Một số bài học kinh nghiệm về đổi mới ở Việt Nam giai đoạn 1986 - 2021
lượt xem 3
download
Bài viết "Một số bài học kinh nghiệm về đổi mới ở Việt Nam giai đoạn 1986 - 2021" phân tích sự hưởng ứng đường lối đổi mới ngày càng sâu rộng và tự giác của nhân dân, khả năng tiếp cận và hội nhập một cách có hiệu quả của đất nước vào đời sống của cộng đồng quốc tế cùng với những kết quả to lớn trên mọi mặt là những bằng chứng và bài học kinh nghiệm quý báu, thuyết phục về quá trình đổi mới ở Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Một số bài học kinh nghiệm về đổi mới ở Việt Nam giai đoạn 1986 - 2021
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 - 2021 Dương Nhật Thái Trường Đại học Nguyễn Huệ Tác giả liên hệ: Dương Nhật Thái, email: Duongnhatthai83@gmail.com Tóm tắt: Trước tình hình thực tiễn của đất nước, Đảng ta đã xác định đổi mới là sự lựa chọn đúng đắn bắt đầu diễn ra từ năm 1986, là một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình phát triển của Việt Nam. Sau hơn 35 năm vượt qua các thử thách và khó khăn to lớn, tiến hành công cuộc đổi mới trên mọi mặt: chính trị, kinh tế, xã hội..., đến nay, Việt Nam có đủ cơ sở để khẳng định rằng đổi mới là sự lựa chọn đúng đắn, đã đặt Việt Nam vào quỹ đạo phát triển mới về chất, phù hợp với xu thế của thời đại và với ý nguyện của nhân dân. Sự hưởng ứng đường lối đổi mới ngày càng sâu rộng và tự giác của nhân dân, khả năng tiếp cận và hội nhập một cách có hiệu quả của đất nước vào đời sống của cộng đồng quốc tế cùng với những kết quả to lớn trên mọi mặt là những bằng chứng và bài học kinh nghiệm quý báu, thuyết phục về quá trình đổi mới ở Việt Nam. Từ khóa: bài học kinh nghiệm; công cuộc đổi mới; độc lập dân tộc; định hướng xã hội chủ nghĩa. 1. MỞ ĐẦU Đổi mới đất nước là quá trình loại bỏ những gì kìm hãm và cản trở sự phát triển, tổ chức lại xã hội, đưa vào cơ chế vận hành của xã hội một hệ thống đồng bộ các yếu tố vật chất và tinh thần, tạo nên lực lượng cho sự phát triển vượt bậc. “Đổi mới” là quá trình giải phóng mang ý nghĩa toàn diện - giải phóng về tư tưởng, giải phóng lực lượng sản xuất, giải phóng mọi tiềm năng sáng tạo của con người, giải phóng khả năng trí tuệ của nhân dân... để phục vụ cho sự phát triển của con người, bảo đảm tự do sáng tạo của nhân dân. Đổi mới ở Việt Nam cũng là quá trình sửa lại những nhận thức không đúng về cái cũ - “cái cũ” ấy lại là cái đúng - để hiểu đúng nó hơn, vận dụng có hiệu quả hơn vào thực tiễn mới. “Đổi mới” còn làm rõ cái gì đúng của ngày hôm qua, nhưng do hoàn cảnh đã thay đổi, ngày hôm nay không còn thích hợp, cần từ tổng kết thực tiễn để khái quát lý luận nhằm bổ sung, phát 447
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG triển nhận thức, phát triển nền tảng tư tưởng, làm cơ sở hoạch định và triển khai đường lối, chính sách của Đảng, thúc đẩy đất nước phát triển. 2. CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ NỘI DUNG VỀ CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI TOÀN DIỆN Ở VIỆT NAM Cơ sở lý luận hình thành nội dung đường lối đổi mới: Theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ. Một là, chính sách kinh tế nhiều thành phần, theo Lênin đó là đặc trưng cơ bản của thời kỳ quá độ. Trước đây ta và các nước xã hội chủ nghĩa nhận thức không đúng vấn đề này. Hội nghị 81 Đảng Cộng sản họp ở Mátxcơva năm 1960, đưa ra 9 quy luật trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước, đã xoá hết các thành phần kinh tế không phải của chủ nghĩa xã hội, thực hiện tập thể hoá cao độ, chỉ còn hai thành phần kinh tế: quốc doanh và tập thể. Hai là, còn nhiều giai cấp và đấu tranh giai cấp dưới những hình thức mới. Bộ mặt của các giai cấp đã có nhiều thay đổi. Vị trí chính trị, kinh tế - xã hội của các giai cấp đã thay đổi, ta nhận thức không đúng, do đó chủ trương cải tạo, xoá bỏ các giai cấp khác, chỉ còn giai cấp công nhân và nông dân tập thể, cùng tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa, nhưng ngay trí thức cũng dần dần chuyển hoá thành công nông - công nông trí thức hoá. Ba là, đặc trưng thời gian của thời kỳ quá độ là thời kỳ lâu dài trong lịch sử trải qua nhiều chặng đường, nhiều bước đi trung gian khác nhau. Vấn đề này ở Liên Xô và Đông Âu có thời điểm đã chủ quan nóng vội tự khẳng định vượt qua thời kỳ này. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Người rất chú trọng đặc điểm của Việt Nam khi bước vào thời kỳ quá độ. Người cho rằng đặc điểm lớn nhất của nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ là: Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội… Người quan niệm chủ nghĩa xã hội rất mộc mạc, giản đơn, dễ hiểu mà gần gũi…“Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh”, “xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt”. Đó cũng là một xã hội hoàn toàn mới mẻ, đầy tính nhân văn, “đưa quần chúng đến một cuộc sống xứng đáng, vẻ vang và ngày càng phồn vinh, làm cho mọi người lao động có một Tổ quốc tự do, hạnh phúc và hùng cường, hướng tới những chân trời tươi sáng”, đó là thực hiện “nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh” (Hồ, 2011, 11-12). 448
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Xuất phát từ tình hình thực tiễn thế giới và Việt Nam Bối cảnh thế giới cuối những năm 70 đến nay diễn ra những biến đổi to lớn và nhanh chóng về kinh tế, chính trị và xã hội. Đặc biệt là sự phát triển của cách mạng khoa học, kỹ thuật hiện đại đã tác động sâu sắc đến sự phát triển của lực lượng sản xuất, quốc tế hoá nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội, đòi hỏi sự phân công lao động xã hội phải khoa học hơn, tạo ra sự phân công hợp tác lao động quốc tế và khu vực ngày càng sâu sắc. Trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật hiện đại đặt ra một tất yếu khách quan đối với tất cả các nước, các dân tộc trên thế giới là phải đổi mới, nếu không nguy cơ tụt hậu sẽ không thể tránh khỏi. Đi tiên phong trong vấn đề cải cách, cải tổ và đổi mới là Trung Quốc (tại hội nghị lần thứ 13 BCHTW ĐCS Trung Quốc năm 1978 đã quyết định khởi xướng sự nghiệp cải cách chọn kinh tế nông nghiệp, nông thôn là khâu đột phá, công cuộc cải cách kinh tế ở Trung Quốc theo hướng thị trường - mở cửa bắt đầu diễn ra từ năm 1978. Tiếng vang của những thành tựu cải cách nổi bật mà Trung Quốc thu được đã được Đảng và Chính phủ Việt Nam quan tâm do có sự tương đồng nhiều mặt về các điều kiện kinh tế - xã hội giữa hai nước. Tiếp đó là Liên Xô (ĐH lần thứ XXVII ĐCS Liên Xô năm 1985 quyết định khởi xướng sự nghiệp cải tổ). Sau đó là một loạt nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, sự không thành công của công cuộc cải tổ đã dẫn tới sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu là một bài học phản diện. Sự sụp đổ đó là bằng chứng về sự thất bại của con đường cải tổ theo kiểu “phủ định sạch trơn”, sử dụng “liệu pháp sốc”, giải quyết không đúng mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong quá trình cải tổ. Cái giá phải trả là rất đắt. Như vậy vào thời điểm đảng ta tiến hành Đại hội VI cải cách, cải tổ ở các nước xã hội chủ nghĩa đã diễn ra và trở thành một xu thế tất yếu khách quan. Bên cạnh đó thành công của các nước “công nghiệp mới” ở Đông Á đưa ra những gợi ý về cách thức và giải pháp phát triển đối với những nước vốn xuất phát từ những nước nông nghiệp và có quan hệ xã hội theo kiểu những giá trị văn hóa phương Đông. Đó là những thành công của các chiến lược phát triển: phát huy mạnh nội lực, thị trường - mở cửa, hướng vào xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài. Xu hướng hợp tác và cạnh tranh trên thế giới đang từng bước thay thế xu 449
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG hướng đối đầu và xung đột. Tình huống này buộc các quốc gia phải định hướng lại tư duy về các vấn đề phát triển. Khác hẳn trước đây, trong hoàn cảnh phát triển mới, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế trở thành nhu cầu tự thân bên trong đối với nền kinh tế nông nghiệp vốn mang đậm tính chất khép kín, tự cấp tự túc của Việt Nam. Toàn bộ tình hình trên đây, ở trong cũng như ngoài nước đã tác động đến Việt Nam về cả hai phương diện. Một mặt, nó đòi hỏi phải đổi mới tư duy phát triển, đặt trọng tâm vào phát triển kinh tế theo một phương thức mới. Mặt khác, nó tạo ra các cơ hội và điều kiện để sự thay đổi đó diễn ra thuận lợi. Đó là điểm khởi đầu cả về lịch sử lẫn lý luận của quá trình đổi mới. Trước sự thất bại của công cuộc cải tổ ở Liên Xô và Đông Âu, thì chủ nghĩa tư bản tuy bản chất không thay đổi nhưng hiện tại đã có sự điều chỉnh, thích nghi và đạt được những thành tựu trên các lĩnh vực kinh tế, khoa học, kỹ thuật. Về kinh tế: Cho công nhân đóng góp cổ phần vào doanh nghiệp, nhằm: chia sẻ rủi ro, gắn lợi ích người công nhân với doanh nghiệp...(mặc dù với tỉ lệ % cổ phần rất nhỏ). Thuỵ Điển 21% dân cư có cổ phần; Pháp 6 triệu người có cổ phần; Anh 8 triệu người dân là cổ đông; Mỹ 30 - 40 triệu có cổ phần... Quan tâm đến đời sống hằng ngày của công nhân như thăm hỏi, tặng quà lúc ốm đau, sinh nhật, cha mẹ già... điều đó đã làm cho công nhân lầm tưởng, mơ hồ về CNTB. Từ giữa thập kỷ 70 và nhất là từ sau khi Liên Xô tan rã, chủ nghĩa tư bản thế giới đã một lần nữa bộc lộ rõ bản chất của mình bằng việc thúc đẩy các chính sách "tự do mới" trên quy mô toàn cầu. Và hôm nay chúng ta đang chứng kiến những diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế, bắt đầu từ năm 2008 ở nước Mỹ, nhanh chóng lan rộng ra các trung tâm tư bản chủ nghĩa khác và tác động đến hầu hết các nước ở các châu lục. Các nhà nước, các chính phủ tư sản ở phương Tây đã bơm những lượng tiền khổng lồ để cứu các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia, các tổ hợp công nghiệp, tài chính, ngân hàng, thị trường chứng khoán, nhưng chưa thành công. Kinh tế suy thoái đã làm phơi bày sự thật của những bất công xã hội trong các xã hội tư bản chủ nghĩa: đời sống của đa số dân cư lao động bị giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia tăng; khoảng cách giàu nghèo càng lớn. Những tình huống “phát triển xấu”, những nghịch lý “phản phát triển”, từ địa hạt kinh tế - tài chính đã tràn vào lĩnh vực xã hội, làm bùng nổ các xung đột xã hội và ở không ít nơi từ tình huống kinh tế đã trở thành tình huống chính trị với biểu tình, bãi công, 450
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” làm rung chuyển cả thể chế. Sự thật đơn giản là bản thân thị trường tự do của chủ nghĩa tư bản không thể giúp giải quyết được những khó khăn, và trong nhiều trường hợp còn gây ra những tổn hại nghiêm trọng cho các nước nghèo; làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa lao động và tư bản toàn cầu. Sự thật đó cũng làm phá sản những lý thuyết kinh tế hay mô hình “đồng thuận Oasinhtơn” vốn xưa nay được coi là thời thượng, được không ít các chính khách tư sản ca ngợi, được các chuyên gia của họ coi là tối ưu, hợp lý. Cùng với khủng hoảng kinh tế - tài chính là khủng hoảng năng lượng, lương thực, sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường sinh thái đang đặt ra những thách thức vô cùng lớn cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại. Các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian qua càng làm bộc lộ rõ sự thật về bản chất của các thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa. Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức "dân chủ tự do" mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề đảm bảo để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân - yếu tố bản chất nhất của dân chủ. Hệ thống quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn. Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát phần lớn nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội. Sự rêu rao bình đẳng về quyền nhưng không kèm theo sự bình đẳng về điều kiện để thực hiện các quyền đó đã dẫn đến dân chủ vẫn chỉ là hình thức mà không thực chất. Trong đời sống chính trị, một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn át. Vì vậy mà tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là “tự do” dù có thể thay đổi chính phủ nhưng không thể thay đổi các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản. Song song với sự điều chỉnh về kinh tế thì về chiến lược toàn cầu phản cách mạng cũng có sự thay đổi, chuyển từ chiến lược “ngăn chặn” sang vượt trên ngăn chặn; từ đối đầu sang đối thoại, “diễn biến hoà bình”... chúng sử dụng nhiều âm mưu và thủ đoạn thâm độc để chống phá chủ nghĩa xã hội, với hy vọng xoá bỏ chủ nghĩa xã hội - một sự “đầu thai nhầm của lịch sử”... Tuyên truyền quan điểm chính trị phản động: đa nguyên, đa đảng, dân chủ không giới hạn, xuyên tạc, bóp méo, 451
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, duy trì lợi ích kinh tế, chính sách viện trợ kinh tế để lôi kéo, mua chuộc. Chính vì vậy mà Đảng ta cũng phải có cái nhìn khách quan hơn, và xác định đúng đối tượng, đối tác. Ở Việt Nam, trước đổi mới (1975 - 1986), nền kinh tế mang đậm bản sắc nông dân - nông nghiệp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, mô hình phát triển gắn với cơ chế kế hoạch hóa tập trung có những khiếm khuyết lớn trong việc giải quyết các nhiệm vụ phát triển, nhất là trong lĩnh vực kinh tế. Sau nhiều năm vận động trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, tuy đất nước có đạt được những thành tựu to lớn, song nhiều vấn đề mấu chốt và thiết yếu nhất của cuộc sống nhân dân (ăn, mặc, ở) vẫn chưa được giải quyết đầy đủ; đất nước chưa có những thay đổi sâu sắc và triệt để trong phương thức phát triển; tình trạng mất cân đối trong nền kinh tế ngày càng trầm trọng ; nhiệt tình lao động và năng lực sáng tạo của nhân dân, tài nguyên và các nguồn lực chưa được khai thác, phát huy đầy đủ, thậm chí bị xói mòn. Nhìn tổng quát, với cơ chế kế hoạch hóa tập trung, nền kinh tế Việt Nam vận động thiếu năng động và kém hiệu quả. Những mất cân đối và nguy cơ bất ổn định tiềm tàng trong đời sống kinh tế - xã hội bị tích nén lại. Tình trạng thiếu hụt kinh niên làm gia tăng các căng thẳng trong đời sống xã hội, sản xuất tăng trưởng chậm và không ổn định, không có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, lạm phát tăng cao và kéo dài trong nhiều năm, đời sống của nhân dân rất khó khăn, lòng tin của quần chúng nhân dân đối với đảng, chế độ giảm sút nghiêm trọng Vấn đề cấp bách đặt ra cho Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam lúc này là tìm kiếm cách thức phát triển mới có khả năng đáp ứng các mục tiêu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó quan trọng nhất là phải tháo gỡ các ràng buộc về cơ chế và thể chế để giải phóng các nguồn lực phát triển của đất nước. Nội dung Công cuộc đổi mới toàn diện ở Việt Nam Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, họp tại Thủ đô Hà Nội, từ ngày 15 - 18/12/1986. Dự đại hội có 1129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên trong toàn Đảng, có 32 đoàn đại biểu quốc tế đến dự. Đại hội phân tích tình hình trong nước và quốc tế, đồng thời hoạch định đường lối đổi mới với những nội dung chủ yếu sau: 452
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Trước hết là đổi mới tư duy lý luận: Đổi mới tư duy lý luận, trước hết là tư duy kinh tế. Nhận thức rõ hơn những vấn đề về chủ nghĩa xã hội, những đặc trưng cơ cấu mới, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhất là ở một nước nông nghiệp lạc hậu chưa qua chủ nghĩa tư bản. theo quan điểm nhận thức và hành động theo quy luật khách quan. Đây là một quá trình nhận thức từng bước. Từ thực tiễn Việt Nam để nhận thức lý luận. Nắm vững quy luật khách quan, đặc biệt là quy luật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Quy luật khách quan, bao gồm: Quy luật về quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (trước nhận thức? nay ta nhận thức lại?); Các quy luật sản xuất hàng hoá (quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, lợi nhuận, cung cầu, hàng hoá…); Quy luật về vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền và lãnh đạo chính quyền; Quy luật về vai trò của Nhà nước trong cơ chế thị trường, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội… Đổi mới tư duy lý luận, đòi hỏi nhận thức lại đặc điểm, đặc trưng của thời kỳ quá độ mà Lênin đã chỉ rõ: đó là thời kỳ lâu dài, phải qua nhiều chặng đường, nhiều bước đi trung gian khác nhau; là thời kỳ tồn tại nhiều thành phần kinh tế đan xen; tồn tại nhiều giai cấp và tầng lớp, đấu tranh giai cấp dưới những điều kiện, nội dung và hình thức mới; là thời kỳ có nhiều hình thức nhà nước khác nhau, nhưng bản chất của nó chỉ là một - Chuyên chính vô sản. Đổi mới về kinh tế: Đổi mới cơ cấu kinh tế, thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần. Điều quan trọng nhất trong đổi mới cơ cấu kinh tế là khẳng định chính sách kinh tế nhiều thành phần, quán xuyến suốt trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trước ta quan niệm nền kinh tế xã hội chủ nghĩa chỉ có hai thành phần kinh tế: quốc doanh và tập thể. Từ đó dẫn đến nôn nóng, đốt cháy giai đoạn, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế không phải của chủ nghĩa xã hội. Đại hội VI, nhận thức lại và xác định các thành phần kinh tế ở nước ta bao gồm: kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc doanh và tập thể); kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá (thợ thủ công, nông dân cá thể, những người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể); kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức mà hình thức cao nhất là công tư hợp doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một 453
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG bộ phận dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các vùng núi cao khác. Về cơ cấu ngành kinh tế, tập trung vào ba chương trình lớn là: Lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Trên cơ sở đó bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư nhằm đạt được ba chương trình mục tiêu đó. Đại hội VI khẳng định: các chương trình mục tiêu đó là sự cụ thể hoá nội dung chính của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên. Đảng ta đã vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có nhiều thành phần là đặc trưng của thời kỳ quá độ. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, hành chính bao cấp, chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, kết hợp chặt chẽ kế hoạch với thị trường. Đại hội VI đã phân tích những hạn chế của cơ chế quản lý tập trung quan liêu, hành chính bao cấp, khẳng định: mặc dù ở thời kỳ trước, cơ chế này có nhiều tích cực, nhưng khi đất nước chuyển sang thời kỳ mới - thời kỳ hoà bình, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, việc duy trì quá lâu cơ chế đó đã không tạo được động lực để phát triển, mà ngược lại, làm cho bộ máy cồng kềnh; cán bộ quản lý năng lực hoạt động kém, phong cách quản lý quan liêu, cửa quyền, tư duy mang nặng chủ quan, duy ý chí. Đặc trưng của cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, hành chính bao cấp là: Cơ quan quản lý hành chính có toàn quyền quyết định những vấn đề kinh tế, nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về các quyết định của mình; không tính tới hiệu quả sử dụng tiền vốn, tài sản, vật tư, lao động…; không gắn trách nhiệm với lợi ích vật chất, tách rời việc trả công lao động với số lượng và chất lượng lao động… Vì vậy, Đại hội VI quyết định phải dứt khoát xoá bỏ nó. Phương hướng đổi mới cơ chế quản lý kinh tế mà Đại hội VI xác định là: xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, hành chính bao cấp, xây dựng cơ chế quản lý mới phù hợp với quy luật khách quan và trình độ phát triển của nền kinh tế. Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, coi đó là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục và lâu dài trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với những hình thức và bước đi thích hợp. Kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng với cải tạo, cải tạo để xây dựng, xây dựng để cải tạo. Tránh giáo điều, chủ quan, nóng vội, duy ý chí… Quy luật cải tạo xã hội chủ nghĩa ở một nước kinh tế lạc hậu, có tiền đề xuất phát thấp như nước ta đòi hỏi phải biết lựa chọn hình thức và bước đi thích hợp, phải qua nhiều bước trung gian quá độ từ thấp đến cao và từ nhỏ đến lớn. Xây dựng quan hệ sản xuất 454
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đổi mới về chính trị: Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng và sự quản lý điều hành của Nhà nước cho phù hợp với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và cơ chế quản lý mới. Đổi mới vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao tầm trí tuệ, khả năng nắm bắt, vận dụng quy luật khách quan, nâng cao trình độ lý luận và bản lĩnh chính trị của Đảng. Đối với đảng viên phải nắm bắt, hiểu biết lý luận, những vấn đề kinh tế - xã hội và thực tiễn của đất nước. Thực hiện luân chuyển cán bộ từ Trung ương đến địa phương. Thực hiện đúng cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý. Xác định rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội. Nhà nước không can thiệp vào quá trình sản xuất, kinh doanh của các cơ sở kinh tế. Nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế, điều tiết thông qua các công cụ, chính sách đòn bẩy kinh tế. Còn các cơ sở kinh tế quản lý vi mô quá trình sản xuất kinh doanh của mình, tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Đổi mới về chính sách xã hội: Trên cơ sở phát triển kinh tế, bảo đảm ngày càng đầy đủ hơn, tốt hơn những điều kiện cả về vật chất và tinh thần cho nhân dân lao động, khắc phục dần từng bước những khác biệt xã hội giữa các giai cấp, dân tộc. Trên cơ sở quan điểm đổi mới, Đảng ta gắn giải quyết các chính sách xã hội với quá trình phát triển kinh tế, đồng bộ với phát triển kinh tế. Mỗi bước tiến của kinh tế là cơ sở để giải quyết các vấn đề xã hội và chính sách xã hội, ngược lại, giải quyết tốt các chính sách xã hội sẽ tạo ra động lực để phát triển kinh tế. Các chính sách xã hội cơ bản, bao gồm: Kế hoạch dân số và giải quyết việc làm cho người lao động; thực hiện công bằng xã hội; chăm lo đáp ứng các nhu cầu về giáo dục, văn hoá, bảo vệ và tăng cường sức khoẻ của nhân dân; xây dựng chính sách bảo trợ xã hội; thực hiện đúng chính sách giai cấp và chính sách dân tộc. Đổi mới chính sách quốc phòng, an ninh: Nhận thức đúng đắn hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới, mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại, khẳng định quan điểm: "Toàn dân xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc", "Toàn quân bảo 455
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước". Phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, của mọi cấp, mọi ngành, mọi địa phương, mọi lực lượng trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế và quốc phòng - an ninh. Điều chỉnh thế bố trí chiến lược về quốc phòng và an ninh, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh trong kế hoạch, chính sách và chiến lược kinh tế - xã hội, kết hợp ngay từ đầu, trong thời bình, ở mọi cấp, mọi ngành, mọi địa phương. Thực hiện đúng nguyên tắc Đảng lãnh đạo đối với quân đội và công an, đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh. Đổi mới chính sách đối ngoại: Đổi mới chính sách đối ngoại, tăng cường đoàn kết, hợp tác quốc tế. Thực chất đây là mở cửa kinh tế, đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, tranh thủ thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây là quan điểm đúng đắn của Đảng ta. Mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình. Trước đây ta chỉ quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, các đảng cộng sản và công nhân trên thế giới. Nay ta mở rộng quan hệ với mọi loại hình, dưới mọi hình thức, bằng mọi lực lượng, nhằm tranh thủ mọi sự giúp đỡ của quốc tế, nhất là vốn, khoa học công nghệ. Kết quả đổi mới: Trải qua hơn 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Năm 1996, Việt Nam ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; năm 2008, ra khỏi tình trạng một nước kém phát triển, có mức thu nhập trung bình và năm 2020, với gần 100 triệu dân, thu nhập bình quân đầu người đạt 3.521 USD. Diện mạo đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn gấp nhiều lần, đời sống nhân dân được nâng cao rõ rệt về vật chất, văn hóa, tinh thần, về mức sống và chất lượng cuộc sống; nhất là về ăn, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh, dịch vụ cuộc sống. Hệ thống chính trị được xây dựng, củng cố vững mạnh, bảo đảm sự ổn định chính trị của đất nước. Quốc phòng, an ninh được tăng cường, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo của Tổ quốc. Đối ngoại, hội nhập quốc tế không ngừng mở rộng, kết hợp nội lực với ngoại lực, nâng cao vị thế của Việt Nam, tạo môi trường hòa bình, hợp tác và phát triển. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nêu rõ và Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 25-27). 456
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Phát triển kinh tế đã giúp tỉ lệ người nghèo trung bình mỗi năm giảm từ 2 - 3%. Đến nay, hầu hết các xã nông thôn đều có đường ô tô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại. Trong khi chưa có điều kiện để đảm bảo giáo dục miễn phí cho mọi người ở tất cả các cấp, Việt Nam tập trung hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và phổ cập giáo dục trung học; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng cao trong 35 năm qua. Trong khi chưa thực hiện được việc đảm bảo cung cấp dịch vụ y tế miễn phí cho toàn dân, Việt Nam tập trung vào việc tăng cường y tế phòng ngừa, phòng chống dịch bệnh, hỗ trợ các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. Nhiều dịch bệnh đã được khống chế thành công. Cũng nhờ kinh tế có bước phát triển nên chúng tôi đã có điều kiện để chăm sóc tốt hơn những người có công, phụng dưỡng các Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm lo cho phần mộ của các liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc. Đời sống văn hoá cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hóa phát triển phong phú, đa dạng. Hiện Việt Nam là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hoá các mục tiêu Thiên niên kỷ. Bên cạnh những thành tựu to lớn đạt được, Việt Nam cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém. Nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam còn một số vấn đề chưa rõ, chưa sâu sắc hoặc chưa cụ thể. Trong những năm đổi mới, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, song kinh tế phát triển vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu, chưa thật sự bền vững, đặc biệt trong 10 năm gần đây. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động và năng lực cạnh tranh quốc gia của nền kinh tế còn thấp. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm được hoàn thiện, hệ thống thị trường hình thành và phát triển chưa đồng bộ; chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế, kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ và hiện đại đang cản trở sự phát triển; việc tạo nền tảng để trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại còn chậm và gặp nhiều khó khăn. Trên lĩnh vực chính trị và hệ thống chính trị, đổi mới chính trị còn chậm, chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, nhất là đổi mới về tổ chức, thể chế, cơ chế, chính sách. Hệ thống chính trị còn cồng kềnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động còn thấp, chưa ngang tầm với nhiệm vụ. Biên chế của hệ thống chính trị ngày càng tăng lên, nhưng chất lượng công vụ thấp. Việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tuy có nhiều tiến bộ song cũng còn nhiều hạn chế. Nguyên tắc kiểm soát 457
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG quyền lực nhà nước còn nhiều bất cập. Số văn bản luật ngày càng tăng nhưng hiệu lực pháp luật chưa cao, việc phát huy dân chủ chưa đi liền với bảo đảm kỷ cương, kỷ luật, pháp luật. Hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước còn nhiều hạn chế, cải cách hành chính còn chậm trễ, cải cách tư pháp còn lúng túng. Mặc dù Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã ra nhiều nghị quyết, chỉ thị về tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, song công tác xây dựng Đảng chưa có nhiều chuyển biến cơ bản trong tình hình mới. Chưa có những giải pháp hiệu quả để ngăn chăn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liệu, tiêu cực xã hội còn diễn ra nghiêm trọng. Công tác tư tưởng- lý luận, công tác tổ chức- cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát, công tác dân vận còn nhiều bất cập. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân chậm đổi mới. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của nhiều tổ chức đảng còn thấp, quản lý đảng viên chưa chặt chẽ; chế độ trách nhiệm không rõ ràng, nhất là của người đứng đầu. Trên lĩnh vực phát triển văn hóa, giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường, còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý phát triển xã hội chưa được nhận thức và giải quyết có hiệu quả. Đạo đức xã hội có một số mặt xuống cấp; văn hóa phẩm độc hại, lai căng tác động tiêu cực đến đời sống tinh thần của xã hội; tài nguyên bị khai thác bừa bãi, môi trường sinh thái bị ô nhiễm, biến đổi khí hậu toàn cầu ngày càng tác động đến Việt Nam gây hậu quả nặng nề; trên một số mặt, một số lĩnh vực, người dân chưa được thực hưởng đầy đủ, công bằng thành quả đổi mới. Như vậy, có thể nói, việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến hết sức tích cực ở Việt Nam: kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, an ninh được đảm bảo; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố. Đó là một trong những lý do giải thích vì sao sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo được toàn dân Việt Nam đồng tình, hưởng ứng và tích cực phấn đấu thực hiện. Những thành tựu đổi mới tại Việt Nam đã chứng minh rằng, phát triển theo định hướng 458
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế. 3. MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ TIẾN HÀNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA VIỆT NAM Bên cạnh những thành tựu đạt được thì cũng còn những hạn chế, yếu kém cần khắc phục. Do vậy trong thời gian tới phải thực hiện tốt những bài học kinh nghiệm sau: Bài học thứ nhất: Kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội thế giới đang lâm vào thoái trào, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kịp thời phân tích tình hình quốc tế và trong nước, khẳng định con đường kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là quyết định chính trị có tầm quan trọng hàng đầu. Theo đó, trong nhận thức lại về chủ nghĩa xã hội, học thuyết Mác - Lênin không đồng nghĩa với sự phủ định sạch trơn. Vấn đề là cần phân biệt những nguyên lý cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin với những nhận thức không đúng do sự ngộ nhận có tính ấu trĩ và kinh viện đã bị thực tiễn bác bỏ. Trong hơn 92 năm qua, dưới sự dẫn dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam thực hiện cuộc cách mạng "long trời, lở đất" vì độc lập tự do của mỗi người và cho cả dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng Việt Nam đã được thử thách trên 92 năm; là sự kết hợp nhuần nhuyễn mục tiêu độc lập dân tộc với xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa; là sự kết hợp những tinh hoa cách mạng - khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin với những truyền thống lịch sử - văn hóa quý báu của dân tộc Việt Nam. Chân lý đó sẽ không là khó hiểu đối với bất kỳ ai có điều kiện nghiên cứu toàn bộ các tác phẩm và sự nghiệp của Hồ Chí Minh kể từ những năm 1920 cho đến khi Người qua đời. Tại Đại hội XIII đã khẳng định: “công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên, hiệu quả cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng 459
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; hoàn thiện cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Công tác cán bộ phải thực sự là “then chốt của then chốt”, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo phương châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, nhất là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 26-27). Bài học thứ hai: Đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm thích hợp. Đây là bài học về nghệ thuật tiến hành đổi mới. Thực chất của nó là bài học về phối hợp chính sách và kết hợp tối ưu giữa các lợi ích ngắn hạn, cục bộ với các lợi ích dài hạn và toàn thể, tìm tòi các bước đi, hình thức và cách làm thích hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Thực tiễn cho thấy đổi mới là một cuộc cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do vậy, nó phải được tiến hành đồng bộ trên tất cả mọi lĩnh vực. Lôgic khách quan đó đòi hỏi phải phối hợp đồng bộ các chính sách và giải pháp đổi mới trên cơ sở sự nhất quán của đường lối đổi mới và của quyết tâm phát triển. Yêu cầu này đặc biệt đúng cho quá trình chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường - mở cửa. Trong khi yêu cầu đồng bộ thể hiện ra là nguyên tắc phổ biến, quyết định triển vọng dài hạn của đổi mới thì các điều kiện cụ thể hiện thực của đất nước lại đòi hỏi sự mềm dẻo, linh hoạt khi lựa chọn và phối hợp chính sách. Việt Nam là một nước nghèo, lạc hậu, tiềm lực phát triển yếu, lại bị bao vây, cấm vận kéo dài. Trong bối cảnh đó, đổi mới chỉ có thể thành công khi biết lựa chọn một cách tối ưu các hình thức và bước đi thích hợp, biết tập trung nỗ lực và các nguồn lực phát triển hạn chế vào những khâu đột phá quyết định nhằm xoay chuyển tình hình. Không phải ngẫu nhiên mà quá trình đổi mới ở Việt Nam được bắt đầu từ khu vực nông nghiệp, nông thôn. Kết quả là, từ một nước thiếu lương thực một cách triền miên, sau một thời gian ngắn, Việt Nam đã có thể trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu của thế giới. Trong thực tế đổi mới, Việt Nam đã hướng chính sách vào mục tiêu tập trung nỗ lực và sức mạnh để tạo ra sự 460
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” đột phá phát triển trong khuôn khổ định hướng chung. Chính đây là lý do giải thích tại sao Việt Nam thu được thành công khá nhanh chóng trong việc chống lạm phát, phá vỡ thế cấm vận, giải quyết vấn đề đói nghèo và tăng trưởng, thiết lập cơ chế kinh tế mới và từng bước nâng cao sức cạnh tranh quốc tế, v.v. Bài học thứ ba: Kết hợp chặt chẽ đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm. Đây là bài học về việc xử lý mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong quá trình chuyển đổi được thực hiện trong bối cảnh quốc tế đang thay đổi mạnh mẽ và có nhiều yếu tố tác động không thuận lợi. Bài học này được đúc kết từ chính kinh nghiệm đổi mới của Việt Nam. Vấn đề làm rõ quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị đã được đặt ra từ Đại hội VI. Nhưng rồi thực tiễn đổi mới ở Việt Nam cũng như thực tiễn cải cách, cải tổ ở các nước xã hội chủ nghĩa đã cho phép Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (6-1991) rút ra kết luận rằng phải tập trung sức đổi mới kinh tế, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị. Đổi mới các hoạt động trong hệ thống chính trị cần được tiến hành thận trọng, trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, tạo sự nhất trí cao trong xã hội, tiến hành liên tục từng bước vững chắc. Tuyệt đối không được phép nhân danh cải tổ, cải cách mà tạo ra tình hình mất ổn định chính trị, dẫn đến sự rối loạn. Tuy nhiên, không vì vậy mà tiến hành chậm trễ việc đổi mới hệ thống chính trị (nhất là về hoàn thiện hệ thống luật pháp, về cải cách hành chính, về tổ chức bộ máy và cán bộ, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân) vì sự chậm trễ đó cản trở việc đổi mới kinh tế và các lĩnh vực khác. Bài học thứ tư: Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thực tiễn hơn 35 năm đổi mới của Việt Nam cho thấy việc chuyển nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung vốn mang nặng tính quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường là hoàn toàn cần thiết. Chính cơ chế thị trường đã góp phần quan trọng vào việc khai thác và phát huy được các tiềm năng sản xuất trong xã hội, làm bật dậy sức sáng tạo to lớn của hàng chục triệu người lao động, là nền tảng bảo đảm thực hiện quyền làm chủ về mặt kinh tế của người lao động, trên cơ sở đó, mở rộng và phát huy dân chủ trong tất cả các lĩnh vực khác của đời sống. Song thực tế cũng cho 461
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG thấy cùng với sự kích thích sản xuất phát triển, kinh tế thị trường cũng dẫn đến xu thế phân hóa giàu nghèo quá mức, kéo theo việc thương mại hóa các quan hệ xã hội, làm xuất hiện những tệ nạn xã hội, làm tổn hại các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Vì thế, để hạn chế và khắc phục những hậu quả tiêu cực ấy, giữ cho công cuộc đổi mới đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, việc sử dụng cơ chế thị trường phải đi đôi với việc nâng cao chất lượng quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước. Bằng luật pháp, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác, Nhà nước phải hướng vào việc phát triển và làm lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối và bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo, không để diễn ra chênh lệch quá đáng về mức sống và trình độ phát triển giữa các vùng, các tầng lớp dân cư, thừa nhận sự tồn tại lâu dài của các hình thức thuê mướn lao động nhưng không để biến thành quan hệ thống trị, dẫn đến sự phân hóa xã hội thành hai cực đối lập, v.v... Tóm lại, cùng với việc sử dụng cơ chế thị trường để kích thích sản xuất phát triển, phải tăng cường vai trò và nâng cao chất lượng quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Bài học thứ năm: Mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc. Đây là bài học truyền thống của Việt Nam, thể hiện đặc biệt rõ qua việc huy động sức mạnh của toàn dân tộc trong các cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc. Kế thừa và phát huy truyền thống ấy, trong thời kỳ đổi mới, xuất phát từ hoàn cảnh đặc thù của Việt Nam sau 45 năm chiến tranh, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương thực hiện đoàn kết rộng rãi mọi người Việt Nam tán thành công cuộc đổi mới, vì độc lập dân tộc, phấn đấu vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; lấy đại nghĩa dân tộc làm điểm tương đồng, đồng thời chấp nhận những điểm khác nhau mà không trái với lợi ích chung, cùng nhau xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai. Chính việc mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân theo tư tưởng đổi mới trên đây đã phát huy được sức mạnh của cả dân tộc, tạo thành động lực chủ yếu để phát triển Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Đại hội XII: “phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời 462
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 69-70). Bài học thứ sáu: Mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại. Công cuộc đổi mới ở Việt Nam diễn ra trong bối cảnh quốc tế đã có nhiều thay đổi, đặc biệt là xu hướng toàn cầu hóa kinh tế đang được đẩy mạnh và quá trình chuyển sang nền kinh tế tri thức đang diễn ra nhanh chóng. Với tư duy đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương đi đôi với phát huy cao độ ý chí tự lực tự cường, động viên mọi nguồn lực bên trong, cần khai thác tốt những điều kiện thuận lợi mới từ bên ngoài, thực hiện đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, đẩy mạnh mở cửa và chủ động hội nhập quốc tế, coi đây là cách thức hợp lý để tiếp cận nhanh và có hiệu quả vào các xu hướng phát triển quyết định tương lai đang diễn ra trên thế giới, thông qua đó lựa chọn một mô hình thích hợp để giải quyết các vấn đề phát triển đang đặt ra gay gắt cho một nước đang bị tụt hậu phát triển. Trong thực tiễn đổi mới, ngay từ đầu Việt Nam đã lựa chọn chính sách phát triển trên đây. Nhờ vậy, Việt Nam đã từng bước phá vỡ thế bao vây cấm vận, xây dựng và củng cố niềm tin trong cộng đồng quốc tế ; nhanh chóng mở rộng quan hệ kinh tế, chính trị và ngoại giao với các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới cũng như với các tổ chức quốc tế và khu vực. Nhờ đó, uy tín và vị thế quốc tế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trong những vấn đề hợp tác quốc tế và khu vực. Kết quả rõ nhất của điều đó là tạo lập được một môi trường hòa bình, ổn định cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, là mức độ tăng trưởng cao của hoạt động ngoại thương, của các dòng đầu tư và tài trợ phát triển nước ngoài vào Việt Nam trong những năm qua. Tuy nhiên, thực tiễn đổi mới cũng cho thấy trong khi đẩy mạnh mở cửa và chủ động hội nhập quốc tế, cần phải giữ vững độc lập tự chủ, thực hiện mở rộng quan hệ quốc tế trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi, giữ gìn, phát huy bản sắc và những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, “hòa nhập” nhưng không “hòa tan” - đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến những thành công của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Đại hội XIII khái quát bài học kinh nghiệm: “chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình hình, tuyệt đối không được để bị động, bất ngờ. Kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đi đôi với giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn để phát triển đất nước. Chủ động, tích cực 463
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường. Xử lý đúng đắn, hiệu quả mối quan hệ với các nước lớn và các nước láng giềng; đánh giá đúng xu thế, nắm bắt trúng thời cơ. Phát huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp của đất nước kết hợp với sức mạnh của thời đại. Khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 29-30). 4. KẾT LUẬN Đại hội VI của Đảng là Đại hội đổi mới toàn diện, với tư duy đổi mới, Đại hội đã mở ra bước ngoặt cho cách mạng Việt Nam, chỉ ra lối thoát cho cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội kéo dài trong nhiều năm liền và đặt nền tảng cho việc tìm ra con đường thích hợp quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Những nội dung của Đại hội thông qua đã đáp ứng yêu cầu bức thiết của đất nước, có giá trị chỉ đạo sự nghiệp đổi mới đạt những thành tựu quan trọng, tạo đà cho những bước phát triển tiếp theo. Sự đổi mới tư duy lý luận trên đây của Đảng Cộng sản Việt Nam, một mặt, đặt nền tảng lý luận cần thiết cho quá trình đổi mới thực tiễn; mặt khác, là sản phẩm của chính quá trình này. Để hình thành nên tư duy mới ấy, nhiệm vụ phải làm là kết hợp một cách biện chứng những nguyên lý lý luận nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống và tinh hoa văn hóa dân tộc, với những nhận thức mới về thế giới hiện đại, về con đường phát triển mang các sắc thái đặc thù của thời đại và dân tộc. Điều rất quan trọng là tư duy mới đó được hình thành từ chính thực tiễn sáng tạo của dân tộc Việt Nam. Nhờ đó, nó trở thành một trong những căn nguyên chủ yếu nhất của các thành tựu phát triển to lớn mà nhân dân Việt Nam đã đạt được trong quãng thời gian đổi mới vừa qua. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Đảng Cộng sản Việt Nam,. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Chính trị Quốc gia. [2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật. [3]. Hồ, C. M. (2011). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 1). Chính trị quốc gia. 464
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Thực trạng và một số bài học kinh nghiệm trong công tác xóa đói, giảm nghèo ở tỉnh Hải Dương hiện nay
7 p | 180 | 30
-
Bài học kinh nghiệm về quốc tế hóa và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục đào tạo
4 p | 87 | 11
-
Chính sách thu hút nhân tài trong khu vực công của Chính phủ Hoa Kỳ và một số bài học kinh nghiệm
21 p | 49 | 8
-
Những nguyên nhân chính và một số bài học kinh nghiệm qua các vụ tai nạn trong hoạt động khai thác cảng biển Việt Nam
5 p | 97 | 7
-
Chuẩn môn học và một số bài học kinh nghiệm về thiết kế chuẩn môn Ngữ văn của Việt Nam và môn Ngôn ngữ Anh của Hoa Kì
10 p | 60 | 5
-
Kinh nghiệm và ý nghĩa đối với Việt Nam trong mô hình phát triển xã hội của một số nước phát triển châu Âu: Phần 2
108 p | 79 | 5
-
Đào tạo, bồi dưỡng giáo viên tiểu học: Kinh nghiệm từ một số nước phát triển và đề xuất cho Việt Nam
5 p | 66 | 4
-
Du học nước ngoài - Tổng quan chính sách của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
8 p | 10 | 4
-
Tự chủ giáo dục đại học theo mô hình Singgapore - Bài học kinh nghiệm cho các trường đại học ở Việt Nam
9 p | 55 | 4
-
Một số bài học kinh nghiệm từ thực tiễn tổ chức thực tập sư phạm cho sinh viên khoa Giáo dục mầm non, trường CĐSP Trung ương - Nha Trang
4 p | 15 | 4
-
Thực trạng, cơ hội, thách thức và một số bài học kinh nghiệm triển khai giáo dục STEM vào các trường trung học phổ thông trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
7 p | 18 | 3
-
Giáo dục nghệ thuật trong trường tiểu học ở Singapore: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
12 p | 12 | 3
-
Giáo dục kĩ năng hợp tác cho học sinh rối loạn phổ tự kỉ học hòa nhập cấp trung học cơ sở thông qua hoạt động STEAM: Thực trạng và bài học kinh nghiệm
12 p | 8 | 3
-
Công tác sinh viên ở một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong đào tạo theo học chế tín chỉ
9 p | 84 | 3
-
Quy trình xây dựng chương trình bồi dưỡng giáo viên trẻ ở một số nước Mỹ Latinh – Kinh nghiệm đối với Việt Nam
11 p | 35 | 2
-
Giáo dục khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên trong các cơ sở giáo dục đại học một số quốc gia trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
9 p | 5 | 2
-
Quản lý giáo dục đại học của Australia và bài học kinh nghiệm cho phát triển giáo dục đại học Việt Nam
6 p | 13 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn