng

riêng biệt, đi lại khó khăn, đất dốc, dễ bị rửa trôi, xói mòn, bạc màu.

- Cơ sở hạ tầng khó khăn và rất thiếu thốn: Đường giao thông đến trung

tâm các xóm, bản chủ yếu là đường cấp phối, đường đất nhiều điểm sạt lở, có

bản chỉ đi được xe máy vào mùa khô. Không có vốn để xây dựng kè chống sạt

lở, thoát nước, cứng hóa mặt đường nên nhiều con đường sau khi mở qua mùa

mưa là không đi được nữa.

Trường học: các phòng học được xây dựng tạm (bằng gỗ) đã xuống

cấp, số phòng học mẫu giáo và tiểu học ở một số điểm trường còn thiếu, các

em học sinh phải học ghép lớp. Thêm vào đó nhà công vụ cho giáo viên tại

các phân trường cùng chưa được đầu tư xây dựng, chỉ là nhà tạm.

Hệ thống điện: Theo kết quả điều tra, số hộ đồng bào H’mông sinh

sống được sử dụng điện chỉ đạt tỷ lệ 48,5%, một số xóm, bản chưa có điện

lưới quốc gia hoặc điện mới chỉ đến được trung tâm của xóm.

Nước sinh hoạt: Đồng bào sinh sống ở đây rất thiếu về nước sinh hoạt,

nguồn nước không đảm bảo vệ sinh ảnh hưởng đến cuộc sống sinh hoạt

thường ngày.

- Sản xuất nông nghiệp: Về trồng trọt, đồng bào chủ yếu trồng ngô,

trồng lúa một vụ, một số trồng màu và trồng cây công nghiệp; về chăn nuôi

đại gia súc chủ yếu là trâu, bò. Do đồng bào canh tác nông nghiệp lạc hậu

quảng canh chưa áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đưa giống mới vào sản

xuất; sản xuất phụ thuộc vào điều kiện thời tiết tự nhiên nên năng suất cây

67

trồng, vật nuôi không cao, chưa phát huy hết được tiềm năng, thế mạnh của

vùng nên đời sống gặp nhiều khó khăn.

- Về lâm nghiệp: Tổng diện tích đất rừng hiện có của 9 xóm, bản

khoảng 2.630 ha (trong đó: đất rừng tự nhiên 1.376 ha, đất rừng đã trồng

1.523 ha). Mặc dù diện tích đất rừng còn nhiều song do việc xác định các loại

rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng chưa rõ ràng về chỉ giới; tập

quán canh tác của bà con trồng ngô 2-3 vụ thì bỏ, sau 2-3 năm mới quay lại

trồng tiếp nên việc tạo nguồn thu từ trồng rừng nâng cao thu nhập còn rất hạn

chế, chưa phát huy hết được những lợi thế của vùng.

3.1.6.3. Nguyên nhân của tình hình trên

- Do di dân tự do, đồng bào dân tộc H’mông có sự gia tăng dân số cơ

học quá nhanh: Theo số liệu của Ban chỉ đạo cuộc tổng điều tra dân số Việt

Nam, năm 1979 toàn tỉnh Bắc Thái có 650 người dân tộc H’mông (Thái

Nguyên có 644 người); năm 1989 có 2.264 người; năm 1999 có 4.831 người;

năm 2009 có 7.230 người và qua điều tra, khảo sát đầu năm 2014 có 7.792

người. Việc gia tăng dân số dẫn đến tình trạng thiếu đất sản xuất, canh tác.

- Tập quán sinh hoạt, canh tác của đồng bào còn lạc hậu. Công tác

khuyên nông, tập huấn kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi cho đồng bào chưa được

thường xuyên và phát huy hiệu quả.

- Trình độ dân trí thấp, cuộc sống nghèo khó nên các thế lực thù địch,

tôn giáo gia tăng các hoạt động nhằm tranh thủ lôi kéo đồng bào. Trong khi

đó, đối với chính quyền địa phương: sự chỉ đạo, năm thực trạng chưa sâu, chỉ

đạo chưa kiên quyết, đồng bộ, chưa giành nguồn lực thích đáng để tạo thê

vươn lên; công tác quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực: dân tộc, tôn giáo, y

tế... còn nhiều hạn chế.

- Đồng bào có tập quán sinh sống di cư tự do, thường sống ở vùng núi

cao. Các xóm bản đều cách xa trung tâm của xã, địa hình phức tạp, chia cắt

thành từng vùng riêng biệt, cơ sở hạ tầng thấp kém, đi lại khó khăn.

68

3.2. Thực trạng vai trò của người phụ nữ dân tộc H’mông trong phát

triển kinh tế hộ gia đình ở các hộ nghiên cứu

Trong phần này, luận văn sẽ đi sâu phân tích thực trạng vai trò của phụ

nữ người H’mông trong phát triển kinh tế hộ gia đình ở huyện Đồng Hỷ.

Trước hết, tác giả sẽ phân tích các hoạt động mà huyện Đồng Hỷ đã và đang

thực hiện nhằm nâng cao vai trò của phụ nữ người H’mông; sau đó, tác giả

phân tích thực trạng vai trò của phụ nữ người H’mông trong phát triển kinh tế

hộ gia đình của đối tượng điều tra.

3.2.1. Các hoạt động nhằm nâng cao vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông

trong phát triển kinh tế hộ gia đình

Ban Thường vụ Hội LHPN huyện chỉ đạo 100% cơ sở Hội tổ chức các

hoạt động khuyến khích, hỗ trợ phụ nữ phát triển sản xuất, kinh doanh, làm

giàu chính đáng gắn với bảo vệ môi trường như: Đẩy mạnh công tác tập huấn

nâng cao kiến thức, hỗ trợ cho vay vốn, đào tạo nghề, giới thiệu việc làm cho

phụ nữ, thực hiện có hiệu quả các giải pháp giúp phụ nữ thoát nghèo bền

vững. Trong giai đoạn 2011-2016, 100% hộ nghèo do phụ nữ làm chủ được

Hội giúp đỡ trong đó có 34 hộ đồng bào dân tộc H’mông vươn lên thoát

nghèo, có thu nhập ổn định.

3.2.1.1. Xây dựng các phong trào phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói

giảm nghèo

Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Đồng Hỷ tiếp tục duy trì

và đẩy mạnh phong trào “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình” nhằm

thực hiện xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập; đồng thời Hội cũng đã phát

động phong trào “Phụ nữ làm kinh tế giỏi” để động viên, khuyến khích phụ

nữ vươn lên làm giàu chính đáng.

Những hoạt động “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, giảm nghèo bền

vững” của Hội phụ nữ các cấp đã góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh

thần cho hội viên phụ nữ và đóng góp tích cực trong việc thực hiện mục tiêu

xóa đói, giảm nghèo của huyện.

69

3.2.1.2. Tăng cường các biện pháp giúp đỡ phụ nữ đói nghèo có địa chỉ

Hàng năm, Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Đồng Hỷ tiến hành thống kê,

phân loại hộ đói, nghèo có phụ nữ dân tộc thiểu số, đặc biệt là phụ nữ người

H’mông làm chủ hộ để có kế hoạch giúp đỡ cụ thể. Phối hợp với Phòng Lao

động Thương binh xã hội của huyện tiến hành rà soát, xác định cụ thể địa chỉ

giúp đỡ, mục tiêu cần đạt, biện pháp hỗ trợ phù hợp với từng hộ.

Trong giai đoạn 2011-2016, các cấp Hội phụ nữ huyện Đồng Hỷ đã

mạnh dạn thành lập các mô hình kinh tế tập thể nhằm giúp hội viên phụ nữ có

điều kiện phát triển kinh tế vươn lên làm giàu. Nhiều mô hình liên kết, các tổ/

nhóm sở thích, tổ hợp tác, hợp tác xã được thành lập đã giải quyết việc làm

cho lao động nữ. Cụ thể: Thành lập mô hình “Trồng và chế biến sắn dây”

gồm 30 thành viên là người dân tộc H’mông tại xóm Liên Phương, xã Văn

Lăng; Mô hình ngân hàng bò nái sinh sản tại 6 xã; Mô hình sản xuất rau

sạch, rau an toàn; Mô hình tổ hợp tác “Chăn nuôi lợn thịt an toàn, đảm bảo

vệ sinh môi trường sử dụng đệm lót sinh học” tại xã Huống Thượng....Đồng

thời, tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm mô hình xóa đói giảm nghèo có địa

chỉ; biểu dương điển hình phụ nữ làm kinh tế giỏi, xây dựng gia đình no ấm.

3.2.1.3. Tập trung huấn luyện cán bộ Hội về kiến thức và kỹ năng cần thiết để

hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế

Xác định việc củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động Hội và xây dựng

tổ chức Hội vững mạnh là nhiệm vụ trọng tâm, then chốt, trong thời gian qua

các cấp Hội coi trọng việc tập huấn kiến thức cho cán bộ Hội, đặc biệt là kiến

thức và kỹ năng cần thiết để hỗ trợ hội viên phụ nữ phát triển kinh tế, đặc biệt

là phụ nữ người H’mông.

Chủ động tham mưu với Cấp uỷ về công tác phát triển đảng viên, tạo

điều kiện thuận lợi cho cán bộ Hội được tham gia học tập nâng cao trình độ

chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị để từng bước chuẩn hóa đội ngũ cán

70

bộ Hội. Đến cuối nhiệm kỳ, 100% Chủ tịch Hội LHPN các xã, thị trấn đạt

chuẩn chức danh. Hàng năm Ban Thường vụ Hội LHPN huyện đã chọn cử

cán bộ hội chủ chốt cấp xã tham gia đầy đủ các lớp tập huấn nghiệp vụ do Hội

LHPN tỉnh tổ chức. Phối hợp với Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện mở 7

lớp tập huấn nghiệp vụ cho 764 lượt cán bộ Hội cơ sở. Trong 5 năm đã có 587

chị được kết nạp vào Đảng.

3.2.1.4. Khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn

Các cấp Hội đã chủ động phối hợp với các Ngân hàng, khai thác nguồn

lực từ các chương trình, dự án, huy động nội lực đóng góp từ hội viên phụ nữ ...

để hỗ trợ cho hội viên phụ nữ phát triển kinh tế. Cụ thể: Từ năm 2011-2016,

Hội phụ nữ đã tín chấp với Ngân hàng CSXH với tổng dư nợ trên 80 tỷ đồng

cho 2.700 hộ vay; Hỗ trợ cho 60 chị là hội viên phụ nữ nghèo, phụ nữ

HIV/AIDS, phụ nữ dân tộc thiểu số và phụ nữ là nạn nhân bị buôn bán trở về

với số vốn trên 300 triệu đồng để phát triển kinh tế. Ngoài ra, chị em giúp

nhau phát triển kinh tế bằng cây, con giống, ngày công lao động, tiền mặt

không lấy lãi với tổng trị giá hơn 4 tỷ đồng. Đặc biệt, trong giai đoạn 2011-

2016, Hội LHPN huyện đã phối hợp với Sở NN&PTNT tỉnh Thái Nguyên;

Phòng NN&PTNT huyện Đồng Hỷ hỗ trợ lợn giống, bò nái sinh sản...trị giá

hơn 300 triệu đồng cho 50 chị hội viên phụ nữ nghèo phát triển kinh tế. Có

264/264 chi/tổ phụ nữ tham gia các loại hình tiết kiệm với 17.448 hội viên

tham gia gửi tiền tiết kiệm, tổng số tiền tiết kiệm 5.933.704.000đ đạt 100,5%

chỉ tiêu tỉnh giao.

3.2.1.5. Đẩy mạnh các hoạt động chuyển giao khoa học kỹ thuật cho phụ nữ

Phối hợp với các ngành tổ chức 169 lớp cho 7.426 lượt cán bộ, hội viên

tham gia tập huấn chuyển giao KHKT nông nghiệp với nhiều nội dung thiết

thực như: kỹ thuật chăm sóc lúa lai, ngô lai, sử dụng phân bón trên cây chè,

cách phòng trừ sâu bệnh cho cây trồng, vật nuôi, các sản phẩm thuốc bảo vệ

71

thực vật, chăm sóc chế biến chè an toàn theo quy trình VietGap…Sau khi

được tập huấn nhiều chị đã mạnh dạn chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi

theo hướng nâng cao giá trị sử dụng đất đạt giá trị kinh tế cao. Điển hình như

mô hình trồng trọt, chăn nuôi của gia đình chị Nông Thị Tâm - Chi hội trưởng

phụ nữ xóm Viến Ván, xã Quang Sơn; Mô hình chăn nuôi lợn thịt của gia

đình chị Phạm Thị Toan - hội viên phụ nữ xóm Già, xã Huống Thượng.

Hoạt động dạy nghề và giới thiệu việc làm tiếp tục được đẩy mạnh.

Trong nhiệm kỳ có 634 lao động nữ được đào tạo các ngành nghề, tư vấn giới

thiệu việc làm cho 1.437 lao động;

Phát triển mô hình Câu lạc bộ phụ nữ khuyến nông. Tổ chức Hội thi

Phụ nữ với khuyến nông ở các cấp.

3.2.2. Thực trạng vai trò của phụ nữ người H’mông trong phát triển kinh tế

hộ của đối tượng nghiên cứu

3.2.2.1. Đặc điểm của hộ nghiên cứu

Sau khi tiến hành điều tra các hộ theo hệ thống câu hỏi của phiếu điều

tra và tổng hợp số liệu thu được một số thông tin cần thiết về hộ điều tra phục

vụ nghiên cứu. Hộ nghiên cứu là các hộ gia đình phụ nữ dân tộc H’mông, có

độ tuổi từ 18 đến 55 tuổi. Hộ nghiên cứu phải nằm trong các xã được chọn,

đồng thời mang tính đại diện cho các hộ trong vùng. Kết quả chọn mẫu được

trình bày trong bảng sau:

Thông tin chung về hộ điều tra

Lao động là yếu tố cơ bản nhất quyết định sự tồn tại và phát triển trong

quá trình sản xuất của con người, không có một quá trình sản xuất nào diễn ra

mà không có sự tham gia của lao động. Đối với hộ gia đình thì số nhân khẩu,

số lao động trong hộ và trình độ học vấn của chủ hộ là những yếu tố quan

trọng phản ánh tình trạng hộ gia đình, nhất là hộ gia đình nghèo. Đối với hộ

nghèo, nếu đông người mà số lao động ít thì mức sống thường rất thấp, trình

độ của chủ hộ thấp thì khả năng tổ chức sản xuất kém.

72

Bảng 3.9. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu

Chỉ tiêu nghiên cứu Tần số Tỷ lệ %

Tên xã Xã Văn Lăng Xã Quang Sơn Xã Tân Long

Tổng số 102 28 96 226 45.1 12.4 42.5 100.0

Tuổi 18-24 tuổi 25-34 tuổi 35-44 tuổi 45-54 tuổi Trên 55 tuổi

Tổng số 28 84 37 66 11 226 12.4 37.2 16.4 29.2 4.9 100.0

Trình độ Không biết chữ Cấp 1 Cấp 2 Cấp 3 Đại học/ Cao đẳng

Tổng số 49 111 57 7 2 226 21.7 49.1 25.2 3.1 .9 100.0

Công việc Làm nương Làm ruộng Làm thuê

Tổng số 175 45 6 226 77.4 19.9 2.7 100.0

Bao nhiêu con 1 con 2 con 3 con 4 con 5 con 6 con

Tổng số 3 92 51 22 25 33 226 1.3 40.7 22.6 9.7 11.1 14.6 100.0

Loại hộ Hộ nghèo Hộ trung bình Hộ khá

Tổng số 176 26 24 226

77.9 11.5 10.6 100.0 (Nguồn: tổng hợp từ số liệu điều tra năm 2016)

73

Điều tra 226 hộ ở 3 xã Tân Long, Quang Sơn, Văn Lăng của huyện

Đồng Hỷ, cho thấy:

Về cơ cấu nhóm tuổi của đối tượng nghiên cứu:

Trong số 226 đối tượng được nghiên cứu, số lượng người có độ tuổi

dưới 25 có 28 người chiếm 12,4%, độ tuổi có tỷ lệ chiếm cao nhất là 25 tuổi

đến 34 tuổi (chiếm 37,2%), độ tuổi từ 35 - 44 tuổi có 37 người (chiếm

16,4%), độ tuổi từ 45-54 tuổi có 66 người chiếm tỷ lệ 29,2%, còn lại là độ

tuổi trên 55 tuổi có 11 người (chiếm 4,9%). Trong cơ cấu nhóm tuổi của đối

tượng nghiên cứu, có thể khẳng định đây là một lợi thế, một tiềm năng về

nguồn nhân lực khi mà số lượng lao động trong độ tuổi lao động chiếm một tỷ

lệ lớn. Tuy nhiên tỷ lệ lao động trong độ tuổi 45-54 tuổi có mức khá cao,

trong khi độ tuổi 18-24 tuổi có tỷ lệ thấp, điều đó cho thấy hiện nay là thời

điểm “dân số vàng” của đối tượng nghiên cứu, nhưng về lâu dài thì tỷ lệ lao

động này có xu hướng “già hóa”, trong khi lực lượng lao động trẻ kế cận có tỷ

lệ thấp. Đặt ra những vấn đề về giải quyết an sinh xã hội, tạo công ăn việc làm

phù hợp cho những đối tượng nghiên cứu.

Về trình độ học vấn

Trong số 226 người tham gia khảo sát, thì số người có trình độ trung

học phổ thông và đại học, cao đẳng là 7 người chiếm 4%, người có trình độ

tiểu học chiếm tỷ lệ cao nhất là 49,1%, người không biết chữ là 49 người

(21,7%) và có trình độ trung học cơ sở là 57 người (25,2%).Với kết quả khảo

sát trên ta có thấy rằng trình độ của phụ nữ dân tộc H’mông tại vùng nghiên

cứu còn rất thấp, chủ yếu mới chỉ học qua các lớp tiểu học, tỷ lệ không biết

chữ nhiều, với trình độ dân trí thấp như vậy sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến việc

lựa chọn các hoạt động sản xuất nhằm nâng cao thu nhập, hạn chế việc tiếp

cận thông tin, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất.

74

Về công việc của đối tượng điều tra:

Do đặc thù của đối tượng nghiên cứu là phụ nữ đồng bào dân tộc

H’mông, sống chủ yếu trên những vùng đồi núi cao, nên trong số 226 người

tham gia khảo sát, chủ yếu là làm nương có 175 người chiếm tỷ lệ 77,4%; ở

một số vùng thấp hơn, đối tượng nghiên cứu tham gia làm ruộng có 45 người

(19,9%), một số ít do ít đất trồng trọt nên đi làm thuê có 6 người (2,7%).

Về số con của đối tượng điều tra:

Số con của đối tượng điều tra phụ thuộc rất lớn vào độ tuổi của đối

tượng nghiên cứu, như đã phân tích ở trên, độ tuổi của đối tượng nghiên cứu

từ 24-35 tuổi chiếm tỷ lệ lớn, nhưng qua khảo sát số gia đình có 01 con là 3

gia đình chiếm tỷ lệ 1,3%; có 02 con có 92 gia đình chiếm tỷ lệ 40,7%, số gia

đình có 3 con có 51 người (22,6%). Số gia đình sinh từ 4 con trở lên có 80

người chiếm tỷ lệ 35,4%. Người dân đồng bào dân tộc vẫn mang nặng tư

tưởng sinh đẻ tự nhiên, phải đông con để nhiều lao động tham gia sản xuất và

quan trọng nhất là phong tục và đức tin của đồng bào dân tộc H’mông là

không được phép phá thai. Tuy vậy, với nhiều gia đình, họ cũng xác định

được việc đẻ nhiều con sẽ càng làm cho cuộc sống khó khăn hơn, trong quá

trình đi khảo sát, tác giả thấy rằng ở những gia đình phụ nữ lớn tuổi thì số con

rất lớn, thậm chí trên thực tế có những hộ người dân tộc H’mông sinh 13 con

như gia đình anh Hùng Văn Dình (1974) và vợ là chị Vương Thị De (1973) ở

xóm Mỏ Ba, Tân Long hay như hộ gia đình ông Ngô Văn Sùng (1956) cũng ở

Mỏ Ba, Tân Long có đến 20 người con của 2 người vợ. Qua kết quả điều tra

cho thấy, người dân tộc H’mông đã có ý thức hơn trong việc sinh đẻ có kế

hoạch, tuy nhiên số lượng con vẫn lớn (Từ 3 đến 4 người con).

Về loại hộ của đối tượng nghiên cứu:

Qua khảo sát 226 hộ, số hộ nghèo là 176 hộ chiếm tỷ lệ 77,9%; số hộ

trung bình là 26 hộ chiếm 11,5%; chỉ có 24 hộ chiếm 10,6% là hộ khá. Như

vậy, có thể thấy các hộ dân vùng đồng bào dân tộc H’mông chủ yếu là hộ

nghèo, đời sống kinh tế còn gặp nhiều khó khăn.

75

Về nhà ở của đối tượng nghiên cứu

Hình 3.2: Nhà ở của đối tượng nghiên cứu

(Nguồn: tổng hợp từ số liệu điều tra năm 2016)

Do phong tục, tập quán của người H’mông nên họ chủ yếu sinh sống

trong những căn nhà gỗ ván, trong 226 đối tượng nghiên cứu có 149 hộ ở nhà

gỗ ván chiếm (65,9%). Có một số ít hộ đồng bào dân tộc H’mông do sinh

sống cùng người dân tộc Kinh và các dân tộc khác, đồng thời điều kiện kinh

tế khá hơn nên họ làm nhà xây vừa để đảm bảo điều kiện sống, vừa an toàn,

trong các hộ nghiên cứu, những hộ làm nhà xây có 48 hộ chiếm 21,2%. Còn

lại là những hộ không có điều kiện, kinh tế còn khó khăn nên nhà của họ là

nhà tranh tre, chiếm 12,8%.

Tình hình đất sản xuất và tài sản của hộ nghiên cứu

Do đặc điểm địa hình cư trú chủ yếu tập trung ở các sườn núi cao có

điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, địa hình hiểm trở, giao thông đi

lại khó khăn; cùng với đó là tập quán canh tác lạc hậu nên việc phát triển

kinh tế hộ gia đình của đồng bào dân tộc H’mông tại các xã được nghiên cứu

chủ yếu dựa vào trồng trọt, một số ít có thêm hoạt động chăn nuôi. Do đó,

quy mô đất đai sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến việc tạo công ăn việc

làm và thu nhập của họ.

Kết quả điều tra cho thấy, diện tích đất bãi của các hộ vùng nghiên cứu

bình quân là 2.158,85 m2 , diện tích đất ruộng là 6.648,52 m2. Hộ có diện tích

đất bãi và đất ruộng cao nhất là xã Văn Lăng.

76

Những nhóm hộ có tổng diện tích đất thấp chủ yếu tập trung ở xã

Quang Sơn Thiếu đất là một trong những yếu tố cản trở việc sản xuất kinh

doanh đặc biệt là các hộ nghèo thuần nông và đây cũng là một trong những

nguyên nhân chính của các hộ nghèo, nhưng việc giải quyết vấn đề này là rất

khó vì tổng diện tích đất của toàn xã hội luôn là một số không đổi.

Bảng 3.10: Đất đai sản xuất và tài sản của hộ

Số trung

Độ lệch

Mẫu

Sai số

bình

chuẩn

Văn Lăng

102 2210.20

1857.641

183.934

Quang Sơn

28

903.57

613.045

115.855

Diện tích đất bãi

Tân Long

96 2470.42

1152.323

117.608

Tổng số

226 2158.85

1547.091

102.911

Văn Lăng

102 7466.49 71251.502 7054.950

Quang Sơn

28

42.86

226.779

42.857

Diện tích đất ruộng

Tân Long

96 7706.08 73464.714 7497.961

Tổng số

226 6648.52 67556.538 4493.794

Văn Lăng

102

1.0105 989931.093

9.80204

Quang Sơn

28

7.1505 1486998.676

2.81005

Diện tích đất rừng

Tân Long

96

1.3705 674349.609

6.88304

Tổng số

226

1.9205 967605.690

6.43604

Văn Lăng

102

10.98

56.892

5.633

Quang Sơn

28

.00

.000

.000

Diện tích đất ao hồ

Tân Long

96

3.75

36.742

3.750

Tổng số

226

6.55

45.172

3.005

Văn Lăng

102

22.55

124.206

12.298

Quang Sơn

28 8571.43 38269.443 7232.245

Diện tích đất khác

Tân Long

96

10.42

102.062

10.417

Tổng số

226 1076.55 13554.939

901.661

(Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)

77

Bảng 3.11: So sánh sự khác biệt về diện tích đất sản xuất giữa

các vùng nghiên cứu

ANOVA

F

Bậc tự do (df)

Mức ý nghĩa

Tổng độ lệch bình phương

Trung bình bình phương

Giữa các mẫu

5.371007

2

2.685007 12.352

.000

Diện tích

Trong nội bộ các mẫu

4.848008

223 2174111.311

đất bãi

Tổng số

5.38508

225

Giữa các mẫu

1.39709

2

6.987008

.152

.859

Diện tích

Trong nội bộ các mẫu

1.025012

223

4.599009

đất ruộng

Tổng số

1.027012

225

Giữa các mẫu

8.780012

2 4.3900012

4.849

.009

Diện tích

Trong nội bộ các mẫu

2.019014

223 9.0530011

đất rừng

Tổng số

2.107014

225

Giữa các mẫu

3956.004

2

1978.002

.969

.381

Diện tích

Trong nội bộ các mẫu 455151.961

223

2041.040

đất ao hồ

Tổng số

459107.965

225

Giữa các mẫu

1.79509

2

8.976008

5.062

.007

Diện tích

Trong nội bộ các mẫu

3.955010

223

1.773008

đất khác

Tổng số

4.134010

225

(Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)

Kết quả phân tích ANOVA ở bảng trên cho ta thấy có diện tích đất bãi,

diện tích đất rừng, diện tích đất ao hồ và diện tích đất khác là có sự khác biệt

giữa các xã nghiên cứu (sig <0.05), còn đối với diện tích đất ruộng không có

sự khác biệt (sig>0.05). Điều này cho thấy diện tích đất sản xuất ở các xã

nghiên cứu cơ bản là không giống nhau, nguyên nhân là mỗi một xã lại có

điều kiện tự nhiên, đặc điểm khi hậu, thổ nhưỡng khác nhau, do vậy ảnh

hưởng trực tiếp đến diện tích đất sản xuất của từng vùng nghiên cứu.

78

Tuy nhiên, diện tích đất ruộng không có sự khác biệt nhiều giữa các

xã là do việc canh tác lúa nước phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thời tiết,

đặc điểm đất đai, trong khi người H’mông ở huyện Đồng Hỷ không như

người H’mông ở vùng trung du miền núi phía Bắc khác là biết trồng lúa

nước trên ruộng bậc thang, do vậy để trồng lúa nước, người dân phải chọn

những nơi địa hình bằng phẳng, có diện tích đủ rộng mới có thể canh tác

được. Vì thế nên diện tích đất trồng lúa là không có sự khác biệt giữa các

vùng nghiên cứu.

3.2.2.2. Thực trạng vai trò của người phụ nữ dân tộc H’mông trong phát triển

kinh tế hộ gia đình tại các hộ nghiên cứu

* Trong hoạt động quản lý và điều hành sản xuất

Hình 3.3: Về vai trò lao động của phụ nữ dân tộc H’mông trong gia đình

(Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)

Trong 226 người phụ nữ dân tộc H’mông tham gia khảo sát thì số

người là lao động chính trong gia đình là 220 người, chiếm tỷ lệ 97,3%, chỉ

có 6 người là lao động phụ chiếm tỷ lệ 2,7%. Điều đó cho thấy vai trò rất

quan trọng của phụ nữ H’mông trong lao động sản xuất tại gia đình, nó cũng

thể hiện vị trí của người phụ nữ trong gia đình, là lao động chủ lực sản xuất ra

của cải vật chất.

79

Bảng 3.12. Vai trò của giới trong việc phân công lao động và điều hành

hoạt động sản xuất của hộ

Vợ

Cả vợ và chồng

Chồng

Tần số Tỷ lệ % Tần số Tỷ lệ % Tần số Tỷ lệ %

48

21.24

136

60.18

42

18.58

Người phân công lao động trong gia đình Phân công bán cho ai

51

22.57

154

68.14

21

9.29

Phân công bán ở đâu

52

23.01

156

69.03

18

7.96

Người xác định giá bán

51

22.57

157

69.47

18

7.96

Tổng số

202

22.35

603

66.70

99

10.95

(Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)

Kết quả nghiên cứu cho thấy: Trong tổng số 226 mẫu nghiên cứu thì hộ

gia đình có người chồng quyết định phân công lao động và điều hành hoạt

động sản xuất chiếm tỷ lệ thấp nhất 10,95%, tiếp theo là hộ có người vợ đứng

ra chỉ đạo công việc là 22,35% và chiếm tỷ lệ cao nhất là cả 2 vợ chồng cùng

quyết định chung là 66,7%. Điều này cho thấy vai trò quan trọng của người

phụ nữ trong gia đình hoặc trực tiếp điều hành hay cùng với chồng quyết định

công việc lớn trong gia đình.

* Trong hoạt động sản xuất tạo thu nhập

- Trong hoạt động trồng trọt

Bảng 3.13: Vai trò của phụ nữ trong hoạt động trồng ngô

Vợ

Chồng

Đi thuê

Tổng công lao động

Tỷ lệ %

Tỷ lệ %

Ngày công

2.527

Ngày công 1479,5 58,55

Ngày công 1024,5 40,54

Làm đất

Tỷ lệ % 0,91

23

Trồng ngô

1.668

970,5 58,18

686,5 41,16

0,66

11

Chăm sóc ngô

2.033

1188 58,44

832 40,92

0,64

13

Thu hoạch

1.778

967,5 54,42

730,5 41,09

4,50

80

Tổng cộng

8.006

4605,5 57,53

3273,5 40,89

127

1,59

(Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)

80

Bảng trên cho thấy các hoạt động trồng ngô của hộ gia đình. Các hoạt

động này bao gồm các hoạt động cơ bản sau: làm đất, trồng ngô, chăm sóc và

thu hoạch ngô. Hộ chủ yếu sử dụng lao động của gia đình, việc thuê lao động

chủ yếu ở những hộ có diện tích trồng ngô lớn, lao động của gia đình ít và vào

những lúc mùa vụ như thu hoạch ngô là những hoạt động mang tính thời vụ.

Do tập quán canh tác và kinh tế hộ chủ yếu là tự cung, tự cấp nên tỷ lệ lao

động đi thuê rất thấp, trung bình các hoạt động trồng ngô chỉ có 1,59% là lao

động đi thuê. Các hoạt động còn lại đều do gia đình đảm nhiệm.

Giữa người vợ và người chồng, người vợ tham gia vào tất cả những

hoạt động của quá trình trồng ngô và chiếm tỷ trọng cao trong từng hoạt

động: làm đất chiếm 58,55% tổng số công làm đất, trồng ngô chiếm 58,18%

tổng số công trồng ngô, chăm sóc ngô 58,44% ngày công chăm sóc ngô và

thu hoạch ngô 54,42% tổng số ngày công thu hoạch.

Số còn lại là công việc của người chồng. Người chồng tham gia vào tất

cả các công việc của quá trình trồng ngô. Tuy nhiên, tỷ trọng tham gia vào

từng hoạt động của người chồng thấp hơn so với người vợ: làm đất chiếm

40,54% tổng số công làm đất, trồng ngô chiếm 41,16% tổng số công trồng

ngô, chăm sóc ngô 40,92% ngày công chăm sóc ngô và thu hoạch ngô

41,09% tổng số ngày công thu hoạch.

Trong số 226 mẫu điều tra nghiên cứu, số ngày công thực hiện các

công việc của hoạt động trồng ngô được thể hiện ở bảng sau:

Mẫu

Độ lệch chuẩn

Sai số

Số trung bình

Số ngày công làm đất của vợ

Số ngày công làm đất của chồng

Bảng 3.14: Vai trò của phụ nữ trong hoạt động trồng ngô

Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số

102 28 96 226 102 28 96 226

7.9853 2.7143 6.1354 6.5465 5.9363 1.1071 4.0417 4.5332

4.93796 2.08801 3.08688 4.28136 4.25119 1.70705 2.50858 3.68450

.48893 .39460 .31505 .28479 .42093 .32260 .25603 .24509

Số ngày công làm đất lao động đi thuê

Số ngày công trồng ngô của vợ

Số ngày công trồng ngô của chồng

Số ngày công trồng ngô lao động đi thuê

Số ngày công chăm sóc ngô của vợ

Số ngày công chăm sóc ngô của chồng

Số ngày công chăm sóc ngô lao động đi thuê

Số ngày công thu hoạch của vợ

Số ngày công thu hoạch của chồng

Số ngày công thu hoạch lao động đi thuê

81

Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số

102 28 96 226 102 28 96 226 102 28 96 226 102 28 96 226 102 28 96 226 102 28 96 226 102 28 96 226 102 28 96 226 102 28 96 226 102 28 96 226

1.10263 .56695 .51031 .83442 3.56309 1.18187 2.35193 3.04790 3.63834 .86984 2.05163 2.97129 .49507 .52453 .20412 .40257 3.55937 1.96665 2.73555 3.22154 3.07469 1.31887 3.09327 3.09771 .57482 .00000 .51031 .50882 2.96424 2.15780 2.10090 2.63558 2.81277 1.41234 2.29487 2.58591 2.15063 .52453 1.25337 1.67555

.1471 .1071 .0521 .1018 5.0490 1.7143 4.2448 4.2942 3.8431 .6429 2.8802 3.0376 .0490 .1429 .0208 .0487 5.3039 2.6429 5.9688 5.2566 3.8235 .9643 4.3229 3.6814 .0784 .0000 .0521 .0575 4.6863 2.2857 4.4323 4.2810 3.6373 1.0714 3.4323 3.2323 .5588 .1429 .1979 .3540

.10918 .10714 .05208 .05551 .35280 .22335 .24004 .20274 .36025 .16438 .20939 .19765 .04902 .09913 .02083 .02678 .35243 .37166 .27920 .21429 .30444 .24924 .31571 .20606 .05692 .00000 .05208 .03385 .29350 .40779 .21442 .17532 .27851 .26691 .23422 .17201 .21294 .09913 .12792 .11146 (Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)

82

Trung bình số ngày công làm đất trồng ngô của người vợ là 6,54 ngày

công, trong khi người chồng có số ngày công làm đất là 4,53 ngày. Các hoạt

động khác của quá trình trồng ngô cũng thể hiện số ngày công của người vợ

thực hiện các công việc này cũng lớn hơn so với ngày công mà người chồng

bỏ ra: thể hiện ngày công trồng ngô của vợ là 4,29 ngày, của chồng là 3,03

ngày; ngày công chăm sóc ngô của vợ là 5,25 ngày, trong khi ngày công chăm

sóc ngô của chồng chỉ có 3,68 ngày; đến vụ thu hoạch, người vợ phải bỏ ra

4,3 ngày công để thu hoạch ngô, còn người chồng chỉ có 3,2 ngày công để

thực hiện công việc này.

Bảng trên chỉ cho ta thấy được vai trò quan trọng của người phụ nữ

trong hoạt động trồng ngô - hoạt động mang thu nhập chính cho các hộ gia

đình người dân tộc H’mông.

Bảng 3.15: Sự khác biệt về số ngày công thực hiện các công việc

trồng ngô ở các xã nghiên cứu

ANOVA

df

F

Tổng độ lệch bình phương

Mức ý nghĩa

Trung bình bình phương 319.290 20.427

.000

Giữa các mẫu

638.580

2

Số ngày công

Trong nội bộ các mẫu

3485.682

223

15.631

làm đất của vợ

Tổng số

4124.262

225

Giữa các mẫu

552.653

2

276.327 24.630

.000

Số ngày công

làm đất

Trong nội bộ các mẫu

2501.848

223

11.219

của chồng

Tổng số

3054.501

225

Giữa các mẫu

.447

2

.319

.727

.224

Số ngày công

làm đất lao

Trong nội bộ các mẫu

156.212

223

.701

động đi thuê

Tổng số

156.659

225

Giữa các mẫu

244.716

2

122.358 14.785

.000

Số ngày công

trồng ngô

Trong nội bộ các mẫu

1845.467

223

8.276

của vợ

Tổng số

2090.183

225

Giữa các mẫu

229.139

2

114.570 14.539

.000

Số ngày công

trồng ngô

Trong nội bộ các mẫu

1757.291

223

7.880

của chồng

83

Tổng số

1986.430

225

Giữa các mẫu

.323

2

.996

.371

.161

Số ngày công

trồng ngô lao

Trong nội bộ các mẫu

36.142

223

.162

động đi thuê

Tổng số

36.465

225

Giữa các mẫu

240.202

2

120.101 12.785

.000

Số ngày công

chăm sóc ngô

Trong nội bộ các mẫu

2094.913

223

9.394

của vợ

Tổng số

2335.115

225

Giữa các mẫu

248.285

2

124.142 14.488

.000

Số ngày công

chăm sóc ngô

Trong nội bộ các mẫu

1910.777

223

8.569

của chồng

Tổng số

2159.062

225

Giữa các mẫu

.140

2

.269

.765

.070

Số ngày công

.261

chăm sóc ngô

Trong nội bộ các mẫu

58.112

223

lao động đi thuê

Tổng số

58.252

225

Giữa các mẫu

130.423

2

65.212 10.152

.000

Số ngày công

thu hoạch

Trong nội bộ các mẫu

1432.485

223

6.424

của vợ

Tổng số

1562.908

225

Giữa các mẫu

151.309

2

75.654 12.467

.000

Số ngày công

thu hoạch

Trong nội bộ các mẫu

1353.245

223

6.068

của chồng

Tổng số

1504.554

225

Giữa các mẫu

7.866

2

3.933

1.406

.247

Số ngày công

thu hoạch lao

Trong nội bộ các mẫu

623.815

223

2.797

động đi thuê

Tổng số

631.681

225

(Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)

Qua bảng phân tích ANOVA ở trên cho thấy thấy tất cả các yếu tố

kiểm định về ngày công của vợ và của chồng đều có sig < 5%, điều đó khẳng

định có sự khác biệt về số ngày công của vợ và của chồng trong các hoạt động

trồng ngô ở các vùng nghiên cứu. Tuy có sự khác biệt về số ngày công thực

hiện các công việc của quá trình trồng ngô, nhưng ở các vùng nghiên cứu thì tỷ

lệ ngày công tham gia đóng góp của người vợ đều luôn cao hơn so với sự tham

gia đóng góp ngày công của chồng.

84

+ Trong hoạt động trồng lúa

Bảng 3.16: Vai trò của phụ nữ trong hoạt động trồng lúa

Vợ

Chồng

Đi thuê

Tổng công lao động

Ngày công

420

Tỷ lệ % 56,91

Ngày công 314

Tỷ lệ % 42,55

Ngày công 4

Làm đất

738

Tỷ lệ % 0,54

Cấy lúa

691

414

59,91

273

39,51

0,58

4

Chăm sóc lúa

649

374

57,63

275

42,37

0

0

Gặt

611

317

51,88

288

47,14

0,98

6

Thu hoạch

612

344

56,21

268

43,79

0

0

Tổng số

3301

1869

56,62

1418

42,96

14

0,42

(Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)

Bảng trên cho thấy các hoạt động trồng lúa của hộ gia đình, bao gồm

các hoạt động cơ bản sau: làm đất, cấy lúa, chăm sóc lúa, gặt và thu hoạch

lúa. Trong các hoạt động này, sử dụng chủ yếu lao động của gia đình, chỉ thuê

lao động vào những lúc mùa vụ như làm đất, cấy lúa và gặt lúa là những hoạt

động mang tính thời vụ, tuy nhiên chỉ có một số ít là lao động thuê ngoài,

chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong hoạt động trồng lúa của hộ. Tỷ lệ trung bình của lao

động đi thuê trong các hoạt động trồng lúa chỉ chiếm 0,42%.

Trong hộ gia đình, người vợ tham gia vào tất cả các khâu của quá trình

trồng lúa và chiếm tỷ lệ cao trong các hoạt động trồng lúa của hộ, tỷ lệ trung

bình là 56,62% các hoạt động của quá trình trồng lúa do người vợ đảm nhận, cụ

thể: làm đất chiếm 56,91% tổng số công làm đất, cấy lúa chiếm 59,91% tổng số

công cấy lúa, chăm sóc lúa 57,63% ngày công chăm sóc lúa, gặt lúa 51,88%

ngày công gặt lúa và thu hoạch lúa 56,21% tổng số ngày công thu hoạch.

Người chồng tham gia vào tất cả các công việc của quá trình trồng lúa.

Tuy nhiên, tỷ trọng tham gia vào từng hoạt động của người chồng thấp hơn

so với người vợ: làm đất chiếm 42,55% tổng số công làm đất, cấy lúa chiếm

39,51% tổng số công cấy lúa, chăm sóc lúa 42,37% ngày công chăm sóc lúa,

85

gặt lúa 47,14% ngày công gặt lúa và thu hoạch lúa 43,79% tổng số ngày

công thu hoạch. Tỷ lệ trung bình của người chồng tham gia vào quá trình

trồng lúa là 42,96%.

Trong số 226 mẫu điều tra nghiên cứu, việc đóng góp ngày công của vợ

và ngày công của chồng trong các hoạt động của quá trình trồng lúa được thể

hiện trong bảng sau:

Số trung bình

Mẫu

Độ lệch chuẩn

Sai số

Văn Lăng

102

3.1471

3.63807

.36022

Đóng góp ngày công làm đất của vợ

Quang Sơn

28

.0357

.18898

.03571

Tân Long

96

1.0208

2.55458

.26073

Bảng 3.17: Đóng góp của phụ nữ trong hoạt động trồng lúa

Tổng số

226

1.8584

3.18850

.21210

Văn Lăng

102

2.2647

2.80356

.27759

Đóng góp ngày công làm đất lúa của chồng

Quang Sơn

28

.0357

.18898

.03571

Tân Long

96

.8542

2.05697

.20994

Tổng số

226

1.3894

2.45288

.16316

Văn Lăng

102

.0196

.19803

.01961

Đóng góp ngày công làm đất lúa thuê

Quang Sơn

28

.0000

.00000

.00000

Tân Long

96

.0208

.20412

.02083

Tổng số

226

.0177

.18773

.01249

Văn Lăng

102

2.8627

3.25725

.32252

Đóng góp ngày công cấy lúa của vợ

Quang Sơn

28

.0714

.37796

.07143

Tân Long

96

1.2500

2.68328

.27386

Tổng số

226

1.8319

2.97180

.19768

Văn Lăng

102

1.7373

2.60825

.25825

Đóng góp ngày công cấy lúa của chồng

Quang Sơn

28

.0357

.18898

.03571

Tân Long

96

.9896

2.41702

.24669

Tổng số

226

1.2088

2.41724

.16079

Văn Lăng

102

.0196

.19803

.01961

Đóng góp ngày công cấy lúa thuê

Quang Sơn

28

.0000

.00000

.00000

Tân Long

96

.0208

.20412

.02083

Tổng số

226

.0177

.18773

.01249

Văn Lăng

102

2.6863

3.38014

.33468

Đóng góp ngày công chăm sóc lúa của vợ

86

Quang Sơn Tân Long Tổng số

28 96 226

.0357 1.0312 1.6549

.18898 2.42119 2.92960

.03571 .24711 .19487

Văn Lăng

102

1.9118

2.77579

.27484

Đóng góp ngày công chăm sóc lúa của chồng

Quang Sơn Tân Long Tổng số

28 96 226

.0357 .8229 1.2168

.18898 2.17156 2.43162

.03571 .22163 .16175

Văn Lăng

102

.0000

.00000

.00000

Đóng góp ngày công chăm sóc lúa đi thuê

Quang Sơn Tân Long Tổng số

28 96 226

.0000 .0000 .0000

.00000 .00000 .00000

.00000 .00000 .00000

Văn Lăng

102

2.1618

2.45066

.24265

Đóng góp ngày công gặt lúa của vợ

Quang Sơn Tân Long Tổng số

28 96 226

.0357 .9948 1.4027

.18898 2.19388 2.30155

.03571 .22391 .15310

Văn Lăng

102

1.5833

2.07899

.20585

Đóng góp ngày công gặt lúa của chồng

Quang Sơn Tân Long Tổng số

28 96 226

.0357 .6823 1.0088

.18898 1.65294 1.84690

.03571 .16870 .12285

Văn Lăng

102

.0196

.19803

.01961

Đóng góp ngày công gặt lúa thuê

Quang Sơn Tân Long Tổng số

28 96 226

.0357 .0312 .0265

.18898 .22725 .20913

.03571 .02319 .01391

Văn Lăng

102

2.2990

2.76135

.27341

Đóng góp ngày công thu hoạch của vợ

Quang Sơn Tân Long Tổng số

28 96 226

.1429 1.0938 1.5199

.75593 2.43258 2.56486

.14286 .24827 .17061

Văn Lăng

102

1.7598

2.43401

.24100

Đóng góp ngày công thu hoạch của chồng

Quang Sơn Tân Long Tổng số

28 96 226

.0000 .9167 1.1836

.00000 2.12586 2.21874

.00000 .21697 .14759

Văn Lăng

102

.0000

.00000

.00000

Đóng góp ngày công thu hoạch đi thuê

Quang Sơn Tân Long Tổng số

28 96 226

.0000 .0000 .0000

.00000 .00000 .00000

.00000 .00000 .00000

(Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)

87

Bảng trên chỉ cho ta thấy trong các hoạt động của quá trình trồng lúa:

lầm đất, cấy lúa, chăm sóc và gặt lúa đều có sự tham gia góp sức của vợ và

chồng, tuy nhiên cũng như hoạt động trồng ngô, số ngày công của người vợ

tham gia các quá trình của hoạt động trồng lúa đều cao hơn so với người

chồng. Điều đó cho ta thấy được vai trò quan trọng của người phụ nữ trong

hoạt động trồng lúa, cùng với hoạt động trồng ngô để mang lại thu nhập cho

các hộ gia đình người dân tộc H’mông.

Trong phần này, chúng ta kiểm định sự khác biệt về đóng góp ngày

công của vợ, đóng góp ngày công của chồng vào hoạt động trồng lúa ở các

vùng nghiên cứu, được thể hiện trong bảng dưới đây:

Bảng 3.18: Sự khác biệt về số ngày công thực hiện

các công việc trồng lúa ở các xã nghiên cứu

ANOVA

df

F

Mức ý nghĩa

Tổng độ lệch bình phương

Trung bình bình phương

Giữa các mẫu

329.752

2 164.876 18.781

.000

Đóng góp ngày công

Trong nội bộ các mẫu

1957.717

223

8.779

làm đất lúa của vợ

Tổng số

2287.469

225

Giữa các mẫu

156.959

2

78.479 14.623

.000

Đóng góp

ngày công làm đất

Trong nội bộ các mẫu

1196.776

223

5.367

lúa của chồng

Tổng số

1353.735

225

Giữa các mẫu

.010

2

.005

.142

.868

Đóng góp ngày công

Trong nội bộ các mẫu

7.919

223

.036

làm đất lúa thuê

Tổng số

7.929

225

Giữa các mẫu

227.675

2 113.838 14.428

.000

Đóng góp ngày công

Trong nội bộ các mẫu

1759.436

223

7.890

cấy lúa của vợ

Tổng số

1987.111

225

Giữa các mẫu

71.630

2

35.815

6.425

.002

Trong nội bộ các mẫu

1243.052

223

5.574

Đóng góp ngày công cấy lúa của chồng

88

Tổng số

1314.682

225

Giữa các mẫu

.010

2

.142

.868

.005

Trong nội bộ các mẫu

7.919

223

.036

Đóng góp ngày công cấy lúa thuê

Tổng số

7.929

225

Giữa các mẫu

219.248

2 109.624 14.281

.000

Trong nội bộ các mẫu

1711.831

223

7.676

Đóng góp ngày công chăm sóc lúa của vợ

Tổng số

1931.080

225

Giữa các mẫu

103.216

2

51.608

9.378

.000

Trong nội bộ các mẫu

1227.160

223

5.503

Đóng góp ngày công chăm sóc lúa của chồng

Tổng số

1330.376

225

Giữa các mẫu

.000

2

.000

.

.

Trong nội bộ các mẫu

.000

223

.000

Đóng góp ngày công chăm sóc lúa đi thuê

Tổng số

.000

225

Giữa các mẫu

127.066

2

63.533 13.306

.000

Trong nội bộ các mẫu

1064.793

223

4.775

Đóng góp ngày công gặt lúa của vợ

Tổng số

1191.858

225

Giữa các mẫu

70.416

2

35.208 11.264

.000

Trong nội bộ các mẫu

697.066

223

3.126

Đóng góp ngày công gặt lúa của chồng

Tổng số

767.482

225

Giữa các mẫu

.009

2

.106

.899

.005

Trong nội bộ các mẫu

9.831

223

.044

Đóng góp ngày công gặt lúa thuê

Tổng số

9.841

225

Giữa các mẫu

132.446

2

66.223 10.958

.000

Trong nội bộ các mẫu

1347.715

223

6.044

Đóng góp ngày công thu hoạch của vợ

Tổng số

1480.160

225

Giữa các mẫu

79.931

2

39.965

8.672

.000

Trong nội bộ các mẫu

1027.699

223

4.609

Đóng góp ngày công thu hoạch của chồng

Tổng số

1107.629

225

Giữa các mẫu

.000

2

.000

.

.

Trong nội bộ các mẫu

.000

223

.000

Đóng góp ngày công thu hoạch thuê

Tổng số

.000

225

(Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)

89

Qua bảng phân tích ANOVA ở trên cho thấy thấy tất cả các yếu tố

kiểm định về ngày công của vợ và của chồng đều có sig < 5%, điều đó khẳng

định có sự khác biệt về số ngày công của vợ và của chồng trong các hoạt động

trồng lúa ở các vùng nghiên cứu.

Trong hoạt động chăn nuôi của hộ

Như đã phân tích ở trên, có thể khẳng định vai trò quan trọng của người

phụ nữ trong hoạt động trồng trọt của hộ. Bên cạnh hoạt động trồng trọt, các

hộ gia đình người dân tộc H’mông cũng tiến hành các hoạt động chăn nuôi,

chăn nuôi của hộ gồm nuôi gà, lợn, trâu và bò. Tuy nhiên hoạt động chăn nuôi

gà và lợn của hộ chủ yếu là để phục vụ nhu cầu chăn nuôi lấy thịt cải thiện

bữa ăn của gia đình và phục vụ những ngày lễ, tết, cúng ma, cưới hỏi theo

phong tục của người H’mông; đối với trâu và bò thì người dân chủ yếu nuôi

để lấy sức kéo phục vụ cho hoạt động sản xuất của hộ.

Qua khảo sát ở các hộ nghiên cứu, hoạt động chăn nuôi của hộ chủ yếu

do người phụ nữ và con cái trong gia đình đảm nhận. Trẻ con trong nhà

thường có nhiệm vụ đi chăn trâu, bò cho gia đình. Người phụ nữ thường cho

ăn và chăm sóc gia cầm, vật nuôi.

Trong hoạt động lâm nghiệp

Bảng 3.19: Phân công lao động trong hoạt động lâm nghiệp

Vợ

Chồng

Người khác

Cả vợ và chồng

Tần số

Tỷ lệ %

Tỷ lệ %

Tần số

Tỷ lệ %

Tần số

Phân công phát cây, dọn đồi

64 28,32

Tần số 150 66,37

10 4,42

Tỷ lệ % 0,88

2

Phân công cuốc hố, trồng cây

58 25,66

157 69,47

10 4,42

1

0,44

Phân công chăm sóc rừng

59 26,11

155 68,58

11 4,87

1

0,44

80 35,40

135 59,73

10 4,42

1

0,44

Phân công lấy măng, sản phẩm phụ Phân công khai thác gỗ, bán

51 22,57

143 63,27

31 13,72

1

0,44

Tổng số

312 27,61

740 65,49

72 6,37

6

0,53

(Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)

90

Bảng trên cho thấy các hoạt động lâm nghiệp của hộ gia đình, bao gồm

các hoạt động cơ bản sau: phát cây, dọn đồi, cuốc hố, trồng cây, lấy măng, sản

phẩm phụ, khai thác gỗ, bán. Trong các hoạt động này, sử dụng chủ yếu lao

động của gia đình, qua khảo sát điều tra, ngoài vợ và chồng tham gia vào các

hoạt động lâm nghiệp thì có bố, mẹ và con cái tham gia vào hoạt động này. Tuy

nhiên, chủ yếu vẫn là vợ và chồng, người khác chiếm tỷ lệ rất ít, chỉ có 0,53%.

Do địa bàn cư trú của người H’mông chủ yếu trên vùng núi cao, hoạt

động lâm nghiệp không mang lại nhiều về giá trị kinh tế cho gia đình nhưng

lại có ảnh hưởng lớn đến việc bảo vệ rừng, đem lại lợi ích lâu dài cho người

dân đó là giữ đất, chống xói mòn đất, chống lũ quét và lũ ống, đảm bảo an

toàn cho đời sống của họ và tận dụng các sản phẩm phụ của rừng để phục vụ

cho đời sống của hộ gia đình.

Trong các hộ gia đình tiến hành nghiên cứu, hoạt động lâm nghiệp chủ

yếu là sự đóng góp, tham gia của cả vợ và chồng, tỷ lệ trung bình tham gia

các hoạt động lâm nghiệp của vợ và chồng là 65,49%.

Một số gia đình do phụ nữ làm chủ, người chồng đi làm thuê ở nơi khác

hoặc không có chồng hoặc người chồng không có khả năng lao động nên toàn

bộ hoạt động lâm nghiệp do người vợ gánh vác, tỷ lệ trung bình của người vợ

tham gia hoạt động lâm nghiệp chiếm tỷ lệ 27,61%. Một số hộ khác, người

chồng gánh vác chủ yếu công việc này chiếm 6,37%.

Qua phân tích vai trò người phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ thông qua

sự tham gia của họ vào các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi và hoạt động lâm

nghiệp, có thể thấy vai trò quan trọng của họ đối với kinh tế của hộ gia đình.

Trong cuộc sống hàng ngày của các gia đình dân tộc H’mông thì người

phụ nữ và nam giới đều tham gia các hoạt động sản xuất để tạo thu nhập. Các

hoạt động tạo thu nhập của hộ phong phú và đa dạng, ở mỗi loại hộ khác nhau

đều có ít nhất 02 hoạt động tạo thu nhập, chủ yếu vẫn là sản xuất nông, lâm

nghiệp, chăn nuôi, ngoài ra một số hộ còn hoạt động dịch vụ trong nông

nghiệp, đi làm thuê...

91

Do phong tục tập quán của người H’mông có nhiều lễ hội, lễ cúng và

người H’mông có sự cố kết cộng đồng cao, người đàn ông chủ yếu tham gia

các hoạt động này và việc uống rượu đối với người dân tộc được coi là không

thể thiếu. Việc dành thời gian để tham gia các hoạt động này cũng như việc

uống và say rượu đã làm giảm khả năng lao động cũng như vai trò của nam

giới người H’mông trong phát triển kinh tế gia đình. Điều này cũng là một

trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ hộ nghèo rất cao ở những gia đình

người H’mông và gánh nặng công việc gia đình chủ yếu đè lên đôi vai của

người phụ nữ dân tộc H’mông.

* Trong tiếp cận và kiểm soát nguồn lực của hộ

- Trong việc tiếp cận và quản lý vốn

Bên cạnh việc tham gia vào các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi và lâm

nghiệp, người phụ nữ còn tham gia vào việc quản lý các nguồn lực của hộ như

vốn vay. Trong số 226 hộ của mẫu nghiên cứu thì có 181 hộ có vay vốn từ

nguồn Ngân hàng chính sách xã hội huyện Đồng Hỷ.Vai trò của người phụ nữ

trong quản lý vốn được thể hiện qua bảng sau:

Bảng 3.20: Vai trò của phụ nữ trong quản lý vốn

Cả vợ và

Vợ

Chồng

Người khác

chồng

Tần

Tỷ lệ

Tần

Tỷ lệ

Tần

Tỷ lệ

Tần

Tỷ lệ

số

%

số

%

số

%

số

%

Người quản lý vốn

32

17,68

119

65,75

30 16,57

0

0

Người đứng tên

vay vốn

48

26,52

14

7,73

118 65,19

1

0,55

Người đi trả tiền

37

20,44

89

49,17

54 29,83

1

0,55

Người quyết định

sử dụng vốn

28

15,47

121

66,85

31 17,13

1

0,55

Tổng số

145

20,03

343

47,38

233 32,18

3

0,41

(Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)

92

Qua nghiên cứu khảo sát cho thấy, trong các hộ gia đình người H’mông

có sự thay đổi trong suy nghĩ là chỉ có người đàn ông mới được nắm quyền

quản lý và sử dụng tài sản, nguồn vốn trong gia đình. Thể hiện ở tỷ lệ người

quản lý vốn trong gia đình gồm cả vợ và chồng có tỷ lệ cao nhất, chiếm

65,75%, người phụ nữ quản lý vốn trong gia đình chiếm 17,68%, trong khi

những hộ được vay vốn có người chồng quản lý vốn là 16,57%.

Qua bảng trên cho thấy, trong việc đứng tên vay vốn có tới 65,19%

nguồn vốn vay là do người chồng đứng tên, có 26,52% là người vợ đứng tên

và 7,73% là cả hai vợ chồng cùng đứng tên vay vốn. Kết quả điều tra tại các

hộ cho thấy trong quá trình ra quyết định sử dụng tài chính, hầu hết đều cho

rằng cả vợ và chồng bàn bạc thống nhất nhưng nếu có sự không đồng thuận

thì quyết định cuối cùng thuộc về người chồng. Vì đứng tên trong sở hữu tài

sản như đất đai, xe máy, nông cụ …của hộ là người chồng. Có thể do nam giới là

chủ hộ và là người có trình độ học vấn cao hơn, nên việc đứng ra vay vốn chủ

yếu do người chồng thực hiện.

Nhưng việc trả lãi hàng tháng và sử dụng nguồn vốn thuộc về cả hai vợ

chồng, có 66,85% là cả hai thực hiện nhiệm vụ này, người chồng quyết định sử

dụng vốn có 17,13%, còn lại thuộc về người vợ. Như vậy, người vợ trực tiếp quản

lý tài chính như thủ quỹ của gia đình, còn quyền quyết định sử dụng tài chính vào

mục đích gì, sử dụng thế nào lại được cả hai vợ chồng bàn bạc thống nhất.

Qua phân tích trên cho thấy, người phụ nữ tham gia vào quá trình vay,

trả lãi và quản lý nguồn vốn vay của hộ phục vụ cho sản xuất và phát triển

kinh tế của hộ gia đình.

- Trong tiếp cận khoa học kỹ thuật

Hiện nay mạng lưới thông tin các loại hầu như đã phủ khắp các vùng,

kể cả các vùng sâu, vùng xa. Phụ nữ H’mông cũng nhận được các loại thông

tin từ nhiều nguồn khác nhau. Tuy nhiên mức độ tiếp nhận các nguồn khác

nhau thì không giống nhau. Mặt khác còn phải xem xét nguồn tin nào là

nguồn phụ nữ thích nhất và dễ tiếp thu nhất để xây dựng các chương trình cải

tiến việc cung cấp thông tin cho phụ nữ vùng dân tộc thiểu số.

93

Việc tiếp cận các kênh thông tin đối với nam giới thường thông qua

điện thoại thông minh, hội họp, xem ti vi, … còn phụ nữ do đảm nhiệm công

việc đồng áng, nội trợ, chăm sóc sức khoẻ cho các thành viên trong gia đình

nên họ nắm bắt kiến thức chủ yếu qua các lớp tập huấn do Hội phụ nữ tổ chức,

qua việc đi chợ mua, bán sản phẩm và qua chính kinh nghiệm mà họ tích luỹ

được trong quá trình lao động. Trong vùng nghiên cứu, phụ nữ H’mông

thường nắm bắt thông tin qua người chồng, qua tổ chức Hội phụ nữ và các hội

đoàn thể khác, qua họ hàng, qua thông tin khi giao lưu trên thị trường, ….hay

tích luỹ kinh nghiệm của chính bản thân.

- Trong tiếp cận thông tin, nâng cao trình độ

Bảng 3.21: Tham gia các lớp tập huấn

Vợ

Cả vợ và chồng

Chồng

Tần

Tần

Tần

Tỷ lệ %

Tỷ lệ %

Tỷ lệ %

số

số

số

Kiến thức về giới

27

33

11,95

14,60

1

0,44

Lớp quản lý kinh tế hộ

8

26

3,54

11,50

4

1,77

Kỹ thuật trồng trọt

75

119

33,19

52,65

10

4,42

Kỹ thuật chăn nuôi

50

92

22,12

40,71

7

3,10

Kỹ thuật trồng rừng

41

105

18,14

46,46

10

4,42

Kỹ thuật trồng chè

18

37

7,96

16,37

1

0,44

Phòng trừ dịch hại

32

85

14,16

37,61

3

1,33

Tổng

251

497

15,87

31,42

36

2,28

(Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)

Do nhiều nguyên nhân khác nhau: Trình độ dân trí thấp, nhiều chị em

người H’mông không biết chữ; thời gian dành cho các công việc sản xuất,

chăm sóc sức khỏe gia đình... đã chiếm gần như toàn bộ thời gian của người

phụ nữ H’mông, vì vậy mà tỷ lệ tham gia các lớp tập huấn của phụ nữ rất

thấp, trung bình chỉ khoảng 15,87% người vợ tham gia các lớp tập huấn.

Trong các phân tích ở trên, có thể thấy rằng phụ nữ giành hầu hết thời

gian cho hoạt động sản xuất tạo thu nhập và nội trợ trong gia đình nên quỹ thời gian để tiếp cận thông tin, học tập nâng cao trình độ không còn nhiều.

94

Hơn nữa, quan niệm truyền thống của người dân tộc cho rằng người

phụ nữ không cần phải học nhiều. Mặt khác, sau ngày làm việc vất vả, họ

không có nhu cầu học tập, họ lại tự hài lòng với trình độ hiện tại của mình và

cho rằng không cần thiết phải thay đổi điều đó.

Qua phân tích trên, thêm một lần nữa khẳng định rằng thời gian phụ nữ lao

động sản xuất để tạo thu nhập cho hộ gia đình rất cao, nhưng họ vẫn phải thực

hiện trách nhiệm làm công việc nội trợ, chăm sóc sức khỏe gia đình, nuôi dạy con

cái, tham gia mua sắm, sửa chữa, xây dựng nhà cửa… Đòi hỏi hàng ngày đối với

phụ nữ trong gia đình đều phải làm nội trợ gấp 2 lần so với nam giới, nhưng họ

vẫn giành thời gian ít ỏi để tham gia sinh hoạt hội đoàn thể, tham gia các hoạt

động cộng đồng. Vì thế, thời gian ngủ, nghỉ để tái sản xuất sức lao động cho phụ

nữ giảm đi nhất là trong những thời điểm khẩn trương của mùa vụ, làm ảnh

hưởng không nhỏ tới sức khoẻ của phụ nữ. Nếu phụ nữ muốn có thời gian để

thăm hỏi, giao lưu bạn bè hoặc tham dự các lớp học, các buổi tập huấn nâng cao

kiến thức về mọi mặt thì rất cần có được sự chia sẻ công việc nội trợ, chăm sóc

con cái từ các thành viên khác trong gia đình, trước hết là người chồng.

* Trong việc ra các quyết định của hộ gia đình

Bảng 3.22: Vai trò của phụ nữ H’mông trong việc ra quyết định của hộ

Vợ

Cả vợ và chồng

Chồng

Tần số Tỷ lệ % Tần số Tỷ lệ % Tần số Tỷ lệ %

48 47 47

21,24 20,80 20,80

157 156 157

69,47 69,03 69,47

21 23 22

9,29 10,18 9,73

46

20,35

156

69,03

24

10,62

44

19,47

159

70,35

23

10,18

48 47

21,24 20,80

156 160

69,03 70,80

22 19

9,73 8,41

43

19,03

166

73,45

17

7,52

Quyết định trồng cây gì Quyết định bán cho ai Quyết định giá bán Quyết định áp dụng kỹ thuật vào sản xuất Quyết định mua sắm, sửa chữa lớn Quyết định sử dụng thu nhập Quyết định cho con đi học Định hướng nghề nghiệp cho con

Tổng số

370

20,46

70,08

1267

171

9,46 (Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)

95

Bảng trên cho thấy, việc quyết định phương thức sản xuất và cách thức

sản xuất của hộ đều được sự thống nhất của cả vợ và chồng, tỷ lệ hộ trả lời cả

vợ và chồng cùng quyết định trồng cây gì? Bán cho ai? Giá bán? Áp dụng kỹ

thuật gì vào sản xuất chiếm tới trên 69,03%. Tuy nhiên, cũng có tới trên

20,35% phụ nữ quyết định việc sản xuất của hộ gia đình.

Đối với việc mua sắm các dụng cụ đắt tiền, sửa sang, xây dựng nhà cửa

trong gia đình thì cũng có tới 70,35% đồng ý rằng việc mua sắm , sửa chữa

lớn tài sản của hộ có sự đồng thuận của cả 2 vợ chồng.

Trong quyết định sử dụng thu nhập của gia đình cũng có sự nhất trí cao

giữa hai vợ chồng, thể hiện ở tỷ lệ 69,03% cả hai vợ chồng cùng quyết định sử

dụng thu nhập của gia đình, tỷ lệ phụ nữ quyết định sử dụng thu nhập của hộ

cũng chiếm tới 21,24%, chỉ có 9,73% là quyết định của người chồng.

Việc quyết định cho con cái đi học và định hướng nghề nghiệp cho con

cái cũng được bàn bạc, thống nhất giữa vợ và chồng, chiếm trên 70,8% là vợ

và chồng quyết định, người phụ nữ ra các quyết định này trong gia đình chiếm

trên 19,3%, còn lại là do người chồng ra quyết định.

Có thể nói, đối với việc ra các quyết định của hộ gia đình trên địa bàn

nghiên cứu đã có sự thống nhất cao giữa vợ và chồng, từ việc lựa chọn

phương thức sản xuất, sử dụng thu nhập đến việc học hành, nghề nghiệp cho

con cái. Trung bình tỷ lệ ra quyết định do cả vợ và chồng chiếm tỷ lệ 70,08%,

có 20,46% các quyết định là do người phụ nữ thực hiện, chỉ có 9,46% các

quyết định là của người chồng. Qua đó có thể thấy vai trò quan trọng của

người phụ nữ dân tộc H’mông trong việc ra các quyết định của hộ gia đình.

Chúng tôi cũng đi sâu tìm hiểu vai trò của người phụ nữ trong hoạt động

đầu tư vào lĩnh vực phi nông nghiệp cũng như đầu tư vào các dịch vụ bán lẻ. Tuy

nhiên, do địa bàn nghiên cứu là khu vực vùng núi đặc biệt khó khăn, ít có hoạt

động phi nông nghiệp, nên các hộ nghiên cứu không trả lời câu hỏi này.

Như vậy, chúng ta có thể thấy, người phụ nữ đóng vai trò quan trọng

giống như người chồng trong gia đình, họ bình đẳng tham gia vào các quyết

định của hộ.

96

* Trong tham gia công tác xã hội

Hầu hết phụ nữ người H’mông được hỏi ý kiến đều cho rằng các chức

vụ lãnh đạo chủ chốt của xóm đều do nam giới nắm giữ. Phụ nữ chỉ giữ chức

vụ Chi hội trưởng phụ nữ.

Thực tế tại các xã thuộc vùng nghiên cứu, phụ nữ H’mông tham gia công

tác chính quyền còn thấp, chưa tương xứng với lực lượng nữ ở địa phương.

Nguyên nhân là do phụ nữ người H’mông có trình độ dân trí thấp, họ sống khép

kín, ít tiếp xúc với bên ngoài; Bên cạnh đó, thời gian họ dành cho công việc sản

xuất tạo thu nhập, chăm sóc gia đình đã chiếm rất nhiều thời gian trong ngày của

họ. Nên phụ nữ người H’mông rất hạn chế tham gia công tác xã hội. Điều này ảnh

hưởng lớn đến vai trò của phụ nữ người H’mông trong gia đình và xã hội.

* Vai trò của phụ nữ trong gia đình

Trong các hoạt động của gia đình

Bảng 3.23: Phân công các hoạt động gia đình

Vợ

Cả vợ và chồng

Chồng

Tần số Tỷ lệ % Tần số Tỷ lệ % Tần số Tỷ lệ %

Nội trợ

188

83,19

36

15,93

2

0,88

157

69,47

69

30,53

0

0

Chăm sóc sức khỏe gia đình Kèm, dạy con học

97

42,92

73

32,30

6

2,65

Lấy củi đun

89

39,38

133

58,85

4

1,77

34

15,04

183

80,97

8

3,54

Mua sắm, xây dựng, sửa chữa nhà ở Tổng số

565

50,00

494

43,72

20

1,77

(Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)

Qua nghiên cứu thực tế cho thấy vai trò quan trọng của người phụ nữ

không chỉ tham gia vào phát triển kinh tế hộ mà còn vào các hoạt động sinh

hoạt của gia đình. Đối với công việc nội trợ, phụ nữ vẫn là người thực hiện

chủ yếu với tỷ lệ 83,19%, chỉ có 15,93% hoạt động này được thực hiện bởi cả

hai vợ chồng, người chồng thực hiện công việc này chiếm 0,88%.

97

Vai trò trong công tác chăm sóc sức khoẻ gia đình

Trong số 226 hộ tiến hành điều tra nghiên cứu, có thể thấy hoạt động

chăm sóc sức khỏe gia đình chủ yếu do phụ nữ thực hiện, với tỷ lệ cao

69,47%, có 30,53% hoạt động này do cả vợ và chồng thực hiện, không có

hộ nào chỉ có người chồng đảm nhận công việc này. Hoạt động chăm sóc

sức khỏe ở đây bao gồm chăm sóc sức khỏe cho con cái và chăm sóc sức

khỏe các thành viên trong gia đình, nhất là người lớn tuổi. Tuy nhiên đồng

bào dân tộc H’mông sinh sống ở vùng núi cao, địa hình hiểm trở, đi lại khó

khăn cùng với trình độ dân trí thấp và do phong tục tập quán của người

H’mông, khi trong nhà có người bị bệnh, người H’mông tin rằng có ma

trong người, gia chủ thường mời thày cúng về bắt ma. Ngoài việc mua

thuốc, lấy thuốc cho người bệnh uống, thì việc nấu ăn, tắm rửa, chăm sóc

cho người ốm yếu do phụ nữ trong gia đình làm là chính. Nhưng khi người

vợ bị ốm thì thường tự chăm sóc bản thân, trừ khi không thể “gượng dậy”

được thì người chăm sóc mình mới là chồng và các con. Qua đây có thể

thấy vai trò quan trọng của người phụ nữ dân tộc H’mông trong hoạt động

chăm sóc sức khỏe của gia đình.

Đối với hoạt động kèm dạy con học

Trong quá trình khảo sát, do trình độ dân trí thấp và dành nhiều thời

gian cho hoạt động sản xuất, trồng trọt, chăn nuôi và hoạt động lâm nghiệp

nên việc kèm, dạy con học của người phụ nữ dân tộc H’mông còn nhiều hạn

chế. Trong số 226 hộ điều tra, chỉ có 97 hộ có người phụ nữ tham gia kèm

dạy con học (chiếm tỷ lệ 42,92%), có 32,3% là do cả vợ và chồng thực hiện.

Những hộ này chủ yếu là những hộ có tuổi đời còn trẻ, số lượng con không

nhiều. Qua đó cũng thấy được người H’mông đã quan tâm hơn đến việc học

hành của con cái, lo cho tương lai của thế hệ trẻ sau này và cũng nói lên

được vai trò quan trọng của người phụ nữ dân tộc H’mông trong hoạt động

kèm, dạy con học.

98

Trong sinh hoạt cộng đồng

Bảng 3.24: Phân công lao động trong hoạt động cộng đồng

Vợ

Cả vợ và chồng

Chồng

Tần số Tỷ lệ % Tần số Tỷ lệ % Tần số Tỷ lệ %

Hoạt động cộng đồng

48

21,24

162

71,68

16

7,08

Tổng số

48

21,24

162

71,68

16

7,08

(Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)

Trong việc tiếp cận các kênh thông tin, nam giới thường đi hội họp,

nghe đài, xem TV, đọc sách báo... Còn phụ nữ đảm nhiệm các công việc đồng

áng, chăn nuôi, làm nội trợ, nên họ là lực lượng chính tham dự các lớp tập

huấn về khuyến nông để nắm bắt kỹ thuật mới. Hàng ngày phụ nữ ít thời gian

nghe đài, xem TV, đọc sách báo... do vậy, họ ít được tiếp cận các kênh thông

tin đại chúng để nâng cao nhận thức và hiểu biết.

Trong quan hệ xã hội, phụ nữ thường tích cực tham gia các công việc

huy động của thôn xã như vệ sinh môi trường, giúp đỡ người nghèo, lao động

xây dựng trường học,bệnh xá, đường xá, phòng chống dịch bệnh...Các chi hội

phụ nữ thôn đều có đoạn đường tự quản về vệ sinh môi trường được phụ nữ rất

hăng hái và tự nguyện tham gia, qua đó họ vận động gia đình và bà con lối xóm

cùng giữ vệ sinh chung. Đó là một trong những ưu điểm lớn về khía cạnh xã

hội của phụ nữ nông thôn. Nếu biết phát huy tốt khía cạnh xã hội của phụ nữ sẽ

nâng cao hơn nữa vai trò của chị em trong phát triển cộng đồng.

Trong việc tham gia họp thôn, nam giới thưòng giành quyền đi họp

nhiều hơn phụ nữ vì quan niệm người chồng là chủ hộ và họ có vai trò quan

trọng hơn trong việc đại diện gia đình bàn bạc, tham gia ra quyết định công

việc thôn như xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế, sửa chữa đình,

chùa. Trong quan hệ dòng tộc như họp dòng họ, xây mồ mả, nhà thờ họ, giỗ

chạp vai trò và sự tham gia của phụ nữ thấp hơn nam giới vì những quan

niệm trọng nam khinh nữ còn khá phổ biến.

99

- Sử dụng quỹ thời gian của phụ nữ tại điểm nghiên cứu

Qua việc tổng hợp, phỏng vấn những phụ nữ tại vùng nghiên cứu, tác

giả đã tổng hợp việc sử dụng quỹ thời gian trung bình trong một ngày của

người phụ nữ dân tộc H’mông, được thể hiện trong bảng sau:

Mẫu

Số trung bình

Giá trị nhỏ nhất

Giá trị lớn nhất

Giờ thực hiện công việc nội trợ

Giờ thực hiện việc lấy củi đun

Giờ thực hiện công việc chăm sóc sức khỏe

Giờ dạy con học hành

Giờ tham gia công tác xã hội

Giờ vui chơi

Giờ ngủ, nghỉ

Bảng 3.25: Phân bổ thời gian trong ngày của phụ nữ

Văn Lăng Giờ thực hiện công việc tạo thu nhập Quang Sơn Tân Long Tổng số Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số Văn Lăng Quang Sơn Tân Long Tổng số

102 28 96 226 102 28 96 226 102 28 96 226 102 28 96 226 102 28 96 226 102 28 96 226 102 28 96 226 102 28 96 226

8.55 8.93 8.41 8.54 1.95 2.89 2.24 2.19 1.93 1.79 1.85 1.88 1.26 1.00 1.24 1.22 .794 1.036 1.240 1.013 1.3333 .8929 1.1979 1.2212 1.6863 1.7500 1.7083 1.7035 5.9510 5.6786 5.8021 5.8540

6 8 7 6 1 2 1 1 1 0 0 0 1 0 0 0 .0 .0 .0 .0 .00 .00 .00 .00 .00 .00 .00 .00 2.00 2.00 2.00 2.00

12 12 12 12 4 4 4 4 4 3 3 4 4 2 2 4 2.0 2.0 3.0 3.0 4.00 2.00 3.00 4.00 6.00 6.00 6.00 6.00 8.00 7.00 8.00 8.00 (Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)

100

Qua Bảng 3.25 một lần nữa khẳng định rằng thời gian phụ nữ lao

động sản xuất để tạo thu nhập cho hộ gia đình rất cao, trung bình khoảng

8,54 giờ (chiếm tới 35,83%) thời gian trong ngày nhưng họ vẫn phải thực

hiện trách nhiệm làm công việc nội trợ, lấy củi đun, chăm sóc sức khỏe gia

đình, dạy con học (21,79%) là một đòi hỏi hàng ngày đối với phụ nữ trong

gia đình. Qua điều tra hộ cho thấy bất luận chủ hộ là nam hay nữ, phụ nữ

đều phải làm nội trợ gấp 3 lần so với nam giới, thời gian trung bình trong

ngày người phụ nữ bỏ ra khoảng 2,2 giờ (9,2%) để thực hiện công việc nội

trợ, công việc lấy củi làm chất đốt 1,8 giờ (7,5%), chăm sóc sức khoẻ cho

bố mẹ già, con nhỏ 1,2 giờ (5%) và dạy con học 1,01 giờ (4,2%), nhưng họ

vẫn dành thời gian ít ỏi để tham gia sinh hoạt hội đoàn thể, tham gia các

hoạt động cộng đồng. Vì thế, thời gian ngủ, nghỉ để tái sản xuất sức lao

động cho phụ nữ rất ít 5,85 giờ (24,37%) và giảm đi nhất là trong những

thời điểm khẩn trương của mùa vụ, làm ảnh hưởng không nhỏ tới sức khoẻ

của phụ nữ. Họ thường không có thời gian xem Tivi, đọc báo để tiếp nhận

nhiều thông tin bổ ích cũng rất hạn chế đối với phụ nữ. Nếu phụ nữ muốn

có thời gian để thăm hỏi, giao lưu bạn bè hoặc tham dự các lớp học, các

buổi tập huấn nâng cao kiến thức về mọi mặt thì rất cần có được sự chia sẻ

công việc nội trợ, chăm sóc con cái từ các thành viên khác trong gia đình,

trước hết là người chồng. Ngoài ra qua bảng cũng cho ta thấy được đa phần

phụ nữ gánh vác hết việc nhà thời gian của họ không con là bao nhiêu dành

cho bản thân mình cả họ gạt bỏ hết xã hội để chăm lo cho gia đình của họ

chăm lo cho con cái.

101

Bảng 3.26: Sự khác biệt về sử dụng quỹ thời gian của phụ nữ H’mông

tại các vùng nghiên cứu

ANOVA

df

F

Mức ý nghĩa

Tổng độ lệch bình phương

Trung bình bình phương

Giữa các mẫu

5.949

2

2.974

3.067

.049

Giờ thực hiện công việc tạo thu nhập

Trong nội bộ các mẫu

216.268 223

.970

Tổng số

222.217 225

Giữa các mẫu

19.896

2

9.948 33.148

.000

Giờ thực hiện công việc nội trợ

Trong nội bộ các mẫu

66.923 223

.300

Tổng số

86.819 225

Giữa các mẫu

.582

2

.291

.641

.528

Giờ thực hiện công việc lấy củi đun

Trong nội bộ các mẫu

101.192 223

.454

Tổng số

101.774 225

Giữa các mẫu

1.596

2

.798

2.998

.052

Trong nội bộ các mẫu

59.343 223

.266

hiện thực Giờ công việc chăm sóc sức khỏe

Tổng số

60.938 225

Giờ dạy con học hành Giữa các mẫu

9.830

2

4.915 11.284

.000

Trong nội bộ các mẫu

97.130 223

.436

Tổng số

106.960 225

Giữa các mẫu

4.353

2

2.177

4.641

.011

Giờ tham gia công tác xã hội

Trong nội bộ các mẫu

104.585 223

.469

Tổng số

108.938 225

Giờ vui chơi

Giữa các mẫu

.093

2

.047

.084

.919

Trong nội bộ các mẫu

123.044 223

.552

Tổng số

123.137 225

Giờ ngủ, nghỉ

Giữa các mẫu

2.080

2

1.040

1.073

.344

Trong nội bộ các mẫu

216.102 223

.969

Tổng số

218.181 225

(Nguồn: Kết quả phân tích số liệu điều tra)

102

Tiến hành kiểm định sự khác biệt về sử dụng quỹ thời gian của phụ nữ

H’mông tại các vùng nghiên cứu, có thể thấy giờ thực hiện công việc tạo thu

nhập, nội trợ, dạy con học hành, tham gia công tác xã hội, giờ ngủ, nghỉ ở các

vùng có sự khác nhau (sig < 0,05); giờ thực hiện việc lấy củi, chăm sóc sức

khỏe các thành viên trong gia đình và giờ vui chơi ở các vùng là tương tự

nhau, không có sự khác biệt.

3.2.2.3. Một số yếu tố ảnh hưởng tới việc nâng cao vai trò phụ nữ dân tộc

H’mông trong phát triển kinh tế hộ tại vùng nghiên cứu

* Phong tục tập quán, văn hóa

- Phong tục tập quán là một nguyên nhân cơ bản cản trở phụ nữ dân tộc

H’mông tham gia vào quá trình phát triển kinh tế; một quan niệm ngự trị ở

nước ta từ nhiều năm nay, đó là phụ nữ trước hết phải lo việc gia đình - con cái,

dù làm bất kỳ công việc gì, thì việc nội trợ vẫn là trách nhiệm của họ.

- Quan niệm “Trọng nam hơn nữ”: việc đấy chỉ có nam giới làm, phụ

nữ không làm được,… phụ nữ chỉ cần học như vậy là đủ.

Chính vì vậy đã kìm hãm tài năng sáng tạo của phụ nữ dân tộc H’mông,

hạn chế sự cống hiến của họ cho xã hội và cho gia đình.

- Do ảnh hưởng của tư tưởng từ ngàn đời xưa để lại, chính bản thân người

phụ nữ dân tộc H’mông vẫn còn tư tưởng tự ti, an phận và thụ động. Điều này đã

hạn chế sự độc lập suy nghĩ, sáng tạo, khả năng cống hiến của phụ nữ, đó chính

là lực cản bên trong kìm hãm họ. Nhiều phụ nữ dân tộc H’mông ngại phát biểu ý

kiến, không bộc bạch chính kiến, ngại tranh luận với nam giới, mặc dù ý kiến

của họ có thể là chính xác. Nhiều phụ nữ không muốn học tập để nâng cao trình

độ, từ chối tham gia các lớp tập huấn về khoa học kỹ thuật… Tâm lý tự ti, mặc

cảm, không vận động để tự mình thoát mình đã hạn chế vai trò của chính họ.

* Trình độ học vấn, chuyên môn KHKT và khả năng tiếp cận thông tin

của lao động nữ hạn chế

Trình độ học vấn, sự tiếp cận và tiếp thu các biện pháp kỹ thuật vào sản

xuất nông lâm nghiệp của đại bộ phận phụ nữ dân tộc H’mông vùng nghiên

103

cứu còn chậm và hạn chế. Điều này ảnh hưởng tới sự ra quyết định trong sản

xuất, quản lý hộ và tham gia công tác quản lý cộng đồng.

Ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số các phương tiên thông tin nghe, nhìn,

sách báo, các ấn phẩm đến với người dân hạn chế. Do vậy việc phụ nữ dân tộc

H’mông tiếp cận và nắm bắt các thông tin kỹ thuật về chăn nuôi, trồng trọt và

thị trường còn gặp nhiều khó khăn.

* Yếu tố về sức khỏe

Với phụ nữ dân tộc H’mông vừa phải lao động nặng, vừa phải thực hiện

thiên chức của mình là phải mang thai, sinh con và cho con bú bằng sữa mẹ,

cùng với điều kiện sinh hoạt thấp kém đã làm cho sức khoẻ của họ bị giảm sút.

Những công việc nặng thì phụ nữ không làm được. Điều này không những ảnh

hưởng đến khả năng lao động mà còn làm vai trò của phụ nữ trong gia đình

cũng như trong việc phát triển kinh tế gia đình trở nên thấp hơn.

* Các chương trình chính sách hỗ trỡ của nhà nước và địa phương: Cơ

hội tiếp cận các nguồn lực hạn chế: Nguồn vốn thế chấp tại ngân hàng chính

sách xã hội ít có cơ hội cho phụ nữ dân tộc H’mông đứng tên vay vốn, do phụ

nữ người H’mông đi lấy chồng là người nhà chồng, các tài sản và đất đứng

tên chồng, do người chồng làm chủ. Ngân hàng chính sách và tín dụng của

hội phụ nữ cho vay với mức rất thấp, không đủ để sản xuất. Vẫn phổ biến việc

người phụ nữ H’mông đi lấy chồng không được bố mẹ chia đất cũng như thừa

kế các tài sản.

Qua nghiên cứu thấy rằng khi thu nhập của gia đình thấp, người phụ nữ

dân tộc H’mông phải vất vả hơn để kiếm sống nuôi gia đình, với các hộ khó

khăn nam giới có xu hướng ít chia sẻ công việc nội trợ với phụ nữ. Bên cạnh đó,

do nghèo nên không có điều kiện để đầu tư cho sản xuất, hiệu quả sản xuất thấp.

Nhận thức và sự tham gia của cộng đồng để tiến tới bình đẳng chưa

cao: Thực tế tại địa bàn nghiên cứu, các lớp tập huấn nâng cao nhận thức về

giới chủ yếu là phụ nữ tham dự. Nam giới ít tham gia nội dung này, nhất là

nam giới giữ vai trò chủ chốt tại cơ sở. Dẫn tới hiệu quả công tác truyền thông

về giới chưa cao, chậm quá trình thay đổi nhận thức xã hội về giới.

104

Việc cụ thể hoá và thực thi các chính sách về bình đẳng giới còn hạn

chế: Nhà nước đã ban hành Luật bình đẳng giới, có nghị định hướng dẫn thực

hiện Luật bình đẳng giới. Nhưng cấp uỷ địa phương chưa có nghị quyết

chuyên đề để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Luật bình đẳng giới và bàn về vấn

đề phụ nữ. Hoạt động của Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ chủ yếu do cơ quan

thường trực của Ban thực hiện.

3.3. Đánh giá chung vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong phát triển

kinh tế hộ gia đình theo giai đoạn phát triển tại địa bàn nghiên cứu

- Lực lươ ̣ng lao đô ̣ng nữ dân tộc H’mông ở huyện Đồng Hỷ có cơ cấu

lao động rất thuận lơ ̣i cho sản xuất nông nghiê ̣p và phát triển kinh tế. Có đến

65% số lươ ̣ng lao đô ̣ng trong đô ̣ tuổi từ 18 đến 44 tuổi.

- Trình độ của lao động nữ người H’mông rất thấp, tỷ lệ không biết

chữ là 21,7%, có trình độ tiểu học mà chủ yếu là học lớp 1, lớp 2 là 49,1%.

Đây là mô ̣t trong những khó khăn ảnh hưởng đến các cơ hô ̣i tiếp cận và làm chủ các tiến bô ̣ khoa ho ̣c kỹ thuật mới trong sản xuất nông nghiệp và đối với các công viê ̣c phi nông nghiê ̣p khác.

- Trong việc quản lý và điều hành sản xuất của hộ, kết quả nghiên cứu

cho thấy việc quản lý và điều hành sản xuất của hộ đều có vai trò rất lớn của

người vợ hoặc cả vợ và chồng, tỷ lệ này chiếm 89%. Điều này cho thấy vai trò

của phụ nữ người H’mông trong việc quản lý và điều hành sản xuất của hộ.

- Trong hoạt động sản xuất tạo thu nhập: Hoạt động sản xuất tạo thu

nhập của hộ trên vùng nghiên cứu bao gồm trồng ngô, trồng lúa, chăn nuôi và

lâm nghiệp. Trong các hoạt động này, tỷ lệ đóng góp công sức của người phụ

nữ hoặc người phụ nữ cùng chồng tham gia có tỷ lệ lớn, từ 90 đến 98%, thể

hiện vai trò quan trọng của phụ nữ người H’mông trong hoạt động sản xuất

tạo thu nhập cho hộ gia đình.

- Trong viê ̣c tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực của hô ̣, tỷ lê ̣ người vợ

đứng tên vay vốn chỉ có 26,25%. Kết quả điều tra cho thì trong quá trình ra

105

quyết định sử dụng tài chính của hộ đều có sự bàn bạc giữa vợ và chồng,

nhưng nếu không có sự đồng thuận thì quyền quyết định cuối cùng thuộc về

người chồng, việc đứng tên các tài sản lớn trong gia đình cũng đều thuộc về

người chồng. Điều đó gây hạn chế rất nhiều đến các quyết định cũng như

quyền lơ ̣i của phu ̣ nữ đối với nguồn lực của hộ.

- Trong viê ̣c ra các quyết định của hộ, kết quả của nghiên cứu cho thấy

việc ra quyết định của hộ đều có vai trò của người vợ hoặc cả vợ và chồng, tỷ

lệ này chiếm 80-90%. Điều này nói lên vai trò quan trọng của người phụ nữ

H’mông trong việc ra các quyết định của hộ.

- Trong tham gia công tác xã hội, người phụ nữ H’mông sống khép kín,

ít tiếp xúc với bên ngoài; thời gian họ dành cho công việc sản xuất tạo thu

nhập, chăm sóc gia đình đã chiếm rất nhiều thời gian trong ngày của họ. Nên

phụ nữ người H’mông rất hạn chế tham gia công tác xã hội. Điều này ảnh

hưởng lớn đến vai trò của phụ nữ người H’mông trong gia đình và xã hội.

- Trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, người phụ nữ H’mông hầu hết

đảm nhiê ̣m các công viê ̣c như: Nô ̣i trơ ̣, chăm sóc sức khỏe gia đình, tỷ lệ này

của người vợ 70-83%. Với các hoạt động khác: Kèm dạy con, lấy củi đun, mua

sắm tài sản hay máy móc, sử a chữa lớn nhà cử a đều có vai trò rất lớn của người

vợ tham gia cùng người chồng trong việc thực hiện các hoạt động của gia đình.

Tóm lại, kết quả nghiên cứu cho thấy phụ nữ dân tộc H’mông có vai trò

quan trọng trong các hoạt động sản xuất tạo ra thu nhập cho gia đình, quản lý

và điều hành sản xuất, trong việc ra quyết định của hộ. Tuy nhiên, vai trò của

người phu ̣ nữ dân tộc H’mông chưa được đánh giá đúng mức đối với việc tiếp

cận và kiểm soát nguồn lực của hộ, việc tham gia công tác xã hội còn nhiều

hạn chế. Như vậy, vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông là rất quan trọng không

thể thiếu được đối với gia đình.

106

Chương 4

GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ

DÂN TỘC H’MÔNG TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH

TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN

4.1. Quan điểm, định hướng, mục tiêu nâng cao vai trò của phụ nữ dân

tộc H’mông trong phát triển kinh tế hộ gia đình trên địa bàn huyện Đồng

Hỷ, tỉnh Thái Nguyên

Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng khẳng định: tiếp tục đổi mới

toàn diện, mạnh mẽ theo con đường xã hội chủ nghĩa, tạo nền tảng để đến

năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Đảng ta đang chủ trương đẩy mạnh thực hiện các chính sách ổn định kinh tế

vĩ mô, gắn tăng trưởng kinh tế với bảo đảm an sinh xã hội, cơ cấu lại nền kinh

tế, chú trọng xây dựng và chỉnh đốn Đảng, phát huy dân chủ và củng cố khối

đại đoàn kết dân tộc.

Để thực hiện mục tiêu đó, chúng ta phải phát huy sức mạnh đại đoàn

kết toàn dân tộc, trong đó có vai trò quan trọng của phụ nữ. Đại hội Đảng toàn

quốc lần thứ XI đã khẳng định: Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật

chất, tinh thần của phụ nữ; nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện các luật pháp,

chính sách đối với lao động nữ, tạo điều kiện để phụ nữ tham gia vào cấp uỷ

và bộ máy quản lý nhà nước; kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và

các hành vi bạo lực, buôn bán, xâm hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ.

Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá X) cũng đã chỉ rõ: Phấn

đấu đến năm 2020, phụ nữ được nâng trình độ về mọi mặt, có trình độ học

vấn, chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá

và hội nhập quốc tế; có việc làm, được cải thiện rõ rệt về đời sống vật chất,

văn hoá, tinh thần; tham gia ngày càng nhiều hơn vào công việc xã hội, bình

đẳng trên mọi lĩnh vực, đóng góp ngày càng lớn hơn cho xã hội và gia đình.

Phấn đấu để nước ta là một trong các quốc gia có thành tựu bình đẳng giới

tiến bộ nhất của khu vực.

107

Nước ta hiện nay đang ngày càng hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế

thế giới, quá trình này rất cần nâng cao cảnh giác cách mạng cho lĩnh vực an

ninh quốc phòng. Vấn đề đói nghèo, dân tộc, tôn giáo, nhân quyền luôn được

các thế lực phản động lợi dụng gây chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc, phá

hoại an ninh chính trị, quốc phòng.

Trong giai đoạn 2016-2020, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách

rất quan trọng cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi với mục tiêu thực hiện

tốt chủ trương, giải pháp lớn về đại đoàn kết các dân tộc, quan tâm đầu tư

phát triển toàn diện vùng dân tộc thiểu số và miền núi, giảm nghèo bền vững,

nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào.

Trong đó, nhóm chính sách chung bao gồm: Chương trình mục tiêu

quốc gia xây dựng nông thôn mới với yêu cầu phân bổ nguồn lực cho vùng

đặc biệt khó khăn, dân tộc thiểu số, miền núi phải được ưu tiên cao hơn 2-4

lần so với nơi khác; Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững,

trong đó, vùng dân tộc thiểu số và miền núi được thụ hưởng Dự án hỗ trợ đầu

tư phát triển kinh tế - xã hội các huyện nghèo 30a (tổng vốn 18.745 tỷ đồng)

và Dự án Chương trình 135 với 3 hợp phần (tăng 1 hợp phần so với giai đoạn

2011-2015) với số vốn kế hoạch 15.936 tỷ đồng.

Chính phủ cũng đã ban hành các chính sách đặc thù, trong đó, đáng

chú ý là các chính sách: Quyết định số 2085/QĐ-TTg, ngày 31/10/2016 về

việc Phê duyệt Chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng dân

tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2017 - 2020, mục tiêu nhằm: Góp phần

giảm tỷ lệ hộ nghèo ở vùng DTTS và miền núi từ 3% đến 4% năm; Giải

quyết đất sản xuất, chuyển đổi nghề cho trên 80% số hộ đồng bào DTTS

nghèo, hộ nghèo ở vùng đặc biệt khó khăn thiếu đất sản xuất; cơ bản giải

quyết tình trạng thiếu nước sinh hoạt cho hộ DTTS nghèo và hộ nghèo sống

phân tán ở vùng đặc biệt khó khăn. Đề án hỗ trợ phát triển KT-XH các dân

tộc thiểu số rất ít người giai đoạn 2016-2025, trong đó hỗ trợ trực tiếp cho

108

12 dân tộc rất ít người ở 194 thôn, bản thuộc 93 xã ở 37 huyện của 12 tỉnh

với vốn kế hoạch 1.800 tỷ đồng; Chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ

thông ở xã, thôn đặc biệt khó khăn, tập trung hỗ trợ gạo, tiền ăn, tiền thuê

chỗ ở, tiền thuê người nấu ăn cho các em.

Ngoài các chính sách trên, Chính phủ cũng đã ban hành chính sách bảo

vệ và phát triển rừng, gắn với chính sách giảm nghèo nhanh, bền vững và hỗ

trợ đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2015-2020 và Nghị quyết số 52/NQ-

CP ngày 15/6/2016 của Chính phủ về đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực các

dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2030; Đề án giảm

thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng dân tộc thiểu

số giai đoạn 2015-2025.

Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XIX đã xác định: Mục tiêu

tổng quát phát triển kinh tế 5 năm (2015-2020) của tỉnh là huy động và sử

dụng hiệu quả các nguồn lực; phát triển kinh tế nhanh và bền vững, xây dựng

Thái Nguyên sớm trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại, trung tâm

vùng trung du và miền núi phía Bắc về phát triển công nghiệp, dịch vụ, y tế

và giáo dục - đào tạo.

Nhà nước đã có nhiều chính sách phát triển kinh tế xã hội vùng đồng

bào dân tộc thiểu số miền núi, đời sống vùng đồng bào dân tộc đã có những

bước phát triển. Tuy nhiên đây là những chính sách chung cho vùng đồng bào

dân tộc thiểu số, đầu tư còn dàn trải, chưa đồng bộ, nguồn vốn ít, thiếu tập

trung nên chưa giải quyết được những khó khăn cho vùng đồng bào dân tộc

H’mông sinh sống.

Do vậy, tỉnh Thái Nguyên đã xây dựng Đề án số 2037/QĐ-UBND ngày

16/9/2014 về Phát triển kinh tế - xã hội, ổn định sản xuất và đời sống các

xóm, bản đặc biệt khó khăn có nhiều đồng bào dân tộc H’mông sinh sống tỉnh

Thái Nguyên đến năm 2020.

109

Mục tiêu tổng quát: Đầu tư hỗ trợ giảm nghèo cho xóm, bản đặc biệt

khó khăn có nhiều đồng bào dân tộc H’mông sinh sống, nhằm tạo sự chuyến

biến rõ nét về sản xuất và đời sống, từng bước tạo ra sản phẩm hàng hóa, tăng

thu nhập ổn định và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần một cách bền vững,

góp phần xóa đói, giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách chênh lệch mức sống

giữa các dân tộc; góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, giữ vững an ninh trật

tự an toàn xã hội trong vùng.

Mục tiêu cụ thể: Hình thành các nhóm hộ sản xuất, chăn nuôi, đưa tiến

bộ kỹ thuật vào trồng trọt và chăn nuôi, phát huy thế mạnh, lợi thế của từng

vùng, tăng thu nhập cho người dân. Phấn đấu giảm nghèo các xóm, bản trong

Đề án bình quân mỗi năm 4% trở lên theo chuẩn nghèo từng giai đoạn.

4.2. Giải pháp nâng cao vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong phát

triển kinh tế hộ gia đình trên địa bàn huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên

4.2.1. Nhóm giải pháp chung cơ chế chính sách nhằm tạo điều kiện thúc

đẩy kinh tế gia đình phát triển ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số

4.2.1.1. Chính sách về vốn

- Ở khu vực miền núi, hoạt động kinh tế gia đình chủ yếu sản xuất nông

lâm nghiệp, có chu kỳ sản xuất kéo dài từ 1 đến 5 năm (tùy từng loại cây, loại

con). Để sử dụng vốn có hiệu quả, Nhà nước cần có chính sách tín dụng với

thời hạn cho vay phù hợp với chu kỳ sản xuất mà cây, con đó cho thu hoạch

sản phẩm đầu tiên (từ 1 đến 5 năm)

- Cải tiến, đa dạng hóa các phương thức cho vay và thanh toán, nên sửa

đổi một số quy định cứng nhắc về thủ tục tín dụng, về thuế, về lệ phí... nhằm

vừa rút ngắn quãng đường của đồng vốn đến đúng các địa chỉ đầu tư vừa

giảm các chi phí tín dụng, tăng hiệu quả hoạt động của các tổ chức tín dụng

và kích thích được người sản xuất vay vốn.

110

4.2.1.2. Chính sách về phát triển khoa học công nghệ

- Nhà nước nên có các chính sách khuyến khích các tổ chức, các nhà

khoa học nghiên cứu, triển khai ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào

sản xuất nông lâm nghiệp nhằm tăng năng suất, chất lượng và hạ giá thành

sản phẩm phục vụ mục tiêu xuất khẩu và nhu cầu tiêu dùng trong nước.

- Khuyến khích và hướng dẫn các hộ gia đình sử dụng các loại giống

mới trong trồng trọt và chăn nuôi, tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật

nuôi phù hợp.

- Chính sách khuyến khích các hộ gia đình áp dụng kỹ thuật vào sản

xuất nhất là ứng dụng máy móc để giảm nhẹ sức lao động bằng cách giúp các

hộ gia đình được mua trả góp hoặc nhà nước trợ giá một phần tùy theo từng

loại công cụ máy móc.

- Chú trọng nghiên cứu đầu tư phát triển công nghệ chế biến. Do đường

giao thông vận chuyển khó khăn nên nếu sản phẩm được sơ chế hoặc chế biến

tại chỗ sẽ có giá trị kinh tế cao hơn, có tác dụng khuyến khích các gia đình

phát triển sản xuất.

4.2.1.3. Hoàn thiện hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến nghề đến các

xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Đa dạng hóa phương thức khuyến nông,

khuyến lâm, khuyến nghề thông qua các tổ chức Nhà nước và tổ chức xã hội.

- Nâng cao trình độ của cán bộ làm công tác khuyến nông, khuyến lâm,

khuyến nghề. Có chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với cán bộ là người dân tộc

thiểu số, người biết tiếng dân tộc nhằm mở rộng các hoạt động khuyến nông,

khuyến lâm đến với đồng bào các dân tộc các vùng sâu, vùng xa...

- Đề cao vai trò của công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến nghề

trong việc phổ biến, tập huấn, chuyển giao và ứng dụng các tiến bộ khoa học

công nghệ hỗ trợ nông dân các dân tộc phát huy tiềm năng của họ trong phát

triển kinh tế hộ gia đình.

111

4.2.2. Nhóm giải pháp về chính sách xã hội nhằm hỗ trợ phụ nữ dân tộc

H’mông nâng cao năng lực quản lý kinh tế hộ gia đình.

Như phần trên đã trình bày, vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong

quản lý kinh tế gia đình là rất quan trọng, nhưng để giúp chị em khắc phục

các hạn chế khách quan và chủ quan đòi hỏi phải có những chính sách xã hội

sát hợp hơn để giúp phụ nữ dân tộc H’mông nâng cao năng lực quản lý kinh

tế hộ gia đình, có điều kiện vươn lên hòa nhập với cộng đồng.

Do phụ nữ có cấu trúc giới tính và chức năng thiên bẩm khác với nam

giới nên trong cùng một môi trường làm việc, nữ giới thường có “điểm xuất

phát” thấp hơn nam giới. Các chính sách xã hội có mục đích chung là phải rút

ngắn khoảng cách đó, tạo sự bình đẳng giữa giới nam và giới nữ.

4.2.2.1. Nâng cao kiến thức cho phụ nữ

Nâng cao kiến thức cho phụ nữ thông qua các lớp bồi dưỡng chuyện

môn, tập huấn kỹ thuật, chuyên đề... về các lĩnh vực đời sống, sản xuất, quản

lý nhằm nâng cao nô ̣i lực cho phu ̣ nữ. Đây là biện pháp đầu tiên, cơ bản và

quyết định nhằm tạo ra năng lực thực để họ có thể tiếp cận với thực tế sản

xuất mà không ngần ngại, lo lắng đồng thời có cơ sở để ra quyết định cũng

như thực hiện quyết định của mình

Nâng cao ho ̣c vấn, kiến thứ c kinh tế, kỹ thuật, quản lý và pháp luật nhằm tạo nô ̣i lực cho phu ̣ nữ. Hướng tới gia tăng đóng góp của ho ̣ cho gia

đình, xã hô ̣i và tự khẳng định vai trò của mình. Trong thực tế, các trường hơ ̣p

phu ̣ nữ không tham gia quyết định cũng như thực hiê ̣n quyết định là vì họ

thiếu yếu tố cơ bản là nội lực. Hay nói cách khác là họ không biết nên không

thể tham gia. Kiến thứ c gia tăng sẽ giúp ho ̣ quyết định mạnh dạn và tự tin hơn. Thông qua các lớp đào tạo, người phụ nữ H’mông sẽ nắm được các hoạt

động quản lý và điều hành sản xuất của hộ; giúp ra các quyết định của hộ

như: trồng cây gì? Nuôi con gì? Khi nào? ở đâu?...cho phù hợp. Khi đó giai

đoạn thực hiê ̣n sẽ dễ dàng hơn và ngươ ̣c lại quá trình tham gia thực hiê ̣n sẽ kích thích quá trình ra quyết định và như vậy vai trò của phu ̣ nữ đươ ̣c nâng cao. Để nâng cao kiến thứ c cho phu ̣ nữ cần có các biê ̣n pháp đồng bô ̣ sau dây:

112

Một là: Tổ chứ c tốt phong trào ho ̣c bổ túc văn hoá, mở nhiều lớp bổ túc văn hoá từ các lớp xoá mù chữ đến các lớp cấp I, cấp II. Đô ̣ng viên và tạo

điều kiê ̣n để chị em tham gia.

Hai là: Thực hiê ̣n tốt kế hoạch giáo du ̣c và đào tạo của địa phương. Trong đó cần đặc biệt quan tâm, bảo đảm các chỉ tiêu về số lươ ̣ng nữ ho ̣c sinh

dân tô ̣c người H’mông.

Cần có kế hoạch cu ̣ thể trong việc đào tạo giáo viên người dân tô ̣c thiểu

số. Xây dựng và phát triển các trung tâm dạy nghề, mở rô ̣ng các hình thứ c dạy nghề ngắn hạn cho phụ nữ dân tô ̣c H’mông. Tăng cường công tác cử tuyển con em đồng bào dân tô ̣c H’mông vào các trường chuyên nghiệp để đào tạo. Cần có chính sách ưu tiên cho những ho ̣c sinh và sinh viên là dân tô ̣c

H’mông, sau khi tốt nghiê ̣p trở về phu ̣c vu ̣ huyê ̣n nhà.

Ngoài ra, còn phải chú trọng các hình thức giáo du ̣c khác để nâng

cao dân trí cho cô ̣ng đồng, nhất là những nhận thức về giới cũng như phát

triển giới trong giai đoạn hiê ̣n nay nhằm tạo điều kiê ̣n tốt hơn cho phu ̣ nữ

dân tô ̣c H’mông.

4.2.2.2. Các hoạt động huy động nguồn lực hỗ trợ phụ nữ phát triển

Giải pháp về vốn: Qua phân tích ở trên, lao đô ̣ng nữ người H’mông

thường bị phân biệt khi tiếp xúc với nguồn vốn. Cần gắn các chương trình cho vay vốn, tạo công ăn việc làm thông qua các tổ chức đoàn thể như: hội phu ̣ nữ, hô ̣i nông dân, đoàn thanh niên...hay xây dựng các tổ, nhóm phụ nữ nhằm hỗ trợ nhau về vốn và hỗ trợ nhau trong sản xuất của hộ. Có như vậy mới tăng

cường khả năng tiếp cận vốn của lao đô ̣ng người H’mông.

Giảm thiểu những thủ tu ̣c hành chình rườm rà trong quá trình cho vay như thế chấp, phương án kinh doanh, cam kết..., tăng thời gian và số lươ ̣ng

vốn cho vay/lần. Thật sự qua nghiên cứ u thực tế số vốn đươ ̣c sử du ̣ng đúng mu ̣c đích rất ít, điều này khó đánh giá đươ ̣c là đúng hay sai. Nhưng có mô ̣t điều người H’mông thường có thói quen sử du ̣ng vốn cho những hoạt đô ̣ng đô ̣t xuất, trước mắt như: trả nơ ̣ khoản vay trước, đóng tiền ho ̣c cho con, ốm

đau, cưới, ma chay... lý do có thể giải thích đươ ̣c điều này là nguồn vốn tích

luỹ của hô ̣ rất hạn hẹp.

113

Giải pháp giải quyết vấn đề mất công bằng trong giáo dục: Cần hỗ trơ ̣

những gia đình khó khăn, đông con trong quá trình phổ cập giáo du ̣c. Cố gắng

hỗ trợ đô ̣ng viên các gia đình tạo điều kiện hết sức cho trẻ em đươ ̣c đi ho ̣c hết

phổ thông, nhất là các trẻ em là nữ.

Tuyên truyền kiến thứ c về giới, tránh phân biê ̣t nam và nữ trong giáo dục. Loại bỏ quan điểm "con gái không cần học nhiều", "con gái là con nhà

người ta"... Coi đầu tư giáo du ̣c cho con cái chính là đầu tư cho tương lai.

Giải pháp giải quyết vấn đề mất công bằng trong y tế: Tăng cường khả

năng tham gia hoạt đô ̣ng cồng đồng của nữ người H’mông, tổ chức các hoạt

động truyền thông dân số nhằm thu hút sự tham gia của lao động nữ nhất là lao động nam. Cần phải nêu cao vai trò của nam giới trong vấn đề KHHGĐ,

nâng dần tỷ lê ̣ lao đô ̣ng nam tham gia thực hiê ̣n các biê ̣n pháp KHHGD, chăm sóc sứ c khoẻ cho người vợ.

Cần nâng cấp các trạm xá xã cả về số lươ ̣ng loại dịch vu ̣ và chất lươ ̣ng

dịch vu ̣. Theo thống kê, dịch vu ̣ ở các trạm xá mới chỉ giải quyết đươ ̣c các

bê ̣nh đơn giản, khi gặp những trường hơ ̣p khó khăn thường phải lên tuyến

trên, do đó tăng chi phí của gia đình người H’mông. Do địa hình bị chia cắt,

đi lại khó khăn, dân cư sống không tập trung, cần có ít nhất một cán bô ̣ y tế

thường trực để có thể thăm khám và giải quyết bước đầu.

Hàng tháng cần phát các thông tin về chăm sóc sứ c khoẻ y tế trên các phương tiện thông tin địa phương. Thông qua các tổ chức đoàn thể để nâng cao sự hiểu biết về chăm sóc sứ c khoẻ.

Tăng cường sự tham gia của lao đô ̣ng nữ người H’mông trong các hoạt

đô ̣ng của cô ̣ng đồng, tham gia công tác quản lý, công tác xã hô ̣i: Có tham gia

sinh hoạt cô ̣ng đồng thì lao đô ̣ng nữ người H’mông mới có nhiều cơ hô ̣i trao

đổi thông tin, ho ̣c hỏi kinh nghiê ̣m mo ̣i mặt. Mô ̣t mặt giúp nâng cao nhận thứ c đồng thời giảm thiểu đươ ̣c tính tự ti, ru ̣t rè, ngại va chạm của phu ̣ nữ nông thôn nói chung. Để làm đươ ̣c viê ̣c đó cần có sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, các tổ chứ c từ huyê ̣n cho đến tận cấp thôn bản. Cần đưa ra thành các điều khuyến khích lao đô ̣ng nữ người H’mông tham gia trong các hương ước

thôn bản. Tiếp tu ̣c khôi phu ̣c và phát triển những loại hình sinh hoạt văn hoá

114

cô ̣ng đồng của các dân tô ̣c, nhằm thúc đẩy sự tham gia của lao đô ̣ng nữ người

H’mông. Hình thành các câu lạc bô ̣ văn hoá, thể thao tại các thôn bản, có kế

hoạch sinh hoạt theo định kỳ mô ̣t tháng 1 lần tại các nhà văn hoá thôn, xóm. 4.2.2.3. Tăng cường hoạt động của Hội phụ nữ các cấp

Thực tế đã khẳng định vai trò quan trọng của Hội phụ nữ trong việc vận

động, hướng dẫn và giúp đỡ chị em dân tộc thiểu số nâng cao trình độ văn

hóa, kiến thức quản lý và tổ chức sản xuất, tham gia tích cực phong trào xóa

đói giảm nghèo ở nông thôn miền núi. Do trình độ dân trí thấp, ít cơ hội được

tiếp xúc xã hội nên phụ nữ các dân tộc thiểu số hay mặc cảm tự ti và cam chịu

hoàn cảnh của mình. Vì vậy, đi đôi với việc tạo ra môi trường cho phụ nữ có

điều kiện để phát triển (sự đầu tư của Nhà nước cho vùng, khu vực phát triển,

quan niệm đúng đắn về giới, bình đẳng giới của cộng đồng...) là việc đưa chị

em tham gia vào các hoạt động của Hội phụ nữ, thông qua các hoạt động này,

chị em được tìm hiểu, tiếp cận với cách thức tổ chức sản xuất gia đình, với

kiến thức khoa học kỹ thuật, với đồng vốn và sử dụng đồng vốn trong phát

triển kinh tế gia đình. Do cùng giới, chị em nhận được sự cảm thông, giúp đỡ

tận tình của cán bộ Hội nên dần dần xóa bỏ mặc cảm, tự ti để mạnh dạn học

hỏi, phát huy được khả năng của bản thân.

4.2.2.4. Nâng cao nhận thức về giới

- Đưa vấn đề giới tính vào công tác hoạch định chính sách.

Vấn đề giới và giới tính cần phải được thể chế thành luật pháp và các

chính sách kinh tế xã hội cụ thể, phải khắc phục được những bất bình đẳng

còn tồn tại dưới các dạng với mức độ khác nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho

phụ nữ nói chung và phụ nữ các dân tộc H’mông nói riêng tham gia vào các

hoạt động kinh tế - xã hội, giúp họ tiếp cận dần với nền kinh tế thị trường, xóa

bỏ các mặc cảm tự ti để hòa nhập vào cộng đồng, vào xã hội.

- Có chính sách hỗ trợ công tác tuyên truyền, giáo dục giới tính nhằm

nâng cao nhận thức và trách nhiệm của mọi tầng lớp trong xã hội, của chính

quyền các cấp, của cộng đồng và gia đình đối với phụ nữ.

Trên thực tế, sự bình đẳng giữa giới nam và giới nữ ở nhiều nơi, nhiều

cấp chưa được quan tâm đúng mức, chị em vẫn còn chịu nhiều áp lực như:

115

Cường độ lao động, công việc gia đình, sinh đẻ... Hiện nay, trong nhiều gia

đình đồng bào dân tộc H’mông phụ nữ có thời gian làm việc gấp từ 2 đến 3

lần so với nam giới.

Vì vậy, cần phải tạo ra sự thay đổi cơ bản các quan niệm về phụ nữ

trong mọi tầng lớp xã hội, đặc biệt là ở vùng nông thôn miền núi, nơi có trình

độ dân trí thấp, nơi đang còn tồn tại nhiều quan niệm lạc hậu về phụ nữ nhằm

khắc phục tình trạng phân biệt đối xử giữa các giới trong phân công lao động,

trong công tác đào tạo, học tập và trong cơ cấu cán bộ lãnh đạo của chính

quyền các cấp.

- Nhà nước cần có những biện pháp kiên quyết nhằm hạn chế đi đến

chấm dứt các tập tục lạc hậu lỗi thời ở khu vực miền núi và đồng bào dân tộc

trong hôn nhân, sinh đẻ nhiều con, tang ma...

Muốn người phụ nữ dân tộc H’mông tham gia vào quản lý kinh tế gia

đình (tham gia vào loại lao động mang tính trí tuệ) thì điều kiện đầu tiên là

phải giải phóng phụ nữ dân tộc H’mông ra khỏi gánh nặng của công việc gia

đình, người nam giới với những quan niệm đúng đắn về người phụ nữ sẽ cùng

chia sẻ trách nhiệm công việc gia đình với phụ nữ để người phụ nữ có thời

gian học tập, nâng cao trình độ của mình.

4.2.2.5. Cần xây dựng chính sách thể hiện trách nhiệm xã hội trong việc tái

sản xuất các thế hệ tương lai

Con người là động lực của sự phát triển. Việc quan tâm tới thế hệ tương

lai là trách nhiệm chung của toàn xã hội, nhưng hiện nay việc sinh đẻ, nuôi

dạy con cái hoàn toàn phụ thuộc vào hoàn cảnh của mỗi gia đình.

- Trong phạm vi kế hoạch hóa gia đình, khi sinh con, nếu hộ gia đình

có nhiều khó khăn mức sống thấp thì cần có sự giúp đỡ của Nhà nước, của

cộng đồng xã hội đối với đứa trẻ.

- Trách nhiệm xã hội cần được thể hiện cụ thể ở chính sách y tế là phải

chăm lo, bảo vệ và giữ gìn sức khỏe phụ nữ một cách tốt nhất. Nên có chính

sách miễn hoàn toàn viện phí cho phụ nữ dân tộc thiểu số ở những vùng đặc

biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa.

116

- Trách nhiệm đó cần phải thể hiện trong công tác truyền thông dân số,

kế hoạch hóa gia đình để cả cộng đồng xã hội thực hiện, đảm bảo cho các gia

đình có điều kiện nuôi dạy con cái, con cái có điều kiện để mở mang tri thức,

khi trưởng thành dễ hòa nhập với cuộc sống, đảm bảo chất lượng nguồn lao

động trong tương lai.

- Tăng cường các hệ thống dịch vụ phục vụ gia đình nhằm giảm nhẹ công

việc gia đình cho phụ nữ và các trẻ em gái để họ có thời gian nghỉ ngơi, học tập.

4.2.2.6. Chính sách khuyến khích phụ nữ dân tộc H’mông duy trì và giữ gìn

bản sắc văn hóa các dân tộc

Phụ nữ dân tộc H’mông có vai trò quan trọng trong giữ gìn bản sắc văn

hóa truyền thống nhưng để chị em có điều kiện thể hiện được vai trò nên đòi

hỏi Nhà nước nên có một số chính sách hỗ trợ như:

- Nhà nước nên có chính sách khuyến khích việc dạy và học chữ, tiếng

dân tộc trong các trường phổ thông cơ sở, trường phổ thông dân tộc nội trú và

trong đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc, công tác xóa đói giảm nghèo,

khuyến nông, khuyến lâm, cán bộ Hội phụ nữ, Hội nông dân... có quan hệ

trực tiếp với đồng bào dân tộc.

- Trong chính sách giải quyết việc làm, cần phải đầu tư khôi phục, duy

trì các ngành nghề truyền thống của phụ nữ dân tộc như: Dệt vải, dệt thổ cẩm,

đan lát thêu thùa, may áo váy dân tộc... tiến tới tìm thị trường xuất khẩu để

khuyến khích các nghề truyền thống phát triển.

- Tuyên truyền, khuyến khích trẻ em gái tiếp thu các giá trị văn hóa

truyền thống của dân tộc mình.

- Có chính sách đãi ngộ, khuyến khích các già làng trong việc lưu

truyền giá trị văn hóa truyền thống của từng dân tộc.

Phụ nữ dân tộc H’mông là người có vai trò quyết định trong việc lưu

truyền bản sắc văn háo các dân tộc một cách bền vững nhất. Họ có lòng tự

hào, kiêu hãnh về những giá trị văn hóa của dân tộc mình. Vì vậy, nếu có

chính sách khuyến khích phụ nữ giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc thì đó chính

là những biện pháp khơi dậy lòng tự hào dân tộc, vượt qua các mặc cảm tự ti

giúp họ dễ hòa nhập vào cộng đồng để cùng phát triển.

117

KẾT LUẬN

Vấn đề nâng cao năng lực cho phụ nữ dân tộc H’mông quản lý kinh tế

hộ gia đình là vấn đề có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội sâu sắc. Vấn đề đó

không những có tác động tích cực đối với phát triển kinh tế hộ gia đình mà

còn ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thái

Nguyên nói chung và huyện Đồng Hỷ nói riêng.

Với thời gian và kinh phí có hạn, luận văn đã tập trung giải quyết một

số vất đề sau đây: Đã hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề “giới”

và vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ gia đình. Phân tích, đánh giá

thực trạng vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong phát triển kinh tế hộ gia

đình trên địa bàn huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên. Điều tra phỏng vấn 226

hộ đồng bào dân tộc H’mông trên địa bàn huyện Đồng Hỷ, ứng dụng một số

công cụ phân tích dữ liệu như Excell, phần mềm SPSS để đo lường kết quả

nghiên cứu về vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong các hoạt động: quản

lý và điều hành sản xuất của hộ; hoạt động sản xuất tạo thu nhập; trong viê ̣c

tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực của hộ; việc ra các quyết định của hộ;

tham gia công tác xã hội và trong đời sống sinh hoạt hàng ngày. Căn cứ vào kết quả nghiên cứu, đề xuất về phương hướng và một số giải pháp phát huy

vai trò của phụ nữ dân tộc H’mông trong phát triển kinh tế hộ gia đình trên địa

bàn huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.

118

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Trần Thị Vân Anh (2001), “Giới và phát triển nông thôn”, tài liệu tập

huấn phiển triển bền vững nông thôn của chương trình VNRP.

2. Đỗ Thị Bình - Trần Thị Vân Anh (2003), “Giới và công tác giảm nghèo”,

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

3. Nguyễn Sinh Cúc (2001), Phân tích điều tra nông thôn năm 2000

4. Chương trình nghiên cứu Việt Nam - Hà Lan (2006), Kết quả nghiên cứu

các đề án VNRP, NXB Nông nghiệp.

5. Phạm Văn Dũng (2006), Giáo trình kinh tế chính trị Mác- Lênin dùng

cho khối ngành kinh tế - quản trị kinh doanh trong các trường cao đẳng,

đại học, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Nguyễn Thị Thanh Hòa (2011), Thực hiện bình đẳng giới để phụ nữ Việt

Nam tích cực tham gia xây dựng, phát triển đất nước, Quản lý nhà nước,

số 189

7. Nguyễn Thị Thanh Hòa (2016), Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ

nữ trong hệ thống chính trị, Hà Nội

8. Hội đồng bầu cử quốc gia (2016), Báo cáo tổng kết cuộc bầu cử đại biểu

Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021,

Hà Nội.

9. Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Thái Nguyên, Nghị quyết Đại hội Đại biểu phụ nữ

tỉnh Thái Nguyên lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2017-2021.

10. Hội Liên hiệp phụ nữ huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên, Nghị quyết Đại hội

phụ nữ huyện Đồng Hỷ lần thứ XXIII, nhiệm kỳ 2017-2021.

11. Hội Liên hiệp phụ nữ huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên, Báo cáo chính trị của

Ban chấp hành trình tại Đại hội phụ nữ huyện Nậm Pồ lần thứ II, nhiệm kỳ

2016-2021.

119

12. Hội Liên hiệp phụ nữ huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang, Báo cáo chính trị của

Ban chấp hành trình tại Đại hội đại biểu phụ nữ huyện Nậm Pồ lần thứ XVII,

nhiệm kỳ 2016-2021.

13. Hội Liên hiệp phụ nữ huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái, Báo cáo chính trị

của Ban chấp hành trình tại Đại hội đại biểu phụ nữ huyện Mù Cang Chải

lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2016-2021.

14. Nguyễn Thị Hiên - Lê Ngọc Hùng (2006), “Nâng cao năng lực phát triển

bền vững bình đẳng giới và giảm nghèo”, Nxb Lý luận chính trị.

15. Nguyễn Linh Khiếu (2001), Gia đình và phụ nữ trong biến đổi văn hóa

xã hội nông thôn”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội

16. Nguyễn Thị Lân (2006), Vai trò của phụ nữ dân tộc Dao trong hoạt động

xóa đói giảm nghèo, NXB Nông nghiệp, Hà Nội

17. Ngô Thắng Lợi (2013), Giáo trình kinh tế phát triển, NXB Đại học Kinh tế

quốc dân.

18. Nhóm hành động chống đói giảm nghèo (2002), Đẩy mạnh công tác phát

triển đối với các dân tộc thiểu số.

19. Nguyễn Duy Quý (2010), Công cuộc đổi mới – những thành tựu và bài

học kinh nghiệm, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Lê Đình Thắng (1993), Phát triển kinh tế hộ theo hướng sản xuất hàng hoá,

NXB Nông nghiệp, Hà Nội

21. Nguyễn Thị Bích Thu (2016), Vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số khu

vực Tây Nguyên trong phát triển kinh tế - xã hội nhìn từ trường hợp tỉnh

Lâm Đồng.

22. Đỗ Văn Viện - Đỗ Văn Tiến (2005), Giáo trình kinh tế hộ nông dân - Đại

học Nông nghiệp I - Hà Nội.

23. Lô Quốc Toản (2010), Phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh

miền núi phía Bắc nước ta hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

24. Lê Thi (1999), Việc làm đời sống phụ nữ trong chuyển đổi kinh tế ở

Việt Nam, Nxb khoa học - xã hội, Hà Nội.

120

25. Trần Đức Viên (2001), Nông nghiệp trên đất dốc, thách thức và tiềm

năng, NXB Nông nghiệp Hà Nội.

26. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Quyết định số 2037/QĐ-UBND

ngày 16/9/2014 về việc phê duyệt Đề án “Phát triển kinh tế - xã hội, ổn

định sản xuất và đời sống các xóm, bản đặc biệt khó khăn có nhiều đồng

bào dân tộc Mông sinh sống tỉnh Thái nguyên đến năm 2020”.

27. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Ban chỉ đạo Tổng điều tra nông

thôn, nông nghiệp và thủy sản (2017), Kết quả sơ bộ tổng điều tra nông

thôn, nông nghiệp và thủy sản 01/7/2016.

28. Ủy ban dân tộc và miền núi (2000), Một số kiến nghị về giải pháp nâng

cao năng lực quản lý kinh tế hộ gia đình của phụ nữ một số dân tộc thiểu

số miền núi phía bắc.

29. Viện nghiên cứu chính sách lương thực Quốc tế (2001), Chương trình hỗ

trợ ngành nông nghiệp, Trung tâm thông tin Nông nghiệp & phát triển

nông thôn, 2001.

121

PHỤ LỤC PHIẾU ĐIỀU TRA KINH TẾ HỘ

Huyện: Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên Xóm:…………….…….....................Xã:…………………………………...

Họ và tên người được phỏng vấn: ...............................................................

I- MỘT SỐ THÔNG TIN CHỦ YẾU VỀ HỘ

1.1- Danh sánh những người trong gia đình (gồm cả chủ hộ):

TT Họ và tên Tuổi

giới tính

Trình độ văn hóa

Nghề nghiệp

Quan hệ với chủ hộ (vợ, chồng)

Là lao động chính hay phụ

1 2

Gia đình sinh bao nhiêu con?

2 3 4 5 6

1.2- Theo chuẩn nghèo mới:

+ Là hộ nghèo + Là hộ TB + Là hộ khá

II- ĐIỀU KIỆN SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA HỘ

- Đất ao hồ: ................m2 - Đất khác: ..................m2

Giá trị: ................................... Giá trị: ................................... Giá trị: ...................................

2.1- Tình hình sử dụng đất đai của hộ ông (bà): - Đất soi bãi (nương rẫy): ....................m2 - Đất ruộng: ..................m2 - Đất rừng: ....................m2 2.2. Những tài sản chủ yếu của gia đình ông (bà): Loại nhà ở: Nhà xây Nhà sàn, gỗ, ván Nhà tranh tre, nứa lá Tài sản của hộ (xe máy, ô tô, tivi, tủ lạnh): ..................................(đồng) Phương tiện sản xuất: Máy cày bừa Trâu Bò Máy móc khác Giá trị: ................................... Giá trị: ................................... Giá trị: ................................... Giá trị: ...................................

Không

2.3. Tình hình vốn dùng cho sản xuất kinh doanh trong năm Có vay vốn không? Có Nếu có vay vốn thì vay từ ngân hàng nào: .................................................................

+ Ông hay bà là người quản lý vốn? Vợ

Cả vợ và chồng chồng

người khác

+ Ông hay bà đứng tên vay vốn? Vợ

Cả vợ và chồng chồng

người khác

+ Ông hay bà là người đi trả tiền? Vợ

Cả vợ và chồng chồng

người khác

+ Ông hay bà quyết định sử dụng vốn? Vợ

Cả vợ và chồng chồng

người khác

122

III. THU NHẬP CỦA GIA ĐÌNH

STT Các nguồn thu

Số tiền/năm (đồng)

Trồng trọt Chăn nuôi Thuỷ sản Lâm nghiệp Tiểu thủ CN

So mức độ đóng góp của vợ với chồng Thấp hơn Ngang bằng Cao hơn

1 2 3 4 5 6 Dịch vụ 7

Từ làm thuê

IV. THÔNG TIN VỀ PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG

Ai trong gia đình ông (bà) là người phân công lao động, điều hành hoạt

động sản xuất kinh doanh trong gia đình:

4.1. Phân công lao động trong sản phẩm của nhà

vợ Cả vợ và chồng Chồng Người khác

Các loại công việc

Ai làm chính Vợ và chồng Chồng

Vợ

Người khác

- Bán cho ai - Bán ở đâu - Giá bán

4.2. Phân công lao động trong hoạt động Lâm nghiệp

Ai làm chính

Các loại công việc

Vợ

Vợ và chồng Chồng Người khác

- Phát cây, dọn đồi, đốt - Cuốc hố, trồng cây -Chăm sóc rừng -Lấy măng, sản phẩm phụ - Khai thác gỗ, bán

4.3. Phân công lao động trong các hoạt động khác

123

Ai làm chính

Các hoạt động

Vợ

Vợ và chồng Chồng

Người khác

1.Hoạt động tái sản xuất: - Nội trợ: Nấu cơm, giặt… - Chăm sóc sức khoẻ gia đình - Kèm dạy học cho con - Lấy củi đun - Mua sắm, xây dựng, sửa chữa 2.Hoạt động cộng đồng (họp xóm, đám ma, đám cưới...)

V. HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT CỦA HỘ

Ai trong gia đình là người phân công lao động, điều hành hoạt động sản

xuất kinh doanh trong gia đình: Chồng Vợ

Bố Mẹ Con trai Con gái

1. Trồng Ngô

Vụ ngô (đông xuân)

Vụ ngô (hè thu)

Diện tích đất (m2) Tổng sản lượng ngô đầu ra (kg) Giá bán trên thị trường Tổng chi Giống Phân bón Thuốc bảo vệ thực vật Thuê (lao động) Chi khác

Lao động đầu vào cho sản xuất ngô

- Giá một ngày công = ………………………. đồng

Đóng góp ngày công

Ngày công

Vợ

Chồng Lao động thuê 3 ngày

0 ngày

Ví dụ: 10 ngày 7 ngày

Trồng ngô: - Làm đất (cày, bừa) - Trông ngô - Chăm sóc (bón phân, làm cỏ, phun thuốc) - Thu hoạch

124

2. Trồng lúa

VỤ CHIÊM (đông xuân)

VỤ MÙA (hè thu)

Diện tích đất (m2)

Tổng sản lượng thóc đầu ra (kg)

Giá bán trên thị trường

Tổng chi

Giống

Phân bón

Thuốc bảo vệ thực vật

Thuê (lao động, cày bừa)

Chi khác

Lưu ý: Tổng các mục phải cân bằng với tổng sản lượng thóc lúa thu hoạch được.

Lao động đầu vào cho sản xuất lúa

- Giá một ngày công = ………………………. đồng

Ngày công

Ví dụ: 10 ngày

1. Trồng lúa:

3 ngày

0 ngày

- Làm đất (cày, bừa)

Đóng góp ngày công Vợ Chồng Lao động thuê 7 ngày

- Cấy (Gieo mạ, nhổ mạ, cấy)

- Chăm sóc (bón phân, làm cỏ, phun thuốc)

- Gặt

- Sau thu hoạch (tuốt, phơi, xay sát)

3. Hoạt động chăn nuôi

Thu - chi từ chăn nuôi gia súc, gia cầm

Lợn

Vịt

Trâu

Khác

Bán được mấy con

Mỗi con bao nhiêu kg

Giá bán

Tổng thu nhập

Chi phí (1.000đ)

Thức ăn

Thuốc men

Các chi phí khác

125

Lao động đầu vào cho chăn nuôi - Giá một ngày công cho hoạt động chăn nuôi (nếu đi thuê) = ……. đồng

Lao động chính

Hoạt động

Ngày công/ lứa

Chồng (%) Lao động thuê

Vợ (%)

1. Chăn nuôi Chăn nuôi gà (mua thức ăn, chăm sóc, đem bán) Chăn nuôi lợn (mua thức ăn, chăm sóc, đem bán) Chăn nuôi cá (mua thức ăn, chăm sóc, đem bán) Chăn nuôi trâu bò (mua thức ăn, chăm sóc, đem bán)

1. Hoạt động trồng hoa - màu Lao động đầu vào cho sản xuất hoa - màu

- Giá một ngày công (nếu đi thuê) = ………………………. đồng

Đóng góp ngày công

Vụ hoa màu

Ngày công

1. Vụ màu ………………. Ví dụ: 10 ngày

Vợ 7 ngày

Chồng 3 ngày

Lao động thuê 0 ngày

- Làm đất - Trông hoa (màu) - Bón phân - Làm cỏ - Phun thuốc - Tưới tiêu - Phun thuốc - Chuyên chở, đem bán

VI. TIẾP CẬN THÔNG TIN

Các nguồn thông tin

Người được tiếp cận Vợ Chồng (con gái) (con trai)

- Từ chồng - Hội phụ nữ, hội nông dân - Họ hàng, người thân quen - Từ chợ - Cán bộ khuyến nông - Cửa hàng vật tư nông nghiệp - Xem ti vi, đài, sách báo, tạp chí, bản tin - Kinh nghiệp của bản thân

Ông bà có được tham dự các lớp tập huấn không: có

không

126

- Quản lý kinh tế hộ: - Kiến thức về Giới: - Kỹ thuật trồng trọt: - Kỹ thuật chăm nuôi: - Kỹ thuật trồng rừng : - Kỹ thuật trồng chè: - Phòng trừ dịch hại:

Vợ Vợ Vợ Vợ Vợ Vợ Vợ

Cả vợ và chồng Cả vợ và chồng Cả vợ và chồng Cả vợ và chồng Cả vợ và chồng Cả vợ và chồng Cả vợ và chồng

Chồng Chồng Chồng Chồng Chồng Chồng Chồng

Người khác Người khác Người khác Người khác Người khác Người khác Người khác

Ông bà được tham dự các nội dung gì sau đây :

IV- TRONG GIA ĐÌNH ÔNG BÀ AI LÀ NGƯỜI RA QUYẾT ĐỊNH

TT

Nội dung

Chồng

Vợ

1 Lựa chọn nuôi con gì 2 Lựa chọn trồng cây gì 3 Sản xuất như thế nào, sản xuất bao nhiêu 4 Bán cho ai 5 Giá bán bao nhiêu 6 Áp dụng khoa học kỹ thuật vào SX 7 Mua sắm, xây dựng, sửa chữa lớn trong nhà 8 Sử dụng thu nhập của gia đình 9 Cho con cái học hành 10 Định hướng nghề nghiệp cho con cái

Người quyết định chính Vợ và chồng

Người khác trong giá đình

V- SỬ DỤNG QUỸ THỜI GIAN CỦA PHỤ NỮ

Trong một ngày, bà sử dụng quỹ thời gian cho từng việc như thế nào?

Loại công việc

Số giờ thực hiện (giờ)

Công việc tạo thu nhập Công việc nội trợ Lấy củi đun Chăm sóc sức khỏe gia đình Dạy con học hành Tham gia công tác xã hội Vui chơi, thăm bạn bè Ngủ, nghỉ

VI- CÁC NỘI DUNG KHÁC

+ Đi họp, tập huấn, nghe tuyên truyền là việc của đàn ông: + Làm nhà, mua bán tài sản lớn là việc của đàn ông: + Mua bán đồ dùng hàng ngày là việc của phụ nữ: + Quyền quyết định cuối cùng là của đàn ông: + Vợ phải nghe chồng:

đúng đúng đúng đúng đúng

sai sai sai sai sai

CHỦ HỘ (ký tên)

CÁN BỘ ĐIỀU TRA (ký tên)