MỘT SỐ KINH NGHIỆM ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT<br />
U XƠ VÒM MŨI HỌNG<br />
Trần Minh Trường *<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Mục tiêu: Xếp loại giai đoại và bàn luận về phương pháp điều trị u xơ vòm mũi họng.<br />
Phương pháp nghiên cứu: 23 trường hợp u xơ mạch vòm mũi họng tại khoa Tai Mũi Họng bệnh viện<br />
Chợ Rẫy. Chẩn đoán chắc chắn được dựa vào kết quả của chụp mạch máu có cản quang (DSA), CT scan và<br />
MRI. Điều trị phẫu thuật được áp dụng cho tất cả bệnh nhân với tắc mạch trước khi mổ.<br />
Kết quả và Bàn luận: Xếp loại giai đoạn nhóm bệnh nhân đều nằm trong giai đoạn II (10 ca) và III (13<br />
ca), Kích thước của khối u càng lớn thì tiên lượng cho cuộc phẫu thuật sẽ càng khó khăn. Những trường hợp<br />
u giai đoạn cao hơn thì có xu hướng mất máu nhiều trong khi mổ, đặc biệt những trường hợp tái phát phải<br />
phẫu thuật lại. Lượng máu mất trong khi mổ giảm so với những trường hợp nếu không làm tắc mạch.<br />
Đường mổ “lột găng” là đủ trong đa số các trường hợp mổ u xơ vòm mũi họng.<br />
Kết luận: U xơ vòm thường nằm trong giai đoạn II và III, điều trị chủ yếu là phẫu thuật với tắc mạch<br />
trước mổ cho kết quả đáng khích lệ.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
SOME EXPERIENCES ON SURGICAL TREATMENT OF NASOPHARYNGIAL FIBROMA (23<br />
SELECTIVE CASES AT ENT DEPARTMENT OF CHO RAY FROM JAN 2003 TO MAY 2007)<br />
Tran Minh Truong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 – 2008: 69 - 73<br />
Purpose: Staging and treatment discussion on Nasopharyngial Fibroma (NPF).<br />
Method: 23 cases of NPF at ENT department of Cho Ray hospital. Comfirm diagnosis is based on CT<br />
Scan, MRI and DSA. Surgical treatment is called for after pre-op embolisation.<br />
Result and Discussion: All NPF cases are grouped in stage II (10 cases) and stage III (13 cases). The<br />
bigger the tumor volume is, the more difficult the surgical intervention is. In cases of high stage, there's a<br />
trend of tremendous blood loss intra-operatively, especially in recurrent cases. Pre-op embolisation is<br />
required to reduce blood loss. "Degloving" approach is enough in most cases.<br />
Conclusion: Most NPF cases are in stage II and stage III. Surgery treatment is the only option used for<br />
all our patients, surgery was preceded by embolisation, which considerably reduces intra-operative bleeding.<br />
vòm mũi họng đã có nhiều tiến bộ đáng kể về mặt<br />
TỔNG QUAN<br />
kỹ thuật. Hiện nay phương pháp làm luồn các ống<br />
U xơ vòm mũi họng là một loại u hiếm có có<br />
catheter vào trong lòng mạch và bơm các chất gây<br />
tính chất khu trú, nhiều mạch máu và thường<br />
tắc mạch nuôi u sau đó phẫu thuật cắt u đang<br />
xuất hiện ở trẻ nam tuổi thiếu niên. Mặc dù bản<br />
được ứng dụng rộng rãi và tỏ ra có hiệu quả(2,2,4).<br />
chất đây là những khối u lành tính nhưng u có<br />
tính xâm lấn chèn ép những cấu trúc xung<br />
quanh rất cao và gây nên những di chứng thậm<br />
chí có khả năng gây tử vong cho bệnh nhân(0,2,4).<br />
Từ khi được mô tả lần đầu tiên điều trị u xơ<br />
* Khoa Tai Mũi Họng, Đại học Y Dược TP. HCM<br />
<br />
Trong thời gian từ năm 2003-2007, tại khoa<br />
Tai Mũi Họng chúng tôi đã điều trị bằng<br />
phương pháp phẫu thuật cho tổng số 43 trường<br />
hợp u xơ vòm mũi họng. Trong khoảng thời<br />
gian này, kỹ thuật làm tắc mạch máu bằng gel<br />
<br />
cũng đang được bắt đầu áp dụng rộng tại khoa<br />
chẩn đoán hình ảnh học của bệnh viện nên đa số<br />
trường hợp chúng tôi đều làm tắc mạch trước<br />
khi phẫu thuật. có 2 trường hợp do không có chỉ<br />
định can thiệp phẫu thuật vì khối u quá lớn nên<br />
chúng tôi gửi đi điều trị xạ trị. Trong bài báo cáo<br />
này chúng tôi chủ yếu nghiên cứu và đánh giá<br />
lại hồ sơ của 19 trường hợp trước mổ được cho<br />
là “khó” vì phải cân nhắc chọn lựa trước khi<br />
quyết định phẫu thuật vì nhiều lý do nhưng sau<br />
khi phẫu thuật đã thành công nên được ghi nhận<br />
rút kinh nghiệm để có thể áp dụng điều trị cho<br />
những trường hợp tiếp theo sau này.<br />
<br />
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
23 bệnh án đã được chúng tôi chọn nghiên<br />
cứu trong báo cáo này là những bệnh nhân được<br />
điều trị tại khoa Tai Mũi Họng bệnh viện Chợ<br />
Rẫy trong khoảng thời gian từ năm 1-2003 đến 42007, sau khi xác định chẩn đoán đã được chúng<br />
tôi phẫu thuật cắt u và theo dõi sau thời gian tối<br />
thiểu là 5 tháng và chưa ghi nhận trường hợp<br />
nào u tái phát trong số nghiên cứu này.<br />
<br />
Phương pháp nghiên cứu<br />
Nghiên cứu hồi cứu.<br />
<br />
- Tuổi của bệnh nhân<br />
13 -18 tuổi:<br />
<br />
17 ca<br />
<br />
19 - 25 tuổi:<br />
26 tuổi:<br />
<br />
5 ca<br />
1 ca.<br />
<br />
- Tiêu chuẩn đánh giá giai đoạn của u<br />
Chúng tôi sử cách phân loại của Sessions và<br />
công sự có được bổ xung bởi Diana Radkowsky<br />
như sau(2):<br />
<br />
III A: Làm hủy xương của vùng nền sọ - Lan<br />
rộng tối thiểu vào trong sọ.<br />
IIIB: Phát triển vào trong sọ /hay vào khu<br />
vực xoang hang.<br />
<br />
Giới tính<br />
Tất cả các bệnh nhân đều là giới nam sống ở<br />
các tỉnh thành phía Nam<br />
Bệnh nhân có tiền căn mổ trước, nay nhập<br />
viện vì có u xơ tái phát: 5 ca. Khoảng thời gian từ<br />
lúc phẫu thuật đến lúc phát hiện u tái phát sớm<br />
nhất là 3 tháng lâu nhất là 4 năm.<br />
<br />
Chẩn đoán hình ảnh học<br />
CT Scan và MRI được áp dụng cho chẩn<br />
đoán xác định cũng như đánh giá giai đoạn của<br />
u. Chụp mạch máu kỹ thuật số được áp dụng<br />
(DSA) giúp xác định chẩn đoán và làm tắc mạch<br />
trước khi điều trị phẫu thuật(1,3,4).<br />
<br />
Phương pháp phẫu thuật(1,3,4):<br />
18 ca trước mổ có làm tắc mạch bằng gel hay<br />
spongel.<br />
Đường phẫu thuật chúng tôi sử dụng để mổ<br />
lấy u phụ thuộc vào kích thước kinh nghiệm của<br />
phẫu thuật viên. Chủ yếu chúng tôi sử dụng<br />
đường “Lột găng” và đường qua rãnh lợi môi.<br />
Hai trường hợp chúng tôi sử dụng đường<br />
mổ cạnh mũi và có cắt xương hàm, đây là những<br />
bệnh nhân mổ lại, có sẹo mổ đường cạnh bên<br />
mũi của lần mổ trước.<br />
Một trường hợp sử dụng đường mổ đường<br />
xuyên hố thái dương kết hợp đường “Lột găng”.<br />
Không có trường hợp nào mở sọ phối hợp.<br />
<br />
IA: U giới hạn ở trong hốc mũi / hoặc khu trú<br />
chỉ ở vòm mũi họng.<br />
<br />
Sau khi lấy u, kiểm tra hố mổ cầm máu kỹ<br />
sau đó đặt spongel và merocele cầm máu vùng<br />
nền sọ, nhét mèche và rút ra sau 5-8 ngày.<br />
<br />
IB: U liên quan đến mũi sau và/ hoặc vòm<br />
mũi họng với liên quan ít nhất 1 xoang cạnh mũi<br />
<br />
Số lượng máu mất được đánh giá ước lượng<br />
qua lượng dịch hút vào trong bình của máy hút.<br />
<br />
IIA: Lan rộng tới hố chân bướm hàm.<br />
IIB: Lấp đầy vùng hố chân bướm hàm có hay<br />
không kèm theo ăn mòn xương hốc mắt.<br />
IIC: Xâm lấn vào hố dưới Thái dương hoặc<br />
lan rộng ra phía sau vào chân bướm.<br />
<br />
Kháng sinh dùng hậu phẫu là các kháng sinh<br />
phổ rộng (augmentin hay nhóm cephalosporin).<br />
Sau 7-10 ngày bệnh nhân có thể xuất viện, tái<br />
khám theo lịch định kỳ.<br />
<br />
KẾT QUẢ<br />
Các triệu chứng lâm sàng<br />
- Nghẹt mũi: 18 trường hợp (78%).<br />
- Chảy máu mũi: 15 trường hợp (60%), chảy<br />
máu mũi 1 bên tái phát nhiều lần.<br />
- Nhức đầu: 10 trường hợp (43%), đặc biệt<br />
trong trường hợp xoang bị viêm tắc.<br />
- Sưng mặt và biến dạng vùng gò má: 2<br />
trường hợp.<br />
- Viêm xoang kèm theo thường xuyên chảy<br />
mũi: 5 trường hợp.<br />
- Các triệu chứng khác ít và không rõ như<br />
mất mùi, đau tai, v.v.<br />
- Mù 2 mắt: 1 bệnh nhân.<br />
<br />
Đánh giá giai đoạn của u<br />
Theo bảng phân loại của Session và Diana<br />
Radkowsky chúng tôi ghi nhận như sau:<br />
Giai đoạn IIA: 5 ca.<br />
Giai đoạn IIB: 5 ca.<br />
Giai đoạn IIIA: 6 ca.<br />
Giai đoạn IIIB: 7 ca.<br />
<br />
Thời gian nằm viện<br />
Thời gian nằm viện trung bình 7-10 ngày.<br />
<br />
Lượng máu mất trong khi mổ<br />
Lượng máu mất trung bình trong mổ là<br />
200cc, nhiều nhất khoảng 800 - 1000cc, lượng<br />
máu truyền trung bình là 2 đơn vị, nhiều nhất là<br />
6 đơn vị.<br />
Có 4/23 trường hợp chúng tôi không cần<br />
truyền máu trong và sau mổ.<br />
<br />
Hình ảnh học<br />
Hình ảnh học rất quan trọng cho phép<br />
đánh giá tiên lượng những khó khăn của cuộc<br />
phẫu thuật.<br />
Tất cả bệnh nhân đều được chụp CT Scan có<br />
bơm cản quang trước mổ để đánh giá mức độ<br />
lớn và thương tổn.<br />
MRI thực hiện trong một số trường hợp khi<br />
cần đánh giá trước mổ những trường hợp u có<br />
dấu hiệu phá hủy xương bộc lộ màng não xâm<br />
<br />
lấn trong não hay xâm lấn và làm mòn hủy<br />
xương vùng xoang hang.<br />
DSA: Hình ảnh thu được cho phép đánh giá<br />
nguồn máu nuôi chủ yếu của khối u là từ nhánh<br />
động mạch hàm trong cùng bên một số được<br />
nuôi bởi nhánh của động mạch màng não hay<br />
động mạch cảnh trong.<br />
<br />
BÀN LUẬN<br />
Kích thước của u<br />
Chúng tôi nhận thấy kích thước của khối u là<br />
vấn đề đầu tiên của phẫu thuật viên quan tâm,<br />
những u càng lớn thì chắc chắn tiên lượng sẽ<br />
càng khó vì mức độ bám dính, chảy máu cũng<br />
như khả năng tái phát. Xếp loại giai đoạn cho<br />
thấy nhóm bệnh nhân này đều nằm trong giai<br />
đoạn II b,c và III và như vậy có thể nói kích<br />
thước của khối u càng lớn thì tiên lượng cho<br />
cuộc phẫu thuật sẽ càng khó khăn.<br />
Hiện nay có 2 cách phân loại giai đoạn của u<br />
xơ vòm mũi họng được thông dụng, cách thứ<br />
nhất là phân loại theo Session (1981) và cách thứ<br />
hai là phân loại theo tác giả Fish. Chúng tôi chọn<br />
theo cách phân loại của Session vì phương pháp<br />
này cho phép đánh giá chi tiết hơn những vị trí<br />
kích thước của u, từ đó giúp tiên lượng chính<br />
xác hơn khả năng tái phát hoặc các tai biến trong<br />
và sau mổ u.<br />
<br />
Đường mổ<br />
Hầu hết bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu<br />
đều được phẫu thuật lấy u qua đường “lột<br />
găng” hoặc đường rãnh lợi môi, 2 đường mổ<br />
này tránh được sẹo ảnh hưởng thẩm mỹ trên<br />
mặt của bệnh nhân nhưng vẫn đảm bảo bộc lộ<br />
đủ rộng cần thiết để lấy u, khi gặp khó khăn<br />
phẫu thuật viên có thể nhanh chóng chuyển biến<br />
thành đường mở rộng hơn cạnh bên mũi hay<br />
mở nắp xương vùng xoang hàm.<br />
Hai trường hợp mổ đường cạnh bên mũi do<br />
đây là những trường hợp u tái phát và lần mổ đầu<br />
cũng bằng đường cạnh bên mũi. Cũng như các tác<br />
giả khác, chúng tôi nhận thấy đường mổ “lột<br />
găng” và qua đường rãnh lợi môi là đủ trong đa số<br />
các trường hợp mổ u xơ vòm mũi họng.<br />
<br />
Để lấy u trong khi phẫu thuật với phần u<br />
chính nằm trong hốc mũi chúng tôi quen dùng<br />
thìa Taptas (cắt amidan) sau đó đẩy u từ phía<br />
sau ra trước, như vậy trong khi lấy u có thể kiểm<br />
soát chảy máu khi những mạch máu lớn bị<br />
thương tổn cũng như tránh làm rách màng não,<br />
trường hợp nếu u quá to và nhiều thùy chúng ta<br />
cũng có thể dùng dao điện cắt nhỏ u thành từng<br />
phần sau đó bóc tách cẩn thận để lấy hoàn toàn<br />
u. Nếu u xâm lấn vào phía sau vùng chân bướm<br />
hàm hay vùng hố thái dương hay xoang bướm<br />
thì khi mổ nên dùng đèn Clar có độ sáng mạnh<br />
hay dùng nội soi để thấy rõ những phần của<br />
khối u còn “non” rất mềm màu trắng ngà dễ<br />
dàng lấy ra trái ngược với những phần u đã phát<br />
triển “già” màu đỏ ngà dai và rất khó lấy.<br />
Tại bệnh viện Chợ Rẫy có sự phối hợp tích<br />
cực giữa chuyên khoa Ngoại Thần kinh và<br />
chuyên khoa Tai Mũi Họng, đã có nhiều trường<br />
hợp dự định cần sự can thiệp mở sọ nhưng thực<br />
tế cho đến nay chưa có trường hợp nào phải mở<br />
sọ để lấy u.<br />
<br />
Các dấu hiệu lâm sàng<br />
Có thể nói các triệu chứng nổi bật trong<br />
những trường hợp của chúng tôi là nghẹt mũi và<br />
chảy máu mũi. Những năm gần đây cùng với sự<br />
phát triển của chuyên ngành Tai Mũi Họng là sự<br />
phát triển của nội soi nên người bệnh có thể<br />
được chẩn đoán phát hiện sớm, tuy nhiên do<br />
nhiều nguyên nhân nên vẫn còn nhiều những<br />
bệnh nhân đến khám bệnh trễ, triệu chứng<br />
không chỉ nghẹt mũi chảy máu mà còn có những<br />
triệu chứng hay gặp khác như nhức đầu, ù tai.<br />
Khi các xoang bị liên quan thì thường xoang<br />
hàm là hay bị nhất do u bịt tắc các lỗ thông gây<br />
viêm xoang và ứ dịch hoặc mủ bên trong. Với<br />
xoang bướm u xơ hay xâm lấn vào trong lòng<br />
xoang nhưng lấy u ra thường cũng dễ dàng.<br />
Một bệnh nhân đã được mổ 5 tháng trước,<br />
lần nhập viện do tái phát này đã bị mù cả 2 mắt<br />
nhưng sau khi lấy u ra thì 1 bên đã sáng trở lại<br />
và bệnh nhân có thể sinh hoạt học tập với con<br />
mắt duy nhất đó.<br />
<br />
DSA và đánh giá số lượng máu mất<br />
Tiến bộ của kỹ thuật chụp mạch máu trong<br />
những năm gần đây đã đóng góp vai trò tích cực<br />
trong phẫu thuật giải quyết u xơ vòm mũi họng.<br />
Hầu hết các bệnh nhân u xơ vòm tại bệnh viện<br />
Chợ Rẫy đều được chụp DSA và có thể làm tắc<br />
mạch trước mổ.<br />
Hình ảnh cho thấy rõ các nguồn nuôi của u<br />
đa số là từ động mạch Hàm trong ngoài ra còn<br />
có những nhánh nhỏ khác trực tiếp từ động<br />
mạch cảnh ngoài và động mạch cảnh trong cùng<br />
bên, rất ít trường hợp có nhánh nuôi từ hệ cảnh<br />
đối bên. Đa số những nhánh mạch nuôi phụ là<br />
những nhánh nhỏ trong khi mổ không gây ảnh<br />
hưởng chảy máu nhiều, tuy nhiên ghi nhận có 2<br />
trường hợp u được nuôi từ nhánh của động<br />
mạch đoạn ngay trước khi chia nhánh động<br />
mạch mắt, chúng tôi bắt buộc phải làm tắc vì u<br />
rất lớn có liên quan đến mắt làm cho 1 bệnh<br />
nhân mù cả 2 bên.<br />
Chất được dùng để làm tắc mạch là những<br />
chất sinh học có thể hấp thu được (spongel,<br />
gelfoam), gần đây bệnh viện Chợ Rẫy thường sử<br />
dụng keo sinh học và kết quả tốt chưa có trường<br />
hợp tai biến nào xảy ra.<br />
Lượng máu mất trong khi mổ có thể nói rất<br />
cảm nhận là có giảm so với những trường hợp<br />
nếu không làm tắc mạch, tuy nhiên theo chúng<br />
tôi rất khó để nói chính xác sẽ là tiết kiệm hay<br />
giảm chảy máu được bao nhiêu cho từng trường<br />
hợp cụ thể vì có trường hợp u giai đoạn IIIa,b<br />
mà trường hợp chúng tôi không cần truyền máu,<br />
hay ngược lại có ca u giai đoạn IIa,b sau khi làm<br />
tắc mạch khi phẫu thuật lấy u vẫn chảy máu<br />
nhiều cần phải truyền máu. Trên thực tế cho<br />
thấy những trường hợp u giai đoạn cao hơn thì<br />
có xu hướng mất máu nhiều hơn trong khi mổ,<br />
đặc biệt những trường hợp phải phẫu thuật lại.<br />
Chụp DSA còn rất có giá trị để phân biệt<br />
giữa những trường hợp u xơ tái phát và mô sẹo<br />
sau khi mổ.<br />
<br />
Biến chứng<br />
<br />
2.<br />
<br />
Những biến chứng về mắt 5 bệnh nhân<br />
trong đó có 1 bệnh nhân mù 2 mắt trước mổ, 1<br />
bệnh nhân mù 1 bên.<br />
<br />
3.<br />
<br />
Sau mổ 1 bệnh nhân bị sụp mi mắt 1 bên, 4<br />
bệnh nhân có sưng nề kết mạc sau mổ nhưng các<br />
triệu chứng ổn định trươc khi xuất viện. Không<br />
bệnh nhân nào hẹp hốc mũi sau mổ cũng như các<br />
lỗ mở khí quản đều ổn định sau khi rút canula.<br />
KẾT LUẬN<br />
U xơ vòm mũi họng hiện nay vẫn được coi là<br />
một dạng u hiếm gặp, do đặc điểm riêng u thường<br />
lan rộng ra ngoài vùng vòm mũi họng và gây nên<br />
những triệu chứng đặc biệt rất dễ dàng nhận ra<br />
hay được gợi ý như xảy ra trên bệnh nhân giới<br />
nam, tuổi thiếu niên với các triệu chứng nghẹt mũi,<br />
thỉnh thoảng chảy máu mũi, ù tai v.v.<br />
Hình ảnh học cho phép đánh giá chính xác<br />
giai đoạn, mức độ xâm lấn rộng vào các mô<br />
xung quanh của u cũng như mức độ phá hủy<br />
xương có liên quan ở vùng nền sọ hay xoang<br />
hang.<br />
Điều trị phẫu thuật vẫn còn là phương pháp<br />
chủ yếu, xạ trị dành cho những trường hợp<br />
không thể phẫu thuật được. Đường phẫu thuật<br />
qua rãnh lợi môi hay đường “lột găng” chúng<br />
tôi thấy có thể áp dụng được cho đa số các<br />
trường hợp những đường mổ rộng hoặc xuyên<br />
qua hố thái dương có thể đôi khi được sử dụng<br />
khi có chỉ định.<br />
Mặc dù đã có những kỹ thuật mới được áp<br />
dụng nhưng tỷ lệ tái phát sau mổ vẫn được ghi<br />
nhận khoảng 20%, trong số nhóm nghiên cứu<br />
này chúng tôi chưa thấy tái phát nhưng trong<br />
tổng số chung mổ u xơ thì tỷ lệ tái phát là 15%.<br />
Như vậy, điều nhắc nhở cuối cùng là nếu<br />
một bệnh nhân nam tuổi trưởng thành có dấu<br />
hiệu nghẹt mũi, chảy máu mũi thì cần sớm được<br />
khám bởi các bác sĩ chuyên khoa Tai Mũi Họng.<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1.<br />
<br />
el Messaoudi. A.. Le fibrome nasopharyngien. Notre<br />
experience a travers 12 cas. Revue de Laryngologie<br />
Otologie Rhinologie 1991. Vol 112 N5: 433-5.<br />
<br />
4.<br />
<br />
Jamal MN. Imaging and management of angiofibroma.<br />
Eur Arch Otolarynol 1994; 251: 241-5.<br />
Radkowsky D. Angiofibroma: Changes in staging and<br />
treatment. Arch Otolaryngol Head and neck Surg, Feb<br />
1996: p122-129.<br />
Tran Ba Huy P, Nottet IB, George B.: Chirurgie du fibrome<br />
nasopharyngé. EMC 1994: 1-8.<br />
<br />