MẤY VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ HIỆU QUẢ VÀ AN TOÀN ĐẬP Ở MIỀN TRUNG VÀ TÂY NGUYÊN
lượt xem 22
download
Giới thiệu các đập hồ Thủy lợi và Thủy điện đã xây dựng, vài nét về các điều kiện tự nhiên và nêu mấy vấn đề cần quan tâm để nâng cao hiệu quả xây dựng và an toàn Đập ở miền này.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: MẤY VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ HIỆU QUẢ VÀ AN TOÀN ĐẬP Ở MIỀN TRUNG VÀ TÂY NGUYÊN
- MẤY VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ HIỆU QUẢ VÀ AN TOÀN ĐẬP Ở MIỀN TRUNG VÀ TÂY NGUYÊN Giả Kim Hùng Chi hội trưởng Hội Đập lớn & PT nguồn nước miền Trung Đập Định Bình (Bình Định), đập bê tông đầm lăn được khởi công đầu tiên và đạt chất lượng cao tại nước ta do Cty CP Xây dựng 47 thi công.
- Tóm tắt: Giới thiệu các đập hồ Thủy lợi và Thủy điện đã xây dựng, vài nét về các điều kiện tự nhiên và nêu mấy vấn đề cần quan tâm để nâng cao hiệu quả xây dựng và an toàn Đập ở miền này. 1. Miền Trung và Tây Nguyên Việt Nam: Hiện gồm 13 tỉnh thành có diện tích tự nhiên trên 10 vạn km2 chiếm 30,47% diện tích cả nước với dân số chỉ chiếm khoảng 15% cả nước, có nhiều tiềm năng kinh tế – xã hội to lớn. 35 năm qua (1975 – 2010), từ sau ngày thống nhất đất nước, nhất là trên 20 năm đổi mới, miền này đã có những thay đổi lớn lao và nhanh chóng bộ mặt kinh tế – xã hội và ổn định chính trị, đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều tài nguyên được quản lý và khai thác có hiệu quả. Một trong những nguyên nhân trực tiếp, là nhờ có hàng loạt các công trình Thủy lợi – Thủy điện lớn nhỏ được xây dựng khắp nơi. Tiêu biểu là các công trình thủy lợi như: Phú Ninh (Quảng Nam), Thạch Nham, Nước Trong, Núi Ngang (Quảng Ngãi), Vạn Hội, Núi Một, Định Bình (Bình Định), Phú Xuân, Đồng Trôn (Phú Yên), Suối Hành, Đá Bàn, Suối Dầu (Khánh Hòa), Sông Trâu,Tân Giang (Ninh Thuận), Sông Quao, Cà Giây, Lòng Sông (Bình Thuận), ĐăkUy, Biển Hồ, Ayn Hạ (Gia Lai), Krongbuk, EaSoup (ĐăkLăk), Đàteh, Tuyền Lâm (Lâm Đồng), ĐăkRồ (ĐăkNông) v.v…, và các công trình thủy điện như: Sông Tranh 2, A Vương (Quảng Nam); Vĩnh Sơn (Bình Định), Sông Hinh, Sông Ba Hạ (Phú Yên), An Khê, Ialy (Gia Lai), Đồng Nai 3, Đồng Nai 4 (Lam Đồng – Đăknông), Đa Mi – Hàm Thuận (Lâm đồng), Trị An (Đồng Nai), Đại Ninh (Bình Thuận), Thác Mơ (Bình Phước) v.v…, cấp nước tưới cho hàng chục vạn ha lúa, màu, cây công nghiệp, cấp hàng chục tỉ kilowat giờ điện năng cho các đô thị và cả nhiều vùng sâu vùng xa, cấp nước sinh hoạt cho hàng triệu người dân, góp phần cải tạo môi trường khí hậu và hình thành nhiều đô thị mới, các khu du lịch văn hóa, sinh thái …
- Đó là thành tựu chung của các ngành xây dựng TL – TĐ, của các cấp bộ Đảng, chính quyền và nhân dân các địa phương trong nước, của cán bộ (Kỹ sư, công nhân các đơn vị của BộThuỷ lợi nay là Bộ NN&PTNT, Bộ Điện lực nay là Bộ công thương), trong đó có những đóng góp đáng kể của các kỹ sư, chuyên gia Tư vấn Khảo sát Thiết kế ngành xây dựng TL – TĐ, đã vượt qua muôn vàn khó khăn, đặc biệt đã sớm hiểu và ứng dụng nhiều công nghệ kỹ thuật xây dựng phù hợp với các điều kiện tự nhiên mới lạ ở miền này. Một số hồ đập TL và TĐ ghi ở bảng sau. 2. Các điều kiện xây dựng hồ đập: Rất phong phú, đa dạng và cũng rất phức tạp về tự nhiên, kinh tế, xã hội, có nhiều đặc trưng cực đoan ở từng vùng, từng tiểu vùng về địa hình, địa chất, khí tượng thủy văn, về tình hình phân bố dân cư, đất đai và về trình độ phát triển có liên quan đến việc nghiên cứu, xây dựng và quản lý vận hành các hồ đập. 2.1. Địa hình: Có nhiều hình thái khá đặc biệt và phức tạp. Về cao độ, từ 1200 ÷ 1500m ở Lâm Đồng, 700 ÷ 800m ở Gia Lai Kon Tum, 450 ÷ 500m ở ĐăkLăk- Đăk Nông, xuống đồng bằng ven biển chỉ còn vài chục đến vài mét ,hình thành 2 -3 bậc địa hình cao thấp kề nhau không có khu vực chuyển tiếp rõ rệt. Dọc theo chiều kinh tuyến Bắc – Nam lại càng phức tạp: núi, đồi và đồng bằng xen kẻ, nhiều nhánh núi xuyên ngang của dãy Trường Sơn chia cắt vùng đồng bằng thành những ô nhỏ dọc các thung lũng sông, mạng lưới sông suối lớn nhỏ dày đặc lại chia cắt nhỏ các vùng dân cư và đất canh tác. Các hệ thống kênh dẫn cấp nước rất phức tạp và tốn kép. Các đường dây tải điện cũng phải vắt qua nhiều đồi núi, lũng sông mới chuyển tải được khắp các vùng. Địa hình các lũng sông cũng rất phức tạp, do vùng núi và trung du rất dốc, ít có những thung lũng có khả năng tạo thành các hồ chứa có dung tích lớn, đồng thời cũng ít gặp các vị trí hẹp, cân đối để có thể ngăn sông với đập ngắn và bố trí
- tràn xả lũ một cách dễ dàng và ít tốn kém. 2.2. Địa chất: Công trình ở vùng ven biển cũng phức tạp do các hoạt động kiến tạo mãnh liệt trước kia, các điều kịên phong hóa nhiệt đới lâu dài và địa hình chia cắt. Về nền móng công trình, hầu hết đều phải đặt trên các nền có phong hóa mạnh, có các đứt gãy sâu hoặc trên nền aluvi trẻ có tầng cát cuội sỏi dày. Việc điều tra các yếu tố vê kiến tạo để xét ảnh hưởng đến khả năng làm việc lâu dài của công trình là rất quan trọng nhưng thường khó khăn và tốn kém. Trong quá trình thi công thường khó tránh khởi các phát sinh phải xử lý. Đặc biệt về vật liệu đất đắp đập khi áp dụng loại hình đập đất đá đầm nén ở vùng ven biển cũng cực kỳ phức tạp, có nhiều đặc tính bất lợi như tan rã, trương nở, lún ướt, một số đập phải thay đổi kết cấu mặt cắt đập và các chỉ tiêu thiết kế như hệ số đầm nén, hệ số thẩm v.v… trong quá trình thi công.Ở Tây Nguyên, trên các vùng sản phẩm của đất Ba – zan, có dụng trọng khô rất nhỏ, chỉ 1,2 ÷ 1,3T/m3 làm cho đập đất đắp phải có khối lượng lớn để ổn định trượt. 2.3. Mưa và dòng chảy: Các lưu vực biến đổi rất lớn từ phía Bắc vao phía Nam, Lượng mưa năm từ 3000mm ở Quảng Nam đến dưới 1000mm ở Bình Thuận, lại tập trung 75 ÷ 80% vào 3 tháng mùa mưa, còn lại 9 tháng là mùa khô hạn kéo dài. Dòng chảy lưu vực cũng biến động lớn theo vùng và theo thời gian. Moduyn dòng chảy bình quân nhiều năm biến đổi từ 75 ÷ 80 l/s – km2 ở các sông A Vương – Tam Kỳ, xuống còn xấp xỉ 10l/s – km2 ở sông Ba tại Đồng Cam, và chỉ còn 4l/s – km2 ô suối Hành Nam Khánh Hòa. Sự biến đổi của modyn dòng chảy kiệt càng mãnh liệt hơn, từ 20l/s – km2 đến 0,1l l/s- km2. Dòng chảy lũ cũng cực kỳ phức tạp: cường suất lũ trên các sông rất lớn, và rất khác nhau: từ 10cm/giờ (sông Cái – Phan Rang) đến 50cm-100cm/giờ (Trà Khúc – Quảng Ngãi). Moduyn lũ rất lớn so với các lưu vực
- ở miền Bắc, trên 15m3/s – km2. Tổng lượng lũ cũng rất lớn, có lưu vực tổng lượng lũ trong một trận lũ lớn hơn tổng lượng nước đến trung bình nhiều năm! Các trận lũ năm 2009 ở vùng này đã góp phần làm rõ tình hình đó. Những đặc điểm dị thường trên có ảnh hưởng lớn đến đời sống dân cư và quy mô kích thước các công trình TL – TĐ nhất là đối với hồ chức nước, đập ngăn sông và công trình tràn xả lũ, cả các vấn đề dẫn dòng thi công xây dựng công trình cũng như trong quá trình quản lý khai thác đảm bảo hiệu quả và an toàn hồ đập. Tiềm năng thủy điện khá dồi dào nhất là ở phía Bắc và trên Tây Nguyên nhờ nguồn nước đến dồi dào và độ dốc lòng sông lớn. 2.4. Điều kiện khí hậu và đất đai: Thuận lợi cho việc phát triển các loại cây trồng vùng nhiệt đới có năng suất cao nếu có đủ nước tưới và bảo đảm điều hòa các yếu tố nước – đất – cây trồng và thời vụ, nhiều nới có thể trồng 2 ÷ 3 vụ cây hàng năm trong năm và gần như có thể trồng trọt quanh năm trừ thời gian ngắn trong mùa bão lụt. Ảnh hưởng bất lợi đối với cây trồng ít gặp hơn ở các vùng miền Bắc. Năng suất cây trồng trên 1 ha dễ dàng đạt trên 10 tấn thóc/năm, trên 1,5 tấn cà phê/năm, trên 80 ÷ 100 tấn mía/vụ … Việc đầu tư cho CTTL-TĐ có cao hơn nhưng chắc chắn sẽ được bồi hoàn bằng sự tăng trưởng của nền sản xuất nông nghiệp, phát triển nông thôn và điện khí hóa đất nước. 2.5. Điều kiện xây dựng công trình hồ đập: Nói chung có khó khăn từ việc đánh giá nguồn nước (dòng chảy năm, kiệt, lũ, diễn biến lòng bờ sông hạ lưu hồ đập …), đến các điều kiện nền móng, vật liệu xây dựng. Giải pháp CT chủ yếu là phải xây dựng các hồ chứa điều tiết dòng chảy và tác động đến các môi trường, Khối lượng công trình thường đòi hởi lớn hơn và ngày sẽ càng lớn hơn so với các vùng ở miền Bắc. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ các CT đã xây dựng để tưới cho 1 ha bằng hồ đập, cần đào đắp 150 ÷ 220m3
- đất đá, có công trình đến trên 1000m3, hoặc để có 1 dung tích hồ 1000m3 nước cần đào đắp 20 ÷ 30m3, có công trình gần 100m3,khối lượng công trình kênh mương cũng rất lớn,thường gấp 1,5 ÷ 2,0 lần so với ở miền Bắc. Suất đầu tư cho 1ha tưới không thể rẻ hơn các vùng khác. Các công trình TĐ cũng vậy,để có được 1000 kưh điện năngcần đào đáp 30 50m3, có công trình gần 90m3 đất đá và bê tông ở CT đập đất đá đầm nén,hoặc phải 15-20m3 đất đá và bê tông ở công trìnhdập bt trọng lực. 3. Hiện trạng các hồ đập thủy lợi đã xây dựng: cho thấy có những vấn đề cần quan tâm để đảm bảo an toàn công trình và hiệu quả đầu tư, đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa. Tình trạng chung ở nhiều hồ đập xây dựng trong thời kỳ đất nước còn nhiều khó khăn sau chiến tranh, các nhu cầu dùng nước chưa cao, tiêu chuẩn thiết kế còn thấp, các nguồn đầu tư còn eo hẹp, nên CT đã TK và XD khó tránh kh ỏi các nhược điểm như: chưa đồng bộ, chất lượng thấp, thiếu mỹ quan, chưa thật an toàn. Các CT xây dựng các năm gần đây đã được hiện đại hóa hơn, chất lượng có cao hơn. Trải qua thời gian khai thác lâu dài, nhiều công trình đã hư hỏng, xuống cấp hoặc bị lão hóa. 3.1. Các đập đất và đất đá hỗn hợp: Phần nhiều chưa thật an toàn về chống thẩm thấu qua thân đập và qua nền đập hoặc qua các vai đập. Nhiều đập sau một thời gian làm việc thường bộc lộ các hiện tượng thiếu ổn định thấm như rò rỉ, mạch lùng, như Núi Một (năm 1996 – 1998), Phú Ninh (sau lũ tháng 12/1999). Có công trình mới xây dựng đã rò thấm dẫn đến sự cố như Suối Hành (1986), Am Chúa (1993), Cà Giây (1998), Sông Trâu (2005), Sông Sắt (2008). Nguyên nhân chủ yếu cần xem xét cả hai phía: về KS, TK có thể chưa đánh giá hết các điều kiện phức tạp về địa chất công trình ( nền và vật liệu đắp đập), kết cấu các bộ phận chống thấm, lọc tiêu thoát nước trong thân đập chưa phù hợp, việc sử dụng các loại đất đá trong thân đập chưa hợp ly. Về TC, có thể chưa đạt các tiêu chuẩn TK, nhất là chưa đạt độ chặt cần thiết đối với từng loại vật liệu và
- đạt không đồng đều trong thân đập v.v… Từ sau khi Bộ Nông nghiệp và PTNT ban hành quy phạm mới về tiêu chuẩn thiết kế đập đất (14TCN 157 - 2005)thì các đập đất đá thiết kế và thi công gần đây đã đạt độ an toàn cao hơn. 3.2. Các CT bằng bê tông, đá xây ở các hạng mục trong đầu mối hồ chứa như ở Cống lấy nước, Tràn xả lũ, sau một thời gian làm việc chưa lâu cũng đã có hư hỏng, xuống cấp. Hiện tượng phổ biến là các khớp nối bị thấm rò rỉ, thấm qua các mạch vữa xây, khethi công, vữa xây vữa bê tông bị thối rữa v.v… Chất lượng thi công vẫn là vấn đề cần quan tâm từ khâu vật liệu, thành phần cấp phối đến quy trình biện pháp tổ chức thi công. 3.3. Công tác quản lý khai thác các hồ đập thuỷ lợi chưa được đầu tư tương xứng.Hiện nay nhiwfu đơn vị đơn vị QLKT thiếu các trang thiết bị cần thiết và hiện đại để quản lý, bảo vệ, khai thác, duy tu bảo dưỡng CT. Công tác quan trắc phục vụ quản lý và nghiên cứu khoa học cũng chưa được chú ý. Đời sống người lao động ở các công ty, xí nghiệp QLKT CTTL gặp nhiều khó khăn v.v… Do đó khó có thể phát huy hiệu quả và đảm bảo an toàn bền vững cho công trình. 4. Mấy việc cần quan tâm nhằm đảm bảo hiệu quả đầu tư và an toàn bền vững cho các CT đã và sẽ xây dựng: 4.1. Ưu tiên đầu tư công tác quản lý khai thác các hồ đập đã xây dựng, nên tập trung 3 việc: - Sửa chữa, cải tạo nâng cấp và hiện đại hóa các hồ đập hiện có, đảm bảo an toàn và hiệu quả theo các nhiệm vụ đa mục tiêu của dự án (tưới, phát điện, cấp nước, phòng chống lũ, du lịch sinh thái v.v…). - Trang thiết bị, phương tiện quản lý hiện đại tương xứng với đầu tư xây
- dựng, từng bước tiến tới tự động hóa công tác QLKT, kể cả việc dự báo khí tượng thủy văn về nguồn nước, về lũ trên lưu vực thượng lưu hồ đập. - Đào tạo nâng cao trình độ và năng lực QLKT CT cho mọi thành viên tham gia, có chính sách và cơ chế đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động làm việc QLKT CTTL. Các đầu tư này không lớn nhưng hiệu quả sẽ nhanh và lớn hơn đầu tư XD mới. Chính phủ đã ban hành Nghị định về Quản lý an toàn Đập (NĐ72/2007 ngày 07/05/2007), là cơ sở pháp lý của các việc đầu tư trên. 4.2. Ưu tiên đầu tư công tác chuẩn bị kỹ thuật các DA mới. Thủ tướng CP đã ban hành “Định hướng chiến lược phát triển thủy lợi Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050” (QĐ 1590 – TTg ngày 09 – 10 – 2009) là căn cứ pháp lý cho công tác này. Nên tập trung làm tốt các việc sau: Rà soát, bổ sung, điều chỉnh và lập lại quy hoạch TL khai thác và bảo vệ tài nguyên nước theo các lưu vực sông ven biển miền Trung và Tây Nguyên. Việc này cần được cơ quan quản lý TNN cấp Chính phủ chủ trì nhằm thống nhất lợi ích của các Ngành và đảm bảo lợi ích quốc gia theo luật TNN. - Chuẩn bị đầu tư, lập các dự án đầu tư cũng cần đi trước và có kế hoạch thời gian phù hợ. Các nước rất coi trọng bước này, đối với các dự án hồ đập lớn không thể làm tốt được trong một thời gian ngắn như ở nước ta, vì đây là bước quan trọng nhất trong ĐTXD. - Chính phủ cần tăng cường công tác quản lý, thanh tra, thẩm định các dự án được phân cấp cho Chủ tịch các tỉnh, thành phố về quyết định đầu tư. Việc phân cấp là cần, nhưng với các dự án quy hoạch TL – TĐ, và dự án đầu tư XD
- trong lĩnh vực khai thác sử dụng các tài nguyên nhất là về TN nước và TN đất cần phải có sự thẩm định và chấp thuận của Chính phủ thông qua các Bộ được giao quản lý các nguồn TN đó, nhất là các loại TN quý giá này ở nước ta thuộc loại trung bình và dưới trungbình so với nhiều nước và trong điều kiện khí hậu biến đổi toàn cầu. Thực trạng mưa lũ vừa qua ở MT cho thấy sự cần thiết và cấp bách các công việc trên. Trong TK và TC hồ đập ở miền này, cần tiếp tục mạnh dạn áp dụng các công nghệ, loại hình đập mới thay cho công nghệ đập đất đầm nén ở những vị trí đập thích hợp có nền cho phép thông qua bài toán kinh tế – kỹ thuật, như đập trọng lực, đập vòm, đập bản chống …. thi công theo công nghệ bê tông đầm lăn. Các vị trí đập có nền trên tầng phủ cuội sỏi dày cần áp dụng loại hình đập đất đá hỗn hợp có kết cấu chống thấm và lọc tiêu nước phù hợp. Việc xử lý nền cuội sỏi dày vài chục mét hiện nay đã có các công nghệ tiên tiến như tường hào bentônit, khoan phụt cao áp v.v…đảm bảo an toàn và hiệu quả. Cần được coi trọng các đập có chiều cao 15m trở lên hặc hồ có dung tích 3 triệu m2 trở lên là thuộc diện đập lớn theo NĐ 72/2007, cần phải đăng ký danh bạ đập lớn và được ứng xử chặt chẽ từ bước chuẩn bị đàu tư KSTK, thi công đến quản lý vận hành khai thác, như nhiều nước đã làm. 4.3. Công tác tổng kết thực tiễn và giới thiệu các thành tựu nước ngoài về XD hồ đập TL – TĐ từ KSTK, TC đến QLKT cần được quan tâm hơn nữa. Ngành TL nước ta đã có lịch sử gần 60 năm và ngành TĐ cũng có trên 40 năm, nhưng đến nay chưa có 1 công trình tổng kết chung hoặc tổng kết chuyên đề mang tính KHKT cao hoặc mang tính chiến lược ngành như nhiều nước đã làm. Chỉ có trên cơ sở tổng kết thực tiễn mới có thể tiếp tục cải tiến, sáng tạo và phát triển. Các nước phát triển đã xây dựng hồ đập các loại từ hàng trăm năm trước,
- họ cũng có nhiều công trình tổng kết từ những bài học thành công và cả thất bại, từ việc tổng kết từng hồ đập đã xây dựng, từng loại hình đập như Đập đất đá, Đập bê tông trọng lực, Đập BTTL đầm lăn, Đập BT vòm, v.v… Việc biên tập kịp thời để giới thiệu rộng rãi các thành tựu tiên tiến và kinh nghiệm thực tiễn của các cường quốc xây dựng Đập chắn chắn sẽ góp phần có hiệu quả cho ngành TL – TĐ nước ta nói chung và công cuộc xây dựng đập nói riêng sẽ sớm vươn lên trình độ KHKT của thế giới, tránh đường vòng, rút ngắn thời gian và tiết kiệm các chi phí nghiên cứu trùng lặp, đảm bảo hồ Đập được xây dựng ngày càng an toàn – hiệu quả. Tài liệu tham khảo: 1. Atlat công trình thủy lợi tiêu biểu ở VN – Bộ NN và PTNT, 2003. 2. Tuyển tập giới thiệu các đập lớn ở VN – Hội Đập lớn và PTNN VN, 2/2009 (Bản dự thảo). 3. 55 năm xây dựng và phát triển. Tổng công ty TV XDTL VN – CTCP, 04 – 2010. 4. Báo cáo chung đề tài tổng kết công tác KS TK – TC và QLKT hồ chứa nước khu vực MT và TN. Công ty TV XDTL1 – Đề tài cấp Bộ, bản thảo 2004. 5. Tài liệu các hội thảo KHKT về KS, TK TL khu vực Trung Trung Bộ do Viện KSTKTL tổ chức năm 1986, Hội thảo về “Đất đắp đập Miền Trung” do vụ KHCN Bộ Thủy lợi NAY LÀ Bộ NN&PTNT tổ chức năm 1994. 6. Một số thông tin Website của Hội ĐL và PTNN Việt Nam.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tuyển tập Câu hỏi đáp về điện
424 p | 385 | 147
-
Về bài toán chụp cắt lớp của máy CT- SCANNER
8 p | 653 | 124
-
tính toán thiết kế bảo vệ rơ le cho trạm biến áp 110 KV Vân Đình, chương 2
6 p | 283 | 100
-
Bài giảng về Kỹ thuật điện - Chương 6
37 p | 236 | 67
-
Nguyên tắc để đảm bảo ATLĐ cho người sử dụng, vận hành, sử chửa trong ngành cơ khí
2 p | 221 | 47
-
Luận văn: THIẾT KẾ QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ GIA CÔNG GIÁ ĐỠ ( TẬP BẢN VẼ )
59 p | 246 | 46
-
GIÁO TRÌNH MÁY ĐIỆN KHÍ CỤ ĐIỆN - PHẦN I MÁY ĐIỆN - CHƯƠNG 2
55 p | 111 | 41
-
Nghiên cứu sử dụng hợp lý tổ hợp máy chính và chân vịt kèm theo cho tàu cá cỡ nhỏ, chương 1
6 p | 143 | 24
-
Bài giảng Sản xuất sạch hơn trong công nghiệp: Chương 1
19 p | 133 | 21
-
Một số lưu ý về xây dựng khi lắp máy điều hòa
8 p | 106 | 15
-
Giáo trình Công nghệ chế tạo máy (Nghề: Cắt gọt kim loại - Trình độ: Cao đẳng) - CĐ Kỹ thuật Công nghệ Quy Nhơn
129 p | 16 | 7
-
Lựa chọn giải pháp truyền động điện
3 p | 99 | 6
-
Tổng quan về role thuật số trong bộ phận truyền chuyển động của bộ khung máy p2
13 p | 62 | 6
-
Một số vấn đề về xử lý số liệu lưới GPS - mặt đất trong thi công nhà siêu cao tầng
8 p | 1182 | 4
-
Nghiên cứu mô phỏng hệ thống điều khiển tin học công nghiệp ứng dụng trong cơ cấu nâng cần trục dẫn động điện
10 p | 72 | 3
-
Nghiên cứu sử dụng xỉ hạt lò cao (GBFS) trong cải tạo đất yếu bằng phương pháp cọc cát
14 p | 11 | 3
-
Thiết lập mô hình tỏa về nhiệt trong tủ điều khiển máy CNC
9 p | 23 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn