Môn: Địa chất môi trường
lượt xem 24
download
Trong công nghiệp và nông nghiệp chúng ta đã sử dụng nhiều vật liệu từ trái đất và những ngành sản xuất khác cho rất nhiều mục đích mang lại lợi ích. Bên cạnh những lợi ích mà chúng mang lại những vật liệu được sản xuất này còn có tác động tiêu cực đến môi trường, chúng đang dần phá hoại hệ sinh thái trên hành tinh này.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Môn: Địa chất môi trường
- Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Khoa Môi Trường Lớp 10kmt Môn: Địa chất môi trường Chương 11 Nhóm thực hiện: Đoàn Ngọc Quỳnh Như Huỳnh Phan 1017205 1017202 Nguyễn Thị Kim Ngân Nguyễn Lê Phương Nguyệt 1017172 1017184 Ngô Ngọc Ngân Hồ Thị Mỹ Lợi 1017169 1017152 Nguyễn Trần Kim Xuân Trương Tâm Chung 1017347 1017031 Nguyễn Thị Thanh Thủy Phan Minh Nhật 1017280 1017196 Trần Hồng Phúc 1017211
- T Sơ lược về tác động của một số hóa chất nhân tạo rong công nghiệp và nông nghiệp chúng ta đã sử dụng nhiều vật liệu từ trái đất và những ngành sản xuất khác cho rất nhiều mục đích mang lại lợi ích. Bên cạnh những lợi ích mà chúng mang lại những vật liệu được sản xuất này còn có tác động tiêu cực đến môi trường, chúng đang dần phá hoại hệ sinh thái trên hành tinh này. • Thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu bảo vệ cây trồng của chúng ta nhưng chúng đã để lại những tác dụng phụ. DDT hữu ích trong việc trừ tiệt muỗi tận gốc muỗi gây bệnh sốt rét, một trong số nhiều bệnh làm suy nhược cơ thể trên thế giới. Nhưng DDT là hóa chất gây làm cho vỏ trứng mỏng và mềm, dẫn đến cái chết cho gà con. • Có nhiều ngành công nghiệp có quá trình vận hành máy móc yêu cầu ở nhiệt độ cao, do vậy amiăng dùng để phòng chống cháy nổ.Tuy nhiên, công nhân tiếp xúc với amiang có nguy cơ bị bệnh ung thư phổi rất cao ( asbestosis). Vì vậy sức khỏe của con người luôn gắn liền với môi trường và việc tiếp xúc với các hóa chất, những vật liệu, thực phẩm,…mà chúng ta sử dụng hằng ngày. L I. Giới thiệu Sức khỏe Môi trường à một thành viên trong hệ sinh thái của hành tinh này, con người đã tác động đồng thời cũng chịu rất nhiều tác động từ môi trường, hay sinh quyển, khí quyển, thạch quyển và thủy quyển. Tuy vậy, chúng ta vẫn chưa thể hiểu hoàn toàn về các yếu tố môi trường và tác động của chúng đến sức khỏe con người. Chúng ta càng tiếp tục tìm hiểu về chu trình địa chất, từ các yếu tố trong đất, đá, nước đến các mô hình về khí hậu, địa chất và địa hình của khu vực, chúng ta càng nhận ra sự quan trọng của các yếu tố này và bằng cách nào mà chúng ảnh hưởng đến con người. Bệnh được coi như 1 sự mất cân bằng giữa cá thể và môi trường và ít khi do 1 nguyên nhân duy nhất. Những đóng góp của các nhà địa chất cho chúng ta biết về nhiều nguyên nhân của nó và cách mà các khía cạnh địa chất tác động đến sức khỏe con người. Để làm được điều này, các nhà khoa học phải nghiên cứu rất cẩn thận, chính xác đồng thời phải kết hợp với các bác sĩ cùng các nhà khoa học ở các lĩnh vực khác. Mặc dù, công việc rất khó khăn, nhưng kết quả của nó có thể sẽ rất thú vị thậm chí đóng một vai trò quan trọng trong sức khỏe môi trường. Nghiên cứu các khía cạnh địa chất của sức khỏe môi trường, cũng cần phải xem xét các nhân tố văn hóa, khí hậu liên quan đến bệnh tật và tỉ lệ tử vong. Việc làm này sẽ giúp thu hẹp lại các ảnh hưởng địa chất. Môi trường truyền những bệnh nhiễm khuẩn Con người được hấp thụ năng lượng nhờ thực phẩm, nước, không khí, đất nhưng đó cũng chính là nguyên nhân gián tiếp tạo ra môi trường nhiễm bệnh. Chúng ta hoàn toàn có thể kiểm soát môi trường nhiễm bệnh như cải thiện vệ sinh và xử lý nước, được xem là mối quan tâm sức khỏe môi trường hàng đầu.Vấn đề quan trọng là mối liên hệ giữa độc tố và chất gây bệnh ung thư do con người sản xuất trong trong xã hội công nghiệp ngày nay. Ở các nước đang phát triển bệnh truyền nhiễm được truyền qua môi trường chiếm với tỉ lệ tử vong cao nhất. Ví dụ: ở Hoa Kỳ,mỗi năm có hàng ngàn ca bệnh truyền nhiễm và ngộ độc thực phẩm. Muỗi, bọ chét… chính là nguyên nhân chính của những bệnh này. Chúng làm bẩn thức ăn,nước, đất hay truyền xuyên qua hệ thống thông gió của một tòa nhà gây ra bệnh tiêu chảy mãn tính, ngộ độc thực phẩm, sốt rét, dịch hạch, sốt xuất huyết, bệnh Lyme và cryptosporidiosis… Yếu tố văn hóa Các yếu tố văn hóa phản ánh truyền thống văn hóa và việc ứng xử của mỗi người trong một xã hội để không ngừng tồn tại và phát triển. Việc tạo nên sự liên kết hoặc rào cản giữa con người và các nguyên nhân gây bệnh ảnh hưởng đến tần suất xuất hiện của bệnh. Tính chất và mức độ của những mối liên kết phụ thuộc vào những nhân tố như thuế quan và sự công nghiệp hóa. Người dân ở nông thôn và người dân ở thành thị có những vấn đề sức khỏe khác nhau. Bằng chứng là xã hội công nghiệp đã gần như loại bỏ các bệnh như bệnh tả, thương hàn, giun móc, và kiết lỵ, nhưng con người có nhiều khả năng bị ung thư phổi và các bệnh khác liên quan đến ô nhiễm không khí, đất và nước. Ví dụ:
- • Ở Hoa Kỳ, việc xây dựng nhà cửa bằng các tấm xi măng để bảo tồn năng lượng. Đây đồng thời cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm không khí trong nhà, chẳng hạn như khí radon, dẫn đến các bệnh ung thư phổi. • Một ví dụ khác là tỷ lệ cao của bệnh ung thư dạ dày ở Nhật Bản (4).Người Nhật thích gạo được đánh bóng bằng một loại bột, nhưng họ lại không biết rằng loại bột này có chứa tạp chất là amiăng-một chất gây ung thư. • Ảnh hưởng của ngộ độc chì hàng đầu có thể bao gồm thiếu máu, chậm phát triển trí tuệ, và bại liệt. • Chì được tìm thấy trong rượu whisky bán lậu, đã dẫn đến nhiễm độc chì ở người lớn và trẻ sơ sinh thậm chí phụ nữ mang thai (5). • Câu chuyện về sự sụp đổ Đế Chế La Mã.Một số nhà nghiên cứu đã cho rằng nhiễm độc chì lây lan rộng rãi là một trong những lí do dẫn đến sự sụp đổ của Đế chế La Mã. Ước tính rằng những người La Mã sản xuất khoảng 55.000 tấn chì hàng năm kéo dài khoảng 400 năm. • Chì được dùng làm dụng cụ ép nho để chế biến xi-rô dùng sản xuất rượu nho, mỹ phẩm và thuốc men của người La Mã. • Giai cấp cầm quyền đã dùng một loại ống làm từ chì để dẫn nước vào nhà của họ. • Việc sử dụng các vật liệu từ chì một cách thiếu hiểu biết đã dẫn đến những sự lây lan bệnh nhiễm độc chì một cách rộng rãi. Hậu quả nghiêm trọng là bệnh thai chết lưu, dị tật và tổn thương não... Các nhà lịch sử học đã tìm thấy hàm lượng cao của chì có trong xương của người La Mã cổ đại, điều này dẫn dắt hỗ trợ cho giả thuyết trên (5). • Một hỗ trợ khác cho giả thuyết này đến từ một sự nghiên cứu những lõi băng từ những sông băng Greenland, trong khoảng thời gian từ 500 B.C tới A.D.300, nồng độ chì trong nước đá gấp bốn lần bình thường. Điều này cho thấy khai thác mỏ và luyện kim của kim loại chì trong thời Đế quốc La Mã làm ô nhiễm không khí ở Bắc bán cầu (6). Ngày nay, vấn đề nhiễm độc chì ở trẻ em vì chì còn được lưu trữ trong đất và sơn cũ của các tòa nhà. Yếu tố khí hậu Yếu tố thời tiết như nhiệt độ, độ ẩm, và tổng lượng mưa có ảnh hưởng quan trọng đến tỉ lệ mắc bệnh. Bệnh liên quan đến thời tiết tồi tệ nhất là bệnh sán mù, bệnh sốt rét được tìm thấy ở vùng nhiệt đới. Những sinh vật gây bệnh do chịu ảnh hưởng của khí hậu như ốc sên, muỗi … Sán máng (ốc sốt) là một nguyên nhân đáng kể gây tử vong ở trẻ em và gây suy nhược hàng triệu người trên thế giới dẫn tới hậu quả kinh tế- xã hội to lớn. Nó được kết luận là căn bệnh nguy hiểm nhất trên thế giới (2). Khi xem xét sự ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa hoặc khí hậu… lên tỉ lệ mắc bệnh ta phải có thái độ nhìn nhận nghiêm túc, tránh có cái nhìn chung chung mà quên đi vào phân tích từng yếu tố tác động,từng môi trường tác động cụ thể để có kết luận toàn diện và chính xác. Ví dụ, nếu chỉ kiểm tra yếu tố khí hậu thì lưu vực Amazone là nơi thích hợp nhất mà bệnh sán máng phát triển, nhưng đó chỉ là hai vùng hạn chế của sông Amazone vì hầu hết các khu vực khác đất không có đủ canxi cho bệnh sán máng sống sót. Một phần khác của lưu vực sông này nước có tính axit do có mặt của đồng và các kim loại nặng khác ảnh đến môi trường sống của những con ốc, gây khó khăn cho bệnh sán máng phát triển(1). Vậy khi giới thiệu về sức khỏe môi trường, chúng ta có thể thấy một số mối quan hệ phức tạp giữa các tỉ lệ mắc bệnh và môi trường. Mà tiêu biểu là mối quan hệ giữa địa chất đối với sức khỏe con người. Trong chương này chúng ta hiểu rõ hơn các yếu tố địa chất, ảnh hưởng của các nguyên tố vi lượng đến sức khỏe có tầm quan trọng đối với sức khỏe như thế nào và ảnh hưởng của môi trường địa chất lên tỷ lệ mắc bệnh tim và ung thư, và là những nguyên nhân tử vong hàng đầu ở Hoa Kỳ. Chương này kết thúc với một cuộc thảo luận của bức xạ khí radon, bao gồm cả các yếu tố địa chất liên quan và các mối đe dọa nghiêm trọng đối với sức khỏe con người.
- Đ Một số nhân tố địa chất của sức khỏe môi trường II. ất cho chúng ta trồng cây lương thực, đá được sử dụng làm vật liệu xây dựng nhà cửa, xây các khu công nghiệp, nước được sử dụng để uống, và không khí mà chúng ta hít thở, chúng có tầm quan trọng với sức khỏe con người và sinh vật trên hành tinh này nhưng chúng đồng thời cũng có những tác động tiêu cực đến môi trường sống xung quanh. Nhiều người trong chúng ta vẫn tin rằng đất, nước và không khí là những vật chất“ tự nhiên”, “ tinh khiết”, “ không ô nhiễm”; những tác động của con người đã vô tình làm “ ô nhiễm” và làm chúng ngày càng “ tồi tệ” hơn. Các yếu tố tự nhiên phong phú. Những nguyên tố thấp nhẹ được gặp thường xuyên hơn so với những nguyên tố nặng. 26 nguyên tố đầu tiên chu kì làm phong phú hơn nhất trong đá của lớp vỏ lục địa. Mô sống được cấu tạo chủ yếu từ 11 nguyên tố, được gọi là nguyên tố đa lượng. Chúng là H, Na, Mg, K, Ca, C, N, O, P, S và Cl. Fe Những nguyên tố vi lượng giúp điều chỉnh các quá trình vận động của cuộc sống. Các nguyên tố được nghiên cứu cần thiết cho dinh dưỡng là F, Cr, Mn, Co, Cu, Zn, Se, Molypden, I. Còn nhiều hơn nữa các nguyên tố vi lượng cần thiết và cho quá trình sống. Các nguyên tố khác, như Ni, Asen, Al, Ba, kiềm là những nguyên tố gây hậu quả sinh lý do sự tích tụ trong các mô sống. Tập trung và phân tán chất hóa học Sự di chuyển của các chất và các hợp chất qua các thời kỳ thông qua thạch quyển,thủy quyển, sinh quyển, khí quyển, và trong các chu trình sinh địa hoá. Quá trình tự nhiên: hoạt động núi lửa hoặc sự phong hóa các vụn đất đá, các thử nghiệm hóa học vào môi trường đều thải ra nhiều chất khí, chất rắn…độc hại. Ngoài ra, con người có thể tạo ra các chất thải gây ô nhiễm hoặc những chất gây ô nhiễm môi trường như : phun thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật, bón phân vi lượng kích thích sự tăng trưởng cho cây trồng. Sau khi thải ra bởi quá trình tự nhiên hoặc nhân tạo, các chất khí, chất rắn, hợp chất này sẽ được phục hồi bởi các quá trình địa hóa và hình thành đá làm mất đi nồng độ ban đầu của chúng.Như vậy, nồng độ của một nguyên tố hóa học cụ thể hoặc hợp chất có thể hoàn toàn khác nhau trong đá macma so với trong đá trầm tích - là sản phẩm của sự phong hóa đá macma.Nồng độ tăng hoặc giảm phụ thuộc vào bản chất của các quá trình sinh địa hoá và hình thành đá. Ví dụ, ở thời tiết ban đầu phải tăng 10 lần Selen trong đá macma để hình thành đá phiến sét. Nhưng ở than đá, đá trầm tích và phosphorties (đá giàu canxiphotphat) không cho thấy sự gia tăng đó. (Ví dụ này và các quá trình sinh địa hoá và hình thành đá, chẳng hạn như thời tiết, sự tăng trưởng, lọc, và lắng đọng,.. làm tập trung và phân tán các yếu tố và các chất khác trong môi trường.) • Quá trình của con người cũng phải chịu trách nhiệm về nồng độ của hóa chất do làm tăng dân số Phong hóa: Phong hóa là là một quá trình tự nhiên giải phóng những phần tử được sử dụng bởi sinh quyển trong quá trình sống.(Qua các phân tích vật lý và hóa học của vật liệu đá và quá trình trong sự hình thành đất. Các quá trình này tạo cơ hội cho thời tiết giải phóng các nguyên tố vi lượng trong đất, đá vào môi trường làm ô nhiễm môi trường.) • Ví dụ, chì được thải vào môi trường khi chất phụ gia chì trong xăng được phát ra thông qua hệ thống ống xả, thủy ngân, cadminum, niken, kẽm, và các kim loại khác được giải phóng vào khí quyển và nước thông qua công nghiệp và các hoạt động khai thác mỏ. (Giảm ô nhiễm chì đang thành công môi trường. Nó không còn được sử dụng như một chất phụ gia trong xăng ở Hoa Kỳ và một số nước trên thế giới. Kết quả là, nồng độ chì trong không khí đã giảm đáng kể (hơn 90%), và điều này sẽ có ảnh hưởng sức khỏe môi trường tích cực cho hàng triệu người trước đây.) Lọc:
- Lọc, bồi tụ, lắng đọng, hoạt động sinh học, và các quá trình khác có thể tập trung hoặc phân tán các yếu tố sau khi được giải phóng bởi quá trình tự nhiên và nhân tạo. Rửa trôi đất là quá trình phổ biến- là loại bỏ vật chất hòa tan trong dung dịch từ trên tầng đất thấp , diễn ra chủ yếu trong khí hậu ấm áp, ẩm ướt, nơi đất dễ mất chất chất dinh dưỡng.Vật liệu không hợp vệ sinh hoặc độc hại ô nhiễm nguồn nước ngầm. Hơn nữa, các nguyên tố vi lượng còn có thể được tập trung ở mức độ không mong muốn. Tích lũy: Tích lũy là quá trình lưu giữ các vật chất trong đất một thời gian dài. Chẳng hạn, muối có thể tích tụ trên bề mặt đất thông qua quá trình bốc hơi cùng với các vật chất khác đã được lọc khỏi dung dịch nước và tích lũy trên bề mặt B. Một ví dụ về sau này được tìm thấy ở các vùng bán khô cằn, nơi tích tụ của canxi cacbonat (lớp trầm tích) được tìm thấy ở trên mặt B của một số loại đất. (xem Chương 3 để biết thêm về mặt đất) Lắng đọng : Lắng đọng vật liệu trái đất dẫn đến hai vấn đề môi trường quan trọng. Kim loại nặng và một số vật liệu khác gây ra sự gián đoạn sinh học khi chúng bị rơi, đổ vào suối, hồ, và đại dương. Ví dụ, thủy ngân có thể chứa trong các hạt lơ lửng hoặc lắng xuống trầm tích đáy, làm tăng nồng độ thủy ngân trong môi trường nước. Con người sử dụng nước hay vật liệu có chứa trầm tích để nuôi cá dần dần cơ thể chúng hấp thụ thủy ngân, và loài động vật khác ăn cá bị nhiễm thủy ngân (chim), một trong các loài này cuối cùng cũng bị tiêu diệt , điều này tác động lên chuỗi thức ăn, đó gọi là gián đoạn sinh học. Quá trình trên được gọi là sự tích tụ chất độc trong cơ thể, khi chất độc đạt tới một nồng độ nhất định sẽ gây ra vấn đề về sức khỏe. Sự thiếu hụt các nguyên tố vi lượng cần thiết ở một số khu vực do các nguyên tố ban đầu tồn tại trong các trầm tích di chuyển đi nơi khác bởi nước, đá và gió.Vấn đề thứ hai là các nguyên tố ban đầu có thể tương tác với các quá trình khác như lọc, lắng đọng… Xói mòn và lắng đọng bởi gió loại bỏ đi các nguyên tố một cách có chọn M III. Yếu tố vi lượng và sức khoẻ: ỗi nguyên tố có một phạm vi rộng ảnh hưởng đến thực vật và động vật. Ví dụ, selen là chỉ là nguyên tố độc hại trong khu vực có nồng độ selen cao, hầu hết không có ảnh hưởng lâu dài ở những khu vực khác mà nó còn mang lại lợi ích phuc vụ cho việc chăn nuôi. Mâu thuẫn được giải quyết rõ ràng khi chúng ta nhận ra rằng selen được cung cấp quá mức, thứ hai trạng thái cân bằng, và trường hợp thứ ba sự thiếu hụt một số trường hợp được bằng việc bổ sung nguồn thực phẩm động vật(12). Trong phần này chúng tôi sẽ xem xét một số tác dụng sinh học của các nguyên tố vi lượng, hoặc các chất vi lượng. Đề cập đến các nguyên tố hoặc các hợp chất cần thiết trong một lượng nhỏ nhưng có thể độc hại với số lượng lớn hơn. Liều lượng phụ thuộc và Liều lượng hiệu quả: Những tác động của một nguyên tố vi lượng nhất định lên một sinh vật phụ thuộc vào liều lượng hoặc nồng độ của các nguyên tố đó. Liều lượng phụ thuộc này có thể được biểu diễn bởi đường cong tương ứng với liều lượng, được thể hiện ở hình 13.2a (12,13). Nồng độ khác nhau của một nguyên tố trong một hệ thống sinh học được cung cấp chống lại những ảnh hưởng đến sinh vật, có ba điều là rõ ràng: Thứ nhất, nồng độ lớn có thể là độc hại thậm chí gây chết người (DEF trong hình 13.2a), nồng độ ít có thể có lợi hoặc thậm chí cần thiết cho cuộc sống (AB). Thứ 2, đường cong phản ánh độ ổn định ở nồng độ cao nhất và lợi ích tối đa cho sự sống. Có một ngưỡng cho nồng độ mà tại đó nó bắt đầu gây hại cho sự sống. 1 trong những ngưỡng đó là điểm A (trong hình 13.2a) bên dưới đó, nồng độ giảm đồng nghĩa với sự thiệt hại tăng, 1 điểm khác là điểm D, trên đó nồng độ tăng làm tăng thiệt hại. Tất cả những điểm A, B, C, D, E và F trong hình 13.2a đều là dấu hiệu của những ngưỡng nồng độ. Thật không may, điểm E và F chỉ được biết ở một vài chất (như là chúng ảnh hưởng đến con người và những loài khác) và điểm D thật sự quan trọng nhưng cũng không được biết đến. Độ rộng của khoảng có lợi nhất và ổn định (điểm B và C) cho 1 sinh vật sống phụ thuộc vào trạng thái cân
- bằng sinh học của cá thể. Nói cách khác, trong các giai đoạn khác nhau của hoạt động, dù có lợi, có hại, hay gây chết người, có thể rất khác nhau cả về số lượng và chất lượng đối với những chất khác nhau và do đó hoàn toàn chỉ có thể quan sát được ở những điều kiện đặc biệt. Thuật ngữ độc tố chỉ các chất độc hại cho người và những sinh vật khác. Nghiên cứu về độc tố và môi trường ảnh hưởng của chúng cũng như các hậu quả về kinh tế và luật pháp của độc tố trong môi trường, hay còn được gọi là độc học. Nghiên cứu của độc học thường sử dụng khái niệm liều lượng hữu hiệu, mà được đo lường bằng tác dụng ảnh hưởng trên dân cư hơn là trên 1 cá thể riêng biệt. Như những nghiên cứu được thể hiện thông qua những đường cong trong hình 13.2b, phụ thuộc vào chất độc và những loài được nghiên cứu. Mỗi đường cong này cho thấy tỉ lệ phần trăm của dân số thể hiện 1 phản ứng đặc biệt với chiều tăng của nồng độ của một loại độc tố cụ thể. Điểm TD-50 là nồng độ (lượng độc tố) mà tại đó 50 phần trăm dân số nhận thấy phản ứng, mà có lẽ là 1 triệu chứng cụ thể, sự tấn công của 1 căn bệnh, hay thậm chí là cái chết. Nếu phản ứng mà chúng ta tính đến là cái chết, li ều lượng ảnh hưởng đó được gọi là lượng gây chết (LD). LD-50 là nồng độ mà tại đó 50 phần trăm dân số chết. Đường cong thứ 3 trong hình 13.2b có thể miêu tả số lượng những người phát triển một dạng nổi mẩn phản ứng với 3 độc tố khác nhau. Đường cong A là một đường cong tuyến tính cho thấy mối quan hệ trực tiếp giữa các lượng độc tố và tỉ lệ phần trăm dân số có phản ứng. Trong trường hợp này, nếu tăng gấp đôi liều lượng độc tố sẽ gây ra gấp đôi số người phát triển phản ứng nổi mẩn. Đường cong B thể hiện phản ứng phi tuyến tính, trong đó sự gia tăng nhanh nhất tỉ lệ phần trăm dân cư cho thấy sự phản ứng xuất hiện ở khoảng 25-75 phần trăm dân cư. Đường cong C thể hiện phản ứng không tuyến tính chỉ ra ngưỡng ảnh hưởng (điểm T trên đường cong). Đó là, như là lượng hoặc nồng độ tăng, không có phản ứng đáng kể đến khi nồng độ đạt mức ngưỡng, sau đó phần trăm dân số cho thấy một sự gia tăng phản ứng. Sự mất cân bằng của những nguyên tố vi lượng được lựa chọn. Một cuộc thảo luận đầy đủ về những tác động địa chất và môi trường của tất cả các nguyên tố vi lượng sẽ là 1 cuốn sách giáo khoa trong chính nó. Mục tiêu của chúng tôi ở đây là thảo luận về một vài đại diện để thể hiện những ảnh hưởng có thể của sự mất cân bằng (quá nhiều hoặc quá ít) của các nguyên tố vi lượng. Vì mục đích này chúng tôi đã chọn Flo, iod, kẽm và selen. Thêm vào đó, nó rất giá trị liên quan đến các vấn đề nguyên tố dấu vết đối với con người sử dụng đất, mà chúng ta sẽ làm với ví dụ về khai thác mỏ. Flo Flo là một nguyên tố vi lượng quan trọng, mà ở dạng các hợp chất florua hoặc florua. Hợp chất canxiflorua giúp ngăn ngừa phân rã men răng bằng cách tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển, tăng khả năng chống chịu của những tinh thể apatit (canxi photphate) trong răng. Một tiến trình tương tự cũng diễn ra trong xương, tại đó florua giúp phát triển cấu trúc xương hoàn hảo hơn, quá trình này diễn ra ít và gần như yếu ở tuổi già. Flo khá dư thừa trong những tảng đá và trong một số lớp đất và nước. Hầu hết Flo trong những lớp đất và nước được bắt nguồn từ đá gốc, nhưng nó có thể cũng được bổ sung bởi hoạt động núi lửa, tro núi lửa giàu Flo tích tụ dưới những lớp đất ở đó. Hoạt động và ứng dụng của những phân bón Công nghiệp đã cũng ảnh hưởng 1 phần đến thành phần đất trong đó, trên một cơ sở hạn chế, cộng tác địa phương tới một sự tăng cường trong sự tập trung của Flo trong những lớp đất và nước. Những mối quan hệ giữa sự tập trung của khí Flo và sức khỏe chỉ nói lên một đáp tuyến cũng như 1 liều đặc biệt (đưa vào Hình 13.3).Sự tập trung của khí Flo tối ưu (Điểm B) cho sự giảm của bệnh sâu răng (sự suy sụp răng) là khoảng 1 phần triệu. Những mức Flo cao hơn so với 1.5 ppm không hề có một cách đáng kể về việc giảm bớt sự tác động của bệnh mục xương nhưng họ tăng biến cố và tính nghiêm trọng của sự tạo vết (sự mất màu) của răng. Trong những sự tập trung từ khoảng 4 đến 6 ppm, Flo có thể giúp ngăn ngừa sự vôi hóa của động mạch chủ bụng và có thể giảm bớt sự thịnh hành của việc loãng xương, một bệnh đặc trưng bởi sự mất mát của khối lượng xương cũng như thiếu chât cần thiêt cho xương. so sánh mật độ xương ở cơ thể người trong những vùng với nước có hàm lượng flo cao và thấp. (Những chữ N.S trong hình này chỉ báo những sự khác nhau đó mà không thống kê một cách quan trọng, những phương tiện này cho N.S những trường hợp chúng tôi không phải người tin cậy mà quan sát những sự khác nhau một cách thực sự). Điểm C trên đáp tuyến liều trong Hình 13.3 được xác định từ sự nghiên cứu của những lợi ích Flo trong bệnh loãng xương.Điểm E được xác định từ những sự nghiên cứu cho thấy rằng những sự tập trung Flo đó từ 8 đến 20 ppm được liên quan đến sự hình thành xương quá mức trong màng xương (trù
- mật, dạng sợi, lớp ngoài của xương) và canxi của những dây chằng mà thông thường không hóa vôi. Những vị trí của những điểm A, D và F không hề được biết chính xác, nhưng Flo trong những liều mảng là thành phần chính của một số chất độc gặm nhấm. Bệnh về tuyến giáp có lẽ là ví dụ được biết tốt nhất của mối quan hệ giữa địa chất và bệnh. Tuyến giáp trạng, được định vị tại cơ sở của cổ, yêu cầu cung cấp 1 cách đầy đủ hàm lượng Iod để bổ sung. Sự thiếu Iot gây ra bướu cổ, tạo điều kiện làm sưng lên, nó liên quan đến sự phóng to của tuyến giáp trạng. Hơn nữa, một đứa trẻ được sinh ra từ một người mẹ mà có sự thiếu hụt Iot trong thời gian mang thai có thể hứng chịu sự ngu si, đó là căn bệnh đặc trưng bởi sự tăng trưởng chậm và chậm phát triển về tinh thần. Tại một thời gian sự ngu si đối với những người dân là bình thường trong những vùng của Mexico và Switzerland và tại đây mật độ người bị bệnh bứu cổ rất cao. Sự tác động của bệnh bướu cổ ảnh hưởng rõ ràng tới công việc thiếu hàm lượng Iot, được cho thấy bởi những vùng thiếu hụt giữa Iot trong mối quan hệ và biến cố của bướu cổ trong Nước Mỹ (hình 13.6). Sự sử dụng muối có thành phần iod bây giờ là bình thường trong việc chữa bệnh bướu cổ, và nó đã được tìm thấy tất cả cái đó trong thanh niên và bệnh bướu cổ ngày càng chậm chạp giảm bớt về kích thước khi sử dụng muối có hàm lượng iod trong đó. Trong vòng 4 năm từ 1924 tới 1928, sự sử dụng muối iod thì ở Michigan được giảm bớt sự tác động của bệnh bướu cổ từ 38.6 xuống còn 9 phần trăm. Bướu cổ ở lại loài đặc hữu trong một số phần (của) thế giới. Chẳng hạn, ở Sri Lanka, gần 10 triệu người có nguy cơ, và nhịp độ của bệnh cao khoảng 44 phần trăm và dân cư đã được quan sát tại một số khu vực ở đó. Như trong Nước Mỹ, nguyên nhân chính là sự thiếu hụt Iot, nhưng có một nhân tố (hệ số) là khí hậu và vành đai bướu cổ nữa ở Sri Lanka (thì) trùng hợp với một khu vực có khí hậu ẩm ướt mà giảm bớt những điều kiện tồn tại của iod trong tự nhiên. Sự tác động của bệnh bướu cổ cao hơn trong số nhỏ được đưa đến nơi những nhóm nông thôn. Một chương trình để cung cấp muối iod cần thiết để giảm bớt sự tác động của bệnh. Sự suy đoán đáng kể có rất nhiều qua điều mà những quá trình chiụ trách nhiệm về tập trung sự vận chuyển hàm lượng iod hay việc loại bỏ nó từ sulfur làm thành phần vật chât của trái đất. Giả thuyết phổ biến nhất là Iot trong đất đã được giải phóng bởi thời tiết (của) những tảng đá. Một sô hàm lượng iod này đã vào những sông và dần dần ra biển, vì thế mà những đại dương đã trở nên những kho chứa Iot lớn, có lẽ là chứa khoảng 25 phần trăm tổng iod của trái đất. Vì hầu hết hỗn hợp Iot hoàn toàn hoà tan được, tuy nhiên, không chắc rằng nhiều Iot (thì) dư trong những tảng đá sau khi chịu ảnh hưởng lâu dài hay dầm mưa dãi gió. Một lý thuyết thích hợp hơn là Iot trong đại dương vào khí quyển như khí hay được hút lên trên thành những hạt bụi trong không khí thì đã kết tủa bởi mưa và tuyết lên trên những vùng đất liền, một phần ở đâu nó tích lũy trong những lớp đất đá. Khả năng khác xuất hiện từ sự quan sát mà vành đai bướu cổ thô nhám trùng với vùng xung quanh những hồ mà đã có những người vĩ đại trong thời kì băng hà trong suốt mấy ngàn năm trước đây. Người ta giải thích rằng đất ở những khu vực này có lượng iod thấp bởi vì việc đóng băng đã làm di chuyển lớp đất cũ giàu iod, và phần đất sau này lại chưa có đủ thời gian để tích lũy iod từ bầu khí quyển. Điều này không chắc là sẽ xảy ra, tuy nhiên, cần cân nhắc đến sự hòa tan của các hợp chất của iod. Quá trình sinh học ảnh hưởng đáng kể đến hàm lượng iod trong thực vật và động vật ở 1 khu vực. Thực vật ảnh hưởng đến hàm lượng iod bằng cách hấp thụ iod vào mô sống của chúng và bằng cách giữ lại ở lớp giàu hữu cơ trên bề mặt của đất (đất mùn). Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng iod có xu hướng tập trung ở phần đất mùn trên mặt đất. Những quá trình sinh học, mà chu trình iod ở đất và cây thì việc xác định lượng iod có sẵn quan trọng hơn lượng iod trong các tầng đá gốc ở khu vực đó. Kẽm Kẽm là yếu tố vi lượng cần thiết cho thực vật, động vật, và con người. Mặc dù kẽm là một kim loại nặng với số lượng quá cao có thể liên quan với bệnh tật, vai trò của nó được biết đến chủ yếu từ các nghiên cứu thiếu kẽm.Thiếu hụt kẽm có mặt ở 32 quốc gia và có kết quả trong một loạt các bệnh thực vật gây ra năng suất thấp, hạt giống phát triển kém,và ngay cả tổng số cây trồng chết. Thiếu kẽm trong các cây trồng liên quan đến 3 điều kiện cơ bản: nồng độ của kẽm thấp, không có kẽm trong đất, và quản lý đất kém. Số lượng kẽm thấp trong các khu vực được đánh giá cao được lọc, cũng như ở nhiều nơi của vùng đồng bằng ven biển phía bắc Carolina, Georgia,và Florida. Kẽm có mật độ thấp trong vùng cát Miền Bắc Nebraska, nơi gió vận chuyển cát hình thành những ngọn đồi không để di chuyển các kim loại nặng cần thiết để tất cả động vật và người, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của phát triển và tăng trưởng.
- Mặc dù nồng độ yêu cầu là nhỏ, nhưng thiếu sót nhỏ có thể gây ra mất khả năng sinh sản, chữa bệnh chậm và rối loạn xương, khớp và da. Thiếu hụt kẽm trong cơ thể con người có thể gây ung thư phổi và một số loại bệnh mãn tính khác. Tuy nhiên, sự thiếu hụt kẽm đã được quan sát thấy chủ yếu ở những bệnh nhân, và mối tương quan giữa những sự thiếu hụt và bệnh tật chưa được hiểu rõ. Những người có bệnh một phần vì bị thiếu hụt kẽm, hoặc họ có thiếu hụt kẽm bởi vì họ có bệnh? Nếu trước đây là đúng, sau đó điều trị kẽm, được biết đến tác dụng có lợi về sửa chữa mô có thể hữu ích trong điều trị một số bệnh mãn tính Thêm kẽm vào đất có thể giúp ngăn chặn sự chậm phát triển của thực vật và động vật. Chăm sóc phải được thực hiện ở việc bổ sung kẽm, tuy nhiên nếu kẽm không có chất lượng cao, cadmium quá nhiều có thể bị vô tình phát tán vào môi trường. Cadmium là một trong những nguyên nhân gây bệnh xương, bệnh tim và ung thư. Selenium Ở nồng độ cao, selen có thể là các yếu tố độc hại trong môi trường. Nó là một ví dụ tốt về lý do tại sao mối quan tâm đang gia tăng sự cần thiết cho việc kiểm soát các yếu tố dấu vết liên quan đến sức khỏe. Selen là cần thiết trong chế độ ăn của động vật tại một nồng độ 0.04ppm, mang lại lợi ích khi nồng độ là 0.1ppm, và độc hại khi nồng độ trên 4ppm, selen là mối quan tâm của các nhà sinh học vì tính chất độc hại của nó, mặc dù thiệt hại lớn cho chăn nuôi có kết quả từ sự thiếu hụt selen hơn từ độc tính của nó. Độc tính của selenium gần đây đã được phát hiện tại thung lũng San Joaquin ở trung tâm California, nơi mà nó đang đe dọa một khu vực nông nghiệp lớn. Nguồn gốc cơ bản của selenium là từ núi lửa hoạt động. Người ta ước tính rằng trong suốt lịch sử của trái đất, núi lửa đã phát tán khoảng0.1g cho mỗi cm vuông trên bề mặt. Selen được đẩy ra từ núi lửa dưới dạng hạt, vì vậy dễ dang được lấy ra từ núi lửa do mưa vẫn thường tập trung gần núi lửa. Điều này giải thích tại sao tập trung selen trong vỏ trái đất khoảng 0.05 ppm, như những mảnh đất ở Hawaii, mà được bắt nguồn từ núi lửa vật chất, chứa đựng 6 tới 15ppm. Selen trong đất thay đổi từ khoảng 0.1ppm thiếu hụt như tới những vùng 1200ppm trong những đất giữ chất hữu cơ ở những vùng độc. Tuy nhiên Có nhiều sự lien quan hơn, số lượng Selen có trong cây. Hawaii, có hàm lượng Selen cao không tạo ra cây độc Selenniferousm, nhưng ở Nam Dakota và Kansas làm, mặc dù đất của học có chứa ít hơn 1ppm selen ( nồng độ bình thường dự kiến kết quả từ bụi phóng xạ khí quyển và của đá). Câu đố này đã được giải quyết bằng cách kiểm tra tính sẵn có của Selen. Trong đất acid( như ở Hawaii), Selen tạo thành các hợp chất không hòa tan và không có sẵn trong thực vật, trong khi ở đất kiềm, Selen có thể được oxi hóa một hợp chất đó là hòa tan rất nhiều trong nước và do đó có sẵn trong các cây. Cây trồng làm thức ăn gia súc phát triển cho động vật trong đất có chứa Selenium hòa tan độc hại, trong khi loại cây trồng làm thức ăn gia súc phát triển được trong đất có chứa Selenium không hòa tan có sự thiếu hụt Selen. Selenium có xu hướng tập trung một ít ở các sinh vật sống, một vài thực vật, được gọi là Selen Accunmulator, có thể chứa hơn 2000ppm Selen, trong khi thực vật khác trong cùng một khu vực có thể có ít hơn 100m tổng Selen. Những mức Selen trong phạm vi máu của con người từ 1.1 đên 0.31ppm, tong khi đó selen trong nước song là khoảng vài nghìn lần và ở nước biển. Con cá biển, mặt khác chứa đựng Selen một lượng khoảng 2ppm ở những nguồn nước khác, nhưng là nhiều nghìn lần được tìm thấy trong nước biển. Vì Selen tích lũy trong vật liệu hóa thạch như trong than đá, mà phát triển từ vật chất hữu cơ, có chứa đựng Selen, nó đã được đánh giá phiên bản hang năm đó của Selen bởi sự đốt cháy than đa và dầu trong Nước Mỹ khoảng 4000 tấn. Ít được biết về thiếu hụt Selen có độc tính trong con người. Tuy nhiên, sự thiếu hụt Selen được biết đến có lien quan đến chứng teo cơ ở bò và cừu, và một nghiên cứu kết luận rằng nó cúng có thể là một yếu tố gây bệnh ở người. Vài trường hợp của sự đầu độc Selen đã được thong báo trong những người mà sống trên thức ăn được trồng nơi cao Seleniferous dễ bẩn hay người mà uống nước chứa Selenferous trong những nước kém phát triển. Ở các nước kinh tế phát triển, nơi các lô hang thực phẩm đạt tiểu chuẩn, có lẽ có Selen với một lượng rất ít. Sự sử dụng của con người và sự không cân bằng của các nguyên tố IV. vi lượng.
- N hững hoạt động nông nghiệp, công nghiệp, và khai mỏ thì chịu trách nhiệm về nguyên liệu tiềm tang mạo hiểm và độc trả lại tất cả vào trong môi trường. Nguy cơ này là một phần của cái giá phải trả cho lối sống của chúng ta. Chẳng hạn, sự bất ngờ và suy đoán trước những vấn đề nhận được xuất hiện từ hóa chat có vẻ có lợi mà kiểm soát côn trùng có hại và bệnh. Trong khi chúng tôi trở nên khó khăn hơn trong việc đoán trước và sửa chữa vấn đề. Nó sẽ phá vỡ môi trường từ bản xuất hiện của các nguyên tố vi lượng sẽ được giảm. Ví dụ địa chất quan trọng của các vấn đề bất ngờ với các dấu vết được tìm thấy trong quá trình khai thác khoáng sản. Trớ trêu thay, chúng ta dạnh nhiều thời gian, năng lượng và tiền bạc để trích xuất các nguồn lực tập trung bởi các chu kì địa chất, nhưng làm như vậy đôi khi chúng ta tập trung và giải phóng năng lượng có khả năng gây hại cho các nguyên tố vi lượng vào môi trường. Một lịch sử trùng hợp minh họa điều này là sự xuất hiện của một bệnh xương nghiêm trọng lien quán đến khai thác mỏ kẽm, chì tại Nhật Bản. Bệnh mãn tính và môi trường địa chất Sức khỏe có thể được định nghĩa là khi một sinh vật trong tình trạng điều chỉnh tói nội quan và môi trường bên ngoài của mình. Quan sat trong nhiều năm đã gợi ý rằng một số biến thể khu vực và địa phương trong các bệnh nhân mãn tính như ung thư và bệnh tim có liên quan đến môi trường địa chất. Mặc dù bẳng chứng cứ tích lũy, có hai lý do chưa dẫn đến kết quả cuối cùng. Đầu tiên, giả thuyết về mối quan hệ giữa môi trường địa chất và bệnh tật đã không đủ cụ thể để kiểm tra đầy đủ. Nghiên cứu cơ bản lĩnh vực thẩm tra cần được phối hợp tốt hơn. Thứ hai, nhiều phương pháp vẫn còn gặp nhiều khó khắn để có những dữ liệu đáng tin cậy và có thể so sánh với các nghiên cứu y tế địa chất. Do đó, chúng ta biết ít hơn về ảnh hưởng của địa chất về căn bệnh mãn tính hơn về sự đóng góp của các yếu tố môi trường khác như khí hậu. Mặc dù đánh giá của các nhà khoa học đã đóng góp cùa địa chất bệnh, vẫn còn là một xu hướng giáo dục, lợi ích cho nhân loại học hỏi nhiều hơn về các mối quan hệ rõ ràng. Những sự biến đổi địa lí trong sự tác động của bệnh tim ở Hoa Kì có thể liên quan đến môi trường địa chất, và nó được ước tính 2/3 các khối u ung thư trong bán cầu về phía tây, kết quả một phần từ những nguyên nhân môi trường, dù những yếu tố di tryền cũng rất quan trọng. Bệnh tim và môi trường địa chất Thuật ngữ bệnh tim ở đây bao gồm bệnh tim ( CHD) và bệnh tim mạch (DVD) hình vành. Các biến thể của tỷ lệ tử vong bệnh tim nói chung đã thể hiện mối quan hệ thú vụ với các hóa chất trong nước uống, và đặc biệt là với độ cứng của nước uống. Herdness là một hàm lượng Canxi và Magie hòa tan trong nước. Nồng độ các chất này cao tạo ra độ cứng cao gọi là nước cứng. Với nồng độ thấp của các chất này gọi là nước mềm. Nghiên cứu tại Nhật Bản, Anh, Wales và Hoa Kỳ tất cả các kết luận Khai mỏ nguyên tố và những nguyên tố vi lượng độc Bệnh Italltal ( có nghĩa là “ouch, ouch”) là bệnh mãn tính nghiêm trọng làm chết nhiều người. Italltal tấn công xương, làm chúng trở nên mỏng, dễ bị phá vỡ. Ví dụ bệnh này ở lưu vực sông Zintsu Nhật Bản: Nguyên nhân: ■ Xảy ra ở chiến tranh thế giới thứ 2, các khu công nghiệp khi thi hành xử lý chất thải phần lớn bị bỏ qua. ■ Hoạt động khai thác mỏ kẽm, chì, cadmium, đổ chất thải khai thác vào các con sông, nông dân lại sử dụng phần nước hạ lưu vị ô nhiễm cho nông nghiệp. ■ Nguyên nhân đặc biệt là do cadmium, nồng độ của 1/1 triệu ppm trong đất và gạo gây ra bệnh Italltal. Khi kiểm tra xương và mô của nạn nhân đã tìm thấy nồng độ kẽm, chì và cadmium lớn. Một dữ liệu cho thấy có nồng độ trung bình của Cadmium là 6ppm trong đất ô nhiễm. (cadmium còn gây ra chứng tăng huyết áp, có thể làm tử vong do tạo nồng độ cao cadmium kẽm trong thận, tỷ lệ chết cao hơn so với những người chết). Bệnh tim
- Nguyên nhân: ■ Đột quỵ ( ngập máu), đột ngột bị mất các chức năng như bị đứt gẫy hoặc tắc nghẽm các mạch máu trong não. ■ Sự biến đổi bệnh này có liên quan đến tỉ lệ sulfate bicarbonate trong nước sông. Giải thích về những chất liên quan đến độ cứng của nước: ■ Ion bicarbonate () là một phần kết quả của thời tiết, hình thành nên đá giàu carbonat như đá vôi. Nước cứng trong bicarbonate có chứa nồng độ Canxi hoặc Magie cao. ■ Tỷ lệ sulfate dicarbonate chỉ ra nồng độ bicarbonate tương đối cao nên nước cứng. Và ngược lại, tỷ lệ sulfate dicarbonate cao sẽ cho thấy nước tương đối mềm. Những nơi nào có nước tương đối mềm thì có tỉ lệ mắc bệnh tim cao hơn so với những nơi có nước cứng hơn. Ví dụ về mối quan hệ nghịch đảo giữa nước cứng và tỉ lệ tử vong từ bệnh tim ở Hoa Kì: Nhà nghiên cứu Ohio cho thấy rằng các hạt trong nước uống giàu sulsate có nguồn gốc từ than đá, nằm ở phía đông nam có xu hướng tỷ lệ tử vong do mắc bệnh tim cao hơn so với nguồn nước có lượng sulfate thấp, nước uống carbhonat acid cao bắt nguồn từ những băng tích trẻ. Nguyên nhân và mối liên quan đến bệnh tim( các nhà khoa học chưa biết thiên nhiên có ảnh hưởng như thế nào): Nước mềm do acid ăn mòn xuyên qua ống dẫn, giải phóng vào trong nước những nguyên tố vi lượng gây ra bệnh tim. Một số đặc trưng khác của nước mềm có thể trực tiếp góp phần gây bệnh tim. Một số chất được hòa tan trong nước cứng có thể giúp ngăn ngừa bệnh tim Nghiên cứu bổ sung cho thấy lợi ích của nước cứng và có thể xử lí nước mềm để làm giảm bệnh tim. Nguyên tố vi lượng như magan, chroumium, vanadi, đồng có lợi trong ngăn ngừa bệnh tim. Ung thư và môi truờng địa hoá Liên quan đến những điều kiện ngoại cảnh, phức tạp, có thể có sự hiện diện hoặc vắng mặt của một số vất liệu Trái Đất. Nguyên nhân: ■ Sự xuất hiện của các vật chất trong tự nhiên như đất, nước. ■ Sự giải phóng vật chất vào môi trường bởi chính con người. Đặc biệt là sự giải phóng bởi những hoạt động công nghiệp. Chất ung thư có thể được tìm thấy ở nhiều nguồn nước mà ta sử dụng. Nước bị ô nhiếm do chất thải công nghiệp và đô thị có chứa hóa chất độc hại.Như ở sông Mississippi, nước ô nhiễm, kết hợp với clo, việc xử lý nước được sử dụng không triệt để để loại bỏ một số chất gây ung thư. Ung thư thực quản: có mối liên quan phức tạp giữa ung thư và yếu tố môi trường: khí hậu, đất, thảm thực vật, các hoạt động nông nghiệp ( đất là yếu tố có tương tác cao nhất) Bệnh tim ở Georgia Nghiên cứu đầu tiên về bệnh tim là ở Georgia Mỹ. Sự khác biệt rõ rệt giữa mức tử vong do mắc bệnh tim cao nhất và thấp nhất trong 159 tỉnh ở Georgia. ■ Chim nơi có tỷ lệ tử vong cao tập trung ở phần trung tâm phía nam, vùng đồng bằng ven biển Đại Tây Dương của quốc gia ( khoảng 1151 đến 1446 ca chết trong 100000 dân) ■ Chin nơi có tỷ lệ bệnh tim thấp là ở phía bắc Georgia trong khu vực Piedmont, núi Blue, sườn núi và khu vực thung lũng. Sự khác biệt như vậy là do biến đổi địa hóa trong đất khác nhau, do nồng độ của một trong các nguyên tố nhôm, bari, canxi, crom, đồng, sắt, kali, magie, mangan, niobium, phốt pho, vanadium được tìm thấy ( Zinrconium là nguyên tố có nồng độ lớn hơn cả gây tử vong cao). Mangan, crom, vanadi và đồng có lợi cho bệnh tim, tập trung cao hơn ở những nơi có tỷ lệ tử vong thấp. Amiang Là những khoáng vật nhỏ, dài gọi là sợi phíp. Đặc biệt vỡ ra từng mảnh của những khoáng đá sa thạch. Công dụng: phòng cháy và nóng quá mức của nhiên liệu. Được sử dụng trong các lớp phanh và như một vật liệu cách nhiệt.
- Sản xuất sợi nghiền gần như bất kì tảng đá nào có khả năng tạo ra mảnh vỡ, khoáng vật nhỏ kéo dài Nhược điểm: ■ Tiếp xúc nhiều với amiang như công nhân trong ngành công nghiệp dễ mắc bệnh phôi, được gây ra bởi hít phải các sợi. Nặng hơn là bệnh ung thư phổi. ■ Thí nghiệm động vật tiếp xúc với amiang làm phổi xuất hiện các khối u, gây ra niêm mạc phổi. Nhưng không phải tất cả các loại Amiang nguy hiểm như nhau. Được biết như amiang trắng là sự đa dạng được sử dụng phổ biến nhất tại Hoa Kì. Ví dụ ở miền bắc Iran, gần biển Caspian: Tỷ lệ mắc bệnh cao nhất là vùng mặn nằm ở phía đông của khu vực, tỷ lệ thấp nằm ở vành đai mưa của khu vực này. Khu vực phía đông đất ngậm muối nhiều hơn. Thảm thực vật và hệ thống nông nghiệp thay đổi từ chăn thả gia súc, bao phủ thưa thớt bởi các cây chịu hạn đến các khu rừng tươi tốt và canh tác lú khô, trái cây và trà. R V. Phóng xạ và khí Radon: adon, một khí phóng xạ tự nhiên, được coi là vấn đề quan trọng của môi trường phát sinh từ quá trình tự nhiên và không liên quan đến bất kì các hoạt động công nghiệp, công cộng, hoặc hoạt động của chính phủ. Trước khi chúng tôi xem xét các vấn đề về radon, chúng ta cần phải xem xét bản chất của phóng xạ và nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe do sự tiếp xúc với khí thải phóng xạ. Bản chất của phóng xạ. Tất cả các nguyên tử của cùng một nguyên tố đều có cùng số nguyên tử (số proton trong hạt nhân). Đồng vị là các nguyên tử của một nguyên tố mà có số neutron khác nhau và do đó có khối lượng nguyên tử khác nhau (tổng số proton và neutron trong hạt nhân). Ví dụ, 2 đồng vị của uranium là 235U92 và 238U92. Nguyên tử của 2 đồng vị này có số nguyên tử là 92, nhưng khối lượng tương ứng của chúng lại là 235 và 238. Những đồng vị này có thể được viết là uranium-235 và uranium-238, hay U-235 và U-238. Sự phân rã hạt nhân của 1 đồng vị phóng xạ phân rã hạt nhân một cách tự nhiên, điều đó có nghĩa là nó thay đổi hạt nhân trong 1 hay nhiều các quá trình phóng xạ. 3 loại hạt chính được phát ra do trong các quá trình phân rã phóng xạ là hạt alpha, hạt beta, hạt gamma. Mỗi đồng vị phóng xạ có bức xạ đặc trưng của riêng nó, một số đồng vị chỉ phát ra một loại bức xạ trong khi một số khác có thể phát ra hỗn hợp các loại bức xạ. Hạt alpha Hạt alpha bao gồm 2 hạt proton và 2 hạt neutron, do đó làm chúng có khối lượng lớn hơn những loại bức xạ khác. Bởi vì sự phân rã alpha (phát xạ của một hạt alpha) làm thay đổi số proton trong hạt nhân, đồng vị này cũng bị biến đổi thành đồng vị của một nguyên tố khác. Ví dụ, 1 nguyên tử radon- 222, có 86 proton, phát xạ 1 hạt alpha và do đó chuyển thành 1 nguyên tử polonium-218 với 84 proton. Do khối lượng của chúng nên các hạt alpha là bức xạ di chuyển chậm nhất (năng lượng thấp nhất). Chúng di chuyển với khoảng cách ngắn nhất (khoảng 5 đến 8 cm trong không khí) và khả năng xuyên qua bề mặt chất rắn cũng thấp hơn bức xạ beta và gamma. Hạt beta. Hạt beta là hạt điện tử mang năng lượng và có khối lượng nhỏ hơn hạt alpha. Phóng xạ beta xảy ra khi một trong các neutron của hạt nhân thay đổi một cách tự nhiên. Lưu ý rằng điện tử phát sinh là một sản phẩm do sự biến đổi, không có điện tử trong hạt nhân trước khi phân rã xảy ra. Hạt gamma. Trong bức xạ gamma, một loại năng lượng được gọi là tia gamma được phát ra từ đồng vị, nhưng số lượng của các proton và neutron trong đồng vị không thay đổi. Tia gamma là tia hạt nhân tương tự như tia X được dùng trong y học. Tia gamma được phát xạ ra khỏi hạt nhân với năng lượng cao hơn, di chuyển nhanh hơn và khả năng đâm xuyên cao hơn tia beta và alpha. Một đặc điểm quan trọng của 1 đồng vị phóng xạ là thời gian bán rã của nó, là thời gian cần cho một nửa số lượng các đồng vị phóng xạ biến đổi thành một dạng khác. Mỗi một đồng vị phóng xạ đều có 1 thời gian bán rã đặc trưng của riêng nó. Ví dụ, như radon-222 có thời gian bán rã tương đối
- ngắn, 3.8 ngày. Carbon-14, một đồng vị phóng xạ của carbon có thời gian bán rã là 5570 năm; uranium-235 có thời gian bán rã là 700 triệu năm và uranium-238 có thời gian bán rã là 4.5 tỉ năm. Một vài đồng vị phóng xạ, đặc biệt là những đồng vị rất nặng trải qua nhiều lần phân rã để trở thành một đồng vị ổn định (không còn là đồng vị phóng xạ). Hình 13.10 cho thấy các chuỗi phân rã uranium-238 thông qua radium-226 và polonium-218 để tạo ra đồng vị ổn định chì-206. 2 điều quan trọng cần lưu ý trong mỗi biến đổi là loại bức xạ được phát ra và thời gian bán rã của đồng vị, thông tin này được đưa ra cho mỗi biến đổi trong hình 13.10. Sự phân rã từ một đồng vị phóng xạ tạo ra những đồng vị khác thường được ghi trong điều kiện của các nguyên tử cha mẹ và nguyên tử con. Từ nguyên tử radon-222, một loại khí có thời gian bán rã 3.8 ngày, phân rã bức xạ alpha tạo nên polonium- 218, là một chất rắn có chu kì bán rã 187 giây. g Hình 13.10: đơn giản hóa những chuổi phóng xạ từ uranium-238 tạo ra chì-206. Tất cả đồng vị không được thể hiện. Thời gian bán rã và loại bức xạ được thể hiện cho vài loại đồng vị. VI. Đơn vị bức xạ C ác đơn vị phóng xạ phụ thuộc vào chúng ta quan tâm đến điều gì,quá trình phân rã phóng xạ hoặc lượng chất phóng xạ bị cơ thể hấp thụ. Trong cả 2 trường hợp, những đơn vị được sử dụng để đo năng lượng của bức xạ. Đo phân rã phóng xạ Một đại lượng thường dùng để đo phân rã phóng xạ được gọi là Curie nhằm tôn vinh Marie và Pierre Curie, người đã phân lập được nguyên tố phóng xạ được biết đến đầu tiên, polonium và radium vào năm 1890. Marie Curie đặt ra thuật ngữ tính phóng xạ, và cô đặt tên là polonium theo tên của quê hương cô, Poland. Các tác hại của chất phóng xạ không được biết đến vào thời điểm đó, và cả Marie Curie và con gái cô, người cùng làm việc với nguyên tố phóng xạ, đã mất ở Leukenia, mà nguyên nhân được tin rằng là do tác hại của những tin bức xạ gây nên. 1 curie (Ci) là một lượng năng lượng phóng xạ trong 1 gam radium-226, mà trải qua 37 tỉ phân rã hạt nhân trong mỗi giây. Radium-226 có thời gian bán rã là 1622 năm, vào cuối thời gian đó từ 1 gram khối lượng ban đầu của radium sẽ được giảm xuống còn 0,5 gram, phân rã hạt nhân sẽ giảm khoảng 18,5 tỉ mỗi giây, và lượng phóng xạ sẽ là 0,5 Ci (39). Trong hệ thống đo lường quốc tế, đơn vị thường được sử dụng cho phân rã phóng xạ là becquerel (Bq) (được đặt theo tên một giáo viên của Marie Curie, nhà vật lí học Henri Becquerel), tương ứng với 1 phân rã mỗi giây (do đó 1Ci=3.7.1010 Bq). Becquerel là 1 đơn vị hữu ích để làm việc với các khí phóng xạ, khi đó số lượng nguyên tử rất ít trong mỗi đơn vị thể tích. Ví dụ, nếu chúng ta đang làm việc với radon-222, chúng ta có thể nêu năng lượng phóng xạ của nó bằng becquerels mỗi mét khối hoặc theo picocuries mỗi lít (pCi/l). 1 picocurie tương đương với 1 phần nghìn tỉ curie, vì thế picocuries mỗi lít là một đơn vị đo lường số phân rã trong 1 giây ở 1 lít (1pCi/l=37Bq/m3). Đơn vị đo lường mức phóng xạ. Lượng bức xạ nhận được từ một nguồn bức xạ phóng xạ thường được thể hiện bằng đơn vị rad và rem. 1 rad là đơn vị của lượng bức xạ hấp thụ, và rem là đơn vị của lượng tương đương, mà được giải thích một cách ngắn gọn. Các đơn vị tương ứng của hệ thống quốc tế là grays và sieverts: 1 gray (lượng hấp thụ) tương đương với 100 rad. Và 1 sievert (lượng tương đương) bằng với 100 rem (38). Cả 2 hệ thống đơn vị này đều thường được sử dụng. Rad và ray đo lường lượng năng lượng được giữ lại trong các sinh vật sống khi chúng tiếp xúc với chất phóng xạ. Tuy nhiên, bởi vì các loại phóng xạ khác nhau có mức đâm xuyên khác nhau, nên mức độ gây tổn hại đến các sinh vật sống của chúng cũng khác nhau. Rad và gray do đó cũng tăng lên bởi 1 nhân tố được biết đến như là liên quan đến tác dụng sinh học để tạo ra các kết quả tương ứng (hoặc có ảnh hưởng tương đương), mà được đo lường bằng rem hay sieverts. Millirem (mrem) và millisievert (mSv)- một phần nghìn của rem hoặc sieverts- được sử dụng để đo lường một lượng nhỏ phóng xạ (39-41). Đơn vị thông thường được sử dụng để đo lường tia X hoặc tia gamma là roentgen hoặc, trong hệ thống đơn vị quốc tế, coulombs mỗi kilogram (cả 2 đều liên quan đến lượng ion trên mỗi đơn vị khối lượng). VII. Nguy hiểm đến sức khỏe từ sự phát xạ phóng xạ.
- M ột đồng vị phóng xạ ảnh hưởng đến sức khỏe nguy hiểm thế nào dựa vào những nhân tố: loại phóng xạ nào được phát ra, mức tiếp xúc tự nhiên (đó là, liệu đồng vị đó ở bên ngoài hay bên trong cơ thể), thời gian bán rã của đồng vị, dạng vật lý của nó và dạng tính chất hóa học của đồng vị này. Radon-222 phát xạ lượng năng lượng thấp, và có thời gian bán rã ngắn, nhưng nó nguy hiểm vì ở dạng khí. Nếu nó được hít vào, sản phẩm dạng rắn của nó sẽ phát ra phóng xạ nguy hiểm bên trong cơ thể. Loại phóng xạ. Chúng ta đã ghi nhận được hạt alpha có thể di chuyển từ 5-8cm trong không khí trước khi dừng lại do ma sát với các phần tử trong không khí. Ở mô của con người, với mật độ dày đặc hơn trong không khí, hạt alpha chỉ có thể di chuyển được khoảng 0,005- 0,008 cm, vì thế chúng phải bắt đầu từ 1 tế bào hoặc 1 thực thể sống gần nhất để phá hủy nó. Phóng xạ alpha thì gần như nguy hiểm với sức khỏe, khi nó bị hít phải hoặc bị nuốt phải: tất cả các phóng xạ đều dừng trước các cơ thể sống trong một khoảng cách rất ngắn, vì thế cơ thể hấp thụ tất cả các năng lượng gây nguy hiểm đó. Mặt khác, khi một bức xạ do hạt alpha phóng ra được chứa trong một vật kín thì nó khá là vô hại. Bởi vì mức năng lượng phát xạ lớn và khả năng đâm xuyên cao của nó, tia gamma có thể gây nguy hiểm cả bên ngoài và bên trong cơ thể. Tuy nhiên, nếu lượng phát xạ đó bị nuốt phải, một vài bức xạ sẽ xuyên ra bên ngoài cơ thể, làm giảm khả năng gây nguy hiểm. Để bảo vệ từ một nguồn tia gamma ở bên ngoài cần một lớp che chắn dày. Phóng xạ beta có mức ảnh hưởng trung bình, mặc dù phần lớn, phóng xạ beta bị hấp thụ bởi cơ thể khi 1 phóng xạ beta bị nuốt phải. Hạt beta từ một nguồn phóng xạ bên ngoài có thể được ngăn chặn bằng một lớp che chắn vừa phải. Lượng phóng xạ. Lượng phóng xạ ở từng nơi khác nhau chủ yếu là do độ cao và do địa chất. Nhiều bức xạ từ vũ trụ ở các độ cao cao hơn ở vùng thấp hơn do bầu khí quyển ở đó mỏng hơn và một phần là do đá granit, thường chứa nhiều đồng vị phóng xạ, thường được tìm thấy ở các khu vự vùng núi. Không có báo cáo chính xác về lượng bức xạ mà ta nhận được từ những nguồn phát xạ ở mức thấp. Tuy nhiên, nguồn phóng xạ chính tự nhiên bao gồm potassium-40 và carbon-14, tồn tại trong cơ thể chúng ta với nồng độ dao động khoảng 0,2 và 0,25 mSv/người/năm. Potassium là một chất điện phân quan trọng trong máu chúng ta, và một đồng vị của potassium (K-40) với thời gian bán rã rất dài. Mặc dù potassium-40 chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ Kali trong cơ thể nhưng nó tồn tại trong tất cả chúng ta, vì thế mỗi người trong chúng ta đều có 1 lượng nhỏ phóng xạ. Do đó, nếu bạn sống gần với 1 người khác, bạn đã tiếp xúc nhiều hơn với lượng phóng xạ từ người đó (một mối nguy hiểm nhỏ so với những lợi ích mà nó mang lại). Con người tiếp xúc với khoảng từ 0,35 đến 1,5 mSv/người/năm, phụ thuộc vào độ cao và các chất phóng xạ trong đất đá, với mức trung bình khoảng 0,35 mSv. Các nguồn bức xạ thấp được con người sử dụng như là tia X cho mục đích y tế và nha khoa, lên đến trung bình 0,7-0,8 mSv/người/năm, kế hoạch năng lượng hạt nhân có thể là nguyên nhân của 0,04 mSv, việc đốt cháy nguyên liệu hóa thạch như than đá và khí tự nhiên có thể thêm 0,03 mSv. Bên cạnh đó, nghề nghiệp và phong cách sống cũng ảnh hưởng đến lượng bức xạ mà bạn nhận được. Mỗi lần bạn bay tại một độ cao so với mực nước biển, bạn nhận được thêm 1 lượng bức xạ. Nếu bạn làm việc tại nhà máy đốt than thông thường hoặc 1 nhà máy hạt nhân, hoặc một số công việc trong ngành công nghiệp bạn có thể sẽ phải tiếp xúc với 1 liều lượng phóng xạ thấp. Ở một số nước, lượng phóng xạ mà công nhân phải tiếp xúc được giám sát chặt chẽ tại một nơi xác định như nhà máy năng lượng hạt nhân, và phòng thí nghiệm có liên quan đến tia X. Ở đó, nhân viên phải đeo một vật tượng trưng thể hiện mức bức xạ mà người đó phải tiếp xúc. Câu hỏi quan trọng về việc tiếp xúc với bức xạ là: khi nào chúng ta tiếp xúc và hàm lượng bức xạ như thế nào là nguy hiểm cho sức khỏe con người? để trả lời câu hỏi này không hề đơn giản. Chúng ta biết 1 giải pháp tốt về ảnh hưởng của hàm lượng phóng xạ cao đối với con người nhưng ít hơn nhiều đối với việc tiếp xúc liên tục hàm lượng thấp các chất phóng xạ. Phần lớn thông tin của chúng ta về ảnh hưởng của hàm lượng cao từ việc nghiên cứu những người sống sót sau vụ nổ bom nguyên tử ở Nhật, những người tiếp xúc với hàm lượng cao các chất phóng xạ trong mỏ uranium, những công nhân sơn mặt đồng hồ với sơn dạ quang chứa radium, và những người được điều trị bằng phương pháp phóng xạ để chữa bệnh. Những người công nhân tiếp xúc với nồng độ cao các chất phóng xạ trong mỏ phải chịu đựng căn bệnh ung thư phổi với tỉ lệ khá cao hơn những người dân bình
- thường. Nghiên cứu cho thấy kể từ thời gian tiếp xúc đến thời gian tử vong kéo dài khoảng từ 10 đến 25 năm. Những ảnh hưởng xấu của hàm lượng cao các chất phóng xạ được xác định từ loại nghiên cứu vừa mô tả. Một lượng khoảng 5000 mSv thì có thể giết tất cả những người tiếp xúc với nó. Một lượng từ 1000-2000 mSv có thể gây nên vấn đề sức khỏe bao gồm nôn, mệt mỏi, tăng tỉ lệ hỏng thai tự nhiên dưới 2 tháng, vô sinh tạm thời ở nam giới, và ở tại 500 mSv thiệt hại sinh lý được ghi nhận. Liều lượng bức xạ cho phép tối đa đối với người lao động trong ngành công nghiệp là 50 mSv mỗi năm, lượng bức xạ này gấp 30 lần mức bức xạ trung bình mà mỗi người nhận được từ các nguồn tự nhiên. Lượng phóng xạ trung bình hằng năm cho phép đối với mỗi cư dân Hoa Kỳ là 5 mSv hoặc khoảng 3 lần lượng phóng xạ trung bình hằng năm. Mặc dù phần lớn các nhà khoa học đồng ý rằng phóng xạ có thể gây ung thư, có một tranh luận giữa mối quan hệ giữa việc tiếp xúc với lượng thấp phóng xạ và ung thư gây tử vong. Một vài nhà khoa học tin rằng mối quan hệ này là tuyến tính, vì thế bất kì sự gia tăng phóng xạ nào đều tạo thêm một nguy cơ. Một vài người khác thì tin rằng có thể có thể xử lí và phục hồi từ mức bức xạ rất thấp, ảnh hưởng đến sức khỏe bắt đầu xuất hiện khi lượng bức xạ vượt ngưỡng. Và có lẽ là, bất kì sự gia tăng lượng bức xạ nào cũng kéo theo sự gia tăng ảnh hưởng có hại cho sức khỏe. Khí Radon. Radon là 1 khí phóng xạ tự nhiên không màu, không mùi và không vị. Phân rã phóng xạ của uranium-238 tạo ra radium-226, mà tiếp tục phân rã tạo ra radon-222 (xem hình 13.10). Do đó, đá uranium là nguồn gốc tạo nên khí radon gây ô nhiễm nhiều gia đình ở Hoa Kỳ. Khí radon có 1 lịch sử thú vị kể từ khi nó được khám phá vào năm 1900 bởi nhà hóa học Đức Ernest Dorn. Đầu những năm 1900 các quốc gia trên thế giới xem radon như một loại thuốc bổ cho sức khỏe của họ. 1 bác sĩ đã báo cáo trong 1 tờ tạp chí y học rằng radon hoàn toàn không có tác dụng động hại và hài hòa với hệ thống của con người nhiều như là ánh sáng mặt trời được cây cối chấp nhận. Vào năm 1916, hiệp hội y tế Hoa Kỳ đã từ chối xác nhận một vài radon emanators (1 thiết bị phân giải radon trong nước) bởi vì có quá ít radon được tạo ra. Trong suốt thời kì này, nhiều sản phẩm có chứa uranium và dĩ nhiên là có radon, được bán trên thị trường bao gồm kẹo socola, bánh mì, và kem đánh răng. Gần đây, vào năm 1953 thuốc tránh thai jelly mà có chứa radium được bán trên thị trường ở Hoa Kỳ. Ngày nay, đặc tính tiêu diệt tế bào của sản phẩm từ radon được sử dụng rộng rãi trong điều trị ung thư. Tại sao khí radon lại nguy hiểm? Con người đang lo lắng vì khí radon bởi vì tiếp xúc với nồng độ cao khí radon có liên quan đến việc tăng nguy cơ ung thư phổi, đặc biệt là đối với người bị hút thuốc. Nguy cơ được suy nghĩ đến việc gia tăng như là nồng độ radon, lượng thời gian tiếp xúc với radon, và số lượng người hút thuốc gia tăng. Trong những năm gần đây khoảng 140,000 ca ung thư phổi xảy ra hằng năm tại Hoa Kỳ. Mặc dù, hút thuốc là một nhân tố quan trọng nhất kết hợp với ung thư phổi, EPA đánh giá rằng từ 7000- 30,000 trong những ca này có liên quan đến việc tiếp xúc với khí radon. 1 thống kê chỉ ra rằng vừa tiếp xúc với khí radon vừa tiếp xúc với thuốc lá gây nguy hiểm gấp 10 lần khi tiếp xúc với 1 trong 2 thứ trên. Mặc dù ít có nghiên cứu trực tiếp về mối quan hệ giữa việc tiếp xúc khí radon trong nhà với việc tăng nguy cơ ung thư phổi, ước lượng về mối liên kết như vậy đến từ việc nghiên cứu những cá thể từng tiếp xúc với nồng độ cao chất phóng xạ qua những hoạt động như là khai thác các mỏ uranium. Nguy cơ sức khỏe từ khí radon có mối quan hệ cơ bản với các sản phẩm của nó, polonium là 1 phần tử, bám chặt vào bụi. Những hạt bụi này có thể được hít vào phổi, nơi mà phóng xạ alpha có thể phân rã tạo ra polonium-218, từ đó tạo ra chì-214 với thời gian bán rã gần 3 phút (xem hình 13.10). Hít phải những hạt từ bình phun mà có thể mang những sản phẩm của radon như là polonium-218 bị kẹt lại trong phổi bởi lớp nhầy trên bề mặt của cuống phổi, và những tế bào nằm bên dưới lớp nhầy đó có thể bị phá hủy bởi phóng xạ alpha. Phóng xạ được biết đến như là nguyên nhân gây nên việc hỏng sợi DNA trong tế bào, và khi cả sợi DNA bị vỡ, việc phá hủy có thể là chắc chắn, kết quả là sự đột biến. Sự đột biến không phải là nguyên nhân gây ung thư nhưng nó lại liên quan đến quá trình bắt đầu những căn bệnh, mà có lẽ là sau khi được thúc đẩy việc tiếp xúc các chất hóa học như những chất được tìm thấy trong khói thuốc. EPA đã đưa ra biểu đồ ước lượng sự nguy hiểm của radon, một trong
- số đó được thể hiện trong hình 13.12. Biểu đồ liên kết đến thời gian tiếp xúc với khí radon trong picocuries mỗi lít đến ước tính mức độ nguy hiểm và số người chết do ung thư phổi. Một nghiên cứu gần đây đền nghị khí radon là 1 yếu tố nguyên nhân gây bệnh bạch cầu dòng tủy, khối u ác tính, ung thư thận và một số bệnh ung thư ở trẻ em. Nghiên cứu dựa trên một thống kê về sự tập trung của radon trong nhà và tác động của ung thư. Nó có thể gây ra tranh luận, tuy nhiên, một phần bởi vì cơ sở dữ liệu bao gồm tỉ lệ ung thư và nồng độ radon trung bình cho một số nước chứ không phải đánh giá nồng độ radon trong nhà của các nạn nhân ung thư. Phương pháp tiếp cận, trong khi có hiệu lực, cần gắn chặt với các cá nhân và môi trường cụ thể của họ trước những quan sát hoài nghi rằng radon còn gây nên những loại ung thư khác ngoài ung thư phổi. Mối liên quan giữa các khối u ác tính (một dạng ung thư da chết người) và giả thiết liên quan đến tổn thương tế bào da bởi sự phân rã phóng xạ radon và sản phẩm từ những phóng xạ sau của nó mà bằng cách nào đó có thể tích tụ lại trên da. Bệnh bạch cầu được giả thiết là radon hòa tan trong máu và tế bào chất béo, dẫn đến sự tích tụ radon ở các tế bào chất béo và tủy xương. Những giả thiết thú vị này có ý nghĩa quan trọng và cần được giải quyết trong các nghiên cứu ở tương lai. Trong một vài giới hạn về mức phóng xạ đã được đưa ra, người ta khẳng định rằng nồng độ radon lớn nguy hiểm và không đề cập đến ảnh hưởng của nồng độ radon thấp đối với sức khỏe. EPA đã thiết lập 4,0pCi/l là mức độ mà trên nó, khí radon được coi là nguy hiểm. Nồng độ trung bình ngoài trời của khí radon là 0,2 pCi/l và nồng độ trung bình trong nhà là khoảng 0,1 pCi/l. Mức phóng xạ 4,0 pCi/l laà mức phóng xạ ở 1 mục tiêu tập trung, đối với mức độ phóng xạ trong nhà nên được giảm xuống. Nếu bạn chưa bao giờ hút thuốc, mức độ nguy hiểm tại 4,0 pCi/l có thể tương đương với nguy cơ chết đuối; nếu bạn hút thuốc, nguy cơ gấp khoảng 100 lần nguy cơ chết trong 1 tai nạn máy bay. Nguy cơ tiếp xúc với radon cũng có thể tương đương với số lượng người có thể bị ung thư phổi, theo như hiển thị ở hình 13.12. Những ước tính này rất khó để kiểm tra. Báo cáo trong một nghiên cứu của Hoa Kỳ ở những phụ nữ không hút thuốc không tìm thấy một dấu hiệu tích cực nào giữa việc tiếp xúc với radon và ung thư phổi. Một nghiên cứu khác ở Thụy Điển thống kê về mối quan hệ tích cực giữa việc tiếp xúc với khí radon trong nhà và ung thư phổi. Kết luận sau này nói rằng, việc tiếp xúc với khí radon là 1 nguyên nhân quan trọng dẫn đến ung thư phổi trong dân cư của Thụy Điển. Nếu những nguy cơ từ khí radon gần như EPA ước tính thì mối nguy hiểm có thể tương đương với khả năng tử vong do tai nạn giao thông, và cao hơn hàng trăm lần so với những rủi ro được trình bày bởi những chất ô nhiễm ngoài trời có thể hiện diện trong nước và không khí. Chất ô nhiễm ở môi trường ngoài trời thường được qui định để làm giảm nguy cơ tử vong sớm và bệnh ít hơn 0,001% hay 1 trên 100000. Những nguy cơ từ những chất gây ô nhiễm trong nhà như chất hữu cơ ám chỉ nguy cơ ung thư xấp xỉ 0,1 %. Dù vậy, nguy cơ này cũng chỉ rất nhỏ so với những nguy hiểm do radon. Ví dụ, những người sống trong nhà trong khoảng 20 năm với nồng độ radon trung bình khoảng 25 pCi/l, phải đối mặt với nguy cơ mắc bệnh ung thư phổi từ 2% đến 3%. Hình 13.12: ước lượng nguy cơ liên quan đến radon. Những ước tính này được tính toán như nguy cơ do tiếp xúc lâu dài của những người ở độ tuổi 70 và dành khoảng 75% thời gian trong nhà với 1 mức độ radon. Mối nguy hiểm của radon nếu bạn hút thuốc Mức độ Nếu 1000 Nguy cơ Điều cần người hút ung thư từ việc làm: dừng hút radon thuốc tiếp xúc tiếp xúc với thuốc và… với mức độ nồng độ radon tương đương… radon này trong cả cuộc đời của họ Khoảng Gấp 100 Sửa lại 20 pCi/l 135 người có lần nguy cơ nhà của bạn nguy cơ mắc chết đuối. bệnh ung thư phổi. Khoảng Gấp 100 Sửa lại 10 pCi/l
- 71 người có lần nguy cơ nhà của bạn nguy cơ mắc chết trong 1 bệnh ung thư ngôi nhà đang phổi. cháy. Khoảng Sửa lại 8 pCi/l 57 người có nhà của bạn nguy cơ mắc bệnh ung thư phổi. Khoảng Gấp 100 Sửa lại 4 pCi/l 29 người có lần nguy cơ nhà của bạn nguy cơ mắc chết trong 1 bệnh ung thư máy bay đang phổi. rơi. Khoảng Gấp 2 Cân nhắc 2 pCi/l 15 người có lần chết trong đến việc sửa nguy cơ mắc 1 tai nạn xe. nhà ở mức bệnh ung thư radon trong phổi. khoảng 2-4 pCi/l Khoảng 9 Mức Khó để 1,3 pCi/l người có nguy giảm mức radon trong nhà cơ mắc bệnh radon xuống trung bình. ung thư phổi. dưới 2 pCi/l Khoảng 3 Mức 0,4 pCi/l người có nguy radon ngoài trời cơ mắc bệnh trung bình. ung thư phổi. Ghi chú: nếu ở thời điểm hiện tại bạn không hút thuốc, nguy cơ mắc phải sẽ thấp hơn. Mối nguy hiểm của radon nếu bạn không bao giờ hút thuốc Mức độ Nếu 1000 Nguy cơ Điều cần người không ung thư từ việc làm: dừng hút radon bao giờ hút tiếp xúc với thuốc và… thuốc tiếp xúc nồng độ radon với mức độ tương đương… radon này trong cả cuộc đời của họ Khoảng 8 Nguy cơ Sửa lại 20 pCi/l người có thể bị bị giết trong 1 nhà của bạn ung thư phổi tội ác bạo lực. Khoảng 4 Sửa lại 10 pCi/l người có thể bị nhà của bạn ung thư phổi Khoảng 3 Gấp 10 Sửa lại 8 pCi/l người có thể bị lần nguy cơ nhà của bạn ung thư phổi chết trong 1 máy bay rơi. Khoảng 2 Nguy cơ Sửa lại 4 pCi/l người có thể bị chết chìm. nhà của bạn ung thư phổi Khoảng 1 Nguy cơ Cân nhắc 2 pCi/l
- người có thể bị chết trong 1 đến việc sửa ung thư phổi nhà ở mức ngôi nhà đang cháy. radon trong khoảng 2-4 pCi/l Ít hơn 1 Mức Khó để 1,3 pCi/l người có thể bị giảm mức radon trung bình ung thư phổi radon xuống trong nhà. dưới 2 pCi/l Ít hơn 1 Mức 0,4 pCi/l người có thể bị radon trung bình ung thư phổi ngoài trời. Ghi chú: nếu trước đây bạn từng hút thuốc, nguy cơ mắc phải sẽ thấp hơn. VIII. Địa chất của khí radon. C ả loại đá và cấu trúc địa chất rất quan trọng trong việc xác định bao nhiêu radon có khả năng tiếp cận ở bề mặt trái đất. Nồng độ uranium-238 trong đất và đá rất khác nhau. Một vài loại đá như là sa thạch thường chứa ít hơn 1 phần triệu (ppm) U-238; vài loại khác như là đá phiến sét đen và vài loại đá granit, có thể chứa hơn 3 ppm U-238. Hàm lượng thật sự của radon gần bề mặt trái đất thì liên quan đến nồng độ uranium trong đá và đất cũng hiệu quả như quá trình chuyển hóa từ đá hoặc đất thành đất nước và khí đất. Một số vùng của Nước Mỹ chứa đựng đá gốc trên mức trung bình về sự tập trung trong tự nhiên của Uranium. Một vùng ở Pennsylvania, New Jersey và New York nổi tiếng về những sự tập trung cao của khí radom là Reading Prong (Hình 13.13). Vùng này chứa đựng một số lượng lớn với những sự tập trung cao của khí radon. Tương tự, hai vùng ở Florida đã được xác định là đã có gia tăng những sự tập trung của những tảng đá giàu Uranium trong phốt phát. Ở nhiều tiểu bang khác bao gồm Illinois, New Mexican, phía Nam Dakota, bắc Dakota và Washington đã được xác định những vùng với những sự tập trung khí radon ở bên trong rất cao. Một loại diệp thạch tối (đá phiến sét) trong thành phố Santa Barbara, California, vùng đã được xác định khi một người sản xuất ra khí radon cung cấp khí đốt (Hình 13.14). Những cấu trúc địa chất như những đới bị đứt gãy và những lỗi thì thông thường được làm giàu khi có Urani và có thể sản xuất ra những sự tập trung cao của khí radon trong những lớp đất bên trên. Một nghiên cứu ở miền nam Virginia được tìm thấy những đới cắt một loại đá hoa cương do chấn động tạo thành được liên quan đến sự tập trung của khí radon bên trong những lớp đất phía trên. Hơn nữa, một số mức được đo là cao nhất bên trong của nước Mỹ được xác định qua những đới bị phá vỡ ở Boyertown, Pennsylvania.Ở Santa Barbara, California, một trong những sự tập trung cao nhất bên trong nhà có hàm lượng khí radom được đo cho đến nay đã xuất hiện tại ngọn (đỉnh) của một nếp lồi và nếp gấp mạnh liên quan đến những lớp cát mà có lẽ phần lớn những chất hữu cơ bên trên của lớp đá phiến sét xuất hiện tại chiều nông sâu. Nó được xây dựng trên giả thuyết bởi những sự đứt gãy mạnh mà tại đó phần còn lại của nếp gấp cho phép khí radon khuếch tán theo chiều hướng lên trên bề mặt. Số lượng của khí radom mà thoát khỏi đá gốc và những hạt đất là do ảnh hưởng bởi hàm lượng nước.. Một cách tương đối, hàm lượng ẩm cao ưu đãi sự ngăn chặn thoát ra của khí radon. Trong những không gian giữa đất và những sự đứt gãy trong những tảng đá: Nước giảm bớt mạnh khoảng cách mà khí radon có thể thoát ra như kết quả của sự phân rã phóng xạ từ đá gốc của nó như Rađium- 226. Sự chuyển động của khí radom từ những sự gãy vỡ trong tảng đá và những khe hở trong đất đã tạo điều kiện thuận lợi bởi một cách tương đối hàm lượng ẩm thấp.. Nghĩa là, quá trình của sự khuyếch tán của khí radon tồn tại nhiều trong những vật chất không bão hòa. Như vậy, hàm lượng ẩm ảnh hưởng đến số lượng của khí radon mà có thể đạt đến bề mặt của trái đất vào 2 cách như sau: 1.Hàm lượng ẩm cao tăng tạo cơ hội của khí radon vào và cư trú trong khe hở trong những sự gãy vỡ tảng đá hay giữa những hạt đất.. 2.Hàm lượng ẩm cao có tác dụng để ngăn chặn khí radon từ chuyển động xuyên qua những khe hở trong những tảng đá và đất..
- Vậy thì, có một hàm lượng nước tối ưu mà sẽ dẫn đến số lượng cực đại của khí radom mà thật sự đạt đến bề mặt của trái đất.. Trong một số loại đất, hàm lượng nước tối ưu này xấp xỉ là 20 tới 30 phần trăm (38) (xem lại từ Chương 3 mà hàm lượng nước là tỉ lệ giữa trọng lượng của nước đến trọng lượng của những chất rắn trong một mẫu, được biểu thị như một số thập phân). Khí radon hình thành trong nhà như thế nào? Ba đường chính đã được đồng nhất hóa bởi khí rado nào vào những (Hình 13.15) tại nhà. Như : 1.Khí mà di trú lên trên từ đất và đá vào trong tầng hầm và những phần khác của ngôi nhà.. 2.Nước ngầm được bơm từ những giếng. 3.Những vật liệu xây dựng như việc xây dựng sự khóa (sự chặn, sự kết khối) được làm từ những chất mà phát ra khí khí radom. Hầu hết sự sớm quan tâm khí radon trong những nhà liên quan đến những sử dụng vật liệu xây dựng chxứa đựng những sự tập trung cao của Rađium. Chẳng hạn, giữa 1929 và 1975, nguyên liệu dùng để sản xuất bê tông trong Thụy Điển chứa đựng những sự tập trung một cách tương đối cao của Rađium. Tương tự, vào những năm 1960 ở Nước Mỹ đã được khám phá rằng một số ngôi nhà và tòa nhà khác trong vùng Grand Junction của khu vực Colorado được xây dựng với nguyên liệu đã bị làm bẩn bởi Urani gây tiêu phí cho con người. Một số nhà ở Florida bị khám phá để có những sự tập trung một cách tương đối cao của khí radon, nơi sự tiêu phí khai mỏ phốt phát được sử dụng như chất bẩn. Cuối cùng, một số nhà trong New Jersey được xây dựng tại một chỗ lấp đất nơi những sự tiêu phí từ một nhà máy chế biến Rađium trước đó được đặt… Trong Tháng mười hai 1984, nhà khoa học đã khám phá ra được rằng khí radom thoát ra từ những nguồn tự nhiên, nhiều người (vật) vào nhà và có lẽ sẽ là một hiểm nguy đối với sức khoẻ rất nghiêm trọng.. Câu chuyện của Watras Stanley đã được nói và kể lại nhiều lần cho đến khi đó và bây giờ là phần của lời chú thích khí radon. Tuy vậy,tại đây, đó là cái giá được lặp lại. Stanley Watras, của Boyertown, Pennsylvania, có một công việc như người cố vấn kỹ thuật trong trạm năng lượng hạt nhân Limerick.. Tại lối vào đây, những bộ phận phát hiện bức xạ bảo đảm rằng không có những chất phóng xạ rời bỏ phương tiện.. . Lò phản ứng tại trạm năng lượng chưa được bật tại Watras, trong Tháng mười hai 1984, bằng cách đưa thiết bị đó lên thực vật,nó đã báo động.Việc thử quần áo anh ấy gợi ý rằng sự nhiễm bẩn không thể đến từ cây nhưng phải chắc rằng nó bắt nguồn nơi ông ta sống. Những viên chức công ty đã kiểm tra nhà của Watras và đã làm kinh ngạc khi tìm thấy mức bức xạ đó trong không khí trong nhà là 3200 pCi/ L, cao hơn 800 lần so với 4pCi/L. Xem xét một ngưỡng cửa cho thấy mối nguy hiểm của loại chất này bởi Cơ quan bảo vệ môi trường.. Nhà khoa học rất ngạc nhiên vì cho đến lúc đó bọn họ được không phải tin tưởng rằng khí radon mà tự nhiên rỉ ra vào trong những ngôi nhà đó đã có thể rất mạo hiểm (38, 48, 51). Watras giữ bản ghi tại nhà cho sự tập trung khí radon trong nhà cho đến khi cái đó chia ra vào năm 1980, khi một cái nhà ở Whispering Hills, New Jersey được khám phá với mức bức xạ là 3500pCi/L (51). Biến cố của khí radon trong những nhà trực tiếp liên quan đến thực tế mà khí radon là một khí mà có thể di chuyển xuyên qua những lối nhỏ trong những đất và những tảng đá... Khí radon vào những nhà từ ống khói cùng lý do mà khói lên trong một quá trình được biết khi ống khói đã thải ra môi trường ngoài. Những cái nhà nói chung ấm so với đất lân cận, vì vậy như những hàm lượng khí và không khí, khí radon là không khí có tỷ trọng thấp nên có thể dễ dàng vào trong và ra khỏi những tòa nhà.. Khí radon có thể cũng vào những nhà xuyên qua sự cấp nước, đặc biệt nếu nhà được cung cấp bởi một giếng riêng tư,. mặc dù đóng góp này thông thường là nhiều hoặc nhỏ hơn là khí mà rỉ ra sẽ xuyên qua những nền tảng nhà.. Khí radon và những sản phẩm được sinh ra từ nó được giải phóng vào trong không khí khi nước được sử dụng cho hàng ngày bằng những chức năng như mưa rào, rửa thức ăn.. Nói chung, xấp xỉ 10, 000 pCi/ L của khí radon sẽ sản xuất khoảng 1pCi/ L của khí radom tồn tại trong không khí trong nhà.. Nước được bơm từ những nguồn nước ngầm cho việc cung cấp vào thành phố có thể cũng chứa đựng khí khí radon.. Tuy nhiên, bởi vì hầu hết nước trong những hệ thống này được cất giữ trong vài ngày và được xử lý như làm sạch, có một sự trì hoãn giữa thời gian nước được bơm và khi nó thật sự được sử dụng.. Thời gian tuổi của những mỏm núi kể cả khí radon có thể như nhau. Như một kết quả, quần chúng và những sự cấp nước thành phố nói chung có 1 hàm lượng thấp radon trong đó….
- Phép đo khí radon trong những nhà: Phép đo của sự tập trung khí radon trong những nhà có một số khó khăn ... Sự tập trung của khí radon có thể vô cùng thay đổi trong bất kỳ một cái nhà nào, việc phụ thuộc vào mùa của năm và hiểu những nhân tố (hệ số) liên quan đến sự phát xạ khí radon từ khí đất. Trong thành phần của nước, mức cao hơn của khí radon có thể được chờ đợi trong mùa đông so với trong mùa hè. Bên trong nền, những sự phát xạ (của) khí radon có thể thay đổi với áp lực không khí, hàm lượng nước, và những biến đổi khác mà khó có thề xác nhận được…… Sự bức xạ trong nhà bằng nhân tố (hệ số) khác là trong khi cái nhà có thể có một sự tập trung một cách tương đối cao, những vùng lân cận khác có thể có những mức thấp hơn. Dù địa chất trong một tổng quan cách có thể sử dụng như một công cụ chẩn đoán để xác định những vùng mà có thể có những sự tập trung cao của khí radon, chỉ trong nhà, sự thử có thể xác minh điều này. Thậm chí những sự khác nhau rất nhỏ trong những khe của những lớp đất đá, chẳng hạn, những sự định vị (vị trí) của những sự gãy vỡ liền mạch. Có thể hoàn toàn rất quan trọng. May mắn, sự thử cho khí radon thì tương đối dễ dàng và ít chi phí tốn kém. Khả năng và sự nhận thức của vấn đề: Từ năm 1985, sự ý thức của vấn đề khí radon trong nước Mỹ đã tăng.. Tuy vậy, những người trong thời kỳ khó khăn khó có thể tập trung vào một vấn đề mà họ không thể nhìn thấy, mùi, nghe thấy, hoặc chạm đến… Vấn đề xa hơn nữa pha lẫn bởi thực tế mà chủ nhân nào đó có nhiều sự mất mát quanh những tiềm tàng liên quan đến những giá trị thuộc tính hơn là hiểm nguy đối với sức khoẻ.. Có một chỗ thiếu sót đáng kể giữa bản thân cùng với những sự nhận thức của con người về vấn đề khí radon và kích thước tiềm tàng của vấn đề. Tại đây thì đúng, thậm chí trong những tiểu bang như New Jersey, nơi mà vấn đề đã được biết quanh trong vài năm… Một sự khảo sát của các nhà dò thám được kết luận rằng chỉ có khoảng 5 phần trăm trong số họ có hay đang lập kế hoạch. Một khí radon có thể là một vấn đề trong nhà của họ.. Phần trăm thực tế của những nhà mong đợi có một vấn đề là khí radon trong thành phần đó tại New Jersey xấp xỉ là 30 phần trăm.. Không có ước lượng được những nhà ở Mỹ cùng với tháng năm đã nâng lên những sự tập trung của khí khí radon. Quan sát từ những thí nghiệm đã làm, xấp xỉ một nhà có một mức khí radon trong nhà ở trên 4 pCi/ L. Nếu nhịp độ này cứ tiếp diễn trung bình tốt, thì xấp xỉ 7 triệu nhà trong Nước Mỹ được có thể nâng lên những nhịp độ, và hàng triệu ý định nữa cần được kiểm tra. Mặt khác, nhiều sự thử được thực thi trong vùng nơi mà khí radon đã đang khả nghi, mà tháng năm thiên lệch về ước lượng. Nó cần phải được đề cập rằng những sự tập trung khí radon cao không phải chỉ được tìm thấy trong những nhà mà cũng trong những tòa nhà khác.. Trong một sự khảo sát gần đây của hơn 100 trường học, EPA được tìm thấy trong nhiều hơn so với môt nửa họ, những sự tập trung khí radon ở trên mức hoạt động là 4 pCi/ L, và một trường học ở Tennessee có một mức là 136 pCi/ L.Thông tin này quan trọng bởi vì một số cán bộ y tế tin tưởng rằng con cái dễ bị ảnh hưởng hơn đối với thiệt hại khí radon so với những người lớn, bởi vì kích thước phổi của những đứa trẻ nhỏ hơn người lớn và thực tế là họ vẫn còn đang phát triển.. Giảm bớt những sự tập trung của khí radon trong những nhà: Một chương trình thành công để rút gọn hay giới hạn. Một mối nguy hiểm tiềm tàng từ khí radon là một trong những trung tâm ở trên có ba chiến lược chính: 1.Những điểm của khí radon đã được đánh dấu vào đã có thể định vị và thoát hơi ở những chỗ nổi (niêm phong). 2.Sự thoát hơi trong nhà có thể cải thiện bằng việc giữ nhiều cửa sổ mở hơn hay sử dụng những cánh quạt thoát khí…. 3.Những phương pháp xây dựng mà cung cấp một hệ thống thông gi có thể được thiết đặt.. Có lẽ phương pháp đơn giản nhất của việc giảm bớt sự tập trung khí radon sẽ tăng bằng sự thông hơi trong nhà. Đôi khi, đây đủ để giải quyết vấn đề.. Việc đóng dấu những vết rạn trong nền tảng có thể cũng giảm bớt mục vào khí radon, đặc biệt nếu nó được làm trong những chỗ đặc biệt ở đâu khí radon thật sự đang vào cái nhà. Những máy dò tìm sẵn sàng giúp đỡ xác định những sự định vị (vị trí) như vậy. Không may, phương pháp này thường không giải quyết vấn đề, và những vết rạn mới có thể hình thành.. Những tùy chọn xây dựng khác nhau, đối với chủ nhân tại nhà, bao gồm những hệ thống thông gió trong một nền tảng, nếu cái nhà được dựa vào một miếng đá, rồi những hệ thống thông hơi đặc sánh có thể được thiết đặt.
- Có tin tức tốt và tin tức xấu về việc khí radon. Tin tức xấu là nhiều phần của Nước Mỹ và những phần khác của thế giới nhận được những sự phát xạ một cách tương đối cao của khí radom từ đất và những tảng đá và sự bức xạ đang sản xuất một mối nguy hiểm trong những gia đình.. Tin tức tốt là trong đa số những trường hợp vấn đề có thể cố định một cách tương đối dễ dàng. Dù một hệ thống thông hơi được yêu cầu, nó đòi giá chỉ vài nghìn đô la, nói chung một phần nhỏ của giá trị ngôi nhà.. Nghiên cứu trong tương lai, buổi diễn tháng năm mà những nguy cơ sức khỏe từ sự bóc trần khí khí radon không lớn như được dự đoán bởi EPA. Một số nhà khoa học hoài nghi trả lời rằng khí radon là một đường thẳng, từ những sự tập trung thấp đến cao và họ bởi vậy tin mức mối nguy hiểm đó của 4 pCi/ L có thể sự đông cứng quá thấp. Không có vấn đề đúng, nó quan trọng cho những người trở nên được thông báo bây giờ liên quan vấn đề tiềm tàng này.. Những người có thể chiếm giữ khó đánh giá hoạt động để giải quyết khả năng của khí radon trong những nhà của họ và trong quá nhiều trường hợp họ có vẻ cảm thấy liên quan hơn với những giá trị thuộc tính so với sức khỏe của họ. Khi những người nhìn thấy toàn bộ bức tranh và biết rằng vấn đề đó có thể được cải thiện, sự sợ hãi sẽ được giảm bớt.. Đánh giá rủi ro trong ngành độc học: Đánh giá rủi ro là quá trình của việc xác định những hiệu ứng sức khỏe môi trường đối lập tiềm tàng theo sau sự bóc trần tới một vật gọi là chất độc, được hay không nó đã xây dựng một sự tự nhiên xảy ra khi kim loại nặng hay con người làm hóa chất hữu cơ, những bước trong việc truy nhập nguy cơ. 1.Mạo hiểm sự nhận ra. Bước này xác định liệu có phải sự bóc trần tới một vật chất đặc biệt có khả năng gây ra sức khỏe môi trường từ những vấn đề trên hay không. Nó có thể gồm có những dân cư điều tra về những người mà đã được phơi bày. Chẳng hạn, trong việc xác định mối nguy hiểm được liên quan đến sự thoát khí radon, những người khảo sát có những thợ mỏ cố ý trơ trọi đối với khí radon trong khi Uranium cũng như bóc trần khai mỏ trong những nhà. Cách tiếp cận khác để mạo hiểm để có thể nhận ra có thể đang chỉ đạo những sự thí nghiệm tại mức độ phân tử để xác định một vật chất đặc biệt tương tác như thế nào với những tế bào sống.. 2.Liều sự định giá đáp lại. Mục đích của bước này sẽ xác định những mối quan hệ giữa liều của một vật chất độc và những hiệu ứng sức khỏe môi trường đối lập của nó. Đây thường là một thủ tục gây bàn cãi,vì dự đoán những sự đáp lại tại những liều thấp, hay ngược lại.. ở đó cũng có thể là thảo luận liên quan đến những ngưỡng cửa có có mặt hay không hay vắng mặt.. Cuối cùng, Liều sự định giá những đáp lại thường tin cậy sự phân tích thống kê của dữ liệu được thu được từ những sự quan sát và những phép đo mà phụ thuộc đến những lỗi thí nghiệm hay phép đo.. 3.Sự định giá Bóc trần. . Mục tiêu của sự định giá bóc trần sẽ đánh giá khoảng thời gian, tần số và cường độ của sự bóc trần tới một độ độc đặc biệt.. Nó được giả thiết rằng mối nguy hiểm liên quan đến sự bóc trần trực tiếp cân đối đối với dân cư mà thật sự được phơi bày cũng như tới cường độ, khoảng thời gian hay tần số của sự bóc trần. Sự định giá bóc trần là một quá trình gây bàn cãi nữa, vì việc đo sự bóc trần và sự tập trung của nguyên liệu độc tại vô cùng, sự tập trung nhỏ, có thể là 1 phần triệu hay 1 phần tỷ là rất khó. 4.Sự đặc trưng Nguy cơ: Đây là bước cuối cùng trong quá trình đánh giá rủi ro. Nó bao gồm cầm vào trong sự xem xét mối nguy hiểm mà đã được xác định liều sự định giá đáp lại, và sự đánh giá của sự bóc trần như được phác thảo ở trên.. Những sự định giá của nguy cơ từ sự bóc trần đến những độc tố trong môi trường cho phép chúng ta phát triển những kế hoạch hoạt động để tối giản nguy cơ. Đây là quá trình của quản lý rủi ro, đánh giá rủi ro những số nguyên nào với hợp pháp. , buổi họp mặt thân mật, chính trị, kinh tế, và những vấn đề kỹ thuật liên quan trong hoạt động, cả đánh giá rủi ro lẫn những quản lý rủi ro được dựa vào mọi thông tin hiện hữu.. Summery
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Báo cáo môn đánh giá tác động môi trường
33 p | 435 | 207
-
Báo cáo Địa chất cấu tạo
57 p | 822 | 203
-
Đề tài: " Nhiệm vụ thu gom và xử lý rác thải, bảo vệ môi trường thành phố Thái Nguyên "
53 p | 573 | 200
-
ĐỀ TÀI " QUẢN LÝ SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN "
75 p | 484 | 175
-
Luận án Tiến sĩ Khoa học Giáo dục: Vận dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm trong môn Địa lí ở Trường Dự bị đại học Dân tộc
221 p | 149 | 34
-
Đồ án: Đánh giá điều kiện địa chất công trình tuyến đập I và II, công trình thủy điện Chu Linh, Sa Pa, Lào Cai. So sánh chọn phương án tuyến hợp lý. Thiết kế khảo sát địa chất công trình phục vụ cho thiết kế kỹ thuật tuyến chọn
104 p | 206 | 24
-
Tiểu luận môn Quản trị chất lượng: Hệ thống quản lý môi trường theo ISO 14000 - EMS
34 p | 132 | 21
-
Luận án phó Tiến sĩ Khoa học sư phạm - Tâm lý: Xác định các hình thức tổ chức và phương pháp giáo dục môi trường qua môn Địa lý ở trường phổ thông cơ sở Việt Nam
191 p | 93 | 11
-
Nghiên cứu đặc điểm địa hóa các chất chỉ thị đánh dấu phận tử nhằm định hướng đánh giá tốc độ lắng đọng trầm tích, chất lượng và nguồn gốc ô nhiễm môi trường trầm tích một số vùng cửa sông và cảng biển lớn Bắc Trung bộ Việt Nam ( Thanh Hóa - Hà Tĩnh )
221 p | 93 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Quản lý HĐDH môn Toán ở các trường THCS huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông
130 p | 31 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học trái đất: Nghiên cứu ảnh hưởng của hoạt động khai thác đá vôi đến môi trường tự nhiên huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương
104 p | 37 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Quản lý dạy học môn Địa lí theo chương trình giáo dục phổ thông mới ở các trường THPT thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh
113 p | 45 | 6
-
Khóa luận tốt nghiệp ngành Địa lí: Tìm hiểu hứng thú học tập môn Địa lý của học sinh khối 6 trường THCS An Châu
44 p | 34 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử Việt Nam: Sử dụng di sản Công viên Địa chất toàn cầu UNESCO Non nước Cao Bằng trong dạy học Lịch sử Việt Nam ở trường Trung học phổ thông
124 p | 49 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Khoa học Giáo dục: Dạy học tích hợp trong môn Địa lí 9 ở trường trung học cơ sở
27 p | 47 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động dạy học môn Địa lý theo hướng phát triển năng lực học sinh ở các trường THPT thành phố Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam
123 p | 6 | 1
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Địa chất học: Đặc điểm tính chuyên hóa sinh khoáng và mức độ bóc mòn granitoid khối Ngọc Tụ, Kon Tum
26 p | 1 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn