intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng điện tử ở Việt Nam

Chia sẻ: Tô Nhiễm | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

10
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng điện tử ở Việt Nam" nghiên cứu về việc thiết lập các giao dịch điện tử góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế, chính vì vậy ở Việt Nam Luật giao dịch điện tử được ban hành nhằm tạo hành lang pháp lý hoàn thiện, đầy đủ, thuận lợi cho việc chuyển đổi các hoạt động từ môi trường thực sang môi trường số trong tất cả các ngành, lĩnh vực, nhằm chủ động, ưu tiên, khuyến khích thực hiện giao dịch điện tử; phát triển giao dịch điện tử toàn diện bằng các chính sách giúp tối ưu hóa quy trình, rút ngắn thời gian xử lý giao dịch điện tử thuận tiện, an toàn và tin cậy hơn. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng điện tử ở Việt Nam

  1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM Đoàn Thị Hải Yến1 Tóm tắt: Kinh tế số là một nền kinh tế được vận hành chủ yếu dựa trên công nghệ số đặc biệt có thể kể tới các loại giao dịch điện tử dựa trên ứng dụng công nghệ số. Việc thiết lập các giao dịch điện tử góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế, chính vì vậy ở Việt Nam Luật giao dịch điện tử được ban hành nhằm tạo hành lang pháp lý hoàn thiện, đầy đủ, thuận lợi cho việc chuyển đổi các hoạt động từ môi trường thực sang môi trường số trong tất cả các ngành, lĩnh vực, nhằm chủ động, ưu tiên, khuyến khích thực hiện giao dịch điện tử; phát triển giao dịch điện tử toàn diện bằng các chính sách giúp tối ưu hóa quy trình, rút ngắn thời gian xử lý giao dịch điện tử thuận tiện, an toàn và tin cậy hơn. Từ khóa: Giao dịch điện tử, hợp đồng điện tử, giao kết hợp đồng điện tử, thực hiện hợp đồng điện tử. Trong bối cảnh công nghệ phát triển với một tốc độ nhanh chóng, các giao dịch điện tử được áp dụng ngày càng trở nên phổ biến đối với các cá nhân, tổ chức trong xã hội. Do vậy, hiện nay việc giao kết hợp đồng truyền thống đang dần được thay thế bởi một phương thức mới chính là giao kết hợp đồng điện tử. Khi giao kết thông qua hợp đồng điện tử các cá nhân, tổ chức trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp đã giảm đáng kể được chi phí giao dịch, thời gian giao dịch, dễ dàng hơn trong việc tiếp xúc với khách hàng và thị trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài. Xét trong giai đoạn hội nhập hiện nay, việc giao kết thông qua hợp đồng điện tử không chỉ giúp các doanh nghiệp Việt Nam có thể vươn ra thị trường quốc tế mà còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận với các hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Để điều chỉnh đối với hoạt động giao dịch điện tử nói chung và hợp đồng điện tử nói riêng ở Việt Nam nhằm tạo khuôn khổ pháp lý cho các giao dịch điện tử thông qua đó cũng nhằm tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động này, Luật Giao dịch điện tử năm 2005 đã được ban hành, đây là đạo Luật đầu tiên điều chỉnh trực tiếp việc sử dụng các phương tiện điện tử trong giao dịch hợp đồng, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quá trình xây dựng khung pháp lý về giao dịch điện tử nói chung và hợp đồng điện tử nói riêng. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng và tổ chức thực hiện pháp luật về hợp đồng điện tử đi vào thực tiễn ở Việt Nam đã xuất hiện những điểm hạn chế cần phải sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng điện tử qua đó thúc đẩy các giao dịch điện tử, hợp đồng điện tử được thực hiện đáp ứng nhu cầu xã hội hiện nay. Chính vì vậy, ngày 22 tháng 06 năm 2023 Quốc Hội thông qua Luật Giao dịch điện tử. Luật Giao dịch điện tử 2023 theo đánh giá sẽ có tác động rất lớn, tạo một hành lang pháp lý hoàn thiện, đầy đủ, thuận lợi cho để doanh nghiệp chuyển đổi số và thúc đẩy các giao dịch điện tử nói chung và hợp đồng điện tử nói riêng. Luật Giao dịch điện tử 2023 nhằm thể chế hóa đầy đủ quan điểm, chủ trương của Đảng, khắc phục những vướng mắc, bất cập còn tồn tại của Luật Giao dịch điện tử 2005, phù hợp với các quy định pháp luật 1 Học viện Tài chính
  2. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 229 hiện hành và các cam kết trong điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đáp ứng yêu cầu và thúc đẩy chuyển đổi số toàn dân, toàn diện. Luật Giao dịch điện tử 2023 quy định một số vấn đề pháp lý về hợp đồng điện tử như sau: Quy định về khái niệm hợp đồng điện tử và giao kết hợp đồng điện tử: Theo khoản 16 Điều 3 Luật Giao dịch điện tử năm 2023 có quy định “ hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu”. Để hiểu rõ hơn về thông điệp dữ liệu thì đây là thông tin được tạo ra, được gửi, được nhận, được lưu trữ bằng phương tiện điện tử.  Khi giao kết hợp đồng điện tử các bên căn cứ quy định về giao kết như sau: Giao kết hợp đồng điện tử là việc sử dụng thông điệp dữ liệu để tiến hành một phần hoặc toàn bộ giao dịch trong quá trình giao kết hợp đồng điện tử. Đề nghị giao kết và chấp nhận giao kết hợp đồng điện tử được thực hiện thông qua thông điệp dữ liệu, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.  Quy định về giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử  Căn cứ Điều 34 Luật Giao dịch điện tử năm 2023 quy định hợp đồng điện tử được giao kết hoặc thực hiện từ sự tương tác giữa một hệ thống thông tin tự động với người hoặc giữa các hệ thống thông tin tự động với nhau không bị phủ nhận giá trị pháp lý chỉ vì không có sự kiểm tra hay can thiệp của con người vào từng hành động cụ thể do các hệ thống thông tin tự động thực hiện hay vào hợp đồng.   Điều 38 Luật Giao dịch điện tử 2023 quy định giá trị pháp lý của thông báo trong giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử: Trong giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử, thông báo dưới dạng thông điệp dữ liệu có giá trị pháp lý như thông báo bằng văn bản giấy.  Quy định về nguyên tắc giao kết hợp đồng điện tử và thực hiện hợp đồng điện tử  Khi giao kết hợp đồng điện tử thì các bên tuân thủ nguyên tắc giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử theo Điều 36 Luật Giao dịch điện tử năm 2023 như sau:  - Các bên có quyền thỏa thuận sử dụng thông điệp dữ liệu, phương tiện điện tử một phần hoặc toàn bộ trong giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử.  - Khi giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử, các bên có quyền thỏa thuận về yêu cầu kỹ thuật, điều kiện bảo đảm tính toàn vẹn, bảo mật có liên quan đến hợp đồng điện tử đó.  - Việc giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử phải tuân thủ quy định của Luật này, quy định của pháp luật về hợp đồng và quy định khác của pháp luật có liên quan.  Quy định về nhận, gửi, thời điểm, địa điểm nhận, gửi thông điệp dữ liệu khi giao kết:  Luật Giao dịch điện tử quy định việc nhận, gửi, thời điểm, địa điểm nhận, gửi thông điệp dữ liệu trong giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử như sau:  + Thời điểm, địa điểm gửi thông điệp dữ liệu  Trường hợp các bên tham gia giao dịch không có thỏa thuận khác thì thời điểm, địa điểm gửi thông điệp dữ liệu được quy định như sau:  - Thời điểm gửi một thông điệp dữ liệu là thời điểm thông điệp dữ liệu đó rời khỏi hệ thống thông tin dưới sự kiểm soát của người khởi tạo hoặc người đại diện của người khởi tạo.  
  3. 230 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM - Trường hợp hệ thống thông tin nằm ngoài sự kiểm soát của người khởi tạo hoặc người đại diện của người khởi tạo, thời điểm gửi một thông điệp dữ liệu là thời điểm thông điệp dữ liệu này nhập vào hệ thống thông tin;   - Ở bất kỳ địa điểm nào thông điệp dữ liệu được gửi thì địa điểm gửi thông điệp dữ liệu vẫn được coi là trụ sở của người khởi tạo nếu người khởi tạo là cơ quan, tổ chức hoặc nơi cư trú của người khởi tạo nếu người khởi tạo là cá nhân. Trường hợp người khởi tạo có nhiều trụ sở thì địa điểm gửi thông điệp dữ liệu là trụ sở chính hoặc trụ sở có mối liên hệ mật thiết nhất với giao dịch.   + Nhận thông điệp dữ liệu  - Người nhận thông điệp dữ liệu là cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc người đại diện của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó được chỉ định nhận thông điệp dữ liệu từ người khởi tạo thông điệp dữ liệu nhưng không bao gồm người trung gian chuyển thông điệp dữ liệu.  - Trường hợp các bên tham gia giao dịch không có thỏa thuận khác thì việc nhận thông điệp dữ liệu được quy định như sau:  Người nhận được xem là đã nhận được thông điệp dữ liệu nếu thông điệp dữ liệu được nhập vào hệ thống thông tin do người đó chỉ định và có thể truy cập được;  Người nhận có quyền coi mỗi thông điệp dữ liệu nhận được là một thông điệp dữ liệu độc lập, trừ trường hợp thông điệp dữ liệu đó là bản sao của một thông điệp dữ liệu khác mà người nhận biết hoặc buộc phải biết thông điệp dữ liệu đó là bản sao;  Trường hợp trước hoặc trong khi gửi thông điệp dữ liệu, người khởi tạo có yêu cầu hoặc thỏa thuận với người nhận về việc người nhận phải gửi cho mình thông báo xác nhận khi nhận được thông điệp dữ liệu thì người nhận phải thực hiện đúng yêu cầu hoặc thỏa thuận này;  Trường hợp trước hoặc trong khi gửi thông điệp dữ liệu, người khởi tạo đã tuyên bố thông điệp dữ liệu đó chỉ có giá trị khi có thông báo xác nhận, thông điệp dữ liệu đó được xem là chưa gửi cho đến khi người khởi tạo nhận được thông báo của người nhận xác nhận đã nhận được thông điệp dữ liệu đó;   Trường hợp người khởi tạo đã gửi thông điệp dữ liệu mà không tuyên bố về việc người nhận phải gửi thông báo xác nhận và cũng chưa nhận được thông báo xác nhận, trừ trường hợp quy định tại điểm a khoản này, thì người khởi tạo có thể thông báo cho người nhận là chưa nhận được thông báo xác nhận và ấn định khoảng thời gian hợp lý để người nhận gửi thông báo xác nhận; nếu người khởi tạo vẫn không nhận được thông báo xác nhận trong khoảng thời gian đã ấn định thì người khởi tạo có quyền xem là chưa gửi thông điệp dữ liệu đó.  +  Thời điểm, địa điểm nhận thông điệp dữ liệu  Trường hợp các bên tham gia giao dịch không có thỏa thuận khác thì thời điểm, địa điểm nhận thông điệp dữ liệu được quy định như sau:  - Trường hợp người nhận đã chỉ định một hệ thống thông tin để nhận thông điệp dữ liệu thì thời điểm nhận là thời điểm thông điệp dữ liệu nhập vào hệ thống thông tin được chỉ định và có thể truy cập được; nếu người nhận không chỉ định một hệ thống thông tin để nhận thông
  4. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 231 điệp dữ liệu thì thời điểm nhận thông điệp dữ liệu là thời điểm thông điệp dữ liệu đó nhập vào bất kỳ hệ thống thông tin nào của người nhận và có thể truy cập được;  - Ở bất kỳ địa điểm nào thông điệp dữ liệu được nhận thì địa điểm nhận thông điệp dữ liệu vẫn được coi là trụ sở của người nhận nếu người nhận là cơ quan, tổ chức hoặc nơi cư trú của người nhận nếu người nhận là cá nhân. Trường hợp người nhận có nhiều trụ sở thì địa điểm nhận thông điệp dữ liệu là trụ sở chính hoặc trụ sở có mối liên hệ mật thiết nhất với giao dịch.  + Gửi, nhận tự động thông điệp dữ liệu  Trường hợp người khởi tạo hoặc người nhận chỉ định một hoặc nhiều hệ thống thông tin tự động gửi hoặc nhận thông điệp dữ liệu thì việc gửi, nhận thông điệp dữ liệu. Qua nghiên cứu nội dung pháp luật về hợp đồng điện tử cho thấy Luật Giao dịch điện tử 2023 quy định về hợp đồng điện tử có một số nội dung mới như sau: Một là, Luật Giao dịch điện tử 2023 đã kế thừa, sửa đổi, bổ sung khái niệm “chữ ký điện tử”, “chữ ký số”, “dấu thời gian”, “hợp đồng điện tử”, “dữ liệu số”, “dữ liệu chủ”, “môi trường điện tử”, “chứng thư điện tử”, “dịch vụ chứng thực chữ ký số”, “người trung gian”... về chữ ký điện tử, Luật Giao dịch điện tử cơ bản không thay đổi về nguyên tắc, chỉ khái quát hóa, sửa đổi, bổ sung quy định cụ thể về chữ ký điện tử, chữ ký điện tử chuyên dùng, chữ ký số. Công nhận tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử nước ngoài; công nhận chữ ký điện tử, chứng thư chữ ký điện tử nước ngoài. Việc sửa đổi bổ sung các quy định về chữ ký điện tử, chữ ký số tạo điều kiện thuận lợi cho các bên khi ký kết hợp động điện tử. Hai là, về hành vi bị nghiêm cấm trong giao dịch điện tử nói chung và hợp đồng điện tử nói riêng. Luật quy định chi tiết, cụ thể hơn những nội dung và hành vi bị nghiêm cấm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tuân thủ luật. Ba là, một trong những điểm mới đáng chú ý của Luật Giao dịch điện tử sửa đổi là bổ sung quy định về giá trị pháp lý của việc chuyển đổi giữa bản giấy và bản điện tử, quy định về chứng thư điện tử, mở rộng đối tượng điều chỉnh. Đây được coi là một bước đột phá lớn để thúc đẩy các hoạt động giao dịch điện tử khi việc giao dịch có thể thực hiện hoàn toàn, từ đầu đến cuối bằng phương tiện điện tử. Quy định đảm bảo giá trị pháp lý của chữ ký điện tử, quản lý dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử đã phần nào giải quyết bất cập của Luật Giao dịch điện tử 2005 dù đã có quy định nhưng không chi tiết để thực thi cũng như bảo đảm được giá trị pháp lý và độ tin cậy, an toàn của thông điệp dữ liệu. Với quy định này nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành về giá trị pháp lý của các loại hình chữ ký điện tử, tạo cơ sở pháp lý, bảo đảm triển khai giao dịch điện tử an toàn, tin cậy, có giá trị pháp lý trên không gian mạng. Bốn là, về giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử là việc sử dụng thông điệp dữ liệu để tiến hành một phần hoặc toàn bộ giao dịch trong quá trình giao kết hợp đồng điện tử. Luật quy định giao Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành quy định về giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử trong lĩnh vực thuộc phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được phân công, phù hợp với điều kiện thực tiễn.
  5. 232 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM Luật Giao dịch điện tử 2023 sẽ có tác động rất lớn đến hoạt động trên môi trường điện tử của cơ quan nhà nước, người dân và doanh nghiệp. Các quy trình thực hiện giao dịch điện tử được luật hóa một cách rõ ràng sẽ đảm bảo giá trị pháp lý cho giao dịch điện tử. Bằng cách đó, luật sẽ tạo một hành lang pháp lý hoàn thiện, đầy đủ, thuận lợi cho việc chuyển đổi các hoạt động từ môi trường thực sang môi trường số trong tất cả các ngành, lĩnh vực. Việc giao kết hợp đồng điện tử sẽ tiết kiệm rất nhiều chi phí giao dịch, khi các bên trong giao dịch không cần gặp mặt trực tiếp để thực hiện giao dịch. Thời gian giao dịch là rất nhanh chóng bởi các bên có thể thực hiện giao dịch ở bất cứ đâu với một vài thao tác đơn giản trên thiết bị điện tử. Đối với giao dịch điện tử nói chung, hợp đồng điện tử nói riêng khi được xác lập thì thông thường các vấn đề được các bên quan tâm đó là: pháp luật quy định chữ ký điện tử và chứng thực điện tử; giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử; giá trị pháp lý của giao dịch điện tử; định danh và xác thực điện tử; dịch vụ tin cậy và dịch vụ hỗ trợ giao dịch điện tử; an ninh, an toàn, bảo vệ, bảo mật trong giao dịch điện tử; tranh chấp và xử lý vi phạm. Tuy nhiên, các vấn đề này hiện nay mặc dù Luật Giao dịch điện tử đã có những sửa đổi và bổ sung so với Luật Giao dịch điện tử năm 2005. Tuy nhiên, vẫn còn những khoảng trống mà Luật Giao dịch điện tử chưa đề cập đến, như các quy định mang tính chất đặc thù trong hợp đồng điện tử như: việc xác định hiệu lực của hợp đồng điện tử, hợp đồng điện tử vô hiệu, hợp đồng điện tử mẫu, chứng thực hợp đồng điện tử…. Do vậy, có thể sẽ gây ra những khó khăn nhất định cho việc giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử. Trong thời gian tới, các quy định pháp luật về hợp đồng điện tử vẫn cần phải hoàn thiện hơn nữa nhằm đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế số trong đời sống xã hội. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Luật Giao dịch điện tử 2005 2. Luật Giao dịch điện tử 2023
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
22=>1