intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số câu hỏi nhận thức về Đảng (Có đáp án)

Chia sẻ: đinh Công Chánh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:12

2.924
lượt xem
124
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nhằm giúp các bạn có thêm tài liệu phục vụ nhu cầu học tập và nghiên cứu, mời các bạn cùng tham khảo nội dung tài liệu "Một số câu hỏi nhận thức về Đảng" dưới đây. Nội dung tài liệu gồm 5 câu hỏi bài tập có hướng dẫn lời giải, hy vọng tài liệu giúp các bạn đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số câu hỏi nhận thức về Đảng (Có đáp án)

  1. MỘT SỐ CÂU HỎI NHẬN THỨC VỀ ĐẢNG 1/ Đồng chí hãy phân tích những truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam?  Những truyền thống đó đang được Đảng ta giữ gìn và phát huy ra sao ?. 2/ Nêu và phân tích vấn đề đã được bổ sung và phát triển tại Đại hội toàn quốc lần thứ  X của Đảng về Chủ nghĩa xã hội và phương hướng xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta? Từ  vị trí công tác của mình đồng chí phải làm gì để xây dựng, phát triển đóng góp vào thành công   xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta? 3/ Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung, dân chủ. Nội dung cơ  bản của nguyên tắc đó được quy định ra sao ? 4/ Trình bày nội dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh ? 5/ Đồng chí cần làm gì và phấn đấu như thế nào để  trở  thành đảng viên ? Vì sao vấn  đề xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn được đặt lên hàng đầu và có ý nghĩa quyết định đối   với một đảng viên ? Điều lệ  Đảng quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ  và quyền của đảng viên   như thế nào?. GỢI Ý TRẢ LỜI (theo giáo viê hướng dẫn) Câu 1: Có 2 nội dung. Truyền thống quý báu (có 6). Các bạn hãy liệt kê ra, phân tích và   nói luôn truyền thống đó được giữ gìn và phát huy ra sao. Câu 2: Nêu 6 đặc trưng cương lĩnh 1991; nêu nội dung bổ  sung sửa đổi về  đặc trung   CNXH của Đại hội X; Nêu 8 đặc trung của CNXH được ĐH 10 bổ sung và đạ hội XI Phương hướng: cương lĩnh 1991 nêu 7 phương hướng; từ 7 phương hướng sắp xếp bổ  sung thành 8 quá trình; Tại đại hội XI điều chỉnh sắp xếp và bổ sung cho phù hợp trong điều   kiện mới. Câu 3: Trình bày 6 nội dung Câu 4: 1. Khái niệm đạo đức 2. Quan điểm HCM về vị trí đạo đức trong đời sống con  người 3. Quan điểm HCM về  những phẩm chất đạo đức của con người VN 4. Quan điểm  HCM về nguyên tắc XD XH mới Câu 5: 1. Nhập đề  2. Nhận thức về  điều kiện vào đảng 3. Phấn đấu trở  thành đảng   viên 4. Xây dựng động cơ vào đảng 5. Kết luận BÀI LÀM 1/  Đồng chí hãy phân tích những truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt   Nam? Những truyền thống đó đang được Đảng ta giữ gìn và phát huy ra sao ?. Trả lời: Để trả lời câu hỏi này tôi xin được phép đề cập đến một số điểm cơ bản sau: Trước hết phải khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đó là sản phẩm sàng lọc  nghiêm khắc của lịch sử đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp  ở  Việt Nam dưới ánh sáng   của thời đại mới; Là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác­Lênin; Phong trào công nhân và   Phong trào yêu nước  ở  nước ta trong những năm 20 của thế  kỷ  XX. Đây là sự  vận dụng và   phát triển sáng tạo học thuyết Mác­Lênin về sự ra đời của Đảng Cộng sản ở một nước thuộc   địa nửa phong kiến và có truyền thống yêu nước từ ngàn năm.  1
  2. Ngay từ  khi mới thành lập, Đảng đã thật sự  là đội tiên phong lãnh đạo của giai cấp  công nhân và của cả  dân tộc Việt Nam. Sự  kiện Đảng cộng sản Việt Nam được thành lập  chứng tỏ  giai cấp vô sản Việt Nam đã trưởng thành và đủ  sức lãnh đạo cách mạng. Đảng  cộng sản Việt Nam không những là đội tiên phong lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam   mà còn là đại biểu chân chính cho lợi ích của toàn thể dân tộc Việt Nam. Đảng cộng sản Việt   Nam không chỉ mang bản chất giai cấp công nhân mà còn là lực lượng dẫn dắt phong trào dân  tộc chân chính, một Đảng cách mạng vì nước vì dân. Chặng đường vẻ  vang hơn bảy thập kỷ  qua của cách mạng Việt Nam dưới sự  lãnh  đạo của Đảng đã khẳng định: Sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố  quyết   định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân  ta đã đạt được những thành tựu kỳ diệu. Tuy nhiên, Đảng cũng còn có những yếu kém, có lúc  phạm sai lầm, khuyết điểm của mình nhưng đã đề ra những biện pháp sửa chữa đúng đắn, kịp   thời. Đảng đã công khai tự phê bình, nhận khuyết điểm trước nhân dân, quyết tâm sửa chữa và  sửa chữa có kết quả. Vì vậy, Đảng vẫn được nhân dân tin cậy, thừa nhận Đảng là đội tiên  phong chính trị, người lãnh đạo chân chính duy nhất của cả  dân tộc.  Ở  nước ta, ngoài Đảng   Cộng sản không lực lượng nào có thể lãnh đạo cách mạng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng không ngừng tôi luyện và trưởng thành và   đã xây dựng nên nhiều truyền thống quý báu, thể  hiện bản chất tốt đẹp của Đảng ta. Trong   những truyền thống đó nổi bật nhất là 6 truyền thống cơ bản sau: Thứ nhất là; Bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng. Hai là; Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo. Ba là; Kiên định chủ nghĩa Mác­Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững ngọn cờ độc  lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Bốn là; Trung thành với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, phải gắn bó mật thiết với nhân   dân. Năm là; Kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng. Sáu là; Giữ gìn đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc tế… 2/ Nêu và phân tích vấn đề  đã được bổ  sung và phát triển tại Đại hội toàn quốc   lần thứ X của Đảng về  Chủ nghĩa xã hội và phương hướng xây dựng Chủ nghĩa xã hội   ở nước ta? Từ vị trí công tác của mình đồng chí phải làm gì để xây dựng, phát triển đóng   góp vào thành công xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta? Trả lời: Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và những bài học kinh nghiệm được rút ra, Đại hội X đã   bổ sung một số nội dung của Cương lĩnh 1991 như sau: a) Nhận thức về chủ nghĩa xã hội: Đại hội X của Đảng đã bổ sung và xác định xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây   dựng có 8 đặc trưng: Một là, “Xã hội xã hội chủ  nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu,   nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”. 2
  3. Trong Cương lĩnh 1991 chưa nói đến đặc trưng này. Đại hội VIII của Đảng (1996) đã  xác định mục tiêu của cách mạng nước ta là “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn  minh”. Đến Đại hội IX đã bổ  sung thêm từ  “dân chủ”, thành “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội   công bằng, dân chủ, văn minh”. Đại hội X đã xác định đó là một đặt trưng của xã hội xã hội   chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng. Đại hội XI thì có sửa đổi như sau: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là  một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” Hai là “do nhân dân làm chủ”. Cương lĩnh 1991 viết : “do nhân dân lao động làm chủ”. Đại hội X đã điều chỉnh là “do   nhân dân làm chủ”. Nói nhân dân làm chủ vì chúng ta đã khẳng định xây dựng Nhà nước pháp  quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đại đa số  nhân dân là người   lao động. Hơn nữa, trong điều kiện phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và phát huy sức   mạnh của toàn dân tộc, bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, nói nhân dân làm chủ phù hợp với  thực tế hơn, có lợi hơn cho việc thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc. Đại hội XI vẫn giữ nguyên. Ba là, “Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ  sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Trên cơ  sở  xác định  ở  nước ta có 3 chế  độ  sở  hữu cơ  bản ( toàn dân, tập thể  và tư  nhân), nhiều hình thức sở hữu và loại hình sản xuất, kinh doanh, nên quan hệ sở hữu trong xã  hội có sự  đan xen phức tạp. Vì vậy, nói về  quan hệ  sản xuất trong thời kỳ  quá độ  lên chủ  nghĩa xã hội, Đại hội X điều chỉnh bỏ đoạn nói về “chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ  yếu”. Đại hội XI có sửa đổi: “Có nền kinh tế  phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất  hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp?” Bốn là, “Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Đặc trưng này giống như Cương lĩnh 1991. Năm là, “Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống  ấm no, tự  do, hạnh phúc, phát triển toàn diện”. So với Cương lĩnh 1991, Đại hội X có điều chỉnh, bỏ cụm từ “bóc lột”. Xét về bản chất, chế độ ta không phải chế độ bóc lột. Nhưng hiện tượng bóc lột vẫn  còn tồn tại do trình độ sản xuất quy định, và còn có ý nghĩa nhất định trong việc thúc đẩy kinh   tế phát triển. Ngoài ra, trong đặc trưng này, Đại hội X còn sửa chữa cụm từ “có điều kiện phát triển   toàn diện cá nhân” thành “phát triển toàn diện” cho chặt chẽ và chính xác. Đại hội XI sửa đổi: “Con người có cuộc sống  ấm no, tự  do, hạnh phúc, có điều kiện  phát triển toàn diện” Sáu là, “Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp  đỡ nhau cùng tiến bộ”. 3
  4. Đặc trưng này về cơ bản như Cương lĩnh 1991, nhưng có bổ sung thêm cụm từ “tương   trợ”, phù hợp hơn với thực tế phát huy lợi thế phát triển của từng vùng, từng dân tộc. Đại hội XI có sửa đổi: “Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,   tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ” Bảy là, “Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì  nhân  dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản”. Cương lĩnh 1991 chưa nói tới việc xây dựng nhà nước pháp quyền, nhưng theo tư  tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta đã xây dựng nhà nước dân chủ mới và thực hiện quản lý xã hội   bằng pháp luật. Tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1­1994) Đảng ta chính thức  đưa ra khái niệm “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”. Các Đại hội VIII, IX, X   tiếp tục khẳng định quan điểm này. Đại hội XI sửa đổi: “Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân  dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo” Tám là, “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”. Đặc trưng này giống như Cương lĩnh 1991. b) Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội : Cương lĩnh năm 1991 đã nên bảy phương hướng cơ  bản của quá trình xây dựng chủ  nghĩa xã hội. Đại hội X đã sắp xếp lại, điều chỉnh, bổ  sung thành 8 quá trình tất yếu phải  thực hiện ở nước ta. Một là, “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Trong Cương lĩnh năm 1991 chúng ta chưa dùng khái niệm kinh tế  thị  trường định   hướng xã hội chủ nghĩa, mà nói phát triển nền sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, vận hành   theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực  chất, nền kinh tế nước ta đã vận hành theo cơ chế thị trường. Từ  nhận thức rõ hơn, đi tới khẳng định kinh tế  thị  trường là giai đoạn phát triển cao   của sản xuất hàng hóa, là quy luật phát triển chung của nhân loại, đến Đại hội IX chúng ta coi   kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa là mô hình kinh tế  tổng quát trên con đường   xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội X xác định đây là quá trình tất yếu để xây dựng chủ nghĩa   xã hội ở nước ta. Đại hội XI: sửa đổi Một là thành Hai là Hai là, “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Công nghiệp hóa là một quá trình tất yếu khách quan của các nước từ  nền sản xuất  nhỏ, kinh tế kém phát triển. Cương lĩnh 1991 nói công nghiệp hóa theo hướng hiện đại. Từ Đại hội VIII, Đảng ta nói công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa. Đại hội X bổ  sung điều này so với Cương lĩnh 1991. Tại Đại hội XI đã đổi  Hai là  thành  Một là  và bổ  sung như  sau: “ Đẩy mạnh công  nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế  tri thức bảo bệ  tài nguyên và   môi trường” 4
  5. Ba là, “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh  thần của xã hội”. Quan điểm này nhắc lại nội dung Cương lĩnh 1991. Tại ĐH XI có sửa đổi: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nâng  cao đời sống nhân dân thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội” Bốn là, “Xây dựng nền dân chủ  xã hội chủ  nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân   tộc”. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được xác định vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển   kinh tế ­ xã hội. Đại hội X đã xác định: Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai   cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối   chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố  có  ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.   Lấy mục tiên giữ  vững độc lập, thống nhất của Tổ  Quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội  công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để  đoàn kết toàn dân tộc, quy tụ  tất cả  những người Việt Nam yêu nước ở cả trong và ngoài nước. Đại hội XI: đổi thành  Sáu là  và sửa đổi: “Xây dựng nền dân chủ  xã hội chủ  nghĩa,   thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc củng cố và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất” Năm là, “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân  dân,  vì nhân dân”. Đây là nội dung được bổ sung so với Cương lĩnh 1991. Đại hội X chỉ rõ phải xây dựng   cơ  chế  vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ  nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả  quyền lực nhà nước đều thuộc về  nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự  phân  công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đại hội XI: đổi thành Bảy là Sáu là, “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”. Đây là nhiệm vụ hết sức cơ bản và quan trọng, vừa thường xuyên, vừa cấp bách. Đại   hội X nhấn mạnh hơn nhiệm vụ  nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,   khắc phục bằng được tình trạng suy thoái về  tư  tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, tệ  quan   liêu, tham nhũng, lãng phí, vì chúng đang là nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng,  của chế độ. Đại hội XI: đổi thành Tám là Bảy là, “Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia”. Đại hội XI: đổi thành Bốn là và sửa đổi: “Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh   quốc gia trật tự an toàn xã hội” Tám là, “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”. Đại hội X khẳng định: “Qua tổng kết lý luận – thực tiễn 20 năm đổi mới, chúng ta   càng thấy rõ giá trị định hướng và chỉ đạo to lớn của  Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời  kỳ  quá độ  lên chủ  nghĩa xã hội (năm 1991), đồng thời cũng thấy rõ thêm những vấn đề  mới  đặt ra cần được giải đáp. Sau Đại hội X, Đảng ta cần tiếp tục nghiên cứu, bổ  sung và phát  5
  6. triển Cương lĩnh, làm nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và  nhân dân ta trong quá trình đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội”. Đại hội XI: đổi thành  Năm   là  và sửa đổi Thực hiện đường lối độc lập tự  chủ  hòa   bình, hợp tác và phát triển chủ động tích cực hội nhập quốc tế. Các MQH cần giữ vững 1. QH đổi mới và ổn định phát triển 2. Quan hệ giữa đổi mới KT với chính trị 3. Giữa PT LLSX và xây dựng hoàn thiện từng bước XD XHCN 4. Gữa tăng trưởng kinh tế và PT văn hóa thực hiện tiến bộ công bằng xã hội 5. QH giữa XD CNXH với bảo vệ tổ quốc XHCN  6. Giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế 7. Giữa đảng LĐ nhà nước quản lý nhân dân làm chủ .. không phiến diện, cực đoan,  duy ý chí. Thế  hệ  trẻ  Việt Nam nói chung và bản thân tôi nói riêng, thấy rất tự  hào khi   phấn đấu để được đứng vào hàng ngũ của Đảng và thấy rõ đó là một trọng trách, một   nhiệm vụ cao cả và cũng đầy vinh quang xong cũng đầy thử  thách, Với lòng quyết tâm  và bầu nhiệt huyết của mình và mong muốn được đứng vào hàng ngũ của Đảng để  đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng đất nước.  Chính vì vậy trong quá trình phấn đấu để  trở  thành Đảng viên tôi đã đề  ra cho  mình phương hướng rèn luyện, luôn luôn phấn đấu vươn lên về mọi mặt. Là một viên  chức lao động ………………... 3./ Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung, dân chủ. Nội dung   cơ bản của nguyên tắc đó được quy định ra sao ?   Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung cơ bản   của nguyên tắc đó là :  1. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá   nhân phụ trách.  2. Cơ  quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ  quan lãnh  đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh   đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung  ương,  ở  mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ  (gọi tắt là cấp uỷ).  3. Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về  hoạt động của mình trước đại hội   cùng cấp, trước cấp uỷ cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình  đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình. 4. Tổ  chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị  quyết của Đảng. Thiểu số  phục   tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ  chức, các tổ  chức trong toàn  Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương. 6
  7. 5. Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một   nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát  biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo   lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh   nghị  quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị  quyết của Đảng. Cấp uỷ  có thẩm  quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về  thiểu số.  6. Tổ  chức đảng quyết định các vấn đề  thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song  không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và  nghị quyết của cấp trên. ++++ 4./ Trình bày nội dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh ?            Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta một di sản vô giá, đó là tư tưởng của  Người, trong đó có tư tưởng về đạo đức. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương  sáng ngời về đạo đức. Người để lại rất nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết chuyên về đạo đức.  Ngay trong tác phẩm lý luận đầu tiên Người viết để huấn luyện những người yêu nước Việt  Nam trẻ tuổi, cuốn Đường Kách mệnh, vấn đề đầu tiên Người đề cập là tư cách người cách  mệnh. Tác phẩm sau cùng bàn sâu về vấn đề đạo đức được Người viết nhân dịp kỷ niệm 39  năm ngày thành lập Đảng (3­2­1969), đăng trên báo Nhân dân là bài Nâng cao đạo đức cách  mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Trong Di chúc thiêng liêng, khi nói về Đảng, Bác cũng căn  dặn Đảng phải rất coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên.            Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt  Nam đã được hình thành, phát triển trong suốt quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước; là  sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác ­ Lênin.  Đó là sự tiếp thu có chọn lọc và phát triển những tinh hoa văn hóa, đạo đức của nhân loại, cả  phương Đông và phương Tây, mà Người đã tiếp thu được trong quá trình hoạt động cách  mạng đầy gian lao, thử thách và vô cùng phong phú vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng  giai cấp, giải phóng con người.           Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm cơ bản và toàn diện về  đạo đức, bao gồm: vị trí, vai trò, nội dung của đạo đức; những phẩm chất đạo đức cơ bản và  những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới; yêu cầu rèn luyện đạo đức với mỗi người cách  mạng.           1. Về vị trí, vai trò của đạo đức trong xã hội và trong đời sống của mỗi người.           ­ Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức là gốc của người cách mạng. Trong  tác phẩm  Đường Kách mệnh, Người đã nêu lên 23 điểm thuộc “tư  cách một người cách  mệnh”, trong đó chủ yếu là các tiêu chuẩn về đạo đức, thể hiện chủ yếu trong 3 mối quan hệ:   với mình, với người và với việc. Người viết: “Làm cách mạng để  cải tạo xã hội cũ thành xã   hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc   đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa.   Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ  cách mạng vẻ vang”.           ­ Với mỗi người, Hồ Chí Minh ví đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người,  như  gốc của cây, như  ngọn nguồn của sông suối. Người viết: “Cũng như  sông thì có nguồn  7
  8. mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người   cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được  nhân dân”.            Theo Hồ  Chí Minh, đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng trong mọi thử  thách. Người viết : “có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại không rụt rè,   lùi bước”; “khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ  vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm  tốn”, mới “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; “lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn   cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”.            ­ Với yêu cầu đó, Hồ Chí Minh nêu ra năm điểm đạo đức mà người đảng viên phải giữ  gìn cho đúng, đó là:            + Tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân.           + Ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng.            + Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng quyết tâm chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác,  sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu.            + Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết.            + Hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe   ý kiến của quần chúng.             ­ Đối với Đảng, tổ  chức tiền phong chiến đấu của giai cấp công nhân, nhân dân lao   động và của cả  dân tộc Việt Nam, Hồ  Chí Minh yêu cầu phải xây dựng Đảng ta thật trong   sạch, Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”. Người thường nhắc lại ý của V. I. Lênin: Đảng  Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại.           ­ Vấn đề  đạo đức được Hồ  Chí Minh đề  cập một cách toàn diện. Người nêu yêu cầu  đạo đức đối với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội, trên mọi lĩnh vực hoạt động, trong   mọi phạm vi, từ gia đình đến xã hội, trong cả  ba mối quan hệ của con người: đối với mình,   đối với người, đối với việc. Tư  tưởng Hồ  Chí Minh đặc biệt được mở  rộng trong lĩnh vực   đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhất là khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền. Trong bản Di  chúc bất hủ, Người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ  phải   thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”.            2. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới  theo tư tưởng Hồ Chí Minh            a. Trung với nước, hiếu với dân  Trung, hiếu là đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam và phương Đông, được Chủ  tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển trong điều kiện mới.            ­ Trung với nước là trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước, giữ nước, phát triển  đất nước, làm cho đất nước “sánh vai với cường quốc năm châu". Nước là của dân, dân là chủ  đất nước, trung với nước là trung với dân, vì lợi ích của nhân dân, “bao nhiêu quyền hạn đều  của dân”; “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”...    ­ Hiếu với dân nghĩa là cán bộ  đảng, cán bộ  nhà nước “vừa là người lãnh đạo, vừa là   đầy tớ trung thành của dân”.  8
  9.   ­ Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách mạng. Người  dạy, đối với mỗi cán bộ đảng viên, phải “tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân”, và  hơn nữa, phải “tận trung với nước, tận hiếu với dân”.            ­ Trung với nước, hiếu với dân là phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào dân, lấy dân  làm gốc. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân  trí, làm cho dân hiểu rõ nghĩa vụ và quyền lợi của người làm chủ đất nước.    Tư  tưởng Hồ  Chí Minh về  trung với nước, hiếu với dân thể  hiện quan điểm của   Người về mối quan hệ và nghĩa vụ của mỗi cá nhân với cộng đồng, đất nước. b. Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình    Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền thống   nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ  nghĩa nhân văn của nhân loại, chủ  nghĩa nhân đạo  cộng sản. Hồ  Chí Minh coi yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Yêu   thương con người thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân trong quan hệ xã hội.    ­ Tình yêu thương con người thể hiện trước hết là tình thương yêu với đại đa số nhân   dân, những người lao động bình thường trong xã hội, những người nghèo khổ, bị áp bức, bóc  lột. Yêu thương con người phải làm mọi việc để phát huy sức mạnh của mỗi người, đoàn kết  để phấn đấu cho đạt được mục tiêu “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.    ­ Thương yêu con người phải tin vào con người. Với mình thì chặt chẽ, nghiêm khắc;   với người thì khoan dung, độ lượng, rộng rãi, nâng con người lên, kể cả với những người lầm   đường, lạc lối, mắc sai lầm, khuyết điểm.    ­ Yêu thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, tốt đẹp hơn. Vì vậy,  phải thực hiện phê bình, tự phê bình chân thành, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu   điểm để không ngừng tiến bộ.    ­ Yêu thương con người phải biết và dám dấn thân để đấu tranh giải phóng con người.   Đối với những người cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: học tập chủ  nghĩa Mác ­   Lênin để  thương yêu nhau hơn. Người viết: "Hiểu chủ  nghĩa Mác ­ Lênin là phải sống với   nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là  hiểu chủ nghĩa Mác ­ Lênin được".    c. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư    Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư  là nền tảng của đời sống mới, là phẩm chất   trung tâm của đạo đức cách mạng trong tư  tưởng đạo đức của Hồ  Chí Minh, là mối quan hệ  “với tự mình”.    ­ Hồ  Chí Minh quan niệm cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính của con người, như  trời có bốn mùa, đất có bốn phương và Người giải thích cặn kẽ, cụ  thể  nội dung từng khái  niệm.    + Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế  hoạch, sáng tạo, có năng suất  cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ  lại, không dựa dẫm.   Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ  thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mỗi   chúng ta”.  9
  10.   + Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của nước,   của bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa   bãi, không phô trương, hình thức...”.    Cần, kiệm là phẩm chất của mọi người lao động trong đời sống, trong công tác.     + Liêm là trong sạch, là “luôn tôn trọng, giữ  gìn của công và của dân”, “không xâm  phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”; “không tham địa vị, không tham   tiền tài..., không tham tâng bốc mình...”.    + Chính là ngay thẳng, không tà, là đúng đắn, chính trực. Đối với mình không tự cao, tự  đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân  thành, khiêm tốn, đoàn kết. Đối với việc thì để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.  Được giao nhiệm vụ gì quyết làm cho kỳ được, “việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm; việc ác thì  dù nhỏ mấy cũng tránh”.            Liêm, chính là phẩm chất của người cán bộ khi thi hành công vụ.    ­ Chí công là rất mực công bằng, công tâm; vô tư là không được có lòng riêng, thiên tư,  thiên vị "tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư oán", đem lòng chí công, vô tư đối với người, với việc.   “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”,  “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Muốn "chí công, vô tư" phải chiến thắng được chủ nghĩa   cá nhân.     Đây là chuẩn mực của người lãnh đạo, người "giữ  cán cân công lý", không được vì  lòng riêng mà chà đạp lên pháp luật.    ­ Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ  chặt chẽ  với nhau và với chí công, vô tư. Cần,   kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công, vô tư. Ngược lại, đã chí công vô tư, một lòng vì nước,   vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính.    d. Tinh thần quốc tế trong sáng    Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là sự mở rộng những quan niệm   đạo đức nhân đạo, nhân văn của Người ra phạm vi toàn nhân loại, vì Người là “người Việt   Nam nhất” đồng thời là nhà văn hóa kiệt xuất của thế  giới, anh hùng giải phóng dân tộc,  chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế. Quan niệm đạo đức về  tình đoàn kết quốc tế  trong sáng của Hồ  Chí Minh thể  hiện   trong các điểm sau:    ­ Đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu chung đấu tranh giải phóng con   người khỏi ách áp bức, bóc lột.     ­ Đoàn kết quốc tế  giữa những người vô sản toàn thế  giới vì một mục tiêu chung,   “bốn phương vô sản đều là anh em”.  ­ Đoàn kết với nhân loại tiến bộ vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội.   ­ Đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước chân chính  sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa sô vanh, vị  kỷ, hẹp hòi, kỳ thị dân tộc...  Câu 5: Đồng chí cần làm gì và phấn đấu như thế nào để trở thành đảng viên ? Vì sao   vấn đề xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn được đặt lên hàng đầu và có ý nghĩa quyết định   10
  11. đối với một đảng viên ? Điều lệ Đảng quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền của đảng viên   như thế nào?. Trả  lời: Đối với mỗi cá nhân muốn trở  thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam   cần phải tự  mình trả  lời những câu hỏi: Tại sao ta vào Đảng ? Vào Đảng để  làm gì ?, Mục   tiêu lý tưởng của Đảng ta là gì ?. a/Nhập đề: Chép định phần Đảng cộng sản … trong sách trang 111 b/ Điều kiện xét kết nạp: Tóm tắt các ý trong sách. Lúc sinh thời Bác Hồ  đã dạy:  “Vì sao chúng ta vào Đảng ? Phải chăng để  thăng   quan, phát tài ? Không phải !... Chúng ta vào Đảng là để hết lòng, hết sức phục vụ giai   cấp, phục vụ  nhân dân, làm trọn nhiệm vụ  của người đảng viên”. Cũng trong Di chúc  của mình, Người viết  “... Mỗi đảng viên và cán bộ  phải thật sự  thấm nhuần đạo đức  cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong   sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ  thật trung thành của nhân   dân...”. Những người muốn vào Đảng phải xây dựng cho mình được động cơ  đúng đắn bởi  nó có ý nghĩa quyết định đối với việc phấn đấu trở  thành đảng viên, nó sẽ  là động lực lớn   thúc đẩy mọi hành động, việc làm của chúng ta sau này.  c/ Phấn đấu trở thành đảng viên: Để  trở  thành một đảng viên mỗi chúng ta cần thực hiện tốt những nhiệm vụ cơ bản   sau: Một là, không ngừng rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng. Bản   lĩnh chính trị được thể hiện ở tính kiên định mục tiêu, lý tưởng đã lựa chọn trong bất kỳ tình   huống khó khăn nào cũng không dao động, giảm sút niềm tin và ý chí chiến đấu, trung thành   với lợi ích của Đảng, với lợi ích của nhân dân lao động và của dân tộc, suốt đời tận tâm trung  thành phục vụ cho Tổ quốc, phục vụ nhân dân, thấy sai phải biết phê phán... Trong bất kỳ tình  huống khó khăn nào cũng không dao động giảm sút niềm tin và ý chí chiến đấu. Khí tiết của  người cách mạng là “giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không   thể khuất phục”. Đây chính là nét nổi bật của người đảng viên. Hai là, Không ngừng nâng cao năng lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ  được giao, thường   xuyên trau dồi đạo đức cách mạng. Là một người đảng viên chân chính, mẫu mực không chỉ  hoàn thành nhiệm vụ mà phải gương mẫu hoàn thành tốt, đảm bảo chất lượng công việc cũng   như đem lại hiệu quả cao. Để làm được điều đó đòi hỏi người đảng viên không chỉ nâng cao   về năng lực mà còn cả năng lực về trí tuệ và năng lực thực tiễn, không ngừng học hỏi trau dồi   để đủ kiến thức đáp ứng yêu cầu của cuộc sống.  Ba là, người đảng viên phải gắn bó với tập thể, với nhân dân, tích cực tham gia hoạt   động đoàn thể  cũng như các công tác xã hội. Điều đó được thể  hiện ở  ngay chính nơi ở, nơi   làm việc cũng như các mối quan hệ với các quần chúng khác, biết lắng nghe, hiểu được tâm   tư nguyện vọng của quần chúng, biết chăm lo đến lợi ích, phát huy quyền làm chủ  của nhân  dân. Vận động nhân dân sống và làm việc theo đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật   của Nhà nước. Những hoạt động chính là cơ  hội tốt giúp cho chúng ta tiến bộ, trưởng thành  về  chính trị, tạo dựng sự  tín nhiệm của nhân dân tạo đà cho mỗi quần chúng phấn đấu trở  thành đảng viên. 11
  12. Bốn là, tích cực tham gia xây dựng Đảng cơ  sở. Để  được đứng trong hàng ngũ của  Đảng chúng ta không những tự  giác thừa nhận, tôn trọng sự  lãnh đạo của Đảng mà còn cần   tích cực tham gia xây dựng Đảng, giúp Đảng phát hiện những quần chúng mất tư  cách đạo   đức, phát hiện những đảng viên tha hoá về đạo đức, lối sống, chống tham nhũng trong Đảng...  Năm là, mỗi người chúng ta không ngừng đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp   luật, đi ngược với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, vận động quần chúng nhân   dân sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, tích cực góp phần xây dựng sự nghiệp công   nghiệp hoá ­ hiện đại hoá, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn  minh... Động cơ  thôi thúc chúng ta phấn đấu vào Đảng là để  đứng trong một tổ  chức tự  nguyện của những người cùng chung một chí hướng đấu tranh xây dựng một xã hội mới tốt   đẹp dân giàu, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên CNXH. Mỗi người   chúng ta nguyện phấn đấu vào Đảng chính là tự  nguyện dấn thân theo lý tưởng cách mạng,  chấp nhận hy sinh, không sợ khó, sợ khổ, quyết tâm theo đuổi đến cùng con đường dẫn đến   mục tiêu CNXH. Mỗi đảng viên phải hiểu rõ cơ  hội lớn của công cuộc đổi mới hiện nay, ra   sức nắm bắt để vận dụng vào nhiệm vụ của mình; phải tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ  Đảng, bảo vệ  đường lối, chủ  trương, chính sách, nghị  quyết của Đảng và Nhà nước, chống  lại sự  phá hoại của kẻ  thù. Thực hiện nghiêm túc tự  phê bình và phê bình trong sinh hoạt  Đảng, bảo đảm toàn thể thống nhất trong nội bộ làm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh,  tích cực làm công tác phát triển đảng viên mới.  Cái được lớn nhất khi vào Đảng là có cơ hội được phục vụ cách mạng, phục vụ nhân   dân trong cuộc đấu tranh cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Động cơ vào Đảng đúng đắn là điều kiện có ý nghĩa tiên quyết quyết định. Bởi, chỉ có  động cơ đúng đắn mới có thể đáp ứng được những yêu cầu của Đảng và Đảng cũng chỉ  kết   nạp những người giác ngộ về mục đích, lý tưởng cách mạng, quyết không thu nhận vào hàng  ngũ mình những người có động cơ thiếu trong sáng, lệch lạc, càng không để  cho các phần tử  cơ  hội lọt vào Đảng. Để  có động cơ  vào Đảng đúng đắn chúng ta ta cần hiểu sâu sắc bản   chất, mục đích của Đảng bằng chính việc làm hàng ngày của mình, đặt lợi ích tập thể lên trên   lợi ích cá nhân góp phần thực hiện có hiệu quả  mục tiêu, nhiệm vụ  do Đảng đề  ra, thường   xuyên trau dồi đạo đức cách mạng, đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện của chủ  nghĩa cá  nhân, kiêu căng, thực dụng, vụ lợi, xa lạ với bản chất của người chiến sĩ cách mạng. Lúc sinh  thời Bác Hồ đã căn dặn “... Nếu không phục vụ được nhân dân, phục vụ được cách mạng  thì đừng vào Đảng. Bởi Đảng là tổ chức cách mạng có sứ mệnh cao cả đoàn kết và lãnh  đạo nhân dân đấu tranh cho độc lập và chủ nghĩa xã hội chứ  không phải là nơi để  tìm   kiếm danh vọng, địa vị, thu hái lợi lộc...” . Độc lập dân tộc và chủ  nghĩa xã hội chính là   niềm tin, lẽ sống, là động lực tinh thần to lớn của mỗi chúng ta.  12
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2