intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Mạch Học: CÁC BỘ VỊ ĐỂ CHẨN MẠCH

Chia sẻ: Abcdef_40 Abcdef_40 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

93
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bộ vị để chẩn mạch, theo các sách xưa, có nhiều cách khác nhau, có thể tóm vào ba cách sau: 1- Cách Chẩn Mạch Toàn Thân (Biến Chấn Pháp) thiên ‘Tam Bộ Cửu Hậu Luận’ (T. Vấn 20) trình bày như sau: a- Thượng Bộ (Đầu) chia là ba vùng: ¨ Thượng Bộ Thượng: động mạch hai bên trán (thái dương) để chẩn bệnh khí ở cạnh bên đầu. ¨ Thượng Bộ Trung: động mạch trước tai (tương ứng vùng huyệt Nhĩ Môn) để chẩn bệnh về tai và mắt. ¨ Thượng Bộ Hạ: động mạch hai bên má...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Mạch Học: CÁC BỘ VỊ ĐỂ CHẨN MẠCH

  1. CÁC BỘ VỊ ĐỂ CHẨN MẠCH Bộ vị để chẩn mạch, theo các sách x ưa, có nhiều cách khác nhau, có thể tóm vào ba cách sau: 1- Cách Chẩn Mạch Toàn Thân (Biến Chấn Pháp) thiên ‘Tam Bộ Cửu Hậu Luận’ (T. Vấn 20) trình bày như sau: a- Thượng Bộ (Đầu) chia là ba vùng: Thượng Bộ Thượng: động mạch hai bên trán (thái dương) để chẩn bệnh ¨ khí ở cạnh bên đầu. Thượng Bộ Trung: động mạch trước tai (tương ứng vùng huyệt Nhĩ Môn) ¨ để chẩn bệnh về tai và mắt. Thượng Bộ Hạ: động mạch hai bên má (tương ứng vùng huyệt Cư Liêu) ¨ để chẩn bệnh ở miệng và răng. b- Trung Bộ (Tay), chia làm ba vùng: Trung Bộ Thượng: thủ thái âm (vùng thốn khẩu - huyệt Thái Uyên) để ¨ chẩn bệnh về Phế. Trung Bộ Trung: thủ thiếu âm (vùng huyệt Thần Môn - chỗ lõm ở lằn chỉ ¨ trong cổ tay, thẳng ngón tay út lên) để chẩn bệnh về tạng tâm. Trung Bộ Hạ: thủ dương minh (vùng hổ khẩu - huyệt Hiệp Cốc) để chẩn ¨ bệnh về khí ở trong ngực. c- Hạ Bộ (Chân), chia làm ba vùng: Hạ Bộ Thượng: túc quyết tâm (vùng huyệt Ngũ Lý hoặc Thái Xung) để ¨ chẩn bệnh về tạng can. Hạ Bộ Trung: túc thái âm (v ùng huyệt Cơ Môn hoặc Xung Dương) để ¨ chẩn bệnh về Tỳ Vị, xem Vị khí. Hạ Bộ Hạ: túc thiếu âm (vùng huyệt Thái Khê) để chẩn bệnh về tạng ¨ Thận.
  2. Học THỐN QUAN XÍCH Thuyết Phải Phải Phải Trái Trái Trái Phế, Tỳ Thận Thận Nan Tâm Can Kinh Đại Tiểu Vị Đởm Mệnh Bàng Trường Trường Môn Quang Vương P hế Tỳ Mệnh Thận Tâm Can Thúc Môn Đại Tiểu Vị Đởm Bàng Hòa Bàng Trường Trường Quang Quang P hế Tỳ Mệnh Thận Lý Tâm Can Đông Môn Đại Tiểu Vị Đởm Bàng Viên Trường Trường T. Tiêu Quang Hoạt Phế Đ. Tâm Tỳ T. Tiêu Thận Can Trường Bá Tiểu Vị Đởm T. Bào Bàng Nhân Trường Quang P hế Tỳ Thận Thận Lý Tâm Can Thời Đại Vị Đởm Trường Tiểu Hung Chiên Trân Trường Trung Trung Dụ Gia Phế Tỳ Thận Thận Tâm Can Ngôn Vị Đởm T. Tiêu B. Quang Tiểu Trường Đại Trường P hế Tỳ Thận Thận Lý Tâm Can Đại Sĩ Tài Vị Vị Đởm Trường Tiểu Chiên Trường Trung Trung Trương Phế Tỳ Mệnh Thận Tâm Can Cảnh Môn Vị Đởm Chiên Tâm B. Nhạc Trung Bào Quang
  3. Đại T. Tiêu Trường Tiểu Trường Tỳ Đại Tiểu Y Hung Chiên Can Trường Trường Tông Trung. Trung. Vị Đởm Thận P hế Kim Tâm B. Giám Quang Thận Việc chia làm ba vùng (Tam Bộ) và 9 khu (Cửu Hậu) theo sách Tố Vấn ở trên là để dò tìm các mạch máu ở phần (lớ p) nông (cạn) của toàn thân, qua đó phân tích sự biến hóa về khí huyết trong cơ thể con người suy hoặc thịnh. Hiện nay trên lâm sàng ít khi dùng đ ến. Trong trường hợp bệnh nặng hoặc nguy hiểm, ng ười ta mới chẩn mạch ở Xung Dương (xem vị trí còn hoặc mất, tiên liệu được việc dung nạp thuốc hay không) hoặc xem ở mạch Thái Khê để dự đoán sống (c òn đập) hoặc chết (không đập nữa). 2- Cách Chẩn Mạch Theo Tam Bộ Theo sách ‘Thương Hàn Luận’, có thể chỉ xem mạch ở tam (ba) bộ: · Nhân Nghinh (động mạch cổ) để chẩn về vị khí. · Thốn Khẩu (động mạch tay quay - huyệt Thái Uyên) để chẩn bệnh của 12 đường kinh. · Phu Dương (động mạch mu bàn chân - huyệt Xung Dương) để chẩn về vị khí. 3- Cách Chẩn Mạch Thốn Khẩu Sách ‘Nan Kinh’, ở Nan thứ I cho rằng, chỉ cần xem mạch ở thốn khẩu, và cũng chia ra làm ba bộ: Thốn, Quan và Xích. Mỗi bộ lại chia ra làm ba hậu: Phù, Trung và Trầm, hợp lại cũng thành tam bộ cửu hậu. Chỉ dùng một bộ thốn khẩu để xem sự thịnh suy khí huyết của toàn thân.
  4. Để giải Vấn Nạn (Nan) I là: “12 kinh đều có động mạch nhưng chỉ xem mạch thốn khẩu để chẩn đoán việc lành dữ, sống chết của lục phủ, ngũ tạng là thế nào?” Tần-Việt-Nhân trả lời như sau: “Thốn Khẩu là chỗ đại hội của mạch, l à động mạch của thủ thái âm... là chung thỉ của ngũ tạng, lục phủ, vì vậy, phép chẩn phải lấy ở thốn khẩu. (Thốn khẩu giả, mạch chi đại hội, thủ thái âm chi mạch động dã... Thốn khẩu giả, ngũ tạng lục phủ chi sở chung thỉ, cố pháp thủ ư thốn khẩu dã). Trong thiên ‘Ngũ Tạng Biệt Luận’ (T. Vấn 11) Hoàng Đế hỏi: “Khí khẩu tại sao lại làm chủ riêng của ngũ tạng?” Kỳ Bá đáp: “Vị là bể chứa thức ăn, là nguồn gốc của lục phủ. Nh ư vậy, tuy việc chẩn mạch ở thốn khẩu do sách Nan Kinh đề xuất nhưng cũng bắt nguồn từ sách Nội Kinh Tố Vấn. (Ghi Chú: Vương Thúc Hòa trong sách ‘Mạch Kinh’ gọi bộ thốn bên trái là Nhân Nghinh và bộ thốn bên phải là Khí Khẩu). 4- Mạch Và Tạng Phủ Theo Nan thứ 18 (N. Kinh) thì bộ vị xem mạch ở thốn khẩu đ ược chia làm ba bộ và được gọi theo thứ tự: Thốn, Quan v à Xích. Các bộ vị này sẽ tương ứng với Tạng Phủ trong cơ thể. Việc sắp xếp (định vị) các bộ vị t ương ứng với các tạng phủ ra sao đ ã được các sách kinh điển ghi chép lại. Tùy theo quan điểm của mỗi tác giả, cách định vị có hơi khác nhau về danh xưng, nhưng về cơ bản lại rất giống nhau. (Xem Biểu Đồ Của Các Học Thuyết Về Bộ Vị Mạch) Các học thuyết trên, việc phân bố vị trí của tạng phủ đều dựa theo ý của thi ên ‘Mạch Yếu Tinh Vi Luận’ (T. Vấn 17) chỉ riêng vị trí của Đại trường, tiểu trường và tam tiêu là có nhiều khác biệt: - Theo Vương Thúc Hòa trong sách ‘Mạch Kinh’ thì: “Tiểu trường tương ứng với Tâm, vì vậy, Tiểu trường ở bộ thốn bên trái cùng với tâm, Đại trường biểu lý với Phế, vì vậy, Đại trường ở bộ thốn bên tay phải cùng với Phế. Tam tiêu ở bộ Xích bên tay phải cùng với Mệnh môn hỏa vì Mệnh môn hỏa và Tam tiêu đều là tướng hỏa”. - Theo Trương Cảnh Nhạc trong tập ‘Cảnh Nhạc To àn Thư’ thì Tiểu trường ở bộ xích bên tay phải, cùng vị trí với Mệnh môn hỏa vì hỏa ở Tiểu trường gần với hỏa ở Thận hơn là hỏa ở Tâm. Ngoài ra, Tiểu trường cũng tương thông với
  5. Thận và Bàng quang. Đại trường ở bộ xích bên tay trái, cùng vị trí với Thận thủy vì kim (Đại trường) sinh thủy (Thận). - Theo Lý Thời Trân trong ‘Tần Hồ Mạch Học’ thì Tiểu trường ở dưới Tâm, vì vậy ở bộ xích bên trái. Đại trường ở dưới Phế, vì vậy ở bộ xích bên phải. Đặc biệt Trương Cảnh Nhạc và Lý Thời Trân không đề cập đến Tam tiêu. (Xem thêm chi tiết trong biểu đồ) Nhận định về việc phân bố các bộ vị tạng phủ với mạch, Trần Tu Vi ên đã bình luận như sau: “Đại và Tiểu Trường ở trong sách Nội Kinh không đề cập đến, các nhà (nghiên c ứu) sau đều theo lý mà dựa vào, (điều này) không thể câu nệ, chỉ dùng để tham khảo trong việc biện chứng”. Lý Thời Trân, trong sách ‘Tần Hồ Mạch Học’ cũng nhận định: “Sáu bộ ở hai tay đều là mạch của Phế, chỉ cần lấy đó mà chẩn đoán khí của ngũ tạng lục phủ chứ không phải l à vị trí của ngũ tạng lục phủ”. Hiện nay, đa số các nhà nghiên c ứu chọn dùng theo học thuyết của Lý Đông Viên như sau: TAY PHẢI TAY TRÁI P hế Tâm THỐN Đại Trường Tiểu Trường Tỳ Can Đởm Vị Đởm QUAN Mệnh Môn Thận XÍCH Tam Tiêu Bàng Quan
  6. 5- Sự Liên Hệ Giữa Các Bộ Vị Mạch Dựa theo đặc tính sinh khắc của Ngũ H ành, áp dụng vào cách phân định bộ vị của mạch và tạng phủ theo Lý Đông Viên, ta có: + Tương Sinh: Thận Thủy (bộ xích tay trái) sinh Can Mộc (Quan), Mộc sinh Hỏa (Thốn) v à Hỏa (Mệnh Môn - xích bên phải) sinh Tỳ Thổ (Quan), Tỳ Thổ sinh Phế Kim (Thốn). TAY PHẢI TAY TRÁI THỐN Tâm Hỏa Phế Kim é Can Mộc Tỳ Thổ é QUAN Thận Thủy é é Mệnh Môn XÍCH (Hỏa) + Tương Khắc: Nhìn vào hàng ngang, gi ữa 2 tay phải và trái, và gi ữa các bộ vị cùng tên, ta thấy có sự t ương khắc: Tâm Hỏa khắc Phế Kim, Can Mộc khắc Tỳ Thổ, Thận Thủy khắc Mệnh Môn Hỏa. TAY PHẢI TAY TRÁI THỐN Tâm Hỏa Phế Kim èè Can Mộc Tỳ Thổ QUAN èè Thận Thủy èè Mệnh Môn Hỏa XÍCH Nếu nhìn chéo sẽ thấy: Phế Kim khắc Can Mộc, Tỳ Thổ khắc Thận Thủy v à như vậy sẽ có 1 vòng liên hợp tương khắc như sau:
  7. Tâm Hỏa khắc Phế Kim, Phế Kim khắc Can Mộc, Can Mộc khắc Tỳ Thổ, Tỳ Thổ khắc Thận Thủy, Thận Thủy khắc Mệnh Môn Hỏa, và vòng tương khắc cứ như vậy mà tiếp diễn. Có lẽ vì vậy mà hình thái định vị này đươc nhiều người chú ý và chấp nhận. Sách ‘Y Học Nhập Môn’ của Lý Diên đã diễn ca các vị trí của tạng phủ nh ư sau: “Tả Tâm, Tiểu Trường, Can, Đởm, Thận, Hữu Phế, Đaị Trường, Tỳ, Vị, Mệnh (Môn). - Tâm dữ Tiểu trường cư tả thốn Can, Đởm đồng quy tả quan định, Thận mạch nguyên tại tả xích trung, Bàng quang thị phủ thường tương ứng. - Phế dữ Đại trường cư hữu thốn, Tỳ, Vị mạch tùng hữu quan nhận, Tâm Bảo hữu xích phối Tam tiêu Thử vi sơ học nhập môn quyết”.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2