ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
TRẦN THỊ HỒNG BẮC
RÈN LUYỆN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU TÁC PHẨM CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ CỦA NGUYỄN TUÂN CHO HỌC SINH LỚP 11
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN
HÀ NỘI – 2013
i
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
TRẦN THỊ HỒNG BẮC
RÈN LUYỆN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU TÁC PHẨM CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ CỦA NGUYỄN TUÂN CHO HỌC SINH LỚP 11 LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC (BỘ MÔN NGỮ VĂN) Mã số: 60 14 10
Người hướng dẫn khoa học: TS. Dương Tuyết Hạnh
HÀ NỘI – 2013
ii
LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian nghiên cứu miệt mài, nghiêm túc, cuốn luận văn của tôi
đã hoàn thành. Bên cạnh sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự
quan tâm, giúp đỡ. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc
đến TS. Dương Tuyết Hạnh, người hướng dẫn khoa học đã tận tình chỉ bảo,
động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy giáo, cô giáo của trường Đại
học giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội - những người luôn tâm huyết với
công tác giảng dạy người thầy đã để lại những ấn tượng hết sức tốt đẹp trong
suốt 2 năm tôi học tập tại đây.
Xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp đang giảng dạy
tại trường THPT Tân Lập, Đan Phượng, Hà Nội đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi
trong quá trình triển khai đề tài. Qua đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn gia
đình, người thân và bạn bè đã dành cho tôi sự quan tâm khích lệ và chia sẻ
trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu.
Mặc dù có nhiều cố gắng, nhưng luận văn khó tránh khỏi thiếu sót. Tôi
rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô giáo và
các bạn đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 11 năm 2013
Tác giả luận văn
iii
Trần Thị Hồng Bắc
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Viết tắt Viết đầy đủ
Công nghệ thông tin CNTT
DH Dạy học
DHTPVC Dạy học tác phẩm văn chương
GV Giáo viên
GS Giáo sư
HS Học sinh
Nxb Nhà xuất bản
PGS Phó giáo sư
PPDH Phương pháp dạy học
SGV Sách giáo viên
SGK Sách giáo khoa
STK Sách tham khảo
STT Số thứ tự
TB Trung bình
THPT Trung học phổ thông
TPVC Tác phẩm văn chương
iv
TS Tiến sĩ
MỤC LỤC
Lời cảm ơn ........................................................................................................ i
Danh mục từ viết tắt trong luận văn ............................................................ iv
Mục lục ............................................................................................................. v
Danh mục các bảng ...................................................................................... viii
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 2
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 7
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 7
6. Đóng góp của luận văn ................................................................................ 7
7. Cấu trúc của luận văn ................................................................................. 8
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI ................................................. 9
1.1. Những vấn đề chung về đọc - hiểu tác phẩm văn chương .................... 9
1.1.1. Quan niệm về đọc văn ............................................................................ 9
1.1.2. Quan niệm về hiểu văn ........................................................................ 11
1.1.3. Bản chất việc đọc - hiểu ....................................................................... 12
1.2. Nội dung đọc - hiểu tác phẩm văn chương .......................................... 14
1.2.1. Đọc - hiểu giá trị ý nghĩa tầng cấu trúc ngôn từ tác phẩm ................ 15
1.2.2. Đọc - hiểu giá trị ý nghĩa tầng hình tượng nghệ thuật của tác phẩm ... 17
1.2.3. Đọc - hiểu giá trị ý nghĩa tầng cấu trúc tư tưởng, ý vị nhân sinh ..... 18
1.3. Kĩ năng đọc - hiểu tác phẩm văn chương ............................................ 20
1.3.1. Kĩ năng đọc chính xác trong đọc - hiểu tác phẩm văn chương ......... 20
1.3.2. Kĩ năng đọc phân tích trong đọc - hiểu tác phẩm văn chương ......... 23
1.3.3. Kĩ năng đọc sáng tạo trong đọc - hiểu tác phẩm văn chương ........... 25
v
1.3.4. Kĩ năng đọc tích lũy trong đọc - hiểu tác phẩm văn chương ............. 25
Chương 2: THỰC TRẠNG DẠY ĐỌC - HIỂU TÁC PHẨM VĂN
CHƯƠNG VÀ VIỆC ĐỊNH HƯỚNG, TỔ CHỨC RÈN LUYỆN KĨ
NĂNG ĐỌC - HIỂU TÁC PHẨM “CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ” .................... 27
2.1. Thực trạng dạy đọc - hiểu tác phẩm văn chương ở THPT ................ 27
2.1.1. Tình hình vận dụng đọc - hiểu tác phẩm văn trong chương trình
THPT hiện nay ............................................................................................... 27
2.1.2. Thực trạng dạy đọc - hiểu “Chữ người tử tù” ở trường THPT Tân Lập . 28
2.2. Những nguyên tắc và biện pháp hướng dẫn đọc - hiểu tác phẩm
“Chữ người tử tù” trong SGK và SGV Ngữ văn 11 .................................. 32
2.2.1. Trong sách giáo khoa ........................................................................... 32
2.2.2. Trong sách giáo viên ............................................................................ 33
2.3. Những nội dung và cách thức đọc - hiểu tác phẩm “Chữ người tử tù”
trong sách tham khảo.................................................................................... 37
2.3.1. Tổ chức đối thoại trong dạy học “Chữ người tử tù”, luận văn của
thạc sĩ Trần Quốc Khả ................................................................................... 37
2.3.2. Đọc – hiểu văn bản “Chữ người tử tù” theo hướng dẫn của TS
Nguyễn Trọng Hoàn ...................................................................................... 50
2.4. Một vài nhận xét về cách hướng dẫn đọc - hiểu tác phẩm “Chữ người
tử tù” trong SGK, SGV, sách tham khảo ................................................... 55
2.5. Cách thức định hướng, tổ chức rèn luyện kĩ năng đọc - hiểu tác phẩm
“Chữ người tử tù” trong chương trình chuẩn lớp 11 ............................... 56
2.5.1. Cung cấp thêm tri thức đọc - hiểu tác phẩm “Chữ người tử tù” ...... 56
2.5.2. Định hướng, tổ chức cho học sinh đọc - hiểu hình tượng nhân vật . 61
Chương 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM .................................................... 75
3.1. Mô tả thực nghiệm ................................................................................. 75
3.1.1. Mục đích thực nghiệm ......................................................................... 75
3.1.2. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm ..................................... 75
3.2. Thiết kế giáo án thực nghiệm ................................................................ 75
vi
3.3. Tổ chức thực nghiệm ............................................................................. 94
3.3.1. Giao nhiệm vụ thực nghiệm ................................................................ 94
3.3.2. Tiến hành thực nghiệm ....................................................................... 94
3.4. Đánh giá kết quả thực nghiệm .............................................................. 95
3.4.1. Kết quả thực nghiệm ............................................................................ 95
3.4.2. Đánh giá kết quả thực nghiệm ............................................................ 95
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................... 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 100
vii
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 102
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1: Bảng khảo sát lực học ban đầu của học sinh. ................................. 95
Bảng 3.2: Tổng hợp kết quả (tính ra %) của lớp thực nghiệm ....................... 95
viii
và lớp đối chứng. ............................................................................................. 95
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà Nước ta luôn xác định
giáo dục có vai trò, vị trí vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và
phát triển đất nước. Bởi vậy, trong suốt thời gian qua, các nhà quản lý giáo
dục không ngừng tìm cách đổi mới chương trình đào tạo cũng như phương
pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Và tại Đại hội Đảng X,
Đảng ta từng khẳng định “Đổi mới cơ cấu tổ chức, nội dung phương pháp dạy
học theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, phát huy tính sáng tạo của người
học, khả năng vận dụng thực hành của người học”. Như vậy, đổi mới phương
pháp dạy học phải lấy người học là trung tâm, bồi dưỡng cho người học năng
lực tự hành động, phát triển năng lực nội sinh của mình, phát triển tư duy độc
lập sáng tạo. Do đó việc xây dựng cho người học tư thế tự tin, chủ động tìm
kiếm, lựa chọn, xử lí tiếp cận thông tin.
1.2. Cùng với các môn học khác, môn Ngữ Văn có một vị trí rất quan
trọng trong giáo dục. Môn Ngữ Văn là môn học về khoa học xã hội và nhân
văn, có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh những kiến thức về tiếng Việt, văn
học, làm văn… Song hiện nay môn học này lại không được học sinh coi
trọng. Thực trạng các giờ dạy văn còn đơn điệu, tẻ nhạt khiến học sinh không
hứng thú. Nguyên nhân của tình trạng trên thì rất nhiều, song cơ bản là giáo
viên vẫn sử dụng phương pháp truyền thống thiên về đọc chép, chưa phát huy
được vai trò tích cực của học sinh. Có thầy cô đã đưa phương pháp mới vào
quá trình dạy đọc - hiểu song chưa triển khai theo đúng bản chất của nó, còn
mang tính hình thức, chưa chú ý đến việc rèn luyện kĩ năng đọc hiểu cho
người học. Nhiều thầy cô khi hướng dẫn học sinh đọc hiểu chỉ tập trung phân
tích hình tượng nhân vật, không coi trọng việc tiếp cận tầng cấu trúc ngôn từ
cũng như tầng ý vị nhân sinh.
Xuất phát từ mục đích trên, đọc - hiểu tác phẩm văn chương được xem
1
như một phương pháp dạy học tích cực góp phần đổi mới phương pháp dạy
học văn. Đó là quá trình chuyển từ trọng tâm giảng văn, học sinh thụ động
lĩnh hội kiến thức thông qua bài giảng của giáo viên sang trọng tâm đọc văn,
học sinh tự chiếm lĩnh giá trị của tác phẩm văn chương. Vì vậy việc rèn luyện
kĩ năng đọc - hiểu đóng vai trò không thể thiếu, là yếu tố cơ bản cho hoạt
động đọc hiểu tác phẩm văn chương.
1.3. Nguyễn Tuân là một trong 9 tác giả lớn được học trong chương
trình phổ thông, tác phẩm của ông được học xuyên suốt từ lớp 11 đến lớp 12.
Ngay từ khi xuất hiện trên văn đàn, Nguyễn Tuân đã được đánh giá là một
nhà văn có một phong cách nghệ thuật “độc đáo”. Bởi vậy, ông luôn nhận
được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Trong đó, truyện ngắn “Chữ người
tử tù” viết về đề tài “Vang bóng một thời”, là tác phẩm kết tinh tài năng của
Nguyễn Tuân thời kì sáng tác trước Cách mạng. Ngôn ngữ của truyện luôn
mang tính đa tầng nghĩa, đặc biệt, số lượng từ Hán Việt chiếm rất nhiều, các
từ này đều góp phần thể hiện tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Hình tượng nhân
vật đều là sự kết tinh từ phẩm chất tài hoa của chính con người nhà văn, thể
hiện ý nghĩa vị nhân sinh sâu sắc. Chính vấn đề này đã khiến cho giáo viên,
học sinh rất khó khăn và lúng túng khi tiếp nhận tác phẩm. Nhiều thế hệ bạn
đọc đã cảm nhận cái hay của ngôn từ trong “Chữ người tử tù”, nhưng đa phần
hiểu một cách nông cạn, chưa nắm bắt được tư tưởng cũng như nghệ thuật
đặc sắc của tác phẩm.
Những hứng thú, hấp dẫn và những khó khăn trên đã thôi thúc chúng
tôi quyết định đi sâu nghiên cứu đề tài “Rèn luyện kĩ năng đọc hiểu tác phẩm
Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân cho học sinh lớp 11”.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề đọc hiểu
Vào những thập niên 70 của thế kỉ XX, trong nhà trường các nước tiên
tiến trên thế giới, những nhà sư phạm bắt đầu quan tâm rất nhiều tới hoạt
động đọc trong việc dạy học văn chương. Nhất là các nước ở khu vực Âu Mĩ,
2
các nhà lí luận đã quan tâm và nghiên cứu rất sớm về lí thuyết đọc - hiểu, tiêu
biểu như K. Goodman (1970), A.Pugh (1978), P.Arson (1984), L.Baker,
A.Brown (1984), U. Frith (1985), M. Adams (1990), R. Jauss với “Hoạt động
học” và “Hiện tượng học và đọc”, R. Vemezki với “yêu cầu kĩ năng của việc
đọc”... Các công trình nghiên cứu trên dù có những cách lập luận khác nhau
nhưng đều tập trung lí giải về hoạt động đọc, từ đó đưa ra các kĩ năng đọc, coi
các kĩ năng đọc như một phương pháp để tiếp cận và chiếm lĩnh tác phẩm,
giúp người học sẽ chủ động và tích cực hơn.
Trong những năm gần đây, có rất nhiều tác giả nghiên cứu về đọc -
hiểu như: Erich Schon với cuốn “Lịch sử việc đọc” hay Ursula Christman và
cuốn “Tâm lí học của việc đọc”... Ở các công trình này, các nhà nghiên cứu
không chỉ dừng lại ở việc cung cấp về việc đọc một cách bài bản mà còn tập
trung nhấn mạnh đến việc học đọc và dạy đọc sao cho hiệu quả.
Ở nước ta, trong những năm gần đây vấn đề này cũng được khá nhiều
nhà nghiên cứu quan tâm. Đầu tiên phải nói đến cuốn sách của GS.TS. Lê
Phương Nga “Dạy học tập đọc ở tiểu học” (Nhà xuất bản Giáo Dục,
11/2001), trong tài liệu này tác giả mới chỉ dành một số trang bàn về đọc hiểu
mang tính khái quát nhất.
Tiếp theo đó, vào năm 2002 chuyên luận Dạy học đọc hiểu ở tiểu học
của PGS.TS. Nguyễn Thị Hạnh đã được công bố. Trong chuyên luận này, tác
giả đã trung thành với định nghĩa “Đọc hiểu là một bộ phận của nội dung dạy
học tiếng Việt với tư cách là môn học tiếng mẹ đẻ trong trường tiểu học”. Bên
cạnh đó, tác giả cũng chú ý nhấn mạnh và coi trọng sự tác động của văn bản
vào người đọc: “Phân tích theo lí thuyết giao tiếp chúng ta sẽ thấy bản chất
của đọc hiểu là gì? Đây là hoạt động giao tiếp ở đó người đọc lĩnh hội lời nói
đã được viết thành văn bản nhằm làm thay đổi những hiểu biết tình cảm hoặc
hành vi của chính mình ”. Đây có thể coi là một công trình có những đóng
góp cụ thể và bổ ích cho việc dạy học tiếng Việt, đặc biệt có những đóng góp
lớn trong việc đi sâu vào nghiên cứu đọc hiểu tầng cấu trúc ngôn từ của tác
3
phẩm văn chương.
Và nói về tầm quan trọng của vấn đề đọc hiểu tác phẩm văn chương
trong nhà phổ thông, GS. TS. Trần Đình Sử có thể coi là người khởi xướng.
Trong tài liệu bồi dưỡng cho GV, với bài viết: “Đọc - hiểu văn bản, một khâu
đột phá trong nội dung và phương pháp dạy Văn hiện nay”. Ở đây, tác giả đã
chỉ ra vai trò của người giáo viên dạy văn là phải: “dạy cho người học cách
hiểu văn, mà cơ sở của nó là đọc hiểu”. Từ đó GS nêu ra yêu cầu của việc đọc
văn không chỉ dừng lại ở việc đọc chữ, đọc diễn cảm mà phải “Qua một văn
bản biết đâu là nơi quy tụ thông tin, đâu là câu then chốt biểu hiện tư tưởng
của tác giả… Nhà trường phải đào tạo mỗi học sinh thành một người đọc
đích thực, đọc chủ động sáng tạo”. Như vậy, GS đã nhận định rất rõ ràng về
vấn đề đọc hiểu như một nền tảng cho việc vận dụng đọc hiểu vào quá trình
tiếp nhận văn bản.
Tiến sĩ Nguyễn Trọng Hoàn, một nhà nghiên cứu đầy tâm huyết về vấn
đề đọc hiểu cũng đã có rất nhiều chuyên luận đóng góp cho đề tài đọc hiểu
như: “Một số vấn đề đọc hiểu thơ trữ tình và tác phẩm văn chương nghị luận”
“Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 7” - Nxb Giáo dục 2005, “Đọc hiểu văn bản Ngữ
văn 9” – Nxb Giáo dục 2007… Nhìn chung theo quan điểm của tác giả thì:
“Việc đọc gắn liền với tài năng, phong cách tác giả; gắn liền với vấn đề loại
thể, chú giải văn bản và mở rộng các lớp nghĩa từ văn bản… để từ đó người
đọc vượt lên những kinh nghiệm, vươn tới những chân trời rộng lớn và mới lạ
của tri thức nhân loại ”. Như vậy, đọc được coi là khâu khởi đầu cho những
năng lực khác, đặc biệt là năng lực nhận biết, phân loại và tri giác các văn bản.
Đặc biệt, các công trình nghiên cứu của GS. TS. Nguyễn Thanh Hùng –
người không những đặt nền móng đầu tiên cho vấn đề đọc hiểu mà còn là
người nghiên cứu kĩ lưỡng và đầy đủ hơn cả về vấn đề này ở Việt Nam. Từ
tiểu luận khoa học đầu tay mang tên: “Dạy đọc - hiểu là nền tảng văn hóa cho
người đọc” trình bày tại Hội thảo khoa học chương trình và SGK thí điểm - tổ
chức tháng 9/2000 tại Hà Nội, tác giả đã nhấn mạnh tầm quan trọng của đọc -
4
hiểu: “Đọc được xem như năng lực văn hóa có ý nghĩa cơ bản đối với sự phát
triển nhân cách bởi vì phần lớn những tri thức hiện đại được truyền thụ qua
việc đọc của học sinh. Trên cơ sở đó sự phát triển kĩ năng đọc của học sinh
trong nhà trường phổ thông là nhiệm vụ cơ bản của giáo viên Ngữ văn….”.
Như vậy, GS đã chỉ rõ rằng: “Hình thành năng lực đọc tác phẩm cho học sinh
không thể không dựa vào những kết quả nghiên cứu sự hiểu biết về đặc điểm
ngôn ngữ văn học và thể loại”.
Gần đây nhất, kế thừa và phát triển những thành tựu của lí thuyết đọc –
hiểu, PGS. TS Nguyễn Thanh Hùng trong cuốn “Kĩ năng đọc hiểu văn”
(2011) - Nxb Đại học Sư phạm đã nghiên cứu rất tỉ mỉ về các kĩ năng đọc –
hiểu. Trong cuốn sách này, tác giả còn kiến giải sâu hơn về hoạt động đọc
văn, đưa ra các về mô hình đọc - hiểu theo từng loại thể, chỉ rõ được nội dung
và bản chất của việc đọc – hiểu. Từ đó đưa ra những kĩ năng đọc hiểu – hiểu
văn cơ bản nhất nhằm giúp người giáo viên dựa trên đó để rèn luyện hay nâng
cao kĩ năng đọc - hiểu tác phẩm cho người học sao cho phù hợp.
Nhìn chung, các tác giả nói trên đều thể hiện rõ ràng quan điểm của
mình về vấn đề đọc hiểu văn bản Ngữ văn, đánh giá rất cao vai trò của đọc -
hiểu đối với việc dạy văn trong nhà trường phổ thông hiện nay. Tuy nhiên, các
bài viết trên mới chỉ dừng lại ở những lý thuyết chung về vấn đề đọc hiểu mà
chưa tập trung vào việc rèn luyện kĩ năng đọc – hiểu theo từng thể loại văn học.
Đó chính là những gợi ý thiết thực để chúng tôi triển khai đề tài của mình.
2.2. Lịch sử nghiên cứu việc giảng dạy tác phẩm “Chữ người tử tù” của
Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân là một cây bút lớn của nền văn học Việt Nam. Sau năm
mươi năm cầm bút, với bản lĩnh sáng tạo của một người nghệ sĩ tài hoa, với
một cá tính nghệ thuật độc đáo, ông để lại cho đời một di sản quý báu gồm
trên hai mươi tác phẩm văn xuôi thể hiện rõ bản sắc riêng vừa gai góc vừa tài
hoa, có sức hút khó cưỡng nổi với bất cứ ai đi tìm cái đẹp... Và một trong số
5
tác phẩm gây được sự quan tâm của giới nghiên cứu văn học chính là tác
phẩm “Chữ người tử tù”. Song hầu hết những nghiên cứu về tác phẩm này chỉ
dừng lại ở phạm vi nhỏ hẹp như:
Luận văn của tác giả Nguyễn Thị Cúc “Một số biện pháp nâng cao
hiệu quả dạy học tác phẩm Nguyễn Tuân ở trường phổ thông”, trong công
trình này tác giả đã khảo sát trên 4 tác phẩm của Nguyễn Tuân là truyện ngắn
“Chữ người tử tù”, tùy bút “Người lái đò sông Đà”, “Tờ hoa” và tác phẩm phê
bình văn học “Thời và thơ Tú Xương”. Với luận văn này tác giả mới chỉ tập
trung nghiên cứu đọc hiểu chung ở 4 truyện ngắn của Nguyễn Tuân.
Hay trong luận văn thạc sĩ của Trần Quốc Khả với đề tài: “Tổ chức đối
thoại trong dạy học “Chữ người tử tù”, tác giả nêu khái quát về nội dung và
bản chất của phương pháp dạy học đối thoại. Từ đó vận dụng phương pháp
này vào đọc - hiểu tác phẩm “Chữ người tử tù” nhằm phát huy vài trò chủ
động sáng tạo cho người học.
Gần đây nhất là luận văn: “Trường nghĩa miêu tả ánh sáng trong một
số tác phẩm của Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Thạch Lam” của tác giả Trần
Hữu Sáng đã đưa ra cách tiếp cận tác phẩm dưới góc độ trường nghĩa ánh
sáng trong sự so sánh với tác phẩm khác. Với công trình này, tác giả chỉ tập
trung khai thác một phần của yếu tố nghệ thuật như là một con đường giải mã
thông tin trong tác phẩm. Vì vậy độ sâu của tác phẩm chưa được khám phá cụ
thể và đầy đủ.
Qua công trình nghiên cứu, bài viết của các tác giả trên đều chưa có cái
nhìn toàn diện, mà chủ yếu chỉ dừng lại ở một vấn đề nhỏ của tác phẩm. Hơn
nữa, chưa có tác giả nào đề cập một cách toàn diện đến việc rèn luyện kĩ năng
đọc - hiểu tác phẩm “Chữ người tử tù” cho học sinh lớp 11.
3. Mục đích nghiên cứu
- Tác giả nghiên cứu đề tài này nhằm giúp học sinh hiểu được cái hay
của tác phẩm “Chữ người tử tù” từ tầng cấu trúc ngôn từ đến tầng cấu trúc
hình tượng nghệ thuật cũng như tầng cấu trúc vị nhân sinh thông qua các kĩ
6
năng đọc chính xác, đọc phân tích, đọc sáng tạo và kĩ năng đọc tích lũy.
- Bước đầu học sinh biết cách rèn luyện kĩ năng đọc hiểu tác phẩm văn chương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu trong luận văn này là rèn luyện kĩ năng đọc
hiểu tác phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân cho HS lớp 11.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Theo phân phối chương trình thời gian giảng dạy
tác phẩm “Chữ người tử tù” chỉ có 90 phút nên trong phạm vi đề tài này
chúng tôi chỉ xin được tập trung ở việc định hướng tổ chức cho học sinh đọc -
hiểu ở tầng cấu trúc ngôn từ, tầng cấu trúc hình tượng nghệ thuật và tầng cấu
trúc tư tưởng, ý vị nhân sinh trong tác phẩm “Chữ người tử tù” qua kĩ năng
đọc chính xác, đọc phân tích, đọc sáng tạo và đọc tích lũy.
- Phạm vi khảo sát, ứng dụng: chỉ khảo sát học sinh và giáo viên lớp 11
tại trường THPT Tân Lập – Đan Phượng – Hà Nội.
5. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp khảo sát.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp phân loại.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp thực nghiệm.
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Đóng góp về lý luận
Góp phần xây dựng cơ sở lý luận khái niệm, nội dung, bản chất và kĩ
năng của đọc - hiểu trong dạy học tác phẩm văn chương nói chung. Từ đó vận
dụng để định hướng, tổ chức cho học sinh lớp 11 đọc - hiểu truyện ngắn “Chữ
người tử tù” của Nguyễn Tuân.
7
6.2. Đóng góp vào thực tiễn
Rèn luyện kĩ năng đọc hiểu tác phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn
Tuân cho học sinh lớp 11.
Khắc phục những cách đọc - hiểu tác phẩm văn chương chưa đúng,
chưa khai thác hết chiều sâu của tác phẩm văn chương; góp phần nâng cao
chất lượng giờ học tác phẩm văn chương; đưa đến những cách hiểu sâu sắc và
thống nhất, hợp lí về truyện ngắn “Chữ người tử tù”.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
bao gồm 3 chương chính:
- Chương 1: Cơ sở lí luận của đề tài.
- Chương 2: Thực trạng dạy đọc - hiểu tác phẩm văn chương và việc
định hướng, tổ chức nâng cao kĩ năng đọc - hiểu tác phẩm “Chữ người tử tù”.
8
- Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Những vấn đề chung về đọc - hiểu tác phẩm văn chương
1.1.1. Quan niệm về đọc văn
Hoạt động đọc từ xa xưa đã tích lũy vô vàn những dạng thức đọc, kiểu
đọc, dạng đọc, phương pháp đọc, kĩ năng đọc, kĩ thuật đọc khác nhau. Song
cho đến nay lịch sử nghiên cứu vẫn chưa có những tiêu chí cụ thể để phân loại
một cách rạch ròi ranh giới khoa học giữa chúng. Vậy đọc là gì? Và câu trả
lời cũng rất phong phú. Có người cho rằng: “Đọc là phát âm các chữ cái và
tổng hợp chúng thành từ ngữ” “Đọc là hiểu những gì trên trang giấy” [ 17,
Tr.15]. Người khác lại nêu ra: “Đọc là quá trình phức tạp bao gồm sự kết hợp
của các khả năng cảm nhận, tâm lí ngôn ngữ và nhận thức” (Adam, 1990).
Còn với GS. TS Nguyễn Thanh Hùng – một người giành cả cuộc đời
mình để nghiên cứu vấn đề đọc - khẳng định: “Đọc là một hành động của con
người nhằm mục đích hình thành và nắm vững ý nghĩa từ văn bản trong quá
trình nhận thức của việc đọc để mở rộng cảm giác và xúc cảm bằng sự nếm
trải của người đọc. Với ý nghĩa đó, kinh nghiệm đọc sẽ được hình thành nhờ
nắm vững các đơn vị hữu cơ trong việc đọc văn bản nói chung trước khi đọc
hiểu tác phẩm văn chương ” [15, Tr. 18]. Bên cạnh đó, GS Nguyễn Thanh
Hùng đã lí giải khá sâu sắc và rất khoa học về vấn đề đọc văn: “Đọc văn
chương là đọc cái chủ quan của người viết bằng cách đồng hóa tâm hồn, tình
cảm, suy nghĩ của mình vào trang sách. Hoạt động đó không chỉ là tái tạo âm
thanh từ chữ viết mà còn là quá trình thức tỉnh cảm xúc, quá trình tri giác
nhuần thấm tín hiệu để giải mã ngôn từ, mã nghệ thuật, mã văn hóa đồng thời
với việc huy động vốn sống, kinh nghiệm cá nhân người đọc, để lựa chọn giá
trị tư tưởng thẩm mĩ và ý nghĩa vốn có của tác phẩm. Đọc là đón đầu những
gì mình đang đọc qua để kiểm chứng và đi tìm sự hợp sức của tác giả để tác
9
phẩm được tái tạo trong tính cụ thể và giàu tưởng tượng ” [15, Tr. 29].
Trong cuốn “Phương pháp dạy học văn” Tập 1, Nxb Đại học Sư phạm
– 2004, các tác giả đã khẳng định rằng: “Đọc văn để tiếp nhận, lĩnh hội, đọc
văn để hiểu và cảm nhận văn, có ấn tượng và định hình biểu tượng về tác
phẩm văn. Người đọc văn phải làm sống lại hình tượng nghệ thuật từ văn bản
tác phẩm rồi chuyển hình tượng đó vào trong đầu trở thành biểu tượng, ấn
tượng của mình ” [20, Tr. 429].
Tiến sĩ Nguyễn Trọng Hoàn quan niệm: Đọc là một hoạt động nhận
thức nhằm hiểu nghĩa thông qua quá trình chủ thể người đọc làm việc với văn
bản. Trước văn bản người đọc vận dụng những kiến thức đã có cùng với
những gợi ý (trực tiếp và gián tiếp, hiển ngôn và hàm ngôn) trong bài đọc để
hiểu ý nghĩa tác phẩm.
Dù có rất nhiều những cách lí giải riêng về quan niệm đọc văn. Song
nhìn chung các quan niệm của các nghiên cứu trên đều tập vào các vấn đề
chung của đọc như sau:
Đọc là một hoạt động nhằm lĩnh hội và hiểu được các tầng ý nghĩa của
văn bản ( từ tầng ngôn từ đến tầng nghệ thuật cũng như tầng ý nghĩa vị nhân
sinh của văn bản đó). Quá trình lĩnh hội đó phải dựa vào khả năng chủ động,
tích cực và sáng tạo của chủ thể đọc khi khám phá tác phẩm.
Đọc chính là quá trình thấu hiểu và cảm thông cũng như đối thoại với các
nhà văn. Thông qua đó, người đọc sẽ vận dụng một cách sáng tạo những kiến
thức có trong tác phẩm vào trong cuộc sống của mình. Từ đó nâng tầm hiểu biết
của mình về xã hội, hình thành và phát huy những năng lực của bản thân.
Nhìn chung, có thể thấy đọc là một hoạt động có ý thức văn hóa và
mang tính giáo dục sâu sắc. Khái niệm đọc xuất hiện từ lâu và được nhiều nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm, cho đến nay nó đã nhanh chóng
phổ biến và đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong hoạt động nhận thức
của con người. Đọc chính là sự thể hiện những nhận thức của con người
10
thông qua ngôn từ để giao tiếp và phát triển cá thể cùng xã hội.
1.1.2. Quan niệm về hiểu văn
“Hiểu” nói chung theo quan niệm của Kinh thánh là: “lặn sâu vào thế
giới bí ẩn bên trong”, còn theo triết học Nga hiện đại thì: “hiểu là đưa ra một
cách thức để nhận thức sự vật ”, nhìn chung đều có hàm nghĩa “hiểu” là giải
quyết mối quan hệ phức tạp bên trong của sự vật, đối tượng khác. “Hiểu” có
nhiều mức độ. Cơ bản nhất là phải hiểu được ý nghĩa của các kí hiệu, hiểu
trên bề mặt, hiểu nghĩa đen, hiểu hiển ngôn; tiếp đến là phải hiểu được ý
nghĩa, tính ám chỉ trong từng con chữ; và cuối cùng là hiểu sâu sắc, hiểu vượt
ra ngoài văn bản trong sự liên hệ với cuộc sống, với tương lai.
Theo GS.TS Nguyễn Thanh Hùng thì: “Hiểu văn bản nói chung là nắm
vững nội dung tư tưởng của người viết, chủ sở hữu của văn bản ấy trong quá
trình thực hiện chức năng giao tiếp của mình”. Nói một cách khái quát là:
“Hiểu một văn bản là biết rõ và hiểu đúng, nắm vững nội dung cụ thể của văn
bản và vận dụng được những tư tưởng chứa đựng trong văn bản” [ 15, Tr 23].
Đề cập đến vấn đề hiểu văn bản, các nhà nghiên cứu đều thống nhất
việc hiểu có nhiều cấp độ, từ đơn giản đến sâu sắc. Nhưng một điều đặc biệt
là đối với văn bản văn học thì người đọc không chỉ hiểu được giá trị tư tưởng,
tình cảm mà tác giả gửi gắm qua tác phẩm mà còn hiểu cái hay, cái đẹp đằng
sau ngôn ngữ.
Nhìn chung bản chất tâm lí của sự hiểu là biến cái của người khác
thành cái vừa của mình – vừa của người khác. Hiểu bao giờ cũng là tự hiểu,
nghĩa là biến cái được hiểu thành kiến thức, quan điểm, niềm tin của mình.
Có thể thấy biên độ của hiểu đã được đẩy ra mọi mức độ nhận biết cho tới
mức độ cao nhất là đánh giá, vận dụng.
Vậy việc đọc - hiểu tác phẩm văn chương cũng phải đảm bảo việc biết
rõ và hiểu đúng, phải nắm vững và vận dụng được tư tưởng thẩm mĩ và thái
độ đánh giá của nhà văn đối với hiện thực được phản ánh để người đọc, đọc
hiểu các tác phẩm văn chương cùng thể loại, cùng khuynh hướng văn học hay
11
cùng quan điểm nghệ thuật.
1.1.3. Bản chất việc đọc - hiểu
Đọc - hiểu là một thuật ngữ kép dùng chỉ chỉ một hoạt động có mục
đích cụ thể của con người. Đó là hoạt động tự lĩnh hội tri thức bằng hoạt động
trí tuệ. Đọc hiểu vừa là năng lực, vừa là kĩ năng cần rèn luyện của con người.
Bàn về đọc hiểu, trong cuốn trong chuyên luận: “Đọc hiểu tác phẩm văn
chương trong nhà trường” - Nxb Giáo dục năm 2008, GS. TS Nguyễn Thanh
Hùng đã đặt đọc hiểu tác phẩm văn chương trong mối quan hệ với mục đích:
“Đọc để hiểu giá trị đích thực của tác phẩm”. Một lần nữa tác giả lại khẳng
định: “Đọc – hiểu là một khái niệm khoa học chỉ ra mức độ cao nhất của hoạt
động học; đọc – hiểu đồng thời cũng chỉ ra năng lực văn của người đọc”
[14].
Tác giả Phạm Thu Hương trong cuốn “Đọc hiểu và chiến thuật đọc
hiểu trong nhà trường phổ thông” đã trích dẫn ý kiến của sPGS. TS Nguyễn
Thái Hòa về đọc – hiểu như sau: “Đọc – hiểu là một kĩ năng tích hợp không
chỉ riêng trong học Tiếng Việt, Văn mà còn quan trọng trong học tập và nhận
thức nói chung. Một cách khái quát, đọc – hiểu dù đơn giản hay phức tạp đều
là hành vi ngôn ngữ, sử dụng một loạt thủ pháp và thao tác cơ bản bằng cơ
quan thị giác, thính giác để tiếp nhận, phân tích, giải mã và ghi nhớ nội dung
thông tin, cấu trúc văn bản ” [17, Tr. 18].
Tuy nhiên, dù đứng ở góc độ nào, khái quát - triết học hay cụ thể - thao
tác – định hướng thực hành đều cho thấy bản chất của đọc hiểu văn chương là
một quá trình lao động sáng tạo mang tính thẩm mĩ nhằm phát hiện ra những
giá trị của tác phẩm trên cơ sở phân tích đặc trưng văn bản. Đọc văn chương
với bất kì hình thức nào cũng là một dạng thức lao động mang tính chủ động
và tích cực.
Trước hết đọc hiểu là một hoạt động đọc. Ban đầu đọc như một hoạt
động cơ bắp diễn ra với luồng mắt theo dõi nhìn lướt trên dòng chữ, trang
viết, là sự điều tiết của cơ quan phát âm, là toàn bộ cơ thể được hoạt động như
12
tay cầm sách, chân nâng đỡ sức mạnh phát âm. Lúc này đọc đồng nghĩa với
khả năng ghi nhớ chữ viết, kí tự… Đây chính là cấp độ đọc thấp nhất của đọc,
đọc mới dừng ở mức tái hiện thông thường.
Tiếp đến cho thấy mục đích chính của đọc là để hiểu những ý tưởng,
những thông điệp trong tài liệu. Không hiểu, việc đọc sẽ trở nên trống rỗng và
vô nghĩa giống như chúng ta nhìn mà không thấy vậy. Hay nói như Durkin thì
“cốt lõi của của việc đọc là sự hiểu”. Cho nên đọc tiếp theo phải gắn liền với
hiểu, người đọc phải tiếp nhận thông tin, phân tích, giải mã, nhận xét, bình giá
nội dung thông tin và cả người phát ra thông tin. Ở đây, người đọc sẽ khám
phá ra nghĩa của các từ, tức “nhận ra kí hiệu và nghĩa của kí hiệu”, hiểu được
các từ đó liên kết với nhau như thế nào nhằm chuyển tải bức thông điệp gì, và
chúng có tác động như thế nào đến tình cảm, nhận thức cũng như hành vi của
người đọc. Đọc hiểu văn bản thực chất là quá trình người đọc kiến tạo ý nghĩa
của văn bản đó thông qua hệ thống các hoạt động, hành động, thao tác nhất
định. Đây là một hoạt động không đơn giản diễn ra trong một thời gian ngắn
mà nó xuyên suốt trong cả một quá trình. Hay nói như GS Trần Đình Sử:
“Đọc là tìm ra ý nghĩa trong một thông điệp được tổ chức bằng hệ thống kí
hiệu. Nhưng ý nghĩa là một vấn đề rất khó của khoa học nhân văn hiện đại…
Theo thói quen ta tạm dùng một từ ý nghĩa… Nghĩa được biểu hiện trong văn
bản, gắn với nội dung của văn bản ấy. Còn nghĩa là nội dung văn bản trong
cách cảm nhận của người đọc ” [26, Tr 20].
Như vậy ý nghĩa trong văn bản được hiểu rất linh hoạt và đa dạng, nó
phụ thuộc vào khả năng nhận thức của từng trình độ của người đọc trong
những thời điểm xác định khác nhau. Và ý nghĩa trong văn bản cũng không
phải là cái có sẵn trong văn bản đó mà người đọc dễ dàng tìm ra được.Để
khám phá được ý nghĩa của văn bản người đọc phải tư duy một cách tối đa.
Từ đó các tầng nghĩa và ý của văn bản cũng sẽ được người đọc dần dần chỉ
ra. Tất cả các lớp nghĩa như nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa đơn trị, đa trị, nghĩa
văn cảnh…đều người đọc giải mã. Thậm chí ngay cả những tầng ý vị nhân
13
sinh đằng sau khoảng trống của ngôn ngữ, người đọc cũng phải vận dụng các
kĩ năng phân tích, tổng hợp, so sánh, liên tưởng, ghi nhớ, suy luận để thấu
hiểu. Khi này mức độ đọc không chỉ là một hoạt động cơ bắp thông thường
mà đã có sự tham gia của tư duy, nhận thức và năng lực của người đọc.
Điều cuối cùng mà các nhà nghiên cứu về đọc hiểu quan tâm đó chính
là khả năng giám sát việc hiểu của bản thân người đọc hay chính là khả năng
vận dụng kiến thức của người đọc sau khi đọc văn bản đó. Bởi đọc hiểu
không hề là một quá trình đơn thuần chỉ dừng lại ở việc chuyển các kí hiệu
chữ viết thành hệ thống tín hiệu âm thanh. Nó là một quá trình nhận thức vô
cùng phức tạp. Ngoài ra đọc hiểu cũng không phải là một công việc phó mặc
hoàn toàn cho sự may rủi, được chăng hay chớ. Và một trong những yếu tố
thể hiện được sự tích cực, chủ động và sáng tạo của người đọc chính là ở sự
vận dụng việc hiểu của bản thân người đọc trong quá trình đọc hiểu văn bản.
Khả năng tự giám sát cũng như sự vận dụng sự hiểu của người đọc, nói
một cách đơn giản chính là việc người đọc tự nhận diện chân dung của bản
thân trong quá trình đọc hiểu văn bản. Đó chính là biểu hiện của sự tự giác và
khả năng phát triển cao của phẩm chất một bạn đọc tích cực. Qua sự phân
tích, so sánh, tổng hợp, đánh giá, người đọc từ chỗ hiểu đúng đi đến hiểu sâu
để rồi có những suy nghĩ, tự nhận thức về điều ngộ nhận, sai lầm, hời hợt của
bản thân mình. Lúc này việc đọc không còn đơn giản là một kĩ năng nhận
thức thông thường mà trở thành kĩ năng siêu nhận thức. Và người đọc trở
thành người đồng sáng tạo với người viết ra văn bản.
Như vậy, việc rèn luyện kĩ năng đọc - hiểu tác phẩm văn học cho học
sinh chính là khâu trung tâm của việc đổi mới phương pháp dạy học văn trong
nhà trường, và nó thể hiện rõ nhất bản chất: “Học sinh là bạn đọc sáng tạo
trong quá trình dạy học văn” mà GS. Phan Trọng Luận đã đề xuất trong rất
nhiều những công trình nghiên cứu của mình.
1.2. Nội dung đọc - hiểu tác phẩm văn chương
Căn cứ vào khái niệm cũng như bản chất cuả đọc hiểu, ta thấy rõ được
14
nội dung của đọc - hiểu tác phẩm văn học trong nhà trường. Người giáo viên
phải từng bước giúp học sinh khám phá ra từng lớp nghĩa của tác phẩm, “bắt
đầu từ đọc chữ, đọc câu, hiểu nghĩa của từ và sắc thái biểu cảm, hiểu nghĩa
của câu, hiểu mạch văn, bố cục và nắm được ý chính cũng như chủ đề của tác
phẩm” rồi đến “hiểu đặc sắc về nghệ thuật và ý nghĩa xã hội nhân văn của
tác phẩm trong ngữ cảnh của nó. Hoạt động đọc hiểu không những có khả
năng tích hợp văn học và tiếng Việt mà còn có khả năng khơi gợi và khai thác
những tri thức thuộc các lĩnh vực khoa học và văn hóa khác” [ 19, Tr. 28].
Như vậy, thì nội dung đọc - hiểu mới mới đi đúng hướng theo bản chất của
nó, đồng thời cũng tích cực hơn so với khái niệm tìm hiểu, phân tích trong các
giáo án truyền thống.
Trăn trở với vấn đề này, GS. TS Nguyễn Thanh Hùng cũng đã trình bày
khá cụ thể về nội dung đọc - hiểu tác phẩm văn chương trong công trình mang
tên “Kĩ năng đọc hiểu văn” Nxb Đại học Sư phạm – 2011. Theo tác giả thì
một tác phẩm văn chương tồn tại ba loại cấu trúc. Đầu tiên là tầng cấu trúc
ngôn ngữ, kế tiếp là tầng cấu trúc hình tượng, sau cùng là tầng cấu trúc ý
nghĩa. Và khi đọc - hiểu tác phẩm là phải khám phá, lí giải được cả ba tầng
cấu trúc trên.
1.2.1. Đọc - hiểu giá trị ý nghĩa tầng cấu trúc ngôn từ tác phẩm
Ngôn từ là yếu tố đầu tiên của văn bản văn học và là chất liệu là
phương tiện biểu hiện đặc trưng của văn học. Nội dung và ý nghĩa của TPVC
được ẩn giấu trong lớp vỏ ngôn ngữ. Không có ngôn ngữ không thể có tác
phẩm văn chương bởi chính ngôn ngữ đã cụ thể hóa, vật chất hóa sự biểu hiện
tính cách nhân vật tư tưởng, tình cảm, ước mơ của tác giả, “Ngôn ngữ là chất
liệu của văn học”. Các chi tiết các sự việc, các hình tượng, các nhân vật … và
các thành tố khác đều được cấu tạo nên nhờ lớp ngôn từ. Không có ngôn từ ta
không có căn cứ cụ thể để tìm hiểu, để thưởng thức văn bản.Vậy bước đầu
tiên khi đọc hiểu văn bản văn học là phải đi sâu khai thác lớp ngôn từ để tìm
hiểu, khám phá. Và đọc - hiểu tầng cấu trúc ngôn từ là điều quan trọng nhất
15
để thông qua lớp hiển ngôn mà phân giải lớp hàm ngôn.
Tuy nhiên ngôn từ ở văn bản văn học là ngôn từ nghệ thuật, có hình
tượng, có tính thẩm mĩ, có sắc thái riêng theo phong cách riêng của mỗi nhà
văn. Ngôn từ được hiện diện trong câu, trong hình ảnh, trong giọng điệu của
văn bản. Có ngôn từ tài hoa của Nguyễn Tuân; ngôn từ trong sáng, tinh tế của
Thạch Lam; có ngôn từ chân chất, đầy màu sắc Nam Bộ của Sơn Nam…
Không có ngôn từ nào là không mang dấu ấn của tác giả.
Thật vậy ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong việc tạo ra nghĩa và ý
của TPVC. Thông qua đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật, nhà văn đã thổi
vào đó linh hồn của tác phẩm. Người sáng tác thông qua ngôn ngữ để bộc lộ
quan điểm, tình cảm, tư tưởng, khát vọng, ước mơ về con người và cuộc sống
còn người đọc lại thông qua ngôn ngữ, thông qua hiện thực phản ánh trong
tác phẩm mà hiểu được vấn đề mà nhà văn thể hiện.
Vì vậy, muốn đọc - hiểu tầng cấu trúc ngôn từ của tác phẩm văn
chương, trước hết phải tìm cách nắm vững đầy đủ và sâu sắc mối quan hệ vật
chất kí hiệu nền tảng như từ, nhóm từ, câu, đoạn, chương, phần của tác phẩm.
Mặt khác, người đọc phải theo dõi sát sao mối quan hệ sống động của ngôn từ
tác phẩm qua thao tác thay thế và kết hợp mà nhà văn và người đọc phải hiểu
ở cái lí, cái chân thật trong nhận thức đời sống, trong tình cảm, thái độ của
con người, trong những khoảnh khắc tiêu biểu, điển hình của con người.
Có thể nói hiểu tầng cấu trúc ngôn từ là hiểu nội dung quan trọng được
kể lại trong sự lựa chọn, đánh giá của nhà văn. Tầng cấu trúc ngôn từ cho
phép người đọc hiểu được khung cảnh xã hội của tác phẩm với sự kiện, con
người, không gian, thời gian trong những biến cố chính.
Và yêu cầu đối với việc nắm vững cấu trúc ngôn từ là phải hiểu chính
xác của ngôn ngữ và phương thức trình bày nghệ thuật của nhà văn. Hiểu
nghĩa cụ thể của phạm vi đề tài, chủ đề và sự triển khai chúng, đồng thời hiểu
được cái hay, cái đẹp của cách dùng từ, tạo câu, hình thành nhịp điệu và giọng
16
điệu của ngôn ngữ tác phẩm.
1.2.2. Đọc - hiểu giá trị ý nghĩa tầng hình tượng nghệ thuật của tác phẩm
Nắm vững cấu trúc ngôn ngữ của tác phẩm là nắm hình thức tái hiện
cuộc sống. Thông qua cấu trúc ngôn ngữ ta đến với cấu trúc hình tượng nghệ
thuật của tác phẩm. Đây là cấu trúc mà qua đó nhà văn biểu hiện tình cảm,
thẩm mĩ của mình. Hình tượng nghệ thuật làm nên tính chỉnh thể nghệ thuật
của TPVC, nó tập trung thể hiện các giá trị nhân học và thẩm mĩ của nghệ
thuật. Vì vậy hiểu tầng cấu trúc này người đọc có điều kiện thâm nhập vào sự
sáng tạo nghệ thuật mới mẻ trong tác phẩm một cách đầy đủ, trọn vẹn nhất.
Tuy nhiên hình tượng nghệ thuật cũng rất đa tầng, đa nghĩa và biến hóa
trong vận động biểu đạt ý nghĩa như ngôn từ văn học.Về mặt đối tượng nhận
biết, hình tượng nghệ thuật không chỉ là nhân vật văn học mà là toàn bộ chỉnh
thể tác phẩm. Hình tượng nghệ thuật là hình thể phản ánh thực tại có hiệu quả
thẩm mĩ. Hình tượng nghệ thuật được sáng tạo trong TPVC nhờ vào những
chi tiết, cốt truyện, nhân vật, hoàn cảnh, tâm trạng…. Và hình tượng nghệ
thuật này cũng được chia làm nhiều loại như: hình tượng trung tâm, hình
tượng tính cách, hình tượng cảm nghĩ, hình tượng tác giả… Bởi vậy hình
tượng nghệ thuật không đứng yên mà luôn di động trong mối quan hệ với
những yếu tố khác của tác phẩm khiến hình tượng trở nên sống động, cụ thể
và đầy đặn hơn nhờ vào tính khái quát hóa nghệ thuật của nó.
Chính vì những lẽ trên cho thấy hình tượng còn là một quan hệ xã hội -
thẩm mĩ vô cùng phức tạp. Trước hết là quan hệ giữa các yếu tố và chỉnh thể
của bức tranh đời sống được tái hiện qua hình tượng. Tiếp đến là quan hệ giữa
thế giới nghệ thuật với thực tại mà nó phản ánh. Về phương diện này, hình
tượng không chỉ tái hiện đời sống mà còn cải biến nó để tạo ra một thế giới
mới, chưa từng có trong hiện thực. Đó là quan hệ giữa tác giả với hình tượng,
với cuộc sống trong tác phẩm. Một mặt hình tượng là hình thức, là kí hiệu của
một tư tưởng, tình cảm, một nội dung nhất định, là sản phẩm sáng tạo của
nghệ sĩ. Mặt khác hình tượng là một khách thể tinh thần có cuộc sống riêng,
17
không phụ thuộc vào ý muốn. Để đọc - hiểu tầng cấu trúc hình tượng nghệ
thuật của TPVC, ta phải có cái nhìn sâu sắc về hệ thống ngôn từ, một chất liệu
biến hóa tạo nên hình tượng. Người đọc phải so sánh đối chiếu những hình
ảnh có liên quan với nhau để xác định hình tượng trung tâm của tác phẩm.
Hình tượng nghệ thuật của TPVC có thể là một nhân vật, có thể là sự khái
quát của nhiều nhân vật. Hình tượng ấy có thể lộ diện cũng có thể được sử
dụng một cách ẩn dụ; vừa có tính cụ thể cảm tính qua biểu tượng, vừa có tính
khái quát trìu tượng bằng cảm nghĩ và tư tưởng. Hình tượng nghệ thuật được
xây dựng bởi những thủ pháp nghệ thuật, bởi hình thức sáng tạo cụ thể của từ
ngữ, câu văn, giọng điệu, nhịp điệu để tạo hình và biểu hiện chính nó. Như
thế hình tượng nghệ thuật được xem là cấp độ hình thức mới để biểu đạt và
làm sáng tỏ nội dung tư tưởng tác phẩm.
Do đó phân tích cấu trúc hình tượng nghệ thuật này không chỉ không
chỉ nên dừng lại ở bề mặt cốt truyện và tính cách nhân vật mà phải chú ý kết
cấu trúc nội (tại tức là mối quan hệ qua lại giữa nhân vật và sự kiện, giữa tình
huống, giữa chi tiết nghệ thuật và điểm sáng thẩm mĩ, giữa cảnh và tình, giữa
bộ phận và toàn thể, giũa hiển ngôn và hàm ngôn, giữa thời gian, không
gian…). Như vậy, để hiểu được cấu trúc hình tượng nghệ thuật của tác phẩm
chỉ có một cách đọc thông qua bản thân, tự chiêm nghiệm mà tích lũy kinh
nghiệm nghệ thuật có thể cảm nhận được sự tồn tại của tầng cấu trúc này.
1.2.3. Đọc - hiểu giá trị ý nghĩa tầng cấu trúc tư tưởng, ý vị nhân sinh
Khi gặp một người, điều dễ thấy là gương mặt, hình dáng bên ngoài.
Dần dần qua tiếp xúc ta mới hiểu chiều sâu kín trong tâm hồn của họ. Đọc tác
phẩm văn chương cũng vậy: từ tầng ngôn từ đến tầng hình tượng, dần dần ta
tìm ra tầng tư tưởng, ý vị nhân sinh của tác phẩm. Có tìm ra tầng này ta mới
hiểu được những điều nhà văn muốn tâm sự cũng như thể nghiệm về cuộc
sống, những quan niệm về đạo đức, xã hội hay những hoài bão của họ.
Song thế giới tư tưởng cũng rất đa dạng về khuynh hướng và giá trị.
Nhất là tư tưởng thẩm mĩ trong TPVC càng không đơn giản. Một mặt nó có
18
một số nét gần với tư tưởng nói chung, nó đưa cách nhận thức, lí giải và thái
độ đối với toàn bộ nội dung cụ thể sống động của tác phẩm cũng như những
vấn đề nhân sinh đặt ra trong tác phẩm. Mặt khác nó cũng có những nét riêng
như: chi phối tình cảm thẩm mĩ của mọi người bởi những sắc thái khác nhau
trong đánh giá và thị hiếu của họ, tạo nên khả năng riêng để nhận thức thế
giới. Tư tưởng của TPVC chính là tư tưởng thẩm mĩ của loài người từng bước
được khẳng định trong lịch sử văn học.
Và tư tưởng thẩm mĩ trong TPVC chính là kết quả của những suy tư là
sự bừng sáng linh cảm, sự nghiền ngẫm, trải nghiệm để vươn tới giá trị tinh
thần. Tư tưởng thẩm mĩ trong TPVC “luôn tìm kiếm và muốn sống trong cuộc
đời trần thế sinh động, đa dạng, mang tính người mà tình thương là thứ tôn
giáo uy nghi nhất, được thực hiện trong đời sống thường nhật của con người”
[15, tr. 54]. Điều đó cho thấy tư tưởng thẩm mĩ của TPVC là lấy tình thương
và tinh thần tự do của con người làm cứu cánh.
Tuy nhiên, khi đánh giá sức sống của tác phẩm cũng như giá trị lâu bền
của tác phẩm đối với người đọc không phải là vẻ đẹp của ngôn từ hay hình
tượng nghệ thuật mà cái chính là ở độ sâu của tầng cấu trúc tư tưởng thẩm mĩ.
Qua nhiều nghiên cứu cho thấy, cấu trúc tư tưởng thẩm mĩ của tác phẩm
không bao giờ tách rời cấu trúc ngôn từ và cấu trúc hình tượng nghệ thuật.
Bên cạnh đó để tìm và lí giải được cấu trúc tư tưởng và ý vị nhân sinh của
TPVC, người đọc cần tìm ra mối quan hệ giữa đề tài và chủ đề, giữa chủ đề
và chủ đề tư tưởng… Và chính GS Nguyễn Thanh Hùng cũng từng khẳng
định: “cấu trúc tư tưởng thẩm mĩ đã tổ hợp được tính hạn định của cấu trúc
ngôn ngữ và cấu trúc hình tượng, đã dung hòa được tính lịch sử và tính mở
của tác phẩm. Nó là loại cấu trúc không có hình thức xác định cụ thể nhưng
bằng cảm xúc trí tuệ và sự cảm nhiễm thẩm mĩ, người đọc có thể nhận ra dần
về số mệnh của con người, sứ mệnh lịch sử và thời đại cũng như cõi nhân
sinh chứa trong tư tưởng và ý vị tác phẩm ” [14, tr. 31].
Vậy để đọc - hiểu tầng cấu trúc tư tưởng thẩm mĩ và ý vị nhân sinh của
19
TPVC cần phải nhìn nhận và đánh giá nó trong mối quan hệ với tầng cấu trúc
ngôn từ và tầng cấu trúc hình tượng nghệ thuật. Từ đó mới thấy được sự tác
động sâu xa của tác phẩm tới tâm hồn người đọc, cảm nhận được cả dư vị của
sự nếm trải trong tâm hồn, tình cảm của người đọc.
Nói tóm lại, đọc TPVC là quá trình phát hiện và khám phá nội dung ý
nghĩa xã hội, con người, thời đại trong cấu trúc hình tượng thẩm mĩ của tác
phẩm được đan xen giữa hoạt động nhận thức đánh giá, thưởng thức giá trị
đích thực tồn tại trong hình thức nghệ thuật độc đáo của TPVC. Quá trình này
yêu cầu người đọc tuân thủ theo qui luật đi từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ
đến khó, từ hữu hình đến vô hình, từ phân tích đến suy luận, khái quát… Có
như vậy người đọc mới hiểu được TPVC, mới nắm vững và vận dụng vào
phân môn Làm văn, Tiếng Việt, đồng thời tự rèn luyện cách đọc, cách học,
cách khám phá giá trị TPVC.
1.3. Kĩ năng đọc - hiểu tác phẩm văn chương
Nếu kỹ thuật đọc – hiểu nhằm phục vụ tốt cho việc thực hiện các biện
pháp đọc hiểu thì kĩ năng đọc – hiểu lại giúp cho người giáo viên có cách thức
hướng dẫn HS đọc hiểu một cách khoa học. Nghiên cứu về vấn đề này cũng
có một vài công trình đề cập tới như cuốn “Đọc hiểu và chiến thuật đọc hiểu
văn bản trong nhà trường phổ thông” của tác giả Phạm Thị Thu Hương, song
ở công trình này tác giả mới đề cập đến khái niệm về kĩ năng. Và người
nghiên cứu sâu sắc về vấn đề này vẫn phải kể đến GS.TS Nguyễn Thanh
Hùng trong cuốn “Kĩ năng đọc hiểu văn”, tác giả đã đưa ra và kiến giải cụ thể
về 4 kĩ năng đọc hiểu tác phẩm văn chương.
1.3.1. Kĩ năng đọc chính xác trong đọc - hiểu tác phẩm văn chương
Nói đến hoạt động đọc, các nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng
đọc chính xác là một hành động đọc quan trọng của lao động trí tuệ. Trong
đọc văn thì việc đọc chính xác không chỉ là khâu bắt buộc mà còn là một kĩ
năng đọc hiểu cơ bản đầu tiên để nhận thức về cái đúng sai. Đồng thời đọc
chính xác giúp người đọc nhận thức về chân lý đời sống và chân lý nghệ thuật
20
được phản ánh trong tác phẩm một cách khách quan mà không bị phụ thuộc
vào cảm tính cá nhân bản thân. Bên cạnh đó, việc đọc chính xác này sẽ giúp
HS có niềm tin vào các giá trị chân thiện mĩ được thể hiện trong TPVC.
Và để có kĩ năng đọc chính xác trong đọc hiểu tác phẩm nghệ thuật,
trước hết HS phải đọc chính xác ngôn ngữ, tri giác ngôn ngữ bằng vốn sống,
vốn văn hóa, kinh nghiệm của người đọc. Tức là phải nắm vững những gì cần
hiểu về ngôn từ trong mối quan hệ văn cảnh, trong sự lựa chọn và kết hợp,
trong việc nhóm hợp chúng thành hệ thống và phân bố theo một trật tự nào đó
trong tác phẩm.
Ví dụ trong bài “Câu cá mùa thu” của Nguyễn Khuyến, sở dĩ người
đọc có thể hiểu từ cần (trong câu Tựa gối buông cần lâu chẳng được) chính là
cần câu cho dù tác giả không cần viết đầy đủ là cần câu, người đọc vẫn có thể
đọc được chính xác rõ ràng ý nghĩa của nó là nhờ trong bài thơ, trước từ cần
đã có các từ ngữ ao thu, nước, thuyền câu, và sau đó có các từ ngữ cá, đớp
động, chân bèo… Nói chung tất cả các từ ngữ trong câu thơ cũng như trong
bài đã tạo nên ngữ cảnh cho từ cần; ngữ cảnh này làm cơ sở cho người viết
dùng từ cần và người đọc hiểu được nó.
Như vậy đọc chính xác không đơn giản chỉ dừng lại ở việc đọc đúng
âm, đúng chính tả mà phải đọc phải rèn luyện tốt hành động đọc trên dòng,
đọc giữa dòng, đọc ngoài dòng, phối hợp chúng lại với nhau để cảm nhận
được “ý tại ngôn ngoại”.
Bên cạnh đó, muốn có kĩ năng đọc chính xác còn đòi hỏi người đọc
phải tinh mắt, không bỏ sót một từ nào, thậm chí từng dấu câu hay dấu phân
tách dòng, đoạn, khổ của văn bản. Qua đó người đọc nắm được từ khóa, ý
nghĩa của câu, của đoạn và tìm thấy mạch ý của văn bản tác phẩm.
Chẳng hạn trong bài “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi (SKG Ngữ Văn
10 – tập 1), khi đọc câu thơ đầu của bài:
Rồi / hóng mát / thuở ngày trường ( 1/ 2 / 3)
Cần đọc đúng nhịp 1/2/3 ở câu thơ này. Nhịp thơ không đi theo quy
21
luật cân đối thông thường là 3/3 mà được kéo dài, chậm dần nhằm nhấn mạnh
trạng thái thảnh thơi, thư thái nhàn rỗi của nhà thơ khi đón nhận cảnh. Đặc
biệt là sự nhàn thân mà không nhàn tâm của Nguyễn Trãi. Hay ở hai câu thơ
khác trong bài:
Thạch lựu hiên / còn phun thức đỏ (3/4)
Hồng liên trì / đã tiễn mùi hương (3/4)
Mặc dù là thể thơ thất ngôn nhưng nhịp thơ cũng có sự sáng tạo theo
dụng ý của tác giả. Nhà thơ không sử dụng nhịp 2/2/3 hay 4/3 mà là nhịp 3/4
với mục đích nhấn mạnh hình ảnh, âm thanh của thiên nhiên. Và bức tranh
thiên nhiên mùa hè càng trở nên sinh động, hài hòa, tươi vui, đầy sức sống.
Đặc biệt qua sự cảm nhận bằng nhiều giác quan, người đọc còn thấy được vẻ
đẹp tâm hồn của nhà thơ: yêu thiên nhiên, gần gũi, hòa hợp với thiên nhiên.
Hoặc trong bài “Đàn ghi ta của Lorca” của Thanh Thảo, cần hướng cho
HS khi đọc phải chú ý về lối diễn đạt không viết hoa đầu dòng ở mỗi câu thơ.
Đọc đúng cách thể hiện đó, ta sẽ thấy một sự liền mạch như một dòng chảy
của cảm xúc không có điểm dừng của nhà thơ. Cách diễn đạt sáng tạo mới mẻ
đó của Thanh Thảo còn giúp người đọc liên tưởng bài thơ như một bản đàn
ngân vang với âm thanh “li-la” mênh mang, dìu dặt vút cao chắp cánh cho
người nghệ sĩ bay vút lên trên tất cả sự bạo tàn và chết chóc.
Ngoài ra để giúp HS đọc – hiểu chính xác các tầng nghĩa của văn bản,
GV cần rèn cho các em một thói quen trong khi đọc là luôn luôn phải đặt ra
những câu hỏi như: tại sao nhà văn lại dùng loại từ ấy, vận dụng kiểu câu dài
ngắn khác nhau và cách ngắt nhịp ấy để nhằm mục đích gì? Làm rõ được điều
này người đọc đã tiến thêm một bước để hiểu phần chìm, phần hàm ngôn của
tác phẩm, tức hiểu được chủ ý của nhà văn.
Chẳng hạn khi hướng dẫn học sinh đọc câu thơ: “Mình về mình có nhớ
ta. Ta về ta nhớ những hoa cùng người.” (Việt Bắc – Tố Hữu). Với câu thơ
này, GV luôn luôn phải nhắc HS chú ý ở ba từ “hoa cùng người”, nhất là từ
cùng. Tại sao tác giả không dùng là “hoa và người” hay “hoa với người” mà
22
là cùng, xét về nghĩa từ “cùng” cho thấy vẻ đẹp của Việt Bắc chính là sự hòa
quyện của vẻ đẹp của con người và thiên nhiên, hai yếu tố này luôn hòa vào
nhau, đi bên nhau để mang đến bức tranh hữu tình cho Việt Bắc.
Như vậy mục đích cuối cùng của kĩ năng đọc chính xác trong đọc hiểu
là cố gắng hiểu được những gì cần hiểu để thu nhận tối đa ý nghĩa của TPVC.
Vậy làm sao để đọc nhanh nhưng vẫn chính xác, làm sao để nâng dần tốc độ
đọc… Đầu tiên người đọc phải làm chủ thời gian đọc bằng cách tập trung cao
độ của thị giác, vừa quét theo trường nhìn vừa ghi nhanh các đỉnh điểm để thu
gọn nội dung trang sách mà không xa rời điểm nhấn. Tuy nhiên trong quá
trình đọc, người đọc không nên quá căng thẳng mà phải thả lỏng tinh thần để
nắm được thế giới nghệ thuật ngôn từ theo phép chuyển nghĩa, ẩn dụ tượng
trưng, biểu tượng, điểm sáng thẩm mĩ và hình tượng nghệ thuật trong TPVC.
1.3.2. Kĩ năng đọc phân tích trong đọc - hiểu tác phẩm văn chương
Muốn hiểu được TPVC, người đọc không chỉ đọc chính xác các qui tắc
về ngữ âm, dấu chấm, dấu phẩy mà cao hơn người đọc phải rèn được kĩ năng
đọc phân tích, cắt nghĩa và lựa chọn tổng hợp ngôn ngữ. Đây là một kĩ năng
có vị trí quan trọng và ý nghĩa to lớn quyết định hiệu quả của đọc hiểu. Bàn
về vấn đề này, GS. TS Trần Đình Sử từng khẳng định: “Thực chất của đọc
hiểu tác phẩm nghệ thuật là phân tích văn bản nghệ thuật ấy”.
Trong khi đọc TPVC, người đọc luôn gặp những từ “đắt”, những lớp từ
đa nghĩa… Hơn nữa, hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật trong TPVC luôn mang
tính phi vật thể và rất phức tạp, nó liên quan đồng thời tới nhiều sự vật hiện
tượng nhưng chỉ có mối liện hệ được thực hiện giữa các từ. Từ đó cho thấy
ngôn ngữ văn học thường sử dụng sự liên tưởng dựa trên mối quan hệ về
nghĩa giữa các từ, các câu. Tức là bằng cách thiết lập lại các mối quan hệ giữa
các thành phần rời rạc của hình ảnh trong một sự liên tưởng nhất định.
Vậy muốn rèn luyện kĩ năng đọc phân tích trong đọc hiểu TPVC, trước
tiên người đọc phải quan tâm đến những nét mới lạ của từng cơ cấu liên
tưởng qua hình ảnh cụ thể và cơ cấu đối xạ qua tượng trưng, biểu tượng cụ
23
thể để truyền đạt ý tưởng. Hay nói khác đi người đọc phải tìm ra những sự kết
hợp bất thường của các từ ngữ ở một hình ảnh cụ thể để thấy được ngữ logic.
Ví dụ khi nói “anh thương em” là một sự diễn đạt quen thuộc và dễ hiểu
nhưng tác giả dân gian trong bài “Khăn thương” lại viết:
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Rõ ràng sự kết hợp bất thường giữa từ “khăn” dùng chỉ những vật vô tri
vô giác nhưng đi kèm với những từ “thương nhớ”là những từ nằm trong
trường nghĩa chỉ hành động, tình cảm của con người. Với cách diễn đạt này
tác giả dân gian mang đến nỗi niềm thương nhớ của cô gái trong bài ca dao vô
cùng da diết, cháy bỏng, mãnh liệt song lại rất tế nhị và kín đáo….
Điều đó cho thấy kĩ năng đọc phân tích tạo ra năng lực đọc tốt nhất và
hoàn chỉnh nhất. Tuy nhiên thực hiện kĩ năng đọc phân tích phải cần nhiều
thời gian. Do đó kĩ năng đọc phân tích chủ yếu nên luyện tập ở nhà và củng
cố trong suốt quá trình đọc hiểu TPVC. Và hành động đọc quan trọng cho
việc hình thành kĩ năng đọc phân tích chính là đọc kĩ. Đọc kĩ là đọc nhiều lần
trong những thời điểm khác nhau với những mục đích và tâm thế khác nhau.
Điều quan trọng của đọc kĩ ở đây là đọc phải gắn liền với sự có ý thức về điều
đang đọc, đồng thời đọc phải xác định được trọng tâm cần phân tích tìm ra ý
nghĩa của tác phẩm.
Thực hành kĩ năng đọc phân tích “phải có cái nhìn xuyên suốt từ việc xác
định loại thể - tên tác phẩm – chủ đề – đề tài – nhân vật trung tâm – các phương
tiện xây dựng hình tượng nghệ thuật như lớp từ then chốt, biện pháp tu từ như:
ẩn dụ tượng trưng và biểu tượng nghệ thuật để phân tích chỉnh thể nghệ thuật
của tác phẩm và khái quát ý nghĩa thành tư tưởng chủ đề” [15, tr. 99].
Rèn luyện kĩ năng đọc phân tích trong đọc hiểu TPVC cần sử dụng
24
hành động đọc nhiều lần, đọc toàn bộ tác phẩm. Ngoài ra còn phải am hiểu
hành động đọc tích cực, đọc hiệu quả. Hoàn thành kĩ năng đọc phân tích ta sẽ
hiểu cặn kẽ, thấu đáo giá trị nội dung, tư tưởng của tác phẩm.
1.3.3. Kĩ năng đọc sáng tạo trong đọc - hiểu tác phẩm văn chương
Trong hoạt động nhận thức khi đọc hiểu TPVC chương thì kĩ năng đọc
sáng tạo là một kĩ năng vô cùng quí giá không thể thiếu. Nhất là trong những
lĩnh vực văn học nghệ thuật, đọc sáng tạo có một vai trò quan trọng. Nhờ có
đọc sáng tạo mà hiện thực được người đọc cảm nhận một cách đầy sức sống,
có hồn và được nâng lên một tầng ý nghĩa cao hơn bản thân hiện thực trực
tiếp. Trong cuốn “kĩ năng đọc hiểu văn” GS.TS Nguyễn Thanh Hùng đã nêu
rõ Gert Kleinschmudt là người đầu tiên nêu lên khái niệm đọc sáng tạo: “Sáng
tạo trong TPVC không có nghĩa là thoát li hoàn toàn sự ràng buộc của tác
phẩm… Mô phỏng là sáng tạo, cải biến là sáng tạo và làm mới là sáng tạo ở
mức cao nhưng hiếm vô cùng”.
Nói cách khác thì kĩ năng đọc sáng tạo đã bao gồm đọc chính xác và
đọc phân tích và nó cao hơn một bậc là có thể đọc để tạo ra những tiền đề mới
còn bỏ ngỏ. “Đọc sáng tạo là khả năng liên hệ những gì đang đọc với những
gì đã được đọc, lấy đó làm cơ sở để mở rộng biên độ của sự hiểu biết thậm
chí với văn bản nghệ thuật, đọc sáng tạo còn có thể xác định nghĩa mới cho
hình tượng. Mức độ hiểu này tương ứng với khả năng đọc vượt ra những
dòng chữ”. Đây là ý kiến của Nguyễn Trọng Hoàn trong hình thành năng lực
đo trong dạy học Ngữ văn. Tạp chí Giáo dục số 79/2004, tr.19.
Khi thực hành luyện tập kĩ năng đọc sáng tạo, độc giả phải vận dụng
các hành động đọc trải nghiệm, đọc diễn cảm, đọc thuộc lòng, đọc nhập vai
và đọc lại như là cách thức tìm kiếm sự nảy sinh cái mới.
1.3.4. Kĩ năng đọc tích lũy trong đọc - hiểu tác phẩm văn chương
Kĩ năng đọc tích lũy là kĩ năng đọc nhấn mạnh tính chất, mức độ cao
thấp, phức tạp hay đơn giản, khó hay dễ về việc vận dụng đọc hiểu có hiệu
quả. Kĩ năng đọc tích lũy là cách phân biệt đặc điểm và yêu cầu của các kĩ
25
năng đọc trước đó. Kĩ năng đọc trước làm điều kiện cho việc thực hiện kĩ
năng đọc sau. Kĩ năng đọc tích lũy sẽ cho ta cái nhìn sâu và toàn diện về
chỉnh thể tác phẩm. Đây là mức đọc cao nhất trong đọc hiểu, nó không chỉ
giúp người đọc thu nhận thông tin sâu, rộng, hứng thú trong khi đọc tác phẩm
mà còn tác động tích cực vào nhân cách toàn diện và văn hóa đọc của cá nhân
HS. Từ đó người đọc có cơ hội tiếp nhận trọn vẹn giá trị đích thực của tác
phẩm và có thể biến nó thành sở hữu của bản thân mình.
Khi thực hành kĩ năng đọc tích lũy trong đọc hiểu TPVC cần lưu ý đặc
biệt đến hành động đọc chậm tức là đọc những gì hiện lên thấp thoáng như
hình ảnh, biểu tượng, cái hay, cái đẹp được ngôn từ nghệ thuật chuyển tải mà
người đọc cảm nhận được ở đâu đó. Bên cạnh đó, thì việc đọc sâu cũng là
hành động đọc rất quan trọng khi thực hành kĩ năng đọc tích lũy. Đây là hành
động đọc làm bộc lộ mối liên hệ thống nhất nhiều mặt của đời sống và nghệ
thuật, của trí tuệ và tình cảm ngày càng bao quát trọn vẹn văn bản tác phẩm.
Phải đọc chậm để phát hiện hình ảnh, sự kiện của thế giới suy tư, tâm tình của
nhân vật và hình tượng nghệ thuật của tác phẩm. Học sinh có thể đọc và
thống kê những mối quan hệ giữa nhân vật với sự kiện, tình huống và với
nhân vật văn học khác. Phân loại và hệ thống nhân vật theo mối quan hệ đa
dạng, đa tuyến để xác định chủ đề và tư tưởng tác phẩm. Học sinh vừa đọc
vừa hóa sơ đồ mạng lưới quan hệ giữa các yếu tố hình thức nội dung, bộ phận
và toàn thể, chi tiết nghệ thuật và chỉnh thể nghệ thuật để tìm ra kiểu tư duy
văn học và phương thức trình bày nghệ thuật của tác phẩm. Vừa đọc vừa tham
chiếu thời điểm sáng tác, chặng đường nghệ thuật, sự chuyển biến tư tưởng và
quan điểm sáng tác của nhà văn để xác định cảm hứng sáng tác để lại dấu ấn
trong tác phẩm. Qua đó người đọc dần tích lũy thông tin thẩm mĩ, tích lũy
26
kinh nghiệm nghệ thuật, tích lũy ý nghĩa và thủ pháp tạo sinh ý nghĩa.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG DẠY ĐỌC - HIỂU TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG VÀ
VIỆC ĐỊNH HƯỚNG, TỔ CHỨC RÈN LUYỆN KĨ NĂNG ĐỌC - HIỂU
TÁC PHẨM “CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ”
2.1. Thực trạng dạy đọc - hiểu tác phẩm văn chương ở THPT
2.1.1. Tình hình vận dụng đọc - hiểu tác phẩm văn trong chương trình
THPT hiện nay
Đối với các trường THPT hiện nay, giáo viên mặc dầu đã có ý thức đổi
mới phương pháp dạy học văn nhưng việc thực hiện chỉ mới mang tính chất
hình thức, thử nghiệm chứ chưa đem lại hiệu quả như mong muốn. Một số
giáo viên vẫn còn thói quen dạy học theo kiểu truyền thụ kiến thức một chiều:
giáo viên giảng giải, học sinh lắng nghe, ghi nhớ và nhắc lại đúng những điều
mà giáo viên đã truyền đạt. Giáo viên chủ động cung cấp kiến thức cho học
sinh, áp đặt những kinh nghiệm, hiểu biết, cách cảm, cách nghĩ của mình tới
học sinh. Nhiều giáo viên chưa chú trọng đến việc tiếp thu, vận dụng kiến
thức của học sinh cũng như việc chỉ ra cho học sinh hướng tích cực chủ động
để thu nhận kiến thức... Bên cạnh đó, khá nhiều giáo viên lại dạy văn như nhà
nghiên cứu văn học: họ tập trung phân tích sâu về tâm lí, về kĩ thuật ngôn từ,
về phương pháp sáng tác… Do đó, đa phần những giờ dạy được giáo viên tiến
hành như một giờ diễn thuyết (ham nói). Điều này cũng do một phần vì giáo
viên sợ “cháy” giáo án (Giáo viên hỏi nhưng học sinh không trả lời được hoặc
học sinh vẫn phát biểu nhưng chưa ra vấn đề, cho nên giáo viên làm thay).
Tương ứng với cách dạy học trên, HS luôn hình thành thói quen thụ
động, thiếu sáng tạo: các em chỉ quen nghe, quen chép, ghi nhớ và tái hiện lại
một cách máy móc, rập khuôn những gì giáo viên đã giảng. Đa phần học sinh
chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá bài học, lười suy nghĩ. Chỉ
biết suy nghĩ diễn đạt bằng những ý vay mượn, bằng những lời có sẵn, lẽ ra
27
phải làm chủ tri thức thì lại trở nên phụ thuộc vào sách vở. Học sinh chưa có
hào hứng và chưa quen bộc lộ những suy nghĩ, tình cảm của mình trước tập
thể. Bởi vậy, đa phần HS không biết tự học: các em không bao giờ có nhu cầu
tự tìm hiểu, nghiên cứu; không chủ động tự đọc SGK để tìm hiểu kiến thức;
không biết tìm và đánh dấu phần kiến thức trọng tâm để học; không biết giải
mã các tầng ý nghĩa của văn bản trong mối liên hệ của ngôn từ…. Cho nên
trong quá trình học tập, HS luôn tỏ ra thiếu sự hợp tác với GV. Các em không
cảm thấy hứng thú và đam mê với các giờ Văn.
Nhìn chung, đổi mới phương pháp dạy học vẫn chưa có sự hợp tác cả
của thầy và trò cũng như sự phối hợp nhịp nhàng giữa hoạt động dạy với hoạt
động học. Ngay như việc sử dụng trang thiết bị dạy học (máy chiếu) và đưa
CNTT vào giờ học vẫn mang tính hình thức, giáo viên chủ yếu lên mạng copy
những tài liệu có sẵn rồi chỉnh sửa một vài ý chứ chưa thực sự đầu tư chất
xám của bản thân. Vì vậy mà giờ học vẫn chưa thu hút được người học.
2.1.2. Thực trạng dạy đọc - hiểu “Chữ người tử tù” ở trường THPT Tân Lập
2.1.2.1. Thực trạng hoạt động dạy “Chữ người tử tù”.
Khi tìm hiểu một số cách dạy đọc – hiểu văn bản “Chữ người tử tù”
của những giáo viên trong trường THPT Tân Lập, chúng tôi nhận thấy phần
lớn các giáo viên vẫn dạy theo kiểu “bình mới, rượu cũ” (tức là về mặt hình
thức vẫn gọi và ghi trên bảng là hướng dẫn đọc hiểu song thực chất vẫn sử
dụng phương pháp giảng bình và đọc chép là cơ bản).
Ngoài ra, GV vẫn chưa tập trung hướng dẫn HS tiếp cận tác phẩm theo
đúng đặc trưng thể loại của truyện ngắn lãng mạn trước năm 1945, cho nên
người thầy vẫn chỉ chăm chú về nhân vật, về nội dung tư tưởng mà không
hướng dẫn các em cách từng bước các tầng cấu trúc của tác phẩm theo đúng
giá trị đích thực của nó. Phần đa giáo viên bỏ qua tầng cấu trúc ngôn từ cũng
như tầng ý vị nhân sinh của tác phẩm mà trên thực tế cho thấy 2 tầng cấu trúc
này mới làm nên cái hay và chiều sâu cũng như đặc trưng của truyện ngắn
28
lãng mạn của Nguyễn Tuân trước năm 1945.
Trong giờ dạy họ chỉ tập trung ở tầng hình tượng nghệ thuật như: Hình
tượng nhân vật Huấn Cao, nhân vật quản ngục hay Cảnh cho chữ, nhưng ở
tầng này cũng tiếp cận một cách sơ sài mang tính chiếu lệ. Các kiến thức HS
được trang bị chỉ mang tính đối phó với thi cử. Thậm chí chỉ đưa ra một vài ý
cơ bản rồi thuyết trình nhưng không hề bám sát vào ngôn từ của văn bản để
chỉ cho HS thấy được cái đẹp của nhân vật. Tai hại hơn có không ít GV cứ
bay bổng với những lời bình sáo rỗng để ru ngủ HS mà xa rời hoàn toàn hệ
thống ngôn từ của văn bản. Bởi vậy rất nhiều các từ ngữ cổ giàu giá trị của tác
phẩm mà HS không hề biết đến, thậm chí có nhiều em còn hiểu sai về mặt
nghĩa của nó. Còn ở tầng tư tưởng ý vị nhân sinh của tác phẩm thì rất nhiều
giáo viên bỏ qua, nếu có thì vài câu nói qua loa như đưa vào phần tổng kết
chứ chưa coi đó là một phần quan trọng khi khám phá tác phẩm. Trong đó có
một vài GV được đào tạo khá bài bản về phương pháp dạy học nhưng cũng
chưa thực sự nắm vững được tầng cấu trúc tư tưởng thẩm mĩ, ý vị nhân sinh
mà tác giả gửi gắm trong tác phẩm.
Như vậy, có thể thấy chất lượng hiệu quả các giờ học văn còn thấp, GV
chưa tạo được hứng thú đối với môn học. HS không hiểu sâu sắc được giá trị
của tác phẩm. Hay nói chuẩn xác hơn là GV chưa rèn được kĩ năng đọc hiểu
cho HS theo đúng giá trị đích thực của tác phẩm.
2.1.2.2. Thực trạng hoạt động học “Chữ người tử tù”
Nhìn chung các em nắm được những kiến thức cơ bản về tác giả
Nguyễn Tuân (dựa vào SGK) là chính: ví dụ như kiến thức về quê quán, hoàn
cảnh xuất thân, gia đình; quá trình hoạt động chính trị xã hội và văn học; vị trí
của ông trong văn đàn; một số tác phẩm chính của ông..
Còn khi tiếp nhận tác phẩm, phần lớn HS có những hiểu biết, bước đầu
cảm nhận được những nét tính cách của hai nhân vật chính: Huấn Cao hiện
lên là người anh hùng hiên ngang bất khuất; người nghệ sĩ tài hoa (tài thư
pháp); một người có tâm, trọng “thiên lương” cao đẹp của con người. Còn
29
Quản Ngục: có những phẩm chất “thiên lương trong sáng”; có tinh thần dũng
cảm (dám biệt đãi tử tù); có tâm hồn nghệ sĩ. Tuy nhiên trong quá trình cảm
nhận vẻ đẹp của hai nhân vật này, đa phần HS chỉ nói một cách sáo rỗng,
không đưa ra được các câu văn để chứng minh cho từng nét đẹp của nhân vật.
Thậm chí có những HS còn băn khoăn, nhầm lẫn việc trích dẫn những câu nói
về nhân vật Huấn Cao và quản ngục ở đoạn văn tả cảnh trong phần đầu của
tác phẩm. Nhất là các em thường bỏ luôn “cảnh cho chữ” không đưa vào khi
cảm nhận về vẻ đẹp của hai nhân vật này….
Đặc biệt, khi khai thác về các yếu tố nghệ thuật khắc họa vẻ đẹp của
hai nhân vật trên hầu như HS chỉ tập trung vào nghệ thuật đối lập tương phản;
sử dụng các từ cổ. Tuy nhiên các em không chỉ ra được tác dụng của các yếu
tố nghệ thuật này, nhất là việc sử dụng các từ Hán Việt để tạo không khí cổ
xưa, gợi lên vẻ đẹp lí tưởng cho nhân vật Huấn Cao thì ngay cả HS khá giỏi
cũng không nêu được. Và không ít học sinh còn hiểu sai các từ Hán Việt
trong các câu văn khi nói về nhân vật. Chẳng hạn như: nhất sinh, chu tất, xin
bái lĩnh, xin lĩnh ý…. Riêng về việc lĩnh hội tầng ý vị nhân sinh qua hai nhân
vật trên thì không có HS nào biết cách khai thác. Đối với các em, quan niệm
về cái đẹp và quan niệm sống mà Nguyễn Tuân muốn gửi gắm qua hai nhân
vật trên dường như quá xa lạ và không thể chỉ ra được.
Có thể thấy những kiến thức mà HS tiếp nhận được ở cách học trên mới
chỉ là những tri thức ở dạng tối thiểu, tương đương với kiến thức ở dạng tái hiện,
chưa thể hiện được nhiều những khám phá mang tính sáng tạo của bản thân,
chưa cảm nhận tác phẩm một cách sâu sắc. Đặc biệt HS chưa có kĩ năng đọc -
hiểu, năng lực cảm thụ văn bản rất yếu. HS chưa hiểu hết giá trị (tầng cấu trúc
hình tượng thẩm mĩ, tư tưởng thẩm mĩ và ý vị nhân sinh) của văn bản.
2.1.2.3. Nguyên nhân
Có nhiều nguyên nhân tạo nên tình trạng học tập trì trệ, thụ động, thiếu
hào hứng của học sinh. Trước hết là do HS không hình thành được các kĩ
năng đọc hiểu tác phẩm văn chương nói chung, truyện ngắn của Nguyễn Tuân
30
nói riêng. Thứ hai, tác phẩm “Chữ người tử tù ” là một tác phẩm hay nhưng
cũng khó cảm thụ. Do lối viết của tác giả rất riêng và độc đáo; kiến thức trong
tác phẩm khá rộng bao gồm nhiều lĩnh vực như: lịch sử, văn hóa, văn học, xã
hội…; cách xây dựng nhân vật mang tính lí tưởng hóa; số lượng từ Hán Việt
khá nhiều; không gian nghệ thuật của tác phẩm gợi về một thời xa xưa nên
HS khó cảm nhận hết được cái hay của văn bản.
Về phía GV mặc dầu đã có ý thức đổi mới phương pháp dạy học từ
việc phân tích tác phẩm sang đọc – hiểu nhưng chỉ mới mang tính chất hình
thức, thử nghiệm chứ chưa đem lại hiệu quả như mong muốn… Hơn nữa,
không ít giáo viên khi đứng lớp chưa được trang bị kỹ càng, đồng bộ về quan
điểm và lí luận phương pháp dạy học Văn mới. Ngoài ra, phương tiện, thiết bị
dạy học như: tranh, ảnh, sơ đồ, dụng cụ nghe nhìn để minh họa cho bài giảng
còn sơ sài…
Riêng đối với tác phẩm “Chữ người tử tù”, GV cũng gặp khá nhiều khó
khăn. Bởi văn của Nguyễn Tuân vốn “kén” bạn đọc, không phải chỉ thích tác
phẩm là có thể hiểu và dạy hay ngay được. Mặt khác, nhiều GV cho rằng hiểu
văn đã khó, làm cho người khác hiểu như mình (thậm chí hơn mình) là điều
không dễ. .
Về cơ bản tình hình dạy học văn và cụ thể là dạy tác phẩm “Chữ người
tử tù” hiện nay ở trường THPT vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới của
quá trình dạy học: phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của HS, biến quá
trình học thành tự học… Tuy nhiên với khả năng và quyết tâm của thầy cô
dạy văn hi vọng việc rèn kĩ năng đọc - hiểu trong dạy học “Chữ người tử tù”
ở trường THPT sẽ giải quyết được những hạn chế nêu trên. Rèn kĩ năng đọc –
hiểu không phải là một hướng tiếp cận hoàn toàn mới mẻ, nhưng đây là một
hướng tiếp cận tư tưởng khoa học đúng đắn, rất cần thiết đối với DH TPVC
31
trong nhà trường hiện nay là hoàn toàn có sơ sở thực thi.
2.2. Những nguyên tắc và biện pháp hướng dẫn đọc - hiểu tác phẩm
“Chữ người tử tù” trong SGK và SGV Ngữ văn 11
2.2.1. Trong sách giáo khoa
Về SGK, hiện nay đang song song tồn tại hai bộ: chương trình chuẩn
và chương trình nâng cao. Điểm chung cơ bản của hai bộ sách này là: mỗi bài
học được cấu tạo theo hướng tích hợp Văn học, Tiếng Việt và Tập làm văn,
trong đó lấy tập làm văn làm trục đồng quy. Phần văn học được trình bày theo
trình tự khá hợp lí: đầu tiên là tên tác phẩm, tác giả, sau là kết quả cần đạt –
những định hướng cho cả thầy dạy và người học trong quá trình đọc – hiểu
với tác phẩm.
Phần một: Trong SGK chương trình chuẩn, các tác giả trình bày ngắn
gọn về tác giả, tác phẩm có liên quan trực tiếp đến dạy học tác phẩm “Chữ
người tử tù”. Về tác giả: quê quán, năm sinh năm mất …. Dung lượng không
nhiều, chưa thật chi tiết nhưng theo khảo sát thì 90% cả GV và HS đều thấy
như thế là vừa đủ. Về tác phẩm, sách chỉ cung cấp đôi nét về xuất xứ tác
phẩm. Còn SGK chương trình nâng cao, người viết đưa thông tin sơ lược về
tác phẩm, không trích dẫn về tác giả.
Phần hai: Văn bản “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân ”, SGK
chương trình chuẩn và SGK chương trình nâng cao đều được trích dẫn đầy
đủ, đảm bảo tính chỉnh thể tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình dạy học. Ở
phần cuối mỗi trang văn bản, các tác giả còn thực hiện chú thích những từ
ngữ quan trọng.
Phần ba: phần hướng dẫn học bài. Đây là phần định hướng cho người
học. Ở phần này, SGK chương trình chuẩn, nội dung câu hỏi thứ nhất giúp
người học xác định tình huống truyện – đặc trưng khi tiếp nhận truyện ngắn
và tác dụng của tình huống đối với việc thể hiện tính cách nhân vật (gắn nghệ
thuật với nội dung). Câu hỏi thứ hai hướng người đọc vào khai thác vẻ đẹp
nhân vật chính, trung tâm câu chuyện – Huấn Cao, từ đây hiểu quan niệm của
32
tác giả về cái đẹp. Câu hỏi thứ ba nhằm vào việc khai thác tính cách nhân vật
Quản ngục. Câu hỏi thứ tư hướng HS tìm hiểu đoạn văn đặc sắc nhất của văn
bản là “Cảnh cho chữ”. Câu hỏi cuối cùng hướng HS nhìn nhận, cảm phục và
học tập nghệ thuật viết văn của Nguyễn Tuân trên các phương diện xây dựng
nhân vật, bút pháp miêu tả cảnh vật và nghệ thuật sử dụng ngôn từ (cũng là
nét đặc sắc chính về nghệ thuật của tác phẩm)… SGK chương trình nâng cao
ngoài các câu hỏi như bộ chương trình chuẩn còn có thêm các câu hỏi về bố
cục, yêu cầu HS nhận xét về quan niệm của tác giả về cái đẹp.
Phần bốn: phần ghi nhớ - bao gồm những kiến thức cơ bản người học
cần nắm vững sau khi học xong văn bản này. Nó vừa định hướng người học
vừa có chức năng gợi ý kiểm tra đánh giá lại kết quả cho người dạy (SGK
nâng cao không có mục này).
Phần cuối cùng là luyện tập – củng cố (SGK bộ chuẩn), khắc sâu thêm
trọng tâm bài học, yêu cầu người học trình bày những suy nghĩ về hình tượng
nhân vật chính trong tác phẩm – Huấn Cao… Nhìn chung, tuy chưa thỏa mãn
tất cả yêu cầu của người học nhưng SGK cũng đã phần nào giúp người học
phát huy tính năng động, tích cực và gián tiếp định hướng hoạt động dạy
2.2.2. Trong sách giáo viên
* Mục tiêu cần đạt
Giới thiệu tác giả có phong cách nghệ thuật độc đáo: Tài hoa, uyên bác,
trí tuệ.
Cảm nhận được vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao. Đồng thời hiểu và
phân tích được nghệ thuật của thiên truyện qua cách xây dựng nhân vật.
Rèn ý thức biết yêu quí cái đẹp và văn hóa cổ truyền dân tộc – một vẻ
đẹp vang bóng một thời.
*Chuẩn bị của GV và HS: GV chuẩn bị SGK ngữ văn 11, giáo án, phương
tiện thực hiện, HS thì chuẩn bị bài.
33
* Tiến trình tổ chức các hoạt động dạy học
Hoạt động 1: Hướng dẫn HS tìm hiểu về tác giả, tác phẩm
Nguyễn Tuân: 1910 – 1987 – người Hà Nội; sinh ra trong một gia đình
nhà nho, là nhà văn tài hoa, có phong cách nghệ thuật độc đáo: luôn tiếp cận
cuộc sống từ góc độ tài hoa uyên bác ở phương diện văn hóa nghệ thuật. Ngòi
bút thì phóng túng và có ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân.
Tác phẩm “Vang bóng một thời”: được in lần đầu 1940 gồm 11 truyện
ngắn viết về một thời đã xa nay chỉ còn vang bóng. Nhân vật chính phần lớn
là nho sĩ cuối mùa – những con người tài hoa, bất đắc chí, dùng cái tôi tài hoa
ngông và sự thiên lương để đối lập với xã hội phàm tục.
Vị trí truyện ngắn “Chữ người tử tù”: Lúc đầu có tên là Dòng chữ cuối
cùng, in 1939 trên tạp chí Tao đàn, sau đó đổi tên thành: Chữ người tử tù và
được in trong tập truyện: Vang bóng một thời.
Hoạt động 2: Hướng dẫn HS đọc theo đoạn, định hướng cách tìm hiểu
nội dung.
1.Đọc
- Giải thích từ khó,
- Giới thiệu thú chơi chữ: Chữ Hán: Chữ tượng hình, viết bằng bút
lông, mực tàu. Viết theo khối vuông, tròn, nét thanh, nét đậm, nét cứng, nét
mềm khác nhau. Đây là thú chơi thanh tao, lịch sự của những người có văn
hóa và khiếu thẩm mĩ. Thường diễn ra ở thư phòng quan trọng.
2.Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật
a.Tìm hiểu về nhân vật thầy thơ lại
Là kẻ giúp việc giấy tờ cho ngục quan; người biết yêu mến khí phách,
biết trọng người tài, nhiệt tình, tận tâm với chủ.
Từ thái độ, cử chỉ, đến hành động y trở thành kẻ tâm phúc của quản
34
ngục là nhân vật phụ nhưng góp phần làm rõ chủ đề của tác phẩm.
b. Nhân vật quản ngục
Là một kẻ say mê chơi chữ đến kì lạ; kiên trì nhẫn nại, quyết xin chữ
cho bằng được. Suốt đời chỉ có một ao ước: “có được chữ của Huấn Cao mà
treo trong nhà….”
Có sở thích cao quí đến coi thường cả tính mạng của mình: Muốn chơi
chữ của Huấn Cao, dám nhờ thầy thơ lại xin chữ, đối đãi đặc biệt với tử tù.
Lần đầu đã bí mật sai thầy Thơ lại dâng rượu thịt đều đều; lần hai thì nhẹ
nhàng khiêm tốn nhưng bị Huấn Cao miệt thị, xua đuổi những vẫn ôn tồn nhã
nhặn.
Chọn nhầm nghề, giữa bọn người tàn nhẫn lừa lọc thì quản ngục lại có
tính cách dịu dàng… biết trọng người ngay. Ông là người có một tâm hồn
nghệ sĩ tài hoa đã lạc vào chốn nhơ bẩn. Tuy làm nghề thất đức nhưng có một
tâm hồn thiên lương trong sáng, cao đẹp. Trong xã hội phong kiến suy tàn,
chốn quan trường đầy rẫy bất lương, vô đạo, quản ngục đúng là một con
người Vang bóng, một tấm lòng trong thiên hạ…một âm thanh trong trẻo
chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ.
Quản ngục là kẻ biết phục khí tiết, biết quí trọng người tài và yêu quí
cái đẹp – một tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”.
c. Nhân vật Huấn Cao
Vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao là vẻ đẹp lãng mạn được lí tưởng hóa,
được thể hiện một cách khác thường trong hoàn cảnh tưởng chừng không thể
nào xảy ra. Vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao được SGV tập trung
khai thác trên các phương diện sau:
Là một con người tài hoa, nghệ sĩ: có tài viết chữ rất nhanh và rất
đẹp…Có được chữ Huấn Cao mà treo là có một vật báu trên đời… Thế ra y
văn võ đều có tài cả.
Người có khí phách hiên ngang: Coi thường cái chết, mặc dù đang
trong thời gian chờ ngày ra pháp trường nhưng vẫn nguyên vẹn tư thế ung
35
dung, đàng hoàng không biết cúi đầu trước quyền lực và đồng tiền. Ta nhất
sinh không vì tiền bạc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối… đời ta mới
viết… cho ba người bạn thân…
Người có nhân cách trong sáng, cao cả: Trọng nghĩa khinh lợi, có tài có
tâm, coi khinh tiền bạc và quyền thế. Có tấm lòng Biệt nhỡn liên tài, một
thiên lương cao cả.
Hình tượng Huấn Cao trọn vẹn và hoàn hảo bởi một cảm hứng lãng
mạn, một bút pháp lí tưởng hóa của Nguyễn Tuân, một cốt cách: Nhất sinh đê
thủ bái hoa mai.
Cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục, được nhiều người đánh giá là
là một tình huống oái oăm, cuộc kỳ ngộ đầy kịch tính giữa người viết chữ và
kẻ chơi chữ. Họ gặp nhau trong hoàn cảnh trớ trêu: người xin chữ là chúa
ngục đang cai quản nhà tù, người cho chữ là tội nhân tử hình. Xét trên bình
diện xã hội: họ là kẻ thù của nhau. Xét trên bình diện nghệ thuật: họ là tri âm
tri kỷ.
Lúc nửa đêm trong nhà tù, vài canh giờ cuối cùng trước lúc ra pháp
trường. Trong không gian chật hẹp, ẩm ướt, tối tăm, bẩn thỉu, khói bốc nghi
ngút, dưới ánh sáng của ngọn đuốc tẩm dầu là hình ảnh ba cái đầu chụm lại. Một
người cổ mang gông, chân vướng xiềng đang tô đậm những nét chữ trên vuông
lụa trắng tinh bên cạnh là viên quản ngục khúm núm, thầy thơ lại run run.
Đây là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Bởi trong chốn ngục tù
ấy cái đẹp, cái thiện, cái cao cả đã chiến thắng và tỏa sáng. Đây là việc làm
của kẻ tri âm dành cho người tri kỉ, của một tấm lòng đền đáp một tấm lòng.
Cái tâm đang điều khiển cái tài, cái tâm, cái tài đang hòa vào nhau để sáng tạo
cái đẹp.
Đây không phải là cảnh cho chữ, viết chữ, mà là cảnh truyền ngôi thọ
giáo, trao chúc thư hay một mật ước thiêng liêng. Ranh giới tội phạm – cai
ngục đã bị xóa bỏ, chỉ còn lại những người bạn tri âm, tri kỉ đang quây quần
36
xung quanh cái đẹp của tình người và tình đời
*Hoạt động 3: Hướng dẫn HS tổng kết bài học
1. Nội dung
Tác phẩm đã khắc họa thành công hình tượng Huấn Cao, con người tài
hoa, cái tâm trong sáng, khí phách hiên ngang. Bộc lộ quan niệm về cái đẹp,
tấm lòng yêu nước thầm kín.
2. Nghệ thuật
Truyện ngắn thành công khi tạo được kết cấu tình tiết, lời thoại độc
thoại, khắc họa nhân vật điển hình độc đáo. Sử dụng hàng loạt các từ Hán
Việt rất đắt, tạo màu sắc lịch sử cổ kính, bi tráng. Khẳng định Nguyễn Tuân là
bậc thầy về ngôn ngữ, uyên bác về lịch sử, xã hội.
*Hoạt động 4: Hướng dẫn HS thực hiện phần luyện tập
HS đọc lại tác phẩm, nắm nội dung bài học
Sau khi học xong tác phẩm “Chữ người tử tù”, em yêu thích nhân vật
nào nhất? Tại Sao
* Hoạt động 5: GV củng cố, dặn dò HS về nhà
Về nhà các em làm bài tập sau: Thành công của Nguyễn Tuân là không
chỉ xây dựng được hình tượng Huấn Cao độc đáo mà cả quản ngục cũng thật
đẹp. Ý kiến của em như thế nào?
Các em soạn bài “Luyện tập thao tác lập luận so sánh”.
2.3. Những nội dung và cách thức đọc - hiểu tác phẩm “Chữ người tử tù”
trong sách tham khảo
2.3.1. Tổ chức đối thoại trong dạy học “Chữ người tử tù”, luận văn của
thạc sĩ Trần Quốc Khả
A. Mục tiêu bài học
- Về kiến thức:
+ Cảm nhận được ở hình tượng Huấn Cao vẻ đẹp của khí phách, tài hoa
và “thiên lương”, đồng thời hiểu được quan điểm thẩm mĩ của Nguyễn Tuân
37
qua nhân vật này.
+ Hiểu và phân tích được được đặc sắc nghệ thuật: tình huống truyện
độc đáo, tạo không khí cổ xưa, thủ pháp đối lập, ngôn ngữ giàu tính tạo hình
và có nhịp điệu…
-Về kĩ năng: Rèn luyện và củng cố cho HS các kĩ năng cơ bản:
+ Kĩ năng tự đọc, tự học, tự nghiên cứu tài liệu học tập.
+ Kĩ năng giao tiếp, đối thoại dưới nhiều hình thức khác nhau, biết tìm
kiếm, chiếm lĩnh và thưởng thức tri thức từ TPVC.
+ Kĩ năng phân tích, cắt nghĩa, so sánh, tổng hợp, tự bộc lộ.
-Về thái độ:
+ Biết yêu quý, trân trọng, tự hào, có ý thức giữ gìn nét đẹp văn hóa
truyền thống của dân tộc.
+ Giáo dục HS nhân cách cao thượng, niềm tin vào con người và cuộc sống.
B. Tiến trình lên lớp
*Hoạt động 1: Giới thiệu bài và tìm hiểu Tiểu dẫn
Giao quyền cho lớp trưởng, cán sự bộ môn điều hành: Giới thiệu đôi
nét về nhà văn Nguyễn Tuân và hiểu biết ban đầu về truyện “Chữ người tử
tù” của ông.
Một HS trình bày hiểu biết của mình về tác giả; một HS khác trình bày về
tác phẩm, HS nghe, trao đổi, bổ sung, GV cùng HS chốt lại những nét cơ bản:
-Về tác giả:
+ Nguyễn Tuân (1910 – 1987), sinh ra trong một gia đình nhà nho khi
Hán học đã tàn, quê ở làng Mọc (Nhân Chính – Thanh Xuân – Hà Nội).
+ Từ nhỏ ông theo gia đình từng sống ở nhiều tỉnh miền Trung; tham
gia phản đối mấy GV người Pháp nói xấu người Việt ở Nam Định và bị đuổi
học….
+ Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp;
thường tiếp cận đời sống từ góc độ văn hóa, nghệ thuật và từ phương diện tài
38
hoa nghệ sĩ….
+ Nguyễn Tuân để lại cho đời nhiều tác phẩm: Một chuyến đi (1938),
Vang bóng một thời (1940), Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi
(1972)…
-Về tác phẩm:
+ Truyện ngắn này lúc đầu có tên là “Dòng chữ cuối cùng”, in năm
1939 trên Tạp chí Tao đàn sau được đổi tên thành “Chữ người tử tù”.
+ “Vang bóng một thời” in lần đầu (1940) gồm 11 truyện ngắn. Nhân
vật chính trong truyện phần lớn là các nho sĩ cuối mùa. Họ sống trong buổi
Tây Tàu nhố nhăng nhưng không a dua theo thời mà cố giữ “thiên lương” và
“sự trong sạch về tâm hồn”… nổi bật lên hình tượng nhân vật Huấn Cao
(nguyên mẫu từ Cao Bá Quát), một con người tài hoa, khí phách hiên ngang
và “thiên lương” trong sáng.
*Hoạt động 2: Đọc và tìm hiểu văn bản tác phẩm
Hướng dẫn đọc và tìm hiểu chung về văn bản tác phẩm
GV hỏi: Theo anh (chị) nên đọc văn bản này với giọng đọc như thế nào?
HS trả lời: Đọc truyện ngắn này với nhịp điệu chung là chậm, đĩnh đạc, tiêu
biểu là đoạn văn mở đầu và đoạn văn tả cảnh ông Huấn Cao cho chữ viên quản
ngục; khi đọc thể hiện giọng của Huấn Cao khác với giọng của quản ngục….
GV giảng thêm…. Gọi HS đọc, HS khác nghe, nhận xét, tự điều chỉnh;
GV nhận xét, đọc mẫu..
GV hỏi: Anh (chị) hãy cho biết văn bản này có thể chia làm mấy phần?
Nêu nội dung từng phần và phần nào là phần văn bản quan trọng nhất? Vì sao?
HS trả lời: Có thể chia văn bản này thành ba phần.
+ Phần thứ nhất: Từ đầu đến “… để mai ta dò ý tứ lần nữa xem sao rồi
sẽ liệu” – quản ngục được tin sẽ tiếp nhận tử tù và tính cách quản ngục.
+ Phần hai: tiếp theo đến “… thì ân hận suốt đời mất” – Huấn Cao nhập
ngục và sự biệt đãi tử tù của quản ngục.
39
+ Phần ba: còn lại – Cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục.
Trong đó phần thứ ba – Cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục là
phần quan trọng nhất, vì nó thể hiện tập trung nhất những đặc sắc về nội dung
và nghệ thuật; làm nổi bật chủ đề của truyện.
GV hỏi: Truyện ngắn này có những nhân vật nào? Ai là nhân vật chính?
HS trả lời: Trong truyện có nhiều nhân vật: Huấn Cao, quản ngục, thầy
thơ lại… trong đó Huấn Cao là nhân vật chính, nhân vật trung tâm.
GV đưa yêu cầu: Anh (chị) hãy nhập vai một trong những nhân vật: Huấn
Cao, quản ngục, thầy thơ lại, hoặc tên lính cai ngục.. kể lại truyện ngắn này.
HS thực hiện, HS khác nghe, nhận xét, bổ sung, GV nhận xét, đánh
giá…
GV hỏi: Theo anh (chị) về thể loại của tác phẩm này có gì đặc biệt?
HS trả lời: Tác phẩm này là truyện ngắn mang đậm chất trữ tình và
giàu kịch tính… và lí giải.
Tổ chức cho HS thảo luận nhóm theo các yêu cầu sau:
Nhóm 1 và 2: Truyện có đề cập nét sinh hoạt văn hóa dân tộc – nghệ
thuật thư pháp. Anh (chị) hãy giới thiệu ngắn gọn về nghệ thuật này.
Nhóm 3 và 4: Anh (chị) thử lí giải vì sao lúc đầu truyện ngắn này có
tên là “Dòng chữ cuối cùng” – in năm 1939 trên tạp chí Tao đàn, sau đó khi
được tuyển in trong tập truyện “Vang bóng một thời” tác giả lại đổi thành
“Chữ người tử tù”?
Nhóm 5 và 6: Tình huống của truyện này là gì? Nêu ý nghĩa của tình
huống truyện đối với việc thể hiện tính cách nhân vật và kịch tính của truyện?
HS thực hiện thảo luận nhóm – lớp sẽ chia thành 6 nhóm (nhóm từ 6
đến 8 HS – 2 bàn), thực hiện yêu cầu trong 5 phút, sau đó đại diện nhóm trình
bày kết quả trước lớp, HS nghe, nhận xét, bổ sung; GV theo dõi, gợi ý, nhận
xét, đánh giá kết quả làm việc của các nhóm. .
Gợi ý kết quả thảo luận nhóm cần đạt theo những kiến thức cơ bản sau đây:
Nhóm 1 và 2: - Nguồn gốc
40
- Các kiểu chữ cơ bản: Chân, Thảo, Triện, Lệ.
- Điều khác biệt của chữ viết thông thường với thư pháp (những giá trị
tinh thần, văn hóa kết tinh trong chữ)
Nhóm 3 và 4: - Nhan đề “Dòng chữ cuối cùng” gây ấn tượng về những
dòng chữ cuối cùng mà người tử tù viết ra trước khi chết; nó vẫn hướng vào
tư tưởng chủ đề “chữ nghĩa” và tinh thần tinh túy của con người, nhưng ý
nghĩa khái quát bị hạn chế, đặc biệt gây cho người đọc về cái chết bi lụy, sự
bế tắc.
- Tiêu đề “Chữ người tử tù” mới thể hiện được đầy đủ, sâu sắc ý đồ
nghệ thuật của nhà văn, nó có tác dụng bao quát chủ đề của truyện và tạo
được cái kết bi hùng chứ không bi lụy…
Nhóm 5 và 6: - Nêu khái niệm về tình huống truyện
- Tình huống truyện ngắn này là mối quan hệ đặc biệt éo le giữa những
tâm hồn tri kỉ (Huấn Cao, quản ngục và viên thơ lại). Tác giả đã đặt họ trong
tình thế đối địch: tử tù và quản ngục.
Đọc và tìm hiểu nội dung văn bản tác phẩm
1.Quản ngục được tin tiếp nhận tử tù Huấn Cao và thái độ của quản ngục
GV gợi dẫn: Theo dõi phần truyện thứ nhất và cho biết truyện bắt đầu
từ sự kiện gì? Tác dụng trong cách vào truyện của tác giả?
HS tái hiện và đánh giá:Chi tiết quản ngục nhận được phiến trát về việc
sẽ tiếp nhận 6 tên tử tù, trong đó có Huấn Cao… Từ đó quản ngục và thơ lại
chuyện trò với nhau và các nhân vật hiện ra. Vào truyện như vậy ngắn gọn,
hấp dẫn.
GV yêu cầu HS tái hiện: Huấn Cao hiện lên qua chi tiết nào? Trong
cuộc trò chuyện của quản ngục và thơ lại?
HS tái hiện chi tiết: - Lời băn khoăn, ngờ vực của quản ngục: “Huấn
Cao? Hay cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh
và rất đẹp đó không?” và “thầy có nghe người ta đồn Huấn Cao ngoài cái tài
viết chữ tốt lại còn có tài bẻ khóa vượt ngục nữa không?”
41
-Thơ lại đánh giá: “Dạ bẩm, thế ra y văn võ đều có tài cả. Chà chà!”
GV nêu vấn đề: Theo anh (chị) hình ảnh “ngôi sao Hôm nhấp nháy
“như muốn trụt xuống phía chân giời không định” và “bấy nhiêu âm
thanh…nâng đỡ lấy ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ” là hình ảnh thực
hay hình ảnh tượng trưng? Anh (chị) thử lí giải hình ảnh này?
HS giảng giải: Đây là hình ảnh tượng trưng hơn là hình ảnh thực, phải
chăng hình ảnh “ngôi sao Hôm” và “ngôi sao chính vị” kia chính là Huấn Cao
một kẻ tử tù nhưng có tài năng và nhân cách cao thượng được sánh như vì
tinh tú.
-…
GV yêu cầu: Nhận xét của anh (chị) về nghệ thuật miêu tả Huấn Cao ở
phần truyện này?
HS nhận xét, đánh giá: Nhân vật Huấn Cao trong đoạn truyện này
không được miêu tả trực tiếp bằng hành động, cử chỉ, hay ngôn ngữ… mà
xuất hiện gián tiếp, chủ yếu tác giả gợi nhiều hơn tả - nghệ thuật “vẽ mây nẩy
trăng” qua cuộc đối thoại của hai nhân vật quản ngục và thơ lại ở thế đối lập
nhận xét với ông… Hai nhân vật quản ngục và thơ lại vừa ngưỡng mộ vừa
ngờ vực nhưng chính vì thế lại tạo sự hấp dẫn, hứng thú cho người đọc…
-…
GV hỏi để HS khái quát: Cuộc trò chuyện của quản ngục với thơ lại và
lời kể của tác giả trong đoạn truyện này giúp em hình dung như thế nào đến
Huấn Cao?
HS khái quát: Huấn Cao là nghệ sĩ tài hoa - tài nghệ thư pháp, một
con người văn võ song toàn được người đời ngợi ca.
GV hỏi HS tái hiện chi tiết: Cũng trong đoạn truyện này, nhân vật quản
ngục hiện lên với những chi tiết nào?
HS tái hiện chi tiết:
“…một khuôn mặt nghĩ ngợi”, “ngục quan ngồi băn khoăn bóp thái
42
dương”. “người ngồi đấy đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Những
đường nhăn nheo của bộ mặt tư lự, bây giờ đã biến mất hẳn. Ở đấy, giờ chỉ
còn là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ”.
GV yêu cầu HS hình dung: Những chi tiết trên giúp em hình dung như
thế nào về thay đổi tâm lí của quản ngục?
HS hình dung, tưởng tượng: Ngục quan đang có đấu trang quyết liệt
trong suy nghĩ sẽ làm theo lí (!) hay sống theo tình? Cuối cùng là quyết định
sẽ biệt đãi tử tù để hóa giải phần nào nghịch lí bất nhân “muốn cho ông ta đỡ
cực trong những ngày còn lại”.
- …
GV yêu cầu HS cảm nhận: Những dòng suy nghĩ của quản ngục: “có lẽ
lão bát này cũng là một người khá đây… thì khó mà ở yên” và những nhận
xét của tác giả về quản ngục: “trong hoàn cảnh đề lao… mà bản nhạc luật đều
hỗn loạn xô bồ” và “ông trời nhiều khi hay chơi ác … lại phải ăn đời ở kiếp
với lũ quay quắt” giúp em hiểu thêm quản ngục là người như thế nào?
HS khái quát: quản ngục tuy không phải là người sáng tạo ra cái đẹp
nhưng lại biết trân trọng người tài, con người biết phân biệt phải trái, có biểu
hiện con người dũng cảm – ý định biệt đãi tử tù, biểu hiện của “thiên lương”
trong sáng là con người “biết trọng người có tài” và người như vậy “không
phải là kẻ xấu”….
GV giảng chuyển ý….
2. Huấn Cao nhập lao và quản ngục biệt đãi Huấn Cao
GV yêu cầu HS tái hiện chi tiết: Hãy dẫn chi tiết tiêu biểu miêu tả Huấn
Cao khi nhập lao và trong buồng giam.
HS tái hiện: “sáu phạm nhân mang chung một cái gông dài tám thước –
nặng đến 7,8 tạ… Huấn Cao đứng đầu gông…”.
Phản ứng lại lời hù dọa của tên lính áp giải thì “Huấn Cao, lạnh lùng,
chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá
43
tảng đánh thuỳnh một cái ”.
Đáp lại hành động của quản ngục biệt đãi và “khép nép hỏi ông Huấn”
thì Huấn Cao trả lời quản ngục: “– Người hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có
một điều. Là nhà người đừng có đặt chân vào đây.”
GV hỏi: Những chi tiết trên đã giúp anh (chị) hình dung Huấn Cao là
người như thế nào?
HS khái quát: Huấn Cao là con người dũng cảm, hiên ngang, khí phách
không sợ cường quyền …
GV hỏi: Chứng kiến hành động, cử chỉ, ngôn ngữ và thái độ của Huấn
Cao, quản ngục có phản ứng ra sao?
HS tái hiện: “viên quan coi ngục nhìn sáu tên tù mới vào với cặp mắt
hiền lành. Ngục quan lại còn có biệt nhỡn riêng đối với Huấn Cao”…
GV gợi mở: Theo anh (chị) vì sao trước một Huấn Cao ngông nghênh,
kiêu bạc – không nghe tên lính áp giải tù, dám đuổi quản ngục ra ngoài … mà
quản ngục lại chỉ nói “xin lĩnh ý” và vẫn tiếp tục biệt đãi, thậm chí có phần
hậu hĩnh hơn? Chọn trong số các phương án sau đây:
A.Vì quản ngục sợ đồng đảng của Huấn Cao trả thù.
B.Vì quản ngục kính nể trước tài năng, đức độ và danh tiếng của Huấn Cao.
C.Vì quản ngục là người họ hàng với Huấn Cao.
D.Vì quản ngục thấy mệt mỏi không muốn trừng phạt kẻ sắp chết.
HS suy nghĩ lựa chọn và lí giải: Đáp án đúng là đáp án B và lí giải vì
sao lại chọn đáp án này.
GV hỏi: Nghệ thuật “vẽ mây nẩy trăng” tiếp tục được sử dụng hiệu quả
(tự phân tích).
Tạo “xung đột” giữa hai nhân vật quản ngục và Huấn Cao cũng làm
tính cách nhân vật được bộc lộ mỗi lúc một đầy đặn hơn …
GV gợi dẫn để HS cảm nhận: Những chi tiết miêu tả về Huấn Cao và
quản ngục trong đoạn truyện này giúp anh (chị) hình dung như thế nào về
44
Huấn Cao và quản ngục?
HS khái quát và giảng: Nếu ở phần đầu truyện Huấn Cao hiện ra gián
tiếp qua lời của quản ngục và thơ lại thì ở đây Huấn Cao được hiện lên qua lời
nói và hành động. Điều này giúp người đọc tiếp tục hình dung một Huấn Cao:
con người tài năng – phải tài năng đức độ đến mức nào đó mới khiến quản
ngục kính nể, kiên trì, nhẫn nhịn, tự thấy mình nhỏ bé … mà còn cho chúng ta
thấy một Huấn Cao hiên ngang, bất khuất không sợ quyền uy, coi thường
danh lợi và cái chết … Ta cũng cảm nhận được rõ hơn ở quản ngục không chỉ
là tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”, tính kiên trì, nhẫn nhịn biết kính trọng và giữ
gìn cái đẹp … mà còn thấy ở con người này đằng sau vẻ khúm núm, dịu dàng
kia là con người dũng cảm bất chấp luật pháp, bất chấp hình phạt có thể đến
với mình và gia đình dám thực hiện việc biệt đãi tử tù.
- …
GV giảng chuyển đoạn …
3. Cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục
GV gợi mở, nêu vấn đề: Theo anh (chị) vì sao Huấn Cao lại đồng ý cho
chữ viên quản ngục (vì sợ ngục quan, vì muốn trả ơn, hay muốn được thưởng
hậu hĩnh …)?
HS khái quát các chi tiết và lí giải: Huấn Cao cho chữ viên quản ngục
không phải vì sợ quyền uy của ngục quan, cũng không phải vì muốn được
hưởng nhung lụa vàng son và càng không phải vì chỗ rượu thịt hàng ngày
ngục quan biệt đãi …. Mà Huấn Cao cho chữ quản ngục vì “cảm cái tấm lòng
biệt nhỡn liên tài của các người” và còn vì sợ “phụ mất một tấm lòng trong
thiên hạ’.
-….
GV tiếp tục gợi mở: Huấn Cao cho chữ viên quản ngục trong điều kiện
như thế nào về: thời gian, không gian, địa điểm. Và ý nghĩa, tác dụng của việc
miêu tả này?
45
(thực hiện theo nhóm 2 HS thảo luận với nhau trong 4 phút sau đó trình bày)
HS tái hiện chi tiết: Huấn Cao cho chữ quản ngục trong điều kiện thật
đặc biệt: Thời gian về đêm khuya, khi “trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vắng có
tiếng mõ trên vọng canh”.
Không gian nơi tù ngục, của “buồng tối chật hẹp” chứ không phải chốn
thư phòng như thường thấy trong cảnh sáng tạo thư pháp.
Về địa điểm trong buồng giam của tử tù mà “buồng tối chật hẹp, ẩm
ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”….
Chọn lựa thời gian, không gian, địa điểm miêu tả như vậy sẽ tạo nên sự
đặc biệt, đối lập của bối cảnh cho chữ với tính chất việc sáng tạo nghệ thuật,
từ đó tôn thêm vẻ đẹp của con người và góp phần thể hiện chủ đề của truyện.
-…
GV yêu cầu HS hình dung, tưởng tượng: Hình dung của anh (chị) về
con người trong cảnh cho chữ đó?
HS tái hiện, tưởng tượng và đánh giá: Người cho chữ không phải là
con người tự do về thân xác mà là tử tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng”,
nhưng con người ấy đang ung dung, tự tại “tô đậm nét chữ”; người xin chữ lại
là ngục quan với tư thế “khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ
đặt trên phiến lụa trắng”, thầy thơ lại thì “run run bưng chậu mực” …. Rõ
ràng trật tự, kỉ cương trong nhà tù thay đổi hoàn toàn, từ đó chủ đề truyện đã
được thể hiện sâu sắc hơn.
-….
GV yêu cầu HS tái hiện chi tiết: Huấn Cao đã khuyên quản ngục điều gì?
HS tái hiện: Huấn Cao đã khuyên quản ngục “nên thay chốn ở đi …Tôi
bảo thực đấy, thầy quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái
nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ thiên lương
cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”.
GV yêu cầu HS tái hiện và tổng hợp chi tiết: quản ngục đã có phản ứng
46
như thế nào trước lời khuyên đó của Huấn Cao?
HS hình dung: Trước lời khuyên của Huấn Cao ngục quan đã vô cùng
xúc động, vừa cúi lạy vừa nhận lấy lời chỉ dạy một cách cung kính…
GV gợi dẫn HS đánh giá: Anh (chị) hãy nhận xét những thành công của
cảnh cho chữ về: Sử dụng ngôn ngữ, sử dụng biện pháp nghệ thuật?
GV yêu cầu HS khái quát: Tìm hiểu ba đoạn truyện mà tiêu biểu nhất là
cảnh Huấn Cao cho chữ quản ngục giúp anh (chị) cảm nhận được tính cách
tiêu biểu nào của Huấn Cao và quản ngục?
HS tái hiện, khái quát: Huấn Cao không chỉ là nghệ sĩ thư pháp tài ba
mà còn là con người hiên ngang, bất khuất đầy dũng khí, đặc biệt con người
ấy có tấm lòng yêu quí cái thiện, cảm động trước “thiên lương”. Ngục quan
tuy không làm nghệ thuật nhưng lại có tâm hồn nghệ sĩ – biết say mê và quí
trọng cái đẹp, sùng kính Huấn Cao – người sáng tạo cái đẹp, hiện thân của
“thiên lương”….
*Hoạt động 3: Tổng kết
GV nêu vấn đề yêu cầu HS suy nghĩ, khái quát: Nói đến Nguyễn Tuân
người ta thường cho rằng: Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám là nhà
văn có tư tưởng duy mĩ và quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Từ việc tìm
hiểu, phân tích hai nhân vật quản ngục, Huấn Cao và đặc biệt qua phân tích
nhân vật Huấn Cao trong truyện anh (chị) có đồng ý với ý kiến trên không?
Vì sao?
GV yêu cầu HS tái hiện và tổng hợp: Nhận xét về “Chữ người tử tù”
không ít nhà nghiên cứu cho rằng đây là tác phẩm kết tinh thành công nghệ
thuật của Nguyễn Tuân trước Cách mạng. Theo anh (chị) những thành công
về nghệ thuật của truyện này biểu hiện trên những phương diện nào, hãy lí
giải ngắn gọn?
Thực hiện thảo luận nhóm: Nhóm 1 và 2 thảo luận câu 1, nhóm 3 và 4
thảo luận câu 2. Thời gian thảo luận trong 5 phút, sau đó nhóm cử đại diện
47
trình bày trước lớp cho bạn bè nghe, nhận xét, bổ sung; GV theo dõi, động
viên, khích lệ HS thảo luận, kịp thời tác động điều chỉnh, nghe, nhận xét đánh
giá kết quả thảo luận.
Việc thảo luận cần đạt đến yêu cầu cơ bản sau về nội dung kiến thức:
Nhóm 1 và 2:
+ Có thể hiểu “tư tưởng duy mĩ” và “quan điểm nghệ thuật vị nghệ
thuật” là quan niệm cái đẹp thuần túy không có khuynh hướng tư tưởng, bất
chấp nội dung, đứng trên mọi thiện ác ở đời….
+ Trong truyện Huấn Cao không chỉ là người có tài mà còn có tâm, có
“thiên lương” cao đẹp; ông vừa có thái độ hiên ngang, bất khuất không sợ cái
chết, coi khinh tiền bạc phi nghĩa vừa có tấm lòng yêu quí cái thiện, cảm động
trước “thiên lương” của ngục quan (sẵn lòng cho chữ khi hiểu rõ thiện căn và
sở thích cao quí của ông ta); biết sợ cái việc thiếu chút nữa mình “phụ mất
một tấm lòng trong thiên hạ”. Đó là hai mặt thống nhất trong một nhân cách
lớn. Như vậy, quan điểm của Nguyễn Tuân đã được bộc lộ, cái tài phải đi đôi
với cái tâm, cái đẹp và cái thiện không thể tách rời – một quan điểm thật tiến
bộ …
Nhóm 3 và 4: Truyện ngắn “Chữ người tử tù” đã cho ta thấy nghệ thuật
bậc thầy của Nguyễn Tuân trong:
+ Nghệ thuật xây dựng nhân vật – xây dựng được hai hình tượng nhân
vật có tính cách đặc sắc ….
+ Tạo không khí cổ xưa – chi tiết về người, về cảnh của “một thời vang
bóng”, ở những ngôn từ thời ấy, ở nhịp điệu chậm rãi của câu văn như gợi lên
nhịp sống thời xưa, ở tâm hồn nhà văn như sống lại với thời vang bóng …
+ Xây dựng tình huống truyện độc đáo dựa trên mối quan hệ éo le của
những tâm hồn tri kỉ, trong hoàn cảnh thật đặc biệt … làm bật sáng chủ đề
của truyện.
+ Ngôn ngữ giàu tính tạo hình (đoạn tả trời tối – đầu tác phẩm, cảnh
cho chữ …), có nhịp điệu vừa chập rãi, vừa cứng cỏi, nhưng cũng hết sức cảm
48
động ….
+ Thủ pháp đối lập (…) và nghệ thuật “vẽ mây nẩy trăng” góp phần thể
hiện chủ đề của truyện …
*Hoạt động 4: Luyện tập
1. Anh (chị) hãy trình bày cảm nghĩ sâu sắc nhất của mình về nhân vật
Huấn Cao (không cần nói đầy đủ về hình tượng Huấn Cao, chỉ nói điều mà
mình cho là ý nghĩa nhất).
2. Nhận xét về “Chữ người tử tù” có ý kiến cho rằng truyện ngắn này
đã thể hiện tinh thần dân tộc – lòng yêu nước thầm kín của Nguyễn Tuân, tuy
nhiên lại có ý kiến cho rằng cũng như cả tập truyện “Vang bóng một thời”
trong “Chữ người tử tù” phần “dân tộc tính” không lấy gì làm lành mạnh lắm,
sau không khí cổ kính có vẻ “phong kiến” vẫn là con người cá nhân đang tìm
lối thoát về dĩ vãng.. Quan điểm của anh (chị) như thế nào về hai ý kiến trên?
3. Trong bản in lần đầu tiên của “Chữ người tử tù” (Tạp chí Tao đàn,
số 1, ngày 1/3/1939) Nguyễn Tuân có thêm những câu sau đây vào đoạn kết
của truyện: “Viên quản ngục nhìn mặt chữ khô lần lần. Y sung sướng vì được
dòng chữ quí giá. Y tự nhủ: tất cả nghề nghiệp ta và có lẽ cả đời ta nữa, lãi chỉ
ở chỗ xin được chút kỉ niệm này. Nhưng, một tình buồn mênh mông đã len
vào lòng sung sướng của quản ngục …Ít hôm nữa … Pháp trường trong Kinh
…”. Nhưng khi in thành sách “Vang bóng một thời”, tác giả lại bỏ đoạn văn
này. Theo anh (chị), vì sao tác giả lại bỏ đoạn văn đó?
*Hoạt động 5: Củng cố dặn dò
- Về nhà ôn và hoàn thành bài tập của bài học hôm nay.
Bài tập về nhà
Hãy thực hiện 2 trong 6 yêu cầu sau:
1. Anh (chị) hãy ghi lại những cảm nhận về những gì ý nghĩa nhất đối
với mình sau khi học “Chữ người tử tù” (ghi nhật kí).
2. Hãy nêu những nét phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Phân
49
tích truyện “Chữ người tử tù” để chứng minh cho phong cách tiêu biểu đó.
3. Anh (chị) hãy phân tích truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn
Tuân,
4. Huấn Cao là nhân vật lãng mạn mang vẻ đẹp của Nguyễn Tuân trong
“Chữ người tử tù”. Anh (chị) hãy phân tích những vẻ đẹp của nhân vật này.
5. Nhận xét về đoạn văn tả cảnh Huấn Cao cho chữ quản ngục có ý
kiến cho rằng đó là đoạn văn kết tinh tư tưởng và nghệ thuật sâu sắc của tác
phẩm. Anh (chị) hãy phân tích đoạn văn để minh chứng cho nhận định trên.
6. Nhận xét về các nhân vật trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” của
Nguyễn Tuân, nhà nghiên cứu Văn Tâm cho rằng: “Tam vị nhân vật – nhất
thể Nguyễn Tuân”, anh (chị ) hãy bình luận ý kiến trên.
- Chuẩn bị bài mới bài “Luyện tập thao tác lập luận so sánh” (GV
chuyển một số gợi ý cho HS về nhà chuẩn bị)
2.3.2. Đọc – hiểu văn bản “Chữ người tử tù” theo hướng dẫn của TS
Nguyễn Trọng Hoàn
I. GỢI DẪN
1. Nguyễn Tuân (1910) quê làng Mọc, huyện Từ Liêm, nay thuộc Nhân
Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội, là nhà văn có tài năng và tài hoa đặc biệt
của văn học Việt Nam. Nguyễn Tuân sinh ra trong một gia đình nhà nho vào
thời buổi Hán học đã lụi tàn, chịu ảnh hưởng từ một người cha là một nhà nho
tài hoa bất đắc chí – ông tú Nguyễn An Lan…
2. Chữ người tử tù là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách nghệ
thuật Nguyễn Tuân trước Cách mạng. Truyện ngắn này có một tình huống
truyện rất độc đáo. Huấn Cao là một tử tù nhưng lại là một người đại diện cho
thiên lương, là một nghệ sĩ ban phát cái đẹp. Viên quản ngục là người đại diện
cho chính quyền nhưng lại là người được nhận cái đẹp từ người tử tù. Huấn
Cao và viên quản ngục là hai hình tượng nghệ thuật đẹp của Nguyễn Tuân.
3. Đọc lướt văn bản một lượt, chú ý các chú thích từ cổ. Cần phân biệt
50
giọng kể và lời thoại
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Tình huống độc đáo của truyện là hai nhân vật Huấn Cao và quản
ngục trên bình diện xã hội họ hoàn toàn đối lập nhau. Một người là tên “đại
nghịch”, cầm đầu cuộc nổi loạn nay bị bắt giam, đang chờ ngay ra pháp
trường để chịu tội; còn một người là quản ngục, kẻ đại diện cho cái trật tự xã
hội đương thời. Nhưng họ đều có tâm hồn nghệ sĩ. Trên bình diện nghệ thuật,
họ là tri âm, tri kỉ với nhau. Tạo dựng tình thế như vậy, đồng thời cho họ gặp
nhau giữa chốn ngục tù, tối tăm nhơ bẩn, tạo nên một cuộc kì ngộ đáng nhớ.
2. Vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao
Huấn Cao là một người tài hoa siêu việt, đầy uy lực. Ông có tài viết
chữ, chữ ông “đẹp và vuông lắm”. Nó nức tiếng khắp vùng tỉnh Sơn. Nó
khiến cho viên quản ngục say mê đến mê muội, ngày đêm mong có được chữ
của ông để treo trong nhà.
Khí phách hiên ngang, bất khuất. Huấn Cao là một trang anh hùng,
dũng liệt. Huấn Cao là một kẻ “đại nghịch” đã đành, ngay cả khi bắt đầu đặt
chân vào nhà lao này, ông vẫn giữ được cái thế hiên ngang. Sự ngang tàng
của Huấn Cao còn thể hiện thái độ không qụy lụy trước cường quyền và tù
ngục nữa.
Huấn Cao còn là một người có “thiên lương” trong sáng và cao đẹp. Nó
thể hiện ở thái độ tôn trọng trước một nhân cách cao đẹp (viên quản ngục),
trước một người nghệ sĩ có cái sở nguyện trong sáng. Ông sẵn sàng cho chữ,
sẵn sàng chia sẻ những lời gan ruột chân thành với viên quản ngục trước khi
vào thành thụ án. Đó là sự ứng xử đáng trọng của một nhân cách cao cả.
Qua hình tượng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân muốn bày tỏ những
quan niệm của mình về cái đẹp. Trong truyện, Huấn Cao được xây dựng
không chỉ là người có tài có tâm, bất khuất, coi thường cái chết và tiền bạc mà
có tấm lòng yêu quý cái thiện, mềm lòng trước tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”
của viên quản ngục (sẵn lòng cho chữ khi hiểu rõ thiện căn và sở thích cao
51
quý của ông ta) và thậm chí còn biết sợ cái việc chút nữa “phụ mất một tấm
lòng trong thiên hạ”. Như vậy trong quan điểm của Nguyễn Tuân, cái tài phải
đi đôi với cái tâm. Cái đẹp và cái thiện không thể tách rời nhau. Đó là một
quan niệm tiến bộ của tác giả.
3. Vẻ đẹp của nhân vật quản ngục
Quản ngục là một người làm nghề trông coi nhà tù, là công cụ trấn áp
của bộ máy thống trị đương thời, nhưng viên quản ngục lại có thú chơi thanh
cao, tao nhã – thú chơi chữ. Ngay từ khi còn trẻ, khi mới “biết đọc vỡ nghĩa
sách thánh hiền ”, ông đã có cái sở nguyện “một ngày kia được treo ở nhà
riêng của mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết”.
Song viên quản ngục lại là người biết trân trọng giá trị con người. Điều
đó thể hiện rõ qua hành động “biệt đãi” của ông đối với Huấn Cao – một kẻ tử
tù đại nghịch.
Ngục quan có cái sở nguyện thanh cao, muốn có được chữ của Huấn
Cao để treo đã bất chấp hiểm nguy, cùng thái độ thành kính đón nhận chữ từ
tay Huấn Cao, cho thấy viên quản ngục là một người có tấm lòng “biệt nhỡn
liên tài”, là người biết trân trọng những giá trị văn hóa.
Qua diễn biến nội tâm, hành động và cách ứng xử của viên quản ngục,
nhà văn cho thấy đây cũng là một nhân cách đẹp, một “tấm lòng thiên hạ” tri
âm, tri kỉ với Huấn Cao. Đó là “một âm thanh trong trẻo chen vào giữ một
bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.
Có thể nói, viên quản ngục là một người biết giữ “thiên lương”, biết
trân trọng giá trị văn hóa và tài năng, là người có tâm hồn nghệ sĩ, không có
tài nhưng yêu tài, không sáng tạo được cái đẹp nhưng biết yêu và trân trọng
thật lòng cái đẹp.
4. Cảnh cho chữ
Cảnh mà Nguyễn Tuân thỏa sức thể hiện khả năng sử dụng vốn ngôn từ
phong phú, sắc sảo của ông. Những lớp ngôn từ vừa trang trọng vừa cổ kính,
52
vừa sống động như có hồn, có nhịp điệu riêng, giàu sức truyền cảm. Thủ pháp
tương phản được sử dụng rộng rãi có hiệu quả làm nổi bật vẻ đẹp trang trọng,
uy nghi, rực rỡ hào quang bất tử của hình tượng nhân vật Huấn Cao.
Đây là một “cảnh chưa từng có”, vì:
Việc cho chữ vốn là một việc thanh cao, một hoạt động sáng tạo nghệ
thuật lại diễn ra trong một căn buồng tối tăm, chật hẹp, ẩm ướt, hôi hám của
nhà tù (tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián). Cái
đẹp lại được sáng tạo giữa chốn hôi hám, nhơ bẩn; thiên lương cao cả lại tỏa
sáng ở chính cái nơi mà bóng tối và cái ác đang ngự trị.
Người nghệ sĩ tài hoa đang say mê tô từng nét chữ không phải là người
được tự do mà là một kẻ tử tù đang trong cảnh cổ đeo gông, chân vướng
xiềng, và chỉ sớm tinh mơ ngày mai đã bị giải vào kinh chịu án tử hình. Trong
cảnh này, người tù thì nổi bật lên uy nghi, lồng lộng, còn quản ngục, thơ lại
(những kẻ đại diện cho quyền thế) thì lại “khúm úm”, “run run” bên cạnh
người tù đang bị gông xiềng kia…
Trật tự, kỉ cương trong nhà tù hoàn toàn bị đảo ngược: tù nhân trở
thành kẻ ban phát cái đẹp, răn dạy ngục quan; còn ngục quan thì khúm núm,
vái lại tù nhân.
Thì ra, giữa chốn ngục tù tăm tối, không phải những kẻ đại diện cho
quyền lực thống trị làm chủ mà là người tử tù làm chủ. Đó là sự chiến thắng
của ánh sáng với bóng tối, của cái đẹp đối với cái xấu xa, nhơ bẩn, cái thiện
đối với cái ác,… Đó là sự tôn vinh cái đẹp, cái thiện và nhân cách cao cả của
con người bằng một bức tranh nghệ thuật đầy ấn tượng.
5. Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân
Được thể hiện ở chỗ nhà văn luôn tiếp cận đối tượng từ văn hóa thẩm
mĩ. Ông đặc biệt chú ý đến cái tài và cái tâm của nhân vật. Trước Cách mạng
nhà văn đặc biệt chú ý đề cao cái đẹp, nhất là những nét đẹp văn hóa truyền
thống.
Quan điểm nghệ thuật của nhà văn được tập trung thể hiện ở nhân vật
53
Huấn Cao. Qua nhân vật này, nhà văn đề cao vẻ đẹp của tài năng, thiên lương
và khí phách. Huấn Cao là sự kết hợp hoàn mĩ giữa tài và tâm. Còn nhân vật
viên quản ngục là một minh chứng của nhà văn về sức mạnh cảm hóa của cái
đẹp. Người sáng tạo ra cái đẹp là người tài và người biết sáng tạo ra cái đẹp
cũng là người có thiên lương.
III. LIÊN HỆ
1.Những nhà văn có phong cách đều tạo ra cho mình một thế giới nhân
vật riêng. Thế giới nhân vật của Nguyễn Tuân, nói chung gồm hai loại người
đối lập nhau: loại người tài hoa nghệ sĩ có nhân cách, có “thiên lương”, tự đặt
mình lên trên hạng người thứ hai gồm những kẻ tiểu nhân phàm tục, bằng thái
độ ngạo đời, khinh bạc. Loại người thứ nhất, theo Nguyễn Tuân, thường là
những linh hồn đẹp còn sót của một thời gian đã qua, nay chỉ còn “vang
bóng”. Loại người ấy cố nhiên là hiếm hoi. Còn kẻ tiểu nhân phàm tục thì đầy
rẫy trong thiên hạ.
Chữ người tử tù dựng lên một thế giới tối tăm, tù ngục, trong đó kẻ tiểu
nhân, bọn độc ác bất lương làm chủ. Trên cái tăm tối ấy, hiện lên ba đốm sáng
lẻ loi, cô đơn: Huấn Cao, người quản ngục và viên thơ lại – những con người
có tài và biết trọng tài, có nghĩa khí và biết trọng nghĩa khí. Họ tình cờ gặp
nhau trong một tình thế oái ăm, từ chỗ ngờ vực nhau, đối địch nhau, dần dần
đi đến hiểu nhau và trở thành tri kỉ.
Ba đốm sáng cô đơn ấy cuối cùng tụ lại, tạo thành ngọn lửa ngùn ngụt
rực sáng giữa chốn ngục tù – “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Cái
đẹp, cái tài, sự trong sạch của tâm hồn đã tập hợp họ lại giữa cái nơi xưa nay
chỉ có gian ác, thô bỉ và hôi hám: “ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu
rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn
lần hồ”.
Đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái tài, cái đẹp
đối với cái nhem nhuốc, tục tằn, của thiên lương đối với tội ác…
(Nguyễn Đăng Mạnh, Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà
54
văn, NXB Giáo dục, 1994)
2. Con người nghệ sĩ, nghệ sĩ thực sự, nghệ sĩ xứng tên, dấu ấn chính ở
điểm đó. Theo tôi nghĩ, hãy gạt sang bên trường hợp liên quan đến cá nhân tôi
cho dễ nói, Nguyễn Tuân yêu văn chương say mê trân trọng biết ngần nào.
Không chỉ như một điểm tô mà như một phần cốt lõi của chính chân lí cuộc
đời. Yêu văn chương, Nguyễn Tuân rất phải yêu chữ nghĩa, yêu tiếng nói của
dân tộc, yêu dân tộc, yêu con người. Tình yêu ấy khi được rọi sáng để hướng
tụ về một mục tiêu chân chính cao đẹp, thì vang vọng của nó vào văn học
ngày càng sâu bề rực rỡ xiết bao.
(Bùi Hiển, tuyển tập, tập II, NXB Văn học 1997)
2.4. Một vài nhận xét về cách hướng dẫn đọc - hiểu tác phẩm “Chữ người
tử tù” trong SGK, SGV, sách tham khảo
Trong các tài liệu hướng dẫn đọc hiểu (SGK, SGV, STK) là những
định hướng cơ bản bổ ích và cần thiết cho GV cũng như HS khi tìm hiểu văn
bản. Nhìn chung các tài liệu trên đều tập trung ở các vấn đề như:
Ở tình huống truyện, đây là một tình huống đầy kịch tính: cuộc gặp gỡ
oái oăm giữa Huấn Cao và quản ngục. Huấn Cao là “giặc’ của triều đình –
quản ngục là quan của triều đình. Bên cạnh đó thì không gian và thời gian
diễn ra cuộc gặp gỡ này cũng rất khác thường. Không gian chính là nhà tù,
nơi mà cái ác, cái xấu đang tồn tại chứ không phải là nơi dành cho những
cuộc gặp gỡ, càng không phải là nơi để cho chữ… Còn thời gian là những
ngày cuối cùng trước khi pháp trường của Huấn Cao.
Về nhân vật Huấn Cao, các tài liệu trên đều tập trung phân tích ở ba
phương diện: con người có khí phách hiên ngang; người nghệ sĩ tài hoa và
người có thiên lương trong sáng. Qua đó để thấy được quan điểm thẩm mĩ,
tiến bộ, sâu sắc của Nguyễn Tuân về con người, về nghệ thuật, về sứ mệnh
thiêng liêng của người nghệ sỹ giữa cuộc đời. Ông khẳng định rằng: cái đẹp
đích thực không bao giờ có thể chung với cái ác và người nghệ sỹ chân chính
55
không chỉ cần có tài hoa mà phải có thiên lương và khí phách.
Về nhân vật quản ngục cũng là một người có thiên lương trong sáng,
thiên lương của quản ngục được thể hiện ở ở tình yêu, niềm say mê trân trọng
cái đẹp. Đồng thời quản ngục cũng là người có khí phách, bởi ông cũng là
người biết trọng người tài, ngưỡng mộ một đấng anh hùng “chọc trời khuấy
nước”, hay như hành động dám biệt đãi tử tù, dám đứng lên đấu tranh với
những bất công của xã hội…
Còn ở cảnh cho chữ được nhận định là một cảnh xưa nay chưa từng có.
Vì không gian và thời gian cũng như vị trí, tư thế của người cho chữ cũng như
kẻ xin chữ hoàn toàn không bình thường. Bút pháp nghệ thuật ở cảnh cho chữ
mang đậm yếu tố đối lập tương phản…
Trong luận văn của thạc sĩ Trần Quốc Khả chỉ đi sâu vào việc đọc –
hiểu tác phẩm thông qua tổ chức đối thoại. Còn về cách đọc – hiểu của TS
Nguyễn Trọng Hoàn là đọc lướt văn bản một lượt, chú ý các từ cổ khi khắc
họa nhân vật trong lúc đọc. Cần phân biệt giọng kể và lời thoại.
Tuy nhiên hoạt động đọc cụ thể với các kĩ năng như đọc tìm hiểu cấu
trúc ngôn từ; đọc tầng cấu trúc hình tượng nhân vật; tư tưởng thẩm mĩ, ý vị
nhân sinh của tác phẩm chưa được các tác giả làm sáng rõ. Việc sử dụng các
kĩ năng đọc nào các tác giả cũng chưa gọi tên một cách cụ thể.
Vì vậy trong luận văn này, chúng tôi sẽ trình bày một số biện pháp
nhằm rèn luyện kĩ năng đọc – hiểu tác phẩm “Chữ người tử tù”. Hiểu tác
phẩm thông qua hoạt động đọc là chính. HS phải đọc nhiều lần, được rèn
luyện các kĩ năng đọc. Ngoài ra trong quá trình đọc còn kết hợp với hệ thống
câu hỏi, bình giá để hiểu văn bản.
2.5. Cách thức định hướng, tổ chức rèn luyện kĩ năng đọc - hiểu tác phẩm
“Chữ người tử tù” trong chương trình chuẩn lớp 11
2.5.1. Cung cấp thêm tri thức đọc - hiểu tác phẩm “Chữ người tử tù”
2.5.1.1. Tri thức về con người và cuộc đời Nguyễn Tuân (phát phiếu cho HS
tìm hiểu trước ở nhà)
a. Cuộc đời
Nguyễn Tuân (1910 - 1987), quê ở làng Nhân Mọc, thôn Thượng Đình,
56
nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông sinh ra trong
một gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn. Cụ thân sinh là một tú tài giỏi Hán
học nhưng bất đắc chí vì lẽ thời. Người cha tài hoa có ảnh hưởng rất lớn đến
Nguyễn Tuân.
Trước Cách mạng: Nguyễn Tuân học tới bậc thành chung (tương
đương cấp trung học cơ sở hiện nay) thì bị đuổi vì tham gia bãi khóa, ông
cũng đã hai lần bị Pháp bắt giam: một lần vì tội “Xê dịch” trái phép qua biên
giới, một lần vì giao du với những người hoạt động chính trị. Năm 1938,
Nguyễn Tuân bắt đầu nổi tiếng trong làng văn với các tác phẩm “Một chuyến
đi” (Tùy bút), “Vang bóng một thời” (Truyện ngắn).
Cách mạng Tháng tám thành công, Nguyễn Tuân nhiệt tình tham gia
kháng chiến, góp phần xây dựng nền văn hóa mới. Ông từng giữ chức thư kí
Hội nhà văn Việt Nam. Sau hòa bình, Nguyễn Tuân sống ở Hà Nội và tiếp tục
viết văn và mất năm 1987. Năm 1996 Nguyễn Tuân được nhà nước trao tặng
giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
b. Con người
Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ tài hoa uyên bác. Ông am hiểu tường tận,
sâu sắc nhiều ngành nghệ thuật: hội họa, điện ảnh, sân khấu, điêu khắc, âm
nhạc… và có vốn tri thức văn hóa sâu rộng. Vì thế, Nguyễn Tuân có thể vận
dụng một cách sáng tạo ngôn ngữ và thủ pháp của nhiều ngành nghệ thuật
khác nhau vào việc viết văn. Ông được coi là một nghệ sĩ điêu luyện trong
nghệ thuật ngôn từ, một diễn viên kịch có tài và còn là một trong diễn viên
điện ảnh.
Nguyễn Tuân là người có ý thức mạnh mẽ và cá tính độc đáo. Ông
chủ trương khẳng định cái tôi cá nhân một cách cao độ (điều này có ý nghĩa
với những người làm công việc sáng tác văn chương). Nguyễn Tuân viết văn
trước hết là để khoe tài, để khẳng định mình nên luôn hướng tới sự tìm tòi,
khám phá cái mới lạ, riêng biệt. Trong lối sống, Nguyễn Tuân ưa độc lập,
thích tự do, phóng túng, không chịu những khuân khổ chật hẹp, khuân sáo
57
cũ mòn.
Nguyễn Tuân là một trí thức giàu lòng yêu nước và nặng tình dân tộc.
Ông thể hiện những tình cảm thiêng liếng ấy theo cách riêng của mình.
Đó là tấm lòng nâng niu, trân trọng các giá trị văn hóa lâu đời của dân
tộc. Nguyễn Tuân yêu, gìn giữ những kiệt tác văn chương của cha ông
(Nguyễn Du, Tản Đà, Tú Xương… ) những điệu hò, điệu ca trù…, những
danh lam thắng cảnh của đất nước.
Đó là tình yêu đắm say và yêu quí tiếng mẹ đẻ “mỗi khi cầm bút ướm
thử lên tờ giấy trắng trong tinh khiết Tôi thấy sung sướng đến vô ngần, sung
sướng đến chảy nước mắt, đến nỗi tưởng mình sẽ chết ngay nếu bị tước mất
quyền viết”.
Ông luôn đề cao giá trị của nghệ thuật chân chính, luôn tôn thờ cái đẹp
thanh cao, đối lập nó với thói vụ lợi, thực dụng của kẻ phàm tục.
2.5.1.2. Tri thức về phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân (phát phiếu cho
HS tìm hiểu trước ở nhà)
Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Ông
đã hình thành và khẳng định được một phong cách lớn: vừa độc đáo, đa dạng,
thống nhất.
a. Nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân là cái tôi tài
hoa uyên bác.
* Cái nhìn tài hoa có khả năng khám phá, tiếp cận mọi đối tượng từ phương
diện thẩm mĩ.
Qua cái nhìn ấy, con người được khắc họa với tư chất tài hoa, tài tử, bất
kể tuổi tác, lai lịch, nghề nghiệp. Khi bước vào thế giới nghệ thuật của
Nguyễn Tuân họ đều trở thành nghệ sĩ trong lĩnh vực của mình.
Đó là người trồng hoa gọt củ, áp đèn phơi sương, trồng hoa thủy tiên
tài hoa đến mức đúng vào lúc chuông đồng hồ điểm 12 tiếng đêm giao thừa
thì những cánh hoa đầu tiên cùng lúc nở. Hay khi nói về người uống trà, tác
giả cho thấy sự tinh diệu trong nghệ thuật uống trà của họ đạt ới mức cảm
58
nhận được cả tạp vị của vài mảnh trấu lẫn trong những lần ngồi bình trà. Hoặc
khi khắc họa người lái đò xuôi ngược trên sông nước mưu sinh nhưng ông đã
biến công việc chèo thuyền vượt thác của người lái đò trở thành một nhà chỉ
huy quân sự tài ba.
Qua cái nhìn tài hoa của Nguyễn Tuân, thiên nhiên hiện lên như một
công trình mĩ thuật tuyệt vời của tạo hóa. Khi miêu tả dòng sông Đà hùng vĩ
và thơ mộng, Nguyễn Tuân cảm nhận nó như một áng tóc trữ tình (tuôn dài,
tuôn dài), đầu tóc ẩn vào mây trời Tây Bắc bung nỏ hoa ban, hoa gạo…Nhất
là nói về một vùng biển Cô Tô vừa lộng lẫy vừa tinh khiết với màu xanh như
màu áo của chàng Kim Trọng trong tiết thanh minh.
Khi viết về các loài hoa, ông ưa thích hoa lan, hoa thủy tiên vì để có
được những bông hoa ấy con người và tự nhiên đã dồn vào đó bao nhiêu tâm
huyết, bao nhiêu ưu ái.
Nhìn một hạt ngọc trai, Nguyễn Tuân không nhìn (nơi ngón, nơi cổ)
người ta mà nhìn sâu vào hành trình âm thầm lặng lẽ dưới lòng biển cả để
khám phá quá trình sinh thành cái đẹp. Hạt ngọc trai trở thành biểu tượng cho
sự sinh thành cái đẹp.
Thậm chí ngay cả khi viết về miếng ăn, điều mà người đời thường coi
rẻ - thì Nguyễn Tuân cũng nhìn từ góc độ thẩm mĩ. Ông biến những miếng ăn
bé mọn tầm thường trở thành sự kết tinh của cả một nền văn hóa ẩm thực.
(Phở, Giò).
Ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân chạm vào sự vật nào thì sự vật ấy sẽ
thăng hoa trong cảm xúc của cái đẹp.
* Cái tôi của Nguyễn Tuân còn là cái tôi uyên bác.
Nguyễn Tuân luôn am hiểu tường tận, sâu sắc các đối tượng của mình.
Ông khai thác các đối tượng từ các phương diện (địa lí, lịch sử, văn hóa, hội
họa, âm nhạc….).
Ông có khả năng miêu tả đối tượng bằng con mắt của nhiều ngành nghệ
59
thuật và khoa học (hội họa, điêu khắc, điện ảnh…) Tả một cây cầu Nguyễn
Tuân phải đếm được từng nhịp cầu, phải tường tận lai lịch của nó từ khi đón
những bước chân đầu tiên qua lại giữa đôi bờ.
Viết về con ong, Nguyễn Tuân mang lại cho người những thông tin cụ
thể, thú vị. Ông cho biết ½ lít mật có 5 vạn thứ phấn hoa, có 8 triệu cây số của
những đường bay ông thợ.
Viết về sông Đà, Nguyễn Tuân thông thuộc từ màu nước mỗi mùa, từ
những con thác đến những cạm bẫy ẩn sâu trong bãi đá ngầm..
Nhờ nét tài hoa, uyên bác ấy và mà những trang viết của Nguyễn Tuân
luôn có sức cuốn hút mạnh, mang đến cho người đọc những phát hiện mới
mẻ, độc đáo, sâu sắc về cuộc sống.
b. Ngòi bút Nguyễn Tuân rất giàu cảm hứng lãng mạn.
Nguyễn Tuân đặc biệt ưa thích những gì gây cảm giác mạnh, những gì
để lại ấn tượng trong tâm hồn con người. Ông thường tìm cảm hứng sáng tạo
từ những con người và cảnh vật phi thường.
Nguyễn Tuân cũng ưa dùng những hình ảnh tương phản, thường đẩy
những tính chất đối lập trong nhân vật, hiện tượng, con người lên đến tận
cùng cảm giác. Điều này khiến cho những gì Nguyễn Tuân mô tả thường khắc
sâu in đậm trong tâm trí người đọc (cảnh cho chữ, hai tính cách của Sông Đà).
Khi dựng cảnh cho chữ, Nguyễn Tuân tô đậm sự tương tác giữa nơi cho chữ
(ngục tù tăm tối, nhơ nhuốc, bẩn thỉu) và sự việc cho chữ (trong trẻo, thanh
khiết của cái đẹp: tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ, mùi thơm của “chậu
mực mới”). Khi nói đến sông Đà, tác giả vừa cảm nhận được sự dữ tợn, hung
bạo như một loài thủy quái khổng lồ, kẻ thù số một của con người – Có lúc lại
thấy nó hiền hòa, đằm thắm như một cố nhân. Còn nói về quá trình sinh thành
một hạt ngọc trai cũng hiện lên qua sự đối lập đau đớn, âm thầm trong lòng
trai bể và các lấp lánh của trai ngọc sáng ngời.
c. Phong cách tự do, phóng túng.
Nguyễn Tuân tìm đến thể tùy bút như thể đó là mảnh đất của riêng
60
mình: vì đây là một thể văn tự do, phóng túng cho phép người viết thoải mái
bộc lộ cái tôi chủ quan (rất hợp với cái “tạng” riêng của Nguyễn Tuân – người
nghệ sĩ chỉ ưa lối độc tấu và sự xê dịch).
Tùy bút của Nguyễn Tuân không bị ràng buộc bởi trật tự của thời gian,
không gian. Mạch văn của ông tự do phóng túng nhưng vẫn chặt chẽ, vẫn
được xâu chuỗi vào sợi dây cảm xúc, những ý tưởng mới mẻ và sâu sắc.
d. Nguyễn Tuân – một nhà văn bậc thầy trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ.
Nguyễn Tuân sử dụng một cách điêu luyện vốn ngôn ngữ phong phú
của tiếng Việt. Tả một hạt cát lọt vào lòng trai biển, Nguyễn Tuân có thể tìm
được rất nhiều những từ ngữ khác nhau: Hạt xót, hạt đau, hạt buốt sắt, hạt cà,
hạt bụi bặm nơi rốn bể, hạt cát khơi tình người… Mô tả màu sắc của nước
biển Cô Tô, Nguyễn Tuân có thể gợi ra mọi tâm tưởng bao nhiêu là màu
xanh: xanh nước biển, xanh da trời, xanh lá mạ, xanh ngọc bích, xanh lá chuối
non, lá chuối già…
Không chỉ thế Nguyễn Tuân còn góp phần làm giàu có Tiếng Việt mẹ
đẻ bằng sự sáng tạo độc đáo của mình. Ông tạo nên cả một hệ thống các từ
ngữ, hình ảnh mới lạ. Tả nắng trên Sông Đà – Ông gọi đấy là nắng Đường thi
“yên hoa Tam Nguyệt há Dương Châu” (nắng mùa xuân óng vàng đang tãi ra
trên sông nước). Tả niềm vui: “như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm ” “vui
như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Nguyễn Tuân còn sáng tạo những câu văn
tràn đầy chất nhạc, chất họa, chất thơ. Các vế câu trùng điệp linh hoạt như thể
từ ngữ cũng biết (co duỗi nhịp nàng).
2.5.2. Định hướng, tổ chức cho học sinh đọc - hiểu hình tượng nhân vật
2.5.2.1. Định hướng, tổ chức cho học sinh đọc hiểu hình tượng nhân vật Huấn Cao
Hình tượng thẩm mĩ trong tác phẩm bao gồm hình tượng nhân vật; hình
tượng chữ; hình tượng không gian; hình tượng thời gian và hình tượng thiên
nhiên. Do đây là một tác phẩm tự sự được viết theo bút pháp lãng mạn, nên
hình tượng thẩm mĩ trung tâm chủ yếu là hình tượng nhân vật. Còn các hình
tượng thiên nhiên, thời gian…. được miêu tả mang tính chất làm nền cho
61
nhân vật, góp phần tô đậm cho nhân vật nổi hình nổi ảnh. Bởi vậy khi đọc
hiểu tầng hình tượng thẩm mĩ ở tác phẩm này chúng tôi chỉ giới hạn đọc hiểu
hai hình tượng nhân vật: Huấn Cao và quản ngục.
a. Rèn luyện kĩ năng đọc chính xác
* Thống kê những câu văn chứa đựng yếu tố khắc họa hình tượng nhân vật
Huấn Cao.
* Tiến hành đọc chính xác những câu văn đó.
Bước 1: Đọc đúng chính tả ở các từ ngữ theo chuẩn về ngữ âm khi nói
về hình tượng Huấn Cao.
Bước 2: Đọc nhấn giọng ở các từ ngữ then chốt trong việc biểu cảm và
thể hiện vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao.
Câu 1: “Huấn Cao? Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen là
có tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó không?”. Đọc với giọng băn khoăn,
ngờ vực; nhấn ở các từ thể hiện ca ngợi vẻ đẹp tài hoa của nhân vật Huấn
Cao: “Tài viết chữ nhanh và đẹp”.
Câu 2: “Thầy có nghe người ta đồn Huấn Cao, ngoài cái tài viết chữ
tốt, lại còn có tài bẻ khóa và vượt ngục nữa không”. Đọc với giọng băn
khoăn, thán phục; nhấn các từ ca ngợi vẻ đẹp cả tài và khí phách của Huấn
Cao: “Tài viết chữ… tài bẻ khóa”.
Câu 3: “Chữ ông Huấn đẹp lắm, vuông lắm”.Đọc với giọng ca ngợi đầy
lí tưởng; nhấn từ: “đẹp lắm, vuông lắm”.
Câu 4: “Dạ bẩm, thế ra y văn võ đều có tài cả. Chà chà!”. Đọc với
giọng khen ngợi, ngưỡng vọng; nhấn ở các từ: “văn võ đều có tài”, “Chà
chà!”.
Câu 5: “Ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn tụt xuống phía trời không
định” và “Bấy nhiêu âm thanh….nâng đỡ lấy ngôi sao chính vị muốn từ biệt
vũ trụ”. Đọc với giọng chậm rãi, nhẹ nhàng, sâu lắng; nhấn ở các từ: “Ngôi
sao Hôm”, “Ngôi sao chính vị”.
Câu 6: “Huấn Cao, lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc
62
mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Đọc với
giọng to, dõng dạc, dứt khoát toát nên sức mạnh của “nhân vật; nhấn ở các từ:
“lạnh lùng” “thúc mạnh”, “thuỳnh một cái”.
Câu 7: “Thản nhiên nhận rượu thịt – coi như một việc làm trong cái
hứng sinh bình”. Đọc với giọng thanh thản, ung dung, điềm tĩnh; nhấn ở các
từ “thản nhiên”, “hứng sinh bình”.
Câu 8: “Ngươi hỏi ta muốn gì ? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà người
đừng đặt chân vào đây”. Đọc với giọng ngang tàng, khinh bạc kẻ cậy quyền
thế; nhấn ở các từ “nhà người”, “đừng đặt chân vào đây nữa”.
Câu 9: “Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. Đọc
với giọng khẳng định và ca ngợi; nhấn ở các từ “khoảnh”, “tri kỉ”, “ít chịu
cho chữ”.
Câu 10: “Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung
đường cho ba người bạn thân của ta thôi”, “Suýt nữa ta phụ một tấm lòng
trong thiên hạ”. Đọc với giọng thân thiết, ân hận; nhấn ở các từ ““hai bộ tứ
bình”, “bức trung đường”, “ba người bạn thân”, “phụ một tấm lòng”.
Câu 11: “Cổ đeo gông, chân vướng xiềng..đậm tô nét chữ...vuông”.
Đọc với giọng chậm rãi, trang trọng; nhấn ở các từ “đeo gông”, “vướng
xiềng”, “đậm tô”.
Câu 12: “Nét chữ tươi tắn nói lên hoài bão tung hoành cuả đời người”.
Đọc với giọng triết lí; nhấn mạnh “nét chữ tươi tắn”, “hoài bão tung hoành”.
Câu 13: “Tôi bảo thực đấy…. đời lương thiện”. Đọc với giọng khuyên
nhủ chân thành; nhấn ở các từ “nên thay chốn ở đi”, “tôi bảo thực đấy”, “hãy
thoát khỏi nghề này”, “hãy nghĩ đến chơi chữ”, “khó giữ thiên lương”, “nhem
nhuốc cái đời lương thiện”.
- Bước 3: Đọc chính xác về phát âm để cảm nhận nghĩa ban đầu của câu.
Câu 1: Khẳng định tài viết chữ của Huấn Cao.
Câu 2: Nói về tài viết chữ cũng như tài bẻ khóa vượt ngục của tử tù
Huấn Cao.
63
Câu 3: Ca ngợi chữ Huấn Cao vừa vuông vừa đẹp.
Câu 4: Khẳng định Huấn Cao là người văn võ song toàn.
Câu 5: So sánh Huấn Cao giống như ngôi sao Hôm, ngôi sao chính vị.
Câu 6: Hành động ngang tàng, mạnh mẽ của Huấn Cao trước lời đe dọa
của bọn lính coi ngục.
Câu 7: Khắc họa tư thế thản nhiên của Huấn Cao khi được quản ngục
“biệt đãi”.
Câu 8: Lời nói coi thường, khinh bạc của Huấn Cao đối với quản ngục.
Câu 9: Những đối tượng được Huấn Cao cho chữ.
Câu 10: Lời nói có phần ăn năn của Huấn Cao khi nhận thấy tấm lòng
“biệt nhỡn liên tài” của quản ngục.
Câu 11: Khắc họa tư thế viết chữ đặc biệt của Huấn Cao.
Câu 12: Khẳng định nét chữ cũng thể hiện hoài bão của đời người.
Câu 13: Khuyên quản ngục nên rời xa chốn xô bồ của ngục tù.
- Bước 4: Đọc chính xác về giọng điệu để cảm nhận thái độ, tình cảm
và sự hiểu biết của người nói.
Câu 1: Thể hiện sự băn khoăn, trăn trở.
Câu 2: Thái độ đề cao, ca ngợi.
Câu 3: Thái độ ca ngợi, ngưỡng mộ.
Câu 4: Thái độ ca ngợi, khẳng định.
Câu 5: Khẳng định
Câu 6: Ca ngợi sức mạnh của Huấn Cao.
Câu 7: Thái độ ung dung, thản nhiên.
Câu 8: Thái độ giận dữ, coi khinh.
Câu 9: Thái độ tự trọng, đề cao con người.
Câu 10: Thái độ ân hận, thiếu xót.
Câu 11: Thái độ ca ngợi.
Câu 12: Thái độ ca ngợi.
64
Câu 13: Thái độ phủ định.
- Bước 5: Đọc chính xác ở các từ ngữ có ý nghĩa nhấn mạnh để thấy
được chủ ý của người viết.
Câu 1: Chủ ý nhấn mạnh việc viết chữ của Huấn Cao chính là cái đẹp,
là nghệ thuật
Câu 2: Chủ ý nhấn mạnh tài năng viết chữ và bẻ khóa vượt ngục của
Huấn Cao.
Câu 3: Chủ ý nhấn mạnh chữ của Huấn Cao có vẻ đẹp tuyệt đỉnh.
Câu 4: Nhấn mạnh tài năng văn võ của Huấn Cao khiến cho những kẻ ở
chốn ngục tù cũng ngưỡng mộ.
Câu 5: Nhấn mạnh sự tỏa sáng cái đẹp của Huấn Cao.
Câu 6: Nhấn mạnh hành động ngang tàng của Huấn Cao.
Câu 7: Nhấn mạnh sự ung ung, đường hoàng của Huấn Cao giữa chốn
ngục tù.
Câu 8: Nhấn mạnh thái độ coi khinh của Huấn Cao đối với bọn tiểu nhân.
Câu 9: Nhấn mạnh tấm lòng trân trọng nghệ thuật của Huấn Cao.
Câu 10: Nhấn mạnh Huấn Cao là người coi trọng sự “thiên lương”.
Câu 11: Nhấn mạnh tài nghệ thuật viết chữ khác người của Huấn Cao.
Câu 12: Nhấn mạnh quan niệm của Huấn Cao về hoài bão của đời
người trong nghệ thuật chơi chữ.
Câu 13: Nhấn mạnh tấm lòng biết quí trọng những con người có “thiên
lương” của Huấn Cao.
b. Rèn luyện kĩ năng đọc phân tích
*Cắt nghĩa các từ ngữ, câu văn nói về hình tượng nhân vật Huấn Cao.
Ở các câu 1, 2, 3,4: Tác giả tập trung khắc họa tài hoa của Huấn Cao
qua lời của quản ngục và thầy thơ lại cũng như qua lời đồn của mọi người.
Nguyễn Tuân còn đẩy cái tài về nghệ thuật thư pháp của Huấn Cao lên đến
tuyệt đỉnh danh tiếng khiến một tên quản ngục sống trong đề lao đầy lừa lọc
và tàn nhẫn cũng phải mơ ước: “có được chữ ông Huấn mà treo trong nhà là
65
có được vật báu trên đời”.
Huấn Cao là một tử tù khác thường, văn võ đều tài cả. Nhất là tài năng
viết chữ thì tuyệt đỉnh, chữ của ông được tôn lên hàng vật báu.
Trong câu 5: Huấn Cao hiện lên có vai trò nâng đỡ những con người
nhỏ bé khác. Trước khi từ biệt vũ trụ ông như ngôi sao chính vị tỏa sáng cho
các ngôi sao xung quanh. Huấn Cao giống như một nhân vật kì diệu, khác
thường. Cái tài hoa; khí phách và thiên lương trong ông có sự linh thiêng kì
diệu, có sức mạnh huyền hoặc, cảm hóa con người đi lầm đường lạc lối.
Đối với các câu: 6, 7, 8: Khi được giải đến đề lao, Huấn Cao được hiện
lên qua hành động và thái độ. Nhất là trước lời đe dọa của bọn cai ngục, ông
vẫn hiên ngang, đường vệ, ung dung và “lạnh lùng rỗ gông”. Hành động của
kẻ coi thường luật pháp, nói lên bản lĩnh của một người chủ động giữa chốn
ngục tù…
Những ngày sống trong đề lao, cổ đeo gông, chân mang xiềng nhưng
ông vẫn ung dung áp đảo cả người cầm quyền. Trước sự biệt đãi của quản
ngục, Huấn Cao: “thản nhiên nhận rượu thịt – coi như một việc vẫn làm trong
cái hứng sinh bình”. Khi quản ngục ân cần hỏi, ông tỏ rõ thái độ khinh bạc:
“Ta chỉ muốn một điều là nhà người đừng có đặt chân vào đây”. Một thái độ
xem thường quyền thế, bạo lực.
Huấn Cao là một con người dũng cảm, hiên ngang, lẫm liệt, có khí
phách hiên ngang, bất khuất.
Còn các câu: 9, 10,13: Qua lời nói của quản ngục: “tính ông vốn
khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. Khi nghe được lời thổ lộ của thầy
thơ lại về mong ước của quản ngục, ông Huấn từng nói: “ta nhất sinh không
vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”, “Đời ta cũng
mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của
ta thôi”, “Suýt nữa ta phụ một tấm lòng trong thiên hạ”.
Như vậy Huấn Cao là một người luôn nâng niu, trân trọng cái đẹp cũng
66
như trân trọng ngưỡng mộ cái đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn con người. Ở đây
ông là một con người ngạo nghễ trước quyền thế, coi thường danh lợi nhưng
cũng rất cảm động trân trọng xiết bao một con người có “sở thích cao quí”.
Điều đó chứng tỏ Huấn Cao là một nghệ sĩ có bản lĩnh và nhân cách,
vượt lên những thông thường, không tuân theo khuôn mẫu, làm nghệ thuật
không phụ thuộc vào vật chất, không vì vàng ngọc … mà vì một tấm lòng.
Riêng câu 11, 12: Giữa chốn nhà ngục hôi hám bẩn thỉu vào lúc đêm
khuya, một con người cổ mang gông, chân mang xiềng nhưng lại hiện ra với
dáng vẻ tự do nhất. Một nghệ sĩ đang say sưa sáng tạo nghệ thuật. Ông đã viết
những nét chữ tuyệt đẹp. Mỗi nét chữ đều là sự hiện hữu của những khát khao
thầm kín mãnh liệt chất chứa trong tâm khảm của người viết.
*Cắt nghĩa nghệ thuật khắc họa nhân vật:
Với nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật mang dấu ấn của chủ nghĩa
lãng mạn, nhân vật chủ yếu mang nhiều yếu tố phi thường, được tô vẽ theo ý
đồ chủ quan của tác giả.
Nguyễn Tuân đã xây dựng tình huống độc đáo: sự gặp gỡ giữa tử tù và
quản ngục.
Tác giả còn sử dụng những từ Hán Việt rất đắt (pháp trường, tử tù, tử
hình, bộ tứ bình, bức trung đường, lạc khoản, thiên hạ, thiên lương …) tạo
màu sắc lịch sử, cổ kính, bi tráng cho nhân vật, gợi liên tưởng tới anh hùng
Cao Bá Quát – một con người tài hoa và khí phách cao cả.
Hay như nghệ thuật cường điệu (tiếng đồn về tài “bẻ khóa, vượt ngục”
của Huấn Cao, sự nhún nhường quá mức cuả quản ngục…); tương phản (thái
độ cao ngạo của Huấn Cao – sự kính nể e dè của quản ngục; nét đẹp tâm hồn
của kẻ tử tù và ngục quan – chốn ngục tù tàn bạo, xấu xa); đối lập (kẻ tử tù –
quan coi ngục; ánh sáng của “thiên lương” – bóng tối trong đề lao …) Huấn
Cao hiện lên với dáng vẻ của con người tự do, hội tụ vẻ đẹp của một nghệ sĩ
67
tài hoa, một con người có khí phách và thiên lương trong sáng.
c. Rèn luyện kĩ năng đọc sáng tạo
*Tổ chức cho HS đọc một cách trôi chảy những từ, câu tập trung khắc hoạ vẻ
đẹp của nhân vật.
*HS đọc diễn cảm bằng sự trải nghiệm, đọc nhập vai để chuyển hóa các từ
ngữ, câu văn từ dạng con chữ hiện lên bằng hình tượng.
d.Rèn luyện kĩ năng đọc tích lũy
* Đọc chậm, đọc sâu, đọc ngâm nga vừa đọc vừa thu nhận ngữ nghĩa của lớp
từ ngữ, câu văn khắc họa hình tượng nhân vật.
* Đọc trong sự so sánh, trong sự liên kết hệ thống văn bản hoặc trong hệ
thống tác phẩm. Đọc bằng cách đặt các từ ngữ, câu văn khắc họa hình tượng
nhân vật trong sự so sánh với các câu văn khác trong hệ thống văn bản, trong
hệ thống tác phẩm.
* Đọc chỉ ra ý vị nhân sinh qua hình tượng nhân vật.
Nguyễn Tuân ca ngợi tài hoa của Huấn Cao đồng thời bày tỏ quan niệm
tư tưởng và nghệ thuật của mình.Tác giả thể hiện sự kính trọng và ngưỡng mộ
những bậc tài hoa, trân trọng nghệ thuật thư pháp cổ truyền.
Còn qua việc ca ngợi thiên lương và khí phách của Huấn Cao, tác giả
muốn thể hiện một quan niệm nghệ thuật tiến bộ. Cái đẹp đích thực hoàn toàn
xa lạ với thói phàm tục; cái đẹp không bao giờ làm nô lệ cho quyền lực hay
tiền bạc.
Việc Huấn Cao cho chữ quản ngục là để cứu vớt một người lương
thiện ra khỏi đám bùn nhơ, cố gắng nâng đỡ một thiên lương cho lành vững.
Ở đây cái tài và cái tâm được hòa vào nhau; cái đẹp phải có khả năng chiến
thắng cái ác, cái xấu và có khả năng hóa giải con người.
Lời khuyên của Huấn Cao đối với quản ngục cho thấy: cái đẹp không
bao giờ có thể ở chung với cái ác.
Qua nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân cũng tỏ rõ một quan niệm sống
68
của mình. Người nghệ sĩ chân chính phải hội tụ: tài hoa, khí phách và thiên
lương. Đề cao con người có nhân cách, có tâm. Sống cần phải có một tấm
lòng và vì một tấm lòng.
2.5.2.2. Định hướng, tổ chức cho học sinh đọc hiểu hình tượng nhân vật quản ngục
a. Rèn luyện kĩ năng đọc chính xác
* Thống kê những câu văn chứa đựng yếu tố khắc họa hình tượng nhân vật
quản ngục.
* Tiến hành đọc chính xác những câu văn đó.
- Bước 1: Đọc đúng về chính tả ở các từ ngữ theo chuẩn về ngữ âm khi
nói về hình tượng quản ngục.
- Bước 2: Đọc nhấn giọng ở các từ ngữ then chốt trong việc biểu cảm
và thể hiện vẻ đẹp của hình tượng quản ngục.
Câu 1: “Một khuôn mặt nghĩ ngợi. Ngục quan băn khoăn bóp thái
dương. Người ngồi đấy, đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu… những
đường nhăn nheo cuả một bộ mặt tư lự đã biến mất hẳn. Ở đấy, giờ chỉ là mặt
nước ao xuân phẳng lặng, kín đáo, êm nhẹ”. Đọc với giọng suy tư, trăn trở,
nhẹ nhàng…; nhấn ở các từ “mặt nghĩ ngợi”, “băn khoăn”, “mặt tư lự”, “bằng
lặng, kín đáo..”.
Câu 2: “Trong hoàn cảnh đề lao… hỗn độn xô bồ”. Đọc với giọng
chậm rãi, đều; nhấn ở các từ “tàn nhẫn”, “tính cách dịu dàng”, “biết giá
người, biết trọng người”, “một âm thanh trong trẻo…hỗn loạn, xô bồ”.
Câu 3: “Có được chữ của ông Huấn mà treo là có được một vật báu ở
trên đời”. Đọc với giọng khát khao, mong mỏi; nhấn ở các từ “có được chữ”,
“vật báu trên đời”.
Câu 4: “Quản ngục nhìn sáu tên tử tù với cặp mắt hiền lành”, “việc
quan đã có phép nước. Các chú chớ nhiều lời”, “bảo ngục tốt quét dọn lại cái
buồng trong cùng”. Đọc với giọng chậm rãi, dứt khoát; nhấn ở các từ “cặp
69
mắt hiền lành”.
Câu 5: “Ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất”,
“xin lĩnh ý”, “khúm núm cất những đồng tiền đánh dấu ô chữ”. Đọc với giọng
nhẹ nhàng, khúm núm, khuất phục; nhấn ở các từ “chu tất”, “khúm núm”.
Câu 6: “biệt nhỡn liên tài”, “nào ta có biết đâu một người như thầy
quản ngục đây lại có sở thích cao quí như vậy”. Đọc với giọng ngạc nhiên và
cảm phục; nhấn ở các từ “biệt nhỡn liên tài” “sở thích cao quí”.
Câu 7: “Ngục quan cảm động, vái người tù một cái … “kẻ mê muội
này xin bái lĩnh”. Đọc với giọng trang trọng, từ tốn, xúc động, ngẹn ngào;
nhấn ở các từ “cảm động”, “vái”, “chắp tay”, «nước mắt rỉ”, “nghẹn ngào”,
“kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.
- Bước 3: Đọc chính xác về phát âm để cảm nhận nghĩa ban đầu của câu.
Câu 1: Khắc họa những suy nghĩ thầm kín của quản ngục.
Câu 2: Khẳng định tấm lòng thiên lương của quản ngục như một âm
thanh trong trẻo…
Câu 3: Khát vọng tha thiết có được chữ ông Huấn để treo trong nhà của
quản ngục.
Câu 4: Hành động “biệt đãi” của quản ngục dành cho Huấn Cao.
Câu 5: Thái độ lễ phép và hành động khúm núm của quản ngục trước
Huấn Cao.
Câu 6: Sự ngạc nhiên của Huấn Cao trước tấm lòng cao quí của quản ngục.
Câu 7: Hành động thể hiện lòng trân trọng, biết ơn của quản ngục đối
với Huấn Cao.
Bước 4: Đọc chính xác về giọng điệu để cảm nhận thái độ, tình cảm
của người nói.
Câu 1: Tâm trạng băn khoăn, suy tư.
Câu 2: Khẳng định vẻ đẹp bên trong của quản ngục.
Câu 3: Thái độ cảm phục.
Câu 4: Thái độ khuất phục trước cái đẹp.
70
Câu 5: Khẳng định, đề cao.
Câu 6: Thái độ khuất phục.
Câu 7: Thái độ khuất phục.
- Bước 5: Đọc chính xác ở các từ ngữ có ý nghĩa nhấn mạnh để thấy
được chủ ý của người viết.
Câu 1: Nhấn mạnh vẻ đẹp riêng của quản ngục so với bọn cai tù thông thường.
Câu 2: Nhấn mạnh quản ngục là người biết giữ thiên lương cho dù có ở
nơi mà con người dễ đánh mất thiên lương nhất.
Câu 3: Nhấn mạnh khát vọng, mong muốn có chữ của Huấn Cao treo
trong nhà của quản ngục.
Câu 4: Nhấn mạnh quản ngục là người dám chống lại cường quyền.
Câu 5: Nhấn mạnh quản ngục là người biết cúi đầu trước cái đẹp.
Câu 6: Nhấn mạnh quản ngục là người có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”.
Câu 7: Nhấn mạnh quản ngục là người biết cúi mình và khuất phục
trước cái đẹp, cái thiên lương.
b. Rèn luyện kĩ năng đọc phân tích
*Cắt nghĩa từ ngữ, câu văn nói về nhân vật quản ngục.
Các câu: 1,2:
Ngay từ khi xuất hiện, quản ngục đã mang đến cho người đọc một ấn
tượng khác lạ. Từ dáng vẻ bên ngoài của ông toát lên sự thầm lặng, hiền lành
(hoàn toàn trái ngược với dáng dấp thông thường của một viên chúa ngục mà
ta thấy là gian xảo, hiểm độc, dữ tợn, hung ác). Không phải ngẫu nhiên mà
Nguyễn Tuân tô đậm dáng vẻ trầm tư của con người này: “người ngồi đấy,
đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu… những đường nhăn nheo của một bộ
mặt tư lự đã biến mất hẳn. Ở đấy, giờ chỉ là mặt nước ao xuân phẳng lặng, kín
đáo, êm nhẹ”.
Chỉ bằng vài chi tiết, Nguyễn Tuân đã phác hoạ được chân dung của
một con người từng trải, trầm lặng và kín đáo. Dáng vẻ trầm lặng và nỗi băn
khoăn day dứt khi nhận phiến trát báo tin về người tử tù Huấn Cao khiến viên
71
quản ngục lập tức chiếm được thiện cảm của người đọc. Bởi nỗi băn khoăn và
niềm tư lự ấy bắt nguồn từ một tấm lòng tiếc người có tài mà phải lâm vào
cảnh lao tù. Đấy là dấu hiệu đầu tiên của một tấm thiên lương trong sáng.
Các câu: 3,6:
Quản ngục còn biết yêu chữ - yêu cái đẹp – một thú chơi thanh tao.
Trong khi biết bao kẻ khác mê đắm với quyền lực, tiền bạc thì viên quản ngục
này chỉ ao ước: “có được chữ của ông Huấn mà treo là có được một vật báu ở
trên đời”. Niềm say mê ấy khiến Huấn Cao cũng phải bàng hoàng, cảm động:
“nào ta có biết đâu một người như thầy quản ngục đây lại có sở thích cao quí
như vây … thiếu một chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”.
Khao khát có được chữ của ông Huấn nhưng quản ngục không mảy
may có ý định dùng vũ lực để chiếm đoạt (đối xử “biệt nhỡn liên tài” với
Huấn Cao để Huấn Cao, hiểu cảm động mà cho).
Các câu: 4,5,7:
Quản ngục biết ngưỡng mộ những anh hùng “chọc trời khuấy nước”
nên đã có những hành động biệt đãi riêng với những tử tù. Quản ngục nhìn
sáu tên tử tù “với cặp mắt hiền lành”; nhắc nhở bọn quan coi ngục: “việc quan
đã có phép nước. Các chú chớ nhiều lời”. Quản ngục còn sai dọn phòng “bảo
ngục tốt quét dọn lại cái buồng trong cùng”, hàng ngày mang thịt rượu đến
cho Huấn Cao với những cử chỉ khúm núm và lời nói nhẹ nhàng “ngài có cần
thêm gì nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất”. Hay trước sự khinh bạc của
Huấn Cao thì quản ngục vẫn chỉ đáp lại rất khiêm nhường: “xin lĩnh ý”. Đây
là những hành động thể hiện của một con người đầy bản lĩnh, dám chống lại
triều đình.
Vẻ đẹp này của quản ngục càng được tô đậm trong cảnh cho chữ. Sự
nhếch nhác, ngột ngạt của không gian tù ngục là cái nền để làm nổi bật tầm
vóc của những con người tham dự vào cảnh cho chữ. Sự hiện diện của quản
ngục đã tạo nên mối quan hệ hai chiều, đã làm hiển hiện sự kết nối thiêng
72
liêng của những con người có nhân cách cao cả phi thường.
Nếu khí phách của người nghệ sĩ Huấn Cao toát lên từ phong thái đường
bệ, uy nghi, từ những nét chữ vuông tươi tắn trần đầy sức sống thì ở viên quản
ngục vẻ đẹp này được phản chiếu qua những cử chỉ khiêm nhường. Đó là cử chỉ
“khúm núm cất những đồng tiền đánh dấu ô chữ”. Hay khi Huấn Cao nói những
lời khuyên bảo chí tình, sâu sắc thì quản ngục đã vái lạy bằng những dòng nước
mắt và thể hiện nỗi nghẹn ngào: “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.
Đó là sự khúm núm trước cái đẹp và sự cúi đầu trước nhân cách cao cả.
Và cũng là một hành động biểu hiện con người bên trong của nhân vật này.
Đây là một con người có khí phách nên mới biết vái lạy, biết nghiêng mình
trước gì đáng sợ, nên sợ ở trên đời.
*Cắt nghĩa nghệ thuật khắc họa nhân vật.
Đối lập tương phản: giữa chức danh chúa ngục và bản chất tốt đẹp bên
trong; giữa quản ngục với Huấn Cao.
Lời nhận xét của tác giả qua những đoạn tả thiên nhiên để khắc họa
thiên lương trong sáng thầm kín của quản ngục.
c. Rèn luyện kĩ năng đọc sáng tạo
*Tổ chức cho HS đọc thuộc lòng một cách trôi chảy những từ, câu tập trung
khắc hoạ vẻ đẹp của nhân vật.
*HS đọc diễn cảm bằng sự trải nghiệm, đọc nhập vai để chuyển hóa các từ
ngữ, câu văn từ dạng con chữ hiện lên bằng hình tượng.
d.Rèn luyện kĩ năng đọc tích lũy
* Đọc chậm, đọc sâu, đọc ngâm nga vừa đọc vừa thu nhận ngữ nghĩa của lớp
từ ngữ, câu văn khắc họa hình tượng nhân vật.
* Đọc trong sự so sánh, trong sự liên kết hệ thống văn bản hoặc trong hệ
thống tác phẩm. Đọc bằng cách đặt các từ ngữ, câu văn khắc họa hình tượng
nhân vật trong sự so sánh với các câu văn khác trong hệ thống văn bản, trong
hệ thống tác phẩm.
73
* Đọc chỉ ra ý vị nhân sinh qua hình tượng nhân vật.
Qua nhân vật quản ngục, Nguyễn Tuân muốn đưa ra quan niệm về cái
đẹp. Cái đẹp chân chính phải có sức mạnh kì diệu; mang đến niềm say mê và
nuôi dưỡng giữ gìn thiên lương cho con người; sẽ chắp cánh cho con người
vươn tới những cái lớn lao, cao cả.
Còn quan niệm sống qua nhân vật này cũng được Nguyễn Tuân gửi
gắm một cách thầm kín. Sự nâng niu, giữ gìn tôn thờ cái đẹp của thầy quản
cho thấy con người cần phải biết quí trọng, giữ gìn, bảo vệ cái tài, cái thiên
lương, cái đẹp. Đồng thời, trong cuộc sống chúng ta phải biết giữ nhân cách
“thiên lương”, không bị lẫn trong một bản đàn hỗn độn; biết hướng tới cái
74
đẹp, biết trọng, biết lĩnh ý và biết qui phục trước cái đẹp đích thực.
CHƯƠNG 3
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
3.1. Mô tả thực nghiệm
3.1.1. Mục đích thực nghiệm
Thực nghiệm nhằm khẳng định tính đúng đắn của đề tài nghiên cứu,
đồng thời đánh giá chất lượng về khả năng vận dụng phương pháp rèn luyện
kĩ năng đọc - hiểu vào dạy học tác phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân.
Qua thực nghiệm hình thành các kĩ năng đọc hiểu tác phẩm văn chương
theo đúng giá trị đích thực của nó. Đồng thời giúp HS chủ động tiếp cận các
tầng nghĩa của tác phẩm với thái độ tích cực và sáng tạo. Bên cạnh đó, chúng
tôi hi vọng rèn luyện được kĩ năng đọc – hiểu cho HS để đáp ứng yêu cầu đổi
mới môn Văn.
3.1.2. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm
Đối tượng: HS lớp 11 THPT chương trình chuẩn.
Địa bàn thực nghiệm: Trường THPT Tân Lập – Đan Phượng – Hà Nội.
Một ngôi trường nằm ở vùng ngoại ô thành phố, mức độ đầu vào trung bình.
Song trình độ HS cũng có đủ: Giỏi, khá, trung bình.
Thời gian thực nghiệm: Học kì I năm học 2013 – 2014.
3.2. Thiết kế giáo án thực nghiệm
Đọc văn, Tiết 41, 42:
CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ
Nguyễn Tuân
I. Mục tiêu bài học
- Về kiến thức:
+ Cảm nhận được vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao và quản ngục: vẻ
đẹp khí phách; tài hoa; thiên lương. Qua đó thấy được quan điểm thẩm mĩ của
75
Nguyễn Tuân qua các nhân vật này.
+ Hiểu và phân tích được những đặc sắc nghệ thuật của truyện: tình
huống truyện độc đáo; tạo không khí cổ xưa, thủ pháp đối lập, ngôn ngữ giàu
tính tạo hình và có nhịp điệu…..
-Về kĩ năng:
Rèn luyện và củng cố cho HS các kĩ năng cơ bản:
+ Kĩ năng đọc chính xác tầng ngôn từ.
+ Kĩ năng đọc phân tích tầng hình tượng.
+ Kĩ năng đọc sáng tạo và kĩ năng đọc tích lũy tầng ý vị nhân sinh.
- Về thái độ:
+ Biết yêu quí, trân trọng, tự hào, có ý thức giữ gìn nét đẹp văn hóa
truyền thống của dân tộc.
+ Giáo dục HS nhân cách cao thượng, niềm tin vào con người.
II. Phương tiện và phương pháp
1. Chuẩn bị của GV và HS
Công việc của giáo viên
Đọc tập truyện “Vang bóng một thời” và “Chữ người tử tù”, các bài
viết về những sáng tác của Nguyễn Tuân đặc biệt là những bài viết về truyện
ngắn này…
Chuẩn bị các phương tiện như: sách giáo khoa, sách giáo viên, giáo án
điện tử… Nghiên cứu vận hành phương pháp, biện pháp chủ đạo là rèn luyện
kĩ năng đọc hiểu nhưng không tách biệt mà phối hợp với các phương pháp và
biện pháp khác để đạt hiệu quả DH cao nhất….
Công việc của HS
Ôn tập những kiến thức đã học: Khái niệm về đặc điểm truyện ngắn,
đặc điểm của bút pháp lãng mạn, tình huống truyện, nghệ thuật thư pháp, loại
thể văn học… và những kiến thức đã học ở giờ trước “Hai đứa trẻ” của
Thạch Lam…
Tìm đọc tập truyện “Vang bóng một thời”, các bài viết về sáng tác của
76
Nguyễn Tuân, nhất là các bài nhận định đánh giá bình luận về truyện ngắn
“Chữ người tử tù”. HS phải luyện đọc chính xác, đọc phân tích, đọc sáng tạo
và đọc tích lũy.
2. Phương pháp
Vận dụng các kĩ năng đọc chính xác, đọc phân tích, đọc sáng tạo và
đọc tích lũy kết hợp với nêu vấn đề, gợi mở, tái hiện và đàm thoại…
III. Tiến trình dạy học
Ổn định lớp.
Kiểm tra bài cũ.
Bài mới:
Lời vào bài:
Hoạt động của GV và HS Mục tiêu cần đạt
*Hoạt động 1: Hướng dẫn HS đọc – I. Tìm hiểu chung.
hiểu phần tiểu dẫn 1. Tác giả
- GV cho HS đọc chính xác và đọc kĩ - Nguyễn Tuân: 1910 – 1987,
phần tiểu dẫn. Người Hà Nội, sinh ra trong một
Câu hỏi 1: Dựa vào phần tiểu dẫn, giới gia đình nhà nho khi Hán học đã
thiệu những nét khái quát về tác giả suy tàn.
Nguyễn Tuân và tác phẩm “Chữ người - Nhà văn tài hoa, có phong cách
tử tù”? nghệ thuật độc đáo: Luôn tiếp cận
cuộc sống từ góc độ tài hoa uyên
bác ở phương diện văn hóa, nghệ
thuật.
- Ngòi bút phóng túng và có ý thức
sâu sắc về cái tôi cá nhân.
2.Truyện ngắn “Chữ người tử
tù”.
- Lúc đầu có tên là “Dòng chữ cuối
77
cùng”, in 1939 trên tạp chí “Tao
Đàn”, sau đó đổi tên thành “Chữ
-GV: giới thiệu thêm về tập truyện người tử tù”in trong tập truyện
“Vang bóng một thời” “Vang bóng một thời”
+ Được in lần đầu 1940 gồm 11 truyện
ngắn viết về một thời đã xa nay chỉ còn
vang bóng.
+ Nhân vật chính: Phần lớn là nho sĩ
cuối mùa – những con người tài hoa, bất
đắc chí, dùng cái tôi tài hoa và sự thiên
lương để đối lập với xã hội phàm tục.
*Hoạt động 2: Hướng dẫn học sinh
đọc - hiểu văn bản.
Hướng dẫn HS đọc (vận dụng kĩ năng II. Đọc – hiểu văn bản.
đọc chính xác – đọc các từ ngữ cần chú 1. Đọc khái quát.
* Đọc thích – đọc lướt để tìm hiểu bố cục).
* Tóm Tắt Câu hỏi 1:Văn bản được chia thành
mấy phần? Nêu ý chính của mỗi phần? * Giải thích từ khó: chú thích SGK
* Bố cục
- Phần thứ nhất: Từ đầu đến “…để
mai ta dò ý tứ của hắn làn nữa xem
sao rồi sẽ liệu ”. – Quản ngục được
tin tiếp nhận tử tù và tính cách
quản ngục.
- Phần hai: Tiếp theo đến “… thì ân
hận suốt đời mất” – Huấn Cao
nhập ngục và sự biệt đãi tử tù của
quản ngục.
78
- Phần ba: Còn lại – Cảnh Huấn
Cao cho chữ viên quản ngục là
GV: giới thiệu thêm về thú chơi chữ: phần quan trọng nhất. Vì nó thể
- Chữ Hán: Chữ tượng hình, viết bằng hiện tập trung nhất những đặc sắc
bút lông, mực tàu. về nội dung và nghệ thuât; làm nổi
- Viết theo lối khối vuông, tròn, nét bật chủ đề của truyện.
thanh, nét đậm, nét cứng, nét mềm khác
nhau.
- Có 4 kiểu viết:
+ Chân: Chân phương.
+ Thảo: Viết thoáng.
+ Triện: Theo hình vuông,=.
+ Lệ: Uốn lượn, hoa mĩ.
-Đây là một thú chơi tao nhã, đài các
của các nhà nho, của những người có
văn hóa, diễn ra ở nơi sang trọng….
*Hoạt động 3: GV hướng dẫn HS đọc
kĩ, đọc phân tích, đọc sáng tạo và đọc
tích lũy để cảm nhận vẻ đẹp nhân vật
Huấn Cao.
*HS tập trung đọc kĩ đoạn đầu, chú ý lời 2. Đọc hiểu chi tiết
trò chuyện của quản ngục và thầy thơ 2.1. Hình tượng Huấn Cao
lại:
- Kĩ năng đọc chính xác: đọc đúng chính
tả, nhất các từ Hán Việt: tổng đốc bộ
đường, phiến trát, thơ lại, đề lao, thầy
bát, Huấn Cao, ngục tốt, thập
- Đọc đúng giọng điệu riêng từng nhân
79
vật: quản ngục băn khoăn và ngưỡng
mộ, yêu quí, trân trọng tài hoa và khí
phách của Huấn Cao.
Câu hỏi 1: Qua lời của quản ngục và
thơ lại Huấn Cao được hiện lên như thế
nào?
-HS đọc kĩ và tìm những câu từ nói về
nhân vật Huấn Cao. * Trước khi được giải đến đề lao.
- Lời băn khoăn ngờ vực của quản
ngục:
+ “Huấn Cao? Hay là cái người
mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái
tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó
không?”
+“Thầy có nghe người ta đồn
Huấn Cao ngoài cái tài viết chữ
đẹp, còn có cái tài bẻ khóa vượt
ngục nữa không” !”
+ "Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm,
vuông lắm".
+ Khát vọng: “có được chữ ông
Huấn treo trong nhà … vật báu”.
Câu hỏi 2: Đặc biệt hình ảnh “Ngôi sao - Thơ lại đánh giá:
hôm nhấp nháy….ngôi sao chính vị” + “Dạ bẩm, thế ra y văn võ đều có
gợi cho em suy nghĩ gì về Huấn Cao? tài cả. Chà Chà!”
+ Thầy thơ lại cũng thấy “tiếc” khi
phải chém một người tài hoa như
Câu 3: Những từ: tài viết chữ đẹp, vậy.
80
nhanh, đẹp lắm, vuông lắm, văn võ đều - Hình ảnh: ngôi sao hôm …ngôi
có tài cả, vật báu, tiếc” cho thấy Huấn sao chính vị:
Cao là người như thế nào? + Hình ảnh tượng trưng
- Hướng dẫn HS kĩ năng đọc phân tích: + Liên tưởng tới hình ảnh Huấn
cho HS kĩ những câu văn tập trung khắc Cao.
họa vẻ đẹp của nhân vật. -> Huấn cao là một tử tù khác
thường, văn võ đều tài cả.
-> Tài năng của Huấn Cao đã bao
phủ khắp cả vùng tỉnh Sơn lúc bấy
giờ; ngay cả những kẻ sống ở nơi
tàn ác cũng ngưỡng mộ, khát khao
có được chữ của ông.
*HS đọc thầm đoạn hai: -> Nhất là tài năng viết chữ thì
Câu hỏi 4: Trước lời đe dọa của tên lính tuyệt đỉnh, chữ của ông được tôn
áp giải và sự biệt đãi của quản ngục, lên hàng vật báu.
Huấn Cao đã phản ứng như thế nào? -> Như vậy ngay từ khi xuất hiện
- Đọc chính xác những từ Hán Việt. Huấn Cao đã hiện lên là một nghệ
- Đọc đúng giọng điệu: quản ngục thì tỏ sĩ tài hoa.
ra tôn kính, tha thiết muốn biệt đãi Huấn *Khi được giải đến đề lao
Cao; còn Huấn Cao thì tỏ vẻ coi thường
bọn cai ngục đến giọng pha chút ân hận
vì thiếu chút phụ tấm lòng thiên lương
của quản ngục. - Hành động: “Lạnh lùng chúc mũi
- Đọc lướt kết hợp đọc phân tích chỉ các gông nặng, khom mình thúc mạnh
từ, câu nói về phản ứng của Huấn Cao đầu thang gông xuống thềm đá
và nhận xét về những biểu hiện của tảng đánh thuỳnh một cái”.
Huấn Cao. -> Đó là hành động thể hiện một
sức mạnh phi thường.
81
-> Hành động trên cho thấy thái độ
ngang tàng, bất chấp luật pháp của
một xã hội dơ bẩn.
- Trước sự biệt đãi của quản ngục
Huấn Cao vẫn: “thản nhiên nhận
rượu thịt – coi như một việc vẫn
làm trong cái hứng sinh bình”
-> Thái độ đó toát nên tư thế ung
dung, thanh thản, tự do và áp đảo
cả người cầm quyền.
-> Ông xem nhà tù là một chốn
dừng chân để nghỉ ngơi.
- Khi quản ngục khép nép hỏi ông
Huấn xem có cần gì không, Huấn
Câu 5: Qua những chi tiết trên em có Cao trả lời: “Ngươi hỏi ta muốn
suy nghĩ gì con người của Huấn Cao? gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là
-HS đọc phân tích, khái quát vẻ đẹp của nhà người đừng đặt chân vào
Huấn Cao khi ở trong tù. đây.”
Câu hỏi 6: Khi hiểu được tấm lòng thiên -> Thể hiện thái độ khinh bạc, xem
lương của quản ngục Huấn Cao có thái thường quyền thế và bạo lực.
độ như thế nào?Sự thay đổi đó chứng tỏ => Huấn Cao là một con người
Huấn Cao là người như thế nào? dũng cảm, hiên ngang, lẫm liệt, có
- HS đọc chính xác tìm những từ, câu khí phách hiên ngang, bất khuất.
nói về sự thay đổi thái độ của Huấn
Cao. *Khi hiểu được sở nguyện của
- HS đọc phân tích, so sánh lí giải về sự quản ngục.
thay đổi thái độ đó, đồng thời khái quát
về vẻ đẹp của Huấn Cao.
82
- Lời nói:
+ Ta nhất sinh không vì vàng ngọc
hay quyền thế mà ép mình cho chữ
-> Một người coi thường danh lợi
và quyền thế.
-> Ông không bao giờ dùng cái đẹp
để mưu lợi hay phục vụ việc phi
nghĩa.
+ Ta mới chỉ cho chữ 3 người bạn
tri kỉ.
->Một người trân trọng cái đẹp,
thấu hiểu giá trị cao quí của cái
đẹp.
+ Ta biết đâu một người như thầy
quản đây lại có sở nguyện cao quí
như vây.
->Huấn Cao còn biết phát hiện và
coi trọng cái đẹp khuất lấp của con
người.
+ Thiếu chút nữa ta phụ một tấm
lòng trong thiện hạ.
-> Sự ân hận, cảm động và trân
trọng những người có sở thích cao
quí.
- Quyết định: cho chữ quản ngục,
-> Sẵn lòng trao cái đẹp vô giá cho
người có thiên lương.
=>Huấn Cao là một người có tâm
83
hồn nhân sinh bao dung, có thiên
lương trong sáng và cao đẹp.
Câu 7: Huấn Cao cho chữ quản ngục => Một người biết trân trọng yêu
trong điều kiện như thế nào? quí cái đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn
- HS đọc thầm, đọc chính xác và tái hiện con người.
những chi tiết: => Đây là việc làm của một tấm
lòng cảm tạ một tấm lòng.
*Trong cảnh cho chữ.
- Thời gian: đêm “trại giam tỉnh
Sơn chỉ còn vẳng tiếng mõ trên
Câu 8: Hình dung của em về con người canh vọng lại”.
Huấn Cao trong cảnh cho chữ đó? - Không gian: ẩm thấp, bẩn thỉu
- HS kết hợp đọc chính xác và đọc phân “buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường
tích để tái hiện chi tiết đồng thời lí giải đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân
về sự hội tụ cả ba vẻ đẹp của Huấn Cao chuột, phân gián….”.
trong cảnh này. - Huấn Cao:
- GV: Nét chữ của ông như rồng bay + Cổ đeo gông, chân vướng xiềng
phượng múa, thiên lương của ông tỏa + Ung dung đậm tô nét chữ
sáng lồng lộng chốn ngục tù. Tài hoa và +Từ trong đám khói tỏa, Huấn Cao
thiên lương và khí phách đã hợp nhất viết những nét chữ đẹp “vuông,
thành Huấn Cao. Với cảnh cho chữ này, tươi tắn nói lên những hoài bão
cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì tung hoành của của một đời con
không còn kẻ phạm tội tử tù, không có người ”
quản ngục và thơ lại, chỉ có người nghệ -> Dáng vẻ một con người tự do;
sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước một nghệ sĩ đang say sưa sáng tạo
đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của nghệ thuật.
những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm
ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái
84
đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng
với cảnh này, người tử tù đang đi vào
cõi bất tử”.
Câu 9: Sau khi cho chữ, Huấn Cao
khuyên quản ngục điều gì? Lời khuyên
cho thấy tấm lòng của Huấn Cao như
thế nào?
- HS đọc chính xác giọng khuyên chân
tình của Huấn Cao đối với quản ngục; - Lời khuyên: “Ta khuyên thầy
đọc phân tích, lí giải ý nghĩa của lời quản nên thay chốn ở đi… Tôi bảo
khuyên đó. thực đấy…., khó giữ thiên lương
cho lành vững và rồi cũng đến
nhem nhuốc mất cái đời lương
thiện đi”
-> Huấn Cao đang muốn cứu vớt,
một người lương thiện ra khỏi bùn
nhơ
-> Ông muốn nâng đỡ một thiên
lương cho trong sáng, đẹp đẽ.
Tiểu kết
- Nhân vật Huấn Cao hiện lên với
một vẻ đẹp lãng mạn, được lí
Câu 10: Anh chị hãy nhận xét về nghệ tưởng hóa. Ở nhân vật này có sự
thuật khắc họa hình tượng Huấn Cao? kết hợp ở mức lí tưởng vẻ đẹp của
Cách khắc họa ấy Nguyễn Tuân muốn một nghệ sĩ tài hoa, một anh hùng
thể hiện quan niệm nghệ thuật cũng như hào kiệt, một người có nhân cách
quan niệm sống như thế nào? cao đẹp.
- HS đọc sáng tạo, tích lũy xét trong *Nghệ thuật.
85
toàn hệ thống văn bản cũng như liên văn - Ngôn ngữ:
bản. Đặc biệt chú ý việc sử dụng ngôn + Sắc sảo, góc cạnh, trang trọng cổ
ngữ, việc sử dụng nghệ thuật theo đặc kính, giàu sức truyền cảm.
trưng thể loại truyện ngắn lãng mạn. + Từ ngữ cổ gợi không khí cổ xưa.
- Chú ý các từ, câu tập trung thể hiện ý -> Huấn Cao hiện lên với một vẻ
nghĩa vị nhân sinh: Chữ ông đẹp lắm đẹp lãng mạn, vẻ đẹp của những
vuông lắm; tính ông vốn khoảnh, trừ anh hùng thời xưa.
chỗ tri kỉ, ông ít cho chữ ai; những nét - Sử dụng thành công thủ pháp đối
chữ nói lên cái hoài bão tung hoành của lập:
đời người; ta khuyên thầy quản….. khó + Đối lập giữa nhân vật Huấn Cao
giữ cái đời lương thiện; thiếu chút nữa uy nghi với quản ngục khúm
ta phụ mất một tấm lòng trong thiên núm….
hạ…; nghệ thuật khắc họa ánh sáng… + Đối lập giữa hành động cho chữ
thanh cao với không gian nhà tù
hôi hám...
+ Đối lập thiên lương cao cả của
Huấn Cao với bóng tối nhà tù.
+ Tương phản giữa bó đuốc sáng
rực với đêm đen thăm thẳm…
=> Ý vị nhân sinh qua hình
tượng Huấn Cao:
- Quan niệm thẩm mĩ.
+ Cái đẹp đích thực phải là khát
vọng và lí tưởng tốt đẹp của người
nghệ sĩ; sự thống nhất hài hòa giữa
“tâm” và “tài”, thiện và mỹ.
+ Cái đẹp không bao giờ làm nô lệ
cho quyền lực hay tiền bạc.
86
+ Cái đẹp không bao giờ có thể ở
chung với cái ác.
+ Cái đẹp phải có khả năng chiến
thắng cái ác, cái xấu, cái tàn bạo và
có khả năng hóa giải con người.
- Quan niệm sống:
+ Người nghệ sĩ chân chính phải
hội tụ: tài hoa, khí phách và thiên
lương.
+ Đề cao con người có nhân cách,
có tâm.
+ Sống cần phải có một tấm lòng *Hoạt động 4: Hướng dẫn HS đọc kĩ,
và cần vì một tấm lòng. đọc phân tích, đọc sáng tạo và đọc
tích lũy để cảm nhận vẻ đẹp nhân vật 2.2. Nhân vật quản ngục
quản ngục.
Câu 1: Ngay khi mới xuất hiện quản
ngục đã hiện lên có gì đặc biệt ? (chú ý *Phần đầu của truyện.
chi tiết khắc họa ngoại hình, niềm băn
khoăn và lời nhận xét của tác giả). Chi
tiết đó giúp em hình dung như thế nào
về con người quản ngục?
- HS đọc chính xác đoạn khắc họa niềm
băn khoăn nghĩ ngợi của quản ngục. - Ngoại hình:
- HS đọc phân tích về sự thay đổi tâm lí + “Một khuôn mặt nghĩ ngợi”,
của quản ngục “Ngục quan ngồi băn khoăn bóp
thái dương”.
+ “Người ngồi đấy đầu đã điểm
hoa râm, râu đã ngả màu….bằng
87
lặng, kín đáo và êm nhẹ”.
-> Một dáng vẻ của con người
thầm lặng và hiền lành, từng trải và
kín đáo.
-> Ngục quan đang có đấu tranh
quyết liệt trong suy nghĩ làm theo
lí hay sống theo tình?
-> Băn khoăn vì thương tiếc một
người tài mà phải lâm vào cảnh đề
lao.
- Nhận xét của tác giả:
+ Trong hoàn cảnh đề lao… mà
bản nhạc luật hỗn loạn xô bồ”.
+ Ông trời nhiều khi hay chơi
ác…lại phải ăn đời ở kiếp với lũ
quay quắt”
+ Một kẻ biết kính mến khí phách,
một kẻ biết trọng người tài hẳn
không phải là kẻ xấu hay vô tình.
-> Một con người biết phân biệt
trái phải, có biểu hiện ý định biệt
đãi tử tù, biết trọng người tài. Dấu
hiệu đầu tiên của một tấm thiên
Câu 2: Qua cuộc trò chuyện với thầy lương lành thiện và người như
thơ lại, quản ngục có ý nghĩ và khát vậy không phải là kẻ xấu.
vọng gì ? Điều đó chứng tỏ quản ngục *Ý nghĩ và khát vọng.
là người như thế nào?
- HS đọc chính xác tìm từ, câu nới về
88
khát vọng cuả quản ngục.
- HS đọc phân tích ao ước: “có được + “Có được chữ ông Huấn mà treo
chữ… có vật báu trên đời” để thấy vẻ trong nhà là có được 1 vật báu ở
đẹp của quản ngục. trên đời”.
-> Có khát vọng thanh cao, tao
nhã, khác với địa vị của một quản
ngục lúc bấy giờ.
-> Biểu hiện tấm lòng yêu quí và
say mê, trân trọng cái đẹp.
-> Biểu hiện của con người có tâm
Câu 3: Khi biết tin Huấn Cao sẽ nhập hồn nghệ sĩ, có thiên lương trong
lao, quản ngục có những thái độ khác sáng.
thường nào ?Qua đó cho thấy quản *Thái độ,hành động, cử chỉ, lời
ngục là người như thế nào?(chú ý việc nói.
sai bảo đối với cấp dưới.. )
- HS đọc chính xác tìm những chi tiết
nói về hành động… khác thường ngày
của quản ngục. - Thái độ: “nhìn sáu tên tù mới vào
- HS đọc sáng tạo, tích lũy trong sự so với cặp mắt hiền lành. Lòng kiêng
sánh … để cảm nhận được vẻ đẹp khác nể”
thường của quản ngục. - Lời nói: “ta biết rồi, việc quan ta
đã có phép nước. Các chú chớ
nhiều lời”
- Suy nghĩ: “có lẽ lão bát này là
người khá đây… thì khó mà ở
yên”.
- Quyết định: muốn biệt đãi Huấn
Cao “muốn cho ông ta đỡ cực
89
trong những ngày còn lại”.
-> Một quản ngục khác thường, có
những khát vọng không đúng với
Câu 4: Quản ngục đã biệt đãi Huấn địa vị của mình; có thái độ lời nói,
Cao như thế nào ? Chứng kiến thái độ suy nghĩ không nằm trong khuôn
cử chỉ coi thường của Huấn Cao, quản khổ của một cai ngục thế kỉ 19.
ngục có phản ứng ra sao? Qua đó em có *Sự biệt đãi đối với Huấn Cao
hình dung gì về quản ngục ? - Hành động sai dọn phòng: “bảo
- HS đọc chính xác tìm những chi tiết ngục tốt quét dọn lại cái buồng
nói về hành động, ngôn ngữ, cử chỉ của trong cùng”
quản ngục khi biệt đãi Huấn Cao. - Hàng ngày mang thịt rượu đến
- HS đọc phân tích, lí giải những cử chỉ cho Huấn Cao với những cử chỉ
đó để thấy được vẻ đẹp của quản ngục. khúm núm và lời nói nhẹ nhàng:
- HS đọc sáng tạo và đọc tích lũy trong “ngài có cần thêm gì nữa xin cho
sự so sánh những câu trong toàn văn biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất”.
bản, so sánh giữa hai nhân vật để thấy - Trước sự khinh bạc của Huấn
được con người cao quí bên trong của Cao, quản ngục vẫn chỉ đáp lại rất
quản ngục. khiêm nhường: “xin lĩnh ý”.
-> Một con người biết trân trọng và
giữ gìn cái đẹp, biểu hiện của một
thiên lương trong sáng.
-> Đằng sau sự khúm núm, dịu
Câu 5: Trong cảnh cho chữ Huấn Cao dàng ấy là con người dũng cảm bất
hiện lên với phong thái đường vệ, uy chấp hình phạt đến với mình dám
nghi từ những nét chữ vuông tươi tắn thì thực hiện việc biệt đãi tử tù.
ở viên quản ngục vẻ đẹp này được phản *Cảnh cho chữ
chiếu qua những cử chỉ nào?Em suy - Cử chỉ khiêm nhường: “khúm
nghĩ gì về cử chỉ đó? núm cất những đồng tiền đánh dấu
90
- HS đọc thầm và tìm những chi tiết ô chữ”.
khắc họa cử chỉ khiêm nhường của quản - Khi Huấn Cao nói những lời
ngục. khuyên bảo chí tình, sâu sắc thì
- HS đọc phân tích để thấy được tấm quản ngục đã vái lạy bằng những
lòng ngưỡng mộ của quản ngục đối với dòng nước mắt và thể hiện nỗi
Huấn Cao. nghẹn ngào: “kẻ mê muội này xin
bái lĩnh”.
-> Đó là sự khúm núm trước cái
đẹp và sự cúi đầu trước nhân cách
cao cả.
-> Một hành động biểu hiện con
người có khí phách nên mới dám đi
ngược lại qui tắc thông thường của
nhà tù.
Câu 6: Anh chị hãy bình về chi tiết cuối -> Hành động cho thấy vẻ đẹp
của truyện: “’Ngục quan vái lạy….bái thiên lương của một người biết vái
lĩnh” ? lạy, biết nghiêng mình trước gì
- HS đọc chậm chú ý các từ, câu: ngục đáng sợ, nên sợ ở trên đời.
quan cảm động, vái người tù, kẻ mê *Ý nghĩa của hành động và lời nói
muội này xin bái lĩnh. của quản ngục ở phần cuối truyện.
- HS đọc sáng tạo, tích lũy so sánh giữa + Xin lĩnh ý: biểu hiện của lòng
“xin lĩnh ý” ở đoạn trên với “xin bái kính nể trước tài năng, đức độ và
lĩnh”. danh tiếng của Huấn Cao.
Câu 7: Em có nhận xét gì về nghệ thuật + Hành động vái lạy tử tù và câu
khắc họa nhân vật quản ngục? Ý nghĩa nói “xin bái lĩnh”: là cái vái lạy của
của việc khắc họa quản ngục trong việc con người trước cái đẹp, cái thiện,
thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm? cái cao cả….
- HS đọc sâu các câu, từ nói về quản * Nghệ thuật
91
ngục mà qua đó thể hiện tư tưởng chủ - Đối lập tương phản với nhân vật
đề của tác phẩm. Huấn Cao.
- HS sáng tạo, so sánh các từ trong toàn =>Ý vị nhân sinh qua nhân vật
hệ thống văn bản, chú ý các câu: xin quản ngục.
lĩnh ý, xin bái lĩnh… - Quan niệm về cái đẹp
+ Cái đẹp chân chính phải có một
sức mạnh kì diệu.
+ Cái đẹp chân chính sẽ mang đến
niềm say mê và nuôi dưỡng giữ gìn
thiên lương cho con người; cho con
người sức mạnh để có thể sống
mạnh mẽ và kiêu hãnh ngay cả khi
bị ném vào chốn xô bồ, hỗn độn.
+ Cái đẹp cũng có thể chắp cánh
cho con người vươn tới những gì
lớn lao, cao cả.
- Quan niệm sống
+ Trong cuộc sống con người cần
phải biết yêu quí trân trọng tài, cái Hoạt động 5: Hướng dẫn HS đọc
đẹp. phân tích, đọc sáng tạo và đọc tích lũy
+ Sống cần phải biết cúi đầu trước để khái quát được nội dung và nghệ
cái đẹp, cái cao cả…. thuật của truyện ngắn.
Câu 1: Từ việc tìm hiểu, phân tích nhân III. Tổng kết
vật quản ngục và Huấn Cao, nhất là qua
nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân muốn
thể hiện quan điểm nghệ thuật của mình 1. Nội dung
như thế nào ? Những thành công về - Trong truyện, Huấn Cao không
nghệ thuật của truyện? Hãy lí giải? chỉ là người có tài mà còn có tâm,
92
có thiên lương cao đẹp. Đó là sự
thống nhất trong một nhân cách
lớn.
- Như vậy quan điểm của Nguyễn
Tuân đã được bộc lộ: cái tài phải đi
đôi với cái tâm, cái đẹp và cái
thiện không thể tách rời –> một
quan điểm nghệ thuật tiến bộ…
2. Nghệ thuât.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
xây dựng được hai hình tượng có
tính cách đặc sắc….
- Tạo không khí cổ xưa: chi tiết về
người, về cảnh của “một thời vang
bóng”; ở những ngôn từ thời ấy, ở
nhịp điệu chậm rãi của câu văn gợi
lên nhịp sống thời xưa…
- Xây dựng tình huống truyện độc
đáo dựa trên mối quan hệ éo le của
những tâm hồn tri kỉ, trong hoàn
cảnh thật đặc biệt… làm bật sáng
chủ đề của truyện.
Câu 1: Anh (chị) trình bày cảm nghĩ sâu - Ngôn ngữ giàu tính tạo hình
sắc nhất của mình về nhân vật Huấn (đoạn tả cảnh trời tối – đầu tác
Cao? phẩm, cảnh cho chữ…)
Câu 2: Nhận xét về “Chữ người tử - Thủ pháp đối lập (…), nghệ thuật
tù”có ý kiến cho rằng truyện ngắn này “vẽ mây nảy trăng” góp phần thể
thể hiện tinh thần dân tộc – lòng yêu hiện chủ đề của truyện…
93
nước thầm kín của Nguyễn Tuân, tuy IV. Luyện tập
nhiên có ý kiến cho rằng trong “Chữ
người tử tù”phần “dân tộc tính” không
lấy gì làm lành mạnh lắm, sau không khí
cổ kính có vẻ “phong kiến” vẫn là con
người cá nhân đang đi tìm lối thoát về
dĩ vãng … Quan điểm của anh (chị) như
thế nào về ý kiến trên?
V. Củng cố dặn dò.
- Về nhà ôn và hoàn thành bài tập
của bài học hôm nay.
- Chuẩn bị bài mới
3.3. Tổ chức thực nghiệm
3.3.1. Giao nhiệm vụ thực nghiệm
Trước khi tiến hành thực nghiệm, chúng tôi đã bàn bạc, họp và thống
nhất chương trình thực nghiệm: giao bản thiết kế giáo án cho giáo viên dạy
thực nghiệm; thống nhất nội dung kiến thức cũng như phương pháp dạy và
cách thức triển khai bài dạy; cung cấp đề kiểm tra cho 02 lớp thực nghiệm và
đối chứng, thời gian làm bài 45 phút. Bài kiểm tra này được lấy làm cột điểm
kiểm tra 15 phút.
Câu hỏi:
Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm
“Chữ người tử tù”?
3.3.2. Tiến hành thực nghiệm
Chúng tôi đã tiến hành dự giờ tiết dạy thực nghiệm. Sau tiết dạy chúng
tôi đã trao đổi góp ý, nhận xét đánh giá vào biên bản các vấn đề như: không
khí lớp học, cách thức triển khai bài dạy, hệ thống câu hỏi, phương pháp dạy
học, thái độ học tập của học sinh. Cuối cùng các giáo viên dạy thực nghiệm
và đối chứng, giáo viên dự giờ họp lại để đánh giá giờ dạy, trao đổi góp ý và
94
rút kinh nghiệm.
3.4. Đánh giá kết quả thực nghiệm
Trước khi chưa thực hiện phương pháp rèn luyện kĩ năng đọc hiểu tác
phẩm “Chữ người tử tù” tại lớp thể nghiệm và đối chứng, tôi có làm phiếu
điều tra và bài kiểm tra cho học sinh và thu được kết quả như sau:
Bảng 3.1: Bảng khảo sát lực học ban đầu của học sinh.
Lực học khảo sát ban đầu STT Lớp Trường Số HS Giỏi Khá TB Yếu
1 Đối chứng 11A2 Tân Lập 45 1 12 25 7
2 Thực nghiệm 11A5 Tân Lập 47 1 12 26 8
3.4.1. Kết quả thực nghiệm
Chúng tôi đã so sánh kết quả giữa hai lớp thực nghiệm và quả và sự ổn
định của phương pháp này. Chúng tôi đã tiến hành kiểm tra đánh bằng một
bài kiểm tra kết hợp với phiếu điều tra kết quả học tập và đã thu nhận được
kết quả học tập của học sinh như sau:
Bảng 3.2: Tổng hợp kết quả (tính ra %) của lớp thực nghiệm
và lớp đối chứng.
Số học
Đề kiểm
Điểm
Lớp
Điểm khá Điểm TB Điểm yếu
sinh
tra
giỏi
2
15
22
6
Đối chứng
45
45 phút
(4,4 %)
(33,3 %)
(48,9 %)
(13,4 %)
7
21
17
2
Thực nghiệm
47
45 phút
(14,9 %)
(44,68%)
(36,17%)
(4,25 %)
3.4.2. Đánh giá kết quả thực nghiệm
3.4.2.1. Phân tích
Tỉ lệ HS thích và thấy hấp dẫn với bài học ở lớp thực nghiệm cao hơn
so với lớp đối chứng, trong khi đó số học sinh không thích và bình thường ở
lớp đối chứng lại nhiều hơn so với lớp thực nghiệm.
Đặc biệt khi tiến hành kiểm tra hiệu quả của việc dạy học nhằm rèn
95
luyện kĩ năng đọc hiểu văn bản cho HS lớp 11, chúng tôi thấy kết quả thu
được đã có độ chênh lệch khá rõ. Kết quả điểm giỏi ở lớp thực nghiệm cao
hơn so với lớp đối chứng là: 14,9 – 4,4 = 10,5 %, tỉ lệ điểm khá cũng cao hơn
ở mức là 44,68 - 33,3 = 11,38 %%; số lượng điểm trung bình, yếu ở lớp thực
nghiệm thấp hơn hẳn so với lớp đối chứng.
3.4.2.2. Đánh giá
Ở cách học này học sinh thực sự là trung tâm còn giáo viên chỉ đóng
vai trò là người hướng dẫn và tổ chức giờ học như một điều phối viên.. Như
vậy học sinh không chỉ chủ động chiếm lĩnh tri thức mà các em còn rèn được
kĩ năng đọc hiểu văn bản theo giá trị đích thực của nó. Nhất là HS biết cách
chiếm lĩnh tác phẩm một cách bài bản, tuần tự từ tầng ngôn từ, từ đó dần phân
tích, lí giải được tầng hình tượng nghệ thuật để rồi vận dụng các kĩ năng đọc
chính xác, phân tích, sáng tạo, tích lũy mà tự tin giải mã tầng ý vị nhân sinh
của tác phẩm. Ngoài ra HS còn hình thành được những kĩ năng đọc hiểu
chung cho bất kì một tác phẩm nào.
Với phương pháp dạy học trên, hầu như tất cả học sinh trong lớp đều
chủ động tích cực tham gia trả lời các câu hỏi từ phía giáo viên đưa ra mà
không hề thấy khó khăn. Bởi vậy mỗi giờ học thực nghiệm đều diễn ra trong
bầu không khí sôi động, cởi mở và thoải mái. Giáo viên chỉ nêu vấn đề cho
HS thảo luận, trao đổi trình bày ý kiến của mình. Thậm chí còn kích thích rất
nhiều HS khá giỏi đặt những câu hỏi cho giáo viên khi gặp những câu, từ
mang nhiều tầng ý nghĩa.
Trong các bài kiểm tra, các em đều làm tốt và đạt điểm khá cao. Một số
em có năng lực viết văn rất tốt, nhất là khả năng lập luận, phân tích rõ ràng,
mạch lạc.
Bên cạnh những ưu điểm nổi bật, những tiết dạy thực nghiệm còn tồn
tại những hạn chế sau:
Trước hết là vấn đề hướng dẫn HS đọc hiểu tầng ý vị nhân sinh cho HS
còn nhiều lúng túng và mất nhiều thời gian. Do trước đây giáo viên chỉ hướng
96
dẫn HS khám phá tầng này của văn bản bằng cách nhấn mạnh thêm vào phần
tổng kết của mỗi bài học, hầu như họ chưa coi tầng ý vị nhân sinh như một
phần quan trọng. Bởi vậy khi hướng dẫn nhiều HS còn cảm thấy khó tiếp
nhận và chưa biết cách lĩnh hội tầng ý vị nhân sinh này.
Hầu hết các tiết dạy thực nghiệm theo phương pháp này đều bị “cháy”
giáo án. Nguyên nhân do cách đọc hiểu trên đòi hỏi tỉ mỉ, kĩ và HS phải làm
việc nhiều, buộc các em phải tư duy, phân tích, so sánh trong văn bản và liên
văn bản nên mất khá nhiều thời gian
Về phía HS, do vốn từ còn hạn chế cũng như khả năng phân tích nghĩa
của từ chưa sâu nên đôi lúc còn đưa ra những ý kiến phiến diện. Thậm chí
97
một vài em có sự lí giải lệch lạch so với ý nghĩa thực của văn bản.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Để đọc hiểu TPVC nói chung, tác phẩm “Chữ người tử tù” nói riêng
thu được những kết quả khả quan thì việc rèn kĩ năng đọc hiểu được xem là
tiền đề, cơ sở cho hoạt động đọc hiểu TPVC. Thật vậy những kĩ năng đọc
chính xác, đọc phân tích, đọc sáng tạo, đọc tích lũy có vai trò vô cùng quan
trọng, tác động lớn đến việc thúc đẩy hoạt động tích cực, sáng tạo của học
sinh. Đồng thời bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học ở các em. Rèn kĩ năng
đọc hiểu không phải là phương pháp dạy học mới mẻ, nó đã được triển khai
trước đó. Song do chưa nắm bắt đầy đủ cơ sở lí luận, lại do nóng vội, ngộ
nhận nên chúng ta vận dụng sai lệch, máy móc vào quá trình dạy văn. Ngày
nay trước sự đổi mới của phương pháp dạy học thì việc rèn kĩ năng đọc hiểu
TPVC đang đi đúng hướng, chiếm ưu thế và thu được nhiều kết quả.
Với đề tài trên, chúng tôi đã giải quyết được các vấn đề sau:
Ở chương 1, luận văn đã nghiên cứu những vấn lí luận liên quan tới đọc
hiểu. Qua đó hiểu được bản chất, ý nghĩa cũng như vai trò của việc đọc – hiểu
trong dạy học Ngữ văn.
Trong chương 2, từ việc khảo sát thực trạng dạy đọc hiểu truyền thống
rồi phân tích rút những hạn chế và tồn tại của phương pháp dạy học cũ, luận
văn đã xây dựng những gợi ý đọc hiểu cụ thể cho truyện ngắn “Chữ người tử
tù”. Đồng thời đề xuất hướng tiếp cận tác phẩm qua việc vận dụng bốn kĩ
năng đọc hiểu lần lượt khám ba tầng cấu trúc của văn bản.
Với chương 3, chúng tôi tập trung thiết kế giáo án thực nghiệm để tổ
chức hướng dẫn bốn kĩ năng đọc – hiểu văn bản và rèn luyện bốn kĩ năng đọc
hiểu đó ở tác phẩm “Chữ người tử tù”. Từ đó giúp giáo viên nắm chắc hơn lý
luận đọc hiểu, kĩ năng đọc hiểu; vận dụng lí luận vào giảng dạy có hiệu quả;
có cách tổ chức hướng dẫn học sinh khoa học hơn khi đọc hiểu tác phẩm. Bên
cạnh đó cũng góp phần giúp học sinh có kĩ năng đọc hiểu truyện ngắn đó một
98
cách sâu sắc; có niềm say mê tích cực trong giờ học…
2. Khuyến nghị.
Có thể nói dạy đọc hiểu TPVC nói chung, dạy đọc hiểu tác phẩm “Chữ
người tử tù” nói riêng luôn hàm chứa những thách thức nghề nghiệp và đòi
hỏi nhiều năng lực sáng tạo của người giáo viên. Nhất là trong tình trạng học
sinh hiện nay: tâm lí chán học văn và từ đó có thái độ thờ ơ, đứng ngoài giờ
giảng văn thì sự thách thức nghề nghiệp càng gay gắt, năng lực sáng tạo của
người thầy càng đòi hỏi phải được phát huy cao độ. Vì vậy, có thể coi luận
văn này như một tài liệu tham khảo cần thiết và thiết thực cho thực tế dạy học
Ngữ văn ở nhà trường THPT.
Để góp phần nâng cao hiệu quả cho giờ học đọc – hiểu văn bản, tác giả
luận văn xin đưa ra một vài ý kiến sau:
Rèn luyện kĩ năng đọc hiểu đòi hỏi giáo viên không ngừng học tập để
đảm bảo kiến thức cơ bản về lí luận đọc hiểu cũng như của môn học.
Thường xuyên tiếp cận đổi mới, nắm bắt xu thế phát triển chung của xã hội.
Trong quá trình đọc – hiểu cần vận dụng linh hoạt và nhuần nhuyễn các
kĩ năng: đọc chính xác, đọc phân tích, đọc sáng tạo, đọc tích lũy với đọc kĩ,
đọc sâu, đọc lướt, đọc phân vai.
Đầu tư hệ thống câu hỏi có chất lượng, chính xác có đủ các mức độ từ
dễ đến khó.
Rèn luyện kĩ năng và phát triển các năng lực cơ bản: năng lực vận
dụng, năng lực thiết kế và tổ chức hoạt động học tập cho học sinh, năng lực
sáng tạo.
Giáo viên phải có hồ sơ theo dõi từng cá nhân học sinh, hồ sơ phải bao
gồ cả kết quả, điểm số, đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, sự tiến bộ…. của mỗi
cá nhân trong học tập.
Còn về phía học sinh cũng cần:
Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo trong học tập.
Có phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng phân tích, đánh giá và vận
dụng kiến thức vào thực tiễn.
Học sinh tự tìm ra kiến thức thông qua hành động của chính mình. Hợp
99
tác với bạn và học bạn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Đình Chung, (2004), “Tiến tới một qui trình đọc hiểu văn trong bài
học Ngữ văn mới”, Văn học và tuổi trẻ (2), tr.25.
2. Nguyễn Viết Chữ, (2001), Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương
theo thể loại. Nxb Giáo dục.
3. Nguyễn Thị Duyên, (2012), Nâng cao kĩ năng đọc hiểu hai đoạn trích
“Cảnh ngày xuân” và “Kiều ở lầu ngưng bích” cho học sinh lớp 9 THCS.
Luận văn thạc sĩ Sư phạm Ngữ văn.
4. Hà Văn Đức, (1992), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân. Luận án Phó
tiến sĩ.
5. Phan Hồng Hiệp, (2005), Bồi dưỡng năng lực thẩm văn cho học sinh giỏi
khi đọc truyện ngắn Nguyễn Tuân. Luận văn thạc sĩ.
6. Nguyễn Trọng Hoàn, (2002), Rèn luyện tư duy sáng tạo và dạy học
TPVC. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
7. Nguyễn Trọng Hoàn, (2002), Tiếp cận văn học. Nxb Khoa học, Hà Nội.
8. Nguyễn Trọng Hoàn, (2003), Một số vấn đề đọc hiểu văn bản Ngữ
văn,Tạp chí Giáo dục (56), tr. 25 - 57.
9. Nguyễn Trọng Hoàn, (2010), Đọc – hiểu văn bản Ngữ văn 11. Nxb Giáo
dục, Việt Nam.
10. Nguyễn Thanh Hùng, (1994), Văn học và nhân cách. Nxb Văn học, Hà Nội.
11. Nguyễn Thanh Hùng, (2000), Hiểu văn dạy văn. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
12. Nguyễn Thanh Hùng, (2002), Đọc và tiếp nhận văn chương. Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
13. Nguyễn Thanh Hùng, (2004), “Những khái niệm then chốt của vấn đề
đọc hiểu văn chương”, Tạp chí Giáo dục (100), tr. 23 – 24.
14. Nguyễn Thanh Hùng, (2008), Đọc hiểu tác phẩm văn chương trong nhà
trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
15. Nguyễn Thanh Hùng, (2011), Kĩ năng đọc hiểu văn. Nxb Sư Phạm
16. Nguyễn Thị Thanh Hương, (2001), Dạy học văn ở trường phổ thông.
100
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
17. Phạm Thị Thu Hương, (2012), Đọc hiểu và chiến thuật đọc hiểu văn
bản trong nhà trường phổ thông. Nxb Đại học Sư phạm.
18. Trần Quốc Khả, (2010), Tổ chức đối thoại trong dạy học “Chữ người tử
tù”của Nguyễn Tuân. Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục, Hà Nội.
19. Trịnh Thị Lan, (2005), “Ngôn ngữ văn bản với việc dạy học đọc hiểu
văn bản”, Tạp chí Giáo dục (131), tr. 27 – 28, 37.
20. Phan Trọng Luận, (2004), Phương pháp dạy học văn. Nxb Đại học Sư phạm.
21. Phan Trọng Luận, (2003), Văn chương bạn đọc sáng tạo. Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
22. Nguyễn Đăng Mạnh, (2008), Phân tích bình giảng tác phẩm văn học
nâng cao 11.Nxb Giáo dục.
23. Tôn Thảo Miên, (2001), Nguyễn Tuân về tác giả và tác phẩm, NXB
Giáo dục.
24. Nguyễn Thị Thanh Minh, (2005), Quan niệm về cái đẹp của Nguyễn
Tuân trong sáng tạo nghệ thuật, Nxb Văn học.
25. Trần Hữu Sáng, (2012), Trường nghĩa miêu tả ánh sáng trong một số tác
phẩm của Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Thạch Lam. Luận văn thạc sĩ khoa
học Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm, Hà Nội.
26. Trần Đình Sử, (2001), Đọc văn hiểu văn. Nxb Giáo dục.
27. Trần Đình Sử, (2007), “Dạy học văn là dạy học sinh đọc hiểu văn bản”.
Tạp chí văn học và tuổi trẻ (9), tr. 23 – 25.
28. Trần Đình Sử, (2007), “Đọc hiểu văn bản là thế nào”, Tạp chí văn học và
tuổi trẻ (11), tr. 19 – 21.
29. Nguyễn Thị Hồng Thắm, (2004), Xác định tri thức đọc hiểu cho học
sinh trung học phổ thông khi đọc tác phẩm “Chí phèo” của Nam Cao”.
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục.
30. Trần Thị Hồng Thu, (2007), “Mô hình đọc hiểu theo đặc trưng thể loại
với việc hình thành và bồi dưỡng kĩ năng đọc hiểu văn bản văn chương
101
cho học sinh THPT”, Tạp chí Giáo dục (162), tr. 22 – 24, 42.
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC SỐ 1:
PHIẾU ĐIỀU TRA THỰC TRẠNG DẠY HỌC VĂN VÀ TÁC PHẨM
“CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ” Ở TRƯỜNG THPT TÂN LẬP
(Dành cho giáo viên)
Xin thầy (cô) cho biết ý kiến của mình về những vấn đề sau:
Câu 1: Thầy( cô) đã từng dạy mấy trường? ……… trường.
Câu 2: Theo Thầy (cô) hiện nay học sinh không thích học văn do:
Nhu cầu xã hội Phương pháp giảng dạy
Chương trình SGK Bản thân học sinh
Câu 3: Khi dạy đọc hiểu tác phẩm văn chương, Thầy Cô thường sử dụng mấy
phương pháp:
Phương pháp diễn giảng Phương pháp đọc chép
Phương pháp bình giảng Phương pháp đọc hiểu
Câu 4: Thầy (cô) đã biết phương pháp đọc hiểu chưa?
Đã từng biết Chưa từng biết
Câu 5: Thầy (cô) có thường xuyên sử dụng phương pháp này không?
Thường xuyên Thỉnh thoảng Chưa bao giờ
Câu 6: Khi dạy tác phẩm “Chữ người tử tù”, Thầy (cô) có rèn kĩ năng đọc –
hiểu cho học sinh không?
Thường xuyên Thỉnh thoảng Chưa bao giờ
Câu 7: Khi dạy đọc – hiểu tác phẩm “Chữ người tử tù”, Thầy (cô) thường
chú trọng tầng ý nghĩa nào?
Tầng ngôn từ Tầng hình tượng nghệ thuật Tầng ý vị nhân sinh
102
Xin chân thành cảm ơn thầy (cô) !
PHỤ LỤC 2:
PHIẾU ĐIỀU TRA THỰC TRẠNG DẠY HỌC VĂN VÀ TÁC PHẨM
“CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ” Ở TRƯỜNG THPT TÂN LẬP
(Dành cho học sinh)
Xin em cho biết ý kiến của mình về các vấn đề sau:
Câu 1: Trong giờ học văn, em cảm thấy:
Rất ngại học Rất áp lực, mệt mỏi.
Có một chút hứng thú. Rất hứng thú, hấp dẫn.
Câu 2: Em thích một tiết học văn:
Giáo viên giảng thật hay và đọc bài cho học sinh chép.
Giáo viên đặt vấn đề, học sinh trao đổi thảo luận.
Giáo viên giảng, học sinh phát biểu và tự ghi bài
Giáo viên rèn kĩ năng đọc hiểu cho HS.
Câu 3: Cảm nhận của em khi được học tác phẩm “Chữ người tử tù” của
Nguyễn Tuân?
Thích Không thích Bình thường
Câu 4: Khi đọc – hiểu tác phẩm này em quan tâm tới kĩ năng nào?
Kĩ năng đọc chính xác Kĩ năng đọc phân tích
Kĩ năng đọc sáng tạo Kĩ năng đọc tích lũy
Tất cả kĩ năng trên
Câu 5: Khi đọc hiểu tác phẩm “Chữ người tử tù” em thường chú trọng vào
tầng ý nghĩa nào?
Tầng ngôn từ Tầng hình tượng nghệ thuật Tầng ý vị nhân sinh
Câu 6: Em có khó khăn gì khi học tác phẩm “Chữ người tử tù”
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
103
Xin chân thành cảm ơn em!