Một số câu hỏi nhận thức về Đảng (Có đáp án)
lượt xem 124
download
Nhằm giúp các bạn có thêm tài liệu phục vụ nhu cầu học tập và nghiên cứu, mời các bạn cùng tham khảo nội dung tài liệu "Một số câu hỏi nhận thức về Đảng" dưới đây. Nội dung tài liệu gồm 5 câu hỏi bài tập có hướng dẫn lời giải, hy vọng tài liệu giúp các bạn đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Một số câu hỏi nhận thức về Đảng (Có đáp án)
- MỘT SỐ CÂU HỎI NHẬN THỨC VỀ ĐẢNG 1/ Đồng chí hãy phân tích những truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam? Những truyền thống đó đang được Đảng ta giữ gìn và phát huy ra sao ?. 2/ Nêu và phân tích vấn đề đã được bổ sung và phát triển tại Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng về Chủ nghĩa xã hội và phương hướng xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta? Từ vị trí công tác của mình đồng chí phải làm gì để xây dựng, phát triển đóng góp vào thành công xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta? 3/ Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung, dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó được quy định ra sao ? 4/ Trình bày nội dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh ? 5/ Đồng chí cần làm gì và phấn đấu như thế nào để trở thành đảng viên ? Vì sao vấn đề xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn được đặt lên hàng đầu và có ý nghĩa quyết định đối với một đảng viên ? Điều lệ Đảng quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền của đảng viên như thế nào?. GỢI Ý TRẢ LỜI (theo giáo viê hướng dẫn) Câu 1: Có 2 nội dung. Truyền thống quý báu (có 6). Các bạn hãy liệt kê ra, phân tích và nói luôn truyền thống đó được giữ gìn và phát huy ra sao. Câu 2: Nêu 6 đặc trưng cương lĩnh 1991; nêu nội dung bổ sung sửa đổi về đặc trung CNXH của Đại hội X; Nêu 8 đặc trung của CNXH được ĐH 10 bổ sung và đạ hội XI Phương hướng: cương lĩnh 1991 nêu 7 phương hướng; từ 7 phương hướng sắp xếp bổ sung thành 8 quá trình; Tại đại hội XI điều chỉnh sắp xếp và bổ sung cho phù hợp trong điều kiện mới. Câu 3: Trình bày 6 nội dung Câu 4: 1. Khái niệm đạo đức 2. Quan điểm HCM về vị trí đạo đức trong đời sống con người 3. Quan điểm HCM về những phẩm chất đạo đức của con người VN 4. Quan điểm HCM về nguyên tắc XD XH mới Câu 5: 1. Nhập đề 2. Nhận thức về điều kiện vào đảng 3. Phấn đấu trở thành đảng viên 4. Xây dựng động cơ vào đảng 5. Kết luận BÀI LÀM 1/ Đồng chí hãy phân tích những truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam? Những truyền thống đó đang được Đảng ta giữ gìn và phát huy ra sao ?. Trả lời: Để trả lời câu hỏi này tôi xin được phép đề cập đến một số điểm cơ bản sau: Trước hết phải khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đó là sản phẩm sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam dưới ánh sáng của thời đại mới; Là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa MácLênin; Phong trào công nhân và Phong trào yêu nước ở nước ta trong những năm 20 của thế kỷ XX. Đây là sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết MácLênin về sự ra đời của Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến và có truyền thống yêu nước từ ngàn năm. 1
- Ngay từ khi mới thành lập, Đảng đã thật sự là đội tiên phong lãnh đạo của giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam. Sự kiện Đảng cộng sản Việt Nam được thành lập chứng tỏ giai cấp vô sản Việt Nam đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng. Đảng cộng sản Việt Nam không những là đội tiên phong lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam mà còn là đại biểu chân chính cho lợi ích của toàn thể dân tộc Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam không chỉ mang bản chất giai cấp công nhân mà còn là lực lượng dẫn dắt phong trào dân tộc chân chính, một Đảng cách mạng vì nước vì dân. Chặng đường vẻ vang hơn bảy thập kỷ qua của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã khẳng định: Sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân ta đã đạt được những thành tựu kỳ diệu. Tuy nhiên, Đảng cũng còn có những yếu kém, có lúc phạm sai lầm, khuyết điểm của mình nhưng đã đề ra những biện pháp sửa chữa đúng đắn, kịp thời. Đảng đã công khai tự phê bình, nhận khuyết điểm trước nhân dân, quyết tâm sửa chữa và sửa chữa có kết quả. Vì vậy, Đảng vẫn được nhân dân tin cậy, thừa nhận Đảng là đội tiên phong chính trị, người lãnh đạo chân chính duy nhất của cả dân tộc. Ở nước ta, ngoài Đảng Cộng sản không lực lượng nào có thể lãnh đạo cách mạng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng không ngừng tôi luyện và trưởng thành và đã xây dựng nên nhiều truyền thống quý báu, thể hiện bản chất tốt đẹp của Đảng ta. Trong những truyền thống đó nổi bật nhất là 6 truyền thống cơ bản sau: Thứ nhất là; Bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng. Hai là; Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo. Ba là; Kiên định chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Bốn là; Trung thành với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, phải gắn bó mật thiết với nhân dân. Năm là; Kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng. Sáu là; Giữ gìn đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc tế… 2/ Nêu và phân tích vấn đề đã được bổ sung và phát triển tại Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng về Chủ nghĩa xã hội và phương hướng xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta? Từ vị trí công tác của mình đồng chí phải làm gì để xây dựng, phát triển đóng góp vào thành công xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta? Trả lời: Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và những bài học kinh nghiệm được rút ra, Đại hội X đã bổ sung một số nội dung của Cương lĩnh 1991 như sau: a) Nhận thức về chủ nghĩa xã hội: Đại hội X của Đảng đã bổ sung và xác định xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng có 8 đặc trưng: Một là, “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”. 2
- Trong Cương lĩnh 1991 chưa nói đến đặc trưng này. Đại hội VIII của Đảng (1996) đã xác định mục tiêu của cách mạng nước ta là “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Đến Đại hội IX đã bổ sung thêm từ “dân chủ”, thành “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đại hội X đã xác định đó là một đặt trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng. Đại hội XI thì có sửa đổi như sau: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” Hai là “do nhân dân làm chủ”. Cương lĩnh 1991 viết : “do nhân dân lao động làm chủ”. Đại hội X đã điều chỉnh là “do nhân dân làm chủ”. Nói nhân dân làm chủ vì chúng ta đã khẳng định xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đại đa số nhân dân là người lao động. Hơn nữa, trong điều kiện phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, nói nhân dân làm chủ phù hợp với thực tế hơn, có lợi hơn cho việc thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc. Đại hội XI vẫn giữ nguyên. Ba là, “Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Trên cơ sở xác định ở nước ta có 3 chế độ sở hữu cơ bản ( toàn dân, tập thể và tư nhân), nhiều hình thức sở hữu và loại hình sản xuất, kinh doanh, nên quan hệ sở hữu trong xã hội có sự đan xen phức tạp. Vì vậy, nói về quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội X điều chỉnh bỏ đoạn nói về “chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu”. Đại hội XI có sửa đổi: “Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp?” Bốn là, “Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Đặc trưng này giống như Cương lĩnh 1991. Năm là, “Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện”. So với Cương lĩnh 1991, Đại hội X có điều chỉnh, bỏ cụm từ “bóc lột”. Xét về bản chất, chế độ ta không phải chế độ bóc lột. Nhưng hiện tượng bóc lột vẫn còn tồn tại do trình độ sản xuất quy định, và còn có ý nghĩa nhất định trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển. Ngoài ra, trong đặc trưng này, Đại hội X còn sửa chữa cụm từ “có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân” thành “phát triển toàn diện” cho chặt chẽ và chính xác. Đại hội XI sửa đổi: “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” Sáu là, “Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ”. 3
- Đặc trưng này về cơ bản như Cương lĩnh 1991, nhưng có bổ sung thêm cụm từ “tương trợ”, phù hợp hơn với thực tế phát huy lợi thế phát triển của từng vùng, từng dân tộc. Đại hội XI có sửa đổi: “Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ” Bảy là, “Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản”. Cương lĩnh 1991 chưa nói tới việc xây dựng nhà nước pháp quyền, nhưng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta đã xây dựng nhà nước dân chủ mới và thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. Tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (11994) Đảng ta chính thức đưa ra khái niệm “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”. Các Đại hội VIII, IX, X tiếp tục khẳng định quan điểm này. Đại hội XI sửa đổi: “Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo” Tám là, “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”. Đặc trưng này giống như Cương lĩnh 1991. b) Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội : Cương lĩnh năm 1991 đã nên bảy phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội X đã sắp xếp lại, điều chỉnh, bổ sung thành 8 quá trình tất yếu phải thực hiện ở nước ta. Một là, “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Trong Cương lĩnh năm 1991 chúng ta chưa dùng khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mà nói phát triển nền sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực chất, nền kinh tế nước ta đã vận hành theo cơ chế thị trường. Từ nhận thức rõ hơn, đi tới khẳng định kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của sản xuất hàng hóa, là quy luật phát triển chung của nhân loại, đến Đại hội IX chúng ta coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội X xác định đây là quá trình tất yếu để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội XI: sửa đổi Một là thành Hai là Hai là, “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Công nghiệp hóa là một quá trình tất yếu khách quan của các nước từ nền sản xuất nhỏ, kinh tế kém phát triển. Cương lĩnh 1991 nói công nghiệp hóa theo hướng hiện đại. Từ Đại hội VIII, Đảng ta nói công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa. Đại hội X bổ sung điều này so với Cương lĩnh 1991. Tại Đại hội XI đã đổi Hai là thành Một là và bổ sung như sau: “ Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức bảo bệ tài nguyên và môi trường” 4
- Ba là, “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội”. Quan điểm này nhắc lại nội dung Cương lĩnh 1991. Tại ĐH XI có sửa đổi: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nâng cao đời sống nhân dân thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội” Bốn là, “Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc”. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được xác định vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển kinh tế xã hội. Đại hội X đã xác định: Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Lấy mục tiên giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ Quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để đoàn kết toàn dân tộc, quy tụ tất cả những người Việt Nam yêu nước ở cả trong và ngoài nước. Đại hội XI: đổi thành Sáu là và sửa đổi: “Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc củng cố và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất” Năm là, “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Đây là nội dung được bổ sung so với Cương lĩnh 1991. Đại hội X chỉ rõ phải xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đại hội XI: đổi thành Bảy là Sáu là, “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”. Đây là nhiệm vụ hết sức cơ bản và quan trọng, vừa thường xuyên, vừa cấp bách. Đại hội X nhấn mạnh hơn nhiệm vụ nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, khắc phục bằng được tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vì chúng đang là nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ. Đại hội XI: đổi thành Tám là Bảy là, “Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia”. Đại hội XI: đổi thành Bốn là và sửa đổi: “Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia trật tự an toàn xã hội” Tám là, “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”. Đại hội X khẳng định: “Qua tổng kết lý luận – thực tiễn 20 năm đổi mới, chúng ta càng thấy rõ giá trị định hướng và chỉ đạo to lớn của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), đồng thời cũng thấy rõ thêm những vấn đề mới đặt ra cần được giải đáp. Sau Đại hội X, Đảng ta cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và phát 5
- triển Cương lĩnh, làm nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong quá trình đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội”. Đại hội XI: đổi thành Năm là và sửa đổi Thực hiện đường lối độc lập tự chủ hòa bình, hợp tác và phát triển chủ động tích cực hội nhập quốc tế. Các MQH cần giữ vững 1. QH đổi mới và ổn định phát triển 2. Quan hệ giữa đổi mới KT với chính trị 3. Giữa PT LLSX và xây dựng hoàn thiện từng bước XD XHCN 4. Gữa tăng trưởng kinh tế và PT văn hóa thực hiện tiến bộ công bằng xã hội 5. QH giữa XD CNXH với bảo vệ tổ quốc XHCN 6. Giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế 7. Giữa đảng LĐ nhà nước quản lý nhân dân làm chủ .. không phiến diện, cực đoan, duy ý chí. Thế hệ trẻ Việt Nam nói chung và bản thân tôi nói riêng, thấy rất tự hào khi phấn đấu để được đứng vào hàng ngũ của Đảng và thấy rõ đó là một trọng trách, một nhiệm vụ cao cả và cũng đầy vinh quang xong cũng đầy thử thách, Với lòng quyết tâm và bầu nhiệt huyết của mình và mong muốn được đứng vào hàng ngũ của Đảng để đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng đất nước. Chính vì vậy trong quá trình phấn đấu để trở thành Đảng viên tôi đã đề ra cho mình phương hướng rèn luyện, luôn luôn phấn đấu vươn lên về mọi mặt. Là một viên chức lao động ………………... 3./ Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung, dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó được quy định ra sao ? Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó là : 1. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. 2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ). 3. Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp uỷ cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình. 4. Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương. 6
- 5. Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số. 6. Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên. ++++ 4./ Trình bày nội dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh ? Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta một di sản vô giá, đó là tư tưởng của Người, trong đó có tư tưởng về đạo đức. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngời về đạo đức. Người để lại rất nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết chuyên về đạo đức. Ngay trong tác phẩm lý luận đầu tiên Người viết để huấn luyện những người yêu nước Việt Nam trẻ tuổi, cuốn Đường Kách mệnh, vấn đề đầu tiên Người đề cập là tư cách người cách mệnh. Tác phẩm sau cùng bàn sâu về vấn đề đạo đức được Người viết nhân dịp kỷ niệm 39 năm ngày thành lập Đảng (321969), đăng trên báo Nhân dân là bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Trong Di chúc thiêng liêng, khi nói về Đảng, Bác cũng căn dặn Đảng phải rất coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam đã được hình thành, phát triển trong suốt quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước; là sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin. Đó là sự tiếp thu có chọn lọc và phát triển những tinh hoa văn hóa, đạo đức của nhân loại, cả phương Đông và phương Tây, mà Người đã tiếp thu được trong quá trình hoạt động cách mạng đầy gian lao, thử thách và vô cùng phong phú vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm cơ bản và toàn diện về đạo đức, bao gồm: vị trí, vai trò, nội dung của đạo đức; những phẩm chất đạo đức cơ bản và những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới; yêu cầu rèn luyện đạo đức với mỗi người cách mạng. 1. Về vị trí, vai trò của đạo đức trong xã hội và trong đời sống của mỗi người. Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức là gốc của người cách mạng. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Người đã nêu lên 23 điểm thuộc “tư cách một người cách mệnh”, trong đó chủ yếu là các tiêu chuẩn về đạo đức, thể hiện chủ yếu trong 3 mối quan hệ: với mình, với người và với việc. Người viết: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. Với mỗi người, Hồ Chí Minh ví đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông suối. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn 7
- mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng trong mọi thử thách. Người viết : “có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại không rụt rè, lùi bước”; “khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn”, mới “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; “lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”. Với yêu cầu đó, Hồ Chí Minh nêu ra năm điểm đạo đức mà người đảng viên phải giữ gìn cho đúng, đó là: + Tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân. + Ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng. + Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng quyết tâm chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu. + Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết. + Hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng. Đối với Đảng, tổ chức tiền phong chiến đấu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây dựng Đảng ta thật trong sạch, Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”. Người thường nhắc lại ý của V. I. Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại. Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập một cách toàn diện. Người nêu yêu cầu đạo đức đối với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội, trên mọi lĩnh vực hoạt động, trong mọi phạm vi, từ gia đình đến xã hội, trong cả ba mối quan hệ của con người: đối với mình, đối với người, đối với việc. Tư tưởng Hồ Chí Minh đặc biệt được mở rộng trong lĩnh vực đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhất là khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền. Trong bản Di chúc bất hủ, Người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”. 2. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh a. Trung với nước, hiếu với dân Trung, hiếu là đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam và phương Đông, được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển trong điều kiện mới. Trung với nước là trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước, giữ nước, phát triển đất nước, làm cho đất nước “sánh vai với cường quốc năm châu". Nước là của dân, dân là chủ đất nước, trung với nước là trung với dân, vì lợi ích của nhân dân, “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”; “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”... Hiếu với dân nghĩa là cán bộ đảng, cán bộ nhà nước “vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành của dân”. 8
- Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách mạng. Người dạy, đối với mỗi cán bộ đảng viên, phải “tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân”, và hơn nữa, phải “tận trung với nước, tận hiếu với dân”. Trung với nước, hiếu với dân là phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ nghĩa vụ và quyền lợi của người làm chủ đất nước. Tư tưởng Hồ Chí Minh về trung với nước, hiếu với dân thể hiện quan điểm của Người về mối quan hệ và nghĩa vụ của mỗi cá nhân với cộng đồng, đất nước. b. Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Hồ Chí Minh coi yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Yêu thương con người thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân trong quan hệ xã hội. Tình yêu thương con người thể hiện trước hết là tình thương yêu với đại đa số nhân dân, những người lao động bình thường trong xã hội, những người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột. Yêu thương con người phải làm mọi việc để phát huy sức mạnh của mỗi người, đoàn kết để phấn đấu cho đạt được mục tiêu “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Thương yêu con người phải tin vào con người. Với mình thì chặt chẽ, nghiêm khắc; với người thì khoan dung, độ lượng, rộng rãi, nâng con người lên, kể cả với những người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm, khuyết điểm. Yêu thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, tốt đẹp hơn. Vì vậy, phải thực hiện phê bình, tự phê bình chân thành, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm để không ngừng tiến bộ. Yêu thương con người phải biết và dám dấn thân để đấu tranh giải phóng con người. Đối với những người cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: học tập chủ nghĩa Mác Lênin để thương yêu nhau hơn. Người viết: "Hiểu chủ nghĩa Mác Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác Lênin được". c. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư là nền tảng của đời sống mới, là phẩm chất trung tâm của đạo đức cách mạng trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh, là mối quan hệ “với tự mình”. Hồ Chí Minh quan niệm cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính của con người, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương và Người giải thích cặn kẽ, cụ thể nội dung từng khái niệm. + Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mỗi chúng ta”. 9
- + Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của nước, của bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô trương, hình thức...”. Cần, kiệm là phẩm chất của mọi người lao động trong đời sống, trong công tác. + Liêm là trong sạch, là “luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân”, “không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”; “không tham địa vị, không tham tiền tài..., không tham tâng bốc mình...”. + Chính là ngay thẳng, không tà, là đúng đắn, chính trực. Đối với mình không tự cao, tự đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết. Đối với việc thì để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Được giao nhiệm vụ gì quyết làm cho kỳ được, “việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm; việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh”. Liêm, chính là phẩm chất của người cán bộ khi thi hành công vụ. Chí công là rất mực công bằng, công tâm; vô tư là không được có lòng riêng, thiên tư, thiên vị "tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư oán", đem lòng chí công, vô tư đối với người, với việc. “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Muốn "chí công, vô tư" phải chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân. Đây là chuẩn mực của người lãnh đạo, người "giữ cán cân công lý", không được vì lòng riêng mà chà đạp lên pháp luật. Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí công, vô tư. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công, vô tư. Ngược lại, đã chí công vô tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính. d. Tinh thần quốc tế trong sáng Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là sự mở rộng những quan niệm đạo đức nhân đạo, nhân văn của Người ra phạm vi toàn nhân loại, vì Người là “người Việt Nam nhất” đồng thời là nhà văn hóa kiệt xuất của thế giới, anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế. Quan niệm đạo đức về tình đoàn kết quốc tế trong sáng của Hồ Chí Minh thể hiện trong các điểm sau: Đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu chung đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột. Đoàn kết quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới vì một mục tiêu chung, “bốn phương vô sản đều là anh em”. Đoàn kết với nhân loại tiến bộ vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội. Đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước chân chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa sô vanh, vị kỷ, hẹp hòi, kỳ thị dân tộc... Câu 5: Đồng chí cần làm gì và phấn đấu như thế nào để trở thành đảng viên ? Vì sao vấn đề xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn được đặt lên hàng đầu và có ý nghĩa quyết định 10
- đối với một đảng viên ? Điều lệ Đảng quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền của đảng viên như thế nào?. Trả lời: Đối với mỗi cá nhân muốn trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam cần phải tự mình trả lời những câu hỏi: Tại sao ta vào Đảng ? Vào Đảng để làm gì ?, Mục tiêu lý tưởng của Đảng ta là gì ?. a/Nhập đề: Chép định phần Đảng cộng sản … trong sách trang 111 b/ Điều kiện xét kết nạp: Tóm tắt các ý trong sách. Lúc sinh thời Bác Hồ đã dạy: “Vì sao chúng ta vào Đảng ? Phải chăng để thăng quan, phát tài ? Không phải !... Chúng ta vào Đảng là để hết lòng, hết sức phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, làm trọn nhiệm vụ của người đảng viên”. Cũng trong Di chúc của mình, Người viết “... Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân...”. Những người muốn vào Đảng phải xây dựng cho mình được động cơ đúng đắn bởi nó có ý nghĩa quyết định đối với việc phấn đấu trở thành đảng viên, nó sẽ là động lực lớn thúc đẩy mọi hành động, việc làm của chúng ta sau này. c/ Phấn đấu trở thành đảng viên: Để trở thành một đảng viên mỗi chúng ta cần thực hiện tốt những nhiệm vụ cơ bản sau: Một là, không ngừng rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng. Bản lĩnh chính trị được thể hiện ở tính kiên định mục tiêu, lý tưởng đã lựa chọn trong bất kỳ tình huống khó khăn nào cũng không dao động, giảm sút niềm tin và ý chí chiến đấu, trung thành với lợi ích của Đảng, với lợi ích của nhân dân lao động và của dân tộc, suốt đời tận tâm trung thành phục vụ cho Tổ quốc, phục vụ nhân dân, thấy sai phải biết phê phán... Trong bất kỳ tình huống khó khăn nào cũng không dao động giảm sút niềm tin và ý chí chiến đấu. Khí tiết của người cách mạng là “giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”. Đây chính là nét nổi bật của người đảng viên. Hai là, Không ngừng nâng cao năng lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng. Là một người đảng viên chân chính, mẫu mực không chỉ hoàn thành nhiệm vụ mà phải gương mẫu hoàn thành tốt, đảm bảo chất lượng công việc cũng như đem lại hiệu quả cao. Để làm được điều đó đòi hỏi người đảng viên không chỉ nâng cao về năng lực mà còn cả năng lực về trí tuệ và năng lực thực tiễn, không ngừng học hỏi trau dồi để đủ kiến thức đáp ứng yêu cầu của cuộc sống. Ba là, người đảng viên phải gắn bó với tập thể, với nhân dân, tích cực tham gia hoạt động đoàn thể cũng như các công tác xã hội. Điều đó được thể hiện ở ngay chính nơi ở, nơi làm việc cũng như các mối quan hệ với các quần chúng khác, biết lắng nghe, hiểu được tâm tư nguyện vọng của quần chúng, biết chăm lo đến lợi ích, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Vận động nhân dân sống và làm việc theo đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Những hoạt động chính là cơ hội tốt giúp cho chúng ta tiến bộ, trưởng thành về chính trị, tạo dựng sự tín nhiệm của nhân dân tạo đà cho mỗi quần chúng phấn đấu trở thành đảng viên. 11
- Bốn là, tích cực tham gia xây dựng Đảng cơ sở. Để được đứng trong hàng ngũ của Đảng chúng ta không những tự giác thừa nhận, tôn trọng sự lãnh đạo của Đảng mà còn cần tích cực tham gia xây dựng Đảng, giúp Đảng phát hiện những quần chúng mất tư cách đạo đức, phát hiện những đảng viên tha hoá về đạo đức, lối sống, chống tham nhũng trong Đảng... Năm là, mỗi người chúng ta không ngừng đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật, đi ngược với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, vận động quần chúng nhân dân sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, tích cực góp phần xây dựng sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh... Động cơ thôi thúc chúng ta phấn đấu vào Đảng là để đứng trong một tổ chức tự nguyện của những người cùng chung một chí hướng đấu tranh xây dựng một xã hội mới tốt đẹp dân giàu, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên CNXH. Mỗi người chúng ta nguyện phấn đấu vào Đảng chính là tự nguyện dấn thân theo lý tưởng cách mạng, chấp nhận hy sinh, không sợ khó, sợ khổ, quyết tâm theo đuổi đến cùng con đường dẫn đến mục tiêu CNXH. Mỗi đảng viên phải hiểu rõ cơ hội lớn của công cuộc đổi mới hiện nay, ra sức nắm bắt để vận dụng vào nhiệm vụ của mình; phải tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng và Nhà nước, chống lại sự phá hoại của kẻ thù. Thực hiện nghiêm túc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng, bảo đảm toàn thể thống nhất trong nội bộ làm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, tích cực làm công tác phát triển đảng viên mới. Cái được lớn nhất khi vào Đảng là có cơ hội được phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân trong cuộc đấu tranh cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Động cơ vào Đảng đúng đắn là điều kiện có ý nghĩa tiên quyết quyết định. Bởi, chỉ có động cơ đúng đắn mới có thể đáp ứng được những yêu cầu của Đảng và Đảng cũng chỉ kết nạp những người giác ngộ về mục đích, lý tưởng cách mạng, quyết không thu nhận vào hàng ngũ mình những người có động cơ thiếu trong sáng, lệch lạc, càng không để cho các phần tử cơ hội lọt vào Đảng. Để có động cơ vào Đảng đúng đắn chúng ta ta cần hiểu sâu sắc bản chất, mục đích của Đảng bằng chính việc làm hàng ngày của mình, đặt lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng đề ra, thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng, đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, kiêu căng, thực dụng, vụ lợi, xa lạ với bản chất của người chiến sĩ cách mạng. Lúc sinh thời Bác Hồ đã căn dặn “... Nếu không phục vụ được nhân dân, phục vụ được cách mạng thì đừng vào Đảng. Bởi Đảng là tổ chức cách mạng có sứ mệnh cao cả đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh cho độc lập và chủ nghĩa xã hội chứ không phải là nơi để tìm kiếm danh vọng, địa vị, thu hái lợi lộc...” . Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội chính là niềm tin, lẽ sống, là động lực tinh thần to lớn của mỗi chúng ta. 12
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN - HỆ THỐNG CÂU HỎI – ĐÁP ÁN GỢI MỞ - 6
49 p | 193 | 45
-
Một số vấn đề lí luận chung về thiết kế bài kiểm tra định kì theo Thông tư 22 - PGS.TS. Nguyễn Công Khanh
16 p | 223 | 19
-
Về việc dùng câu hỏi trong dạy đọc hiểu văn bản ở nhà trường phổ thông - Dương Thị Hồng Hiếu
7 p | 117 | 15
-
Phát triển nhân lực thông tin – thư viện và một số vấn đề đặt ra trong phát triển nguồn lực thông tin thư viện tại Lào hiện nay
7 p | 96 | 13
-
Một số khuynh hướng của tiểu thuyết Việt Nam đương đại
8 p | 129 | 9
-
Bài giảng Một số vấn đề lí luận chung về thiết kế bài kiểm tra định kì (Theo Thông tư 22) - PGS.TS. Nguyễn Công Khanh
28 p | 117 | 9
-
Một số điểm nhận thức trên tư duy mới về Chủ nghĩa Mác
9 p | 93 | 7
-
Đào tạo chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập Quốc tế
3 p | 57 | 6
-
Một số khía cạnh xã hội và môi trường trong quá trình phát triển bền vững của Thừa Thiên Huế - Nguyễn Xuân Mai
0 p | 88 | 4
-
Vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế của các doanh nghiệp tư nhân nước ta qua nhìn nhận của người dân - Nguyễn Thị Lan
6 p | 69 | 3
-
Nghiên cứu về một số loại hình phương tiện biểu đạt tình thái trong câu hỏi tiếng Anh
5 p | 64 | 3
-
Nghiên cứu chức năng của câu hỏi dùng trợ từ nghi vấn trong tiếng Hán hiện đại
6 p | 99 | 3
-
Sử dụng câu hỏi nhận thức từ đồ dùng trực quan quy ước nhằm phát triển năng lực học sinh trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông
11 p | 24 | 2
-
Xây dựng hệ thống câu hỏi theo thang nhận thức của Bloom nhằm phát triển năng lực tư duy trong dạy học tác phẩm văn chương cho học sinh trung học cơ sở
6 p | 45 | 2
-
Nhu cầu nguồn nhân lực ngành kinh doanh xuất bản phẩm và một số vấn đề đặt ra hiện nay
11 p | 90 | 2
-
Công tác biên soạn hệ thống ngân hàng câu hỏi thi của Khoa nghiệp vụ cơ bản, Trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân II
3 p | 10 | 2
-
Từ chân trời của Đông Á đến chân trời nhân loại: Một số chuyển biến của khoa học xã hội nhân văn Việt Nam những năm gần đây
8 p | 44 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn