intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Ý thức pháp luật với quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:94

166
lượt xem
47
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN, là mục tiêu và động lực phát triển xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Dân chủ là cái quý báu nhất của nhân dân" [45, tr.279] và "thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn" [46, tr.249]. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH, để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng ta khẳng định: "Toàn bộ tổ chức và động lực của hệ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Ý thức pháp luật với quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay

  1. LUẬN VĂN: Ý thức pháp luật với quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay
  2. mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN, là mục tiêu và động lực phát triển xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Dân chủ là cái quý báu nhất của nhân dân" [45, tr.279] và "thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn" [46, tr.249]. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH, để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng ta khẳng định: "Toàn bộ tổ chức và động lực của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân" [23, tr.131]. Trong sự nghiệp cách mạng XHCN, Đảng ta không ngừng mở rộng dân chủ, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Những thành quả của cách mạng đem lại đã thực sự làm thay da đổi thịt đời sống xã hội ở hầu khắp các địa phương, địa bàn cả nước. Đặc biệt 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, bộ mặt nông thôn, đời sống của người dân đã có những thay đổi rõ rệt, quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân lao động ngày một được quan tâm, việc phát huy dân chủ đã được thể chế hóa bằng pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu kinh tế - xã hội rất đáng trân trọng, cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý vẫn chưa được thực hiện một cách nghiêm túc, kém hiệu quả, phương châm "sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật" vẫn chưa đi vào cuộc sống, đời sống pháp luật thấp, ý thức pháp luật và dân chủ của nhân dân, đặc biệt của người nông dân còn hết sức thấp kém so với yêu cầu, mục tiêu đề ra; như Đảng ta chỉ rõ: "Quyền làm chủ của nhân dân chưa được tôn trọng và phát huy đầy đủ trong đời sống xã hội. Không ít hiện tượng mất dân chủ, dân chủ hình thức, có nơi rất nghiêm trọng. Bệnh quan liêu, tư tưởng phong kiến, gia trưởng còn nặng. Đồng thời, cũng xuất hiện khuynh hướng dân chủ cực đoan, dân chủ không đi liền với thực hiện kỷ luật và pháp luật, cơ chế và pháp luật bảo đảm thực hiện dân chủ chưa được cụ thể hóa đầy đủ" [15, tr.41-42].
  3. Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân sâu xa từ đời sống kinh tế xã hội, từ thói quen lối sống, tập tục sản xuất nông nghiệp lạc hậu, mặt bằng dân trí còn thấp, đặc biệt sự thiếu hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành luật pháp rất thấp, cơ chế chế tài luật pháp chồng chéo, thiếu đồng bộ chưa thực sự đi vào cuộc sống, chưa trở thành nhu cầu thiết yếu trong điều chỉnh quan hệ xã hội. Trong khi đó, đối tượng nông dân, ở địa bàn nông thôn, nông nghiệp với vị trí chiến lược, không chỉ ở số lượng trên 72% dân số mà có vai trò hết sức quan trọng trong việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN, việc thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước vẫn chưa thực sự quan tâm chú trọng đúng mức. Trước những yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, trước đòi hỏi xu thế hội nhập mở cửa hợp tác về kinh tế, văn hóa - khoa học kỹ thuật, bên cạnh những thuận lợi, thời cơ và vận hội mới thì những khó khăn, thách thức của toàn cầu hóa, của kinh tế thị trường, của sự phân hóa giàu nghèo trong đời sống nhân dân, những tiêu cực tệ nạn xã hội cùng tình trạng suy thoái đạo đức, vi phạm pháp luật của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân gây cản trở đến quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn, tạo nên những " điểm nóng" gây mất ổn định chính trị dễ bị kẻ địch lợi dụng xuyên tạc, chống phá. Vì vậy, đòi hỏi các cấp, các ngành một mặt nỗ lực thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các Nghị quyết, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Mặt khác, Nhà nước phải tạo ra một hành lang pháp lý rộng mở, thích hợp, sát thực đảm bảo cho người dân dễ hiểu, dễ biết, thực hiện. Đồng thời, điều quan trọng là tổ chức, phổ biến, tuyên truyền, xã hội hóa công tác giáo dục pháp luật gắn với nhân diện các mô hình hoạt động tự quản ở địa bàn dân cư, nông thôn, phát huy quyền dân chủ của quần chúng nhân dân trong việc tham gia quản lý xã hội ở địa phương. Vì vậy, việc làm rõ vấn đề này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất cấp thiết. Từ những trăn trở và qua thực tế nhiều năm công tác ở cơ sở với những kiến thức, kinh nghiệm ban đầu đã thôi thúc người viết chọn đề tài: " Ý thức phỏp luật với quỏ trỡnh thực hiện dõn chủ ở nụng thụn nước ta hiện nay ". 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
  4. Những nội dung liên quan đến vấn đề ý thức pháp luật, vấn đề dân chủ, đã được một số người nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau. Các công trình nghiên cứu của các tác giả đã được công bố dưới dạng đề tài khoa học, chuyên đề, khảo sát, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và các bài đăng tải trên các tạp chí, sách báo... Chẳng hạn, nh ư những công trình sau đây: Đề tài cấp bộ, cấp Nhà nước - Cơ sở khoa học cho việc xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật , Chương trình Khoa học công nghệ cấp nhà nước KX.07, đề tài KX.07.17 (1995), Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật - Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia. - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới, Đề tài Khoa học cấp bộ (1995) của Bộ T ư pháp. - Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện nay (một số vấn đề lý luận và thực tiễn), Đề tài khoa học cấp bộ, PGS.TS Nguyễn Cúc (chủ biên), Phân viện Hà Nội - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2002. - Quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở một số tỉnh Đồng bằng sông Hồng hiện nay, Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2003, TS. Nguyễn Thị Ngân (chủ biên). Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ - Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ hành chính nhà n ước ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, tác giả Lê Đình Khiên năm 1996. - Thực chất của quá trình dân chủ hóa XHCN ở n ước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Luận án tiến sĩ Triết học, tác giả Nguyễn V ăn Vĩnh, năm 1993. - Những đặc điểm của quá trình hình thành ý thức pháp luật ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, tác giả Đào Duy Tấn, năm 2000. - Sự hình thành và phát triển ý thức pháp luật của nhân dân đồng bằng sông Cửu Long trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, tác giả Hồ Việt Hiệp, năm 2000. - Lôgíc khách quan của quá trình hình thành và phát triển ý thức pháp luật ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Triết học, tác giả Nguyễn Thị Thúy Vân, năm 2001. - Nhà nước XHCN với việc xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay , Luận án tiến sĩ Triết học, tác giả Đỗ Trung Hiếu, năm 2002.
  5. - Pháp luật với quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội ở địa phương miền núi, Luận văn thạc sĩ Triết học, tác giả Nguyễn Ngọc Hưng, năm 1993. - ý thức pháp luật với việc xây dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, tác giả Mai Thị Minh Ngọc, năm 2003. Sách, báo, tạp chí - Văn hóa pháp luật quá trình dân chủ hóa, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 4/1991, tác giả Trần Ngọc Đường. - Chính sách pháp luật và ý thức pháp luật Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 4/1993, tác giả Nguyễn Như Phát. - Vấn đề dân chủ và các đặc trưng của mô hình tổng thể nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2/2003, tác giả PGS.TS Hoàng Văn Hảo. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và vấn đề thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, tác giả Lê Xuân Đình, Tạp chí Cộng sản, số 20 (10-2004). - Phát huy dân chủ ở xã, phường, tác giả PGS.TS Vũ Văn Hiền (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, năm 2004. - Quy chế dân chủ ở cơ sở - vấn đề lý luận và thực tiễn, tác giả PGS.TS VũVăn Hiền, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004. - Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay, TS. Nguyễn Văn Sáu, GS. Hồ Văn Thông (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. Nhìn chung, do yêu cầu mục đích của mỗi đề tài khoa học, các tác giả đi sâu nghiên cứu làm rõ từng vấn đề cụ thể như dân chủ, dân chủ hóa, dân chủ XHCN, nền dân chủ, ý thức pháp luật như khái niệm, cấu trúc, đặc điểm XHCN phát huy dân chủ cơ sở ở nông thôn... Việc hình thành ý thức pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ quản lý hành chính, mối quan hệ ý thức pháp luật với xây dựng nền dân chủ XHCN... Có thể nói, mỗi công trình có những giá trị nghiên cứu khác nhau, tuy nhiên ý thức pháp luật được nghiên cứu trên bình diện triết học, là một hình thái ý thức xã hội, nó liên quan trực tiếp đến con người với tư cách là một công dân. Công dân có thực hiện quyền dân chủ của mình hay không? điều đó phải ý thức được quyền và nghĩa vụ của mình trước pháp luật. Vì vậy, để pháp luật đi vào cuộc sống, đặc biệt ở địa bàn nông thôn
  6. và đối tượng nông dân thì việc nâng cao ý thức pháp luật cho họ có một ý nghĩa hết sức to lớn. Đây là một vấn đề mới mẻ, cơ sở lý luận và thực tiễn chưa nhiều và cũng khá phức tạp khi tìm hiểu dưới góc độ triết học. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Mục đích: Trên cơ sở làm rõ vai trò của ý thức pháp luật, thực trạng ý thức pháp luật của người nông dân, tác giả khuyến nghị một số giải pháp. Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận văn sẽ tập trung làm rõ: - ý thức pháp luật của người nông dân và vai trò của nó trong quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay. - Thông qua tìm hiểu, khảo sát thực trạng ý thức pháp luật của người nông dân, tác giả mạnh dạn đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị nâng cao ý thức pháp luật cho người nông dân, nhằm thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay. Phạm vi nghiên cứu của luận văn - Vấn đề ý thức pháp luật và dân chủ được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau như Luật học, Triết học, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Xã hội học, Chính trị học... phạm vi trong luận văn này xin nghiên cứu dưới góc độ triết học. - Khái niệm ý thức pháp luật được hiểu rất rộng kết cấu gồm: Hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật. Nội dung đề tài tập trung đi sâu một số khía cạnh tâm lý pháp luật: trình độ nhận thức am hiểu pháp luật, tình cảm thái độ chấp hành pháp luật của người nông dân. - Khái niệm về dân chủ cũng rất rộng, do yêu cầu của luận văn, xin được đi sâu khía cạnh dân chủ là một hình thức nhà nước, nó có mối quan hệ chặt chẽ với pháp luật. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Luận văn dựa trên cơ sở quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong các phần liên quan đến đề tài. - Trên cơ sở phương pháp luận triết học mác xít, luận văn sử dụng các phương pháp phân tích - tổng hợp, lôgíc - lịch sử, hệ thống - cấu trúc, điều tra khảo sát, thống kê - so sánh... trong nghiên cứu và trình bày. 5. Những đóng góp mới của luận văn
  7. - Tìm hiểu làm rõ thêm một số quan niệm về ý thức pháp luật của người nông dân, về người nông dân Việt Nam, về dân chủ và quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn Việt Nam dưới góc độ triết học. - Làm rõ vai trò của ý thức pháp luật đối với quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay. - Chỉ rõ thực trạng và giải pháp cần thiết nâng cao ý thức pháp luật cho người nông dân (qua thực tế một số tỉnh phía Bắc) nhằm phát huy dân chủ cơ sở ở nông thôn nước ta hiện nay. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm tài liệu tham khảo cho các công trình nghiên cứu, giảng dạy và học tập triết học và các ngành khoa học xã hội và nhân văn. Thông qua phân tích thực trạng và kiến nghị một số giải pháp nâng cao ý thức pháp luật của người nông dân trong điều kiện mới, có thể giúp người làm công tác quản lý xã hội, quản lý pháp luật tham khảo, đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm ở địa phương mình. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.
  8. Chương 1 ý thức pháp luật của người nông dân và vai trò của nó trong quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay 1.1. những biểu hiện ý thức pháp luật của người nông dân nước ta hiện nay 1.1.1. ý thức pháp luật: quan niệm và kết cấu 1.1.1.1. Một số quan niệm về ý thức pháp luật ý thức pháp luật (YTPL) là một hình thái ý thức xã hội (YTXH) trong xã hội có giai cấp; trong đó, nó thể hiện tri thức và sự đánh giá về tính công bằng của những quy tắc được chấp nhận trong một xã hội nhất định với tính cách là luật pháp, về quyền hạn và nghĩa vụ các thành viên trong xã hội, về tính hợp pháp hay không hợp pháp của hành vi con người, nó là một trong những vấn đề cơ bản, đa dạng, phức tạp của đời sống pháp luật. Đời sống pháp luật đó là nhu cầu cần phải điều chỉnh những hành vi có tính lặp đi, lặp lại thường xuyên, phổ biến của con người trong đời sống xã hội nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp nắm quyền lực và duy trì sự ổn định của cộng đồng xã hội. Nhu cầu cần điều chỉnh đó được con người phản ảnh một cách tích cực và sáng tạo hình thành ý thức pháp luật. Pháp luật ra đời cùng với Nhà nước nhằm thực hiện quyền lực công cộng, nó là công cụ của bộ máy nhà nước để quản lý và điều chỉnh xã hội. Thực chất của pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được thể chế hóa và được thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Do vậy, bên cạnh sự phản ánh sự công bằng xã hội theo những chuẩn mực nhất định, YTPL phản ánh sâu sắc ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội. YTPL hiểu theo nghĩa thông thường, theo nghĩa hẹp thì đó là ý thức chấp hành những quy định pháp luật của con người. Quan niệm này thường được xem như sự đánh giá chủ quan của một tập thể, cá nhân nào đó về mức độ hành vi chấp hành của một đối tượng nhất định trong việc thực hiện pháp luật theo những quy định trong văn bản pháp lý, đó là sự đánh giá mức độ YTPL cao hay thấp, tốt hay kém của họ. Cách quan niệm này vô hình chung đã đồng nhất YTPL với một hình thức biểu hiện cụ thể của nó. Như
  9. vậy, sẽ là quá hẹp, phiến diện vì nó chưa thể hiện rõ được vai trò, chức năng, bản chất và kết cấu của YTPL. Trong lý luận khoa học, YTPL được hiểu theo nghĩa rộng, có tính khách quan toàn diện và khái quát cao. Tuy nhiên, do mục đích yêu cầu và phương diện nghiên cứu khác nhau nên cho đến nay đã xuất hiện nhiều quan niệm khác nhau về YTPL. Quan niệm thứ nhất cho rằng: "ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, biểu thị mối quan hệ của con người đối với pháp luật" [8, tr.130]. Đây là quan niệm mang tính khái quát cao, nhưng lại quá chung, chưa thể đầy đủ kết cấu, nội dung và nguồn gốc của YTPL. Quan niệm thứ hai: lại nhấn mạnh mặt này hay mặt khác của YTPL. Chẳng hạn, có quan niệm tập trung nhấn mạnh cơ cấu YTPL như: "ý thức pháp luật là tổng hợp những tư tưởng quan điểm pháp luật và tâm lý pháp luật. Hay nói cụ thể hơn, là tổng hợp những nhận thức, những hiểu biết quan điểm pháp lý, những tình cảm pháp luật cùng với sự tôn trọng và thói quen chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật" [71, tr.233]. Nhấn mạnh yếu tố pháp lý của YTPL, có quan niệm cho rằng: ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những học thuyết, quan điểm, tư tưởng, tình cảm của con người, thể hiện thái độ, sự đánh giá về tính công bằng hay không công bằng, đúng đắn hay không đúng đắn của pháp luật, về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con người, trong các hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội và của các chủ thể khác [35, tr.326]. Có thể nói, quan niệm này khá toàn diện nếu xét theo góc độ của người làm công tác quản lý pháp luật. Tuy nhiên, "tính hợp pháp hay không hợp pháp" cần phải xem xét dưới giác độ giai cấp, gắn với một thể chế nhà nước nhất định và sự phục vụ cho giai cấp cầm quyền nào trong xã hội. Mặt khác, quan niệm trên chỉ hàm ý áp dụng cho thể chế chính trị XHCN, nhà nước XHCN nó chưa phản ánh toàn diện kết cấu nội dung YTPL. Quan niệm thứ ba cho rằng: "ý thức pháp luật XHCN là tổng hòa những quan điểm, quan niệm, tình cảm về pháp luật thể hiện thái độ của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động do giai cấp công nhân lãnh đạo đối với pháp luật, đối với các yêu cầu khác của pháp luật đối với quyền và nghĩa vụ của công dân" [74, tr.196]. Theo quan niệm này, chỉ phản ảnh nội dung cơ bản YTPL XHCN theo thể chế chính trị Xô Viết với sự
  10. thuần chất giai cấp, nó đề cao và nhấn mạnh yếu tố giai cấp, thực tế nó được áp dụng theo điều kiện mô hình XHCN Xô Viết trước khi Liên Xô và Đông Âu tan dã. Còn trong điều kiện chế độ dân chủ nhân dân, trong thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH với sự tồn tại của nhiều thành phần giai cấp và tầng lớp xã hội thì nó khó tránh khỏi một sự chủ quan và phiến diện. Một số ý kiến khác lại thu hẹp cơ cấu YTPL chỉ nhấn mạnh mặt tri thức pháp luật, yếu tố hợp pháp của pháp luật như: ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm và quan niệm thịnh hành trong xã hội, thể hiện thông qua sự hiểu biết của con người đối với pháp luật hiện hành, pháp luật đã và pháp luật phải có, thể hiện sự đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con người cũng như trong hoạt động của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội [10, tr.229]. Một quan niệm khác lại tập trung ý thức pháp luật thể hiện ý thức của chủ thể pháp luật, chẳng hạn: "ý thức pháp luật là trình độ hiểu biết của các tầng lớp nhân dân về pháp luật... ý thức pháp luật còn là thái độ đối với pháp luật, ý thức tôn trọng hay coi thường pháp luật, đó là thái độ đối với hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm" [56, tr.19]. Đành rằng, ý thức phải gắn với chủ thể với một đối tượng nhất định, song với quan niệm trên sẽ là chưa hoàn chỉnh, bởi lẽ nó chưa đề cập đến yếu tố giáo dục, văn hóa pháp luật cũng như chức năng quản lý xã hội của Nhà nước thông qua pháp luật. Quá nhấn mạnh khía cạnh ngăn ngừa, răn đe trong việc thực hiện pháp luật sẽ gây tâm trạng bắt buộc và thụ động bởi sự áp đặt của văn bản pháp luật, nó không thể hiện tính nhân đạo ưu việt của pháp luật XHCN. Như vậy, có thể nói do mục đích nghiên cứu của các chủ thể, ý thức pháp luật được xem xét theo những góc độ khác nhau nên nó cũng được hiểu một cách khác nhau. Trên bình diện khoa học triết học, qua tham khảo các ý kiến nêu trên, theo mục đích yêu cầu và nhiệm vụ đề tài luận văn, chúng tôi tán thành với quan niệm, rằng: ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, là tổng thể những quan điểm, khái niệm, học thuyết pháp lý, tình cảm của con người (cá nhân, giai cấp, tầng lớp) thể hiện thái độ của họ đối với pháp luật hiện hành, trật tự pháp luật, sự đánh giá về tính công bằng hay không công bằng, đúng đắn hay không
  11. đúng đắn của pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua và pháp luật trong tương lai, và hành vi hợp pháp, hành vi không hợp pháp của cá nhân, các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội [7, tr.290]. Quan niệm này thể hiện tương đối đầy đủ, toàn diện về ý thức pháp luật, đã khái quát cơ bản tính chất cơ cấu, nội dung của ý thức pháp luật, mặt khác nó còn đề cập đến nguồn gốc, mối liên hệ phổ biến, tất yếu của ý thức pháp luật đối với đời sống xã hội. Là một hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật phản ánh sâu sắc đời sống pháp luật, trước hết là sự phản ánh quá trình nhận thức về pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân và việc điều chỉnh hành vi của họ nhằm duy trì trật tự kỷ cương xã hội theo pháp luật của Nhà nước. Bởi vậy, để đạt được mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" ở nước ta, đòi hỏi một mặt phải nâng cao hiệu lực pháp luật XHCN, mặt khác phải đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân. Với quan niệm trên sẽ giúp chúng ta có cơ sở khoa học để nghiên cứu vấn đề ý thức pháp luật của người nông dân và vai trò quan trọng của nó trong quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn hiện nay. 1.1.1.2. Kết cấu của ý thức pháp luật Tùy từng góc độ nghiên cứu khác nhau có thể xem xét kết cấu YTPL gồm những thành tố nhất định. Căn cứ vào tính chất, nội dung của YTPL, theo yêu cầu nhiệm vụ của luận văn này, chúng tôi dùng cách tiếp cận, phân chia kết cấu YTPL gồm hai bộ phận: Hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật. Một là: Hệ tư tưởng pháp luật: Nói đến hệ tư tưởng pháp luật là nói đến bản chất của pháp luật, nó thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội có phân chia giai cấp. Hệ tư tưởng pháp luật đó là hệ thống các quan điểm, tư tưởng của con người, phản ánh một cách sâu sắc đời sống pháp luật theo ý chí của một giai cấp nhất định, nó được thể hiện thông qua hệ thống các phạm trù, khái niệm, nguyên tắc... Hệ tư tưởng pháp luật là hệ thống các vấn đề mang tính bản chất của pháp luật và quan hệ pháp luật, nó được khái quát ở tầm lý luận. Hệ tư tưởng pháp luật bao gồm tổng thể các tư tưởng, quan điểm, học thuyết về pháp luật. Chúng đề cập đến vai trò, bản chất giai cấp, các thuộc tính của pháp luật cũng như mối quan hệ giữa pháp luật với dân chủ, tự do công bằng, quyền con người, mối
  12. quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ pháp chế trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về nhận thức pháp luật và thực hiện pháp luật. Trong một chế độ chính trị - xã hội ở mỗi quốc gia nhất định, hệ tư tưởng pháp luật chính thống bao giờ cũng là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị (trong xã hội chiếm hữu nô lệ thì giai cấp thống trị là chủ nô, xã hội phong kiến do giai cấp địa chủ thống trị, xã hội TBCN giai cấp tư sản giữ địa vị thống trị, trong xã hội XHCN giai cấp thống trị là giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản). Khi giai cấp cầm quyền là lực lượng tiến bộ của xã hội, có lợi ích kinh tế - chính trị phù hợp với lợi ích căn bản của số đông các lực lượng khác trong xã hội thì hệ tư tưởng pháp luật sẽ mang tính khoa học, tính cách mạng, tính dân chủ và tính xã hội cao. Ngược lại, nó có thể trở nên lạc hậu, thậm chí phản động khi nó đối lập với xã hội, nó sẽ là rào cản của phát triển xã hội. Tuy nhiên, hai khuynh hướng trên nó luôn luôn chuyển hóa để trở thành YTPL của toàn xã hội, suy cho cùng nó phản ánh sâu sắc bản chất tồn tại xã hội do tồn tại xã hội quy định, mà đỉnh cao của nó là lợi ích kinh tế - chính trị của giai cấp thống trị ở mỗi xã hội nhất định. ở nước ta hiện nay, Tư tưởng pháp luật của chủ nghĩa Mác - Lênin và Hồ Chí Minh được cụ thể hóa trong đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Một trong những đặc điểm cơ bản nhất của sự hình thành ý thức pháp luật ở Việt Nam là quá trình tự giác dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là nhân tố quyết định của bản chất giai cấp công nhân và tính nhân dân của ý thức pháp luật [49, tr.11]. Hệ tư tưởng pháp luật ở nước ta mang đặc trưng bản chất pháp luật XHCN, nó thể hiện cho ý chí và nguyện vọng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Vì vậy, để hệ tư tưởng pháp luật này tiếp tục phát triển và giữ vai trò chi phối đời sống pháp luật toàn xã hội Việt Nam một mặt phải quán triệt sâu sắc quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về pháp luật, mặt khác Nhà nước phải thể chế hóa đường lối chính trị của Đảng thành pháp luật và đưa đường lối chính sách của Đảng vào đời sống xã hội của nhân dân ta. Đồng thời, Đảng và Nhà nước phải không ngừng mở rộng dân chủ, đảm bảo
  13. quyền làm chủ cho nhân dân lao động và các tầng lớp trong xã hội tích cực tham gia quá trình xây dựng pháp luật, giám sát các cơ quan Nhà nước thi hành pháp luật. Bởi đây là những nhân tố, quan trọng bảo đảm cho sự thành công của quá trình xây dựng nền pháp quyền XHCN, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta. Hai là, tâm lý pháp luật là sự phản ánh tâm trạng, cảm xúc, thái độ, tình cảm của con người đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý. Tâm lý pháp luật được hình thành một cách tự phát, dưới dạng tình cảm, tâm trạng, thái độ, cảm xúc của con người đối với pháp luật. Sự tồn tại của tâm lý pháp luật thường gắn với trạng thái tâm lý của con người, là sự phản ánh trực tiếp, những "cung bậc" tình cảm của con người đối với các hiện tượng pháp lý cụ thể. Tâm lý pháp luật là một bộ phận của YTPL, so với hệ tư tưởng thì nó phong phú hơn, có tính bền vững hơn và ít biến đổi và gắn bó chặt chẽ với thói quen, truyền thống, tập quán của con người, của cộng đồng xã hội. Nói tâm lý pháp luật là nói đến sự biểu đạt những cảm xúc, tâm trạng, thái độ của con người đối với pháp luật, liên quan mật thiết với nhu cầu và lợi ích của con người và mức độ biểu hiện của nó với pháp luật, mặt khác nó còn chịu sự ràng buộc của những thói quen, truyền thống, tập quán sản xuất lao động, quan hệ kinh tế - xã hội của con người. Bởi vậy, cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, tâm lý pháp luật thường ít biến đổi, chậm thay đổi, nó mang tính bảo thủ, có tính bền vững cao so với tư tưởng pháp luật. Do vậy, để xóa bỏ ý thức pháp luật lạc hậu, xây dựng ý thức pháp luật XHCN thì không thể chủ quan tùy tiện áp đặt khiên cưỡng, ngược lại phải kiên trì, linh hoạt, sáng tạo và cần có thời gian nhất định. Tâm lý pháp luật đó là việc thể hiện thái độ và hành vi đối với pháp luật hiện hành và việc chấp hành các quy định của pháp luật, đó là thái độ đồng tình hay phản đối, thờ ơ hay trân trọng, xem thường hay tôn trọng pháp luật... Thông qua thái độ ấy mà con người thể hiện thái độ, niềm tin, thực hiện hành vi ứng xử trước pháp luật hiện hành. Nói đến trạng thái của tâm lý pháp luật thì tình cảm pháp luật là nấc thang đầu tiên, mang nặng tính cảm tính. Tuy nhiên, những giá trị và mức độ của những "cung bậc" tình cảm pháp luật còn tùy thuộc vào nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích của con người trước pháp luật, điều này được tình cảm pháp luật qua thái độ tiêu cực hay tích cực, ủng hộ hay không ủng hộ của con người đối với pháp luật.
  14. Tính kế thừa của truyền thống, hành vi ứng xử theo thói quen, tập quán, việc bồi đắp và xây dựng niềm tin pháp luật là những nhân tố khá ổn định tính bền vững trong nội dung của tâm lý pháp luật. Những yếu tố ấy được hình thành một cách lâu dài, phức tạp và kiểm chứng qua thực tiễn, làm cơ sở cho hoạt động của con người tự tin, kiên định và hiệu quả hơn. Vì vậy nó là những yếu tố quan trọng trong quá trình hình thành ý thức pháp luật. Mặt khác, trong quá trình tiếp thu, kế thừa những giá trị truyền thống, thói quen tập quán, chúng ta phải chú trọng sự tác động từ hai phía tích cực và tiêu cực của những yếu tố này trong việc xây dựng những chính sách thiết thực, hữu hiệu để nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân. Do điều kiện lịch sử để lại, nhân dân ta chưa có thói quen sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, vì vậy đòi hỏi phải kiên trì khắc phục hạn chế đó, đặc biệt trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, xây dựng chế độ dân chủ XHCN. Cũng phải nói rằng, giữa tâm lý pháp luật và hệ tư tưởng pháp luật có mối quan hệ qua lại khăng khít với nhau. Tâm lý pháp luật ra đời và phản ánh thái độ của con người trước pháp luật một cách tự phát, chưa hoàn chỉnh và chịu sự chi phối của hệ tư tưởng pháp luật. Ngược lại, sự phát triển của hệ tư tưởng pháp luật cũng chịu ảnh hưởng của tâm lý pháp luật. Tâm lý pháp luật và hệ tư tưởng pháp luật là hai trình độ phản ánh đời sống pháp luật nhưng có mối quan hệ tác động lẫn nhau trong sự hình thành YTPT; sự đan xen và mức độ tác động qua lại giữa hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật lại còn tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị xã hội của mỗi quốc gia, dân tộc. Do vậy, để nâng cao ý thức pháp luật XHCN cho nhân dân, bên cạnh việc đổi mới hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật, việc kiểm tra giám sát thực hiện pháp luật cần phải tăng cường công tác phổ biến giáo dục pháp luật hơn nữa cho nhân dân nhất là với đối tượng như nông dân, đồng bào ở vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc ít người. 1.1.2. Những biểu hiện ý thức pháp luật của người nông dân Việt Nam hiện nay 1.1.2.1. Quan niệm về nông dân Việt Nam Trong suốt chiều dài lịch sử, nông dân có một tầm quan trọng đặc biệt trong mỗi quốc gia dân tộc cũng như ở Việt Nam. Điểm đặc biệt ở chỗ, nông dân không chỉ gắn liền với một phương thức sản xuất cổ truyền đặc thù mà nó còn gắn liền với truyền thống văn
  15. hóa tín ngưỡng lâu đời từ trước tới nay. Nông dân còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau như lịch sử, chính trị, tâm lý, giáo dục, xã hội học... Dưới góc độ triết học, nông dân được nghiên cứu xem xét với tư cách là một giai cấp, một bộ phận to lớn trong xã hội, một lực lượng sản xuất đóng vai trò quan trọng trong việc làm ra của cải vật chất cho xã hội. Trong thực tiễn, nông dân còn là lực lượng hùng hậu, là đối tượng cách mạng đi theo giai cấp công nhân làm nên thắng lợi cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng XHCN. Đối tượng nông dân lại được nghiên cứu theo từng khía cạnh nhất định như: tư tưởng nông dân, tâm lý, đạo đức, lối sống, trình độ văn hóa của người nông dân... Tìm hiểu làm rõ biểu hiện ý thức pháp luật của người nông dân Việt Nam có ý nghĩa quan trọng trong việc đề ra những nội dung, hình thức, giải pháp thiết thực, hiệu quả nhằm nâng cao ý thức pháp luật của họ trong quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay. Song trước hết, chúng ta xem quan niệm nông dân là gì? quan niệm về người nông dân Việt Nam hiện nay như thế nào? Theo Từ điển tiếng Việt, nông dân được hiểu là "người lao động sống bằng nghề làm ruộng" [76, tr.397]. Trong tiếng Anh, nông dân (Famer) được hiểu là người làm việc nghề nông, người cày cấy, trồng trọt, làm việc ở các nông trại, là chủ các trang trại. Theo Wiliam Rosbery, nhà nghiên cứu xã hội Mỹ "Nông dân được coi là những trang chủ gia đình, những người sản xuất lương thực cho bản thân và cho các nhóm xã hội khác có địa vị cao hơn" [28, tr.55] hoặc nông dân - một giai cấp chuyên sản xuất những sản phẩm nông nghiệp trên cơ sở tư hữu tư nhân hoặc sở hữu hợp tác xã về tư liệu sản xuất và tham gia bằng lao động của chính mình [77, tr.171]. Như vậy, nói đến nông dân là nói đến một bộ phận dân cư lao động, gắn liền với sản xuất nông nghiệp, có cuộc sống và thu nhập từ lao động nông nghiệp. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, việc xác định một giai cấp, một tầng lớp xã hội phải căn cứ vào địa vị kinh tế - xã hội, điều kiện lao động sản xuất, tính chất sở hữu về tư liệu sản xuất, đặc trưng phương thức sản xuất chủ yếu của họ cùng môi trường sống và các quan hệ khác. Trong các tác phẩm kinh điển, C.Mác, Ph.Ăngghen quan niệm người nông dân là những người gắn với nền "sản xuất nhỏ", "kinh tế tự nhiên", "kinh tế
  16. gia đình", "sản xuất hàng hóa giản đơn", kinh tế tiểu nông", "sản xuất hàng hóa nhỏ", phương thức sản xuất châu á"... Chẳng hạn, Mác cho rằng: cơ sở sản xuất và tồn tại đặc trưng của người nông dân, đó "là ruộng đất thì chia manh mún, các tư liệu khác thì phân tán" [41, tr.177-178]. Trong tác phẩm "Chống Duy rinh" khi nói về cách thức sản xuất, sở hữu về tư liệu sản xuất đặc trưng của người nông dân trước CNTB, Ph.Ăngghen viết: Trước khi nền sản xuất TBCN xuất hiện, tức là trong thời trung cổ, ở đâu người ta cũng chỉ thấy toàn là nền sản xuất nhỏ, dựa trên cơ sở quyền tư hữu của người lao động về tư liệu sản xuất của mình như nông nghiệp của những người tiểu nông tự do hay nông nô, thủ công nghiệp ở thành thị. Các tư liệu lao động - như ruộng đất, nông cụ, xưởng thợ, dụng cụ của người thợ thủ công - đều là những tư liệu lao động của cá nhân, chỉ tính toán cho vừa với việc sử dụng cá nhân cho nên những tư liệu ấy tất nhiên là vụn vặt, rất nhỏ bé và có hạn [42, tr.15]. Theo V.I.Lênin, nông dân "là giai cấp của những người sở hữu nhỏ" mà đặc trưng của nó là: "quyền sở hữu của người nông dân đối với ruộng đất mà anh ta cày cấy là cơ sở của nền sản xuất nhỏ, là điều kiện cho nền sản xuất nhỏ ấy được phồn thịnh và đạt tới một hình thái điển hình" [30, tr.51]. ở nước ta, trong các văn bản đầu tiên của Đảng cũng đã dùng từ "dân cày" để chỉ giai cấp nông dân. Từ năm 1923 tại Hội nghị lần thứ nhất Quốc tế nông dân, lãnh tụ Nguyễn ái Quốc (lúc bấy giờ) đã phát biểu: "người nông dân không chỉ bần nông mà cả trung nông đều bị bắt buộc phải rời bỏ quê hương của mình hoặc làm đầy tớ cho ông chủ nước ngoài" và "nông dân An Nam" [48, tr.72-73]. Thời gian gần đây, do yêu cầu nhiệm vụ của mỗi công trình khoa học nên đã có những công trình nghiên cứu đưa ra khái niệm "nông dân" như "nông dân được coi là những người nuôi mình với tư cách là những người lao động, trồng trọt trên đất đai và sống trong những làng mạc nhỏ bé" [1, tr .7]. Nếu theo khái niệm này nông dân được xác định là những người lao động sống trong những làng mạc nhỏ bé và nghề nghiệp của họ là trồng trọt trên đất đai trong phạm vi các làng mạc đó. Xét về nội hàm của khái niệm này là chưa thực đầy đủ, bởi lẽ, ngày nay trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nói sản xuất đến sản xuất nông nghiệp không chỉ hiểu đơn giản là sản xuất lương thực, trồng trọt, chăn nuôi mà còn nhiều ngành
  17. nghề như nuôi trồng thủy sản, ngư nghiệp, lâm nghiệp, dịch vụ... trong đó trồng trọt chỉ là một trong những hoạt động cơ bản của sản xuất nông nghiệp chứ chưa phải tất cả. Mặt khác, khái niệm trên ch ưa làm rõ được nguồn gốc sống chủ yếu của người nông dân là gì. Điều đó, dễ làm cho người ta liên tưởng đến những người lao động là cán bộ, công nhân viên chức... hiện đang nghỉ hưu (cùng gia đình) đang sống ở các làng quê Việt Nam mà có tham gia trồng trọt và sản xuất ra các sản phẩm nông nghiệp cũng là người nông dân. Gần đây Chính phủ mới có quy định về chế độ công chức cơ sở (xã, phường), họ là những người trực tiếp quản lý lãnh đạo, tham gia trực tiếp sản xuất nông nghiệp nhưng là cấp cơ sở, do vậy không thể đánh đồng họ là nông dân nếu đơn thuần phân loại theo góc độ nghề nghiệp hay địa bàn sinh sống. Thực tế ở nông thôn nước ta hiện nay, có nhiều người không trực tiếp tham gia lao động sản xuất ra các sản phẩm nông nghiệp mà cũng sống ở nông thôn nh ư cán bộ công chức nghỉ hưu, giáo viên, bác sĩ, sĩ quan quân đội, công nhân... thậm chí có cả doanh nhân, Việt kiều hồi hương... Vì vậy, không thể gọi những người này là nông dân được bởi nguồn sống chính của họ không phải từ sản xuất nông nghiệp mà từ chế độ lương, phụ cấp hưu trí hoặc sự tài trợ đãi ngộ nhất định chưa nói đến quyền và nghĩa vụ dân sự của họ về mặt pháp lý khi họ không thể quy họ là đối tượng nông dân được. Một quan niệm khác cũng khá thuyết phục, khi cho rằng người nông dân Việt Nam từ trước tới nay luôn gắn bó với đồng ruộng, có cuộc sống lam lũ, vất vả nơi thôn quê, suốt đời chống chọi với thiên tai, địch họa để làm ra "hạt lúa, củ khoai" nuôi sống mình và nuôi sống xã hội. Vì vậy "nông dân n ước ta là những người lao động, sống ở nông thôn, nghề nghiệp chính là nông nghiệp và nguồn sống chủ yếu của người nông dân là dựa vào các sản phẩm lao động từ nông nghiệp" [53, tr.24]. Hay một quan niệm khác lại cho rằng: "nông dân ở n ước ta hiện nay là những người sống lâu đời ở thôn (làng, bản, ấp) lấy sản xuất nông nghiệp theo nghĩa rộng làm nguồn sống chính dưới hình thức hộ gia đình" [3, tr.8]. Dựa trên quan điểm duy vật lịch sử và theo yêu cầu nhiệm vụ của luận văn này, chúng tôi quan niệm: nông dân là những người lao động, lấy sản xuất nông nghiệp là chủ yếu để sinh sống và gắn bó chặt chẽ với cộng đồng dân cư sinh sống lâu đời ở nông thôn (thôn, làng, bản, ấp).
  18. Khái niệm như vậy, hàm xúc đầy đủ về người nông dân Việt Nam quá khứ, hiện đại, tương lai; nó phân biệt công việc chính của họ khác với công nhân, trí thức, doanh nhân và nét đặc trưng nữa là tính cấu kết cộng đồng làng xã cư dân nông thôn Việt Nam từ xưa tới nay. 1.1.2.2. Một số biểu hiện ý thức pháp luật của người nông dân Việt Nam hiện nay Xuất phát từ quan điểm duy vật lịch sử cho rằng, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Mỗi khi tồn tại xã hội thay đổi, nhất là phương thức sản xuất biến đổi thì ý thức xã hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, văn học, nghệ thuật... Sớm muộn cũng sẽ thay đổi. Vì vậy, ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, do những điều kiện sống khác nhau, tất yếu có những tư tưởng, quan điểm, lý luận khác nhau. YTPL là một hình thái ý thức xã hội phản ánh đời sống pháp luật xã hội nên cũng tuân theo quy luật ấy. Như vậy, nói đến biểu hiện YTPL của người nông dân Việt Nam hiện nay, chúng ta phải dựa vào quan điểm duy vật lịch sử, phải xuất phát từ đặc điểm cơ bản dẫn đến quyết định YTPL của người nông dân khác với YTPL của người công nhân, trí thức như thế nào? sự hiểu biết và thái độ của họ với pháp luật như thế nào? và dưới chế độ XHCN, nó khác YTPL của người nông dân ở chế độ cũ, xu hướng phát triển của YTPL của người nông dân trong tương lai như thế nào? Từ quan điểm lấy tồn tại xã hội giải thích YTPL, lấy đời sống vật chất giải thích cho đời sống tinh thần. YTPL của người nông dân cũng là một dạng của YTPL, phản ánh đời sống xã hội của người nông dân, vì vậy chúng ta thấy YTPL của người nông dân có những biểu hiện sau: Thứ nhất: Thói quen lệ làng, phong tục truyền thống vẫn được người nông dân đề cao và coi trọng hơn pháp luật nhà nước. Có thể nói, trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, hình ảnh người nông dân đã đi vào truyền thuyết dân gian, trong phong tục tập quán, sinh hoạt văn hóa của nhân dân ta từ xưa tới nay. Cùng với sự hình thành nền văn hóa làng xã, tâm lý cộng đồng cư dân nông nghiệp, tuân thủ những tục lệ truyền thống của người nông dân thể hiện như là tâm điểm duy trì các mối quan hệ xã hội của họ. Một mặt, phương thức sản xuất nhỏ, kinh tế tiểu nông gắn liền với chế độ phong kiến gia trưởng tồn tại hàng nghìn năm trên đất nước ta đã sản sinh ra tâm lý tiểu nông, sản
  19. xuất nhỏ ở người nông dân, trong một môi trường sản xuất kinh tế tự cung tự cấp là chủ yếu, làng xã thôn bản trở thành một quần thể khép kín, biệt lập với môi trường xã hội. Đó là cơ sở duy trì phong tục tập quán truyền thống chế ngự quan hệ xã hội của người nông dân Việt Nam. Cho nên biểu hiện đầu tiên và "cũng là đặc điểm nổi bật nhất tồn tại trong suốt lịch sử phát triển của ý thức pháp luật Việt Nam cho đến tận ngày nay là ý thức "phép vua thua lệ làng" được hiểu là những tục lệ, tập quán, những quy định của làng xã luôn được coi trọng và đặt cao hơn phép nước" [72, tr.47-48]. Vậy thói quen lệ làng, tục lệ truyền thống... đã chế ngự ý thức pháp luật của người nông dân Việt Nam, được thể hiện ở điểm nào? - Đó là, nông dân có thói quen giải quyết công việc, các mối quan hệ xã hội theo tình cảm thuần túy, theo kinh nghiệm thế hệ đi trước truyền lại, quan niệm "sống lâu lên lão làng", "chín bỏ làm mười", "dĩ hòa vi quý", "trăm cái lý không bằng tý cái tình"... cách ứng xử, lối xử sự, phân định hay hòa giải giữa cá nhân, gia đình, họ tộc đều trong khuôn khổ "lệ làng", những quy định "hương ước" làng. Bởi "việc quản lý làng xã bằng hương ước trước đây là một trong những cơ sở hình thành lối sống theo "lệ làng" không sống theo pháp luật của người nông dân" [34, tr.10]. Mặt khác, do điều kiện đặc thù của xã hội Việt Nam, c ư dân nông nghiệp chiếm đa số là sản xuất nông nghiệp chủ yếu định cư ở làng xã, trong đó mỗi gia đình là một đơn vị kinh tế nên các quan hệ xã hội phần lớn cũng chỉ bó gọn trong phạm vi làng xã, người dân ít có điều kiện và nhu cầu giao tiếp với xã hội bên ngoài. Với đặc thù như vậy nên việc điều chỉnh quan hệ xã hội, hành vi của nông dân hoàn toàn có thể theo tục lệ, tập quán truyền thống mà không cần đến sự can thiệp của luật pháp nhà nước. Điều đó đã làm hạn chế, cản trở rất nhiều sự tác động của luật nước vào các đơn vị "tự trị" làng, (chúng ta đề cập vấn đề này ở phần sau: ảnh hưởng của tâm lý sản xuất nhỏ, tâm lý làng xã). Cũng vì vậy, ngư ời nông dân vẫn có thói quen coi trọng lệ làng hơn phép nước, tục lệ truyền thống, các quy định làng xã hơn là các đạo luật của Nhà nước ban hành. Do vậy, khắc phục hạn chế của lệ làng cùng thói quen tuân theo tục lệ truyền thống, coi nhẹ pháp luật nhà nước ở người nông dân là cả một quá trình cải tạo xã hội, đòi hỏi phải hết sức thận trọng, tỷ mỷ, kiên trì, có những giải pháp tích cực mới đem lại hiệu quả thiết thực.
  20. Thứ hai, quan niệm pháp luật là những hình phạt dẫn đến thái độ né tránh pháp luật, tâm lý đối phó với pháp luật. Về mặt khách quan, do xuất phát từ điều kiện lịch sử của đất nước: sau khi ra đời trong một thời gian ngắn, đất nước Việt Nam đã bị phong kiến phương Bắc xâm lược và đô hộ trong suốt mười thế kỷ. Cùng với sự thống trị của Nhà nước là sự áp đặt của luật pháp phong kiến lên dân tộc Việt Nam, chế độ phong kiến đã tước đoạt mọi quyền dân chủ của người dân, thực chất là đối lập với dân chủ. Vì vậy, để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, đấu tranh chống lại ách áp bức nô dịch của ngoại xâm, đồng thời đấu tranh chống lại các đạo luật hà khắc của Nhà nước phong kiến trở thành nhu cầu tự nhiên của người dân Việt Nam nói chung và người nông dân nói riêng. Hệ quả của việc phản ứng, bất tuân thủ pháp luật của chính quyền đô hộ phong kiến, tâm lý sợ hãi dẫn đến né tránh, đối phó với luật pháp nhà nước phong kiến đã trở thành tiềm thức truyền từ đời này qua đời khác trong người nông dân. Dưới chế độ dân chủ, người nông dân được hưởng các quyền dân chủ, được Hiến pháp và pháp luật XHCN bảo đảm. Ngày nay, các hình phạt hà khắc của chế độ phong kiến đã được xóa bỏ, song tâm lý coi pháp luật là sự trừng trị của Nhà nước quan niệm pháp luật là những hình phạt, tâm lý đối phó với pháp luật vẫn còn tiềm ẩn trong người nông dân. Về mặt chủ quan, do ảnh hưởng của nền kinh tế tiểu nông, với điều kiện sản xuất nhỏ, do tính biệt lập khép kín của cộng đồng làng xã còn đọng lại từ thời công xã nông thôn đã bị chế độ phong kiến, thực dân lợi dụng để thông qua tổ chức làng xã nắm nông dân nhằm bóc lột ức hiếp họ bằng các loại thuế khác, phu phen tạp dịch nặng nề... nên đã tạo ra một tầng lớp cường hào ác bá trong chế độ đối lập với nông dân, gây ám ảnh trong tâm thức, tâm lý của nông dân; chính những hình ảnh xấu của bộ máy chính quyền làng xã ở chế độ cũ buộc người nông dân đứng lên theo cách mạng đấu tranh chống lại chúng, xóa bỏ bộ máy chính quyền quân chủ phong kiến. Ngày nay, trong chế độ dân chủ, chính quyền các cấp đều do dân cử ra, quyền và nghĩa vụ của người nông dân được bảo đảm bằng pháp luật. Chính quyền xã, thôn đại diện cho nông dân hoạt động theo quy định của pháp luật và chịu sự giám sát của nhân dân; đại đa số cán bộ xã, thôn, bản có tinh thần tận tụy, trách nhiệm trước dân; tuy nhiên, vẫn còn một số ít vi phạm quyền dân chủ của nhân dân, thái độ cửa quyền, bè cánh, hách
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2