intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Ý thức pháp luật tiêu cực ở Việt Nam: từ truyền thống đến hiện đại

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:112

73
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn là bước đầu làm rõ các biểu hiện cũng như quá trình hình thành và phát triển của ý thức pháp luật tiêu cực ở Việt Nam từ quá khứ cho đến hiện tại; từ đó tìm ra những nguyên nhân của thực trạng này một cách đa chiều và khách quan nhất. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Ý thức pháp luật tiêu cực ở Việt Nam: từ truyền thống đến hiện đại

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐÀO THỊ THỤC CHI ý THøC PH¸P LUËT TI£U CùC ë VIÖT NAM: Tõ TRUYÒN THèNG §ÕN HIÖN §¹I LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2019
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐÀO THỊ THỤC CHI ý THøC PH¸P LUËT TI£U CùC ë VIÖT NAM: Tõ TRUYÒN THèNG §ÕN HIÖN §¹I Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số: 8380101.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN MINH TUẤN HÀ NỘI - 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Đào Thị Thục Chi
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục biểu đồ MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ Ý THỨC PHÁP LUẬT TIÊU CỰC ....................................................................................... 9 1.1. Khái niệm, đặc điểm, cấu trúc và phân loại ý thức pháp luật tiêu cực ........9 1.1.1. Khái niệm ý thức pháp luật tiêu cực ............................................................. 9 1.1.2. Đặc điểm của ý thức pháp luật tiêu cực ...................................................... 10 1.1.3. Cấu trúc của ý thức pháp luật tiêu cực ........................................................ 11 1.1.4. Phân loại ý thức pháp luật tiêu cực ............................................................. 13 1.2. Biểu hiện của thức pháp luật tiêu cực .....................................................13 1.2.1. Tư tưởng, học thuyết pháp lý tiêu cực về pháp luật .................................... 13 1.2.2. Thái độ tiêu cực về pháp luật ...................................................................... 14 1.2.3. Tình cảm tiêu cực đối với pháp luật ............................................................ 17 1.3. Sản phẩm của ý thức pháp luật tiêu cực .................................................17 1.3.1. Hành vi cố tình làm trái pháp luật, vi phạm pháp luật ................................ 17 1.3.2. Các văn bản quy phạm pháp luật lạc hậu, không khả thi, không công bằng và khách quan ..................................................................................... 18 1.3.3. Những phát biểu, những bài báo thể hiện sự yếu kém và sai lệch trong nhận thức về pháp luật................................................................................. 18 1.4. Các yếu tố tác động đến ý thức pháp luật tiêu cực ................................19 1.4.1. Các yếu tố vật chất – kinh tế ....................................................................... 19 1.4.2. Yếu tố tư tưởng ........................................................................................... 21 1.4.3. Ý thức đạo đức, tập quán, truyền thống ...................................................... 23 1.4.4. Chính sách pháp luật và hệ thống pháp luật ................................................ 26 1.4.5. Thông tin pháp luật ..................................................................................... 27 1.4.6. Giáo dục và tuyên truyền pháp luật ............................................................. 29
  5. 1.5. Tiêu chí để nhận diện ý thức pháp luật tiêu cực ....................................30 1.6. Hệ quả của ý thức pháp luật tiêu cực ...................................................... 36 Kết luận chƣơng 1 ................................................................................................... 38 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA Ý THỨC PHÁP LUẬT TIÊU CỰC Ở NƢỚC TA. NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG ĐÓ ..................... 39 2.1. Thực trạng của ý thức pháp luật tiêu cực ở nƣớc ta ..............................39 2.1.1. Ý thức pháp luật tiêu cực ở Việt Nam từ giai đoạn dựng nước đến trước thời kỳ đổi mới ................................................................................... 39 2.1.2. Thực trạng ý thức pháp luật tiêu cực ở Việt Nam giai đoạn từ đổi mới đến nay ........................................................................................................ 54 2.2. Nguyên nhân của thực trạng ý thức pháp luật tiêu cực ở nƣớc ta hiện nay.......................................................................................................66 2.2.1. Nguyên nhân khách quan ............................................................................ 67 2.2.2. Nguyên nhân chủ quan ................................................................................ 71 Kết luận chƣơng 2 ................................................................................................... 74 CHƢƠNG 3: NHỮNG YÊU CẦU, GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT TIÊU CỰC .........................................................................75 3.1. Những yêu cầu về việc khắc phục ý thức pháp luật tiêu cực ở nƣớc ta hiện nay ..................................................................................................75 3.1.1. Yêu cầu, đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa ........ 75 3.1.2. Yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ............................................................................ 76 3.1.3. Yêu cầu về xây dựng con người toàn diện .................................................. 79 3.1.4. Yêu cầu về đổi mới hệ thống chính trị ........................................................ 79 3.1.5. Yêu cầu của công cuộc hội nhập quốc tế .................................................... 82 3.2. Một số giải pháp khắc phục ý thức pháp luật tiêu cực ở Việt Nam hiện nay ......................................................................................................83 3.2.1. Tạo ra một môi trường pháp lý thích hợp cũng như cơ sở vật chất - kinh tế cho ý thức pháp luật tích cực phát triển .......................................... 83
  6. 3.2.2. Nhận thức lại và thay đổi những tư tưởng, quan điểm pháp luật, đặc biệt là tư duy pháp lý sao cho phù hợp với tiến bộ xã hội và điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta hiện nay ........................................................ 84 3.2.3. Xây dựng đồng bộ và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức giám sát việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật trong đời sống .................................... 85 3.2.4. Có các cơ chế làm tăng hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp luật ............ 87 3.2.5. Củng cố hành lang pháp lý nhằm bảo vệ quyền con người, bảo đảm công lý, bình đẳng cho mọi người dân, thực hiện hiệu quả nguyên tắc dân chủ ........................................................................................................ 90 3.2.6. Tăng cường hiệu quả công tác giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho các chủ thể nhận thức trong hoạt động thực tiễn .......... 91 3.2.7. Đề cao trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu mỗi cơ quan nhà nước......... 95 3.2.8. Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành văn hóa liêm chính ................................................................................................... 96 3.2.9. Khuyến khích và tạo môi trường, điều kiện để người dân sử dụng quyền hợp pháp ........................................................................................... 98 3.2.10. Nâng cao ý thức pháp luật trong đời sống xã hội theo định hướng bảo đảm tính tiên tiến và bản sắc dân tộc ........................................................... 99 Kết luận chƣơng 3 ................................................................................................. 101 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 102 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 103
  7. DANH MỤC BIỂU ĐỒ Số hiệu Tên biểu đồ Trang Biểu đồ 2.1 Thống kê kết quả điều tra về các chuẩn mực sinh viên căn cứ để giải quyết mâu thuẫn hoặc xung đột 61 Biểu đồ 2.2 Thống kê điểm CPI về chỉ số cảm nhận mức độ tham nhũng ở Việt Nam 64
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là một trong những nhiệm vụ hàng đầu trên con đường đưa đất nước ta vững bước tiến lên xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Công việc này đòi hỏi sự chung tay của toàn Đảng, toàn dân cùng đồng lòng, chung sức quyết tâm thực hiện. Nội dung không thể thiếu của Nhà nước pháp quyền là việc xây dựng một xã hội kỷ cương trong đó mỗi người dân phải có ý thức tuân thủ pháp luật, phải có thói quen và lối sống theo Hiến pháp, pháp luật. Trình độ nhận thức và thực hành các quyền và nghĩa vụ công dân là điều kiện thiết yếu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Sự hiểu biết đầy đủ và chính xác về pháp luật sẽ làm tăng niềm tin của người dân đối với pháp luật cũng như nhà nước, góp phần định hướng hành vi đúng đắn của người dân. Chính vì vậy, quan tâm, lựa chọn những giải pháp nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân là một điều vừa cấp thiết, vừa mang tính thường xuyên, liên tục, nhất là trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu rộng với quốc tế hiện nay. Thực tế ở nước ta trong thời gian qua cho thấy, pháp luật chưa thực sự đi vào đời sống, chưa phải là một công cụ không thể thiếu để điều chỉnh xã hội. Ý thức pháp luật của người dân còn theo chiều hướng tiêu cực. Các biểu hiện và sản phẩm của ý thức pháp luật tiêu cực rất đa dạng như tư tưởng, học thuyết pháp lý tiêu cực; thiếu hiểu biết pháp luật; không thừa nhận các giá trị của pháp luật hay thực hiện hành vi trái pháp luật…trở nên khá phổ biến trong đời sống nhân dân; đặc biệt nó lại trở nên phức tạp và đa dạng hơn trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày nay. Nguyên do của vấn đề trên là bởi một mặt, chúng ta chưa có một hệ thống pháp luật đầy đủ và hoàn chỉnh, chưa bắt kịp sự phát triển của xã hội; mặt khác, ý thức pháp luật tiêu cực của người dân còn rất phổ biến. Từ việc nghiên cứu về thực trạng ý thức pháp luật tiêu cực của người dân Việt Nam từ thực tiễn lịch sử từ thời kỳ lập quốc cho tới hiện nay sẽ cho chúng ta một góc nhìn khách quan, đa chiều và khái quát nhất về vấn đề này, tránh tình trạng 1
  9. lý giải nguyên nhân và thực trạng một cách không có căn cứ và không nằm trong mối liên hệ của sự phát triển. Ý thức pháp luật tiêu cực của người dân hình thành và phát triển đều phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị, truyền thống dân tộc, văn hóa của các quốc gia, dân tộc đó cùng những quy luật đặc thù do điều kiện cụ thể đó quy định. Vì vậy, muốn hạn chế ý thức pháp luật tiêu cực, xây dựng và nâng cao ý thức pháp luật tích cực, trước hết chúng ta cần phải nhận thức đúng quy luật hình thành và phát triển của ý thức pháp luật tiêu cực, những yếu tố ảnh hưởng tới quá trình này. Dựa trên cơ sở đó, chúng ta mới đưa ra được những phương hướng, giải pháp đúng đắn để nâng cao hiệu quả tác động về mọi mặt nhằm tạo tiền đề cơ bản cho việc nâng cao ý thức pháp luật của các công dân trong xã hội. Yêu cầu về xây dựng nhà nước pháp quyền cùng nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đang đặt ra thách thức đối với công cuộc đổi mới con người toàn diện – trở thành những công dân có ý thức pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Đây là lúc chúng ta cần nhìn nhận lại một cách khách quan và toàn diện về vấn đề ý thức pháp luật tiêu cực – rào cản lớn nhất của công cuộc đổi mới con người toàn diện ở thời đại mới hiện nay. Do đó, tôi chọn đề tài: “Ý thức pháp luật tiêu cực ở Việt Nam: từ truyền thống đến hiện đại" để nghiên cứu và trình bày thành công trình khoa học nhằm giành học vị thạc sỹ luật học. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là bước đầu làm rõ các biểu hiện cũng như quá trình hình thành và phát triển của ý thức pháp luật tiêu cực ở Việt Nam từ quá khứ cho đến hiện tại; từ đó tìm ra những nguyên nhân của thực trạng này một cách đa chiều và khách quan nhất; đồng thời đóng góp một số phương hướng và giải pháp nhằm cải thiện thực trạng ý thức pháp luật tiêu cực, góp phần nâng cao ý thức pháp luật trong người dân trong thời kỳ mới. Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: - Xác định được nội hàm các khái niệm “ý thức pháp luật tiêu cực”; đặc điểm và cấu trúc của ý thức pháp luật tiêu cực; chỉ ra được các biểu hiện cũng như các 2
  10. sản phẩm của ý thức pháp luật tiêu cực; các yếu tố cơ bản có ảnh hưởng tới quá trình hình thành và phát triển ý thức pháp luật tiêu cực; cũng như các tiêu chí để hạn chế ý thức pháp luật tiêu cực. - Chỉ ra được thực trạng hình thành và phát triển của ý thức pháp luật tiêu cực của người dân Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Khái quát được những nguyên nhân của thực trạng ý thức pháp luật tiêu cực của người dân Việt Nam hiện nay; - Từ việc làm rõ những vấn đề đang đặt ra, luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản để giải quyết những vấn đề đó. Từ đó, chúng ta có thể thúc đẩy quá trình hình thành, phát triển ý thức pháp luật Việt Nam nhằm nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân ta trong giai đoạn hiện nay. 3. Tính mới và những đóng góp của đề tài - Luận văn đã trình bày và thể hiện tương đối có hệ thống các yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới quá trình hình thành và phát triển của ý thức pháp luật tiêu cực.Trước đây, chúng ta chỉ nghiên cứu chung về phương diện ý thức pháp luật nói chung nhưng chưa có nghiên cứu chuyên sâu về mặt tiêu cực trong ý thức pháp luật. Luận văn bước đầu có những nghiên cứu về vấn đề này, chỉ ra được những nội hàm cơ bản của ý thức pháp luật tiêu cực, các biểu hiện cũng như sản phẩm của ý thức pháp luật tiêu cực, các tiêu chí để hạn chế ý thức pháp luật tiêu cực. - Làm rõ và phân tích thực trạng của quá trình hình thành và phát triển ý thức pháp luật tiêu cực ở Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử đến ngày nay để tìm ra được nguyên nhân của thực trạng này một cách khách quan và đa chiều nhất. - Đưa ra một số phương hướng và giải pháp góp phần hạn chế và cải thiện ý thức pháp luật tiêu cực, nhằm nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân ta trong giai đoạn hiện nay.. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn. - Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Ý thức pháp luật tiêu cực ở Việt Nam từ truyền thống cho đến hiện đại. - Phạm vi nghiên cứu 3
  11. Luận văn nghiên cứu về ý thức pháp luật tiêu cực ở các phương diện như: khái niệm, các biểu hiện và các sản phẩm, các yếu tố tác động, thực trạng cũng như nguyên nhân của ý thức pháp luật tiêu cực. Khi nghiên cứu về ý thức pháp luật nói chung và ý thức pháp luật tiêu cực nói riêng, thông thường chúng ta sẽ có cách tiếp cận trên các đối tượng khác nhau như: ý thức pháp luật tiêu cực của cá nhân, ý thức pháp luật tiêu cực của nhóm và ý thức pháp luật tiêu cực của toàn xã hội. Tuy nhiên, vì giới hạn dung lượng cũng như bản thân tác giả luận văn muốn tập trung nghiên cứu chuyên sâu hơn nên luận văn có giới hạn phạm vi nghiên cứu là ý thức pháp luật của các cá nhân người dân – bộ phận những người không trực tiếp có quyền lực trong tay. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn vẫn nhìn nhận rằng ý thức pháp luật tiêu cực của cá nhân, của nhóm hay của xã hội đều có sự tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau. Đặc biệt luận văn nghiên cứu, khai thác vấn đề theo chiều dài của lịch sử Việt Nam từ thời kỳ lập nước đầu tiên đến thời điểm hiện nay để có góc nhìn đa chiều, khách quan về vấn đề này. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp phù hợp với sự phát triển của thực trạng ý thức pháp luật tiêu cực trong thời kỳ lịch sử mới, để khắc phục thực trạng này, cũng như tạo được những tiền đề cơ bản góp phần xây dựng và nâng cao ý thức pháp luật ở nước ta hiện nay. 5. Tình hình nghiên cứu đề tài Những nội dung liên quan đến ý thức pháp luật, thời gian qua đã có nhiều tác giả quan tâm và nghiên cứu dưới những góc độ và mức độ khác nhau. Điều đó tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu và các phương pháp sử dụng cụ thể. 5.1. Các công trình, các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, cấp Nhà nước "Cơ sở khoa học cho việc xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật" (Đề tài KX-07-17, Cơ quan chủ trì: Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật); "Xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng" (Đề tài KHXH 05.05. Chủ nhiệm: GS.TSKH Đào Trí Úc)... 5.2. Luận án tiến sĩ “Ý thức pháp luật và giáo dục pháp luật ở Việt Nam”, Luận án phó tiến sĩ của Lê Đình Lập, 1997. 4
  12. “Những đặc điểm của quá trình hình thành ý thức pháp luật ở Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ của Đào Duy Tấn. Luận án đã nghiên cứu và chỉ ra những quy luật của sự hình thành ý thức pháp luật; những đặc điểm của quá trình hình thành ý thức pháp luật ở Việt Nam (có ảnh hưởng của lệ làng; tư tưởng phong kiến Trung Quốc, thực dân xâm lược; chiến tranh; cơ chế tập trung quan liêu bao cấp; nền kinh tế thị trường…); từ đó, đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao ý thức pháp luật của người dân. 5.3. Sách, báo, tạp chí 5.3.1. Sách Sách chuyên khảo “Xã hội và pháp luật”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1994. Các tác giả của cuốn sách đã xem xét vị trí, vai trò của pháp luật trong hệ thống các quy tắc xã hội và cho rằng pháp luật là một giá trị xã hội to lớn cần được duy trì và phát triển. Trong cuốn sách có một số bài trình bày sự ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa làng, cộng đồng truyền thống, chiến tranh, các hệ thống pháp luật nước ngoài đối với sự hình thành và phát triển của pháp luật và ý thức pháp luật ở Việt Nam. Các tác giả cũng nhận định rằng, đây là những yếu tố không thể không tính đến khi xây dựng và ban hành pháp luật ở nước ta. Sách chuyên khảo “Bàn về giáo dục pháp luật”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1995, Trần Ngọc Đường, Dương Thanh Mai. Tác giả cuốn sách nghiên cứu vấn đề bản chất giáo dục pháp luật, quan hệ giữa giáo dục pháp luật với giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức; mục đích và vai trò của giáo dục pháp luật; nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật. Sách chuyên khảo “Giáo dục pháp luật và quá trình hình thành nhân cách”, Nhà xuất bản Pháp lý, 1990, Nguyễn Đình Đăng Lục. Tác giả cuốn sách phân tích sự hình thành của nhân cách và vai trò của pháp luật trong quá trình hình thành nhân cách của người chưa thành niên; pháp luật và đặc điểm của giáo dục pháp luật đối với người chưa thành niên. Tác giả nhấn mạnh công tác giáo dục cần chú ý tới yếu tố tư tưởng, tình cảm, tâm lý… của độ tuổi chưa thành niên. 5
  13. 5.3.2. Báo, tạp chí “Bàn về ý thức pháp luật”, Tạp chí Luật học, GS.TS Hoàng Thị Kim Quế, 2003. Bài viết chỉ ra nội hàm của khái niệm ý thức pháp luật. Đồng thời, tác giả bài viết cũng chia sẻ vấn đề trước đây, mọi người hầu như chỉ đề cập đến tâm lý pháp luật mà chưa có sự quan tâm thỏa đáng đến hệ tư tưởng pháp luật (quan điểm, lý luận, tư tưởng, khoa học pháp lý…) Những sản phẩm của ý thức pháp luật: nền khoa học pháp ý, tư duy pháp lý, hệ thống các văn bản pháp luật, lối sống tuân theo pháp luật, nhu cầu về thông tin pháp luật. “Ý thức pháp luật và văn hóa pháp luật”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Nguyễn Thị Hồi, 2008. Tác giả bài viết đã nhận định hai hiện tượng ý thức pháp luật và văn hóa pháp luật luôn gắn bó chặt chẽ với nhau và có tác động đến suy nghĩ và nhận thức về hành vi pháp luật của các cá nhân, cũng như có vai trò quan trọng trong quá trình hoàn thiện pháp luật. “Yếu tố tâm lý pháp luật trong quá trình nâng cao ý thức pháp luật ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Khoa học pháp lý, 2004, Nguyễn Minh Đoan. Tác giả bài viết tập trung phân tích vai trò của tâm lý pháp luật trong việc củng cố và nâng cao ý thức pháp luật; đồng thời chỉ ra những biểu hiện của ý thức pháp luật tiêu cực để từ đó đề ra những giải pháp nhằm có những đổi mới tích cực trong ý thức pháp luật ở Việt Nam hiện nay. “Ý thức pháp luật và đời sống xã hội”, Tạp chí Luật học, 2006, Nguyễn Minh Đoan. Tác giả bài viết phân tích mối quan hệ giữa ý thức pháp luật với việc hoàn thiện pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật. Ý thức pháp luật bao gồm tất cả các khía cạnh của đời sống pháp lý, là hệ thống lý luận thống nhất, nhất quán về pháp luật. Theo tác giả, ý thức pháp luật có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng xây dựng pháp luật của nhà nước và sự tuân thủ pháp luật hiện hành trên quy mô toàn xã hội. “Luật nước và hương ước lệ làng trong đời sống pháp lý của các cộng đồng làng xã Việt Nam”, Lê Minh Thông. Tác giả bài viết chỉ ra mối quan hệ có sự tác động qua lại giữa luật nước với lệ làng – là hai mặt của một thể chế chính trị pháp lý được quy định và chi phối bởi các điều kiện lịch sử cụ thể. Đồng thời, tác giả có 6
  14. những đề xuất về việc phát huy các tư tưởng tốt đẹp của hương ước nhằm tạo dựng môi trường pháp lý mới ở nông thôn Việt Nam. “Những đặc điểm tâm sinh lý ảnh hưởng đến ý thức pháp luật của người Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, 2018, Phạm Vĩnh Hà. Tác giả bài viết đóng góp một góc nhìn về mối quan hệ giữa ý thức pháp luật và tâm sinh lý của người Việt Nam. Các đặc điểm tâm sinh lý ảnh hưởng đến ý thức pháp luật là cố kết cộng đồng, tâm lý đám đông, thụ động, coi trọng tình cảm, thờ ơ, vô cảm… “Xây dựng lối sống theo pháp luật: Nhìn từ góc độ lịch sử truyền thống”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, 1993, Vũ Minh Giang. Bài viết đề cập đến việc xây dựng lối sống theo pháp luật nhìn từ góc độ lịch sử truyền thống của nước ta. Vấn đề này được tác giả trình bày qua ba nội dung chính: vấn đề luật và tục trong lịch sử Việt Nam; vấn đề ý thức công dân và lối sống theo pháp luật; một số ý kiến của tác giả nhằm xây dựng lối sống theo pháp luật dựa trên các yếu tố lịch sử truyền thống và tình hình thực tế. Trong các công trình này, các tác giả đã đề cập một số vấn đề rất cơ bản, như: tổng quan, nội hàm của ý thức pháp luật dưới góc nhìn lý luận và pháp lý; yếu tố tư tưởng và tâm lý pháp luật; thực trạng hiểu biết pháp luật của người dân; việc giáo dục pháp luật và những vấn đề đang đặt ra ở thời điểm hiện nay… Nhìn tổng thể, tuy đã có nhiều tác giả nghiên cứu và nhiều công trình được xuất bản về ý thức pháp luật, nhưng chưa có nhiều các nghiên cứu về sự phát triển của ý thức pháp luật tiêu cực theo chiều dài của lịch sử cũng như những đòi hỏi đặt ra của quá trình nâng cao ý thức pháp luật để phù hợp với những điều kiện khách quan của thời đại ngày nay. 6. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Luận văn dựa trên phương pháp luận chủ nghĩa: chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng, phép biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin. - Các phương pháp khác như phương pháp phân tích, phương pháp thống kê, khảo sát, phương pháp logic, phương pháp đối chiếu, so sánh, phương pháp chứng minh, phương pháp tổng hợp. 7
  15. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, danh mục bảng khảo sát, luận văn gồm 3 chương. Chương 1. Những vấn đề lý luận chung về ý thức pháp luật tiêu cực. Chương 2. Thực trạng của ý thức pháp luật tiêu cực ở nước ta. Nguyên nhân của thực trạng đó. Chương 3. Những yêu cầu và giải pháp khắc phục ý thức pháp luật tiêu cực. 8
  16. Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ Ý THỨC PHÁP LUẬT TIÊU CỰC 1.1. Khái niệm, đặc điểm, cấu trúc và phân loại ý thức pháp luật tiêu cực 1.1.1. Khái niệm ý thức pháp luật tiêu cực Hiện nay, chưa có một khái niệm cụ thể nào về ý thức pháp luật tiêu cực. Ý thức pháp luật tiêu cực là mặt tiêu cực của ý thức pháp luật. Cũng như ý thức pháp luật, ý thức pháp luật tiêu cực là một bộ phận của ý thức xã hội ra đời từ thực tiễn đời sống xã hội và phản ánh tồn tại xã hội. Ý thức pháp luật tiêu cực cũng xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước, phản ánh trực tiếp các quan hệ kinh tế - xã hội mà trước hết, là những quan hệ sản xuất được thể hiện trong các luật lệ nhà nước. Ý thức pháp luật tiêu cực xuất hiện cùng với sự xuất hiện của pháp luật. Nó là sản phẩm của quá trình phát triển xã hội, chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các hệ tư tưởng, quan điểm, quan niệm trong xã hội. Dưới góc độ tiếp cận luật học, có thể quan niệm về ý thức pháp luật tiêu cực là trình độ hiểu biết hạn chế hoặc không đúng đắn của các tầng lớp nhân dân về pháp luật..., là thái độ tiêu cực đối với pháp luật, ý thức không tôn trọng hay coi thường pháp luật, đó là thái độ tiêu cực đối với hành vi phạm pháp luật và phạm tội. Bên cạnh đó, chúng ta có thể hiểu một cách chung nhất: “Ý thức pháp luật tiêu cực là tổng thể những tư tưởng, học thuyết, quan điểm, thái độ, tình cảm, sự đánh giá một cách tiêu cực của con người về pháp luật trên các phương diện, tiêu chí cơ bản như: không thấy được sự cần thiết của pháp luật; xem nhẹ hoặc phủ định vai trò, chức năng của pháp luật; cảm nhận tiêu cực về tính công bằng hay không công bằng của pháp luật, đúng đắn hay không đúng đắn của các quy định pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua trong quá khứ, pháp luật cần phải có. Suy nghĩ tiêu cực về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi của cá nhân, nhà nước, các tổ chức xã hội” Quan niệm này theo tác giả là khá đầy đủ, chi tiết, nói lên được các mặt của ý 9
  17. thức pháp luật tiêu cực (chủ thể của ý thức pháp luật tiêu cực, trình độ hiểu biết đối với pháp luật và thái độ, sự đánh giá, điều chỉnh hành vi con người theo pháp luật) 1.1.2. Đặc điểm của ý thức pháp luật tiêu cực Về cơ bản, cũng như ý thức pháp luật mà các nhà nghiên cứu đều thống nhất với nhau, ý thức pháp luật tiêu cực có đặc trưng như sau: Thứ nhất, ý thức pháp luật tiêu cực là một hình thái ý thức xã hội có tính độc lập tương đối. Với tư cách là một bộ phận của ý thức xã hội, ý thức pháp luật tiêu cực xuất hiện, nảy sinh trên nền tảng tồn tại xã hội nhất định, cụ thể là nó ra đời, biến đổi cùng với nhà nước và pháp luật, tức là khi xã hội đã phân chia thành giai cấp. Ý thức pháp luật tiêu cực bị quyết định bởi tồn tại xã hội. Tuy nhiên, ý thức pháp luật tiêu cực cũng có tính độc lập tương đối, được biểu hiện cụ thể như sau: - Ý thức pháp luật tiêu cực thường có tính lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Mỗi kiểu nhà nước và pháp luật mới ra đời tương ứng với một kiểu phương thức sản xuất đã không còn, nhưng ý thức pháp luật của nó vẫn có thể tồn tại dai dẳng trong tồn tại xã hội mới. Những ý thức pháp luật còn tồn tại đó chính là ý thức pháp luật tiêu cực, đã không còn phù hợp với tồn tại của xã hội mới, là rào chắn của sự phát triển mặt tích cực của ý thức pháp luật. “Có khi văn bản pháp luật mới đã ra đời hoặc thực tiễn áp dụng pháp luật đã thay đổi nhưng nhiều cá nhân chưa nắm bắt được do nhiều lý do khác nhau. Hoặc có sự chậm trễ trong việc tiếp cận với tư duy pháp lý mới của thế giới, của nền luật học nước nhà” [25, tr.12]. - Sự tác động ngược lại của ý thức pháp luật tiêu cực đối với tồn tại xã hội và đối với các hình thái ý thức xã hội khác. Sự phụ thuộc vào tồn tại xã hội của ý thức pháp luật tiêu cực cũng chỉ mang tính tương đối, ý thức pháp luật tiêu cực đến lượt mình có tác động trở lại vô cùng lớn đối với sự tồn tại xã hội, ý thức chính trị, đạo đức và các yếu tố thượng tầng kiến trúc chính trị - pháp lý như nhà nước và pháp luật. Những biểu hiện cũng như sản phẩm của ý thức pháp luật tiêu cực như tư tưởng, lý thuyết sai lầm, những quan điểm lệch lạc, thái độ coi thường pháp luật, hành vi vi phạm pháp luật… có tác động tiêu cực đến sự phát triển của xã hội, đến môi trường văn hóa pháp lý và văn hóa đạo đức. 10
  18. Thứ hai, ý thức pháp luật tiêu cực là hiện tượng mang tính giai cấp. Trong xã hội có sự phân chia giai cấp, các giai cấp khác nhau luôn có những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau, lợi ích khác nhau và do vậy, ý thức pháp luật tiêu cực của các giai cấp cũng có những nội dung và hình thức phát triển khác nhau. Giai cấp thống trị, vì muốn củng cố, duy trì, bảo vệ địa vị chính trị và lợi ích kinh tế của giai cấp mình, nên luôn luôn tìm mọi cách để hợp thức hóa ý chí của giai cấp mình thành pháp luật thông qua con đường nhà nước. Pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị. Ý chí đó được nâng lên thành luật, thành các quy tắc ứng xử mang tính chất bắt buộc phải thực hiện đối với toàn xã hội. Pháp luật luôn bảo vệ cho giai cấp thống trị, là vũ khí chính trị của giai cấp thống trị để chống lại các giai cấp, tầng lớp xã hội khác và đưa hoạt động quản lý xã hội đi theo quỹ đạo, ý muốn của mình. Từ đó, ý thức pháp luật tiêu cực của giai cấp thống trị sẽ có môi trường để phát triển nếu giai cấp thống trị chỉ quan tâm đến mục tiêu bảo vệ vị thế thống trị của mình trong xã hội và cho ra các điều luật thể hiện sự ít hoặc không quan tâm đến sự công bằng, sự đúng đắn, quyền và lợi ích chính đáng của các giai cấp khác. Các giai cấp, tầng lớp xã hội không được nắm quyền thống trị cũng có ý thức pháp luật tiêu cực của mình xuất phát từ những mâu thuẫn với giai cấp thống trị về mặt quyền và lợi ích. 1.1.3. Cấu trúc của ý thức pháp luật tiêu cực Là mặt tiêu cực của ý thức pháp luật nên ý thức pháp luật tiêu cực cũng sẽ có kết cấu của ý thức pháp luật nói chung. Căn cứ vào đặc điểm, tính chất, phương thức phản ánh, người ta phân thành tư tưởng pháp luật tiêu cực và tâm lí pháp luật tiêu cực; Căn cứ vào mức độ khả năng phản ánh, nhận thức của các chủ thể về đời sống pháp luật xã hội, người ta chia thành ý thức pháp luật tiêu cực về mặt lí luận và ý thức pháp luật tiêu cực thông thường; Căn cứ vào chủ thể của ý thức pháp luật người ta quan niệm có ý thức pháp luật tiêu cực của xã hội, ý thức pháp luật tiêu cực của bộ phận, nhóm và ý thức pháp luật tiêu cực cá nhân. Tuỳ từng góc độ nghiên cứu khác nhau, có thể xem xét kết cấu ý thức pháp luật gồm những thành tố cơ bản nhất định. Căn cứ vào tính 11
  19. chất, nội dung của ý thức pháp luật tiêu cực cùng cách tiếp cận của triết học duy vật lịch sử, phân chia kết cấu ý thức pháp luật tiêu cực thành 2 bộ phận cơ bản, cụ thể: - Hệ tư tưởng pháp luật tiêu cực Khi nói đến hệ tư tưởng là nói đến bản chất của pháp luật, nó thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội có phân chia giai cấp. Hệ tư tưởng pháp luật là hệ thống quan điểm, tư tưởng của con người, phản ánh sâu sắc đời sống pháp luật theo ý chí của một giai cấp nhất định, được thể hiện thông qua hệ thống các phạm trù, khái niệm, nguyên tắc... Hệ tư tưởng pháp luật có tính tiêu cực là hệ thống các vấn đề được khái quát ở tầm lí luận, bao gồm tổng thể các tư tưởng, quan điểm, học thuyết pháp luật; đề cập một cách tiêu cực, không đúng đắn, chủ quan về vai trò, bản chất giai cấp, các thuộc tính của pháp luật cũng như mối quan hệ giữa pháp luật với con người, tự do, công bằng, quyền con người, mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ pháp chế trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về nhận thức pháp luật và thực hiện pháp luật. Có thể kể đến các hệ thống pháp luật lạc hậu, phản tiến bộ, phản cách mạng, không vì con người. Chẳng hạn, chủ nghĩa phát xít là một hệ tư tưởng chính trị và các quan điểm về một nhà nước chuyên chế, mang tính chất quân phiệt, độc tài và toàn trị, thậm chí thủ tiêu mọi quyền tự do của con người, khủng bố và đàn áp nhân dân. - Tâm lí pháp luật tiêu cực được hình thành tự phát, dưới dạng tình cảm, tâm trạng, thái độ, niềm tin, cảm xúc của con người đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý. Sự tồn tại của tâm lí pháp luật tiêu cực thường gắn với trạng thái tâm lí của con người, phản ánh trực tiếp những “cung bậc” tình cảm của con người đối với các hiện tượng pháp lí cụ thể. Đó là sự thiếu niềm tin, sự không tôn trọng, thù ghét, ác cảm… về pháp luật; sự thờ ơ, không thừa nhận các giá trị của pháp luật. Thông qua những thái độ trên mà con người thể hiện tình cảm, niềm tin và thực hiện hành vi ứng xử của mình trước pháp luật. Tâm lí pháp luật tiêu cực so với hệ tư tưởng pháp luật có tính tiêu cực thì nó phong phú hơn, có tính bền vững và ít biến đổi hơn; “hình thành và biến đổi chậm chạp cùng với những truyền thống, thói quen của con người” [22, tr.135]. 12
  20. Giữa tâm lí pháp luật tiêu cực và hệ tư tưởng pháp luật có tính tiêu cực có mối quan hệ qua lại, khăng khít với nhau. Tâm lí pháp luật tiêu cực ra đời và phản ánh thái độ của con người trước pháp luật một cách tự phát, chưa hoàn chỉnh và chịu sự chi phối của hệ tư tưởng pháp luật có tính tiêu cực. Ngược lại, sự phát triển của hệ tư tưởng pháp luật có tính tiêu cực cũng chịu ảnh hưởng của tâm lí pháp luật tiêu cực. Đây là hai trình độ phản ánh đời sống pháp luật nhưng có mối quan hệ tác động lẫn nhau trong sự hình thành ý thức pháp luật tiêu cực; sự đan xen và mức độ tác động qua lại giữa chúng còn tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia, dân tộc. 1.1.4. Phân loại ý thức pháp luật tiêu cực Căn cứ vào chủ thể của ý thức pháp luật tiêu cực, ý thức pháp luật tiêu cực được chia thành ý thức pháp luật tiêu cực của cá nhân, ý thức pháp luật tiêu cực của nhóm xã hội và ý thức pháp luật tiêu cực của xã hội. Ý thức pháp luật tiêu cực của cá nhân là những nhận thức, hiểu biết, tình cảm tiêu cực về pháp luật của mỗi con người cụ thể, phụ thuộc vào trình độ văn hóa, lối sống, môi trường hoạt động nghề nghiệp của họ… Ý thức pháp luật tiêu cực của nhóm là quan điểm, nhận thức, tư tưởng, tình cảm tiêu cực đối với pháp luật của đại đa số cá nhân của nhóm, có những đặc trưng đại diện cho nhóm. Ví dụ ý thức pháp luật tiêu cực của nông dân, của công nhân, trí thức, phụ nữ, học sinh, sinh viên… Ý thức pháp luật tiêu cực của xã hội được hiểu là ý thức pháp luật tiêu cực của giai cấp, những tầng lớp nắm quyền lãnh đạo xã hội, đại diện cho xã hội. Ý thức pháp luật tiêu cực của nhóm và ý thức pháp luật tiêu cực của xã hội có cơ sở là ý thức pháp luật tiêu cực của cá nhân, nhưng không nên hiểu một cách máy móc là hai dạng ý thức pháp luật tiêu cực của nhóm và của xã hội nêu trên là tổng thể những ý thức pháp luật tiêu cực của cá nhân. 1.2. Biểu hiện của thức pháp luật tiêu cực 1.2.1. Tư tưởng, học thuyết pháp lý tiêu cực về pháp luật Học thuyết pháp lý không phải là sản phẩm chỉ có ý nghĩa kinh viện, nó có 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2