intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số bệnh dịch đã từng xảy ra trong lịch sử

Chia sẻ: Pham Thi Thinh Thinh | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:10

104
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Dịch bệnh xảy ra khi những trường hợp mới của một bệnh nào đó, trong một nhóm dân số nhất định, trong một khoảng thời gian nhất định, lan tràn vượt quá kỳ vọng dựa vào kinh nghiệm gần đó. Một dịch bệnh có thể xảy ra trong một địa phương hoặc cũng có thể trên toàn cầu, trong trường hợp đó thì gọi là đại dịch.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số bệnh dịch đã từng xảy ra trong lịch sử

  1. Một số bệnh dịch đã từng xảy ra trong lịch sử Sinh viên: phạm thị thinh lớp : k2-cnsh2 Bệnh dịch (“pandemie” - có nguồn gốc từ ngôn ngữ Hy Lạp, trong đó “Pan” nghĩa là tất cả và “demos” là người) là một dịch có quy mô lớn xảy ra khi một loại virus mới xuất hiện sau khi mã số di truyền đột biến, thường là một loại virus từ động vật hoang dã, gia cầm rồi từ đó truyền sang người. Loại virus mới lan truyền rất nhanh vì hệ thống mi ễn dịch trong cơ thể con người không có khả năng chống lại. Dịch bệnh xảy ra khi những trường hợp mới của một bệnh nào đó, trong một nhóm dân số nhất định, trong một khoảng thời gian nhất định, lan tràn vượt quá kỳ vọng dựa vào kinh nghiệm gần đó. Một dịch bệnh có th ể xảy ra trong một địa phương hoặc cũng có thể trên toàn cầu, trong trường hợp đó thì gọi là đại dịch. Vài trường hợp của một bệnh rất hiếm có thể phân loại là một dịch bệnh, còn những trường hợp của các bệnh phổ biến như cảm lạnh thông thường không được coi là dịch bệnh Sau đây là một số dịch bệnh đã từng xảy ra trong lịch sử ,cac bênh nay ́ ̣ ̀ thường không phụ thuôc theo mua , chung có thể tân công con ng ười ở ̣ ̀ ́ ́ moi luc , moi nơi : ̣́ ̣ 1:Bệnh tả (Cholera) là một bệnh nhiễm trùng đường ruột do vi trùng Vibrio cholerae gây ra, độc tố của vi trùng này gây tiêu chảy nặng kèm theo mất nước. Robert Koch là người nhận dạng được vi trùng gây bệnh tả vào năm 1883. Lịch sử: Bệnh tả xuất hiện châu Á khoảng 600 năm trước Công nguyên, ghi nhận lần đầu tiên trong y học vào năm 1563 tại Ấn Độ và đại dịch vào năm 1817-1821, tiếp đến là nước Nga, châu Âu, Bắc Mỹ, châu Phi, Nam Mỹ. Năm 1832, gần 40.000 người dân Paris chết, nạn nhân có cả tể tướng. 1
  2. Dịch tả tấn công nước Anh vào năm 1848-1849 đã làm 70.000 người chết, Đại dịch năm 1854 đã cướp đi sinh mạng 1/8 dân số thành phốLuân Đôn. Sang thời cận đại, riêng tại Bắc Kỳ thời Pháp thuộc năm 1937 dịch tả giết 75.000 người. Dịch tả vào Peru vào năm 1991, lan truyền sang Ecuador, Colombia, Mexico và Nicaragua kết quả hơn 12.000 người chết. Nguyên nhân: Nguyên nhân gây ra bệnh tả thường là dùng nước nhiễm vi trùng gây bệnh. Vi trùng gây bệnh có nhiều nhất ở trong phân của người bệnh và trong nước thải có chứa phân. Ngoài ra cá và các thực phẩm khác từ nước nhiễm vi trùng gây bệnh cũng có thể là nguồn gây bệnh do nấu ăn không kỹ hoặc ăn hải sản sống. Bệnh tả có thể tránh nếu có ý thức với bản thân và cộng đồng, bằng cách ăn chín và uống sôi. Tuyệt đối không ăn: rau sống, hải sản tươi sống, tiết canh, uống nước đá... trái cây phải ngâm nước muối, gọt sạch vỏ trước khi ăn. Tay chân luôn vệ sinh sạch sẽ, rửa tay bằng xà phòng s ạch sẽ trước khi ăn uống và sau khi đi vệ sinh. Khi thành dịch thì dịch tả có tốc độ lây lan và gây tử vong khủng khiếp, không như tiêu chảy. 2: Đậu mùa là căn bệnh truyền nhiễm của riêng loài người, gây bởi hai dạng virus Variola major vàVariola minor. Đậu mùa có tên gọi tiếng Latinh là Variola hay Variola vera, trong đó từ varius có nguồn gốc nghĩa là “có nốt”, hoặc varus, nghĩa là “mụn nhọt”. Tiếng Anh danh từ “smallpox”, xuất hiện vào thế kỷ 15 để phân biệt với biến dạng “great pox” (bệnh giang mai). Triệu chứng và hậu quả : Đậu mùa gây bệnh trong các mạch máu nhỏ ở da, miệng và cổ họng. Ở vùng da, bệnh gây ra những vết ban nổi sần đỏ đặc trưng, sau đó da bị phồng giộp những vết sần chứa nước. Virus V major độc hại hơn, gây tử vong trong số 30-35% bệnh nhân. V minor gây dạng bệnh nhẹ hơn, giết khoảng 1% bệnh nhân. Biến chứng lâu dài của việc nhiễm V major là các sẹo đặc trưng, thường là ở mặt, ở 65-85% số nạn nhân. Nạn nhân cũng có thể bị mù vì giác mạc bị sẹo. Phái nam còn có thể bị hiếm muộn. Dị hình ở các chi do chứng viêm khớp và viêm khớp xương mãn tính là bi ến 2
  3. chứng ít gặp hơn, xuất hiện ở khoảng 2-5% các trường hợp nhi ễm bệnh. Lịch sử : Đậu mùa xuất hiện vào khoảng 10.000 năm trước Công nguyên. Chứng tích xưa nhất của bệnh đậu mùa là những vết mụn mủ trên xác ướpcủa Pharaon Ramses V thời Ai Cập cổ đại. Căn bệnh này đã giết chết khoảng 400.000 người dân châu Âu mỗi năm trong những năm cuốithế kỷ 18, trong đó có 5 quốc vương đương tại vị. Bện này cũng và là nguyên nhân của 1/3 trường hợp bị mù. Khoảng 20-60% số những người nhiễm bệnh, trong đó có khoảng hơn 80% là trẻ em, bị tử vong. Hậu quả là 300- 500 triệu người đã chết vì bệnh đậu mùa vào thế kỷ 20.Tổ chức Y tế Thế giới (viết tắt tiếng Anh: WHO) ước lượng riêng năm 1967 có khoảng 15 triệu người nhiễm bệnh và 2 triệu người tử vong. Sau chiến dịch chủng đậu vác-xin kéo dài từ thế kỷ 19 đến thế kỷ 20, WHO chứng nhận đã tiêu diệt được bệnh đậu mùa vào năm 1979.Đậu mùa là một trong hai bệnh truyền nhiễm đã được diệt dứt điểm; căn bệnh kia là bệnh dịch tả trâu bò (rinderpest) được công nhận đã bị tiêu diệt vào năm 2011 Nguyên nhân : Có hai loại đậu mùa lâm sang. Loại Variola major là dạng trầm trọng và thường gặp nhất, gây ra sự phát ban rộng hơn và sốt cao hơn. Loại Variola minor ít gặp và trầm trọng hơn, với tỷ lệ tử vong vào khoảng 1% hoặc ít hơn. Giai đoạn nhiễm virus variola cận lâm sang đã được chú ý đến, nhưng không thường gặp. Thêm vào đó, còn có một dạng gọi lại variola sine eruptione (đậu mùa gây phát ban) thường được bắt gặp ở những người được tiêm chủng. Dạng này gây ra sốt sau thời kỳ ủ bệnh và chỉ có thể được xác nhận bằng nghiên cứu kháng thể, hay ít gặp hơn, bằng cách cách ly virus Thời kỳ ủ bệnh từ lúc nhiễm bệnh đến lúc triệu chứng rõ ràng đầu tiên xuất hiện là khoảng 12 ngày. Một khi bị hít vào, virus Variola major xâm chiếm vùng họng miệng hoặc vùng niêm mạc hô hấp, di chuyển đến hạch 3
  4. bạch huyết và bắt đầu sinh sôi. Trong giai đoạn tăng trưởng ban đ ầu, virus có thể di chuyển từ tế bào đến tế bào, nhưng vào khoảng ngày thứ 12, các tế bào nhiễm virus giảm dần, virus được tìm thấy trong máu với số lượng lớn. Tiếp đó là sự sinh sôi virus diễn ra ở lá lách, tủy xương và hạch bạch huyết. Các triệu chứng ban đầu tương tự với các bệnh nhiễm virus khác, chẳng hạn như cúm và cảm thông thường, sốt ít nhất 38.5°C, đau nhức cơ, cảm giác khó chịu, đau đầu và tình trạng mệt mỏi. Khi các ống tiêu hóa bị liên lụy, chứng buồn nôn và ói mửa, cùng với chứng đau lưng xuất hiện. Các triệu chứng báo trước, hay giai đoạn tiền bệnh, thường kéo dài 2-4 ngày. Từ ngày 12-15, những thương tổn thấy được đầu tiên xuất hiện – đó là các vết chấm nhỏ màu đỏ gọi là enanthem – trên màng nh ầy của miệng, lưỡi, vòm miệng và cổ họng. Nhiệt độ cơ thể vẫn bất bình thường. Các thương tổn này nhanh chóng lan ra và bị vỡ, giải phóng lượng lớn virus vào tuyến nước bọt. Virus đậu mùa có khuynh hướng tấn công tế bào da, gây nên những mụn nhọt điển hình (gọi là phát ban) của chứng bệnh này. Các nốt nhỏ phát triển trên da từ 24-48 tiếng sau khi các thương tổn ở các màng nhầy xuất hiện. Thông thường, các vết ban xuất hiện đầu tiên ở tran, sau đó nhanh chóng lan ra cả khuôn mặt, phần lớn các bộ phận gần đầu, than người và cuối cùng là ở các bộ phận xa hơn. Quá trình xảy ra không quá 24 đ ến 36 tiếng, sau thời gian này không còn thương tổn mới nào xuất hiện. Lúc này, sự nhiễm virus variola có thể diễn ra theo nhiều hướng, dẫn đến bốn loại bệnh đậu mùa như trong phân loại Rao: thông thường, giảm nhẹ, ác tính và gây xuất huyết. Trong lịch sử, bệnh đầu mùa gây ra tỷ lệ tử vong vào khoảng 30%, trong đó hai dạng ác tính và gây xuất huyết th ường gây chết người. Bệnh đậu mùa xuất phát từ việc nhiễm virus Variola, thuộc chi Orthopoxvirus, họ Poxviridae. Variola là một virus hình gạch, cỡ lớn vào khoảng 302-350 nanomét x 244-270 nm, có bộ gen DNA dạng hai s ợi, và có một vòng thắt lại ở mỗi đầu. Hai dạng đậu mùa cơ bản là variola major và variola minor. Bốn loại virus thuộc chi Orthopoxvirus gây bệnh ở người là: Variola, vaccinia, cowpox (đậu mùa ở động vật) và monkeypox. Trong tự nhiên virus variola chỉ gây bệnh ở người, dù động vật linh trưởng và các loài 4
  5. động vật khác cũng bị nhiễm bệnh ở môi trường thí nghiệm. Vaccinia, cowpox và monkeypox có thể gây bệnh ở người lẫn động vật. Chu kỳ sống của các virus thuộc họ Poxviridae khá phức tạp vì có nhiều dạng gây truyền nhiễm, với cơ chế xâm nhập tế bào đa dạng. Virus họ này là duy nhất trong số các virus có DNA vì chúng không tái tạo trong nhân tế bào, mà là ở tế bào chất. Để tái tạo, các virus sản sinh ra nhi ều loại protein đặc trưng mà các virus DNA khác không tạo ra được, trong đó protein quan trọng nhất là RNA polymer hóa dựa trên DNA của virus. Sự truyền bệnh Bệnh lan truyền qua việc hít phải các virus variola trong không khí, th ường từ các dịch từ vùng họng, mũi, niêm mạc họng của người nhiễm bệnh. Bệnh được truyền từ người sang người chủ yếu qua việc tiếp xúc mặt đối mặt kéo dài với người nhiễm bệnh, thường trong khoảng cách 1,8m, nhưng cũng có thể bị truyền bệnh qua việc tiếp xúc trực ti ếp với các dịch cơ thể bị nhiễm virus hoặc các đồ vật bị nhiễm bẩn như ra giường hay quần áo. Đậu mùa hiếm khi gây lây nhiễm qua không khí trong không gian kín như tòa nhà, xe buýt, xe lửa. Virus có thể lây truyền qua đường nhau thai, nhưng bệnh đậu mùa bẩm sinh có tỷ lệ tương đối thấp. Đậu mùa không được ghi nhận là có thể lây truyền trong thời kỳ tiền triệu và virus thường phát tán từ lúc xuất hiện các vết ban, hay đi kèm với các thương tổn ở miệng và họng. Virus có thể lây truyền qua trong giai đoạn phát bệnh, thường nhất là khoảng tuần đầu tiên xuất hiện vết ban, khi các thương tổn ở da còn nguyên vẹn. Bệnh bắt đầu ít lây nhiễm trong khoảng 7 đến 10 ngày từ lúc vảy xuất hiện, nhưng người bệnh vẫn có khả năng lây nhiễm cho đến khi miếng vảy cuối cùng rụng đi. Đậu mùa có tính lây nhiễm coa, nhưng thường với tốc độ chậm và ít rộng khắp hơn so với các bệnh truyền nhiễm do virus khác; có thể bởi vì bệnh lây nhiễm qua việc tiếp xúc gần và xảy ra sau khi vết ban đã xuất hi ện. Tỷ lệ lây nhiễm cũng bị ảnh hưởng bởi thời gian ngắn trong giai đoạn lây nhiễm. Ở vùng ôn đới, số ca lây nhiễm đậu mùa đạt cao nhất vào mùa đông và mùa xuân. Ở khu vực nhiệt đới, bệnh xuất hiện khắp cả năm. Đậu mùa không được ghi nhận có thể lây truyền qua côn trùng hay động vật và không có trường hợp vật chủ mang mầm bệnh không thể hiện tri ệu chứng (asymptomatic carrier). 5
  6. 3:Dịch hạch là một loại bệnh do vi khuẩn Yersinia pestis hình que thuộc họ Enterobacteriaceae gây ra. Căn bệnh đã gây nhiều trận dịch kinh hoàng với tỉ lệ tử vong rất cao trong lịch sử nhân loại (nếu không đ ược điều trị, tử vong ở thể hạch là 75%, và ở thể phổi là gần 100%) như ở trận Đại dịch hạch (1665 ở Anh với 60.000 người chết) và Cái chết đen (giữa thế kỉ 14, giết chết 1/3 dân số châu Âu hay 25 triệu người). được cho là xuất phát từ Ethiopia hoặc Ai Cập và lan lên phía bắc thông qua các tàu buôn chở ngũ cốc. Nó được truyền từ bọ chét sống ký sinh trên chuột chui rúc trong các con tàu. Và đây là đại dịch hạch đầu tiên trên thế giới được ghi nhận. Trong vòng hai năm, dịch hạch giết chết 40% dân số Constantinople. Nhà sử học thời Byzantine tên là Procopius ghi lại rằng vào lúc cao điểm, thần chết dịch hạch lấy đi 10.000 mạng người dân thành phố mỗi ngày. Dịch hạch lan rộng khắp miền đông Địa Trung Hải, khiến một phần tư dân số khu vực chết. Đại dịch hạch lần thứ hai bùng phát năm 588, với mức độ nghiêm trọng hơn và lan tới tận nước Pháp. Số người thiệt mạng do kẻ sát nhân này là 25 triệu. Trong vòng 800 năm sau đó, châu Âu không bị đại dịch nào tấn công, nhưng đến giữa thế kỷ 14, dịch hạch trở lại. Lần này nó được đặt tên Tử thần đen. Tên này xuất phát từ thực tế là da những người mắc bệnh chuyển màu sẫm hơn do các hạt đen bên dưới da, giống tri ệu chứng của những người xấu số trước đó 8 thế kỷ. Người ta sơ tán để chạy trốn dịch bệnh, nhưng lại khiến nó càng lan rộng hơn trên toàn châu lục. Trong 3 năm kể từ 1347, Tử thần đen giết chết chừng một phần tư dân số châu Âu - 25 triệu người. Cùng thời gian đó, dịch hạch hoành hành ở châu Á và Trung Đông, gây nên đ ại dịch toàn cầu. Dịch hạch bùng phát nhiều lần ở châu Âu, mỗi lần sau mạnh hơn lần trước, và chỉ dịu đi khi nhân loại bước vào thế kỷ 18. Cho đến lúc đó, tổng số nạn nhân của căn bệnh này được ghi nhận vào khoảng 137 triệu. Các khu vực thành thị chịu ảnh hưởng nặng nhất, với tổn thất khoảng 50% dân số trong mỗi đại dịch 6
  7. 4: Bệnh dịch AIDS Tính đến ngày 30 tháng 09 năm 1991, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) căn cứ theo con số thống kê do các nước cung cấp thì đã có 163 nước và vùng lãnh thổ phát hiện ra bệnh nhân AIDS, và số người mắc bệnh đã lên tới con số 41 vạn người. Theo ước đoán của các chuyên gia Tổ chức Y tế thế giới: Con số người mắc bệnh thực tế, trên thế giới phải là 1,1 tri ệu, đến cuối thế kỷ 20 tăng lên khoảng 40 triệu người. Năm 2005 tại Việt Nam, cả nước có khoảng 260.000 người nhi ễm HIV/AIDS. 6 tháng đầu năm 2005, trên toàn quốc phát hiện 6.704 tr ường hợp nhiễm HIV mới, trong đó có 1.377 bệnh nhân AIDS và 670 ca t ử vong do AIDS. Giữa năm 1986 WHO quyết định đặt trên cho căn bệnh AIDS là"căn bệnh suy giảm miễn dịch trong cơ thể người", tiếng Anh viết tắt là HIV, bệnh AIDS viết tắt trong tiếng Anh có nghĩa là mầm dịch bệnh HIV đang ủ bệnh và phát triển chậm trong cơ thể đã dẫn tới dịch bệnh. Năm 1988, WHO vì muốn kêu gọi các nước trên thế giới cùng hợp tác chống lại căn bệnh dịch độc hại nhất trong lịch sử loài người cho đến nay, đã quyết định lấy ngày 01 tháng 12 hàng năm là " Ngày thế giới chống lại bệnh AIDS". Tháng 05 năm 1983, nhóm nghiên cứu Ruyca, Môngtaniai thuộc Vi ện nghiên cứu Pastơ của Pháp đã phân lập được những bệnh AIDS ra khỏi hạch bạch huyết trong cơ thể những người bị nhiễm HIV trong thời gian sớm nhất. Theo cách nói thông thường thì đây là lần đầu tiên loài người phát hiện được virus gây bệnh AIDS. Tháng 4 năm 1984, nhóm nghiên cứu của Rôbôtơ Carô thuộc viện nghiên cứu ung thư Mỹ cũng đã phân lập được từ trong một hệ thống nuôi cấy tế bào "T" những vật cảm nhiễm mầm bệnh trong những bệnh nhân mắc bệnh AIDS, người ta cũng phân lập ra được virus gậy bệnh AIDS. Đây là thành quả quan trọng có tính đột phát đối với giới y học trong quá trình nghiên cứu chống lại bệnh AIDS. Từ sau đó, căn bệnh AIDS ngày càng được phổ biến rộng rãi. Nhưng cho đến nay, người ta mới tìm thấy được một hồ sơ bệnh án của một bệnh nhân được gọi là người mắc bệnh AIDS sớm nhất trên thế giới, đó là một thủy thủ người Manchester (Anh). Vào năm 1959 người thủy thủ 25 tuổi này mắc một căn bệnh quái dị: da đau buốt không chịu nổi, sốt cao không giảm, phổi bị cảm nhiễm nặng, cân nặng giảm sút nhanh chóng. Sau khi vào nằm bệnh viện không bao lâu, người thủy thủ đó qua đời. Các bác sĩ 7
  8. thấy chứng bệnh quái lạ như vậy thì sinh nghi. Họ bèn tiến hành gi ải ph ẫu thi thể để nghiên cứu, phát hiện thấy phổi của bệnh nhân nhiễm một loại trùng nang và tế bào phình to lên. vì những nguyên nhân đó mà trên ph ổi đầy những lỗ nhỏ. Bởi lúc bấy giờ y học chưa có hiểu biết về bệnh AIDS nên các bác sĩ có liên quan chỉ đưa triệu chứng đó đăng trên tạp chí y học, đồng thời giữ lại một phần nội tạng của người bệnh tại bệnh viện Manchester. Đến năm 1983, sau khi giới y học Pháp công bố kết quả nghiên cứu mầm bệnh AIDS, các chuyên gia bệnh học thuộc Đại học Manchester đem một số bộ phận nội tạng đang được giữ lại tại bệnh viện của bệnh nhân nọ: thận, tụy để tiến hành nghiên cứu; cuối cùng đã phát hiện ra triệu chứng đặc trưng của bệnh AIDS. Trên cơ sở đó họ suy luận rằng từ giữa những năm 50 của thế kỷ 20 đã có bệnh AIDS, căn bệnh đó đã truyền nhi ễm virus HIV. Chứng tỏ các nước phương Tây, muộn nhất là vào thời kỳ đó đã có những bệnh nhân mắc bệnh AIDS. Các chuyên gia và các học giả ngành y sau 10 năm nghiên cứu đã đi đến nhận định, sự xuất hiện mầm bệnh của bệnh AIDS có thể đã có từ 50 năm đến 150 năm trước đây. Sau đó mầm bệnh bắt đầu di truyền, phát triển đột biến. Trải qua hơn 100 năm diễn biến, đến nay mới trở thành bệnh dịch độc hại, hung ác chưa từng có. Đến nay, thế giới đang đứng trước sự lây lan nhanh chóng và tỷ lệ tử vong càng cao càng hoảng sợ. Người ta nói đến AIDS là biến sắc và gọi là "Căn bệnh dịch của thế kỷ 20". Đầu tiên, người ta phát hiện thấy những người mắc bệnh AIDS chiếm tỷ lệ rất cao ở những đối tượng đồng tính luyến ái và có sinh hoạt tình dục tập thể ở các thành phố lớn nước Mỹ. Bởi vậy người ta cho rằng, do đồng tính luyến ái đi ngược với với quy luật tự nhiên, là bệnh hoạn, tạo ra sự hỗn loạn tình dục dẫn đến những bệnh tật mà người ta không lường đ ược nên mới sinh ra bệnh AIDS. Tuy nhiên, khi được rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu mới nhận thấy rằng, ở các nước phương Tây, từ thời Hy Lạp, La Mã cổ đại đã xảy ra vấn đề đồng tính luyến ái. Còn các nước phương Đông từ thời cổ đại đã có vấn đề này. Nếu vì đồng tính luyến ái mà dẫn đến việc sinh ra bệnh AIDS thì bệnh đó đã lưu truyền từ thời cổ đại, vì sao mãi tới nay mới lan truyền? Từ đó kết luận: Đồng tính luyến ái không phải 8
  9. là nguồn gốc gây ra bệnh AIDS, nhưng nó cũng là con đường lây bệnh truyền AIDS rất nguy hiểm. 5: bệnh cúm Năm 1918 chứng kiến đại dịch cúm nghiêm trọng nhất lịch sử thế giới, thậm chí còn được cho là đại dịch kinh hoàng nhất trong các loại bệnh dịch. Khoảng 50 triệu người chết, trong đó riêng ở Tây Ban Nha có 8 tri ệu, vì thế dịch cúm này mang tên cúm Tây Ban Nha. Năm 1957 đánh dấu dịch cúm châu Á. Nhờ các tiến bộ khoa học, dịch bệnh nhanh chóng được xác định, các biện pháp y tế cầ Năm 1969, dịch cúm Hong Kong giết chết 34.000 người. Thành phố London ph ải nh ờ đ ến sự hỗ trợ của các y tá tình nguyện. Nhân viên văn phòng đeo khẩu trang khi làm việc, để phòng ngừa cúm.n thiết được triển khai, trong đó có việc sử dụng vắc xin. Tuy vậy số lượng người chết vì cúm vẫn ở mức 2 triệu Năm 1976 tại New Jersey,Mỹ, xuất hiện dịch cúm khiến 1 người chết. Giới chức lo sự trở lại của cúm Tây Ban Nha, nhưng virus chủ yếu tồn tại ở lợn. Vắc xin được đem tiêm cho một phần tư dân số Mỹ. Có 25 người chết do biến chứng của vắcxin, nhưng không ai thiệt mạng vì cúm lợn Năm 2003, cúm gia cầm được phát hiện ở Hàn Quốc. Chính phủ ra lệnh tiêu hủy gần 1 triệu con gà và vịt. Trong ảnh, quân nhân và bác sĩ thú y chôn hàng trăm gà và vịt để ngăn sự lây lan của virus. Cũng trong năm này, khoảng 400 ca nhiễm cúm gia cầm được phát hiện ở Việt Nam. Năm sau đó, hầu hết trong 64 tỉnh thành của nước này đều xuất hi ện cúm. Ở 9
  10. một số nước, cúm được coi là đáng sợ như HIV/AIDS, nhiều người từ chối ăn gà, vịt và chim Từ những hậu quả nguy hiểm ta thấy ở các dịch bệnh trên , khi phát hiện ra ổ dịch ta cần theo dõi chặt chẽ tình hình dịch, tham mưu kịp thời cho cấp ủy, chính quyền tổ chức triển khai các hoạt động phòng, ch ống dịch, không để dịch bùng phát, lan rộng, kéo dài, hạn chế tối đa t ỷ l ệ bệnh nhân tử vong. các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh chuẩn bị đầy đủ cơ số thuốc, phương tiện điều trị và giường bệnh để kịp thời tiếp nhận điều trị bệnh nhân, đặc biệt trong trường hợp có dịch lớn. Thành lập đội cấp cứu lưu động, sẵn sàng hỗ trợ chuyên môn cho các đơn vị trong xử lý, cấp cứu, điều trị, chăm sóc bệnh nhân. 10
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2