Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng bao bì trong hoạt động kinh doanh ở các doanh nghiệp thương mại nhà nước (lấy ví dụ ở địa bàn Hà Nội)
lượt xem 7
download
1.Tính cấp thiết của luận án Bao bì là một trong những yếu tố quan trọng của sản phẩm. Nó xác định khả năng bán/tiêu thụ sản phẩm trên thị trờng, nhng bản thân nó không phải là sản phẩm mà ngời tiêu dùng cần mua để thoả mãn nhu cầu vật chất của họ.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng bao bì trong hoạt động kinh doanh ở các doanh nghiệp thương mại nhà nước (lấy ví dụ ở địa bàn Hà Nội)
- Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng bao bì trong hoạt động kinh doanh ở các doanh nghiệp thương mại nhà nước (lấy ví dụ ở địa bàn Hà Nội) PHẦN MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thi ết của luận án Bao bì là một trong những yếu tố quan trọng của sản phẩm. Nó xác định khả năng bán/tiêu thụ sản phẩm trên thị trờng, nhng bản thân nó không phải là sản phẩm mà ngời tiêu dùng cần mua để thoả mãn nhu cầu vật chất của họ. Từ xa xa, ngời ta đã sử dụng bao bì, nhng chủ yếu với mục đích để chứa đựng, vận chuyển sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Sử dụng bao bì để bảo quản sản phẩm, để tiêu thụ/bán sản phẩm không phải là mục đích cơ bản khi nền kinh tế hàng hoá kém phát triển. Trong điều kiện nền kinh tế phát triển, lu thông hàng hoá ngày càng mở rộng, việc hình thành các đơn vị kinh doanh thơng mại tách khỏi hệ thống tiêu thụ của các doanh nghiệp sản xuất thì vấn đề bao bì trở nên quan trọng hơn đối với cả ngời sản xuất, ngời kinh doanh và ngời tiêu dùng. Mối quan hệ giữa một sản phẩm và bao bì của nó là mối quan hệ phụ thuộc chặt chẽ với nhau. Một sản phẩm có chất lợng tốt còn cần phải có bao bì đẹp, thích hợp, hấp dẫn… mới có thể bán đợc trên thị trờng. Bao bì mang lại cho hàng hoá sức cạnh tranh mới và thúc đẩy quá trình kinh doanh hàng hoá. Trong nhiều năm qua, bao bì sản phẩm ở nớc ta cha đợc quan tâm đúng mức, cha đợc nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của nó đối với quá trình phát triển kinh tế nói chung và hiệu quả kinh doanh của mỗi đơn vị kinh tế nói riêng. Việc sản xuất, sử dụng bao bì còn nhiều bất cập gây ra nhiều hậu quả đối với sự phát triển kinh tế, hiệu quả kinh doanh và vấn đề môi trờng sinh thái. Hệ thống lý luận về bao bì, quản lý bao bì và sử dụng bao bì cha đợc hoàn thiện, còn chắp vá. Trong các doanh nghiệp thơng mại, việc sử dụng bao bì còn phụ thuộc nhiều vào ngành sản xuất hàng hoá, cha chủ động khai thác tiềm năng của bao bì để nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là trong các doanh nghiệp thơng mại nhà nớc. Thực trạng trên đặt ra vấn đề cần có
- sự nghiên cứu, hệ thống hoá các cơ sở lý luận và thực tiễn về bao bì và sử dụng bao bì trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thơng mại, trớc hết là doanh nghiệp thơng mại nhà nớc để phát huy vai trò của bao bì, nâng cao hiệu quả sử dụng bao bì trong hoạt động kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, việc lựa chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng bao bì trong hoạt động kinh doanh ở các doanh nghiệp thơng mại nhà nớc (lấy ví dụ ở địa bàn Hà Nội)” làm luận án có ý nghĩa cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn. Mong muốn của tác giả luận án là góp phần nhỏ bé vào việc tìm ra những giải pháp chủ yếu làm cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả sử dụng bao bì trong hoạt động kinh doanh ở các doanh nghiệp thơng mại nói chung và các doanh nghiệp thơng mại nhà nớc nói riêng. 2. Mục đích nghiên cứu của luận án ã Làm rõ sự cần thiết của bao bì và sử dụng bao bì trong kinh doanh thơng mại nói chung và ở các doanh nghiệp thơng mại nhà nớc nói riêng. ã Nghiên cứu tình hình sử dụng bao bì và ảnh hởng tích cực của việc sử dụng đúng đắn, hợp lý bao bì đối với sự phát triển nền kinh tế và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp thơng mại nhà nớc. ã Đề ra các giải pháp chủ yếu để nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng bao bì ở các doanh nghiệp thơng mại nhà nớc, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp và bảo vệ môi trờng sinh thái. 3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu của luận án ã Đối tợng nghiên cứu của luận án là hiệu quả sử dụng bao bì trong kinh doanh thơng mại. ã Phạm vi nghiên cứu của luận án: Bao bì ở các doanh nghiệp thơng mại nhà nớc trên địa bàn Hà Nội từ năm 1991 đến nay. 4. Phơng pháp nghiên cứu ã Phơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. ã Phơng pháp so sánh, phân tích hệ thống, điều tra, thống kê kết hợp với khảo sát, sử dụng chuyên gia. ã Vận dụng các chính sách, đờng lối của Đảng, Nhà nớc trong lĩnh vực kinh doanh, trong từng thời kỳ một cách có hệ thống. 5. Điểm mới của luận án ã Đã tổng hợp và làm rõ đợc những vấn đề lý luận về bao bì, hiệu quả sử dụng bao bì trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thơng mại; nghiên cứu các đặc điểm hoạt động của các doanh nghiệp thơng mại nhà nớc và các yêu cầu đặt ra trong việc sử dụng bao bì có hiệu quả. ã Khái quát và phân tích đợc hiệu quả sử dụng bao bì hiện nay, ảnh hởng của việc sử dụng bao bì đến sự phát triển kinh doanh hàng hoá, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và bảo vệ môi trờng sinh thái.
- ã Đề xuất một số giải pháp có tính hệ thống để nâng cao hiệu quả sử dụng bao bì trong hoạt động kinh doanh ở các doanh nghiệp thơng mại nhà nớc. 6. Nội dung và cơ cấu luận án a. Tên luận án: “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng bao bì trong hoạt động kinh doanh ở các doanh nghiệp thơng mại nhà nớc (lấy ví dụ ở địa bàn Hà Nội)”. b. Cơ cấu luận án: Ngoài phần mở đầu, kết luận, các biểu bảng, phụ lục và các tài liệu tham khảo, luận án gồm 3 chơng: Chơng 1: Bao bì và hiệu quả sử dụng bao bì trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thơng mại. Chơng 2: Thực trạng hiệu quả sử dụng bao bì trong hoạt động kinh doanh ở các doanh nghiệp thơng mại nhà nớc. Chơng 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng bao bì trong hoạt động kinh doanh ở các doanh nghiệp thơng mại nhà nớc. CHƠNG 1 BAO BÌ VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG BAO BÌ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH Ở CÁC DOANH NGHIỆP THƠNG MẠI 1.1. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thơng mại và sự cần thiết phải sử dụng có hiệu quả bao bì trong kinh doanh thơng mại 1.1.1. Kinh doanh thơng mại và những cơ sở của kinh doanh thơng mại Nền kinh tế nớc ta là một tổng thể kinh tế quốc dân thống nhất. Nó bao gồm nhiều ngành và mỗi ngành thực hiện một chức năng nhất định. Kinh doanh thơng mại là một ngành kinh tế, một lĩnh vực hoạt động kinh tế, là một mắt xích quan trọng trong hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất. 1.1.1.1. Thơng mại và Kinh doanh thơng mại [8] [10] Chúng ta đều biết rằng để tồn tại và phát triển, mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi tổ chức (kinh tế, văn hoá, xã hội...) hay một quốc gia đều luôn có và phải thoả mãn các nhu cầu vô cùng đa dạng, phong phú, phức tạp của mình. Cách thức để thoả mãn những nhu cầu đó có thể thực hiện đợc bằng cách tự mình sản xuất, lao động ra những sản phẩm vật chất - tinh thần để tự đáp ứng cho mình. Nhng với những nhu cầu đa dạng, phức tạp, cách thức đáp ứng này không đảm bảo về số lợng, chất lợng ngày càng cao của mỗi thành viên cũng nh toàn xã hội. Khi sự phân công lao động xã hội xuất hiện, mỗi thành viên, mỗi tổ chức chuyên môn hóa một lĩnh vực hoạt động tạo ra nhiều loại sản phẩm hơn, khối lợng lớn hơn cho phép việc thoả mãn các nhu cầu một cách tốt hơn. Khi đó, mỗi ngời, mỗi tổ
- chức, quốc gia có thể thoả mãn nhu cầu của mình bằng cách trao đổi các kết quả hoạt động cho nhau. Tuy nhiên, khi sự phân công lao động ngày càng sâu sắc thì các dạng kết quả của hoạt động thể hiện ngày càng đa dạng phong phú. Kết quả hoạt động của các thành viên có thể đợc biểu hiện ở dạng vật chất cụ thể nh xi măng, sắt thép, bánh kẹo, máy móc thiết bị... hoặc dới các dạng một kết quả nghiên cứu, một quyết định quản lý, một lời khuyên (t vấn) hoặc một văn bản pháp lý... Ở đây, để khái quát kết quả hoạt động đó chúng ta dùng chung khái niệm “sản phẩm”. Với một dạng “sản phẩm” có những đặc trng riêng về mục đích sử dụng, đối tợng tiêu thụ, tính chất kỹ thuật... do đó cách thức trao đổi cũng khác nhau: ã Cho không: là việc cung cấp các sản phẩm cho các thành viên để đáp ứng nhu cầu của họ mà không đòi hỏi bất kỳ sự hoàn trả nào, chẳng hạn nh các hoạt động viện trợ nhân đạo, quà tặng, trợ cấp xã hội, phúc lợi xã hội... ã Cung ứng cho các lợi ích xã hội: Đây là dạng cung cấp sản phẩm với mục đích thoả mãn các nhu cầu công cộng, mang tích chất xã hội. Với hình thức này tất cả các thành viên trong xã hội đều phải có trách nhiệm đóng góp để “thanh toán” chi trả cho những nhu cầu đó nh các nhu cầu quốc phòng an ninh, công tác quản lý xã hội, các sản phẩm hàng hóa công cộng. ã Trao đổi sản phẩm thông qua mua bán hàng hóa trên thị trờng: Hình thức trao đổi này là phổ biến nhất. Với hình thức trao đổi này, các sản phẩm hàng hóa trong xã hội đều đợc trao đổi thông qua hành vi mua - bán bằng đồng tiền đợc diễn ra trong không gian và thời gian nhất định (thị trờng). Hình thức trao đổi đó là thơng mại. Thơng mại có thể đợc hiểu theo nhiều cách khác nhau: + Thơng mại là sự trao đổi hàng hóa thông qua mua - bán bằng đồng tiền trong nền kinh tế. Nh vậy, ở đâu có mua bán, ở đó có thơng mại. Thơng mại đồng nghĩa với mua bán. + Thơng mại cũng đợc hiểu là một hành vi làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa những ngời mua và ngời bán để thoả mãn nhu cầu của mỗi ngời. + Thơng mại có thể là một hoạt động. Hoạt động thơng mại bao gồm một số khâu hoặc tất cả các khâu của hành vi thơng mại, có thể do một cá nhân hoặc một tổ chức hoặc toàn xã hội thực hiện. Nhìn chung có nhiều cách hiểu khác nhau về thơng mại song có thể khái quát thơng mại dới các góc độ khác nhau: Thơng mại, hiểu theo nghĩa hẹp, là “quá trình mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trờng, là lĩnh vực phân phối và lu thông hàng hóa”. Hành vi thơng mại thể hiện ở nhiều dạng khác nhau. Theo Luật Thơng mại, các hình vi thơng mại bao gồm: mua bán hàng hóa, đại diện cho thơng nhân; môi giới thơng mại, uỷ thác mua bán hàng hóa, đại lý mua bán hàng hoá, gia công thơng mại, đấu giá hàng hóa, đấu thầu hàng hóa, dịch vụ giám định
- hàng hóa, khuyến mại, quảng cáo thơng mại, trng bày giới thiệu hàng hóa và hội chợ triển lãm thơng mại. Theo nghĩa rộng, thơng mại là “toàn bộ các hoạt động kinh doanh trên thị trờng”. Thơng mại đợc hiểu nh các hoạt động kinh tế nhằm mục tiêu lợi nhuận của các chủ thể tham gia kinh doanh trên thị trờng. ở góc độ này, thơng mại đồng nghĩa với kinh doanh. Cách hiểu này trùng hợp với cách hiểu của các nớc nh Anh, Pháp, Nga. Theo từ điển Nga- Việt, xuất bản 1977 thì TẻéÃẻBLò đợc hiểu là nền (ngành, nghề, việc, sự) thơng nghiệp, thơng mại, buôn bán, mua bán mậu dịch [24, tr 452]. Kinh doanh thơng mại [12, 39] Nền kinh tế ngày càng phát triển, hoạt động trao đổi mua bán hàng hóa ngày càng sâu rộng với quy mô, cơ cấu ngày càng lớn, đa dạng, phong phú làm xuất hiện lĩnh vực kinh doanh mới - kinh doanh thơng mại. Kinh doanh thơng mại đợc hiểu là sự đầu t tiền của, công sức của cá nhân, một tổ chức vào việc mua, bán hàng hóa nhằm thu lợi nhuận. Nói đến kinh doanh thơng mại là nói đến hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực lu thông hàng hóa. Chủ thể kinh doanh (cá nhân, tổ chức) có thể đầu t một phần, đa số hoặc toàn bộ nguồn lực của mình để thực hiện một, một số hoặc toàn bộ các hành vi thơng mại, buôn bán. Dù biểu hiện dới hình thức nào thì kinh doanh thơng mại đòi hỏi các yêu cầu sau: - Phải có vốn kinh doanh. Vốn kinh doanh là toàn bộ tài sản (thể hiện bằng tiền) mà các chủ thể huy động vào hoạt động của mình. Đó là các khoản vốn bằng tiền và các tài sản khác nh nhà xởng, kho tàng, cửa hàng... Tuỳ thuộc vào thành phần kinh tế tham gia kinh doanh mà nguồn vốn sẽ đợc hình thành theo các phơng thức khác nhau, có thể do nhà nớc cấp, do tự đóng góp vốn, do liên doanh, do tích luỹ, do vay dới các hình thức khác nhau. Có vốn mới thực hiện đợc chức năng lu thông hàng hóa, thực hiện đợc mua để bán các sản phẩm hàng hoá trên thị trờng. - Thực hiện mua - bán hàng hoá. Ở đây, "các đơn vị kinh doanh thơng mại không phải mua hàng hóa để thoả mãn nhu cầu của mình mà “mua hàng hóa để bán lại” cho ngời khác, đáp ứng các nhu cầu của họ. Việc mua để bán này đợc thực hiện với nhiều hình thức khác nhau phù hợp với điều kiện kinh doanh cụ thể của mỗi đơn vị và chức năng của các đơn vị kinh doanh thơng mại. Hay nói một cách khác, kinh doanh thơng mại phải thực hiện việc buôn bán hàng hóa phù hợp với điều kiện môi trờng kinh doanh của mỗi đơn vị. - Kinh doanh thơng mại sau mỗi chu kỳ kinh doanh phải đảm bảo bảo toàn đợc vốn kinh doanh và có lợi nhuận (lãi). Việc đảm bảo vốn kinh doanh cho doanh nghiệp là yêu cầu bắt buộc để thực hiện tái kinh doanh, nhng mới chỉ ở mức độ giản đơn. Trong điều kiện kinh tế thị trờng, để tăng trởng, phát triển, để thực hiện mục tiêu an toàn và có vị thế trong cạnh tranh, kinh doanh phải có lãi. Lợi nhuận doanh nghiệp là nguồn vốn quan trọng để tích luỹ, tái kinh doanh mở rộng. Theo quy luật của kinh doanh hàng hóa, lợi nhuận của
- chu kỳ kinh doanh sau bao giờ cũng phải lớn hơn lợi nhuận kỳ trớc. Công thức lu chuyển T- H- T’ (trong đó T’= T + DT) mới thực sự là yêu cầu, là động lực cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghịêp. Lợi nhuận trong kinh doanh thơng mại đợc thực hiện trực tiếp từ hành vi mua - bán. 1.1.1.2. Cơ sở của kinh doanh thơng mại [7] Kinh doanh thơng mại hình thành bắt nguồn từ phân công lao động xã hội và chế độ chiếm hữu t nhân về t liệu sản xuất (TLSX) - cơ sở của sản xuất hàng hóa. Xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân, quá trình tái sản xuất xã hội bao gồm: sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng. Sản xuất là khâu khởi đầu, tiêu dùng là khâu kết thúc, phân phối và trao đổi là khâu trung gian. Phân công lao động xã hội là quá trình chuyên môn hóa ngời sản xuất. Mỗi “ngời” chỉ chuyên sản xuất một hay một số sản phẩm thậm chí chỉ sản xuất một bộ phận (chi tiết) của sản phẩm. Để thoả mãn nhu cầu đa dạng, phong phú của mỗi thành viên nên họ phải trao đổi sản phẩm cho nhau, tức là sự chuyên môn hóa sản xuất gây ra sự cách biệt về mặt không gian, thời gian giữa những ngời sản xuất cá biệt và để thoả mãn nhu cầu của đời sống, sản xuất kinh doanh đòi hỏi phải có sự trao đổi giữa những ngời sản xuất với nhau. Xét trên phạm vi xã hội, sản xuất đồng nghĩa với tiêu dùng. Muốn sản xuất ra sản phẩm này, phải tiêu dùng, sử dụng loại sản phẩm khác mà bản thân họ không tự chế tạo ra đợc. Nhờ sự trao đổi này mà sản phẩm trở thành hàng hoá trên thị trờng, trong xã hội tồn tại sản xuất và lu thông hàng hóa. V.I. Lênin đã chỉ ra rằng “Nên hiểu sản xuất hàng hóa là một tổ chức kinh tế xã hội trong đó sản phẩm đều do những ngời sản xuất cá thể riêng lẻ sản xuất ra. Mỗi ngời chuyên làm một thứ sản phẩm nhất định, thành thử mu ốn thoả mãn nhu cầu của xã hội thì cần phải mua bán sản phẩm, vì vậy, sản phẩm trở thành hàng hóa mua bán trên thị trờng” [28, tr 22] Phân công lao động xã hội đòi hỏi phải trao đổi sản phẩm giữa những ngời sản xuất với nhau. Đây là điều kiện cần của trao đổi hàng hóa. Nhng bản thân sự phân công lao động xã hội không quyết định sự trao đổi phải đợc tiến hành theo hình thức nào. Chỉ khi chế độ chiếm hữu t nhân về t liệu sản xuất làm cho những ngời sản xuất độc lập với nhau về kinh tế thì trao đổi hàng hóa mới ra đời. Chế độ chiếm hữu t nhân về t liệu sản xuất làm cho các sản phẩm sản xuất ra thuộc quyền chiếm hữu của từng ngời sản xuất riêng lẻ, không ai có quyền lấy không của họ. Vì vậy, đòi hỏi sự trao đổi sản phẩm giữa những ngời sản xuất với nhau phải đợc tiến hành trên cơ sở trao đổi phải hoàn lại, không chỉ thế mà còn phải hoàn lại với một vật có giá trị tơng đơng. Từ đó sản phẩm trở thành hàng hóa trên thị trờng; trao đổi sản phẩm trở thành trao đổi hàng hóa - tiền tệ. Sản xuất và lu thông hàng hóa là những phạm trù lịch sử. Sự hình thành ngành kinh doanh thơng mại là nấc thang cao nhất trong những nấc thang của quá trình phát triển nền
- kinh tế hàng hóa. Kinh doanh thơng mại đợc coi là đỉnh cao, là hình thái phát triển cao của trao đổi và lu thông hàng hóa ã Kinh doanh thơng mại: Khi quá trình phân công lao động trở nên sâu sắc, ở trình độ cao thì mức độ chuyên môn hóa của nền sản xuất xã hội cũng phát triển mạnh mẽ, hình thái các ngành với các chức năng rất cụ thể. Lu thông hàng hóa đợc tách thành một chức năng độc lập khỏi chức năng sản xuất. Qúa trình này tất yếu đòi hỏi một sự hao phí lao động nhất định trong quan hệ trao đổi. Bộ phận lao động này thực hiện chức năng lu thông sản phẩm hàng hoá từ các nhà sản xuất đến nơi tiêu dùng, thực hiện hành vi mua để bán. Tiền tệ đóng vai trò là phơng tiện để tổ chức quá trình lu thông hàng hóa của xã hội. Công thức tổng quát của kinh doanh thơng mại là T- H- T’ với T’= T+ DT. Đặc trng của hình thức này là: + Đã xuất hiện tầng lớp trung gian (thơng nhân, tổ chức kinh doanh thơng mại). Những trung gian này dùng tiền để mua hàng, sau đó bán hàng để thu tiền về. Khoản tiền bán hàng lớn hơn khoản tiền ứng trớc để mua hàng. Ở đây, kinh doanh thơng mại (T- H- T’): mua để bán hay vì bán mà phải mua. + Kinh doanh thơng mại một mặt làm tăng thêm khả năng mất cân đối giữa cung và cầu, giữa sản xuất với tiêu dùng, mặt khác chính nó cũng có khả năng điều hoà cung cầu trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế, làm cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa các ngành, các vùng và hơn nữa giữa các quốc gia. Nh vậy, cơ sở của kinh doanh thơng mại là sự phân công lao động xã hội, là chế độ chiếm hữu t nhân về t liệu sản xuất và sự xuất hiện tiền tệ trong quá trình lu thông hàng hoá. Phân công lao động xã hội là điều kiện cần để hình thành sự trao đổi sản phẩm giữa các nhà sản xuất. Chế độ chiếm hữu t nhân về t liệu sản xuất hình thành quyền độc lập về kinh tế giữa các nhà sản xuất với nhau. Do đó, việc trao đổi sản phẩm phải đợc tính toán phù hợp với lợi ích kinh tế của mỗi nhà sản xuất. Sự xuất hiện tiền tệ làm môi giới trung gian làm cho quá trình lu thông - trao đổi sản phẩm diễn ra thuận lợi hơn, trôi chảy và kịp thời hơn khi nền sản xuất xã hội phát triển nhanh, mạnh cả về quy mô, không gian và cơ cấu sản phẩm. Trình độ phân công lao động ngày càng sâu sắc buộc các nhà sản xuất phải từ bỏ một phần hoặc hoàn toàn chức năng tiêu thụ sản phẩm hàng hóa của mình và hình thành một tầng lớp trung gian độc lập với sản xuất, thực hiện chỉ một chức năng lu thông hàng hóa, đáp ứng nhu cầu của sản xuất, tiêu dùng xã hội - đó là các tổ chức kinh doanh thơng mại - một loại hình tổ chức xã hội hoạt động trong lĩnh vực lu thông hàng hóa. Sự xuất hiện của loại hình kinh doanh thơng mại độc lập không phủ định lu thông hàng hóa mà trái lại nó lấy lu thông hàng hóa làm chức năng hoạt động của mình, làm cho hàng hóa lu thông ngày càng rộng rãi hơn, thuận lợi, nhanh chóng hơn.
- Với t cách là một ngành kinh tế tơng đối độc lập trong nền kinh tế quốc dân, việc hình thành, phát triển kinh doanh thơng mại gắn liền, phụ thuộc vào sự phát triển của phân công lao động xã hội và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất ở mỗi quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Cũng cần lu ý rằng kinh doanh thơng mại không trực tiếp sáng tạo ra của cải vật chất, nó chỉ phục vụ quá trình sản xuất và tiếp tục quá tình sản xuất trong khâu lu thông mà thôi. Có nghĩa là kinh doanh thơng mại thực hiện việc mua, bán hàng hoá, đảm nhận các dịch vụ (bao gồm cả dịch vụ thuần tuý và cả các dịch vụ có tính chất sản xuất). Những dịch vụ thuần tuý không làm tăng thêm giá trị của hàng hóa, nó chỉ phục vụ và gắn liền với quá trình mua bán hàng hóa nhằm thay đổi hình thái giá trị của hàng hóa từ hàng sang tiền và ngợc lại. Những dịch vụ mang tính chất sản xuất (vận chuyển, bảo quản, gia công, chế biến, phân loại hàng hóa, đóng gói làm đồng bộ sản phẩm...) nhằm bảo tồn và hoàn thiện giá trị sử dụng của hàng hóa. Do đó, các dịch vụ này làm tăng thêm giá trị của hàng hoá và thờng chiếm chủ yếu. Các tổ chức kinh doanh thơng mại cần thấy rõ chức năng và thực chất của kinh doanh thơng mại để có định hớng đúng đắn trong nội dung hoạt động của mình. 1.1.2. Nội dung hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thơng mại trong cơ chế thị trờng có sự điều tiết của nhà nớc [7, 12, 39] Nh trên đã phân tích, sự ra đời của các thơng nhân, các tổ chức chuyên làm chức năng lu thông hàng hoá trên thị trờng là một tất yếu khách quan trong tiến trình phát triển của nền kinh tế xã hội. Những tổ chức thơng nhân đó là các đơn vị (doanh nghi ệp) kinh doanh thơng mại. V.I. Lênin đã mô tả một cách sinh động quá trình hình thành thơng nhân từ việc chuyên môn hoá lao động trong những ngời làm nghề thủ công ở Nga trong tác phẩm “Sự phát triển của chủ nghĩa t bản ở Nga” nh sau: Lúc đầu, do nhu cầu phải tiêu thụ hàng hoá sản xuất ra, những ngời làm nghề thủ công đã phân công một số ngời đa hàng ra thị trờng để bán, dần dần công việc đó đợc cố định vào một số ngời. Những ngời này lập tức biến quan hệ của họ thành quan hệ mua bán với những ngời làm nghề thủ công. Họ mở rộng quan hệ ra một số vùng rộng lớn và trở thành những thơng nhân chuyên đảm nhận chức năng lu thông hàng hóa [29] Nh vậy, trong quá trình phát triển của mình, những ngời thơng nhân chuyên nghiệp này trở thành các đơn vị kinh doanh thơng mại, tập hợp thành một hệ thống to lớn nh hiện nay ở các nớc cũng nh ở Việt Nam chúng ta. Đó là hệ thống các tổ chức kinh doanh thơng mại - doanh nghiệp thơng mại (DNTM). Quá trình hình thành và phát triển hệ thống các DNTM ở Việt Nam gắn liền với quá trình phát triển của lực lợng sản xuất xã hội và quan hệ sản xuất thiết lập trong mỗi giai đoạn. Doanh nghiệp thơng mại là những tổ chức kinh tế hợp pháp, hoạt động trong lĩnh vực lu thông hàng hoá, là những đơn vị kinh tế “chuyên kinh doanh để kiếm lời thông qua
- hoạt động mua - bán hàng hoá dịch vụ trên thị trờng” [39, tr 10]. Đặc trng cơ bản là lu chuyển hàng hoá, dịch vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu của sản xuất và đời sống. Trong cơ chế thị trờng, có sự điều tiết vĩ mô của nhà nớc, để thực hiện mục tiêu lợi nhuận và các mục tiêu khác trong kinh doanh, các DNTM Việt Nam phải thực hiện các nội dung cơ bản sau đây: ã Nghiên cứu và xác định nhu cầu thị trờng để lựa chọn mặt hàng, ngành hàng, lĩnh vực kinh doanh. Bất kỳ doanh nghiệp thơng mại nào trớc khi tiến hành hoạt động kinh doanh cũng phải thực hiện nghiên cứu xác định nhu cầu thị trờng về các loại hàng hoá dịch vụ trong phạm vi kinh doanh của mình. Nhu cầu của thị trờng là cái quyết định hoạt động kinh doanh của DNTM. Mỗi loại hàng hóa, dịch vụ cụ thể có những đặc điểm riêng của nó về tính chất cơ lý hoá học, hình dạng, trạng thái và nhu cầu khác nhau về không gian, thời gian, quy mô, cơ cấu, đối tợng tiêu thụ, mục đích tiêu thụ. Với đặc trng là mua để bán kiếm lời, do đó nếu nghi ên cứu và xác định không chính xác, cụ thể nhu cầu thị trờng thì tất yếu mua sẽ không bán đợc hoặc không thể đạt đợc mục tiêu kiếm lời. Bán quyết định mua. Trên cơ sở nhu cầu thị trờng, cần xem xét đánh giá khả năng đảm bảo của nguồn cung ứng. Trong phạm vi một doanh nghiệp kinh doanh cụ thể, nguồn cung ứng có thể bao gồm nguồn do sản xuất trong nớc (mua của các đơn vị sản xuất trong nớc hoặc có thể tự sản xuất), mua của các đơn vị kinh doanh khác, nguồn nhập khẩu và các nguồn khác. Cần xác định chính xác khả năng của nguồn hàng, khả năng có thể khai thác, khả năng đặt hàng, mua hàng để có nguồn hàng đầy đủ về số lợng, tối u về chất lợng, phù hợp với thời gian, yêu cầu của thị trờng. Có nh vậy, việc mua mới bán đợc, nguồn hàng mới đáp ứng đợc nhu cầu của khách hàng. Chính nhu cầu thị trờng, khả năng đáp ứng nhu cầu của nguồn hàng hoá là cơ sở quan trọng để doanh nghiệp lựa chọn mặt hàng, ngành hàng kinh doanh, quyết định các điều kiện cơ sở vật chất để thực hiện kinh doanh. Việc nghi ên cứu, xác định nhu cầu thị trờng, xác định nguồn cung ứng cần đợc tiến hành thờng xuyên, liên tục, đặc biệt trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trờng nớc ta hiện nay. Trong đó cần nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nghiên cứu xác định nhu cầu của khách hàng vì khách hàng và nhu cầu của họ chính là điểm xuất phát của hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. ã Xây dựng chiến lợc, kế hoạch kinh doanh đúng đắn. Chiến lợc kinh doanh của DNTM là định hớng hoạt động có mục tiêu của doanh nghiệp thơng mại cho một thời kỳ dài và hệ thống các chính sách, các điều kiện, các biện pháp để doanh nghiệp thực hiện mục tiêu đã đề ra. Trong cơ chế thị trờng cạnh tranh gay gắt khốc liệt nh hiện nay, chiến lợc kinh doanh giúp cho doanh nghi ệp thấy rõ đợc hớng đi, bớc đi, cách đi, mục đích cần đạt, chủ động đợc các điều kiện trong kinh doanh, thấy rõ đợc những cơ hội để khai thác, những rủi ro để đề phòng. Điều đó đảm bảo cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển đợc trong điều kiện kinh doanh có vô vàn cơ hội tìm kiếm lợi
- nhuận song cũng đầy cạm bẫy rủi ro. Khi xây dựng chiến lợc kinh doanh cần quán triệt các nội dung: + Phải xác định đợc mục tiêu và phơng hớng kinh doanh để đảm bảo cho doanh nghiệp phát triển vững chắc trong thời kỳ dài, phù hợp với cơ chế quản lý của Nhà nớc. + Phải có các chính sách, biện pháp đồng bộ, đặc biệt quan tâm đến các chính sách, biện pháp cơ bản quan trọng nh chính sách thị trờng, khách hàng, mặt hàng, ngành hàng kinh doanh, vốn, nhân sự... + Xác định trình tự thực hiện, các điều kiện để thực hiện các mục tiêu đề ra trong từng giai đoạn phù hợp với mục tiêu chiến lợc. Việc xác định đúng đắn chiến lợc kinh doanh của DNTM có tầm quan trọng đặc biệt, quyết định đến sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp. Trong phạm vi nền kinh tế, chiến lợc kinh doanh của doanh nghiệp cũng ảnh hởng không nhỏ đến lợi ích quốc gia, vị thế quốc gia trên trờng quốc tế. Có nhà kinh tế đã từng nói: xác định sai một mặt hàng, mất một doanh nghiệp, xác định sai một doanh nghiệp, mất một ngành... Trên cơ sở chiến lợc kinh doanh đúng đắn đã xây dựng, doanh nghiệp cần triển khai thực hiện chiến lợc bằng việc xây dựng (lập) các kế hoạch kinh doanh. Lập kế hoạch là quá trình xác định những mục tiêu của tổ chức và phơng thức tốt nhất để đạt mục tiêu đó trong từng thời kỳ để thống nhất và phối hợp các hoạt động. Lập kế hoạch kinh doanh cho biết phơng hớng hoạt động, làm giảm sự tác động của những thay đổi điều kiện kinh doanh, tránh đợc lãng phí, d thừa, thiết lập đợc các tiêu chuẩn thuận tiện cho công tác kiểm tra, đánh giá tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể xây dựng các kế hoạch theo thời gian, theo quy mô, phạm vi của từng hoạt động nhng phải đảm bảo tính thống nhất, tính hợp lý, tính khả thi, phù hợp với các mục tiêu cụ thể và mục tiêu chiến lợc của doanh nghiệp.[23] Ở DNTM, kế hoạch kinh doanh cơ bản nhất là kế hoạch mua bán (lu chuyển) hàng hoá. Đây là kế hoạch nền tảng cho mọi kế hoạch khác trong cùng hệ thống kế hoạch kinh doanh - kỹ thuật - tài chính của DNTM. Cơ sở khoa học để xây dựng chiến lợc và các kế hoạch kinh doanh của DNTM là kết quả nghiên cứu thị trờng, là các chủ trơng chính sách của nhà nớc, của các cấp quản lý; là hệ thống căn cứ định mức kinh tế - kỹ thuật trong kinh doanh, sự phân tích các yếu tố môi trờng nội tại và bên ngoài doanh nghiệp. Kinh tế thị trờng ngày càng phát triển, điều kiện hội nhập của Việt Nam ngày càng mở rộng, đòi hỏi doanh nghiệp phải có chiến lợc, kế hoạch kinh doanh nhạy bén, đúng đắn mới không ngừng thúc đẩy đợc hoạt động của mình, nâng cao sức cạnh tranh và uy tín trên thị trờng, kinh doanh có lãi. ã Huy động và sử dụng hợp lý các nguồn lực đa vào kinh doanh. Muốn tiến hành hoạt động kinh doanh, DNTM phải biết huy động mọi nguồn lực của mình, đa chúng ra hoạt động để tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. Các nguồn lực mà doanh nghiệp có thể huy động đợc bao gồm:
- + Vốn hữu hình nh tiền, nhà cửa, kho tàng, cửa hàng, quầy hàng, các thiết bị phục vụ cho hoạt động kinh doanh... + Vốn vô hình nh sự nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hoá kinh doanh, uy tín của doanh nghiệp với khách hàng, bí quyết kinh doanh, sự nắm giữ các thông tin thị trờng… + Con ngời: Đây đợc xem là nguồn lực quan trọng nhất của doanh nghiệp. Con ngời với tài năng và kinh nghiệm nghề nghiệp đợc đào tạo, tích luỹ, sự tận tâm với nghề nghiệp… là vốn quý nhất của doanh nghiệp. Vì nguồn lực bao giờ cũng có giới hạn, do vậy doanh nghiệp phải tìm mọi cách huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó. Trên cơ sở các nguồn lực bên trong (nội lực), doanh nghiệp cần tìm ra các phơng án kết hợp tối u với các nguồn lực bên ngoài doanh nghi ệp nhằm tạo ra các cơ hội và thời cơ hấp dẫn để hoạt động kinh doanh có hiệu quả. ã Tổ chức các hoạt động nghiệp vụ: mua, bán, dự trữ, bảo quản, vận chuyển, khuyến mãi và các hoạt động dịch vụ phục vụ khách hàng. Hoạt động kinh doanh cơ bản của DNTM là mua hàng để bán lại hàng hoá đó cho khách hàng để thoả mãn những nhu cầu cụ thể của họ. Nghiệp vụ mua hàng, tạo nguồn hàng hoá là khâu nghiệp vụ đầu tiên của quá trình kinh doanh. Mua hàng và áp dụng các hình thức tạo nguồn hàng khác nhằm tạo ra khối lợng, cơ cấu hàng hoá phù hợp với những nhu cầu của khách hàng một cách cụ thể về số lợng, chất lợng, thời gian và khả năng thanh toán của họ. Tổ chức phân phối và bán hàng là nghiệp vụ kinh doanh quan trọng nhất vì thông qua nghi ệp vụ này hàng hoá mới bán đợc, mới thoả mãn đợc nhu cầu của khách hàng, mới thực hiện đợc việc chuyển hoá hình thái giá trị của sản phẩm. Nhờ đó doanh nghiệp mới thu hồi đợc vốn kinh doanh, trang trải đợc các chi phí và có lợi nhuận. Thực hiện dự trữ hàng hoá là nhằm đảm bảo cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành liên tục, đều đặn trong mọi điều kiện, tận dụng đợc các cơ hội mới trong kinh doanh. Thực chất dự trữ hàng hoá nh một nguồn hàng có tính cơ động, linh hoạt cao nhằm đáp ứng đầy đủ nhất, kịp thời nhất, đồng bộ và ổn định các nhu cầu của khách hàng. Để thực hiện mua hàng, bán hàng, dự trữ hàng hoá, doanh nghiệp phải có chính sách tạo nguồn thích hợp, có phơng thức và các hình thức bán tiến bộ, phải có cơ sở mạng lới mua - bán hợp lý, có hệ thống kho hàng, cửa hàng đợc phân bố phù hợp với quy mô, tốc độ lu chuyển hàng hoá. Thực hiện các hoạt động giao nhận, vận chuyển, thanh toán với ngời cung ứng, ngời mua nhằm thúc đẩy quá trình kinh doanh có hiệu quả nhất. ã Quản trị các yếu tố (vốn, phí, hàng hoá, thời gian, thông tin... và nhân sự) trong hoạt động kinh doanh và quản trị chặt chẽ, khoa học các nghiệp vụ kinh doanh của doanh nghiệp. + Quản trị vốn, phí, hàng hoá và nhân sự trong hoạt động kinh doanh.
- Vốn kinh doanh của DNTM là thể hiện bằng tiền của tài sản lu động và tài sản cố định; vốn hữu hình và vốn vô hình của doanh nghiệp. Quản trị vốn là thực hiện sử dụng vốn trong kinh doanh và theo dõi đợc kết quả sử dụng vốn là có lãi hay lỗ. Chi phí kinh doanh là các khoản chi cho quá trình mua, dự trữ và bán hàng hoá, trong đó có chi phí mua hàng (vốn) và chi phí lu thông hàng hoá. Phải quản lý đợc các khoản chi và phải chi đúng mục đích, đúng kế hoạch và đúng hớng, chi phải có thu, chi phải tạo ra thu. Chi tiêu tiết kiệm, tránh những khoản chi có tính chất phô trơng, hình thức và hạn chế các khoản thiệt hại làm tăng chi phí kinh doanh. Quản trị chi phí là phải có kế hoạch chi, phải theo dõi và tính toán đúng đắn các khoản chi phí, tiết kiệm chi phí. Quản trị nhân sự là lựa chọn, bố trí, sắp xếp, phân công việc nào ngời ấy phù hợp, để hoàn thành tốt các chức năng nhiệm vụ của doanh nghiệp. Quản trị nhân sự cũng nh quản trị các hoạt động kinh doanh khác phải thực hiện các chức năng hoạch định, tổ chức, cán bộ, chỉ huy và kiểm tra. Nhng quản trị nhân sự là lĩnh vực liên quan đến con ngời, “dụng nhân nh dụng mộc”, nhng “mộc” ở đây là những con ngời có suy nghĩ, có tình cảm và lý trí. Do đó, suy cho cùng thì mọi quản trị cũng là quản trị con ngời, sử dụng con ngời đúng đắn thì thành công hoặc ngợc lại. + Quản trị các nghiệp vụ kinh doanh của doanh nghiệp thơng mại. Để đảm bảo thành công trong kinh doanh, bên cạnh quản trị các yếu tố của quá trình kinh doanh, doanh nghiệp cần phải thực hiện quản trị theo quá trình mang tính nghi ệp vụ trong kinh doanh. Tức là cần có sự chỉ đạo thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh cụ thể của từng bộ phận và toàn doanh nghiệp (Quản trị tác nghiệp). Đây là nội dung có ý nghĩa sống còn đối với doanh nghiệp thơng mại, quyết định sự tồn tại và phát triển của DNTM. Với cách tiếp cận nh vậy, nội dung này bao gồm: quản trị chiến lợc, quản trị kế hoạch kinh doanh, quản trị tạo nguồn và mua hàng, quản trị nghiệp vụ dự trữ hàng hoá, quản trị nghiệp vụ bán hàng, quản trị tổ chức, quản trị marketing, quản trị các hoạt động dịch vụ phục vụ khách hàng... Các nội dung hoạt động của DNTM cần đợc nhận thức đầy đủ, thống nhất, thông suốt ở mỗi cá nhân, mỗi bộ phận và trong toàn doanh nghiệp. Các nhà lãnh đạo doanh nghiệp phải là ngời đa ra các quyết định về chiến lợc, về chính sách, về tổ chức, phơng thức thực hiện, đồng thời phải biết huy động, sử dụng tốt nhất các nguồn lực là ngời chỉ huy, nhà kiểm soát tài giỏi mới đem lại thành công cho doanh nghiệp. 1.1.3. Sự cần thiết phải sử dụng có hiệu quả bao bì trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thơng mại Trong nền kinh tế quốc dân, sản phẩm của tất cả các ngành công nghiệp (trừ công nghiệp khai thác than, khoáng sản, ngành xây dựng cơ bản) sau khi rời khỏi quá trình sản xuất trực tiếp đều phải đợc bao gói, chứa đựng bằng một sản phẩm khác để thực hiện việc bảo quản, vận chuyển đến nơi tiêu thụ. Những sản phẩm dùng để bao gói đó theo cách gọi
- phổ biến là bao bì hàng hoá. Có nhiều quan niệm khác nhau về bao bì, song theo quan niệm chung nhất thì “bao bì là một loại sản phẩm công nghiệp đặc biệt dùng để bao gói và chứa đựng các sản phẩm nhằm bảo vệ giá trị sử dụng của sản phẩm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc bảo quản, vận chuyển, xếp dỡ và tiêu thụ sản phẩm” [13, tr 192] Trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thơng mại, việc sử dụng có hiệu quả bao bì, đóng gói là sự cần thiết khách quan. Bởi lẽ: ã Do chức năng của kinh doanh thơng mại: Kinh doanh thơng mại là lĩnh vực hoạt động chuyên nghiệp trong lu thông hàng hoá. Nó là cầu nối trung gian cần thiết, tất yếu giữa sản xuất với tiêu dùng, giữa cung và cầu trên thị trờng. Kinh doanh thơng mại có nhiều chức năng: + Kinh doanh thơng mại thực hiện chức năng lu thông hàng hoá từ nguồn hàng đến nơi tiêu dùng. Khi sản phẩm rời khỏi quá trình sản xuất, nó mới chỉ là sản phẩm ở trạng thái khả năng. Chỉ khi nào những sản phẩm đó đợc đa vào quá trình sử dụng (cho tiêu dùng sản xuất/tiêu dùng cá nhân) thì sản phẩm mới trở thành sản phẩm thực sự, quá trình sản xuất mới hoàn thành. Ngời sản xuất có thể bán sản phẩm của mình theo các cách khác nhau, hoặc là bán trực tiếp cho ngời tiêu dùng, hoặc bán sản phẩm của mình cho ngời trung gian và ngời trung gian đó lại bán chính sản phẩm đó cho ngời tiêu dùng. Ngợc lại, ngời tiêu dùng (doanh nghiệp, cá nhân) cũng có thể mua các sản phẩm để thoả mãn nhu cầu của mình tơng ứng theo các cách thức phù hợp, hoặc là mua trực tiếp sản phẩm từ nhà sản xuất, hoặc phải mua qua những ngời trung gian. Lý thuyết và thực tiễn đã chứng minh lợi thế, lợi ích to lớn của việc trao đổi, mua bán hàng hoá thông qua ngời trung gian - các đơn vị kinh doanh - doanh nghiệp thơng mại. Sản xuất, tiêu dùng không phải lúc nào cũng đồng nhất về không gian, thời gian, quy mô, cơ cấu và các đặc điểm kỹ thuật, các yêu cầu chất lợng của sản phẩm hàng hoá trao đổi mua bán. Vì vậy, doanh nghiệp thơng mại - ngời trung gian tham gia vào quá trình mua bán hàng hoá giữa ngời sản xuất với ngời tiêu dùng không chỉ mang lại khả năng thoả mãn tốt hơn các nhu cầu của cả ngời sản xuất với ngời tiêu dùng mà còn mang lại hiệu quả chung cho toàn xã hội. Doanh nghiệp thơng mại cũng nhận đợc khoản thu nhập nhất định từ sự tham gia làm trung gian mua bán đó do chính những “nhà sản xuất và ngời tiêu thụ chấp nhận một cách tự nguyện và sẵn sàng trả công (chi phí và lợi nhuận) cho sự tham gia của ngời trung gian vào quá trình này” [39, tr 9] Thực hiện chức năng lu thông hàng hoá, DNTM phải tổ chức tốt quá trình lu thông hàng hoá, bảo đảm thoả mãn tốt nhất nhu cầu của sản xuất, đời sống về số lợng, chất lợng, thời gian và địa điểm... Phải quan tâm cả mặt giá trị sử dụng và giá trị hàng hoá. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp thơng mại phải bảo quản tốt lợng hàng hoá thu mua, tổ chức vận chuyển hợp lý, đáp ứng đợc số lợng, chất lợng hàng hoá theo yêu cầu của ngời tiêu dùng,
- vừa phù hợp với khả năng thanh toán của họ. Bao bì hàng hoá tạo điều kiện thuận lợi cho việc dự trữ, bảo quản vận chuyển hàng hoá trong quá trình lu thông. Vì thực chất “bao bì cũng là một loại sản phẩm mà công dụng đặc biệt của sản phẩm này là để bao gói và chứa đựng sản phẩm khác” [13, tr 193]. Bao bì bảo vệ, bảo quản sản phẩm trong suốt quá trình lu thông của nó từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Đối với DNTM, bao bì đợc xem nh một điều kiện vật chất cần thiết để thực hiện các nghiệp vụ bảo quản, xếp dỡ, vận chuyển... của lu thông hàng hoá nhằm thực hiện chức năng lu thông hàng hoá từ nguồn hàng đến ngời tiêu dùng một cách thuận tiện và hiệu quả. ã Chức năng tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu lu thông của doanh nghiệp thơng mại. Kinh doanh thơng mại là khâu trung gian giữa sản xuất với tiêu dùng. Nhng nhu cầu tiêu dùng lại vô cùng đa dạng và phức tạp. Mỗi nhu cầu tiêu dùng có những yêu cầu cụ thể riêng mà các nhà sản xuất không thể đáp ứng đợc khi tạo ra các sản phẩm hàng hoá. Để thoả mãn tốt nhất những nhu cầu cụ thể đó, các DNTM phải thực hiện nhiều hoạt động nh phân loại, chọn lọc, đóng gói làm đồng bộ sản phẩm, hớng dẫn sử dụng, vận chuyển... Đó chính là chức năng tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu lu thông mà các DNTM cần phải thực hiện nhằm hoàn thiện sản phẩm, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu cụ thể của tiêu dùng. Trong số các hoạt động nhằm thực hiện chức năng của kinh doanh thơng mại, hoạt động chuẩn bị hàng hoá, đóng gói hàng hoá, gửi hàng cần phải sử dụng đến các loại bao bì. Việc chia nhỏ lô hàng thành các đơn vị hàng hoá thích hợp với tiêu dùng không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho ngời tiêu dùng mà còn thuận tiện cho cả quá tình lu thông hàng hoá (gửi hàng, vận chuyển...). DNTM cần lựa chọn các loại bao bì phù hợp với từng loại sản phẩm, từng điều kiện kinh doanh để đảm bảo sự hoàn thiện nhất của sản phẩm đem bán. Bao bì là một điều kiện vật chất để thực hiện chức năng tiếp tục quá trình sản xuất, lu thông của kinh doanh thơng mại. ã Do đặc trng sản phẩm của doanh nghiệp thơng mại [38] Sản phẩm dới góc độ của nhà sản xuất là những dạng vật chất cụ thể nhằm thoả mãn nhu cầu cụ thể nhất định của ngời tiêu dùng. DNTM có đặc điểm hoạt động khác với các doanh nghiệp sản xuất, do đó sản phẩm của DNTM không phải là các sản phẩm mà họ đang bán cho ngời tiêu dùng trên thị trờng. Sản phẩm của DNTM cần phải đợc xem xét dới góc độ ngời tiêu dùng về sự thoả mãn không chỉ một nhu cầu vật chất cụ thể mà là một số hoặc tất cả các nhu cầu về việc mua sắm các sản phẩm vật chất đó. Nh vậy, sản phẩm của DNTM là những dịch vụ nhằm thoả mãn một chuỗi nhu cầu vật chất, tinh thần của ngời tiêu dùng. Một sản phẩm phù hợp với ngời tiêu dùng có thể thể hiện ở 3 mức độ:
- Sơ đồ 1.1: Cấu trúc một hàng hoá hoàn chỉnh Sản phẩm mà ngời tiêu dùng nhận đợc từ DNTM là một sản phẩm hoàn chỉnh. Bao gồm sản phẩm từ nhà sản xuất chế tạo ra (thông thờng là ở mức độ 1 và 2) và sản phẩm của đơn vị kinh doanh thơng mại (mức độ 3) - các dịch vụ của DNTM. Nh vậy, sản phẩm của DNTM mặc dù luôn gắn chặt với hàng hoá hiện vật mà họ buôn bán nhng thực chất chỉ gồm các dịch vụ mà họ đáp ứng cho ngời sản xuất và ngời tiêu dùng. Trong những trờng hợp nhất định nh để thoả mãn tốt nhất những nhu cầu cá biệt của ngời tiêu dùng, DNTM phải tổ chức phân loại, đóng gói bảo quản, đồng bộ hoá sản phẩm. Trong những trờng hợp đó, cần phải có những bao bì thích hợp để hình thành những “hàng hoá hiện thực” phù hợp với yêu cầu của họ. Thông thờng các loại bao bì mà DNTM sử dụng và hình thức bao gói hàng hoá là do yêu cầu cụ thể của khách hàng, đặc biệt đối với các hàng hoá xuất, nhập khẩu. Bao bì đóng vai trò một yếu tố của quá trình sản xuất để hoàn thiện sản phẩm hàng hoá hiện thực.
- ã Đảm bảo quá trình kinh doanh liên tục, tránh kinh doanh mang tính thời vụ và nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá trong kinh doanh Kinh doanh thơng mại đòi hỏi phải đảm bảo thoả mãn các nhu cầu trong mọi điều kiện của tiêu dùng, sản xuất, đời sống. Trong điều kiện sản xuất và tiêu dùng không khớp nhau về không gian, thời gian đòi hỏi phải có lợng hàng hoá dự trữ đủ lớn về số lợng, đồng bộ về cơ cấu, đảm bảo chất lợng, phù hợp về tiến độ tiêu dùng. Nhu cầu của nền kinh tế thị trờng là vô cùng đa dạng, phong phú, có những nhu cầu thờng nhật, có những nhu cầu mang tính thời vụ mang những đặc điểm riêng về nền văn hoá, tín ngỡng (hội hè, lễ lạt). Trong khi đó, các doanh nghiệp sản xuất tiến hành liên tục, đều đặn. Lợng hàng hoá tiêu dùng cho các nhu cầu không thờng xuyên đó cần đợc các DNTM tổ chức dự trữ hợp lý, mới có khả năng thoả mãn kịp thời chính xác, đảm bảo chất lợng, thị hiếu tiêu dùng. Mặt khác, có những loại vật t (nguyên vật liệu) dùng cho sản xuất lại chỉ đợc sản xuất theo thời gian, thời vụ nhất định, đặc biệt là các sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp, ng nghiệp... nhng nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm là các vật t đó lại đợc thực hiện liên tục trong các doanh nghịêp sản xuất. Để cung cấp các loại sản phẩm vật t đó phục vụ quá trình sản xuất liên tục, đều đặn ở các doanh nghiệp sản xuất cũng cần phải có lợng dự trữ linh hoạt hợp lý. Dự trữ vật t, hàng hoá tiêu dùng có hiệu quả kinh tế xã hội nhất là thực hiện ở các đơn vị kinh doanh thơng mại. Ở các DNTM, dự trữ vật t hàng hoá có quy mô có quy mô lớn, chủng loại mặt hàng đa dạng phong phú, tính linh hoạt cao, khả năng điều tiết cung cầu lớn. Vì vậy, dự trữ đợc xem là một chức năng của kinh doanh thơng mại mà DNTM là ngời thực hiện chức năng này có hiệu quả nhất. Bao bì hàng hoá với đầy đủ các yêu cầu của nó sẽ góp phần tích cực vào việc vào việc giữ gìn nguyên vẹn giá trị sử dụng của các loại vật t hàng hoá dự trữ. Nhờ có bao bì hàng hoá thích hợp mà các DNTM có thể khắc phục đợc tình trạng kinh doanh lệ thuộc vào thời vụ sản xuất, thay đổi tập quán tiêu dùng theo thời vụ, đảm bảo cho tiến trình kinh doanh đợc liên tục, hiệu quả, nâng cao khả năng cạnh tranh, tạo dựng và chiếm lĩnh đợc các cơ hội kinh doanh trong điều kiện kinh tế hội nhập. 1.2. Bao bì và vai trò của nó trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghi ệp thơng mại. 1.2.1. Bao bì hàng hoá và chức năng của nó 1.2.1.1. Lịch sử bao bì hàng hoá và khái niệm bao bì hàng hoá [20, 48, 49] Xét về lịch sử của bao bì hàng hoá, nhiều nhà nghiên cứu đã có những phát kiến thật thú vị. Từ thời cổ đại, ngời ta đã biết dùng những lá cây (nh lá cây bầu, cây bí và các cây tơng tự) làm vật bao gói những sản phẩm khác. Đó là những bao bì đầu tiên trong lịch sử. Dần dần, do yêu cầu của cuộc sống, sản xuất và trao đổi san phẩm, ngời ta đã biết sử dụng các loại vỏ cây, các loại da thú để làm những chiếc giỏ để đựng hàng, vận chuyển trái cây, các thứ kiếm đợc từ rừng mang về nơi trú ẩn của mình, từ nơi này sang nơi khác. Những
- chiếc giỏ bằng vỏ cây, da thú đợc sử dụng nh những phơng tiện chứa đựng, vận chuyển và bảo quản sản phẩm của họ trong điều kiện nhất định. Tuy nhiên, với những chất liệu từ vỏ cây, da thú, khả năng chứa đựng và vận chuyển sản phẩm đợc chú trọng hơn khả năng bảo quản sản phẩm. Một khi các loại bao bì đó đã bị thải loại do bị vỡ, rách hoặc tổn thất thì khả năng tái sử dụng bị hạn chế. Ngời ta đã nghĩ đến những loại vật liệu khác để chế tạo ra những bao bì có khả năng bảo quản sản phẩm tốt hơn và có thể sử dụng lại đợc. Các loại bao bì bằng gốm sứ thuỷ tinh đã bắt đầu xuất hiện. Tám ngàn năm trớc, ngời Trung Quốc đã biết tạo ra những chiếc bình gốm để chứa đựng và bảo quản các sản phẩm dạng lỏng, dạng rắn rời. Các loại bao bì làm từ đất khi bị đổ vỡ dễ dàng bị thải loại và không thể dùng lại đợc. Nhng với điều kiện kinh tế lúc đó, loại bao bì này đã phát huy đợc tác dụng nhất định. Các loại bao bì này đã tồn tại trong quá khứ và ngày nay chúng ta vẫn thấy ở những nớc nghèo và một số nớc đang phát triển. Các loại bao bì từ gốm không gây ô nhiễm, không gây nguy hiểm, độc hại cho nớc, không khí và môi trờng nói chung. Bao bì bằng thuỷ tinh đã xuất hiện để giải quyết một số khuyết tật của bao bì bằng gốm. Trớc đây, bốn đến sáu ngàn năm, các loại chai lọ thuỷ tinh đã đợc sử dụng ở Ai Cập. Những bao bì này đợc sản xuất bằng phơng pháp thủ công đơn giản. Chai lọ thuỷ tinh có thể sử dụng đa dạng hơn và đợc giữ lại để tái sử dụng cho đến khi bị vỡ. Chúng có khả năng tái sinh do có khả năng thu hồi và lập lại công nghệ “chế biến” chai lọ thuỷ tinh mới. Nhng viêc tái sinh lại cũng gặp những khó khăn bởi sự thu hồi từ phía ngời tiêu dùng, việc sử dụng công nghệ “tái sinh ” gây ô nhiễm không khí. Những chai lọ thuỷ tinh không đợc thu hồi đã gây ra tác hại với môi trờng đất. Bao bì bằng thuỷ tinh ngày nay đã đợc sản xuất bằng công nghệ mới, tiên tiến. Hình thức, kiểu dáng, chủng loại ngày càng phong phú, đa dạng, vừa có chất lợng cao vừa có tính mỹ thuật. Công nghi ệp bao bì liên tục đợc phát triển. Các loại vật liệu bao bì luôn đợc nghiên cứu, công nghệ mới để sản xuất bao bì cũng ngày càng đợc áp dụng rộng rãi nhằm đảm bảo cho sản phẩm bao bì đáp ứng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Bao bì bằng chất liệu giấy đã ra đời ở Trung Quốc vào khoảng vài ba ngàn năm trớc. Loại bao bì này có khả năng thu hồi, tái chế và thuận tiện trong lu thông. Công nghệ sản xuất bao bì giấy đợc nhiều nớc đang phát triển áp dụng và ngày càng đợc hoàn thiện. Bao bì hàng hoá đang trong quá trình phát triển liên tục từ khi bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp. Từ thuở sơ khai, bao bì đợc làm bằng các phơng pháp thủ công, khối lợng nhỏ và quy cách đơn giản, với tác dụng chủ yếu để chứa đựng, vận chuyển. Đến ngày nay, công nghệ sản xuất hiện đại, chất liệu bao bì đa dạng, quy cách, mẫu mã, kiểu dáng phong phú, khối lợng vô cùng lớn. Công dụng của bao bì đã đợc mở rộng trong cả lĩnh vực bảo quản, vận chuyển, thơng mại...
- Nhìn lại lịch sử của bao bì để có nhận thức đầy đủ hơn sự phát triển các chức năng bao bì, định hớng trong sản xuất, trong sử dụng và quản lý bao bì tốt hơn, đáp ứng đợc các yêu cầu của bao bì trong sản xuất lu thông và vấn đề môi trờng. Khái niệm về bao bì Trong nền kinh tế hàng hoá, sản xuất và kinh doanh theo cơ chế thị trờng, bao bì hàng hoá trở thành một vấn đề đợc nhiều nhà sản xuất kinh doanh thơng mại quan tâm bởi vì bao bì tốt hay xấu đều ảnh hởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Chúng ta đều biết rằng, tất cả các ngành công nghiệp (trừ ngành khai thác than, khoáng sản, ngành xây dựng cơ bản) mọi sản phẩm của họ đều phải dùng một loại bao bì nào đó để bao gói, chứa đựng, bảo quản và vận chuyển sản phẩm của mình. Nhng hiểu thống nhất về bao bì hàng hoá thì cha có một khái niệm nào đợc đề cập. Mỗi góc độ xem xét của mỗi nhà sản xuất, kinh doanh có quan niệm khác nhau về bao bì. Theo các nhà sản xuất thì bao bì đợc xem là phơng tiện thể hiện sản phẩm, là “cái u việt nhất” trng bày về kiểu dáng, mẫu mã, là phơng tiện thông báo tốt nhất về phẩm chất và tính sáng tạo... bao bì là bộ phận hợp thành sản phẩm hoàn chỉnh. Ở đây, các nhà sản xuất nhấn mạnh vai trò thể hiện của bao bì đối với sản phẩm của họ. Không có bao bì hàng hoá, sản phẩm sẽ không đợc nhận biết cụ thể và chi tiết. Đặc biệt trong nền sản xuất hàng hoá, giá trị sử dụng cơ bản của sản phẩm phải đợc xã hội thừa nhận, sản phẩm phải đợc cọ xát trên thị trờng và phải đợc trở thành sản phẩm thực sự tức là phải đợc tiêu dùng. Bao bì hợp thành sản phẩm hoàn chỉnh trong cơ cấu hợp lý với sản phẩm cơ bản (giá trị sử dụng cụ thể). Nhà sản xuất quan tâm đến “phơng tiện biểu hiện” và chi phí bao bì khi sử dụng bao bì trong hoạt động thơng mại. Theo các nhà kinh tế, bao bì đợc xem xét một cách toàn diện hơn. Ngời ta nghiên cứu bao bì gắn liền với quá trình lu thông hàng hoá và các yếu tố chi phí liên quan đến quá trình đó. Bao bì là những biện pháp kinh tế mang lại cho sản phẩm sự thể hiện, sự bảo vệ, sự nhận biết thông tin, sự chứa đựng, thuận tiện cho ngời tiêu dùng. Ở đây, bao bì đợc xem xét trong toàn bộ quá trình quản lý sản phẩm đi từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Quá trình đó diễn ra theo trật tự nhất định: từ lu kho thành phẩm (lu bãi) đến vận chuyển, trng bày, sử dụng. Sản phẩm đợc đóng gói trong bao bì sẽ bị tác động của nhiều yếu tố trong mỗi khâu của quá trình vận động sản phẩm. Bao bì có thể đợc hiểu: - Là nghệ thuật, là khoa học và kỹ thuật công nghệ. - Là phơng tiện để đảm bảo cho sản phẩm đợc an toàn về số lợng, chất lợng từ ngời sản xuất đến ngời tiêu dùng cuối cùng với chi phí thấp nhất, trong điều kiện tối u.
- - Là nguyên tắc về thực hiện công việc chuẩn bị hàng hoá một cách kinh tế nhất để vận chuyển, lu kho, sử dụng, trng bày hàng hoá. Quan niệm bao bì ở đây đã đề cập đến các yếu tố của sản xuất bao bì, sử dụng bao bì sao cho có hiệu quả nhất. Mục đích của bao bì đã đợc xác định trong mỗi khâu của quá trình vận động hàng hoá. Sử dụng bao bì gắn liền với thực hiện nghiệp vụ bao gói hàng hoá, những nội dung cơ bản của nghiệp vụ bao bì. Bao bì đợc coi nh chiếc chìa khoá để phát triển sản xuất và lu thông hàng hoá thông qua việc cung cấp những phơng tiện để bảo vệ, chứa đựng, giữ gìn sản phẩm và cho phép sản phẩm đợc lu thông đến khắp nơi trên thế giới. Do đó nó nh một yếu tố để phát triển kinh tế. Các nhà nghiên cứu về bao bì lại có quan niệm bao bì dới một góc độ khác. Các tác giả xem xét bao bì trên cơ sở nhấn mạnh chức năng của nó. Bao bì là loại sản phẩm dùng để “bao gói và chứa đựng sản phẩm khác”. Nh vậy, bất kể sản phẩm nào dùng để bao gói chứa đựng sản phẩm khác đều là bao bì. Nhấn mạnh chức năng của bao bì để định hớng trong sản xuất bao bì phù hợp với tính chất kỹ thuật của sản phẩm, với những công nghệ thích hợp. Trong điều kiện nền kinh tế thị trờng, sản phẩm không phải sản xuất ra chỉ để tiêu dùng mà phải đợc trao đổi, lu thông. Do đó, bao bì phải là điều kiện để vận chuyển sản phẩm bảo quản sản phẩm từ nơi này sang nơi khác. Bao bì phải giúp cho ngời tiêu dùng nhận biết sản phẩm để lựa chọn, biết cách sử dụng các sản phẩm chứa đựng trong bao bì. Ở góc độ này, ngời ta lại nhấn mạnh tác dụng của bao bì trong lu thông sử dụng sản phẩm. Bao bì gắn với sản phẩm nhng ngời sử dụng không sử dụng hoặc có thể sử dụng bao bì chứa đựng những sản phẩm mà họ mua cho một mục đích nào đó. Giá trị bao bì gắn với giá trị sản phẩm. Việc chi phí một số tiền nhất định để tiêu dùng một sản phẩm nào đó có phần chi phí cho bao bì hàng hoá. Hơn nữa đối với bao bì không sử dụng khi tiêu dùng sản phẩm, bao bì sẽ bị thải loại gây ra các loại rác thải cho môi trờng. Vì thế, vấn đề đặt ra cần phải có quan niệm khácvề bao bì sao cho nó vừa đảm bảo đợc lợi ích kinh tế của ngời tiêu dùng, ngời kinh doanh, vừa đảm bảo đợc vệ sinh môi trờng. Bao bì là loại sản phẩm cần đợc xem xét ở nhiều lĩnh vực khác nhau cả trong khâu sản xuất, lu thông, tiêu dùng và cả trong lĩnh vực môi trờng. Theo Gerald K.Townshend bao bì theo nghĩa rộng là một nhân tố quan trọng bằng cách này hay cách khác hợp với các hoạt động kinh tế, kỹ thuật, xã hội thành một thể thống nhất. Rõ ràng bao bì đợc quan niệm một cách rộng lớn hơn, toàn diện hơn. Nh trên đã phân tích, dù có những quan niệm khác nhau về bao bì hàng hoá song các khái niệm trên đều có những điểm thống nhất về chức năng, vai trò của bao bì, tuy về phạm vi, tác dụng của mỗi khái niệm có những giới hạn khác nhau do nhìn nhận những chức năng của bao bì có khác nhau. Từ đó có thể đi đến một khái niệm về bao bì: bao bì là một sản phẩm đặc biệt dùng để bao gói, chứa đựng các loại sản phẩm khác nhằm bảo vệ
- giá trị sử dụng của các sản phẩn đó, tạo điều kiện thuận lợi cho việc bảo quản, vận chuyển, xếp dỡ, tiêu thụ và tiêu dùng sản phẩm, đảm bảo an toàn môi trờng. Khái niệm này đã làm rõ: - Thực chất bao bì cũng là một sản phẩm, là một hàng hoá đặc biệt đợc sản xuất theo một công nghệ nhất định. Nó bao hàm cả tính kỹ thuật, nghệ thuật, mỹ thuật. Đây là cơ sở cho sự phát triển của ngành công nghiệp bao bì hiện nay. - Nêu rõ đợc chức năng của bao bì. - Phản ánh đợc ý nghĩa kinh tế, xã hội của sản phẩm bao bì trong phạm vi nền kinh tế. Khái niệm này cũng nhấn mạnh muốn có một sản phẩm bao bì tối u và vấn đề sử dụng hiệu quả bao bì cần có sự kết hợp nhiều phía, từ các nhà sản xuất, ngời kinh doanh, ngời tiêu dùng và cả các nhà quản lý, môi trờng. 1.2.1.2. Chức năng của bao bì [11] [35] [45] Theo quan niệm truyền thống, bao bì đợc xem là “vật bảo vệ sản phẩm” và thực hiện các chức năng của nó. Đứng ở góc độ thị trờng, bao bì có ba chức năng cơ bản. Đó là: chức năng chứa đựng, bảo quản, bảo vệ hàng hoá trong quá trình lu thông; chức năng nhận biết (thông tin); chức năng thơng mại. Đây là các chức năng làm cho bao bì trở thành một công cụ quan trọng thúc đẩy hoạt động kinh doanh hàng hoá trên thị trờng. a. Chức năng chứa đựng, bảo quản và bảo vệ hàng hoá trong quá trình lu thông Hầu hết các sản phẩm khi sản xuất ra đều phải có bao bì, bao gói và chứa đựng, trừ sản phẩm của ngành khai khoáng (than, khoáng sản), ngành xây dựng cơ bản. Các sản phẩm khác đều phải đợc chứa đựng bằng phơng tiện nào đó để thự hiện quá trình lu thông từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Bao bì ra đời để phục vụ cho yêu cầu đó. Chức năng này của bao bì đã xuất hiện từ thời cổ đại. Với những chất liệu đơn giản từ da thú với hình dáng đơn sơ của bao bì nh các loại lá cây, vỏ cây, đồ gốm... bao bì đã thể hiện đợc chức năng cơ bản này và đã giúp cho con ngời chứa đựng vận chuyển những sản phẩm của họ kiếm đợc và sản xuất ra từ nơi này đến nơi khác. Bao bì giữ gìn giá trị sử dụng của sản phẩm tức là bảo vệ cho hàng hoá chống lại các tác động có hại của môi trờng và các tác động khác trong thời gian lu kho chuyên chở, bốc xếp và cả trong khâu tiêu dùng . Bao bì giữ gìn cho hàng hoá khỏi bị hao hụt, mất mát về số lợng, chất lợng trong quá trình bảo quản, phân phối, lu thông và cả mất mát do con ngời gây ra. Bao bì ngăn cản sự tác động của các yếu tố khí hậu thời tiết (nhiệt độ, độ ẩm) các vật gặm nhấm, nấm mốc, các yếu tố cơ học làm ảnh hởng đến số lợng, chất lợng, giá trị sử dụng của hàng hoá mà bao bì chứa đựng. Tức là bao bì bảo vệ sản phẩm hàng hoá trên cả bốn mặt: cơ học, khí
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn cao học QTKD: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc khách hàng tại Viễn thông Nam Định
137 p | 2634 | 1217
-
Báo cáo thực tập: Nghiên cứu tình hình tài chính doanh nghiệp và một số giải pháp nhằm nâng cao doanh thu lợi nhuận tại công ty thương mại và sản xuất vật tư thiết bị GTVT
17 p | 1128 | 487
-
Luận văn: Thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thanh toán không dùng tiền mặt tại chi nhánh Ngân hàng Công thương KVII - HBT - Hà Nội
43 p | 476 | 165
-
Luận văn: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa
78 p | 331 | 122
-
Luận văn: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng theo chuẩn mực và thông lệ Ngân hàng quốc tế
144 p | 304 | 111
-
Luận văn đề tài : Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng TMCP xuất nhập khẩu Việt Nam
109 p | 256 | 89
-
Chuyên đề tốt nghiệp: Một số giải pháp nhằm nâng cao hoạt động tiêu thụ sản phẩm tại công ty cổ phần thương mại Nguyễn Kim
54 p | 355 | 82
-
Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại Công ty TNHH sản xuất, kinh doanh trang thiết bị giáo dục bậc học mầm non Khánh An
115 p | 245 | 78
-
Luận văn:Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng TMCP xuất nhập khẩu Việt Nam
74 p | 236 | 59
-
Luận văn: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động kế toán và nâng cao chất lượng thông tin kế toán trong các doanh nghiệp Việt Nam
93 p | 248 | 58
-
Luận văn tốt nghiệp: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng bao bì trong hoạt động kinh doanh ở các doanh nghiệp thương mại nhà nước (lấy ví dụ ở địa bàn Hà Nội)
203 p | 37469 | 50
-
Luận văn:Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngân hàng Thương mại tại Thành phố Hồ Chí Minh
57 p | 185 | 48
-
LUẬN VĂN:MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ & PHÁT TRIỂN VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP
104 p | 196 | 45
-
Luận văn đề tài : Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa
83 p | 169 | 41
-
Luận văn đề tài : Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh tại ngân hàng Á Châu trong xu thế hội nhập
103 p | 141 | 37
-
LUẬN VĂN:MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ANGIANG
82 p | 139 | 30
-
Một số giải pháp nhằm hạn chế tín dụng của ngân hàng thương mại trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
71 p | 111 | 21
-
Chuyên đề thực tập: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu tại Công ty Cơ điện Trần Phú
68 p | 134 | 16
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn