YOMEDIA
ADSENSE
Một số lễ hội mùa xuân qua mấy vần ca dao
93
lượt xem 6
download
lượt xem 6
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Ở nước ta, nhất là ở miền Bắc từ Nghệ Tĩnh trở ra, mùa Xuân là mùa của hội hè đình đám. Ca dao ta có câu: Tháng Giêng ăn Tết ở nhà, Tháng Hai cờ bạc, tháng Ba hội hè. Thế nhưng, không phải chỉ có “tháng Ba hội hè” mà hội hè trải dài suốt cả mùa Xuân
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Một số lễ hội mùa xuân qua mấy vần ca dao
- Một số lễ hội mùa xuân qua mấy vần ca dao
- Ở nước ta, nhất là ở miền Bắc từ Nghệ Tĩnh trở ra, mùa Xuân là mùa của hội hè đình đám. Ca dao ta có câu: Tháng Giêng ăn Tết ở nhà, Tháng Hai cờ bạc, tháng Ba hội hè. Thế nhưng, không phải chỉ có “tháng Ba hội hè” mà hội hè trải dài suốt cả mùa Xuân. Đây là hội tháng Giêng: Lễ Phật quanh năm, Không bằng hội Rằm tháng Giêng. Đây là hội tháng Hai: Ai là con cháu Rồng Tiên Tháng Hai mở hội Trường Yên thì về . . . Đây là hội tháng Ba: Tình cờ ta lại gặp ta, Vui bằng mở hội tháng Ba đền Sòng. Có những địa phương như vùng “quan họ” Bắc Ninh còn vạch ra lịch vui Xuân của từng làng để các làng tổ chức khỏi trùng nhau và dân chúng các vùng lân cận có thể tham gia: Mồng bốn là hội Kéo Co,
- Mồng năm hội Ó chẳng cho nhau về. Mồng sáu đi hội Bồ Đề, Mồng bảy trở về đi hội Đống Cao . . . Có một số hội Xuân lại được tổ chức vào thượng tuần tháng Tư: Ai ơi, mồng chín tháng Tư, Không đi hội Gióng cũng hư một đời! Hay: Mồng bảy hội Khám, Mồng tám hội Dâu, Mồng chín đâu đâu Trở về hội Gióng. Tại sao hội hè đình đám lại thường được tổ chức nhiều nhất là vào mùa Xuân và thứ đến là mùa Thu? Ngày trước, nước ta là một nước nông nghiệp theo phương pháp canh tác cổ truyền. Vào ngày mùa, người nông dân phải quần quật suốt ngày ngoài đồng ruộng. Do đó, họ cần phải có một khoảng thời gian nào đó để nghỉ ngơi, giải trí, thụ hưởng cái thành quả lao động dù ít oi của mình. Mùa Xuân chính là mùa lý tưởng nhất. “Hằng năm họ chỉ có hai dịp rảnh rỗi sau vụ cấy lúa Chiêm vào tháng Chạp và lúa Mùa vào tháng Bảy. Giêng, Hai và tháng Tám là lúc dân quê được nghỉ ngơi, lúa lúc này đã cấy xong và những hoa màu phụ cũng đã trồng, mùa gặt chưa tới và hoa màu phụ cũng chưa dỡ. Nhân dịp này các làng tổ chức hội hè cho dân chúng mua vui.” (1)
- Trong tác phẩm Việt Nam Văn Hóa Sử Cương, nhà khảo cứu Đào Duy Anh cũng đưa ra nhận xét: “Trong làng thường năm có nhiều kỳ tế lễ để dân làng có dịp “ăn uống” và “vui chơi”. Những cuộc tế 1ễ lớn nhất là lễ Kỳ phúc về mùa Xuân và mùa Thu để cầu bình yên cho dân làng, lễ Nhập tịch hay vào đám vào khoảng tháng Giêng, tháng Hai, khi thường thì chiếu lệ tế lễ dăm bảy ngày, năm nào hòa cốc phong đăng dân gian làm ăn thịnh vượng hay nhân lễ rước sắc thần, hay nhân lễ khánh thành đình mới thì mở Đại hội, bày những cuộc vui chơi hát xướng đến nửa tháng hay cả tháng.” (2) Các lễ hội mùa Xuân ở nước ta có từ bao giờ? Thật khó mà trả lời cho xác đáng. Có một điều ta có thể xác nhận là ngay từ thời dân ta còn sống dưới chế độ bộ lạc quây quần ở vùng đất châu thổ sông Hồng ngày nay, tức thời đại Hùng Vương, thì đã manh nha hình thức của lễ hội mùa Xuân. Trong tác phẩm Việt Nam Cổ Văn Học Sử, tác giả Nguyễn Đổng Chi đã viết: “Vào những ngày hội hoặc ngày tế thần, thường thường là mùa Xuân xa ngày cấy hái, trai gái các bộ lạc thôn ấp thường tụ tập lại một nơi, đặt ra lời ví hát ghẹo nhau, trong khi gảy đờn, thổi sáo, đánh trống, múa nhảy hay là bày các trò vui.” (3) Thường thường lễ hội mùa Xuân được tổ chức ở chùa hay đình làng. Chùa là nơi thờ Phật. Đình, miếu là nơi thờ Thần.
- “Miếu là chỗ quỷ thần bằng y, đình là nơi thờ vọng, và để làm nơi công sở cho dân chúng hội họp.” (4) “Làng nào cũng có một cái nhà chung (tức là Đình Làng – ĐĐN chú thích) vừa là nơi thờ Thần, vừa là nơi tụ hội của dân. Đối với dân làng, thần Thành Hoàng là biểu hiệu của lịch sử, phong tục, đạo đức, pháp lệ cùng hy vọng chung của cả làng, lại cũng là một thứ quyền uy siêu việt, một mối liên lạc vô hình, khiến cho hương thôn thành một đoàn thể có tổ chức và hệ thống chặt chịa.” (5) Đình miếu là nơi thờ thần Thành hoàng. Mỗi làng thờ một vị thần Thành hoàng, có làng thờ hai hoặc ba vị. Các vị Thành hoàng có thể là những nhân vật huyền thoại của dân tộc như Phù Đổng Thiên Vương, Chữ Đồng Tử, Liễu Hạnh Công chúa…hay các nhân vật lịch sử có công với dân tộc như Hai Bà Trưng, Đinh Tiên Hoàng, Trần Hưng Đạo…Có làng thờ Thành hoàng là người đã có công xây dựng ra làng như Hoàng Cao Khải được thờ ở Thái Hà ấp, Nguyễn Công Trứ được làm Thành Hoàng ở nhiều đình làng thuộc hai huyện Tiền Hải và Kim Sơn tỉnh Ninh Bình. Lại có nhiều làng, vì niềm tin đặc biệt vào những người thác sinh vào ngày giờ được xem là linh thiêng cũng được dân làng thờ làm thần Thành hoàng, lắm khi các vị thần này là những tà thần ăn trộm, thần tà dâm v.v. . . Trong các ngày lễ hội, ngoài các chính lễ được thực hiện một cách trang trọng như lễ mộc dục (tắm cho tượng thần thờ trong đình) các hình thức tế lễ…còn có một nghi thức đặc biệt gọi là “hèm”, người ta thường bày một trò tiêu biểu để
- nhắc lại tâm tính, sự nghiệp hoặc hành vi của vị thần làng thờ. Như sau đây chúng ta sẽ thấy trong sự tích “đánh giặc Ân” của Thánh Gióng tức Phù Đổng Thiên Vương, sự tích “cờ lau tập trận” của Đinh Bộ Lĩnh tức vua Đinh Tiên Hoàng, hay trong lệ “rã đám” của làng La Khê ở Hà Đông. Cây có cội, nước có nguồn, người có tổ tông. Dân ta không bao giờ quên nguồn gốc tổ tông của mình. Thế nên đã từ ngàn xưa, dân ta không bao giờ quên được ngày giỗ Tổ Hùng Vương: Ai về Phú Thọ cùng ta, Vui ngày Giỗ Tổ tháng Ba mồng mười. Dù ai đi ngược về xuôi, Nhớ về Giỗ Tổ mồng mười tháng Ba. Và có lẽ cũng đã tự ngàn xưa, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương đã được xem là ngày Quốc lễ. Hằng năm, tại Đền các vua Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh thuộc phủ Lâm Thao tỉnh Phú Thọ, dân làng Cổ Tích vẫn theo cổ lệ tổ chức hội Giỗ Tổ từ ngày đầu tháng Ba mãi đến ngày chính lễ là ngày 10 tháng Ba mới rã đám. Dân bốn phương trong nước lũ lượt đổ về đây dự Hội để tỏ lòng tưởng nhớ và biết ơn các vị Vua Hùng đã dày công khai sáng Tổ Quốc Việt Nam. Vào ngày chính lễ mồng mười tháng Ba có Quốc tế do đại diện triều đình cử về làm chủ tế. Về sau chính quan đầu tỉnh Phú Thọ thay mặt triều đình đứng chủ tế. Trong thời gian từ ngày khai hội đến
- ngày mãn hội, có nhiều trò chơi được tổ chức cho dân bốn phương về thưởng thức như trò đu tiên, leo giây, thả diều, đánh còn v.v . . . Đu tiên mới dựng năm nay Cô nào hay hát kỳ này hát lên. Tháng Ba nô nức hội Đền Nhớ ngày Giỗ Tổ bốn nghìn năm nay. Dạo xem phong cảnh trời mây. Lô Đà, Tam Đảo cũng quay đầu về. Khắp nơi con cháu ba kỳ. Kẻ đi cầu phúc, người đi cầu tài. Sở cầu như ý ai ai. Xin rằng nhớ lấy mồng mười tháng Ba. Ngày Giỗ Tổ cũng còn là dịp hẹn hò của bà con gần xa gặp nhau để nhắc nhở nhau giữ gìn nước Tổ, cầu chúc cho nhau những lời tốt đẹp mặn nồng: Đến dây sum họp vui cười, Trước là lễ Tổ viếng nơi mộ phần. Sau là tài tử giai nhân Hàn huyên kể nỗi kẻ gần người xa. Gần xa ta cũng một nhà. Cũng dòng Hồng Lạc, cũng là viêm bang.
- Chúc rằng: phú quí thọ khang. Tổ cho phúc trạch bình an muôn nhà Rời đất Tổ Phú Thọ, chúng ta hãy cùng nhau về thăm vùng đất phát tích vị anh hùng huyền thoại của Dân tộc: Đức Thánh Gióng tức Phù Đổng Thiên Vương: Ai ơi, mồng chín tháng Tư, Không đi hội Gióng cũng hư một đời. Làng Gióng tức làng Phù Đổng thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Hội đền Phù Đổng Thiên Vương tục gọi là hội Gióng được tổ chức vào ngày mồng 9 tháng Tư với sự tham dự của dân 4 làng thuộc tổng Phù Đổng: Phù Đổng, Phù Dực, Đồng Viên và Đồng Xuyên. Hội tổ chức cuộc rước lịch sử với những hình ảnh thật rực rỡ diễn lại sự tích “đánh giặc Ân” của cậu bé làng Gióng mà về sau được các vua phong tặng là Phù Đổng Thiên Vương. Trước ngày hội Gióng, các địa phương kế cận đã có hội Khám và hội Dâu : Mồng bảy hội Khám, Mồng tám hội Dâu, Mồng chín đâu đâu Thì về hội Gióng. Hay: Râm râm hội Khám, U ám hội Dâu, Vỡ đầu hội Gióng.
- Lại có câu : Dù ai buôn bán trăm nghề Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu. Khám tức làng Vân Khám xứ Kinh Bắc. Dâu tức làng Dâu nay là xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc. Thiên Ứng Tự nằm trên đất làng Dâu nên dân gian quen gọi là chùa Dâu. Chùa Dâu nổi tiếng với bốn pho tượng gọi là tượng Tứ Pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện. Chùa thờ Phật mẫu Man Nương, một nhân vật huyền thoại của Phật Giáo Việt Nam từ thời Bắc thuộc lần thứ nhất, dưới đời Sĩ Nhiếp làm Thái thú đất Giao Chỉ (187-226). Hội Dâu được tổ chức mỗi năm hai lần : một lần vào ngày 17 tháng Giêng tương truyền là ngày sinh của Man Nương với tục thi làm bánh dầy thật hấp dẫn. Ngày hội chính thức được tổ chức vào ngày Phật Đản (cũ) tức là ngày mồng tám tháng Tư với đám rước tượng Tứ Pháp thật linh đình, ngoạn mục. Theo kinh nghiệm của dân chúng địa phương, vào những ngày đầu tháng Tư, bầu trời thường có mây đen vần vũ và sau đó là những cơn mưa đầu mùa Hạ, do đó mới có câu “râm râm hội Khám, u ám hội Dâu”. Hơn nữa, như trong tên gọi Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện (mây, mưa, sấm, chớp) đã cho ta thấy hệ thống chùa Tứ Pháp trong giai đoạn hình thành đã nói lên một nhu cầu thiết yếu
- củasinh hoạt nông nghiệp: Mưa, và vì vậy, một số trò diễn trong các lễ hội mùa Xuân của hệ thống Tứ Pháp thường mang hình thức “rước nước cầu mưa” : Ba bà trẩy hội chùa Un, Mưa gió ùn ùn , thiên hạ lại dễ làm ăn. Tục lệ rước tượng Tứ Pháp với những điệu múa dân gian đầy màu sắc ngoạn mục vào ngày mồng 8 tháng Tư luôn luôn là một hình ảnh đầy sức quyến ru: Dù ai buôn bán đâu đâu Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về. Dù ai buôn bán trăm nghề, Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu. Hội Gióng là nơi qui tụ nhiều khách thập phương đến để xem diễn lại sự tích “Thánh Gióng đánh giặc Ân” và để tưởng nhớ lại công ơn của vị anh hùng Dân Tộc. Trẻ con trong làng và quanh vùng cũng bắt chước “diễn trận” nên mới sinh ra cái cảnh “vỡ đầu hội Gióng”. Lại có câu: Mồng bảy hội Khám, Mồng tám hội Dâu, Mồng mười hội Bưởi không đâu vui bằng. Làng Bưởi là tên Nôm của làng Đại Bái, nay thuộc huyện Gia Lương, tỉnh Hà Bắc. Làng này xưa nổi tiếng về nghề gò đồng, thờ ông Nguyễn Công Truyền
- làm tổ sư, gọi là Đại Bái tiên sư. Làng này có tục lệ tế Tiên sư thật đặc biệt, đó là lễ thắp hương của những người đồng niên canh. “Tất cả dân làng và những người làng đã đi cư ngụ nơi khác, nếu có điều kiện về lại quê hương đều theo một quy ước chung: cứ đến tuổi 49 là tuổi ra lềnh, người nào cũng có nhiệm vụ thắp hương hàng ngày ở đền thờ Tổ. Lần lượt năm nay số người đồng hương đến lễ, năm sau sẽ là tốp người kế tiếp vào tuổi ấy, ra thắp hương từ sáng sớm. Người ở xa không về được, có thể gửi hương về nhờ bạn cùng lứa tuổi mình thắp hộ.” (6) Rời hội Bưởi của xứ Hà Bắc, chúng ta hãy về Hà Nam tham dự ngày hội tưởng nhớ công ơn của Triệu Quang Phục tức Triệu Việt Vương (549-571) người đã có công lãnh đạo dân ta kháng chiến chống lại tướng nhà Lương của Trung Hoa là Trần Bá Tiên, một tên Thái thú tàn ác đang cai trị đất Giao Châu: Làng Đọ bơi trải, Làng Nội lãi lèn, Làng Chiền chạy ngựa. Ba làng này thuộc xã Chung Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Trên bờ sông Long Xuyên chảy qua ba làng có đền thờ Dạ Trạch Vương Triệu Quang Phục. Hằng năm vào những ngày đầu tháng Giêng, ba làng này mở hội Xuân để tưởng nhớ Triệu Việt Vương. Dân làng Đọ tổ chức bơi thuyền trải, một loại thuyền nhỏ và dài, còn gọi là thuyền ngo. Dân làng Nội thi hát “lãi lèn”, một điệu dân ca cổ của dân huyện Lý Nhân. Dân làng Chiền có tục thi múa ngựa giấy.
- Nước ta có nhiều sông ngòi – sông thiên nhiên và sông đào. Do đó, tục đua thuyền vào các ngày lễ hội thường được nhiều làng thực hiện. Thuyền đua có hai hình thức : hoặc thuyền trải hoặc thuyền rồng – tức loại thuyền có chạm đầu rồng ở đầu thuyền hay cả hình rồng suốt lườn thuyền : Cầu Quan vui lắm ai ơi, Trên thì chợ họp, dưới bơi thuyền rồng. Cầu Quan xưa là huyện lị của huyện Nông Cống tỉnh Thanh Hóa. Nơi đây có chợ Thượng họp ngay trên bờ một con sông đào từ thời nhà Lê. Xưa kia, hằng năm đến đầu mùa Xuân, Cầu Quan có hội đua thuyền rồng cho trai tráng trong làng thi tài. Dân chúng kéo về chợ Thượng vào ngày đầu Xuân vừa mở hàng phiên chợ Tết, vừa được xem bơi thuyền rồng. Hoặc như : Quyển Sơn vui thú nhất đời, Dốc lòng trên giặm, dưới bơi ta về. Làng Quyển Sơn nằm trên bờ sông Đáy thuộc huyện Kim Bảng, tình Hà Nam là nơi có nhiều thắng cảnh kỳ thú. Hàng năm làng tổ chức hội Xuân vào tháng Giêng với tục thi hát giặm – một thể điệu dân ca miền Bắc và bắc Trung Phần, và thi bơi trải. Làng Đạo Chân tức Kẻ Dầu tỉnh Bắc Ninh cũng có tục đua thuyền : Kẻ Dầu có quán Đình Thanh,
- Kẻ Hạc ta có ba đình, ba voi. Mười tám cất thuyền xuống bơi, Mười chín giã bánh, hai mươi rước Thần. Rước Thần tức rước tượng thần Thành hoàng của làng. Rời xứ Kinh Bắc đa tình, chúng ta hãy về thăm Ninh Bình, nơi dấy nghiệp của vị Vua đầu tiên của nước Việt Nam độc lập: Đinh Tiên Hoàng. Ai là con cháu Rồng Tiên, Tháng Hai mở hội Trường Yên thì về. Về thăm đất cũ Đinh Lê, Non xanh, nước biếc bốn bề như xưa. Làng Trường Yên thuộc huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình là nơi có đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng. Hằng năm làng mở hội Xuân từ ngày 15 đến ngày 20 tháng Hai. Trong những ngày hội có nhiều trò vui chơi như thi thơ, hát chèo, chọi gà, bơi thuyền và đặc biệt nhất là diễn lại sự tích “cờ lau tập trận” của Đinh Bộ Lĩnh thuở hàn vi. Một số trẻ mục đồng được làng lựa chọn khoanh tay làm kiệu rước một trẻ mục đồng khác đóng vai Đinh Bộ Lĩnh. Trong cuộc diễn, họ cùng hát lại bài ca tương truyền là đã có từ thời Đinh Bộ Lĩnh còn chăn trâu và tổ chức tập trận bằng cờ lau: Cỏ cây ấy, nước non này, Nước non quanh quất, cỏ cây xanh rì.
- Rừng hoang, cỏ rậm để chi, Phen này ta quyết dọn đi cho rồi. Này này chúng bạn ta ơi! Ở trên là một số lễ hội mùa Xuân tiêu biểu nói lên lòng tín mộ và tri ân các bậc anh hùng liệt nữ đã dày công xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam thân yêu qua suốt dọc trường kỳ lịch sử của Dân Tộc. Có thể nói từ thời Quốc Tổ Hùng Vương qua thời Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Bố Cái Đại Vương . . . thời kỳ Độc Lập với Ngộ Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Quang Trung . . . đến thời kỳ kháng Pháp với Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu . . . hầu như không có một vị anh hùng Dân Tộc nào lại không được dân ta sùng bái, hương khói phụng thờ. “Việc thờ cúng các danh nhân anh hùng chẳng những do lòng biết ơn các Ngài mà còn do thành tâm cầu xin các Ngài phù giúp dân làng họăc tiếp tục góp công bảo vệ đất nước.” (7) Trong hàng các nhân vật huyền thoại được dân ta thờ phụng như Phù Đổng Thiên Vương, Chữ Đồng Tử, Tản Viên Sơn Thần thì Liễu Hạnh Công Chúa “tuy phải sinh sau ba vị kia cả ngàn năm, Thánh mẫu Liễu Hạnh lại được sùng kính tôn thờ như tín ngưỡng dân gian lan rộng khắp nơi, từ Phủ Giầy Nam Định đến chù Thiên Minh Lạng Sơn, vào đền Sòng Thanh Hóa, ra Tây Hồ Thăng Long, vào Sóc Hương Nghệ An đâu đâu cũng hiển linh thiêng liêng.” (8)
- Đã có nhiều câu ca dao ghi lại ngày hội Thánh mẫu Liễu Hạnh: Tháng Tám giỗ Cha, Tháng Ba giỗ Mẹ. Hay: Nhất hội Hương Tích, Nhì hội Phủ Giầy. Giỗ Cha tức giỗ Đức Thánh Trần. Đức Thánh Trần là tên gọi cung kính của dân gian đối với Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, vị anh hùng Dân Tộc đã ba lần lãnh đạo nhân dân Việt Nam chống cuộc xâm lăng của giặc Nguyên dưới thời nhà Trần vào thế kỷ thứ 13. Đền Thánh mẫu Liễu Hạnh tục gọi là đền Phủ Giầy toạ lạc tại xã Vân Cát, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Hằng năm đền mở hội từ ngày mồng 1 đến ngày mồng 3 tháng Ba mới rã đám. Hội Phủ Giày còn gọi là ngày hội Thánh Vân Hương thu hút hàng trăm ngàn người ở khắp các tỉnh miền trung du Bắc Việt và bắc Trung Việt. Đây được xem là ngày Hội Xuân lớn nhất đất Bắc và thời trước được xem là ngày quốc lễ. Vào ngày khai Hội, triều đình cử một vị quan Khâm Sai Đại Thần hoặc là quan Tổng Đốc Nam Định đứng làm chủ tế. Trong suốt thời gian lễ hội có nhiều trò vui chơi như ca hát, kéo chữ, đánh cờ . . . đặc biệt nhất là các cuộc tế lễ rất linh đình thu hút khá đông các “đồng cô, bóng cậu”. Tưng bừng và hấp dẫn nhất, đó là đám rước Thánh mẫu từ đền Phủ Giầy đến xã Phù Chính ở chân núi Gôi vào ngày mồng 6 tháng Ba.
- Đây là một đám rước đầy màu sắc và hương vị : màu sắc của cờ xì, áo quần, hương vị của các loại hoa quả và hương đèn của một rừng người kéo dài hàng năm bảy cây số ngàn. Ở Thanh Hóa có đền Sòng thờ Thánh mẫu Liễu Hạnh cũng là nơi được dân chúng đến chiêm bái rất đông, nhất là vào ngày húy kị mồng 8 tháng Ba của Đức Thánh Mẫu. Đền Sòng cũng tổ chức những trò vui chơi như ở đền Phủ Giầy. Phần lớn đệ tử của Mẫu Liễu Hạnh đến đền Sòng để cầu trừ tà ma và tật bệnh : Tình cờ ta lại gặp ta Vui bằng mở hội tháng ba đền Sòng Đạo Phật du nhập vào nước ta ngay từ những thế kỷ đầu của thiên niên kỷ thứ nhất. Rồi từ thời kỳ nước nhà giành được Độc Lập (939), nhất là vào đời nhà Lý (1010-1225) và nhà Trần (1225-1400), đạo Phật đã giữ một địa vị quan trọng trong đời sống tâm linh và thế tục của dân tộc ta. Do đó, tinh thần Phật Giáo đã thấm nhuần vào tâm hồn dân tộc một cách sâu sắc. Có thể nói trong thời kỳ nầy, và ngay cả nhiều thế kỷ về sau, người Việt Nam nào cũng có thể tự xem mình là con Phật. Hầu như làng nào cũng có một ngôi chùa, chí ít cũng là một ngôi thảo am để thờ Phật, làm nơi lui tới chiêm bái của thiện nam tín nữ. “Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt”. Khi đến lứa tuổi bốn, năm mươi trở lên, các bà thường đến chùa vào ngày mộng Một, ngày Rằm để nghe câu kinh, tiếng kệ. “Tục ta tin rằng trong ngày Rằm tháng Giêng, Đức Phật giáng lâm tại các chùa để chứng độ lòng thành
- của các tín đồ Phật Giáo. Trong dịp nầy, chùa nào cũng đông người đến chiêm bái.” (9) Thế nên trong dân gian đã có câu : Lễ Phật quanh năm, Không bằng hội Rằm tháng Giêng! Đất Bắc là nơi có nhiều ngôi chùa cổ nổi tiếng, quanh năm không lúc nào vắng hương khói. Đặc biệt là vào những ngày lễ hội mùa Xuân, khách thập phương qui tụ về chùa càng đông, hoặc để dâng hương lễ Phật, hoặc để nghe các sư giảng Pháp, hoặc đến chùa để ngoạn cảnh và thưởng thức các thú vui trong các dịp hội Xuân. Ngôi chùa nổi tiếng vì phong cảnh đẹp bậc nhất đất Bắc đó là chùa Hương : Bối Khê, Tiên Lữ, Chùa Thầy Đẹp thì tuyệt đẹp chưa tày chùa Hương. Tiên Lữ còn gọi là chùa Trăm Gian ở tỉnh Sơn Tây. Chùa Thầy nằm trên núi Sài Sơn cũng thuộc tỉnh Sơn Tây. Chùa Hương tức chùa Hương Tích, dân địa phương vẫn gọi bằng cái tên nôm na quen thuộc là chùa Trong để đối với chùa Ngoài chức chùa Thiên Trù nằm ở đầu lối vào cửa động. Chùa Hương Tích nằm trong một cái động thạch nhũ cùng tên được mệnh danh là “Nam Thiên Đệ Nhất Động” được khắc ngay lối vào cửa động với nét chữ sắc sảo, bay bướm của ông Chúa đa tình Trịnh Sâm tức Tĩnh Đô Vương (1767-1782).
- “Trong ngôn ngữ thường dùng, chùa Hương gần như đồng nghĩa với toàn bộ cảnh đẹp Hương Sơn. Nói “đi chùa Hương” tức là nói “vào thăm cảnh Hương Sơn nói chung” chứ không riêng gì động Hương Tích.” (10) Quả vậy, chùa Hương là điểm chính của một tập hợp nhiều thắng cảnh mang di tích Phật Giáo của vùng núi non Hương Sơn. Từ chùa Ngoài (Thiên Trù) vào đến chùa Trong (Hương Tích) khách hành hương ngoạn cảnh lần lượt viếng thăm các thắng cảnh ngoạn mục khác : đó là chùa Tiên nằm trên núi Tiên, chùa Giải Oan với suối nước trong thiên nhiên tuyệt vời, rồi am Phật Tích, động Tuyết Quỳnh, đến đền Trần Song tức cửa Võng thờ Bà Chúa Thượng Ngàn. Chùa Hương nằm trong địa phận tỉnh Hà Đông. Lễ Hội chính thức là vào ngày Rằm tháng Hai, nhưng theo tục lệ, ngay từ ngày 6 tháng Giêng người ta đã làm lễ mở cửa rừng cho dân chúng vào làm ăn và khách thập phương ngoạn cảnh chùa vào những ngày đầu năm. Hội Chùa Hương thu hút khá đông khách thập phương trước là để lễ Phật, sau là để ngoạn cảnh. Ngày Xuân con én xôn xao Nam thanh, nữ tú ra vào chùa Hương Chim đưa lối, vượn đưa đường Nam Mô Di Phật bốn phương chùa nầy! Còn khách đa tình tìm đến nơi nước non kỳ thú nầy để giải tỏa tâm tình :
- Ai đi trẩy hội chùa Hương Làm ơn gặp khách thập phương hỏi giùm Mớ rau sắng, quả mơ non Mơ chua, sắng ngọt biết còn thương chăng? Hội chùa Hương quyến rũ lòng người nhờ phong cảnh thiên nhiên kỳ thú thì hội chùa Thầy cũng làm say đắm lòng người bởi phong cảnh thiên nhiên tuyệt mỹ không kém : Nhớ ngày mồng bảy tháng Ba, Trở về hội Láng, trở ra hội Thầy. Chùa Thầy tức Thiên Phúc Tự nằm trên núi Thầy tức Sài Sơn thuộc phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây. Chùa Thầy, tên gọi của dân gian địa phương là chùa Cả – là ngôi chùa chính trong vùng có nhiều di tích kiến trúc Phật Giáo nổi tiếng, gồm có chùa Thầy tức chùa Cả , chùa Cao, chùa Một Mái hay chùa Bụt Mọc, hang Thánh Hóa, hang Cắc Cớ . . . Hàng năm chùa Thầy tổ chức hội Xuân từ ngày mồng 5 đến ngày mồng 7 tháng Ba. Ngày mồng 7 tháng Ba được xem là ngày Thiền Sư Từ Đạo Hạnh sau khi tu hành đắc đạo đã “hóa” trong một hang động mà về sau dân gian đã gọi là hang Thánh Hóa.
- Vào ngày khai hội, một đàn tràng được dựng lên trước sân chùa Thầy. Các nhà Sư trình diễn điệu “múa lượn” nhịp nhàng theo dàn nhạc đệm và tiếng chuông, tiếng mõ tụng kinh. Sau thời lễ Phật khai hội là những trò vui Xuân. Khách thập phương tạo nên một dòng người đầy sắc và hương đi từ chùa Cả, qua chùa Cao . . . đến hang Thánh Hóa, hang Cắc Cớ, động Gió Lùa rồi lại quay về chùa Cả để xem trò “múa rối nước” – một nghệ thuật dân gian độc đáo. Tương truyền Từ Đạo Hạnh là Tổ sư của trò “múa rối nước” nầy. Hội Láng được tổ chức ở ngôi chùa làng Láng nằm ở phía nam kinh thành Thăng Long. Chùa Láng cũng thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh và cũng khai hội vào ngày mồng 7 tháng Ba. Điểm đặc biệt của hội Láng là diễn lại sự tích của Thiền sư Từ Đạo Hạnh và Pháp sư Đại Điên. Tương truyền Pháp sư Đại Điên dùng bùa phép đánh chết Từ Vinh là thân phụ của Từ Đạo Hạnh. Để trả mối phụ thù, Từ Đạo Hạnh cũng đã luyện tập bùa phép và cuối cùng đã triệt hạ được Pháp sư Đại Điên. Do sự tích nầy nên vào ngày Hội, dân làng Láng rước kiệu Từ Đạo Hạnh đi ngang qua đình làng Thụy Hương là nơi thờ Pháp sư Đại Điên, đám rước hướng ngọn cờ vào đền Đại Điên, đốt pháo thăng thiên giả bộ gây sự để diễn lại sự tích xung đột thuở sinh thời giữa hai ông. Cũng bởi chùa Thầy khá nổi tiếng, nên những chùa quanh vùng cũng muốn tạo một sự so sánh để được tiếng thơm lây:
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn