intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số vấn đề về tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam

Chia sẻ: Thanh Thảo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:37

48
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đã bao thời nay, loài người đã và đang tiếp tục đứng trước một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt này và cố gắng tiếp cận nó, mong tìm ra một nhận thức đúng đắn để từ đó xác định và đưa vào vận hành trong thực tế một tỷ giá hối đoái phù hợp

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số vấn đề về tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam

  1. A - LỜI MỞ ĐẦU Tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế tổng hợp có liên quan đế n các phạm trù kinh tế khác và đóng vai trò như là một công c ụ có hiệu lực, có hiệu quả trong việc tác động đến quan hệ kinh tế đối ngoại của mỗi nước, đồng thời là yếu tố cực kỳ quan trọng đối với chính sách tiền tệ quốc gia. Đã bao thời nay, loài ngườ i đã và đang tiếp tục đứng trước một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt này và cố gắng tiếp cận nó, mong tìm ra một nhận thức đúng đắ n để từ đó xác định và đưa vào vận hành trong thực tế một tỷ giá hối đoái phù hợp, nhằm biến nó trở thành một công c ụ tích cực trong quản lý nền kinh tế ở mỗi nước. Tỷ giá hối đoái, như các nhà kinh tế thườ ng gọi là một loại "giá c ủa giá" , bị chi phối bởi nhiều yếu tố và rất khó nhận thức, xuất phát từ tính trừu tượ ng vốn có c ủa bản thân nó. Tỷ giá hối đoái không phải chỉ là cái gì đó để ngắm mà trái lại, là cái mà con người cần phải tiếp cận hàng ngày, hàng giờ, sử dụng nó trong mọi quan hệ giao dịch quốc tế, trong việc sử lý những vấn đề c ụ thể liên quan đế n các chính sách kinh tế trong nước và quốc tế. Và do vậy, nhận thức một cách đúng đắ n và sử lý một cách phù hợp một cách tỷ giá hối đoái là một nghệ thuật. Trong điều kiện nền kinh tế thế giới ngày nay, khi mà quá trình quốc tế hoá đã bao trùm tất cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh và trong cuộc sống, thì sự gia tăng c ủa hợp tác quốc tế nhằm phát huy và sử dụng những lợi thế so sánh c ủa mình đã làm cho việc quản lý đờ i sống kinh tế c ủa đất nước và là mối quan tâ m đặc biệt c ủa chính phủ các nước trong quá trình phục hưng và phát triển kinh tế. Việt Nam là một trong những nước như vậy. Xuất phát từ những lý do trên đây, Em chọn đề tài c ủa mình là "M ột số vấn đề về tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam". Tập đề án được chia làm 2 phần chính. Những vấn đề lý thuyết chung ( chương I ) Những chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam ( chương II ) Do đề ra, chương I sẽ chiế m phần lớn tập đề án. ở chương II. Và em sẽ cố gắng trình bầy và thể hiện những gì đã đề cập trong chương I. Dướ i đây em xin trình bầy nội dung đề án của mình.
  2. NỘI DUNG CHƯƠNG I: Những vấn đề lý thuyết chung I. Tỷ giá hối đoái và sự hình thành tỷ giá hối đoái 1. Tỷ giá hối đoái: Hầu hết mỗi quốc gia hay một nhó m quốc gia liên kết (như liên minh Châu Âu) đề u có đồng tiền riêng c ủa mình. Việt nam có tiền đồng (VNĐ) Trung quốc có Nhân dân tệ (CNY), Mỹ có Dollar (USD). Mối liên hệ kinh tế giữa các nước, các nhóm nước với nhau mà trước hết là quan hệ mua bán trao đổi đầ u tư dẫn đến việc cần có s ự trao đổi đồng tiền c ủa các nước khác nhau với nhau, đông tiền này đổi lấy đông ftiền kia, từ đố ta có thể nói rằng: tỷ giá hối đoái là giá cả c ủa một đơn vị tiền tệ c ủa một nước tính bằn tiền tệ c ủa một nước khác. Thông thườ ng, thuật ngữ "Tỷ giá hối đoái" được ngầm hiểu là số lượng đơn vị tiền nội tệ cần thiết để mua một đơn vị ngoại tệ, tuy nhiên ở M ỹ và Anh được sử dụng theo nghĩa ngược lại: số lượ ng đơn vị ngoại tệ cần thiết để mua một đồng USD hoặc đồng bảng Anh; ví dụ: ở Mỹ 0,8 xu/USD. Các nhà kinh tế thườ ng đề cập đến hai loại tỷ gia hối đoái: - Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (en): đây là tỷ giá hôí đoái được biết đến nhiều nhất do ngân hàng nhà nước công bố trên các phương tiện thông tin đạ i chúng hàng ngày. - Tỷ giá hối đoái thực tế (er) được xác định er = en * Pn/Pf Pn: chỉ số giá trong nước Pf: chỉ số giá nước ngoài Tỷ giá hối đoái thực tế loại trừ được sự ảnh hưở ng của chênh lệch lạm phát giữa các nước và phản ánh đúng swsc mua và sức cạnh tranh c ủa một nước. 2. Sự hình thành tỷ giá hối đoái a- Cầu về tiền trên thị trườ ng ngoại hối Có cầu về tiền của nước A trên thị trườ ng ngoại hối khi dân cư từ các nước khác mua hàng hoá và dịc vụ được sản xuất ra tại nước A. Một nước xuất khẩu càng nhiều thì cầu đối với đồng tiền nước đó càng lớn trên thị trườ ng ngoịa hối. Đườ ng cầu về một loại tiền là hàm c ủa tỷ giá hối đoái c ủa nó xuống dố phía bên phải, điều này cho thấy nếu tỷ giá hối đoái càng cao thì hàng hoá c ủa nước ấy càng trở lên đắt hơn đối với những ngườ i n\ớc ngoài và ít hàng hoá xuất khẩu hơn 2
  3. b- Cung về tiền trên thị trườ ng ngoại hối Để nhân dân nước A mua được các sản phẩm sản xuất ra ở nước B họ phải mua một lượ ng tiền đủ lớn c ủa nước B, bằng việc dùng tiền nước A để trả. Lượ ng tiền này c ủa nước A khi ấy bước vào thị trườ ng quốc tế. Đườ ng cung về tiền là một hàm c ủa tỷ giá hối đoái c ủa nó, dốc lê n trên về phía phải. Tỷ giá hối đoái càng cao thì hàng hoá nước ngoài càng rẻ và hàng hoá ngoại được nhập khẩu ngày càng nhiều. Các tỷ giá hối đoái được xác định chủ yếu thông qua các lực lượ ng thị trườ ng c ủa cung và cầu. Bất kỳ cái gì là m tăng cầu về một đồng tiề n hoặc làm giảm cung c ủa nó đề u có xu hướ ng làm cho tỷ giá hối đoái tăng lên. Bất kỳ cái gì làm giảm cầu về một đồng tiền hoặc làm tăng cung đồng tiền ấy trên các thị trườ ng ngoại hối sẽ hướng tới làm cho giá trị trao đổi của nó giảm xuống ở hình vẽ dướ i, ta thấy được tỷ gía hối đoái cân bằng Lo của đồng Việt Nam và đồng USD M ỹ thông qua giao điểm S và D. L USD Đ S Lo D Qo Q(đ) 2. Phân loại tỷ giá hối đoái Trong thực tế tuỳ từng nơi từng lúc khi quan tâ m đế n một khía cạnh nào đó c ủa tỷ gía hối đoái ngườ i ta thườ ng gọi đế n tên đế n loại tỷ giá đó. Do vậy cần thiết phải phân loại tỷ giá hối đoái. Dựa vào những căn cứ khác nhau ngườ i ta chia ra nhiều loại tỷ giá khác nhau: a- Căn c ứ vào phương tiện chuyển ngoại hối, tỷ giá được chia ra là m hai loại 3
  4. -Tỷ giá điện hối mà tỷ gía mua bán ngoại hối mà ngân hàng có trách nhiệ m chuyển ngoại hối bằng điện( telegraphic transfer -T/T) -Tỷ giá thư hối: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà ngân hàng có trách nhiệ m chuyển ngoại hối bằng thư ( mail transfen M/T) b- Căn c ứ vào chế độ quản lý ngoại hối, tỷ giá hối đoái chia ra các loại - Tỷ giá chính thức: là tỷ giá do nhà Nước công bố được hình thành trên cơ sở ngang giá vàng. -Tỷ giá tự do là tỷ giá hình thành tự phát trên thị trườ ng do quan hệ cung cầu qui định . - Tỷ giá thả nổi là tỷ giá hình thành tự phát trên thị trườ ng và nhà nước không can thiệp vào sự hình thành và quản lý tỷ giá này. - Tỷ giá cố định là tỷ giá không biến động trong phạm vi thời gian nào đó. c- Căn cứ vào phương tiện thanh toán quốc tế, tỷ giá được chia ra các loại: - Tỷ giá séc là tỷ giá mua bán các loại séc ngoại tệ. - Tỷ giá hối phiếu trả tiền ngay là tỷ giá mua bán các loại hối phiế u có kỳ hạn bằng ngoại tệ. - Tỷ giá chuyển khoản là tỷ giá mua bán ngoại hối trong đó việc chuyển khoản ngoại hối không phải bằng tiền mặt, bằng cách chuyển khoản qua ngân hàng. - Tỷ giá tiền mặt là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc chuyển trả ngoại hối bằng tiền mặt. d- Căn cứ vào thời điểm mua bán ngoại hối: - Tỷ giá mở cửa: là tỷ giá vào đầ u giờ giao dịch hay tỷ giá mau bá n ngoại hối c ủa chuyến giao dịch đầ u tiên trong ngày. - Tỷ giá đóng cửa: là tỷ giá vào cuối giờ giao dịch hay tỷ giá mua bán ngoại hối c ủa chuyến giao dịch cuối cùng trong ngày. - Tỷ giá giao nhận ngay: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc giao nhận ngoại hối sẽ được thực hiện chậm nhất trong 2 ngày là m việc. - Tỷ giá giao nhận có kỳ hạn: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc giao nhận ngoại hối sẽ được thực hiện theo thời hạn nhất định ghi trong hợp đồng(có thể là 1,2,3 tháng sau). 4
  5. e- căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối c ủa ngân hàng tỷ giá chia ra làm hai loại: - Tỷ giá mua: là tỷ giá mà ngân hàng mua ngoại hối vào. - Tỷg ía bán: là tỷ giá mà ngân hàng bán ngoại hối ra. II- Những nhân tố ảnh hưở ng tới tỷ giá hối đoái: 1- Cán cân thương mại: trong các điều kiện khác không đổi nếu nhập khẩu c ủa một nước tăng thì đườ ng cung về tiền c ủa nước ấy sẽ dịch chuyể n về phía bên phải, tỷ giá hối đoái giảm xuống; nếu xuất khẩu tăng thì đườ ng cầu về tiền của nước ấy sẽ dịch chuyển sang trái tỷ giá hối đoái tăng lên. 2- Tỷ giá lạm phát tương đối: nếu tỷ lệ lạm phát c ủa một nước cao hơn tỷ lệ lạm phát c ủa một nước khác thì nước đó sẽ cần nhiêù tiền hơn để mua một lượ ng tiền nhất định c ủa nước kia. Điều này làm cho cung tiề n dịch chuyển sang phải và tỷ giá hối đoái giảm xuống. 3- Sự vận động c ủa vốn: khi ngườ i nước ngoài mua tài sản tài chính, lãi suất có ảnh hưở ng mạnh. Khi lãi suất của một nước tăng lên một cách tương đối so với nước khác thì các tài sản của nó tạo ra tỷ lệ tiền lời cao hơn và có nhiều ngườ i dân nước ngoài muốn mua tài sản ấy. Điều này là m cho đườ ng cầu về tiền của nước đó dịch chuyển sang phải và làm tăng t ỷ giá hối đoái của nó. Đây là một trong những ảnh hưở ng quan trọng nhất tới tỷ giá ở các nước phát triển cao. 4- Dự trữ, phương tiện thanh toán, đầ u cơ: tất cả đều có thể làm dịch chuyển đườ ng cung và cầu tiền tệ. Đầ u cơ có thể gây ra những thay đổi lớn về tiền, đặc biệt trong điều kiện thông tin liên lạc hiện đạ i và công nghệ máy tính hiện đạ i có thể trao ddổi hàng tỷ USD giá trị tiền tệ mỗi ngày. Trên đây là 4 nguyên nhân cơ bản gây lên s ự dịch chuyển đườ ng cung và cầu trên thị trườ ng ngoại hối. Sự dịch chuyển này đế n lượt nó sẽ gây ra những dao động c ủa tỷ giá hối đoái, và như vậy phản ứng dâ y chuyền, những biến động c ủa tỷ giá hối đoái lại tác động đế n nền kinh tế trong nước. III- Tác động c ủa tỷ giá hối đoái đế n nền kinh tế 1-Thực trạng tác động c ủa tỷ giá đối với các lĩnh vực tài chính, ngân sách thời gian qua. 1.1-Thực trạng quan hệ giữa tỷ giá với ngân sách: 5
  6. Mọi s ự biến động c ủa các loại tỷ giá đề u tác động trực tiếp tới thu chi ngân sách. Trước năm 1990 nhà nước thực hiện chính sách tỷ giá kết toán nội bộ, mức tỷ giá nhà nước công bố thườ ng cố định trong thời gian tương đối dài. ở thời điể m công bố mức tỷ giá thấp hơn nhiều so với mức giá trên thị trườ ng và tình hình sức mua của đồng tiền tính chung thời k ỳ 1985-1988, 1rúp mua trên dướ i 1.500VND hàng xuất khẩu, 1USD trên dướ i 3.000VND, trong khi đó tỷ giá kết toán nội bộ thanh toán trong quan hệ xuất nhập khẩu giữu mức 150VND/Rúp và 225VND/USD. Nhìn chung 1Rúp hàng xuất khẩu phải bù lỗ 1.350VND và 1USD phải bù 2.775VND. Kim ngạch xuất khẩu c ủa năm 1987là 650 triệu R-USD trong đó khu vực đồng Rúp 500 triệu và khu vực đồng USD 150 triệu, Ngân sách nhà nướ c đã phải bù lỗ 900 tỷ. Đối với các ngành, các địa phương càng giao nhiề u hàng xuất khẩu để thực hiện nghĩa vụ với bạn, thì ngân sách nhà nước càng phải bù lỗ nhiều. Ngân sách nàh nước không bù lỗ đủ hoặc chậm trễ trong việc thanh toán thì công nợ giữa các doanh nghiệp và các ngành càng tăng và càng thiếu vốn để tiếp tục kinh doanh. Đối với hàng nhập, thì khi vật tư nguyên liệu thiết bị về nước nhà nước đứng ra phân phối cho các ngành trong nền kinh tế quốc dân với mức giá thấp (phù hợp với mức tỷ giá 150 VNĐ/Rúp và 225VND/USD nêu trên). Như vậy, các ngành, các địa phương được phân phối các loại vật tư,nguyên liệu đó thì được hưở ng phầ n giá thấp còn ngân sách nhà nước lại không thu được chênh lệch giá. Việc thực hiện cơ chế tỷ giá kết toán nội bộ trong thanh toán xuất - nhập khẩu và bù lỗ hàng xuất khẩu đó là: - Nếu thực hiện nghiêm trọng nghĩa vụ giao hàng xuất khẩu cho bạ n để có thể đưa hàng nhập về đáp ứng nhu c ầu c ủa nền kinh tế quốc dân, thì mức lỗ c ủa ngân sách cho hàng xuất khẩu lớn gây trở ngại cho việc điề u hành ngân sách - Nếu trì hoãn cho việc thực hiện nghĩa vụ giao hàng xuất khẩu nhưng trong khi đó vẫn yêu cầu bạn giao hàng nhập cho ta theo tiến độ, thì việc bù lỗ hàng xuất khẩu được giảm ở mức độ nhất định, nhưng nghĩa vụ nợ c ủa ta với bạn lại tăng lên đáng kể. Tỷ giá qui định thấp nên các tổ chức kinh tế và cá nhân có ngoại tệ không bán ngoại tệ cho ngân hàng, vì làm như vậy sẽ bị mất lãi. Các tổ chức đại diện nước ngoài hoặc cá nhân nướ c ngoài c ũng không chuyển tiề n tài khoản ở ngân hàng ở chi tiêu mà thườ ng đưa hàng từ nước ngoài vào hoặc sử dụng ngoại tệ tiền mặt trực tiếp trên thị trườ ng. Do đó cơ chế tỷ giá của thời kỳ này đã trở thành một yếu tố tạo cho ngoại tệ bị thả nổi, mua bán trên thị trườ ng trong nước. Thực tế này vừa gây thiệt hại về kinh tế cho Nhà nước vừa làm phát sinh thê m những tiêu cực trong đờ i sống xã hội. Đồng thời nó tác động trở lại tỷ giá kết toán nội bộ và làm cho tỷ giá giữa đồng nội tệ giữa các đồng ngoại tệ diễn biến phức tạp thêm. Từ tình hình trên cho thấy, trước năm 1989 tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam và ngoạ i tệ do nhà nước qui định không tính đế n biến động giá trên thị trườ ng đang 6
  7. bị trượt ngã nghiêm trọng, nên đã là m cho mức bù lỗ hàng xuất khẩu trong ngân sách quá lớn, gây khó khăn trong việc điều hành và quản lý ngân sách và thực hiện nghĩa vụ giao hàng mà ta đã cam kết với nước ngoài, ngoại tệ bị rối loạn, Nhà nước không điều hành và quản lý được. Tỷ giá hối đoái bị bóp méo so với thực tế đã khiến cho thu chi ngâ n sách Nhà nước không phản ánh đúng nguồn thu từ nước ngoài và các khoản cấp phát c ủa ngân sách Nhà nước cho nền kinh tế quốc dân và cho các hoạt động khác có sử dụng ngoại tệ. Việc tạo ra một tỷ giá chính thức tưở ng là giữ giá trị đồng Việt Nam so với ngoại tệ để kế hoạch hoá và ổn định kinh tế, nhưng thực chất là đẩ y xuất khẩu Việt Nam vào ngõ c ụt, không khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu và đẩ y mạnh hàng xuất khẩu, hệ quả là cán cân thương mại bị nhập siêu nghiêm trọng, ngân sách Nhà nước phải gánh chịu thêm các thua thiệt. Khi buộc phải thả nổi và phá giá mạnh đã là m cho chi phí c ủa các doanh nghiệp tăng lên đáng kể và lợi nhuận bị giảm, do đó mức thu từ thuế lợi tức của các tổ chức kinh tế cho ngân sách Nhà nước cũng bị ảnh hưở ng. Mặt khác, các khoản chi tiêu cho các cơ quan và tổ chức được Nhà nướ c cấp cũng được tăng lên tương ứng với mức mất giá c ủa đồng nội tệ. Tình hình đó đã tác động đế n yếu tố là m tăng bội chi ngân. Từ năm 1989, cùng với các cải cách kinh tế, tài chính, tiền tệ, Nhà nước đã bỏ chế độ tỷ giá trước đây (tỷ giá kết toán nội bộ) , giảm căn bản bù lỗ cho hoạt động xuất - nhập khẩu và thực hiện chính sách giá sát với t ỷ giá thị trườ ng. Ngân hàng nhà nước công bố tỷ giá chính thức của VNĐ vớ i các ngoại tệ mạnh, nhất là với USD trên cơ sở đó các ngân hàng thương mại xây dựng và công bố tỷ giá hàng ngày với biên độ chênh lệch cho phép (khoảng 5%) so với tỷ giá chính thức. Về mặt ngân sách Nhà nước, chính sách một tỷ giá hối đoái sát vớ i thị trườ ng khiến cho việc tính toán thu chi Ngân sách Nhà nước phản ánh trung thực và chính xác hơn, không bị bóp méo. Tỷ giá đó góp phần là m cho công tác kế hoạch hoá vay nợ và trả nợ nước ngoài từ ngân sách Nhà nước thuận lợi hơn và có cơ sở vững chắc hơn. * Mặc dù có những thành công rất đáng kể trong lĩnh vực tỷ giá và quản lý ngoại tệ, nhưng vẫn còn một số hạn chế đã làm ảnh hưở ng không tốt đến quản lý, điều hành ngân sách, đó là - Nguồn ngoại tệ không được quản lý chặt chẽ, còn bị buông lỏng đã khiến cho lực lượ ng ngoại tệ c ủa Nhà nước tăng chậm và chưa tương xứng với mức độ tăng c ủa cán cân thương mại, một cơ sở c ủa sự ổn định thu chi ngân sách Nhà nước là quĩ ngoại tệ chưa được tăng cườ ng. 7
  8. - Vì tỷ giá hối đoái chính thức theo sát tỷ giá thị trườ ng nếu không ổn định thì không những ngân sách bị động mà việc tính toán thu chi Ngâ n sách bằng ngoại tệ theo không kịp thời dẫn tới không sát với thực tế thị trườ ng, điều hành Ngân sách Nhà nước không tránh khỏi lúng túng, nhất là trườ ng hợp bị thiếu hụt khi trả nợ đế n hạn đòi phải giải quyết. 1.2: Thực trạng quan hệ tỷ giá và nợ nước ngoài Tỷ giá có mối quan hệ hữu cơ với nợ nước ngoài và công tác quản lý nợ. Trước năm 1979, Việt Nam có sử dụng 20tỷ Yên Nhật tương đương 92 triệu USD (tỷ giá 216 Yên = 1USD). Ngày 6/11/1992 chính phủ Nhật mở lại tín dụng với Việt Nam và cho Việt Nam vay 20 tỷ Yên, tương đương 159 triệu USD (tỷ giá 126 Yên= 1USD). Ngoài ra, vào thời điể m 1987 trở về trước còn có các khoản vay các công ty c ủa Nhật 20 tỷ Yên, tương đương 125 triệu USD ( tỷ giá 160 Yên= 1USD). Đầ u năm 1995, đồng Yên lên giá, 1USD chỉ còn 90 Yên là như vậy, xét về góc độ tỷ giá thì trong thời gian qua sự tăng giá c ủa đồng Yên Nhật, đã làm tăng thêm gánh nặng nợ gốc qui ra USD, làm thiệt thòi cho ngườ i đi vay. Tương tự như tình hình trên, việc s ử dụng vốn vay c ủa các doanh nghiệp ở nước ta liên quan đế n nhiều yếu tố, trong đó tỷ giá có tác động mạnh đế n khả năng thanh toán c ủa các doanh nghiệp. Trong các nă m 1989- 1990 có 81 doanh nghiệp vay nợ nước ngoài theo phương thức tự vay tự trả với doanh số vay là 5722 triệu Yên là 10,9 triệu USD, tỷ giá lúc này là 130 Yên=1USD, do đó tổng vay nợ bằng đồng Yên quy ra USD là 44 triệ u USD. Đến năm 1995, do chưa trả được nợ mà đồng yên lại tăng giá, nên nợ gốc vay tăng từ 44 triệu USD lên 58 triệu USD (chưa tính đế n yếu tố lãi suất tiền vay và tỷ giá giữa đồng Việt nam và USD). Do tổng hợp nhiề u yếu tố, rong đó có yếu tố về tỷ giá, nên đại bộ phận trong số 81 doanh nghiệp vay vốn theo phương thức này đề u bị sức ép của cả hai loại tỷ giá. - Tỷ giá giữa Yên và USD (đạ i bộ phận doanh số vay c ủa các doanh nghiệp kể trên là vay đồng Yên cuả các công ty Nhật trong khi đó đồng Yên tăng giá). - Tỷ giá giữa đồng Việt nam và USD (trong khi đó đồng Việt nam b ị giả m giá). Sự biến động c ủa tỷ giá cùng các với yếu tố ngoại hối, nhưng nó có ý nghĩa đặc biệt riêng c ủa nó đối với việc huy động vốn, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đạ i hoá, thu chi ngân sách nhà nước, ổn định kinh tế và xã hội. Ngược lại, vực nợ nước ngoài nếu không quản lý tốt và không sử dụng có hiệu quả sẽ trở thành gánh năngk đối với nền kinh tế hiện tại và tương lai, có khi còn ảnh hưở ng đế n nền độc lập và chủ quyền quốc gia. 8
  9. Về vay nợ chính phủ phải có quy chế chặt chẽ quy định được vay về trách nhệm,nghĩa vụ và quyền hạn c ủa các pháp nhân kinh tế và pháp nhâ n công quyền trước các khỏan vay và khỏan trả nợ. Hiện nay chúng ta có qui định Nhà nước vay Nhà nước trả, doanh nghiệp vay doanh nghiệp trả, Nhà nước không gánh hộ nợ doanh nghiệp. Thiếu vốn phải vay, nhưng không phải ai cho vay với điều kiện nào cũng chấp nhận cả. Phải thấy rằng, nếu tỷ giá hối đoái đồng Việt Nam hạ, đồng ngoại tệ tăng, thì khoản trả nợ c ủa Ngân sách Nhà nước c ủa doanh nghiệp sẽ phải tăng , nhưng xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ lại có lợi, đó là một bài toán khó, phải tính xem lợi ích do xuất khẩu mang lại cho phát triển kinh tế có bù lại được thiệt hại c ủa số tiền Ngân sách Nhà nước và doanh nghiệp phải trả nợ cao hơn không? Vì lẽ đó, chúng ta phải tỉnh táo đàm phán với các chủ nợ khi vay, không thể chấp nhận bất c ứ điều kiện nào và không thể không nghĩ đế n việc trả giá, đặc biệt phải chú trọng đế n các vấn đề chính trị c ủa các khoản vay. Phải thấy được rằng các chủ nợ cho vay là để lấy lãi chứ không phải làm việc nghĩa. Vấn đề là ơe chỗ làm thế nào để giải quyết hài hoà giữa lợ i ích c ủa bên cho vay và bên vay. Việc quảnlý nợ khônghc ỉ quy định trách nhệ m mà còn phải luôn chú ý tới hiệu quả sử dụng khoản vay. Vì vậy quản lý đầ u tư sử dụng các khoản vay cho các công trình, mục tiêu là một việc có tầm quan trọng đặc biệt. Các cơ quan tài chính và ngân hàng phải đặc biệt chú ý tới vấn đề này-vay cho mục tiêu nào được quản lý theo mục tiê u đó. Về viện trợ: viện trợ không hoàn lại không nhiều, nhưng c ũng phả i được quản lý chặt chẽ. Những khoản viện trợ cuả nước ngoài cho chính phủ và các cấp chính quyền phải được đưa vào ngân sách nhà nước để cân đối và sử dụng, không hình thành quỹ riêng. Tuy các khoản này ngân sách không phải trả lại nhưng là một nguồn khá quan trọng góp phần giải quyết các vấn đè c ủa đất nước. Những khoản tài trợ c ủa các tổ chức quốc tế và cá nhân cho các dự án ngoài ngân sách và các tổ chức xã hội c ũng phải được chuyển vào ngâ n sách để quản lý và chỉ cấp phát bằng tiền Việt nam theo tỷ giá chính thức ở thời điể m s ử dụng, không cấp phát bằng ngoại tệ. Để đáp ứng yêu cầu trên, chính phủ cần thành lập một tổ chức trực tiếp quản lý nợ, viện trợ. Cơ quan này không những nắm các khoản nợ, viện trợ, tài trợ c ủa chính phủ, các cấp chính quyền, mà cả các khoản nợ của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế nhằm thực hiện yêu cầu quản lý vĩ mô c ủa nhà nước trong điều kiện kinh tế mở. Chỉ xét riêng trong cán cân vay lãi, cán cân thanh toán quốc tế, thì không phải chỉ có nợ chính 9
  10. phủ mới nằ m trong đó mà ngay cả nợ c ủa các doanh nghiệp tư nhân các của nước c ũng phải đưa vào. Bởi vì, vốn đưa vào dù ai sử dụng thì vẫn là cho cả nền kinh tế và khi trả, dù ai trả c ũng phải lấy một phần GDP để trả nợ mà việc đó liên quan đế n lợi ích quốc gia, trực tiếp tác dộng đế n sự cân bằng c ủa cán cân thanh toán. là quốc gia có số nợ nước ngoài lớn nếu so với GDP, trong tương lai còn phải vay và đồng thời phải trả nợ đế n hạn vì vậy với việc hình thành chiến lược vay và trả nợ có ý nghĩa chiến lược to lớn. 1.3 Thực trạng tác động cuả tỷ giá đế n lãi suất và trái phiếu chính phủ. Tỷ giá ngoại hối có liên quan chặt chẽ đế n lãi suất và có tác dụng điều chỉnh lãi suất. Trong nền kinh tế thị trườ ng khi đồng nội tệ mất giá khối lượ ng nội tệ cung ứng ngoài thị trường lớn đòi hỏi phải điều chỉnh tăng lãi suất, trong trườ ng hợp này là m tăng chi ngân sách về thanh toán lãi suất huy động nội tệ. Khi đồng nội tệ lên giá nhà nước phải điều chỉnh giả m mức lãi suất, điều này sẽ giả m chi ngân sách về thanh toán lãi suất huy động nội tệ, nếu không điều chỉnh mức lãi suất thì những nhà sản xuất kihn doanh sẽ bán ngoại tệ cho ngân hàng lấy nội tệ gửi vào ngân hàng hoặc mua trái phiếu chính phủ để hưở ng lãi suất cao. Điều này sẽ tác động xấu đế n sản xuất-kinh doanh trong khi đó ngân sách phải tiếp tụcthanh toán lãi suất về huy động tiền gửi. Kinh nghiệm c ủa một số nước châu á (như Malaixia, Thái lan, Indonexia) cho thấy việc sử lý hài hoà phối hợp điều hành lãi suất và tỷ giá ngoại hối đã là m cho tỷ giá giữ được biên độ ổn định và tiền tệ không có biến động mạnh. Do đồng USD mất giá ở mức cao, nên hiện nay M ỹ đang đẩ y mạnh xu hướ ng nâng cao lãi suất. Việc làm này s ẽ làm tăng lãi suất tiền vay bằng ngoại tệ USD, và do đó sẽ tác động trực tiếp đến các khoản vay nợ c ủa Việt nam. Với diễn biến này đòi hỏi chúng ta c ần có sách lược chọn đồng tiề n với mức lái suất thích hợp, nhằm đả m bảo cho việc sử dụng vốn vay đạ t hiệu quả. Tóm lại: từ những vấn đề phân tích trên đây và thực trạng Việt nam cho thấy, tình hình ta ì chính quốc gia (đặc biệt là ngân sách nhà nước) và chế độ ngoại tệ, tỷ giá có quan hệ biện chứng qua lại hết sức chặt chẽ, một mặt tình hình tài chính (mà biểu hiện tập trung là ngân sách nhà nước) là một nhân tố hàng đầ u quyết định đế n s ự lựa chọn tỷ giá, phương án điề u chỉnh tỷ giá, mặt khác chế độ quản lý ngoại hối, tỷ giá c ũng có ảnh hưở ng hết sức mạnh mẽ, toàn diện đế n quản lý. Nền tài chính quốc gia thông qua nhiều kênh, dướ i nhiều hình thức và góc độ khác nhau, chính vì vậy khi đặ t vấn đề lựa cọn chính sách, phương án điều chỉnh tỷ giá sẽ là sai lầ m 10
  11. nghiêm trọng nếu như không đề cập, phân tích thực trạng tài chính hiện hành c ủa quốc gia. 1.4 Tỷ giá hối đoái đối với điều chỉnh hoạt động kinh tế đối ngoại. Các nước đang phát triển thườ ng thiết ké chính sách tỷ giá hối đoá i nhằ m duy trì sức cạnh tranh quốc tế ở mức phù hợp với vị thế cán cân thanh toán quốc tế lâu bền. Bằng cách tăng giá các hàng thương mại hoá được so với các hàng hoá không thương mại hoá được; sự phá giá đồng thời chuyển dịch cầu tổng thể có lợi cho các cho các hàng hoá không thương mại hoá được, và cung tổng thể có lợi cho các hàng hoá thương mại hoá được, và do đó giả m bội dư cầu đối với hàng hoá thương mại hoá được (tức là cải thiện được vị thế c ủa cán cân vãng lai). Ngoài tác dộng c ủa chính sách chuyển đổi chi tiêu, phá giá c ũng giả m cầu tổng thể thông qua ảnh hưở ng c ủa khối lượ ng tài sản, một sự tăng giá nội địa sẽ làm cho sự phá giá đồng tiền nội địa tháp hơn giá trị thực c ủa tài sản tài chính và giảm hấp thụ. Do vai trò cốt yếu c ủa tỷ giá hối đoái đói với việc duy trì sức cạnh tranh đối với bên ngoài tỷ giá có thể làm thay đổi vượt ra khỏi điể m câ n bằng c ủa nó. Bởi vì điể m cân bằng này được xác địng nội sinh, chính sách tỷ giá hối đoái cần lưu ý đế n các tác động của các cơn sốc khác nhau lê n điể m cân bằng c ủa tỷ giá thực. Phần này đề cập đến các tiếp cận khác nhau trong việc xác định điể m cân bằng tỷ giá thực và nghiên cứu tác dộng c ủa các cơn sốc bên trong và bên ngoaig lên điể m cân bằng đó, sau đó sẽ tập trung vào chính sách c ụ thể nhằ m duy trì sức cạnh tranh trong quá trình điều chỉnh. Xác định tỷ giá hối đoái cân bằng: Nói chung có hai tiếp cận để xác định tỷ giá hối đoái thực "cân bằng". Tiếp cận đơn giản và phổ biến nhất là dựa vào khái niệm tỷ giá theo sức mua so sánh. Nguyên lý trung tâm c ủa tỷ giá so sánh sức mua là tỷ thực cân bằng tỷ lệ với các mức giá tương đối giữa một nước với đối tác ngoại thương c ủa mình, tức là đối với s ức mua so sánh giữa các đồng tiền các quốc gia. Như vậy tỷ giá sức mua so sánh được coi là chỉ số thích hợp cho cân bằng tỷ giá giưã các đồng tiền với tỷ lệ lạ m phát quy định tỷ lệ thay đổi của tỷ giá danh nghĩa theo thời gian. Việc áp dụng tỷ giá so sánh sức mua bao gồm việc s ử dụng tỷ giá hối đoái hiện hữu để tính mặt bằng giá tương đối theo các đại lượ ng tiền tệ thông dụng. Bất cứ sự sai lệch nào c ủa tỷ giá thực so với giá trị gốc của nó sẽ được coi là dấu hiệu tỷ giá đã đi lệch ra khỏi giá trị tỷ giá so sánh sức mua cân bằng. Tiếp cận khác, có s ức hấp dẫn hơn là định nghĩa tỷ giá hối đoái thực như là giá so sánh tương đối giữa hàng hoá mậu dịch và hàng hoá không 11
  12. mậu dịch hoá được, nó đưa ra thước đo các động lực quyết định s ự phâ n phối nguồn lực giữa hai khu vực trọng yếu này c ủa nền kinh tế: nếu giá nội địa c ủa hàng hoá thương mại hoa so với hàng hoá không thương mại hoá được thì nguồn lực sẽ được phân phối lại sang khu vực hàng hoá thương mại hoá và cán cân ngoại thương sẽ được cải thiện. Theo nghĩa đó, thì điể m cân bằng c ủa tỷ giá thực sẽ tương ứng với giá so sánh giữa hàng hoá thương mại hoá và hàng hoá không thương mại hoá đem lại đồng thời s ự cân bằng nội và cân bằng ngoại. Cân bằng nội có nghĩa là thị trườ ng hàng hoá không thương mại hoá được thanh toán liên tục, cân bằng ngoại có nghĩa là thâ m hụt cán cân vãng lai được tài trợ một cách bền vững từ luồng vốn nước ngoài vào. Ngoài chỉ số giá thực tế thì vẫn còn có các vấn đề tiề m tànglên quan đến biến động chỉ số và sức cạnh tranh với bên ngoài. Một số nghiên cứu gần đây chỉ ra sự thay đổi chỉ số tỷ giá thực quan được có thể là biểu hiệ n của sự thay đổi điể m cân bằng c ủa tỷ giá thực do các loại cơn sốc trong nước và nước ngoài gây ra (ví dụ: sự tác động cảu chênh lệch mức tăng năng suất, thay đổi điều kiện ngoại thương, cải cách thuế quan, thay đổ i trong điều hành ngân sách chính phủ, sự tăng lên c ủa lãi suất thực quốc tế) lên cân bằng của tỷ giá thực. Chênh lệch về mức độ phát triển, tiến bộ trong công nghệ có tác động quan trọng đế n điểm cân bằng c ủa tỷ giá thực, ví dụ: nếu năng suất lao động tăng nhanh hơn trong khu vực hàng hoá thương mại hoá so với khu vực hàng hoá không thương mại hoá, thì giá so sánh giữa hàng hoá không thương mại hoá sẽ tăng do sự tăng đồng nhất c ủa tiền lương trong cả hai khu vực. Với giá hàng hoá thương mại hoá thị trườ ng quốc tế quy định thì tỷ giá hối đoái thực cân bằng sẽ giảm. vậy tỷ giá thực cân bằng ở các nước có tốc độ tăng năng suất thấp các nước đang phát triển thườ ng chịu các cơn sốc về điều kiện ngoại thương. Giả sử điều kiện ngoại thương xấu đi vì s ự giảm giá tương đối c ủa hàng xuất khẩu, sự xấu đi này tạo nên dư thừa cung đối với hàng hoá không thương mại hoá và dư thừa cầu đối vớ i hàng hoá thương mại hoá, làm cho cán cân vãng lai xấu đi. Mất cân bằng cán cân vãng lai được điều chỉnh lại qua việc giả m giá tương đối c ủa hàng hoá không thương mại hoá-tức là tăng tỷ giá thực và dịch chuyển cung nội địa từ hàng hoá không thương mại hoá sang hàng hoá xuất nhập khẩu. Phân tích về tác động c ủa cải cách thuế nhập khẩu cho thấy: giả m thuế nhập khẩu thườ ng là tương đương với tăng tỷ giá thực cânbằng. về phương diện định tính thì tác động c ủa tự do hoá nhập khẩu c ũng giống như việc cải thiện điều kiện ngoại thương (do giả m giá xuất khẩu). Thuế nhập khẩu thấp hơn sẽ giả m giá tương đối của hàng nhập khẩu, tạo nên s ự dư thừa cầu đối với hàng hoá này, và dư thừa cung đối với hàng hoá xuất khẩu. để đưa về cân bằng thì giá tương đối của hàng hoá không thương mạ i 12
  13. hoá sẽ giả m. Như vậy phản ứng đối với việc giảm thuế nhập khẩu là tỷ giá hối đoái thực sẽ tăng lên. Tỷ giá thực cân bằng c ũng bị tác động c ủa các biện pháp ngân sách, ngay cả khi thiếu hụt ngân sách không thay đổi thì s ự thay đổi trong cơ cấu thu chi ngân sách c ũng làm cho tỷ giá thực cân bằng thay đổi, Ví dụ: nế u chính phủ cho hướ ng thành phần chi tiêu sang hàng hoá thương mại hoá sẽ giả m và tỷ giá thực sẽ tăng. C ũng như vậy, một sự thay đổi cơ cấu thuế sẽ tác dộng tới tỷ giá thực cân bằng bằng cách gây nên sự dịch chuyển c ủa hành vi đầ u tư-tiết kiệ m c ủa nền kinh tế. Về nguyên tắc, nhiều sự kết hợp của biện pháp ngân sách sẽ cho cùng một kết quả cân banừg ngân sách tổng thể, nhưng với mỗi s ự kết hợp sẽ cho một tỷ giá thực cân bằng. Vì vậ y điể m cân bằng c ủa tỷ giá hối đoái thực không chỉ định do vị thế ngân sách quy định, mà còn do cơ cấu chi và thu c ủa chính phủ quy định. Một sự tăng lên lãi xuất quốc tế sẽ tác động đế n điể m cân bằng c ủa tỷ giá hối đoái thực thông qua hai kênh: thứ nhất, dướ i chế độ tỷ giá c ố định thì lãi xuất trong nước tăng lên để giữ được mức so sánh với lãi xuất quốc tế, do đó làm giả m chênh lệch giữa đầu tư và tiết kiệ m. Một sự cải thiện cán cân vãng lai như vậy sẽ gây nên việc giả m tỷ giá thực cân bằng. Thứ hai, phụ thuộc vào việc nước đó là chủ nợ hay con nợ ròng, một sự cải thiện hoặc xấu đi phản ánh s ự thay đổi tương ứng cảu sự thay đổi vị thế chuyển giao các nhân tố thu nhập, tác động này sẽ thúc đẩ y thêm việc giả m tỷ giá thực cân bằng là không rõ ràng, nếu một nước là con nợ lớn. Tác động c ủa lãi xuất quốc tế cao hơn c ũng phụ thuộc vào phản ứng ngân sách của chính phủ. Nếu chính phủ làm trung hoà tác động c ủa ngân sách lên sự thay đổi lãi xuất bằng cách giả m chi tiêu hàng hoá thương mại hoá, thì t ỷ giá thực cân bằng sẽ có xu hướ ng giảm trong dài hạn. mặt khác, tỷ giá thực cân bằng sẽ tăng nếu việc trả lãi xuất được tài trợ bằng cách tăng thuế, hoặc nếu kè m theo việc giảm chi tiêu chính phủ đối với hàng hoá không thương mại hoá. Tỷ giá hối đoái thực, sức cạnh tranh quốc tế và lạ m phát: Trong khi tỷ giá thực có thể chênh lệch ra khỏi điểm cân bằng vì một số các cơn sốc gây nên thì nguyên nhân chủ yếu c ủa viêvj xấu đi sức cạnh tranh đối với bên ngoài ở hầu hết các nước đang phát triển là tỷ lệ lạm phát nội địa cao kèm theo việc duy trì chế độ tỷ giá tỷ giá danh nghĩa cố định. Các tiếp cận để ngăn ngừa sự xấu đi c ủa sức cạnh tranh quốc tế là thực hiệ n quy tắc tỷ giá thực. Như vậy quy tắc tỷ giá có thể ngăn ngừa được sự xuất hiện mất cân đối lớn và lâu dài c ủa các giá cả tương đối và do đó tránh được mất cân bằng ngoại, bằng cách cho tỷ giá danh nghĩa được điều chỉnh thườ ng 13
  14. xuyên và theo liều lượ ng tương đối nhỏ. Ngườ i ta lập luận rằng: tỷ giá hối đoái thực tế có thể giữ được ở mức đúng đắ n, không gây ra cái giá điều chỉnh phải trả cho nền kinh tế, và do đó che lấp được vấn đề phá giá có thể nổi lên trên chiến trườ ng chính trị. Hơn thế nữa, ngườ i ta còn khẳng định quy tắc tỷ giá thực cung cấp một mức cho dự đoán. bởi vì nó cung cấp cho những ngườ i tham gia thị trườ ng thông tin bổ ích về chiều hướ ng có thể xảy ra các giá tương đối và do đó tránh được các quyết định sản xuất dựa trên các dự đoán mong đợ i sai lệch. Tuy vậy, việc chấp nhận quy tắc tỷ giá thực cũng gây ra một số vấn đề như: xác định điể m cân bằng c ủa tỷ giá thực là không dễ dàng về lý thuyết, chứ chưa nói về mặt thực tiễn và một số khó khăn nghiê m trọng có thể phải tính đế n nếu đích tỷ gía đặt sai. Vì vậy, trong khi phát biểu quy tắc tỷ giá thực thf phải cho phép có một độ sai số so với điểm cân bằng c ủa tỷ giá thực do các cơn sốc bên ngoài hoặc trong nước gây ra. Nếu cơn sốc là tạm thời, thì có thể kiên trì quy tắc tỷ giá thực. Nếu cớn sốc là lâu dài thì sự sai biệt lớn của tỷ giá thực so với điểm cân bằng có thể là m giảm sức cạnh tranh quốc tế. Các nghiên cứu gần đây cho thấy: các quy tắc tỷ giá thực có thể tạo nên sự không an tâm, đối với hệ quả cân bằng vĩ mô, dù nó có tác động tốt về mặt cân bằng ngoại. Việc thực hiện đích tỷ giá thực, tức là buộc phải theo đuổi đích phần thực mà lại s ử dụng các công c ụ đạ i lượ ng danh nghĩa với giá cả nội địa. Vì vậy các cơn sốc đối với lạ m phát trong nước có thể mang tính chất lâu dài, và trong một số trường hợp có thể dẫn đế n lạm phát, về phía cạnh khác, trong nền kinh tế nhỏ, cung tiền tệ có thể bị gia tăng do nguồn bên ngoài tăng lên, thì một sự bùng nổ giá c ũng có thể xảy ra ngay cả khi chính sách tín dụng không bành chướng. Chính sách hỗ trợ đối với các biến động c ủa giá thông qua điều chỉnh tiền tệ và tỷ giá sẽ tác động đế n quá trình hình thành tiền lương trong nền kinh tế. Theo chính sách đó thì ngườ i lao động sẽ không quan tâm nhiề u đến tác động lên công ăn việc là m c ủa việc định ra tiền lương danh nghĩa cao hơn, vì các công ty có đủ khả năngchuyển chi phí tiền lương cao hơn sang giá cao hơn, vì vậy sự tăng lương sẽ phản ánh đầ y đủ trong tiền lương và tăng giá cả tiếp tục theo đó. Tác động lên tổng sản phẩ m c ủa các chính sách hỗ trợ tài chính và tỷ giá hối đoái sẽ phụ thu vào nguồn gây nên biế n động. Nếu cơn sốt cung thống trị, thì biến động c ủa tổng sản phẩm sẽ tăng lên do chỉ số hoá đầ y đủ tỷ giá hối đoái. Ngược lại, nếu cơn sốt cầu thóng trị thì các chính sách hỗ trợ sẽ làm ổn định tổng sản phẩm. Các nghiên c ứu về hệ quả c ủa quy tắc tỷ giá thực voà ổn định giá chỉ mới bắt đầ u gần đây và có ít. Ađam và Gros(1966) nghiên c ứu vấn đề bằng cách sử dụng một số mô hình phân tíc đơn giản với các giả thiết khác nhau 14
  15. liên quan đế n cơ cấu hàng hoá, tính c ứng nhắc c ủa giá lương, độ tự do lưu chuyển vốn. Họ kết luận rằng: chính sách tiền tệ có thể mất khả năng kiể m soát lạm phát nếu đặt tỷ giá danh nghĩa theo quy tắc tỷ giá thực và nếu sau đó lại tìm cách kiể m soát lạm phát, thì sẽ mất khả năng kiể m soát diễn biễ n kinh tế vĩ mô khác, họ c ũng lập luận rằng: nếu tỷ giá hối đoái thực nâng quá mức so với điểm cân bằng thì lạ m phát chắc chắn sẽ cao hơn. Hoạt động c ủa quy tắc tỷ giá thực và chính sách ngân sách liên quan chặt chẽ với nhau Lizondc(1989) đưa ra lược đồ mối quan hệ giưã in tiề n do thiếu hụt ngân sách và tốc độ phá giá tỷ giá. Trong đó, giá trị cân bằng lâu bền c ủa tỷ giá thực là hàm không chỉ biến thực nêu trên mà còn c ủa tỷ lệ lamj phát trong nước. Đại lượ ng sau quyết định tổng thu được của chính phủ thông qua thuế lạ m phát, đế nlượt nó lại tác động lên giá trị tài sản c ủa tư nhân và chi tiêu trong dài hạn, và do đó lên điểm cân bằng c ủa tỷ giá thực. Mỗi một đích tỷ giá thực gây ra một tỷ lệ lạm phát nội địa về dài hạn, khi các điều kiện khác không thay đổi. Bên cạnh đó cần lưu ý không phả i tất cả các đích tỷ giá thực là khả thi và không phải tất cả các quy tắc tỷ giá đều đưa nền kinh tế đế n đích, ngay như nếu đích đó là khả thi. Kinh nghiệm các nước lạ m phát cao đã làm tăng s ự phản đối việc chấp nhận các quy tắc tỷ giá thực. Nhiều nước trên đã trải qua tình trạng t ỷ lệ lạ m phát cao trong thập kỷ trước mà đặc trưng "mặt bằng cao". Lạ m phát nhảy từng bước đế n các thời kỳ lạm phát cao hơn nhưng lại tương đối ổn định. Trong một số trườ ng hợp thì bước nhảy như vậy liên quan đế n phá giá từng đợt, tiếp theo là "c ố định" dựa vào các quy tắc tỷ giá so sánh s ức mua. Trong các nỗ lực lớn hơn, gần đây họ cố định tỷ giá danh nghĩa để cung cấp một mốc neo danh nghĩa. Điều này c ũng không kết luận rằng: gắn cố định dựa trên cơ sở tỷ giá so sánh sức mua là gây nên lạ m phát cao, nhưngnthực tiễn cho thấy nguy cơ ngày càng cao. Tuy vậy, c ũng cần nhận thấy một số lợi thế của quy tắc tỷ giá thực, ví dụ: tỷ giá thực sẽ không cho phép chênh lệch xa điểm cân bằng, vì vậy không phải lo lắng trước sự mất ổn định c ủa giá nội địa. Tóm lại, một khi đích mục tiêu đặt ra đối với tỷ giá thực vẫn còn đúng, thì tiềm năng gây lạm phát do sử dụng đích mục tiêu tỷ giá thực gây ra có thể được kìm hãm bằng cách sử dụng các chính sách ngân sách và tiền tệ thắt chặt, tiếp cận này sẽ ngăn ngừa sự xuất hiện biến động gây mất ổn định c ủa giá cả, ngay cả khi nếu tỷ giá danh nghĩa được điều chỉnh để duy trì sức cạnh tranh quốc tế. Khi không biết chắc chắn giá trị cân bằng của tỷ giá thực thì không nên quá chú trọng vào việc đặt ra đích mục tiêu t ỷ giá thực, ngya cả khi nếu các chính sách ngân sách và tiền tệ được sử dụng một cách thận trọng. Gánh nặng c ủa điều chỉnh ít nhất là một phần do các chính sách tài chính chịu, hơn là hoàn toàn dồn cho điều chỉnh tỷ giá. Theo 15
  16. nghĩa đó thì cần phải chú ý rằng các chính sách như vậy bản thân chúng có thể chịu tác động bởi chế độ tỷ giá hối đoái mà chính phủ đưa ra. Để phân tích tác động c ủa tỷ giá hối đoái tới nền kinh tế ta đưa ra khái niệ m khả năng cạnh tranh. Khả năng cạnh tranh = Po/P trong đó: Po: giá sản phẩm ngoài tính theo gía thi trườ ng nước ngoài. P: giá sản phẩm cùng loại sản xuất trong nước tính theo đồng nội tệ. tỷ giá hối đoái c ủa đồng tiền nước ngoài tính theo đồng nội địa. Với P và Po không đổi khi E tăng , EPo s ẽ tăng. Giá c ủa sản phẩ m nước ngoài trở nên đắt tương đối so với giá c ủa sản phẩm trong nước và ngược lại, giá c ủa sản phẩm trong nước trở nên rẻ, tương đối so với sản phẩ m nước ngoài. Sản phẩ m trong nước do đó có khả năng cạnh tranh cao hơn xuất khẩu sẽ tăng ( X tăng ), nhập khẩu giảm đi (IMgiảm), điều nà y làm cho xuất khẩu ròng (NX= X_IM) tăng lên. Vì AD=C+I+G+NV nê n NX tăng lên làm cho AD dịch phải, trên hình vẽ ta thấy sản lượ ng cân bằng Q tăng lên tỷ lệ thất nghiệp giảm. AD' P ASLR ASSR AD Q* Q Như vậy sự thay đổi tỷ giá hối đoái danh nghĩa và do đó tỷ giá hối đoái thực tế sẽ tác động đế n cân bằng cán cân thương mại, do đó tác động đến sản lượ ng, việc làm giá cả. Hãy mở rộng tác động c ủa tỷ giá hối đoái với cán cân thanh toán, ở đây có mối quan hệ giữa lãi xuất và tỷ giá hối đoái. 16
  17. Khi lãi suất tăng lên, đồng tiền nội địa trở nên có giá trị hơn, tỷ giá hối đoái c ủa đồng nội địa tăng lên, trong điều kiện tư bản vận động một cách tự do thì tư bản nước ngoài sẽ tràn vào thị trườ ng trong nước, giả định cán cân thương mại là công bằng thì cán cân thanh toán là thặng dư. Như vậy tỷ giá hối đoái là một biến cố rất quan trong, tác động đế n sự cân bằng c ủa cán cân thương mại và cán cân thanh toán, do đó tác động đến sản lượ ng, việc là m c ũng như sự cân bằng c ủa nền kinh tế nói chung. Chính vì vậy, một số nước trên thế giới vẫn còn duy trì tỷ giá hối đoái cố định, còn phần lớn các nước theo đuổi chính sách tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý nhằm giữ cho tỷ giá hối đoái chỉ biến động trong một phạm vi nhất định, để ổn định và phát triển nền kinh tế. IV. Các chế độ tỷ giá hối đoái Hiện nay, trên thế giới và đang tồn tại nhiều loại chế độ tỷ giá hối đoái biến tướ ng từ hai hình thức cơ bản là cố định và thả nổi. Trong thế giới mà sự phụ thuộc lẫn nhau càng tăng, việc lựa chọn một chế độ ngoại hối phù hợp với bối cảnh quốc tế, điều kiện c ụ thể từng bước và đáp ứng điều chỉnh kinh tế vĩ mô, nhất là với các nước đang thực hiện chuyển đổi cơ chế thực sự là vấn đề nan giải. 1. Tỷ giá hối đoái cố định bản vị vàng Theo chế độ bản vị vàng,tỷ giá hối đoái được qui định căn cứ vào hàm lượ ng vàng c ủa các đồng tiền. Trong điều kiện kinh tế thị trườ ng hiệ n đại, khi thương mại quốc tế tăng lên cùng với hoạt động đầ u cơ, chế độ bả n vị vàng này không đáp ứng được nhu cầu phát triển và các nước thôi áp dụng từ năm 1971. 2. Tỷ giá hối đoái kế hoạch bao cấp Loại tỷ giá hối đoái này được áp dụng tại các nước Xã hội chủ nghĩa thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Tỷ giá hối đoái kế hoạch bao cấp thườ ng chênh lệch nhiều lần so với tỷ giá hối đoái thị trườ ng, không có vai trò là công c ụ điều tiết vĩ mô đối với xuất nhập khẩu, loại tỷ giá hối đoá i này được áp dụng tại Việt Nam trước nă m 1989 3. Tỷ giá hối đoái thả nổi tự do Theo chế độ tỷ giá hối đoái này, mức tỷ giá hối đoái được quyết định hoàn toàn bởi các lực lượ ng cung cấp cầu về ngoại tệ. Trong hệ thống này chính phủ giữ thái độ thụ động, để cho thị trườ ng ngoại tệ đánh giá giá tr ị của ngoại tệ - loại tỷ giá hối đoái này ít được áp dụng vì các thị trườ ng tiề n 17
  18. tệ thườ ng không hoàn hảo và do vậy luôn cần có vai trò can thiệp c ủa nhà nước 4. Tỷ giá hối đoái thả nổi có điều tiết Theo chế độ này, chính phủ không cam kết duy trì một tỷ lệ cố định với ngoại tệ, mà thả nổi đồng tiền c ủa mình và có biện pháp can thiệp mỗi khi thị trườ ng trở nên (mất trật tự) , hoặc khi tỷ giá hối đoái đi chệch xa mức thích hợp loại tỷ giá hối đoái này hiện đang được áp dụng tại các nước Tư Bản Chủ Nghĩa, nơi mà lạ m phát đạt thấp, các thị trườ ng phát triển ở trình độ cao. 5. Tỷ giá hối đoái ổn định có điều tiết Theo chế độ này, chính phủ không để ngoại tệ trôi nổi tự do, mà can thiệp vào thị trườ ng ngoại tệ bằng cách mua bán ngoại tệ nhằm ổn định tỷ giá qui định. Sau mỗi thời gian nhất định, mức tỷ giá hối đoái lại được điều chỉnh cho phù hợp và duy trì ổn định. * Luận c ứ lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái Sự quản lý tối ưu c ủa tỷ giá hối đoái phụ thuộc vào các mục tiêu kinh tế của các nhà hoạch định chính sách, vào nguồn gốc c ủa các cơn sốc đối với nền kinh tế và đặc trưng cơ cấu c ủa nền kinh tế đang xét. Vì vậy các giả thiết khác nhau về nhân tố đó có thể dẫn đến s ự thay đổi về mức độ tối ưu của chế độ tỷ giá hối đoái. Vấn đề tiêu chuẩn tối ưu về nguyên tắc cần phải được cụ thể hoá. Trong thực tế các phân tích hiện đạ i đã tập trung vào tiêu chuẩn tương đối hẹp của ổn định kinh tế vĩ mô, được định nghĩa là cực tiểu sai phương c ủa tổng sản phẩm thực, mặt bằng giá hoặc tiêu dùng thực trước cơn sốt ngẫu nhiên có tính chất tạm thời. Một kết quả quan trọng c ủa nghiên c ứu lý thuyết là nói chung tỷ giá hối đoái cố định cực đoan lẫn tỷ giá hoàn toàn linh hoạt đề u không phải là tối ưu đối với ổn định kinh tế vĩ mô. Thật vậy một mức độ tương đối c ủa s ự linh hoạt lại có nhiều khả năng thành công hơn trong việc ổn định nền kinh tế khi cần phản ứng lại các cơn sốc ngẫu nhiên. Các tỷ giá hối đoái " có quản lý " hoặc " cố định linh hoạt" trở thành chế độ tỷ giá phổ biến nhất ở các nước đang phát triển, loại cơn sốc mà nền kinh tế thườ ng phải đối phó trở thành vấn đề cốt lõi cần xem xét khi định liệu tỷ giá hối đoái cố định hay điều chỉnh. Các nghiên cứu trước đây đã nhận dạng một số tiêu chuẩ n quản lý để phản ứng lại các cơn sốc trong nước. Các cơn sốc nội địa đòi hỏi áp dụng. Tỷ giá hối đoái cố định hay linh hoạt phụ thuộc vào cơn sốc là tiền tệ hay thực tế khi cơn sốc là tiền tệ thì quan điểm xưa nay là duy trì tỷ giá cố định sẽ co hiệu lực hơn trong việc ổn định tổng sản phẩ m. Vì cung tiền tệ là biến nội sinh dướ i chế độ tỷ giá hối đoái, các đột biến trong thị 18
  19. trườ ng tiền tệ nội địa đơn giản sẽ được hấp thụ bởi thay đổi c ủa dự trữ ngoại tệ mà không ảnh hưở ng đế n các điều kiện cung cầu c ủa thị trườ ng hàng hoá, là nơi quy định mức độ biến động kinh tế. Đổi lại khi cơn sốc là thực tế thì tỷ giá hối đoái cần phải được điều chỉnh ổn định tổng sản phẩ m bằng cách tạo nên (hoặc giả m) cầu bên ngoài. Nói chung, theo mục tiêu c ủa chính sách nhằm vào ổn định tổng sản phẩm trước các cơn sốc tạ m thời thì tỷ giá hối đoái cần phải được điều chỉnh khi cơn sốc xuất phát từ bên ngoài hoặc từ thị trườ ng. Các yêu cầu khi lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái: một số tiêu chuẩ n quy định tỷ giá phụ thuộc vào bản chất của cơn sốc lên nền kinh tế c ũng như đặc trưng cơ cấu c ủa nền kinh tế. Tuy vậy trong thực tế khó mà áp dụng đó cho các trườ ng hợp cụ thể. Các khó khăn đó không những lên quan đến các vấn đề thực tiễn, sự nhận biết nguồn gốc các cơn sốc và các đặc trưng cơ cấu mà còn liên quan đế n mâu thuẫn tiề m tàng giữa các mục tiêu chính sách khác nhau. Tiêu chuẩn để lựa chọn một chế độ tỷ giá hối đoá i thích hợp c òn phụ thuộc vào các mục tiêu chính sách do chính phủ đặ t ra. Các nghiên c ứu về các lợi thế c ủa tỷ giá hối đoái cố định và linh hoạt hầ u như là dành cho trườ ng hợp một nền kinh tế nhỏ không trải qua lạm phát cao và nói chung ở trạng thái cân bằng ngoại và chịu tác động c ủa các cơn sốc tạm thời. Cân bằng tập trung vào ổn định tổng sản phẩm, thay cho cân bằng cán cân thanh toán quốc tế là m chức năng hấp thụ các cơn sốc, để triệt tiêu tác động c ủa các thay đổi đột biến lên trên tổng sản phẩ m. Tuy vậy, mâu thuẫn c ủa chính sách có thể xảy ra khi cán cân thanh toán quốc tế c ũng được coi là mục tiêu chính sách. Mâu thuẫn này đặc biệt rõ nét ở các nước đang phát triển, là những nước thườ ng thiếu dự trữ ngoại tệ. Nếu vị trí cá n cân thanh toán quốc tế tạo nên s ự hạn chế thì tỷ giá hối đoái cần phải được dùng như là công c ụ để tạo mục tiêu cán cân thanh toán quốc tế thay đổ i cho ổn định tổng sản phẩ m. Mặt khác khi lạm phát là vấn đề nổi lên hàng đầu thì tỷ giá hối đoái có thể là chức năng hỗ trợ cho việc ổn định mặt bằng giá cả. V- Sự can thiệp c ủa nhà nước vào tỷ giá hối đoái: Việc thực hiện một chế độ tỷ giá linh hoạt vừa phải có sự kiểm soát với một mức tỷ giá gọi là tỷ giá chính thức được công bố bởi ngân hàng nhà nước, cùng với một biên độ quy định cho các mức tỷ giá giao dịch trê n thị trườ ng so với tỷ giá chính thức đòi hỏi chính phủ nói chung và ngân hàng nhà nước nói riêng cần phải có sự can thiệp điều phối thị trườ ng để duy trì biên độ quy định trong hoạt động can thiệp đó cần phải chú ý một số vấn đề sau: + Ngân hàng nhà nước luôn phải xác định mình là một thành phần chủ chốt, thườ ng trực c ủa các giao dịch trên thị trườ ng liên ngân hàng. 19
  20. + Trong công tác điều hành hệ thống tỷ giá hối đoái nói chung và thị trườ ng ngoại hối nói riêng, ngân hàng nhà nước cần có sự phân tích rõ ràng giữa hai chức năng: chức năng ngân hàng đại diện cho nhà nước với chức năng can thiệp thị trườ ng. Trong đó chức năng ngân hàng đạ i diện cho nhà nước là để thực hện các chức năng giao dịch nhằm thanh toán các khoản thu chi c ủa nhà nước và giao dịc tăng tích luỹ ngoại tệ theo mục tiêu. còn chức năng can thiệp thị trườ ng là nhằm điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trườ ng. + Ngân hàng nhà nước phải không ngừng chú trọng việc xây dựng và tăng c ườ ng bộ khung c ủa thị trườ ng ngoại tệ liên ngân hàng bằng việc tăng số lượ ng thành viên trên thị trườ ng. Từng bước cho các tổ chức tín dụng không phải là ngân hàng thương mại tham gia đầ y đủ các nghiệp vụ như kỳ hạn hoán đổi mặc dù có thể giới hạn ở việc các giao dịch này chỉ được thực hiện voí các ngân hàng thương mại và ngân hàng nhà nước. + Ngân hàng nhà nước và cac bộ ngành phải có kế hoạch dự tính trước các giao dịch c ủa mình một cách c ụ thể và không để các thành phần kinh tế khác bật ra khỏi thị trườ ng chính thức bằng cách các giao dịch c ủa nhà nước không chỉ được thực hiện trên thị trườ ng ngoại tệ liên ngân hàng mà còn phải mở rộng giao dịch trên khu vực tự do của thị trườ ng. + Chú trọng hơn đế n việc hoàn thiện và phát triển các công c ụ c ủa thị trườ ng ngoại tệ mà trước mắt là các nghiệp vụ đang hiện tồn tại như các nghiệp vụ mua bán có kỳ hạn ngoại tệ hoán đổi...bằng các biện pháp c ụ thể như: ngân hàng nhà nước, cơ quan có trách nhiệ m; tổ chức báo cáo bồi dưỡ ng nghiệp vụ ngân hàng, nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ ngân hàng, nên gấp rút tổ chức các lớp bồi dưỡ ng về bản chất và kỹ thuật các nghiệp vụ hối đoái nói riêng và nhệm c ụ nào đó nói chung khi mớ i được đưa vào s ử dụngđể đả m bảo một s ự nhận thức đúng về bản chất c ũng như kỹ thuật nghiệp vụ khi thực hiện. + Việc can thiệp c ủa ngân hàng nhà nước và nhằm vào điều phối các quan hệ cung cầu trên thị trườ ng chứ không nên có sự can thiệp sâu vào các nghiệp vụ mang tính kỹ thuật c ủa thị trườ ng. + Nâng cao năng lực cho các tác nhân tham gia thị trườ ng ngoại tệ liên ngân hàng thông qua một số biện pháp cụ thể như: đặt mạnh trọng tâ m vào việc không ngừng đổi mới hệ thống thanh toán c ủa các ngân hàng và các tổ chức tín dụng và quan trọng là ngân hàng nhà nước cả về cơ chế thanh toán và trang thiết bị kỹ thuật để hạn chế về thanh toán qua nhiều : trung gian mà trước hết là hệ thống thanh toán nội bộ c ủa chinhs các ngân hàng, các tổ chức tín dụng. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2