Xã hội học, số 4 – 2007 3<br />
<br />
<br />
Một số tác động xã hội của<br />
hội nhập kinh tế quốc tế ở việt nam<br />
<br />
Trịnh Duy Luân<br />
Nguyễn Xuân Mai<br />
<br />
<br />
Đổi mới và mở cửa đã đưa nước ta hội nhập ngày càng sâu và hiệu quả hơn vào các nền<br />
kinh tế của khu vực và thế giới. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ thương mại với gần 160<br />
nước và vùng lãnh thổ; thu hút FDI từ các đối tác của gần 70 nước và vùng lãnh thổ; nhận ODA<br />
của 45 nước và các định chế tài chính quốc tế; ký 90 hiệp định thương mại song phương, 46 hiệp<br />
định khuyến khích đầu tư, hiệp định chống đánh thuế hai lần.<br />
Việc gia nhập WTO ngày 7/11/2006 là cột mốc quan trọng đánh dấu một giai đoạn mới<br />
của quá trình này và sự thừa nhận của cộng đồng quốc tế đối với những thành công của Việt<br />
Nam. Toàn bộ quá trình đó đã đem lại những thành quả và những tác động kinh tế - xã hội tích<br />
cực cho sự phát triển của Việt Nam trong hơn 2 thập kỷ qua.<br />
Bên cạnh việc thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh, hội nhập kinh tế quốc tế đồng thời đã<br />
và đang có những tác động trực tiếp và gián tiếp, tích cực lẫn tiêu cực về mặt xã hội. Những tác<br />
động này có thể tương tác với các tác động kinh tế, chính trị thành những hệ quả tích hợp. Gia<br />
tăng mức sống, giảm nghèo sẽ đi cùng sự gia tăng sự phân tầng xã hội giữa các giai tầng, nhóm<br />
xã hội, giữa các vùng miền. Hội nhập tạo ra nhiều cơ hội và thách thức cho các nhóm nghề<br />
nghiệp xã hội, các khu vực kinh tế ; vừa tăng việc làm trong một số lĩnh vực và địa phương, vừa<br />
mang lại rủi ro thất nghiệp cho nhiều người. Sự tập trung dòng vốn FDI vào các vùng kinh tế<br />
trọng điểm, các thành phố lớn làm gia tăng rộng khoảng cách phát triển giữa các vùng ; các dòng<br />
di cư từ nông thôn vào thành thị, vừa góp phần tăng cường lực lượng sản xuất, nhưng cũng làm<br />
căng thẳng thêm tình trạng quá tải và nhiều vấn đề xã hội tại các đô thị. Những mối quan hệ lao<br />
động giữa người sử dụng lao động nứoc ngoài và người lao động Việt Nam trong khu vực có vốn<br />
FDI cũng sẽ phức tạp, biểu hiện qua số lượng các cuộc đình công ngày càng tăng, v.v…<br />
Những điều vừa phác họa trên đây cho thấy tác động xã hội của quá trình hội nhập kinh<br />
tế quốc tế, đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO, đang trở thành một chủ đề nghiên cứu thời<br />
sự và cấp thiết. Tiến hành các nghiên cứu về chủ đề này có thể góp phần cung cấp các luận chứng<br />
khoa học và thực tiễn cho việc hoạch định các chính sách xã hội, bảo đảm sự phát triển bền vững<br />
đất nước trong giai đoạn hiện nay. Bài viết này sẽ đề cập tới một số tác động xã hội của hội nhập<br />
kinh tế quốc tế trong 5 lĩnh vực chính sau đây.<br />
1. Xoá đói giảm nghèo<br />
Trong vòng 11 năm (1993 - 2004), khoảng 24 triệu người Việt Nam đã thoát khỏi nghèo<br />
đói, một nửa trong giai đoạn 1993 - 1998 và nửa còn lại trong giai đoạn 1998 - 2004. Tỷ lệ nghèo<br />
năm 2004 (19,5%) chỉ bằng một phần ba so với năm 1993 (58,1%) (3, tr. 17, 2006). Nhờ đó, Việt<br />
Nam đã vượt trước Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG) của Liên Hợp quốc - giảm hơn một<br />
nửa tỷ lệ người cực nghèo trong giai đoạn dài hơn 1990-2015.<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
4 Mét sè t¸c ®éng x· héi cña héi nhËp kinh tÕ quèc tÕ ë ViÖt Nam<br />
<br />
Trong thành tựu này, hội nhập quốc tế là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy<br />
tăng trưởng kinh tế nhanh và trở thành “động lực chính để giảm nghèo và phát triển xã hội nói<br />
chung ở Việt Nam trong suốt 2 thập kỷ qua ở Việt Nam” (6, tr. 41-47, 2006).<br />
“Một phần trăm tăng trưởng của GDP tính trên đầu người đã giúp giảm tỷ lệ nghèo<br />
xuống 0,55 và 0,49 điểm phần trăm tương ứng trong hai giai đoạn 1993 - 1998 và 1999 - 2004”<br />
(3, tr. 45-46, 2006).<br />
Chẳng hạn, các doanh nghiệp FDI đã đóng góp đáng kể vào nguồn ngân sách để Nhà<br />
nước có thể tăng chi tiêu ngân sách cho các lĩnh vực xã hội (chiếm 30% ngân sách), trong đó có<br />
các dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo dục, hay xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ các xã đặc biệt khó<br />
khăn (12, tr. 37, 2006).<br />
Nguồn vốn ODA trong quá trình hội nhập quốc tế cũng góp phần quan trọng vào giảm<br />
nghèo. Với 24,7 tỷ USD đã ký hiệp định, giải ngân được 15,8 tỷ USD, hoạt động ODA tập trung<br />
vào phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội, hoàn thiện thể chế, xóa đói giảm nghèo. Vì vậy<br />
một bộ phận người nghèo, những nhóm xã hội yếu thế đã được hưởng lợi, nâng cao được ý thức<br />
và năng lực quản lý, cải thiện và bảo vệ môi trường (2, tr. 13, 2007).<br />
Tuy nhiên những thách thức về giảm nghèo vẫn còn rất đáng kể. Kết quả giảm nghèo ch-<br />
ưa thực sự bền vững. Nhiều nhóm dân cư vẫn ở bên bờ của ngưỡng nghèo, nguy cơ tái nghèo khá<br />
cao, nhất là ở các vùng thường xuyên có thiên tai bão lũ, hạn hán. Trên thực tế, chỉ số HPI đã<br />
giảm trong giai đoạn 1999 - 2001, từ 29,1 xuống 19,9 và xếp hạng HPI theo đó được cải thiện, từ<br />
vị trí 45 lên vị trí 39. Nhưng sau đó, chỉ số này lại tăng lên 20,0 năm 2002 và 21,2 năm 2003, với<br />
xếp hạng tương ứng xuống vị trí 41 và 47 (6, tr. 30, 2006)<br />
Giai đoạn 1999-2003, Việt Nam có tốc độ giảm chỉ số HPI nhanh nhất trong khu vực.<br />
Nhưng xếp hạng HPI, Việt Nam chỉ đứng trên Mianma, Campuchia, Lào và ấn Độ. Điều này<br />
càng cho thấy, mặc dù có những thành tựu đáng kể về kinh tế - xã hội, Việt Nam vẫn là một nước<br />
nghèo và cần phải có nhiều nỗ lực để có thể tiến kịp các nước trong khu vực.<br />
<br />
<br />
2. Bất bình đẳng và phân tầng xã hội<br />
Trong quá trình hội nhập quốc tế, tăng trưởng cao, liên tục có thể dẫn đến gia tăng bất<br />
bình đẳng và phân tầng xã hội. Trong khi Việt Nam đang phấn đấu xây dựng một xã hội với nền<br />
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và công bằng xã hội được coi trọng.<br />
Nhìn tổng quát, hệ số Gini của Việt Nam tăng từ 0,34 năm 1993, tăng lên 0,35 năm 1998<br />
và 0,37 năm 2004, tức là tăng tương đối ít trong một thời gian dài cho thấy bất bình đẳng tương<br />
đối ở Việt Nam và sự tương đồng với các nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người dựa<br />
trên sức mua tương đương. Có nghĩa là sự phát triển xã hội vẫn còn ở mức tương đối công bằng<br />
(3, tr. 23-24, 2006).<br />
Tăng trưởng kinh tế đã chia sẻ lợi ích cho đông đảo các tầng lớp xã hội, cho đa số người<br />
dân ở mọi vùng đất nước, trong đó có cả người nghèo, các nhóm xã hội yếu thế. Tuy nhiên, vẫn<br />
còn những khác biệt, không công bằng, do có những nhóm xã hội được hưởng lợi nhiều hơn và<br />
những nhóm hưởng lợi ít hơn, thậm chí bị rủi ro, mất mát. Bất bình đẳng tuyệt đối lại đang tăng:<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
TrÞnh Duy Lu©n & NguyÔn Xu©n Mai 5<br />
<br />
khoảng cách mức chi tiêu dùng giữa nhóm 20% giàu nhất và 20% nghèo nhất là 7 lần những năm<br />
trước đây nay đã tăng lên 10 lần, mặc dù tỷ lệ bất bình đẳng trong thu nhập qua hệ số Gini vẫn<br />
còn ở mức 0,37. Bất bình đẳng còn thể hiện ở khả năng tiếp cận không đồng đều các dịch vụ xã<br />
hội cơ bản như giáo dục, y tế, v.v..., đặc biệt đối với các nhóm nghèo, yếu thế và dễ bị tổn<br />
thương.<br />
Những nghiên cứu về phân tầng xã hội trong gần 2 thập kỷ qua cho thấy: phân tầng xã<br />
hội trong quá trình Đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng gia tăng, dù rằng xã hội Việt Nam<br />
đang phát triển tương đối công bằng so với các nước khác có cùng trình độ phát triển kinh tế.<br />
Hiện tượng bất bình đẳng nêu trên chịu tác động trực tiếp của hội nhập quốc tế và đầu tư<br />
trực tiếp nước ngoài như: Sự tập trung nguồn lực kinh tế, bao gồm cả FDI, ODA và Nhà nước<br />
(ngân sách, các doanh nghiệp nhà nước) và khu vực tư nhân, vào các vùng kinh tế trọng điểm, để<br />
thúc đẩy tăng trưởng nhanh.<br />
FDI tập trung vào các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam với 57,2% tổng vốn đăng ký và<br />
49,6% vốn thực hiện của cả nước. Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc chiếm khoảng 26% tổng vốn<br />
FDI đăng ký và 28,7% vốn thực hiện. FDI trong giai đoạn vừa qua cũng chủ yếu tập trung vào<br />
lĩnh vực công nghiệp và xây dựng (62,4% tổng vốn đăng ký), dịch vụ (31,4% tổng vốn đăng ký),<br />
mà phần lớn ở các đô thị. Điều này góp phần làm dãn rộng bất bình đẳng giữa các vùng kinh tế<br />
trọng điểm với các vùng khác, giữa nông thôn và thành thị, giữa các nhóm lao động, giữa các<br />
ngành nghề, các khu vực kinh tế.<br />
FDI còn tác động tới bất bình đẳng xã hội qua việc sử dụng đất (phần lớn là đất nông<br />
nghiệp). Do bị các dự án đầu tư nước ngoài lấy đất, một bộ phận nông dân bị mất đất canh tác,<br />
hoặc dân đô thị mất sinh kế quen thuộc, phải chuyển đổi nghề nghiệp hoặc tái định cư. Trong 5<br />
năm vừa qua đã có khoảng trên 700.000 người và gần 300.000 lao động bị ảnh hưởng bởi việc<br />
chuyển đổi đất nông nghiệp. Trong đó, khoảng 320.000 người và 125.000 lao động bị ảnh hưởng<br />
trực tiếp từ việc chuyển đổi đất cho các dự án đầu tư nước ngoài.<br />
3. Vấn đề việc làm và di cư<br />
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 của Việt Nam khẳng định “Giải quyết<br />
việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, lành<br />
mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân” (8, tr. 210,<br />
2004).<br />
Theo số liệu thống kê năm 2005, Việt Nam có 44,38 triệu lao động, bao gồm 11,05 triệu<br />
lao động thành thị và 33,33 triệu lao động nông thôn. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị là 5,32% và tỷ<br />
lệ thời gian được lao động nông thôn sử dụng là 80,37%. Có nghĩa là ở khu vực thành thị thường<br />
xuyên có khoảng 588.000 người thất nghiệp và trên 33 triệu lao động ở nông thôn chỉ có việc làm<br />
trong khoảng bốn phần năm thời gian lao động (7, tr. 6, 2006).<br />
Theo số liệu của MOLISA, trong giai đoạn 2001 - 2005 khoảng 7,54 triệu người đã được<br />
tạo việc làm (tăng 23,6% so với giai đoạn 1996 - 000). Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm 1,1%.<br />
Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động khu vực nông thôn tăng 6%. Tỷ trọng lao động trong nông<br />
nghiệp giảm 2,3% so với cuối năm 2000. Thị trường lao động có bước phát triển, tỷ trọng lao<br />
động làm việc có quan hệ lao động đạt 28% (năm 2000: 20,56%) (13, 2006).<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
6 Mét sè t¸c ®éng x· héi cña héi nhËp kinh tÕ quèc tÕ ë ViÖt Nam<br />
<br />
Hội nhập kinh tế với chỉ báo quan trọng là nguồn vốn FDI, đã có tác động quan trọng<br />
trong tạo việc làm và cải thiện chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam.<br />
Đến nay, FDI đã tạo việc làm trực tiếp cho trên 1 triệu lao động và khoảng 3 đến 4 triệu<br />
lao động gián tiếp, thu hút khoảng 5% số lao động mới hàng năm (trong khoảng trên 1,2 triệu lao<br />
động mới được giải quyết việc làm hàng năm) (14, tr. 36, 2006). Thu nhập của lao động trong các<br />
doanh nghiệp FDI cũng cao gấp 1,7 - 2 lần so với doanh nghiệp trong nước và qua hợp tác đầu tư<br />
người lao động được nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, rèn luyện tác phong công nghiệp,<br />
nâng cao năng lực quản lý (14, tr. 40, 2006).<br />
Tuy nhiên cơ hội việc làm được phân bố không đồng đều, do FDI tập trung vào những<br />
ngành Việt Nam có ưu thế về lao động và thị trường như dệt may, da giầy, du lịch, xe máy, trong<br />
khi nhiều ngành khác bị bỏ qua như nông nghiệp (chỉ chiếm 3% tổng vốn FDI) (14, tr. 5-9,<br />
2006). Điều đó góp phần làm tăng thêm chênh lệch mức sống, thu nhập giữa các vùng miền, giữa<br />
lao động trong các ngành, các doanh nghiệp tập trung FDI so với các ngành, các doanh nghiệp<br />
khác.<br />
Dự báo với việc gia nhập WTO, lượng vốn FDI sẽ tiếp tục gia tăng mạnh (năm 2006 là<br />
10,2 tỷ USD và năm 2007 đạt 20,3 tỷ USD vốn đăng ký). Trong những năm trước mắt lực lượng<br />
lao động trong khu vực này sẽ gia tăng. Nhu cầu lao động chất lượng cao của hội nhập quốc tế sẽ<br />
là một thách thức lớn đối với hệ thống đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam trong<br />
thời gian tới. Tuy nhiên, vẫn chưa có được một Chiến lược bảo đảm sự phát triển bền vững nguồn<br />
nhân lực lâu dài của đất nước. Tức là chưa có sự đầu tư đầy đủ các nguồn lực để có một nguồn<br />
nhân lực có chất lượng cao tương xứng, đáp ứng những đòi hỏi của quá trình công nghiệp hóa,<br />
hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.<br />
Quá trình hội nhập quốc tế (với sự gia tăng và tập trung nguồn lực FDI, ODA, kiều hối,<br />
xuất khẩu lao động) thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo ra lực hút mạnh mẽ từ các khu vực đô<br />
thị, các vùng kinh tế trọng điểm đã và đang kéo theo dòng người di cư đông đảo vào các khu vực<br />
này. Di cư đang được xem như một “chiến lược sống” của đông đảo lao động nông thôn.<br />
Trong vòng 5 năm 1993 - 1998, hơn 1,2 triệu người đã di cư từ nông thôn vào đô thị,<br />
các khu công nghiệp và vùng kinh tế trọng điểm (Tổng điều tra dân số và nhà ở 1999). Một phần<br />
năm dân số Thành phố Hồ Chí Minh là người nhập cư. Trong bốn năm 1997 - 2001, Hà nội có<br />
thêm 161.000 người nhập cư ngoại tỉnh, bằng dân số một quận (Báo Lao động, 21/8/2002).<br />
Điều tra di cư Việt Nam năm 2004 cho thấy lý do di cư là tìm việc làm và cải thiện điều<br />
kiện sống và 89,1% các loại di cư đều đạt được mục đích này. Gần một nửa lực lượng di cư hoạt<br />
động lao động giản đơn. Nam giới di cư làm việc trong khu vực tư bản tư nhân, tập thể và nhà<br />
nước, kinh tế có vốn nước ngoài. Còn gần một nửa nữ lao động di cư làm việc cho khu vực kinh<br />
tế cá thể / tiểu chủ và một phần tư cho khu vực FDI. Đối với khu vực FDI, 25,2% nữ giới và<br />
10,8% nam giới di cư làm việc ngay sau khi chuyển đến, trong khu vực kinh tế này (11, tr. 33-35,<br />
2006).<br />
Đa số người di cư đều có thu nhập cao hơn so với trước khi di cư. Riêng nhóm di cư làm<br />
trong khu vực FDI, 88,1% có thu nhập cao hơn và cao hơn nhiều so với trước di cư (11, tr. 36-44,<br />
2006).<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
TrÞnh Duy Lu©n & NguyÔn Xu©n Mai 7<br />
<br />
Tuy nhiên, 45% người di cư vẫn gặp nhiều khó khăn khi chuyển đến và việc thiếu chỗ<br />
ở thích hợp, sau đó là thiếu điện, nước và việc làm. Khoảng 42% người di cư không có hộ khẩu<br />
và nhiều người trong số này gặp phải các khó khăn về vay vốn, tìm kiếm việc làm, đăng ký xe<br />
máy, thuê nhà và học hành của con cái (11, tr. 23-28, 2006).<br />
4. Quan hệ lao động trong doanh nghiệp<br />
Trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, những mối quan hệ xã hội mới giữa người sử<br />
dụng lao động / giới chủ nước ngoài và người lao động Việt Nam đã và đang xuất hiện. Điều kiện<br />
làm việc và điều kiện sống của công nhân trong các doanh nghiệp liên doanh và FDI đã trở thành<br />
vấn đề nóng những năm qua.<br />
“Hiện có khoảng 6,5% lao động trong doanh nghiệp FDI phải làm việc bình quân trên<br />
10 tiếng/ngày, 18% làm từ 8-10 tiếng, trong khi đó chỉ có 52% lao dộng làm việc 8 tiếng/ngày.<br />
Nhưng lại có khoảng 65% lao động làm việc 6 ngày/tuần, 25% làm 7 ngày/tuần” (Báo Lao động,<br />
22/8/2007).<br />
Thêm vào đó, người lao động Việt Nam còn thiếu hiểu biết về pháp luật, nhất là pháp luật<br />
về lao động. Đang có những khác biệt văn hóa giữa nhóm quản lý và người lao động trong<br />
phong cách, tập quán làm việc và ứng xử; hoặc xung đột lợi ích giữa giới chủ và người lao động.<br />
Kết quả là đã xuất hiện một hiện tượng xã hội mới trong những năm Đổi mới và hội nhập quốc<br />
tế: Đó là các cuộc đình công tại các doanh nghiệp, mà nguyên nhân chủ yếu là việc giới sử dụng<br />
lao động vi phạm quyền lợi của công nhân được qui định trong Bộ Luật lao động. Trong thập<br />
niên vừa qua, theo số liệu thống kê chính thức của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, đã có<br />
trên 1.500 cuộc đình công của công nhân diễn ra tại nhiều nhà máy, doanh nghiệp. Trên 90%<br />
những cuộc đình công này xảy ra tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, trong đó cao nhất<br />
67,5% ở những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.<br />
Sự gia tăng số lượng các cuộc đình công phản ánh một hiện tượng và một quan hệ xã hội<br />
mới, cũng như vấn đề tự ý thức của những người công nhân về quyền lao động, về các quyền<br />
chính đáng và hợp pháp của họ tại nơi làm việc.<br />
Tuy nhiên, dường như Luật Lao động còn chưa điều chỉnh thoả đáng quan hệ giữa chủ<br />
trương thu hút đầu tư, đặc biệt là FDI, dựa trên ưu thế giá nhân công rẻ và việc bảo vệ quyền<br />
lợi người lao động. Dường như chúng ta đang chú ý nhiều hơn đến thu hút đầu tư để phát triển<br />
trong khi các điều khoản quy định về đình công lại thiếu tính khả thi, chưa bảo vệ được cả<br />
quyền lợi của người sử dụng lao động và người lao động. Với “độ nghiêng” như vậy, sẽ khó có<br />
các giải pháp giúp hoá giải những nguyên nhân căn bản dẫn đến các xung đột trong quan hệ lao<br />
động, biểu hiện tập trung ở các cuộc đình công tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài<br />
hiện nay.<br />
5. Phát triển con người<br />
Trong tiến trình phát triển và hội nhập, phát triển con người Việt Nam đã đạt được<br />
những thành tựu nhất định. Trên bình diện quốc gia, các chỉ số phát triển con người trong giai<br />
đoạn 199 - 2004, giai đoạn mở rộng hội nhập quốc tế, bao gồm HDI, HPI, GDI đều đã được cải<br />
thiện đáng kể. Các chỉ số cấu thành của HDI, HPI đều được cải thiện. Chỉ số HDI của Việt Nam<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
8 Mét sè t¸c ®éng x· héi cña héi nhËp kinh tÕ quèc tÕ ë ViÖt Nam<br />
<br />
đã tăng liên tục từ 0,611 năm 1992, lên 0,689 năm 1999 và 0,731 năm 2004. Chỉ số GDP bình<br />
quân đầu người của Việt Nam tăng nhanh nhất 19%, đóng góp 4,3 điểm % và đóng góp hai phần<br />
ba vào tốc độ tăng của HDI. (6, tr. 3-4, 2006)<br />
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong tất cả các khía cạnh của đời sống con người.<br />
Với diện bao phủ ngày càng tăng, giáo dục và y tế cũng có vai trò quan trọng, đóng góp vào tăng<br />
trưởng HDI và giảm HPI (thông qua giảm tỷ lệ người lớn không biết chữ).<br />
Tuy nhiên, việc bảo đảm và duy trì lâu bền chất lượng dịch vụ giáo dục và y tế vẫn là một<br />
vấn đề đáng lo ngại. Cùng với quá trình hội nhập, phải chăng những lợi thế duy trì và làm tăng<br />
HDI của Việt Nam là 2 lĩnh vực giáo dục và y tế đang bị sút giảm? Hơn nữa, những cải thiện về<br />
các chỉ số HPI, HDI và GDI là chưa đủ để Việt Nam có bước tiến thật sự về phát triển con người<br />
trong so sánh xếp hạng với các nước trong khu vực. Đây chính là thách thức đối với Việt Nam để<br />
có thể dần tiến kịp nhiều nước trong khu vực.<br />
*<br />
* *<br />
Những tác động xã hội của hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập WTO, toàn cầu hoá tới tăng<br />
trưởng kinh tế và phát triển xã hội bền vững ở Việt Nam là một quá trình phức tạp và nhiều chiều.<br />
Bên cạnh các chính sách duy trì tăng trưởng kinh tế nhanh, cần có các giải pháp chính sách trước<br />
mắt và lâu dài để bảo đảm không làm tổn hại những mục tiêu phát triển xã hội lâu dài và bền<br />
vững của đất nước.<br />
<br />
Cũng có những luận điểm lý thuyết và kinh nghiệm cho rằng: mở cửa hội nhập, ngoài tác<br />
động tới tăng trưởng kinh tế, cũng sẽ tạo sức ép thông qua cơ chế riêng của nó (một dạng như<br />
“bàn tay vô hình” của thị trường), buộc các chính phủ phải chú ý nhiều hơn đến các vấn đề xã<br />
hội.<br />
“Nhiều người cho rằng việc tiếp cận nhiều hơn với thương mại và đầu tư quốc tế - hay<br />
’toàn cầu hóa’ - sẽ dẫn tới cuộc đua tới đáy trong chi tiêu xã hội… Nhưng thực tế trước và sau<br />
các cuộc chiến tranh thế giới cho thấy điều ngược lại. Cởi mở hơn với thương mại (và đầu tư)<br />
quốc tế khiến các quốc gia phải sử dụng nhiều hơn, chứ không phải ít hơn, thuế thu được cho hỗ<br />
trợ xã hội… Thật đáng ngạc nhiên là các nước mở cửa nhiều hơn cho cạnh tranh thương mại<br />
quốc tế lại dành nhiều tiền thuế hơn cho chuyển khoản xã hội hơn” - Peter Lindert (2004) (Dẫn<br />
lại từ: 15, 2007).<br />
<br />
Tuy nhiên, cho dù luận điểm trên có ý nghĩa làm dịu chừng nào vấn đề đang đặt ra, thì<br />
chính phủ vẫn cần quan tâm nhiều hơn đến chất lượng và tính bền vững của tăng trưởng, đến việc<br />
chia sẻ lợi ích của tăng trưởng cho người nghèo, cho những nhóm xã hội yếu thế, dễ bị tổn<br />
thương trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế. Bằng cách đó mới có thể khắc phục được<br />
những tác động xã hội tiêu cực, tiềm ẩn của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.<br />
Kinh nghiệm cho thấy những nền kinh tế tăng trưởng quá “nóng” có thể gây ra những tác<br />
động xã hội và môi trường phức tạp, không dễ khắc phục. Trong khi đó, Việt Nam đang hướng<br />
tới mục tiêu cao nhất là một xã hội phát triển công bằng, vì con người và bền vững - cả về kinh tế,<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
TrÞnh Duy Lu©n & NguyÔn Xu©n Mai 9<br />
<br />
xã hội và môi trường.<br />
<br />
Vì vậy, phải chăng Việt Nam cần phải sớm đưa vào Chương trình nghị sự quốc gia câu<br />
hỏi: Đã đến lúc cần phải hạn chế và hạn chế ở mức độ nào tốc độ tăng trưởng “nóng” hiện nay, để<br />
củng cố các mục tiêu xã hội, mục tiêu con người, bảo đảm chất lượng tăng trưởng và phát triển<br />
bền vững đúng như tôn chỉ mục đích của đất nước đã đặt ra từ nhiều thập kỷ trước đây hay chưa?<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
10 Mét sè t¸c ®éng x· héi cña héi nhËp kinh tÕ quèc tÕ ë ViÖt Nam<br />
<br />
<br />
Tài liệu tham khảo<br />
1. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương. Việt Nam chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế<br />
sau khi vào WTO. Hà Nội - 2006.<br />
2. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương. Đầu tư nước ngoài tại Việt nam hậu WTO. 2007.<br />
MPI.Gov.Vn<br />
3. Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Báo cáo cập nhập nghèo 2006. Nghèo và giảm nghèo ở Việt nam giai<br />
đoạn 1993-2004. Nxb Chính trị Quốc gia. Hà Nội - 2007.<br />
4. Vũ Tuấn Anh. Báo cáo tổng hợp dự án điều tra cơ bản về thực trạng kinh tế-xã hội của các vùng và<br />
các nhóm xã hội. Hà Nội - 2006<br />
5. Báo cáo chính phủ tại hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam ở Hà Nội tháng 12/2006:<br />
Phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010 từ kế hoạch đến hành động. Hà Nội - 2006.<br />
6. Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Phát triển con người Việt nam 1999-2004. Những thay đổi và xu<br />
hướng chủ yếu. Nxb Chính trị Quốc gia. Hà Nội - 2006.<br />
7. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương. Giải quyết việc làm ở Việt Nam trong 5 năm 2006-<br />
2010. MPI.Gov.Vn<br />
8. Bộ Lao động, Th−ơng binh vỡ Xã hội. Lao động- việc lỡm ở Việt Nam 1996-2003. Hà Nội - 2004.<br />
9. Ban CĐTW TĐTNTNN&TS, Báo cáo sơ bộ kết quả TĐTNTNN&TS 2006. Nxb Thống kê. Hà Nội -<br />
12/2006.<br />
10. Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế xã hội quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Tăng trưởng và xoá<br />
đói giảm nghèo ở Việt Nam, thành tựu, thách thức và giải pháp. Hà Nội - 5/2007<br />
11. Tổng cục Thống kê, UNFPA. Điều tra di cư Việt Nam năm 2004: Chất lượng cuộc sống của người di<br />
cư.<br />
12. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương. Tác động của FDI tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.<br />
Hà Nội - 2006.<br />
13. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội. Báo cáo tình hình thực hiện năm 2005 và triển khai nhiệm vụ,<br />
kế hoạch năm 2006 về lao động, người có công và xã hội. 2006.<br />
14. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương. Báo cáo đánh giá chính sách khuyến khích đầu tư trực<br />
tiếp nước ngoài từ góc độ phát triển bền vững. Hà Nội - 2006.<br />
15. Jonathan Pincus. Some Social Policy Issues over the Long Period. Paper presented at the workshop<br />
“Reforming Social Security System in Vietnam”. Hanoi, August 2007.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />