Mô hình Tổng Cung, Tổng Cầu
lượt xem 49
download
Ở phần trước chúng ta đã thảo luận chi tiết về cách thức kết hợp của tăng trưởng và các chu kỳ trong thất nghiệp, lạm phát và GDP thực tế. Tuy nhiên, để có thể nghiên cứu một cách đầy đủ những yếu tố này, và có thể giải thích được điều gì gây nên sự tăng trưởng, những chu kỳ, và lạm phát, chúng ta cần một mô hình kinh tế vĩ mô.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Mô hình Tổng Cung, Tổng Cầu
- Mô hình Tổng Cung, Tổng Cầu Ở phần trước chúng ta đã thảo luận chi tiết về cách thức kết hợp của tăng trưởng và các chu kỳ trong thất nghiệp, lạm phát và GDP thực tế. Tuy nhiên, để có thể nghiên cứu một cách đầy đủ những yếu tố này, và có thể giải thích được điều gì gây nên sự tăng trưởng, những chu kỳ, và lạm phát, chúng ta cần một mô hình kinh tế vĩ mô. Chúng ta đang nói về một mô hình tổng cung, tổng cầu cơ bản, một mô hình mà chúng ta sẽ nghiên cứu xuyên suốt trong phần còn lại của khoá học này. Một mô hình kinh tế vĩ mô, như chúng tôi đã đề cập trước đó, đó là một sự trừu tượng từ thực tế. ● Chúng khác xa so với hiện thực của thế giới, và chúng ta chỉ chú tâm vào những yếu tố quan trọng. ● Trong bất cứ một mô hình nào cũng đều tồn tại những yếu tố nội sinh và yếu tố ngoại sinh.
- ● Biến nội sinh là những yếu tố mà giá trị của nó được giải thích bởi mô hình của chúng ta. ● Biến ngoại sinh là những yếu tố mà giá trị của chúng được quyết định ở ngoài mô hình, và chúng được đưa vào mô hình để sử dụng. ● Nhận thức được rằng chúng ta sẽ có một mô hình với rất nhiều yếu tố, và đôi khi chúng ta phải tiếp xúc với những biến ngoại sinh ở trong mô hình này, nhưng lại là yếu tố nội sinh trong mô hình khác. ● Một trong những mục tiêu chủ yếu của chúng ta trong việc xây dựng mô hình là có thể sử dụng nó để giải thích được sự thay đổi của các biến ngoại sinh sẽ tác động lên giá trị của các biến nội sinh như thế nào. ● Ví dụ như, làm thế nào mà sự suy thoái ở Hoa Kỳ (ngoại sinh) lại có thể tác động đến GDP thực tế ở Canada (nội sinh).
- Những mô hình được sử đụng để giải mô phỏng và giải thích những gì diễn ra trong thực tế. ● Đôi khi những mô hình này lại tỏ ra không hiệu quả, trong trường hợp đó chúng cần được bỏ đi hoặc thay thế. ● Chúng "hoạt động" khi chúng có được sự khách quan trong việc giải thích quá khứ và dự đoán được tương lai, và được thể hiện bởi rất nhiều kiểm tra về mặt thống kê. Mô hình đầu tiên của chúng ta là mô hình của tổng cung và tổng cầu ● Đây là một mô hình tổng cầu cơ bản, mô hình đó bỏ qua rất nhiều yếu tố chi tiết của các thị trường phụ. ● Trong những phần sau, chúng ta sẽ trở lại những thị trường phụ khác nhau đó.
- ● Tôi biết rằng một số người trong các bạn đã nhìn thấy những tài liệu này trong cuốn Kinh tế học 100, nhưng một số vấn đề được đưa ra có thể là mới. 1) Tổng Cầu Tổng cầu (AD: Aggregate demand) là tổng số lượng hàng hoá và dịch vụ THỰC TẾ (Y) mà mọi người muốn mua tại một mức giá bình quân. ● Đường tổng cầu chỉ cho chúng ta thấy được sự thay đổi trong mức tổng cầu với sự thay đổi của mức giá cả, với những yếu tố ảnh hưởng khác không đổi. Tổng cầu có quan hệ mật thiết với khái niệm về tổng chi tiêu mà chúng ta đã biết trong vòng luân chuyển được nói đến ở Phần I.A. ● Về cơ bản chúng ta có thể nghĩ về tổng cầu như là tổng số của tất cả các nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ.
- ● Do đó, AD = tiêu dùng + đầu tư + chi tiêu của chính phủ + xuất khẩu -nhập khẩu, hay ● YD = C + I +EX - IM. ● Lưu ý rằng điều này có nghĩa là có rất nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến tổng cầu- những thay đổi trong chi tiêu của người tiêu dùng, những thay đổi trong những yếu tố có ảnh hưởng đến nền kinh tế của các đối tác thương mại của chúng ta, những thay đổi trong chi tiêu của chính phủ (chính sách tài khoá), những thay đổi trong chi tiêu của nhà đầu tư, v.v. Độ dốc của đường AD (đường tổng cầu) Như Hình 1 chỉ ra dưới đây, đường AD có chiều đi xuống - một mức độ giá cả cao hơn có nghĩa là mức tổng cầu GDP thực tế giảm đi.
- Giá cả tăng lên làm giảm tổng nhu cầu đối với hàng hoá và dịch vụ, không chỉ vì những lý do kinh tế vĩ mô thông thường, mà là vì: ● Khi mức giá tăng lên, hàng hoá của chúng ta trở nên đắt hơn so với hàng hoá thế giới - xuất khẩu của chúng ta giảm, nhập khẩu tăng lên, và YD giảm. ● Khi mức giá tăng lên, nó có xu hướng làm giảm giá trị của đồng tiên, và do đó làm giảm các hoạt động chi tiêu. ● Khi mức giá tăng lên, nó làm tăng tỷ lệ lãi suất, điều này cũng làm giảm chi tiêu. Chúng ta sẽ quay lại với vấn đề này trong Phần II dưới đây.
- Sự dịch chuyển của đường tổng cầu Hình 2 dưới đây chỉ cho chúng ta biết điều gì xảy ra khi có một sự dịch chuyển của tổng cầu (trong trường hợp này là một sự tăng lên của tổng cầu)- một lượng GDP thực tế tăng lên tại mỗi mức giá. ● Hãy luôn luôn xem xét một cách cẩn thận những thay đổi trong sự tăng lên của đường cầu đối với những yếu tố khác cạnh nó! Chúng biểu hiện khác nhau trong những thực nghiệm. Chúng ta sẽ tìm hiểu một cách chi tiết hơn về những sự dịch chuyển đó trong phần II, nhưng chúng ta có thể lưu ý rằng AD có thể dịch chuyển sang phải vì một trong những lý do sau đây: ● Niềm tin của người tiêu dùng tăng lên, có thể là do giảm sự thất nghiệp, làm tăng chi tiêu của người tiêu dùng - xem bài báo có tiêu đề "Thu nhập tăng lên khi nền kinh tế đang tiến về phía
- trước," Globe and Mail ngày 1 tháng Mười hai, 1999, mà tôi đã nói đến trong phần đầu của chương trình này. ● Sự tăng lên niềm tin của khối kinh doanh về bán hàng trong tương lai sẽ làm tăng chi phí cho nhà xưởng, v.v làm tăng các chi phí đầu tư. ● Tỷ lệ lãi suất giảm (có thể do sự tăng lên về cung ứng tiền của ngân hàng trung ương) làm tăng tiêu dùng và việc đi vay của doanh nghiệp, và làm tăng chi tiêu. ● Thu nhập của Hoa Kỳ tăng lên làm tăng kim ngạch xuất khẩu của chúng ta. ● Chi tiêu của chính phủ tăng lên làm tăng tổng chi tiêu. ● Sự giảm đi giá trị của tỷ giá ngoại hối ở Canada làm tăng lượng xuất khẩu và giảm nhập khẩu, do đó làm tăng Tổng YD. 2) Tổng Cung (AS: Aggregate Supply)
- Để hoàn thiện bức tranh đầu tiên của chúng ta về kinh tế vĩ mô, chúng ta cần tìm hiểu về tổng cung. ● Tổng cung = tổng cung ứng của hàng hoá và dịch vụ (YS) mà nhà sản xuất muốn bán tại một mức giá tổng hợp. ● Đường AS chỉ ra mối quan hệ giữa P và YS. ● Vấn đề quan trọng là điều gì xảy ra đối với tổng sản lượng khi mức giá trung bình thay đổi? ● Yếu tố này quan trọng ngay cả khi chúng ta xét về ngắn hạn hoặc dài hạn. Nên nhớ lại rằng tổng cung được xác định bằng việc sử dụng các yếu tố sản xuất hay là đầu vào - lao động, vốn, đất đai và tài nguyên thiên nhiên. ● Chúng ta phân biệt trong ngắn hạn và trong dài hạn, phụ thuộc vào yếu tố thị trường điều chỉnh như thế nào đối với sự thay đổi trong giá cả.
- ● Trong ngắn hạn, chúng ta giả sử rằng giá cả là cố định, và do đó mức lương không làm thay đổi giá cả - điều này dẫn đến một sự điều chỉnh lớn về tổng cung đối với sự thay đổi về giá cả. ● Trong dài hạn, chúng ta giả sử rằng những sự kỳ vọng là đúng, và do đó mức lương điều chỉnh một cách hoàn toàn đến những thay đổi trong giá cả, dẫn đến không có sự điều chỉnh nào về tổng cầu trong sự thay đổi về giá cả, mặc dầu những yếu tố như mức vốn tài sản, kỹ thuật v.v., có thể ảnh hưởng đến tổng cung. ● Vấn đề quan trọng trong kinh tế vĩ mô trong nhiều trường hợp là cần bao nhiêu thời gian để nền kinh tế điều chỉnh từ ngắn hạn đến dài hạn. Tổng Cung Dài hạn Chúng ta gọi tổng cung dài hạn là LAS (Long-run aggregate supply). ● LAS là mối quan hệ giữa tổng cung của GDP thực tế và mức giá khi tất cả giá yếu tố sản xuất được điều chỉnh tương ứng với
- những thay đổi trong mức giá để cho giá yếu tố THỰC TẾ không đổi. ● Sự điều chỉnh đầy đủ này có nghĩa là, ví dụ, %ΔW = %ΔP do đó mức lương THỰC TẾ (W/P) là không đổi. Kết quả là nếu mức lương tăng lên, thì giá các yếu tố cũng tăng lên một lượng tương ứng. ● Hệ quả đầu tiên có nghĩa là thu nhập biên của doanh nghiệp tăng, và do đó họ muốn sản xuất nhiều hơn. ● Hệ quả thứ hai là chi phí biên của doanh nghiệp tăng lên, điều đó có nghĩa là họ muốn giảm sản xuất. ● Hai hệ quả này có mức độ tác động tương xứng nhau, và cân bằng với nhau, và do đó mức giá thay đổi, và không có một sự thay đổi nào trong sản xuất thực tế các hàng hoá và dịch vụ - chúng ta có một đường AS (tổng cầu) dài hạn theo chiều thẳng đứng, đường này không bị ảnh hưởng bởi giá cả, những yếu tố khác được xem là không đổi (mặc dù nó sẽ bị ảnh hưởng bởi
- những yếu tố khác như là thay đổi về công nghệ hoặc sự tăng lên về tổng lượng vốn). ● Đường AS được minh hoạ trong Hình 3 dưới đây. Y* là một giá trị đặc biệt, là điểm chuẩn của nền kinh tế, điểm cân bằng tự nhiên dài hạn. ● Y* tương ứng với việc làm đầy đủ/tự nhiên/ của mọi đầu vào, bao gồm lao động và vốn và đôi khi được gọi là GDP đầy đủ việc làm hoặc GDP tiềm năng hoặc tỷ lệ tự nhiên. ● Chính xác Y* nằm ở điểm nào, thì đó là một vấn đề quan trọng cho các mục tiêu chính sách - chúng ta sẽ quay lại vấn đề này một cách chi tiết hơn ở phần tiếp theo. ● Chúng ta sẽ thấy rằng những yếu tố nào làm dịch chuyển đường LAS sang phải hoặc sang trái.
- Tổng cung ngắn hạn Chúng ta biểu thị tổng cung ngắn hạn là SAS (short-run aggregate supply). ● SAS là mối quan hệ giữa tổng cung ứng của các hàng hoá, dịch vụ và mức giá khi chúng ta giữ nguyên giá của các yếu tố sản xuất (ví dụ mức lương không điều chỉnh). ● Sự khác nhau cơ bản trong thực nghiệm lý thuyết này là trong ngắn hạn, giá yếu tố sản xuất không hề điều chỉnh (thay đổi), và trong dài hạn, giá yếu tố thay đổi hoàn toàn. ● (Tuy nhiên, lưu ý rằng chúng ta giữ nguyên tất cả những biến khác khi chúng ta xây dựng những đường này, những biến như là công nghệ kỹ thuật, quy mô của tổng lao động, v.v..) Kết quả là trong ngắn hạn, nếu mức giá tăng lên, thì giá các yếu tố được giả định là không đổi.
- ● Hệ quả thứ nhất là doanh thu biên của doanh nghiệp tăng lên, và do đó họ muốn gia tăng sản xuất. ● Hệ quả thứ hai là chi phí biên của doanh nghiệp không đổi, điều đó có nghĩa là họ muốn giữ nguyên mức sản xuất. ● Hệ quả thứ nhất rõ ràng là có tác động lớn hơn hệ quả thứ hai - do đó theo giả định này, khi P tăng lên, mức lương thực tế (W/P) giảm xuống ● Khi mức giá thay đổi, có sự tăng lên về sản xuất thực tế các hàng hoá và dịch vụ - chúng ta có đường AS ngắn hạn dốc theo hướng đi lên - khi mức giá tăng lên thì tổng cung cũng thay đổi như vậy. ● Đường trên được minh hoạ theo Hình 4 dưới đây. Hình 4 Đường Tổng Cung Ngắn hạn
- Hãy lưu ý rằng LAS và SAS có mối quan hệ với nhau. ● Đường SAS cắt LAS tại Y = Y*. ● Ở đây, W/P ở mức mà nền kinh tế có việc làm đầy đủ, và chúng ta sẽ thấy rằng đây là điểm mà nền kinh tế có xu hướng tự điều chỉnh đến nó. Sự dịch chuyển của LAS và do đó dẫn đến dịch chuyển SAS Bất cứ điều gì làm LAS dịch chuyển sẽ dẫn đến dịch chuyển SAS. ● Ví dụ của chúng ta trong Hình 5 dưới đây cho thấy sự tăng lên về tổng lượng GDP thực tế cung ứng tại một mức giá.
- ● Sự tăng lên này là tăng lên về tỷ lệ tự nhiên, một sự dịch chuyển trong ranh giới khả năng sản xuất. ● Điều này thể hiện một sự tăng lên trong xu hướng GDP thực tế. ● LAS và SAS dịch chuyển sang phải nếu a) cung ứng các yếu tố đầu vào (L, nguyên liệu thô, K) tăng lên, hoặc b) công nghệ được cải tiến, hoặc c) sự thay đổi của những yếu tố khác - v.d như giảm thuế, hoặc nền kinh tế cải tổ (như ở Đông Âu) ● Chúng tôi sẽ nói về chi tiết sự tăng trưởng kinh tế đó trong Kinh tế 302.
- Chỉ có những dịch chuyển của đường SAS Như Hình 6 dưới đây chỉ ra, một vài thay đổi chỉ ảnh hưởng đối với SAS - do sự khác nhau trong việc yếu tố nào làm ảnh hưởng đến mỗi đường. SAS dịch chuyển sang trái, đi lên nếu tiền lương và/hoặc những yếu tố đầu vào khác tăng lên. ● Bạn có thể nghĩ về điều này ở hai góc độ. ● Sự dịch chuyển của AC cho thấy rằng nếu giá cả yếu tố (hoặc chi phí) tăng lên đối với các doanh nghiệp, nhưng doanh thu vẫn giữ nguyên, thì sản xuất sẽ giảm, SAS dịch chuyển sang trái như đã thấy. ● Hoặc, sự dịch chuyển AB cho thấy rằng nếu giá cả yếu tố tăng lên đối với doanh nghiệp, họ sẽ cung ứng mức GDP thực tế
- không đổi chỉ khi giá cả của các yếu tố đầu ra tăng lên cùng một lượng tương ứng, do đó sự tăng lên trong chi phí cân đối với sự tăng lên trong doanh thu. ● Chú ý rằng SAS dịch chuyển sang phải khi giá cả yếu tố giảm xuống. ● Hơn nữa, khi giá cả yếu tố đầu vào dịch chuyển, thì không có sự dịch chuyển trong LAS - bởi vì không có sự dịch chuyển nguồn lực thực sự của xã hội.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Kinh tế vĩ mô - Chương 3: Mô hình Tổng Cung, Tổng Cầu
24 p | 258 | 60
-
Mô hình tổng cung, tổng cầu và kinh tế vĩ mô
8 p | 417 | 58
-
Tài liệu Mô hình Tổng Cung, Tổng Cầu
20 p | 184 | 45
-
Bài giảng về Mô hình tổng cung tổng cầu
23 p | 211 | 33
-
Giáo trình Kinh tế vĩ mô (Ngành: Kế toán, Tài chính ngân hàng, Tài chính doanh nghiệp) - CĐ Kinh tế Kỹ thuật TP.HCM
144 p | 75 | 18
-
Bài giảng Kinh tế học vi mô: Chương 4 - TS. Nguyễn Hoàng Hiển
74 p | 163 | 17
-
Bài giảng Kinh tế vĩ mô: Chương 1 - Nguyễn Thị Quý
34 p | 225 | 14
-
Bài giảng Chương 5: Tổng cung, tổng cầu - Trần Thị Minh Ngọc
44 p | 85 | 13
-
Bài giảng Kinh tế vĩ mô - Trường ĐH Công nghệ thông tin và truyền thông Việt Hàn
117 p | 19 | 9
-
Bài giảng Kinh tế vĩ mô: Chương 4 - ThS. Trần Mạnh Kiên
17 p | 103 | 8
-
Bài giảng Chuyên đề 7: Các chính sách vĩ mô và tác động đến hoạt động của doanh nghiệp - PGS.TS. Đỗ Phú Trần Tình
75 p | 76 | 8
-
Bài giảng Kinh tế vĩ mô: Chương 3 - Trần Thị Thanh Hương
37 p | 106 | 8
-
Bài giảng Kinh tế vĩ mô - Bài 6: Mô hình tổng cung và tổng cầu
22 p | 106 | 5
-
Bài giảng môn Kinh tế vĩ mô - Chương 7: Mô hình tổng cầu - tổng cung
24 p | 30 | 5
-
Bài giảng Kinh tế vĩ mô - Chương 4: Mô hình tổng cung và tổng cầu (Chương trình Cao học)
16 p | 25 | 5
-
Bài giảng Kinh tế học vĩ mô 1: Chương 4 - ThS. Hồ Thị Hoài Thương
39 p | 71 | 4
-
Bài giảng Kinh tế học vĩ mô: Chương 7 - PGS.TS. Nguyễn Ái Đoàn
25 p | 50 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn