intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số ứng dụng của lý thuyết trò chơi

Chia sẻ: Bùi Văn Huy | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:50

2.252
lượt xem
1.233
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chúng ta đã cho rằng hai hãng độc quyền đôi tay của chúng ta quyết định đầu ra trong cùng một lúc. Bây giờ chúng ta hãy xem xét điều sẽ xảy ra nếu một trong hai hãng ấy có thể ấn định đầu ra của nó trước. Có hai vấn đề quan trọng. Một là, có hãng nào muốn ấn định đầu ra của mình trước hay không? Nói khác đi, đi trước liệu có lợi hay không? Hai là, thế cân bằng do đó mà có sẽ ra sao (tức mỗi hàng sẽ sản...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số ứng dụng của lý thuyết trò chơi

  1. MỘT SỐ ỨNG DỤNG CỦA LÝ THUYẾT TRÒ CHƠI SAGA-www.saga.vn- Tài liệu do anh Nguyễn Văn Hoàng, thành viên SAGA, tổng hợp từ cuốn “Kinh tế học vi mô,” chủ biên: Robert S. Pindyck & Daniel L. Rubinfeld, NXB Khoa học kỹ thuật (2000). 1. Lợi thế của người hành động trước – Mô hình Stackelberg .................2 2. Cạnh tranh giá cả .................................................................................3 3. Vấn đề định giá của Procter & Gamble.................................................5 4. Cạnh tranh so với kết cấu: thế khó xử của những người bị giam giữ. ..7 5. Procter & Gamble trong thế khó xử của những người bị giam giữ ....11 6. Những liên quan của thế khó xử của những người bị giam giữ trong việc định giá độc quyền nhóm. ...............................................................13 7. Tính cứng nhắc của giá cả. ................................................................14 8. Sự lãnh đạo giá cả..............................................................................15 9. Lý thuyết trò chơi và chiến lược cạnh tranh........................................16 10. Trò chơi và các quyết định chiến lược ..............................................17 11. Những trò chơi không hợp tác so với những trò chơi hợp tác. .........17 11. Việc thu phục một công ty.................................................................18 12. Các chiến lược có ảnh hưởng chi phối .............................................19 12. Khái niệm thế cân bằng Nash. ..........................................................22 14. Hợp tác độc quyền nhóm trong công nghiệp đồng hồ đo nước ........31 16. Cạnh tranh và kết cấu trong ngành hàng không ...............................32 17. Những sự đe doạ, những sự ràng buộc và tính đáng tin .................33 18. Lợi thế của người hành động trước ..................................................34 19. Nhưng 4 sự đe doạ suông. ...............................................................36 20. Sự ràng buộc và tính đáng tin cậy. ...................................................36 21. Chiến lược đầu tư chặn trước của Wal-Mart Stores .........................39 22. Ngăn chặn việc đi vào.......................................................................41 23. Dupont ngăn chặn việc đi vào ngành công công nghiệp Titani Dioxit45 24. Các cuộc chiến tranh đồ lót vệ sinh ..................................................46 -1-
  2. 1. Lợi thế của người hành động trước – Mô hình Stackelberg Chúng ta đã cho rằng hai hãng độc quyền đôi tay của chúng ta quyết định đầu ra trong cùng một lúc. Bây giờ chúng ta hãy xem xét điều sẽ xảy ra nếu một trong hai hãng ấy có thể ấn định đầu ra của nó trước. Có hai vấn đề quan trọng. Một là, có hãng nào muốn ấn định đầu ra của mình trước hay không? Nói khác đi, đi trước liệu có lợi hay không? Hai là, thế cân bằng do đó mà có sẽ ra sao (tức mỗi hàng sẽ sản xuất bao nhiêu)? Một lần nữa, chúng ta cho rằng cả hai hãng đều có chi phí lề bằng không và đường cầu của thị trường được biểu thị bằng P = 30 – Q, trong đó Q là tổng số đầu ra. Giả dụ. Hãng 1 ấn định trước đầu ra của nó và trong trường hợp ấy Hãng 2, sau khi quan sát đầu ra của Hãng 1, tiến hành quyết định đầu ra của mình. Khi ấn định đầu ra, Hãng 2 sẽ phản ứng như thế nào. Điều này khác với mô hình Cournot, trong đó không một hãng nào đó được bất kỳ một cơ hội nào để phản ứng. Chúng ta hãy bắt đầu với Hãng 2. Vì Hãng này tiến hành quyết định đầu ra của mình sau Hãng 1, nó coi đầu ra của Hãng 1 là cố định. Do đó, đầu ra có sức tối đa hóa lợi nhuận của Hãng 2 được biểu thị bởi đường phản ứng Cournot, mà chúng ta tìm ra là : Đường phản ứng của Hãng 2 : Q2 = 15 – 1/2Q1 (12.2) Còn Hãng 1 thì sao? Để tối đa hóa được lợi nhuận, nó lựa chọn Q1 sao cho thu nhập lề bằng chi phí lề là không. Nhớ rằng thu nhập của Hãng 1 là: R1 = PQ1 = 30Q1 –Q2Q1 (12.3) Vì R1 tùy thuộc vào Q2, Hãng 1 phải đoán trước Hãng 2 định sản xuất bao nhiêu. Nhưng, Hãng 1 biết rằng sẽ lựa chọn Q2, căn cứ theo đường pảhn ứng (12.2). Thế phương trình (12.2) cho Q2 trong phương trình (12.3) chúng ta thấy rằng thu nhập của Hãng 1 là. R1 = 30 Q1 – Q21 – Q1(15-1/2Q1) = 15Q1 – 1/2 Q21 Do đó thu nhập lề của hãng là: -2-
  3. MR1 = ΔR1/ ΔQ1 = 15 – Q1 (12.4) Đặt MR1 = 0 ta có Q1 = 15. Và từ đường phản ứng của Hãng 2 (12.2) ta thấy rằng Q2 = 7,5. Hãng 1 sản xuất nhiều gấp đôi Hãng 2 va thu được lợi nhuận nhiều gấp đôi. Việc đi trước mang lại cho Hãng 1 lợi thế. Điều đó có vẻ chống lại trực giác: thông báo trước lần đầu ra của bạn dường như là việc làm bất lợi? Vậy thì tại sao đi trước lại là một lợi thế chiến lược? Lý do là việc thông báo trước tạo ra một việc đã rồi bất kể đối thủ cạnh tranh của bạn làm gì, đầu ra của bạn sẽ lớn. Để tối đa hóa lợi nhuận, đối thủ cạnh tranh của bạn coi mức đầu ra lớn của bạn là đã có và ấn định một mức đầu ra thấp cho bản thân mình (nếu đối thủ cạnh tranh của bạn sản xuất một mức đầu ra lớn, điều đó tất kéo giá cả xuống thấp, và cả hai đều thua thiệt tiền của). Cho nên, trừ phi đối thủ cạnh tranh của bạn coi “trả đũa” là quan trọng hơn kiếm tiền, sản xuất một số lượng lớn là việc phi lý đối với nó). Loại “lợi thế của người hành động trước” này xảy ra trong nhiều tình huống chiến lược, như chúng ta sẽ thấy trong chương 13. Các mô hình Cournot và Stackelbeg là những biểu hiện của thái độ độc quyền nhóm để lựa chọn. Việc mô hình nào thích hợp hơn tùy thuộc vào ngành công nghiệp. Đối với một ngành công nghiệp gồm có những hãng đại thế giống nhau, không một hãng nào có được một lợi thế hành động hay vị thế lãnh đạo mạnh mẽ, mô hình Cournot chắc chắn hẳn thích hợp hơn. Mặc khác, một số ngành công nghiệp bị khống chế bởi một hãng lớn, hãng này thường lãnh đạo trong việc đưa ra những sản phẩm mới hay việc định giá, thị trường máy điện toán nhiều công dụng là một ví dụ, với IBM là người lãnh đạo. Trong trường hợp này mô hình Stackelbeg có thể là thiết thực hơn. 2. Cạnh tranh giá cả Chúng ta đã cho rằng các hãng độc quyền nhóm cạnh tranh với nhau bằng cách ấn định các số lượng. Điều đó là hợp lý nếu như các hãng đang sản xuất một sản vật giống nhau. Nhưng trong đa số ngành công nghiệp độc quyền nhóm, một sản phẩm được phân hóa đến một mức độ nào đó và cạnh tranh diễn ra theo các quy mô giá cả. Ví dụ, đối với General Motors, Ford và Chrysler, giá cả là một số chiến lược và mỗi hãng lựa chọn giá cả của mình trên cơ sở nghĩ tới các đối thủ cạnh tranh của nó. -3-
  4. Mô hình Cournot mà chúng ta đã trình bày khi nói về cạnh tranh số số lượng cũng có thể được ứng dụng cho cạnh tranh giá cả. Chúng ta có thể minh họa điều này bằng một ví dụ đơn giản như sau. Giả dụ mỗi hãng trong hai hãng độc quyền tay đôi đã cố định các chi phí là 20 đôla nhưng có chi phí khả biến là số không,và họ đứng trước các đường cầu như nhau. Cầu của hãng 1: Q1 = 12-2P1+P2 (12.5a) Cầu của hãng 2: Q2 = 12-2P2 +P1 (12.5b) Trong đó P1 và P2 lần lược theo thứ tự, là các giá cả mà các Hãng 1 và 2 đòi, và Q1 và Q2 là các số lượng mà họ bán ra. Chú ý rằng số lượng mỗi hãng có thể bán được giảm khi hãng nâng cao gia cả của bản thân mình, nhưng tăng khi đối thủ cạnh tranh của nó đòi một giá cao hơn. Nếu hai hãng ấn định giá của họ trong cùng một lúc, chúng ta có thể dùng mô hình Cournot để xác định thế cân bằng do đó mà có. Mỗi hãng sẽ lựa chọn giá của mình, coi giá của đối thủ cạnh tranh với mình như là cố định. Bây giờ chúng ta hãy xem xét Hãng 1. Lợi nhuận của hãng này π1 là thu nhập P1Q1 trừ chi phí cố định 20 đôla của nó. Thay thế cho Q1 từ đường cầu của phương trình (12.5a) chúng ta có. π 1 PQ1 − 20 = 12 P − 2 P2 − P 2 + PP2 − 20 1 1 1 1 Với giá cả P1 nào lợi nhuận của nó được tối đa hóa? Câu trả lời tùy thuộc vào P2 mà Hãng 1 cho là cố định. Nhưng dù sao Hãng 2 thay đổi giá cả đi nữa thì lợi nhuận của Hãng 1 vẫn được tối đa hóa khi lợi nhuận gia tăng từ một mức gia tăng rất nhỏ trong giá cả của bản thân nó bằng không. Coi P2 là cố định, giá cả có sức tối đa hóa lợi nhuận của Hãng 1 do đó được biểu thị bằng. Δπ 1 / ΔP = 12 − 4 P + P2 − 20 1 1 Phương trình này có thể được viết lại để có quy tắc định giá, hay đường phản ứng, dưới đây cho Hãng 1: Đường phản ứng của Hãng 1: P1 = 3+(1/4)P2. Phương trình này cho Hãng 1 biết phải ấn định giá cả nào, khi đã biết P2 mà hãng 2 ấn định. Chúng ta có thể bằng cách như trên tìm ra quy tắc định giá cho Hãng 2. -4-
  5. Đường phản ứng của Hãng 2: P2 = 3 + (1/4)P1 Những đường phản ứng này được dựng trong hình 12.6. Thế cân bằng Cournot nằm ở giao điểm của hai đường phản ứng ấy, bạn có thể xác định rằng mỗi hãng đòi một giá là 4 đôla và thu được một lợi nhuận là 12 đ6la. Ở điểm ấy vì mỗi hãng đều thực hiện được điều tốt nhất có thể khi biết cái giámà đối thủ cạnh tranh của mình đã ấn định, nên không hãng nào có động cơ thay đổi giá cả. Bây giờ, giả dụ hai hãng cấu kết với nhau. Thay vì lựa chọn các giá cả một cách độc lập với nhau, hai hãng này cùng quyết định đòi một giá như nhau, giá này phải là giá có sức tối đa hóa lợi nhuận của cả hai hãng. Bạn có thể xác minh rằng trong trường hợp ấy hai hãng này sẽ lựa chọn một giá là 6 đôla, và rằng các đều khấm khá hơn khi cấu kết với nhau vì mỗi hãng bây giờ đều thu được một lợi nhuận là 16 đôla. Hình 12.6 cho thấy cái thế cân bằng cấu kết ấy. 3. Vấn đề định giá của Procter & Gamble Khi Procter & Gamble (P&G) lập kế hoạch cho Gypsy Moth Tape vào thị trường Nhật Bản, Công ty đã biết các chi phí sản xuất nó, và đã biết đường cầu thị trường, nhưng thấy khó ấn định một giá thỏa đáng phải đòi hỏi vì hai hãng khác – Công ty hữu hạn kao Soap và Công ty hữu hạn Unilever – cũng đã có kế hoạch vào thị trường ấy. Cả ba hãng này đều phải lựa chọn những giá để mình vào được thị trường, và P & G phải lưu ý đến điều đó khi xem xét ấn định giá cả của bản thân mình. Vì cả ba hãng đều dùng cùng một quy trình kỹ thuật để sản xuất Gypsy Moth Tape, họ có những chi phí sản xuất như nhau. Mỗi tháng đứng trước một chi phí cố định là 480.000 đôla một tháng và một chi phí khả biến là 1 đôla một đơn vị. Từ một công trìn nghiên cứu thị trường P&G xác định được rằng đường cầu bán ra hàng tháng của mình được biểu thị bằng. Q = 3375 P −3.5 ( Pu ) 0,25 ( PK ) 0,25 Trong đó Q là số bán ra hàng tháng tính bằng hàng nghìn đơn vị, còn P,Pu và PK, lần lược theo thứ tự, là giá cả của P&G, Unilever và Kao. Bây giờ bạn hãy tự đặt mình vào vị trí của P&G. Cho rằng Unilever và Kao đứng -5-
  6. trước những điều kiện nhu cầu giống như nhau, bạn phải vào thị trường với giá cả nào và bạn trù tính sẽ thu được bao nhiêu lợi nhuận? Bạn có thể bắt đầu bằng việc tính toán lợi nhuận mà bạn dự định có như một hàm số của giá cả mà bạn đòi, với những dự toán khác nhau về những giá cả mà Unilever và Kao sẽ đòi. Dùng đường cầu và các số chi phí đã cho trên đây, chúng tôi đã tiến hành các phép tính ấy thay cho bạn và lập bảng các kết quả trong Bảng 12.3. MỖi cột cho thấy lợi nhuận của bạn, tính bằng hàng nghìn đôla một tháng, với một tổ hợp riêng biệt của các giá cả (nhưng trong mỗi trường hợp đều cho rằng Unilever và Kao ấn định một giá như nhau). Ví dụ nếu bạn đòi giá 1,30 đôla còn Unilever và Kao đến đòi giá 1,5 đôla bạn sẽ thu được lợi nhuận là 15.000 đôla một tháng. Bảng Lợi nhuận của P&G (nghìn đôla một tháng) Giá cả của Các giá cả của họ (bằng nhau) (đôla) P&G 1,10 1,20 1,30 1,40 1,50 1,60 1,70 1,80 (đôla) 1,10 -226 -215 -204 -194 -183 -174 -165 -155 1,20 -106 -89 -73 -58 -43 -28 -15 -2 1,30 -56 -37 -19 2 15 31 47 62 1,40 -44 -25 -6 12 29 46 62 78 1,50 -52 -32 -15 3 20 36 52 68 1,60 -70 -51 -34 -18 -1 14 30 44 1,70 -93 -76 -59 -44 -28 -13 1 15 1,80 -118 -102 -87 -72 -57 -44 -30 -17 Hãy nhớ rằng trong mọi trường hợp, những người quản lý của Unilever và Kao cũng trải qua những tính toán và nhận xét như bạn đã làm và cũng có thể có những tính toán và diễn giải riêng của họ như bảng 12.2. Bây giờ giả dụ -6-
  7. những đối thủ cạnh tranh của bạn đòi giá 1,50 đôla hay hơn nữa. Như bảng trân đã cho thấy, bạn tất muốn chỉ đòi giá 1,40 đôla vì giá cả cho bạn một lợi nhuận cao nhất (ví dụ, nếu họ đòi giá 1,40 đôla nhưng chỉ kiếm được 29.000 đôla một tháng bằng cách đòi giá 1,40 đôla nhưng chỉ kiếm được 20.000 đôla nếu đòi giá 1,50 đôla và 15.000 đôla nếu đòi giá 1.30 đôla). Do đó bạn tất không muốn đòi giá 1,50 đôla (hay hơn nữa). Giả dụ các đối thủ cạnh tranh của bạn cũng suy luận như vậy, bạn không nên trông mong họ đòi giá 1,50 đôla (hay hơn nữa). Nếu các đôi thủ cạnh tranh của bạn đòi giá 1,30 đôla thì sao? Trong trường hợp ấy bạn sẽ mất tiền, nhưng bạn sẽ mất số tiền nhỏ nhất (6.000 đôla một tháng) nếu bạn đòi giá 1,40 đôla. Vì vậy, các đối thủ cạnh tranh bạn tất không trông mong bạn đòi giá 1,30 đôla, và cũng do suy luận như vậy bạn không nên trpong mong họ đòi một cái giá thấp như vậy. Giá nào khiến cho bạn đạt được điều tốt nhất có thể, khi biết những giá của những đối thủ cạnh tranh với bạn? Giá đó là 1,40 đôla. Đó cũng là cái giá mà với nó các đối thủ cạnh tranh của bạn đạt được điều tốt nhất mà họ có thể, cho nên đó là thế cân bằng Cournot. Như bảng 12.2 cho thấy,, trong thế cân bằng ấy bạn và các đối thủ cạnh tranh của bạn đều mỗi người kiếm được một lợi nhuận là 12.000 đôla một tháng. 4. Cạnh tranh so với kết cấu: thế khó xử của những người bị giam giữ. Một thế cân bằng Cournot là một thế cân bằng không hợp tác – mỗi hãng đề ra những quyết định khiến cho mình có được một lợi nhuận cao nhất có thể, khi biết những hành động của các đối thủ cạnh tranh với nó. Như chúng ta đã thấy những hành động của các đối thủ cạnh tranh với nó. Như chúng ta đã thấy những lợi nhuận do đó mà mỗi hãng thu được đều lớn hơn mức có thể có trong các điều kiện cạnh tranh hoàn hảo nhưng đều thấp hơn mức nếu như các hãng cấu kết với nhau. Nhưng kết cấu là bất hợp pháp, và đa sồ các nhà quản lý đều thích đứng ngoài vòng tù tội và không phải nộp những khoản tiền phạt khắc nghiệt. Nhưng nếu sự hợp tác có thể đưa tới những lợi nhuận cao hơn, tại sao các hãng lại không hợp tác vớinhau mà không có một sự cấu kết hiển nhiên? Nói riêng, nếu bạn và đói thủ cạnh tranh của bạn có thể làm cho nhau đoán ra cái giá có sức tối đa hóa lợi nhuận mà hai bên phải thỏa thuận đòi nếi phải cấu kết -7-
  8. với nhau, tại sao lại không ấn định đúng là cài giá ấy và hy vọng đối thủ cạnh tranh của bãn cũng làm như vậy? Nếu đối thủ cạnh tranh của bạn phải làm như vậy, cả hai đều kiếm được nhiều tiền hơn. Vấn đề là ở chỗ đối thủ cạnh tranh của bạn có thể không lựa chọn định giá ở mức cấu kết. Trên thực tế, đối thủ cạnh tranh của bạn tất không định giá ở mức kết cấu. Tại sao lại không? Bởi vì đối thủ cạnh tranh của bạn muốn làm ăn tốt hơn bằng cách lựa chọn giá cả Cournot dù cho có biết rằng bạn đang tiến hành định giá ở mức cấu kết. Để hiểu điều đó, chúng ta hãy trở lại với ví dụ của chúng ta về cạnh tranh giá cả trong đoạn trước. Hãng nào trong số các hãng của ví dụ ấy có một chi phí cố định là 20 đôla, đều có một chi phí khả biến bằng không và đều đứng trước các đường cầu sau: Cầu của Hãng 1: Q1 =12 – 2P1 + P2 (12.6a) Cầu của Hãng 2: Q2=12 -2P2 +P1 (12.6b) Chúng ta đã tìm thấy rằng trong thế cân bằng Cournot, mỗi hàng đều định đòi một giá là 4 đôla và thu được một lợi nhuận là 12 đôla, trt khi nếu các hãng cấu kết với nhau, chúng sẽ đòi một giá là 6 đôla và thu được một lợi nhuận là 16 đôla. Bây giờ giả dụ các hãng không cấu kết với nhau, nhưng Hãng 1 định một giá cấu kết là 6 đôla , hy vọng rằng Hãng 2 cùng sẽ làm như vậy. Nếu Hãng 2 phải làm như vậy, nó sẽ thu được một lợi nhuận là 16 đôla. Nhưng nếu như thay vào đó nó đòi giá 4 đôla thì sao? Trong trường hợp này Hãng 2 sẽ thu được một lợi nhuận. π2 = P2Q2 -20 = (4) [12-(2) (4) + 6] -20 =20 đôla. Mặt khác, Hãng 1 sẽ thu được một lợi nhuận là π2 = P2Q2 -20 = (6) [12-(2) (6) + 4] -20 =4 đôla. Do đó nếu Hãng 1 đòi giá 6 đôla nhưng Hãng 2 chỉ đòi giá 4đôla thì lợi nhuận của Hãng 2 sẽ tăng lên là 20 đôla. Và nó muốn làm như vậy một cách có hại cho lợi nhuận của Hãng 1, lợi nhuận này sẽ sụt xuống còn là 4 đôla. Rõ ràng là Hãng 2 làm điều tốt nhất khi chỉ đòi giá 4 đôla. Nếu hãng 2 đòi giá 6 đôla và Hãng 1 đòi 4 đôla, Hãng 1 sẽ thu được 20 đôla lợi nhuận và Hãng 2 sẽ chỉ thu được 4 đôla. -8-
  9. Bảng Ma trận thưởng phạt cho trò chơi định giá Hãng 2 Đòi giá 4 đôla Đòi giá 6 đôla Hãng 1 Đòi giá 4 đôla 12 đôla, 12 đôla 20 đôla, 4đôla Đòi giá 6 đôla 4 đôla, 20 đôla 16 đôla, 16 đôla Bảng 12.3. tóm tắt những kết quả của những khả năng định giá khac 1nhau ấy. Trong khi quyết định phải ấn định cái giá cả nào, hai hãng chơi trò chơi không hợp tác – mỗi hãng độc lập làm điều tốt nhất mình có thể làm, trên cơ sở có tính đến đối thủ cạnh tranh của mình. Bảng 12.3 được gọi là ma trận thưởng phạt cho trò chơi ấy bởi vì nó cho thấy lợi nhuận (hay phần thưởng) của mỗi tháng, khi đã biết quyết định của hãng ấyvà quyết định của hãng cạnh tranh với nó. Ví dụ, góc trên bên tay trái của ma trận thưởng phạt cho chúng ta biết rằng nếu cả hai hãng đều đòi giá 4 đôla thì mỗi hãng có được một lợi nhuận là 12 đôla và Hãng 2 đòi giá 20 đôla, thì Hãng 1 sẽ 20 đôla còn Hãng 2 sẽ thu được 4 đôla. Ma trận thưởng phạt này có thể làm sáng tỏ câu trả lời cho câu hỏi đầu tiên của chúng ta: Tại sao các hãng lại không có thái độ hợp tác với nhau và do đó thu được những lợi nhuận cao hơn, dù cho họ không thể cấu kết với nhau? Trong trường hợp này, hợp tác có nghĩa là cả hai hãng đều đòi giá 6 đô la thay cho 4 đôla và do đó thu lời 16 đôla thay cho 12 đôla. Vấn đề là ở chỗ mỗi hãng luôn luôn kiếm được nhiều tiền hơn do đòi giá 4 đôla, bất kể đối thủ cạnh tranh của mình làm gì. Như ma trận thưởng phạt đã cho thấy, nếu Hãng 2 đòi giá 4 đôla thì tốt nhất Hãng 1 làm là đòi giá 4 đôla. Tư8ơng tự, Hãng 2 luôn luôn làm điều tốt nhất là đòi giá 4 đôla, bất kể hãng 1 làm gì. Vì vậy,trừ phi hai hãng ký kết một thỏa thuận có thể được thi hành là đòi giá 6 đôla, không hãng nào trong hai hãng ấy có thể trông mong đối thủ cạnh trạnh với mình đòi giá 6 đôla, và cả hai đều đòi giá 4 đôla. -9-
  10. Một ví dụ kinh điển trong lý thuyết trò chơi, gọi là thế khó xử của những người bị giam siữ, minh họa vấn đề mà các hãng độc quyền nhóm phải đương đầu. Ví dụ ấy như sau: Hai hãng bị giam giữ do bị tố cáo cùng nhau hợp tác gây trọng tội. Họ bị giam giữ trong các phòng riêng và không thể thông tin cho nhau. Mỗi người đều được yêu cầu thú nhận tội ác. Nếu cả hai người đều thú nhận, mỗi người sẽ nhận một án tù 5 năm. Nếu không ai thú nhận, trường hợp tố tụng này sẽ khó tiến ành, do đó những người bị giam siữ có thể trông đợi yêu cầu mặc cả và nhận án hai năm. Mặt khác, nếu một người bị giam giữ thú nhận còn người kia thì không, người thú nhận sẽ chỉ nhận án một năm trong khi người kia sẽ vào tù mười năm. Nếu bạn là một trong những người bị giam giữ ấy, bạn sẽ làm gì- thú nhận hay không thú nhận? Bảng Ma trận thưởng phạt trong thế khó xử của những người bị giam giữ Người bị giam giữ B Thú nhận Không thú nhận Thú nhận -5, -5 -1, -10 Người bị giam giữ A Không thú nhận -10, -1 -2, -2 Ma trận thưởng phạt trong Bảng 12.4 tóm tắt những kết quả có thể có (Chú ý rằng các “phần thưởng” đều âm;mục ở góc dưới bên tay phải của ma trận thưởng phạt ngụ ý hai năm tù cho mỗi người tội phạm). Như bảng này cho thấy, hai người bị giam giữ này đều đứng trước một thế khó xử. Nếu họ có thể cùng nhau thỏa thuận không thú nhận (theo một phương cách có thể ràng buộc được), thì trong trường trường hợp này mỗi người sẽ chỉ đi tù hai năm. Nhưng họ không thể nói chuyện với nhau, và dù cho họ có thể nói với nhau đi nữa, liệu họ có thể lừa nhau không? Nếu người bị giam giữ A không thú nhận, người ấy có nguy cơ bị người đồng lõa trước đây của mình lợi dụng. Xét cho cùng, bất kể người bị giam giữ A làm đi đi nữa, người bị giam giữ B sẽ vượt lên trước bằng cách thú nhận. Tương tự, người bị giam giữ A luôn luôn vượt lên trước bằng cách thú nhận, nên người bị giam giữ iB phải lo rằng - 10 -
  11. do không thú nhận, mình có thể bị lợi dụng. Cho nên cả hai người bị giam giữ chắc chắn hẳn sẽ thú nhận, và đi và tù năm năm. Các hãng độc quyền nhóm thường thấy mình trong một thế khó xử của những người bị giam giữ. Họ phải quyết định hoặc cạnh tranh với nhau một cách hung hãn, nhằm chiếm đoạt phần lớn hơn trên thị trường một cách có hại cho đối thủ cạnh tranh của nó, hoặc “hợp tác” và cạnh tranh với nhau một cách thụ động hơn, bằng cách cùng tồn tại với các đối thủ cạnh tranh của họ và làm ăn với phần thị trường mà họ đã nắm được, và thậm chí có thể bàng8 cách thụ động, bằng cách ấn định các giá cả cao và hạn chế với nhau một cách thụ động bằng cách ấn định các giá cả cao và hạn chế đầu ra, họ sẽ kiếm được những lợi nhuận cao hơn khi họ cạnhtranh với nhau một cách hung hãn. Tuy nhiên, cũng như những người bị giam giữ của chúng ta, mỗi hãng đều có động cơ “phá” các đối thủ cạnh tranh của mình và làm cho giá cả của mình thấp hơn giá cả của họ, và mỗi hãng đều biết rằng các đối thủ cạnh tranh của mình cũng có động cơ tương tự. Dù sự hợp tác là đáng mong muốn đi nữa, mỗi hàng đều lo – một cách rất có lý – rằng nếu họ cạnh tranh một cách thụ động, các đối thủ cạnh tranh một cách hung hãn, chiếm được đại bộ phận thị trường. Trong vấn đề định giá được minh họa trong bảng 12.3, cả hai hãng làm cải việc tốt nhất là “hợp tác” và đòi một giá cao. Nhưng các hãng ấy lại lâm vào thế khó xử của những người bị giam giữ, trong đó không một hãng nào trong hai hãng ấy áo thể tin cậy hay trong mong rằng đối thủ cạnh tranh của mình sẽ ấn định một giá cao. 5. Procter & Gamble trong thế khó xử của những người bị giam giữ Trong ví dụ 12.2, chúng ta đã khảo sát vấn đề nảy sinh khi P&G Unilever và Kao Soap đều đang lập kế hoạch để đưa gypsy Moth Tape vào thị trường Nhật Bản trong cùng một lúc. Cả ba hãng này đều đứng trước những điều kiện chi phí và nhu cầu như nhau và mỗi hãng phải quyết định về một giá cả làm cho các đối thủ cạnh tranh của mình phải tính đến,. Trong bảng 12.2 chúng ta đã lập bảng kê những lợi nhuận của P&G tùy theo những giá cảmà hãng này và các đối thủ cạnh tranh của họ có thể đòi. Chúng ta đã chi rõ ràng P&G pải trù tính các đối thủ cạnh tranh của họ sẽ đòi giá 1,40 đôla và phải làm như vậy. - 11 -
  12. P&G sẽ khấm khá hơn nếu họ và các đối thủ cạnh tranh của họ tất cả đều đòi một giá là 1,50 đôla. Điều đó được tỏ rõ từ ma trận thưởng phạt trong bảng 12.5 (ma trận thưởng phạt này đều là một phần của b ảng 12.2 ứng với giá cả là 1,40 đôla và 1,50 đôla, trong khi các phần thưởng cho các đối thủ cạnh tranh của P&G củng được lập bảng). Nếu tất cả các hãng đều đòi 1,50 đôla, mỗi hãng ấy sẽ thu được một lợi nhuận là 20.000 đôla một tháng, thay vì là 20.00 đôla mà họ kiếm được bằng cách đòi giá 1,40 đôla. Ay thế mà tại sao họ lại không đòi giá 1,50 đôla? Bảng Ma trận thưởng phạt cho vấn đề định giá Unilever và Kao Đòi giá 1,40 đôla Đòi giá 1,50 đôla Đòi giá 1,40 đôla 12 đôla, 12 đôla 29 đôla, 11 đôla P&G Đòi giá 1,50 đôla 3 đôla, 21 đôal 20 đôla, 20 đôla Bởivì những hãng này nằm trong thế khó xử của những người bị giam giữ. Bất kể Unilever và Kao làm gì, P&G đều kiếm được nhiều tiền hơn bằng cách đòi giá 1,40 đôla. Ví dụ, nếu Unilever và Kao đòi giá 1,50 đôla, P&G có thể kiếm được 29.000 đôla tháng bằng cách đòi 1,40 đôla, so với 20.00 đôla bằng cách đòi 1,50 đôla. Điều đó cũng đúng với Unilever và Kao. Ví dụ, nếu P&G đòi giá 1,50 đôla và cả Unilever lần Kao cả hai chỉ đòi giá 1,40 đôla, thì mỗi hãng này sẽ kiếm được 21.000 đôla. Do đó P&G biết rằng nếu họ ấn định một giá là 1,50 đôla thì các đối thủ cạnh tranh của họ sẽ có một động cơ mạnh mẽ muốn đấu giá và đòi giá 1,40 đôla. Trong trường hợp ấy P&G sẽ chỉ có một phần nhỏ trên thị trường và chỉ kiếm được có 3.000 đôla lợi nhuận mỗi tháng. Liệu P&G có thay đổi niềm tin và đòi giá 1,50 đôla hay không? Nếu bạn đứng trước một thế khó xử như vậy bạn sẽ làm gì? - 12 -
  13. 6. Những liên quan của thế khó xử của những người bị giam giữ trong việc định giá độc quyền nhóm. Liệu thế khó xử của những người bị giam giữ có bó buộc các hãng độc quyền nhóm phải cạnh tranh một cách hung hãn và hạ thấp lợi nhuận hay không? Không nhất thiết. Dù những người bị giam giữ của chúng ta chỉ có khả năng là thú nhận, đa số các hãng ấn định đầu ra và giá cả của họ và điều chỉnh thái độ của bản thân họ một cách phù hợp. Điều đó cho phép các hãng khuyếch trương những tiến đồn là có thể nảy sinh một sự trông cậy vào nhau. Do đó , đôi khi sự phối hợp và hợp tác độc quyền nhóm có ưu thế thẳng. Ví dụ, một ngành cong nghiệp gồm ba hay bốn hãng đã cùng tồn tại trong một thời gian dài sau nhiều năm. Những nhà quản lý của các hãng đã phát chán vì mất tiền do các cuộc chiến tranh giá cả, và một sự thông cảm ngầm có thể nảy sinh trong đó tất cả các hãng đều duy trì các giả cao và không hãng nào thực sự mưu toan chiếm phần thị trường của các đối thủ cạnh tranh của mình, các nhà quản lý hiểu rằng những cái được do đó mà có sẽ không tồn tại lâu dài. Họ hiểu rằng các đối thủ cạnh tranh của họ sẽ trả đũa, và do đó chiến tranh lại nổ ra và lợi nhuận sẽ bị hạ thấp về lâu dài. Kết cục của thế khó xử của những người bị giam giữ xảy ra ở một số chứ không phải ở tất cả các ngành kinh doanh. Đôi khi các nhà quản lý không bằng lòng với những lợi nhuận cao vừa phải do có sự cấu kết ngấm ngầm và muốn cạnh tranh một cách hung hãn để thử và chiếm đoạt đại bộ phận thị trường. Đôi khi quả thật là quá khó đạt được một sự thông cảm ngấm ngầm. Ví dụ, các hãng có thể có những chi phí khác nhau và những nhận thức khác nhau về nhu cầu thị trường, cho nên họ bất đồng với nhau về cái giá cấu kết “thỏa đáng”. Hãng A có thể nghĩ rằng cái giá “thỏa đáng” ấy là 10 đôla trong khi Hãng B cho đó là 9 đôla. Khi hãng B ấn định một giá là 9 đôla, hãng A có thể coi đó là một mưu toan hạ giá và có thể trả đũa bằng cách hạ giá của mình xuống 8 đôla, thế là một cuộc chiến tranh giá cả bắt đầu. Vì vậy, trong nhiều ngành kinh doanh sự cấu kết ngầm tồn tại không lâu dài. Đó t hay là một nền tảng đẻ ra sự hồ nghi, do đó chiến tranh đột khởi ngay khi một hãng bị các đối thủ cạnh tranh coi là “làm rung chuyển con tàu” bằng cách thay đổi giá cả của mình hay tiền hàng quảng cáo quá nhiều. - 13 -
  14. 7. Tính cứng nhắc của giá cả. Vì cấu kết ngầm có xu hương là mong manh, các hãng độc quyền nhóm thường hay rất mong muốn có một sự ổn định, đặc biệt là trong lĩnh vực giá cả. Đó là lý do tại sao tính cứng nhắc của giá cả lại thường là một đặc điểm của các ngành công nghiệp độc quyền nhóm. Dù cho các chi phí hay nhu cầu thay đổi, các hãng vẫn sẵn lòng thay đổi giá cả. Nếu các chi phí giảm xuống hay nhu cầu của thị trường suy thoái các hãng đều không sẵn lòng hạ thấp giá cả mà việc gì đó có thể gửi một thông điệp sai lạc tới các đối thủ cạnh tranh của họ, và do đó dẫn tới một hiệp chiến tranh giá cả. Và nếu như các chi phí hay nhu cầu gia tăng, các hãng cũng không sẵn lòng nâng cao giá vì họ sợ rằng các đối thủ cạnh tranh của họ không thể cũng nâng cao giá cả. Tính cứng nhắc này của giá cả là nền tảng của mô hình “đường cầu xoăn xuýt” rất quen thuộc về độc quyền nhóm. Theo mô hình này, mỗi hãng đứng trước một đường cầu xoăn xuýt với giá phổ biến đương thời P*. (Xem hình 12.7). Ở những giá cao hơn, P* các hãng khác sẽ không đi theo, và do đó sẽ thua thiệt về doanh sốvà mất nhiều trong phần thị trường của mình. Mặt khác, hãng cho rằng nếu hạ giá của mình thấp hơn P*, các hãng khác sẽ đi theo vì họ không muốn mất phần của họ trên thị trường, do đó số bán ra sẽ chỉ tăng tới phạm vi mà một giá thị trường thấp hơn nâng cao tổng cầu thị trường. Vì đường cầu của hãng là một đường xoắn nên đường thu nhập lề của hãng là một đường gián đoạn (phần căn bản của đường thu nhập lề ứng với phần co giãn ít hơn của đường cầu, như được biểu hiện bởi các phần gạch đứt đoạn của mỗi được ấy). Do đó, các chi phí của hãng có thể thay đổi mà không dẫn tới một thay đổi trong giá cả. Như đã biểu hiện trong hình, chi phí lề có thể tăng, nhưng nó vẫn phải bằng thu nhập lề ở cùng một mức đầu ra như cũ, vì vậy giá cả vẫn như cũ. Mô hình đường xoắn xuýt là đơn giản một cách hấp dẫn nhưng nó không thực sự giải thích được sự định giá độc quyền tay đôi. Nó không hề ch biết làm thế nào mà các hãng đi tới được giá P* trước hết và tại sao họ lại không đi tơi một giá cả hơn là để giải thích nó. Lời giải thích tính cứng nhắc của giá cả xuất phát từ thế khó xử của những người bị giam giữ và từ ý các hãng muốn tránh một cuộc cạnh tranh giá cả tàn hại lẫn nhau. - 14 -
  15. 8. Sự lãnh đạo giá cả. Một trong trở ngại chủ yếu để ngấm ngầm cấu kết định giá là các hãng khó mà thỏa thuận được với nhau (mà không cần nói chuyện với nhau) về giá cả phải có. Sự thỏa thuận trở thành đặc biệt không chắc có khi các điều kiện về chi phí và nhu cầu đang thau đổi và do đó giá cả “xác đáng” cũng đang thay đổi. Sự lãnh đạo giá cả là một hình thức ngấm ngầm cấu kết để tiến tới vấn đề này. Dưới sự lãnh đạo giá cả, một hãng ấn định giá cả, và những hãng khác, “những người theo giá” đi theo giá cả ấy. Cách dàn xếp này giải quyết được vấn đề thỏa thuận về giá cả – đòi đúng cái giá mà “người lãnh đạo” đang đòi. Người lãnh đạo sẽ ấn định giá cả nào? Giá cả nào tùy thuộc vào việc các hãng hoặc hạn chế sản xuất, ngoài việc làm cho các giá cả xứng hợp với nhau, sao cho các phần trên thị trường vẫn như cũ, hoặc sản xuất nhiều hơn với một giá cả cao hơn. Nếu các hãng khác hạn chế sản xuất, người lãnh đạo có thể ấn định giá cả có sức tối đa hóa lợi nhuận chung (ví dụ, 6 đôla trong Bảng 12.3). thế nhưng người lãnh đạo có thể là một hãng có ảnh hưởng chi phối, hãng này ấn định một giá cả có sức tối đa hóa lợi nhuận mà họ muốn theo cái giá cả ấy. Hình 12.8 cho thấy một hãng có ảnh hưởng chi phối ấn định giá cả của nó như thế nào. Ở đây, D là đường cầu của thị trường và SF là đường cung (tức đường tổng chi phí lề) của những người đi theo. Người lãnh đạo phải xác định đường của nó DL. Như hình cho thấy, đó đúng là số chênh lệch giữa cầu thị trường và số cung của những người đi theo. Ví dụ, ở giá P1 cung của những người đi theo vừa bằng cầu của thị trường, do đó người lãnh đạo có thể không bán gì theo cái giá ấy. Ở một giá là P2 hay thấp hơn, những người đi theo sẽ không cung cấp bất kỳ một sản vật nào, do đó người lãnh đạo đứng trước đường cầu của thị trường. Ở các giữa P1 và P2, người lãnh đạo đứng trước đường DL. Tương ứng DL là đường thu nhập lề của người lãnh đạo MRL. MCL là đường chi phí của người lãnh đạo. Để tối đa hóa được lợi nhuận của mình, người lãnh đạo sản xuất số lượng Quản lý QL ở giao điểm của MRL và MCL. - 15 -
  16. Từ đường cầu DL , chúng ta tìm ra giá P*. Ở mức giá này, những người đ theo bán một số lượng QF, do đó tổng số lượng bán được là QT= QL + QT. Sự lãnh đạo đòi giá có một hãng làm người lãnh đạo. Vì các hãng không thể trực tiếp thông báo cho nhau về điều này nên điều tự nhiên thường thấy là hãng lớn nhất trở thành người lãnh đạo. Đó là trường hợp trong công nghiệp ôtô, nơi General Motos đã theo truyền thống, làng lãnh đạo giá cả. Nhưng trong một số ngành công nghiệp, các hãng khác nhau luân phiên làm người lãnh đạo, ví dụ như 12.4 minh họa. 9. Lý thuyết trò chơi và chiến lược cạnh tranh Khác với một độc quyền thuần túy hay một hãng có sức mạnh cạnh tranh hoàn hảo, đa số các hãng phải quan tâm đến những sự đối phó chắc sẽ có của các đối thủ cạnh tranh khi họ đề ra những quyết định chiến lược về giá cả, chi tiêu quảng cáo, đầu tư vốn mới và những biến số khác. Dù chúng đã bắt đầu khảo sát kỹ một số trong những quyết định chiến lược ấy ở chương trên, còn có nhiều vấn đề cấu trúc thị trường và thái độ của các hãng mà chúng ta chưa đề cập đến. Ví như, tại sao các hãng lại có xu hương cấu kết với nhau trên mộ số thị trường khác? Một số hãng xoay sở như thế nào để ngăn chặn những đối thủ cạnh tranh tiềm tàng của họ đi vào doanh trường? Và các hãng phải tiến hành quyết định giá như thế nào khi các điều kiện nhu cầu hay chi phí đang thay đổi hoặc những đối thủ cạnh tranh mới đang đi vào thị trường. Để trả lời những câu hỏi ấy, chúng ta tần mở rộng phân tích việc các hãng tiến hành các quyết định trò chơi là một trong những lãnh vực lý thú nhất của khoa học. Kinh tế vi mô. Chương này giải thích một số điểm lý thuyết ấy và trình bày cách sử dụng nó để hiểu các thị trường tiến hóa và hoạt động như thế nào và các nhà quản lý phải suy nghĩ ra sao về những quyết định về chiến lược kinh tế mà họ liên tục phải đương đầu. Chúng ta thấy, chẳng hạn như, điều gì xảy ra khi các hãng độc quyền nhòm phải ấn định và điều chỉnh các giá cả một cách chiến lược trong thời gian, sao cho thế khó xử của những người bị giam giữ, mà chúng ta đã bàn đến trong chương 12, cứ lắp đi lắp lại mãi. Chúng ta sẽ bàn luận các hãng có thể tiến hành như thế nào các biện pháp chiến lược để có d một lợi thế so với các đối thủ cạnh tranh của họ hay để tiến vào một tình huống mặc cả. Và chúng ta sẽ thấy các hãng có thể sử dụng như - 16 -
  17. thế nào những sự đe dọa, những sự hứa hẹn hay những hành vi cụ thể hơn để ngăn chặn các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng đi vào thị trường. 10. Trò chơi và các quyết định chiến lược Trước hết, chúng ta phải làm sáng tỏ trò chơi và quyết định chiến lược là gì. Xét về thực chất, chúng ta có liên quan với vấn đề như sau: Nếu tôi cho rằng các đối thủ cạnh tranh với tôi đều cólý và đang hành động để tối đa hóa lợi nhuận của bản thân họ đề ra những quyết định có sức tối đa hóa lợi nhuận của riêng tôi? Như chúng ta sẽ thấy, có thể khó trả lời câu hỏi này, dù trong những điều kiện có sự đối xứng hoàn tiàn và những thông tin hoàn hảo (tức những đối thủ cạnh tranh của tôi và tôi đều có một cấu trúc chi phí như nhau và đều được thông tin đầy đủ về các chi phí của những người khác, về nhu cầu, v.v…). Hơn nữa chúng ta sẽ dính líuvới những tình huốn phức tạp hơn trong đó các hãng có những chi phí khác nhau, các kiểu loại thông tin khác nhau và những mức độ và hình thái khác nhau của thế cạnh tranh “có lợi” và “bất lợi”. 11. Những trò chơi không hợp tác so với những trò chơi hợp tác. Những trò chơi kinh tế mà các hãng tiến hành có thể là những trò chơi hợp tác hoặc là những trò chơi không hợp tác. Một trò chơi là hợp tác khi những người chơi có thể thương lượng những hợp đồng ràng buộc khiến họ có thể hoạch định những chiến lược chung. Một trò chơi là không hp75 tác nếu việc thương lượng và thực hiện một hợp đồng ràng buộc không thể có. Một ví dụ về trò chơi hợp tác là việc mặc cả giữa một người mua và một người bán về giá cả một tấm thảm. Nếu chi phí để sản xuất một tấm thảm là 100 đôla và người mua đánh giá tấm thảm ấy 200 đôla, có thể có một giải pháp hợp tác cho trò chơi, bởi vì một thỏa thuận bán tấm thảm ấy với bất kỳ giá nào giữa 101 đôla và 199 đôla đều sẽ tối đa hóa tổng số dư thặng dư tiêu dùng của người mua và lợi nhuận của người bán, trong khi làm cho cả hai bên đều khấm khá hơn. Một trò chơi hợp tác khác có liên quan đến hai hãng trong một ngàn công nghiệp đang thương lượng về việc cùng đầu tư để triển khai một quy trình công nghệ mới (ở đây không một hãng nào có đủ kiến thức kỹ thuật để thành đạt cho bản thân mình). Nếu hai hãng ấy có thể ký kết một hợp đồng ràng buộc để phân chia lợi nhuận từ số đầu tư cung của họ. Một kết quả - 17 -
  18. hợp tác làm cho cả hai bên đều khấm khá hơn có thể xuất hiện. Một ví dụ về trò chơi không hợp tác là một tình huống trong đó có hai công ty đang cạnh tranh với nhau đều lưu ý đến thái độ chắc phải có của hãng kia nhưng độc lập xác định một chiến lược định giá và quảng cáo để giành phần thị trường. Hãy chú ý rằng nét khác biệt cơ bản giữa trò chơi hợp tác và trò chơi không hợp tác là ở các nhà khả năng hợp đồng. Trong trò chơi hợp tác, có thể có các hợp đồng ràng buộc, trong trò chơi không hợp tác thì không có các hợp đồng ràng buộc. Chúng ta sẽ quan tâm nhiều đến các trò chơi không hợp tác. Trong bất cứ trò chơi nào, khía cạnh quan trọng nhất của việc thiết kế chiến lược là hiểu rõ quan điểm của đối thủ và (cho rằng đốithủ của bạn có lý) suy ra cách mà người ấy chắc hẳn sẽ đối phó với hành động của bạn. Điều này có thể được ci là hiển nhiên – đương nhiên, người ta phải hiểu rõ quan điểm của đối thủ. Tuy thế thậm chí trong những tình huống đơn giản của trò chơi, người ta thường hay bỏ qua hay đánh giá sai lập trường của các đối thủ và những đối sách mà những lập trường ấy bao hàm. Ví dụ tiếp theo minh họa điều đó. Trong tài liệu dưới đây, chúng ta sẽ khảo sát những trò chơi đơn giản có liên quan đến các quyết định đánh giá quảng cáo và đầu tư. Những trò chơi này là đơn giản ỡ chỗ, đã biết đoán định thái độ, chúng ta có thể xác định một chiến lược tốt nhất cho mỗi hãng. Tuy nhiên, thậm chí đối với những trò chhơi đơn giản này, chúng ta sẽ thấy rằng đoán định thái độ một cách “đúng đắn” không phải là việc dễ tiến hành, và sẽ tuy thuộc vào cách tiến hành cuộc chơi (tức vào thời gian tồn tại trên doanh trường của các hãng, quy mô của danh tiếng mà các hãng đã có, v.v…). Do đó, khi đọc chương này, bạn cần cố gắng hiểu rõ những vấn đề cơ bản hữu quan trong việc thiết kế và phân tích các quyết định chiến lược. 11. Việc thu phục một công ty Bạn đại diện cho Công ty A (người thu phục), công ty này đang xem xét việc thu phục Công ty T (mục tiêu). Bạn dự định đưa việc mua lại toàn bộ số cổ phần của Công ty T, nhưng bạn còn chưa biết chắc phải đưa ra cái giá nào. Điều đó phứctạp là ỡ chỗ: Giá trị của Công ty T, thực ra, khả năng sống còn của nó, tùy thuộc vào kếtquả của một dự án lớn thăm dò dầu mỏ đang được tiến - 18 -
  19. hành. Nếu dự án thất bại, Công ty T dưới quyền ban quản trị hiện nay sẽ chẳng còn đáng giá gì nữa. Nhưng nếu dự án thành côn, giá trị của Công ty T dưới quyền ban quản trị hiện nay có thể lên cao bằng 100 đôla một cổ phần. Mọi giá trị cổ phần giữa 0 đôla và 100 đôla đều được coi là chắc chắn như nhau. Nhưng người ta cũng biết rõ ràng Công ty T sẽ đáng giá n hơn dưới quyền quản lý tiến bộ của Công ty A so với dưới quyền ban quản trị hiện nay. Trên thực tế, dù giá trị tối hậu dưới quyền ban quản trị hiện nay là thế nào đi nữa Công ty T sẽ đánh giá 50% n hơn dưới quyền quản lý của Công ty A. Nếu dự án thất bại,dù dưới quyền quản lý nào Công tyT cũng đáng giá 0 đôl/một cổ phần. Nếu dự án thăm dò sản sinh ra một giá trị 50 đôla/một cổ phần dưới thời Công ty T hàm ý là một giá trị 150 đôla/một cổ phần dưới thời Công ty A, và v.v… Bạn phải xác định cái giá nào Công ty A nên đưa ra để mua ngay các cổ phần của Công ty T, Việc đưa ra này phải được tiến hành ngay bây giờ, trước khi có kết quả của dự án thăm dò.mọi dấu hiệu đều cho thấy, Công ty T sẽ may mắn nếu được Công ty A mua lại, với một giá cả thích đáng. Bạn chắc rằng Công ty T sẽ hoàn quyết định về lối đưa ra của bạn cho đến khi đã có các kết quả thăm dò và sẽ chấp nhận hay bác bõ lời đưa ra của bạn trước những tin tức và kết quả chưa đến tay báo chí. Thành thử, bạn (Công ty A) sẽ không biết các kết quả của dự án thăm dò khi đề xuất lời đưa ra giá cả của bạn, nhưng Công ty T sẽ biết các kết quả ấy khi quyết định có chấp nhận lời đưa ra của bạn hay không.hơn nữa, công ty T sẽ chấp nhận bất kỳ mức nào do Công ty A đưa ra lớn hơn giá trị (một cổ phần) của Công ty dưới quyền ban quản lý hiện nay. Là người đại diện của Công ty A, bạn đang cân nhắc các giá cả trong phạm vi từ 0 đôla/một cổ phần (tức không đưa ra gì cả) đến 150 đôla/một cổ phần. Bạn bên đưa ra cái giá nào cho một cổ phần để mua toàn bộ số cổ phần của Công ty T. Chú ý: Câu trả lời điển hình – đưa ra giữa 50 đôla và 75 đôla/ một cổ phần- là sai. Câu trả lời đúng cho vấn đề này ở cuối chương này, nhưng chúng tôi yêu cầu bạn cố gắng trả lời theo ý bạn đã. 12. Các chiến lược có ảnh hưởng chi phối - 19 -
  20. Chúng ta có thể quyết định chọn chiến lược tốt nhất nào để tiến hành trò chơi? Chúng ta có thể xác định như thế nào kết quả chắc phải có của trò chơi ? Chúng ta cần một cái gì đó để giúp chúng ta xác định xem thái độ hợp lý của mỗi người chơi dẫn dắt như thế nào đến một giải pháp cân bằng. Một số chiến lược có thể thành công nếu các đối thủ cạnh tranh có những sự lựa chọn nào đó, nhưng sẽ thất bại nếu họ có những sự lựa chọn khác. Tuy nhiên, nhiều chiến lược khác có thể thành công bất kể các đối thủ cạnh tranh lựa chọn gì. Chúng ta bắt đầu bàn luận về lý thuyết trò chơi với khái niệm chiến lược có ảnh hưởng chi phối- là một chiến lược tối ưu đãi với một người chơi bất kể đối phương làm gì. Ví dụ: dưới đây minh họa điều đó trong một khung cảnh độc quyền tay đôi đôi. Giả dụ Hãng A và B đang bán những sản phẩm có sức cạnh tranh với nhau và đang xem xét có nên tiến hành các chiến dịch quảng cáo hay không? Nhưng mỗi hãng sẽ chịu tác động bởi các quyết định của đối thủ cạnh tranh với mình. Những kết quả có thể có của trò chơi được minh họa bởi ma ttrận thưởng phạt, trong bảng 13.1 (xin nhắc lạirằng ma trận thưởng phạt tóm tắt những kết quả có thể có của một trò chơi, con số thứ nhất trỗi khuôn là phần thưởng phạt này rằng nếu cả hai hãng đều quyết định quảng cáo. Hãng A sẽ có lợi nhuận là 10 và hãng B sẽ có số lợi nhuân là 5.Nếu Hãng A quảng cáo và Hãng B không quãng cáo,Hãng A sẽ giành được 15 và Hãng B sẽ giành được số không,và tương tự vớihai khả năng khác). Bảng Ma trận thưởng phạt của trò chơi quảng cáo Hãng B Quảng cáo Không quảng cáo Quảng cáo 10, 5 15, 0 Hãng A Không quảng cáo 6, 8 10, 2 Mỗi hãng sẽ lựa chọn lược nào? Trước hết, hãy xem xét hãng A. Rõ ràng là hãng này phải quảng cáo bởi lẽ bất kể Hãng B làm gì, Hãng A cũng làm việc tốt nhất với mình là quảng cáo (nếu hãng B quảng cáo, Hãng A sẽ - 20 -
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1