intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Lý thuyết đặt cơ sở trên dữ kiện thực địa: trình bày và so sánh với một số tiếp cận định tính khác

Chia sẻ: Vy Vy | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

53
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết trình bày nguồn gốc lý thuyết, phương pháp luận, các qui trình của lý thuyết. Đặc biệt một số tương đồng và khác biệt của lý thuyết trên với một số tiếp cận định tính khác cũng được đặt ra. Kết luận bài viết đề cập đến vài hạn chế và đóng góp của lối tiếp cận này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Lý thuyết đặt cơ sở trên dữ kiện thực địa: trình bày và so sánh với một số tiếp cận định tính khác

See discussions, stats, and author profiles for this publication at: https://www.researchgate.net/publication/329905589<br /> <br /> LÝ THUYẾT ĐẶT CƠ SỞ TRÊN DỮ KIỆN THỰC ĐỊA: TRÌNH BÀY VÀ SO SÁNH<br /> VỚI MỘT SỐ TIẾP CẬN ĐỊNH TÍNH KHÁC (Introduction to grounded theory<br /> and comparison with some other qualitative appro...<br /> Article · December 2018<br /> CITATIONS<br /> <br /> READS<br /> <br /> 0<br /> <br /> 222<br /> <br /> 1 author:<br /> Nguyen Xuan Nghia<br /> Ho Chi Minh City Open University<br /> 59 PUBLICATIONS   29 CITATIONS   <br /> SEE PROFILE<br /> <br /> Some of the authors of this publication are also working on these related projects:<br /> <br /> Environmental Education View project<br /> <br /> Social Theory View project<br /> <br /> All content following this page was uploaded by Nguyen Xuan Nghia on 25 December 2018.<br /> <br /> The user has requested enhancement of the downloaded file.<br /> <br /> TAÏP CHÍ KHOA HOÏC XAÕ HOÄI SOÁ 9(145)-2010<br /> <br /> 9<br /> <br /> KINH TEÁ HOÏC - XAÕ HOÄI HOÏC<br /> <br /> LÝ THUYẾT ĐẶT CƠ SỞ TRÊN DỮ KIỆN<br /> THỰC ĐỊA: TRÌNH BÀY VÀ SO SÁNH VỚI<br /> MỘT SỐ TIẾP CẬN ĐỊNH TÍNH KHÁC<br /> NGUYỄN XUÂN NGHĨA<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Lý thuyết đặt cơ sở trên dữ kiện thực địa<br /> (grounded theory) là một trong các các lối<br /> tiếp cận chính của nghiên cứu định tính.<br /> Ngày nay nó được sử dụng rộng rãi trong<br /> các bộ môn khoa học xã hội, nhân văn, cả<br /> trong y khoa và công nghệ thông tin. Bài<br /> viết trình bày nguồn gốc lý thuyết, phương<br /> pháp luận, các qui trình của lý thuyết. Đặc<br /> biệt một số tương đồng và khác biệt của lý<br /> thuyết trên với một số tiếp cận định tính<br /> khác cũng được đặt ra. Kết luận bài viết đề<br /> cập đến vài hạn chế và đóng góp của lối<br /> tiếp cận này.<br /> Các phương pháp trong nghiên cứu định<br /> tính được đề cập đến thường bao gồm: qui<br /> nạp phân tích (analytic induction), dân tộc<br /> học mô tả, phương pháp hiện tượng luận<br /> và lý thuyết đặt cơ sở trên dữ kiện thực địa<br /> (grounded theory)(1). Lý thuyết đặt cơ sở<br /> trên dữ kiện thực địa là một phương pháp<br /> do hai nhà xã hội học Mỹ Glaser và<br /> Strauss đưa ra trong tác phẩm Khám phá<br /> lý thuyết đặt cơ sở trên dữ kiện thực địa.<br /> Nguyễn Xuân Nghĩa. Tiến sĩ. Trường Đại học<br /> Mở Thành phố Hồ Chí Minh.<br /> <br /> Các chiến lược cho nghiên cứu định tính)<br /> ([1967], 2009). Hai ông đã dần hình thành<br /> lý thuyết từ cuộc nghiên cứu năm 1965,<br /> Nhận thức về sự hấp hối (1965). Lý thuyết<br /> này dần dần được ứng dụng trong các lãnh<br /> vực y tế, tiếp thị, giáo dục, tâm lý học, phát<br /> triển nguồn nhân lực, nghiên cứu tổ chức<br /> và các lãnh vực khác như hệ thống thông<br /> tin (Fernandez, 2004). Số lượng nghiên<br /> cứu ứng dụng lối tiếp cận này càng ngày<br /> càng gia tăng, lấy thí dụ trong lãnh vực sức<br /> khỏe, điều dưỡng, Benoliel đã thống kê,<br /> năm 1980 có 5 nghiên cứu dựa trên lý<br /> thuyết này, năm 1984: 225 nghiên cứu,<br /> năm 1995: 1997 nghiên cứu (Egen, 2002,<br /> tr. 279). Cuốn sách nêu trên của Glaser và<br /> Strauss (1967) được trích dẫn trong 21.201<br /> bài viết; cuốn sách của Strauss và Corbin<br /> (1990) được trích dẫn trên 14.438 bài<br /> viết(2).<br /> 1. NGUỒN GỐC LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG<br /> PHÁP LUẬN<br /> Mặc dù có những tương đồng với nhân học<br /> xã hội là nhằm làm rõ cơ cấu, tính qui luật<br /> của các hiện tượng xã hội, nhưng trong khi<br /> nhân học xã hội đặt ưu tiên vào việc mô tả,<br /> lý thuyết đặt cơ sở trên dữ kiện thực địa có<br /> mục đích xây dựng một lý thuyết từ những<br /> <br /> 10<br /> <br /> NGUYEÃN XUAÂN NGHÓA – LYÙ THUYEÁT ÑAËT CÔ SÔÛ TREÂN DÖÕ KIEÄN…<br /> <br /> dữ kiện thực địa. Nguồn gốc của lý thuyết<br /> này xuất phát từ những trào lưu tư tưởng<br /> lớn của hai trường đại học Mỹ là đại học<br /> Columbia, nơi tốt nghiệp của B. G. Glaser<br /> và ông rất gần gũi với P. Lazarsfeld, và đại<br /> học Chicago nơi A. Strauss được đào tạo.<br /> Do vậy lý thuyết đặt cơ sở trên dữ kiện<br /> thực địa không hoàn toàn độc đáo, bởi lẽ<br /> nó hệ thống và triển khai một số qui tắc của<br /> trường phái Chicago. Người ta nhận thấy<br /> có nhiều nét thân thuộc giữa phương<br /> pháp này với các lối tiếp cận trước đó<br /> như lý thuyết tương tác biểu tượng, qui<br /> nạp phân tích. Phương pháp này được<br /> sử dụng phối hợp với các phương pháp<br /> khác như dân tộc học, nghiên cứu tiểu sử<br /> (life history) hay phương pháp luận dân dã<br /> (ethnomethodology).<br /> Phương pháp này nhằm xây dựng các lý<br /> thuyết có cơ sở thực nghiệm từ các hiện<br /> tượng xã hội. Như vậy, nó được xem như<br /> là một phản ứng chống lại sự tư biện lý<br /> thuyết tách rời khỏi thực tại, đồng thời<br /> chống lại trào lưu định lượng thực chứng<br /> mà C. Mills đã phê bình, bởi lẽ trào lưu này<br /> không có ý nghĩa lý thuyết, thiếu nghiêm<br /> cẩn trong việc giải thích các dữ kiện và<br /> không lý giải được ý nghĩa xã hội học của<br /> các kết quả nghiên cứu. Glaser và Strauss<br /> muốn hình thành một phương pháp nhằm<br /> xây dựng các lý thuyết phản ánh tính đa<br /> dạng, phong phú của xã hội đồng thời cho<br /> ra đời những nghiên cứu có giá trị và được<br /> kiểm nghiệm cách hệ thống bằng các mẫu<br /> thâu thập dữ kiện chặt chẽ.<br /> Phương pháp luận của lý thuyết đặt cơ sở<br /> trên dữ kiện thực địa còn bắt nguồn từ lý<br /> thuyết thực dụng (pragmatism) Mỹ và triết<br /> học hiện tượng luận. Các tác giả của lý<br /> thuyết này thấy sự cần thiết phải cắm chặt<br /> <br /> lý thuyết trong thực tiễn để đẩy mạnh các<br /> bộ môn khoa học và nhận thức được tầm<br /> quan trọng của quan sát thực địa trong việc<br /> thấu hiểu các hiện tượng xã hội. Việc quan<br /> sát này chú trọng đến những biến đổi,<br /> những quá trình và tính đa dạng của thực<br /> tại xã hội (Strauss và Cobin, 1990, 25). Với<br /> hiện tượng luận, lý thuyết đặt cơ sở trên dữ<br /> kiện thực địa chịu ảnh hưởng nguyên tắc<br /> giản hóa (reduction), có nghĩa là đặt qua<br /> một bên những khái niệm có sẵn về hiện<br /> tượng, để chính hiện tượng tự bộc lộ mình.<br /> Lý thuyết này không chấp nhận việc kiến<br /> tạo trước các khái niệm hay giả thiết về<br /> hiện tượng nghiên cứu. Chúng chỉ được<br /> xây dựng và kiểm chứng dần dần theo tiến<br /> độ cuộc nghiên cứu trên thực địa. Lối tiếp<br /> cận này nằm trong một quan điểm nhận<br /> thức luận lớn hơn vốn chủ trương rằng xã<br /> hội không phải là dữ kiện có sẵn như quan<br /> niệm của thuyết duy thực chứng, mà được<br /> kiến tạo liên tục bởi những tác nhân xã hội.<br /> Nhấn mạnh tầm quan trọng của tác nhân<br /> xã hội, nhưng lý thuyết này không quên<br /> lãng bối cảnh xã hội trong đó hình thành<br /> các hành động của các tác nhân (Strauss,<br /> Cobin, 1990).<br /> Cho dù, sau này có một số khác biệt giữa<br /> Glaser và Strauss, qui trình nghiên cứu của<br /> hai ông đều đi qua các bước: xác định đối<br /> tượng nghiên cứu, thâu thập dữ kiện, mã<br /> hoá, so sánh, hình thành khái niệm, chọn<br /> mẫu theo lý thuyết, phát triển chủ đề cốt lõi<br /> (core category), đưa ra lý thuyết (Walker,<br /> Myrick, 2006, tr. 550).<br /> 2. CÁC QUY TRÌNH CỦA LÝ THUYẾT<br /> ĐẶT CƠ SỞ TRÊN DỮ KIỆN THỰC ĐịA<br /> 2.1. Xác định đối tượng nghiên cứu<br /> Đối tượng nghiên cứu của lý thuyết này là<br /> một hiện tượng xã hội mà ta muốn đào sâu<br /> <br /> NGUYEÃN XUAÂN NGHÓA – LYÙ THUYEÁT ÑAËT CÔ SÔÛ TREÂN DÖÕ KIEÄN…<br /> <br /> phân tích lý thuyết. Đối tượng này có thể<br /> xác định từ những quan tâm lý thuyết hay<br /> ứng dụng – ví như quá trình hình thành các<br /> quan hệ liên tộc người, việc thực hiện các<br /> chính sách nhằm hội nhập những người di<br /> dân. Điều quan trọng chính là đối tượng<br /> này liên quan đến các quá trình, có nghĩa<br /> là tìm hiểu sự biến đối của một hiện tượng.<br /> Hơn nữa, lúc khởi đầu đối tượng nghiên<br /> cứu có thể được xác định rộng hay hẹp là<br /> do cách thức phân tích tập trung vào việc<br /> xây dựng các khái niệm cho phép hiểu rõ<br /> hiện tượng nghiên cứu, vì vậy một cách<br /> nào đó đối tượng nghiên cứu không có<br /> ranh giới. Thí dụ việc tìm hiểu các dịch vụ y<br /> tế có thể đòi hỏi việc hiểu sâu tổ chức tổng<br /> quát các chăm sóc y tế (Hennebo N.<br /> 2009).Việc tìm hiểu một hiện tượng xã hội<br /> đôi lúc đòi hỏi việc hiểu toàn bộ hệ thống<br /> xã hội. Hơn nữa một trong những đặc điểm<br /> của phương pháp này là đối chiếu với<br /> những tình huống tương tự nhưng có điểm<br /> tương phản.<br /> Việc xác định đối tượng nghiên cứu có vẻ<br /> không rõ ràng trong lý thuyết này thường<br /> gây nghi ngờ cho những người chỉ quen<br /> thuộc với lối nghiên cứu định lượng.<br /> 2.2. Chọn lựa địa điểm, tình huống hay<br /> nhóm cuộc nghiên cứu nhắm tới<br /> Việc chọn lựa địa điểm, tình huống hay<br /> nhóm nào tùy thuộc câu hỏi nghiên cứu và<br /> đặc biệt tùy thuộc tính phù hợp lý thuyết<br /> của câu hỏi này. Lấy thí dụ, để nghiên cứu<br /> các quan hệ liên tộc người, ta có thể chọn<br /> nghiên cứu ở các trường công lập vì đó là<br /> nơi có sự chung sống giữa các nhóm tộc<br /> người; tiếp theo, trong nội bộ trường, ta có<br /> thể tập trung nghiên cứu thanh thiếu niên vì<br /> các em đang ở độ tuổi quan trọng có liên<br /> <br /> 11<br /> <br /> quan đến việc hình thành căn tính xã hội.<br /> Tóm lại việc chọn một tình huống, một<br /> nhóm nghiên cứu tùy thuộc khả năng<br /> chúng làm sáng tỏ hiện tượng ta muốn<br /> nghiên cứu. Mẫu nghiên cứu khởi đầu này<br /> có thể thay đổi tùy theo nhu cầu trong quá<br /> trình phát triển lý thuyết.<br /> Đại bộ phận nghiên cứu được tiến hành<br /> theo phương pháp này dựa trên những dữ<br /> kiện thực địa như quan sát, phỏng vấn,<br /> nhưng cũng có thể sử dụng các loại dữ<br /> kiện khác như dữ kiện định lượng, tư liệu<br /> các loại, hình ảnh và ngay cả các phân tích<br /> dữ kiện thực địa đã được thực hiện nếu<br /> chúng có thể cho phép xây dựng hệ thống<br /> một lý thuyết có thể kiểm chứng được.<br /> 2.3. Xây dựng các chủ đề khái niệm<br /> (conceptual categories)<br /> Mục tiêu chính của lý thuyết đặt cơ sở trên<br /> dữ kiện thực địa là xây dựng lý thuyết và<br /> đơn vị căn bản phân tích của phương pháp<br /> này là các khái niệm. Khái niệm không phải<br /> là sự kiện hay biến cố (các tác giả Glaser<br /> và Strauss dùng thuật ngữ incidents) mà là<br /> cái biểu trưng cho các sự kiện, biến cố này.<br /> Thí dụ trong nghiên cứu của Laperrière về<br /> quan hệ liên tộc người, một vài sự kiện cho<br /> thấy các thanh niên Ý ở Québec đã Pháp<br /> hóa tên của mình, từ bỏ những nét truyền<br /> thống Ý rõ ràng. Các sự kiện này được xếp<br /> vào khái niệm “phủ định sự khác biệt”<br /> (Laperrière, 1997). Thí dụ khác, trong<br /> nghiên cứu của Glaser và Strauss đã nêu<br /> trên, những nhận định đánh giá về cái chết<br /> của bệnh nhân như “anh ta trẻ quá”, “Nếu<br /> không có cô, các con của cô sẽ làm gì<br /> đây?”, “Thật là một mất mát cho xã hội!”,<br /> được liệt kê vào khái niệm “mất mát xã<br /> hội”. Tiếp theo, những khái niệm thuộc về<br /> <br /> 12<br /> <br /> NGUYEÃN XUAÂN NGHÓA – LYÙ THUYEÁT ÑAËT CÔ SÔÛ TREÂN DÖÕ KIEÄN…<br /> <br /> cùng một lãnh vực được tập hợp lại trong<br /> một chủ đề khái niệm (hay khái niệm<br /> chính). Trở lại nghiên cứu của Lapenière,<br /> các khái niệm “phủ định sự khác biệt”, và<br /> khái niệm “tâm lý hóa sự khác biệt” (qui<br /> chiếu việc chọn bạn thân cùng một tộc<br /> người là do tính cách của cá nhân) được<br /> tập hợp lại trong chủ đề khái niệm “che<br /> giấu sự khác biệt”.<br /> Các chủ đề khái niệm phải bám vào thực<br /> tiễn nghiên cứu, vì phương pháp này còn<br /> được gọi là phương pháp lập thuyết từ<br /> những dữ kiện thực địa (ancrer la théorie<br /> dans les faits, neo lý thuyết vào các sự<br /> kiện). Từ các quan sát càng lúc càng<br /> được tinh tế do được đối chiếu liên tục,<br /> người ta làm rõ các chủ đề và giả thiết.<br /> Các dữ kiện không chỉ là chỉ báo của các<br /> khái niệm hay các chủ đề mà còn là công<br /> cụ để xác minh. Các chủ đề khái niệm<br /> được xây dựng lại cho đến khi nào không<br /> có dữ kiện mới đi ngược lại chúng - đây là<br /> nguyên tắc bão hòa (saturation) (Glaser,<br /> Strauss, 1967, tr. 61). Trở lại khái niệm<br /> “mất mát xã hội” trong nghiên cứu của<br /> Glaser và Strauss, khái niệm này tạo nên<br /> một chiều kích thích hợp cho việc quan sát<br /> hiện tượng nghiên cứu là các hành vi<br /> chăm sóc của bác sĩ, y tá và đồng thời nó<br /> cũng cho phép đưa ra các tiên đoán về<br /> chất lượng các chăm sóc.<br /> Sau khi đã xác định các chủ đề khái niệm,<br /> người nghiên cứu cố gắng đưa ra các<br /> thuộc tính, các đặc điểm của các chủ đề<br /> khái niệm. Động tác này đi qua hai bước<br /> nhỏ; bước thứ nhất, ta tối thiểu hóa các<br /> khác biệt quan sát được nhằm chi tiết hóa<br /> và củng cố nội dung các chủ đề khái niệm;<br /> bước thứ hai, tối đa hóa những khác biệt<br /> này với mục đích làm bật ra những điều<br /> <br /> kiện xuất hiện và biến đổi của hiện tượng<br /> nghiên cứu. Lấy thí dụ, người ta có thể chi<br /> tiết hóa nội dung của khái niệm “che giấu<br /> sự khác biệt tộc người” nêu trên và xem<br /> những ai (khi nào, thế nào, với ai, tại sao,<br /> kết quả thế nào) sử dụng chiến lược này<br /> (Strauss, Corbin, 1990, tr. 77). Sau đó liệt<br /> kê ra những đặc điểm của khái niệm đối<br /> nghịch “phô trương sự khác biệt tộc người”<br /> và so sánh hai tập hợp khái niệm để đi đến<br /> việc nhận ra những điều kiện xuất hiện của<br /> chiến lược này hay chiến lược kia.<br /> Sau đó, những đặc điểm của một chủ đề<br /> khái niệm được xem xét dưới những chiều<br /> kích của chúng. Trong ngôn ngữ của<br /> phương pháp này, khái niệm chiều kích chỉ<br /> việc định vị các đặc điểm trên một trục liên<br /> tục, thí dụ, trong tương quan với số lượng:<br /> ít/nhiều, trong tương quan với thời gian:<br /> sớm/trễ... Thí dụ, khái niệm “mất mát cho<br /> xã hội” được xét dưới chiều kích nhiều hay<br /> ít.<br /> Cuối cùng, qua việc quan sát tất cả các<br /> chiều kích của một khái niệm, ta có thể có<br /> cái nhìn tổng thể (dimensional profile) để từ<br /> đó tạo ra các loại hình hay khuôn mẫu<br /> (pattern) của hiện tượng nghiên cứu.<br /> 2.4. Quá trình mã hóa và các giai đoạn của<br /> phân tích đối chiếu liên tục<br /> Phương pháp đối chiếu là một trọng tâm<br /> của lý thuyết đặt cơ sở trên dữ kiện thực<br /> địa, nhằm làm bật ra những tương đồng, dị<br /> biệt giữa các dữ kiện hòng xác định được<br /> những đặc điểm, những quan hệ, các yếu<br /> tố chi phối các biến đổi (Glaser, Strauss,<br /> 1967, tr. 103-107).<br /> Sau khi việc thâu thập dữ kiện thực địa đầu<br /> tiên được thực hiện, việc mã hóa mở (open<br /> coding) được tiến hành ngay. Mã hóa mở<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2