intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nâng cao chất lượng dạy học chương trình giáo dục phổ thông mới bằng phương pháp kịch trong dạy học

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

6
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phương pháp kịch trong dạy học (đóng vai, diễn kịch và mô phỏng) là một trong các nhóm phương pháp tổ chức tương tác hành động học cho học sinh. Phương pháp dạy học này, cùng với các thế mạnh của nó (sự hấp dẫn, cuốn hút sự tập trung cao độ của người học, tỉ lệ ghi nhớ cao và yếu tố tương tác được đặt lên hàng đầu) rất phù hợp với các môn khoa học xã hội.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nâng cao chất lượng dạy học chương trình giáo dục phổ thông mới bằng phương pháp kịch trong dạy học

  1. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG MỚI BẰNG PHƯƠNG PHÁP KỊCH TRONG DẠY HỌC Phạm Nguyễn Lan Phương 1 1. Khoa Sư phạm, Trường Đại học Thủ Dầu Một TÓM TẮT Chương trình giáo dục phổ thông mới hướng học sinh (HS) đến việc làm chủ bản thân trong việc lĩnh hội tri thức và làm chủ các mối quan hệ xã hội, sự tương tác giữa người với người để cùng nhau tạo dựng một xã hội tốt đẹp. Phương pháp kịch trong dạy học (đóng vai, diễn kịch và mô phỏng) là một trong các nhóm phương pháp tổ chức tương tác hành động học cho học sinh. Phương pháp dạy học này, cùng với các thế mạnh của nó (sự hấp dẫn, cuốn hút sự tập trung cao độ của người học, tỉ lệ ghi nhớ cao và yếu tố tương tác được đặt lên hàng đầu) rất phù hợp với các môn khoa học xã hội. Trong dạy học, nếu giáo viên biết cách khai thác được thế mạnh của phương pháp kịch trong dạy học, sử dụng nó một cách linh hoạt và có sự kết hợp với các phương pháp dạy học khác, chắc chắn chất lượng dạy học chương trình giáo dục phổ thông mới sẽ được nâng cao. Từ khóa: Chất lượng dạy học, chương trình giáo dục phổ thông mới, phương pháp dạy học, phương pháp kịch trong dạy học . 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Theo triết lý giáo dục của Unesco “Giáo dục phải được tiến hành và tiếp thu bằng nhiều cách khác nhau. Điều quan trọng không phải là học theo cách nào mà là học cái gì và học được cái gì. Các chương trình đào tạo giáo viên (GV) cần triệt để sử dụng các thiết bị, phương tiện dạy học và phương pháp giảng dạy mới nhất. Việc giảng dạy phải thích nghi với người học, chứ không phải người học phải tuân theo những quy định đã đặt ra sẵn từ trước trong việc giảng dạy”. Thêm vào đó, cùng với sự hội nhập quốc tế, việc học tập của HS còn là học để cùng sống chung với nhau (thực chất là học thích ứng với người khác và với xã hội nói chung) và học để làm người (một trong bốn trụ cột của dạy học thế kỷ XXI do Unesco xác định). Thiết nghĩ, để đáp ứng được những đòi hỏi trên thì phương pháp dạy học tương tác ngày càng trở thành phương pháp dạy học trụ cột trong nhà trường hiện đại. Cũng như triết lý dạy học của Khổng Tử “Biết mà học không bằng vui mà học” cho thấy, việc GV tạo được không khí vui vẻ, thoải mái trong các tiết học cũng là cách để nâng cao chất lượng dạy và học. Theo mô hình tháp học tập (dựa theo Cone of Learning (From Edgar Dale's Experience, 1946): 421
  2. Tháp học tập đã chỉ ra rất rõ ràng rằng: hiệu quả học tập phụ thuộc chủ yếu vào mức độ tích cực của HS khi tham gia hoạt động học. Nếu GV sử dụng phương pháp dạy học theo hướng truyền đạt một chiều (GV nói và HS chỉ nghe và đọc) thì mức độ tham gia vào hoạt động học của HS là rất thấp nên tỉ lệ ghi nhớ vào khoảng 5% đến 10%. Ngược lại, nếu GV sử dụng phương pháp dạy học tích cực theo hướng càng sử dụng nhiều nguồn đầu vào nhạy cảm thì tỉ lệ ghi nhớ càng cao. Do đó, khi tháp học tập chỉ ra phương pháp học tập nghe và nhìn, phần ghi nhớ sẽ được cải thiện (tới 20%, nghĩa là cao hơn tỉ lệ 10% + 5%, có một giá trị tăng thêm). Khi có sự thực hiện năng động, dựa vào sự trao đổi thông tin hai chiều cũng như nhìn và nghe, tỉ lệ ghi nhớ tăng lên tới 30%. Khi quá trình học tập ít có sự chỉ dẫn của GV hơn và có thêm nhiều nguồn đầu vào nhạy cảm (nghe, nhìn, nói), tỉ lệ ghi nhớ sẽ được nhảy vọt thêm 30% trong hình thức thảo luận theo nhóm. Khi quá trình học tập có liên quan tới ứng dụng và thực hành, hơn là chỉ lĩnh hội, tỉ lệ ghi nhớ được còn cao – theo cấp số nhân – tới 75%. Khi quá trình học tập còn bao gồm cả giảng dạy trong lĩnh vực khác, tỉ lệ ghi nhớ được sẽ rất cao – chỉ 10% không ghi nhớ được. Và đó là tất cả lý do mà chúng tôi cho rằng để nâng cao chất lượng dạy học chương trình giáo dục phổ thông mới, trong các tiết dạy của mình, GV nên lựa chọn và sử dụng phương pháp dạy có thể làm giảm cách học thụ động, giảm các buổi giảng bài, giảm sự ỷ lại vào bài học, tăng các kênh trao đổi thông tin và học tập, tăng học tập đa giác quan, tăng cách học tập năng động, tăng các nhóm học tập theo nhóm, hợp tác và cùng lứa và tăng cường các cuộc nói chuyện và thảo luận của HS. Thiết nghĩ, để thỏa mãn được những điều vừa phân tích, trong các tiết dạy của mình, GV nên lồng ghép/ sử dụng phương pháp kịch trong dạy học (một trong ba nhóm phương pháp dạy học tổ chức tương tác hành động – theo quan điểm của tác giả Phan Trọng Ngọ). Vậy phương pháp kịch trong dạy học là gì? Những thuận lợi và khó khăn cũng như cách thức thực hiện phương pháp dạy học này là như thế nào? Bài viết xin được bàn luận về những vấn đề trên. 422
  3. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trong bài viết này, chúng tôi chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu lí luận (sưu tầm, đọc, tra cứu, nghiên cứu tài liệu, sách báo có liên quan) để phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa những lý luận về phương pháp kịch trong dạy học. 3. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 3.1.Khái niệm phương pháp kịch trong dạy học Phương pháp kịch trong dạy học được dùng phổ biến trong dạy học các môn khoa học xã hội. Đặc trưng của phương pháp dạy học này là góp phần giúp HS hình thành năng lực tự chủ và năng lực giao tiếp và hợp tác. Cơ sở của phương pháp kịch trong dạy học là lý thuyết vai trò và lý thuyết kịch trong xã hội học. Trong đó mỗi cá nhân hay nhóm xã hội thường xuyên đảm nhận những vai trò nhất định. Điều này giống như vai diễn trên sân khấu. Cùng một lúc, mỗi cá nhân có thể đảm nhận nhiều vai trò khác nhau và các vai trò ấy thường xuyên thay đổi. Quá trình sắm vai có tính hai mặt: một mặt cá nhân nhập vào vai được đóng, khuôn ý nghĩ, thái độ và hành vi theo vai diễn đó; mặt khác thông qua vai diễn, cá nhân thể hiện được khả năng và tính cách của mình. Sự nhập vai và thể hiện cá tính cá nhân qua vai diễn là cơ sở cho phương phá dạy học theo lý thuyết đóng vai, theo lý thuyết kịch. (Phan Trọng Ngọ, 2005). Trong bài viết này, phương pháp kịch trong dạy học là “giáo viên cung cấp kịch bản và đạo diễn học viên hành động theo các vai diễn. Qua đó họ học được cách suy nghĩ, thể hiện thái độ và hành động cũng như các kỹ năng ứng xử khác của các nhân vật trong kịch bản” (Phan Trọng Ngọ, 2005). 3.2. Những thuận lợi và khó khăn của phương pháp kịch trong dạy học đối với chương trình giáo dục phổ thông mới Chương trình giáo dục phổ thông mới đã được xây dựng theo định hướng tạo môi trường học tập và rèn luyện giúp HS phát triển hài hoà về thể chất và tinh thần, trở thành người học tích cực, tự tin, biết vận dụng các phương pháp học tập tích cực để hoàn chỉnh các tri thức và kĩ năng nền tảng (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2018). Một trong những yêu cầu của giáo dục phổ thông mới là “HS cần được hình thành, phát triển năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo và đặc biệt là sự chú trọng thực hành, vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết vấn đề trong học tập và đời sống…” (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2018). Từ đó, chương trình giáo dục phổ thông cũng đã đề ra yêu cầu cần đạt về năng lực chung của HS, trong đó có năng lực “Tự điều chỉnh tình cảm, thái độ, hành vi của mình” và “Thiết lập, phát triển các quan hệ xã hội; điều chỉnh và hoá giải các mâu thuẫn” (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2018). Do vậy, sứ mệnh của mỗi GV trong từng tiết dạy của mình không chỉ đơn thuần là truyền thụ tri thức đến cho HS mà GV còn phải biết cách tổ chức và điều khiển lớp học để HS có thể tự chiếm lĩnh tri thức cho bản thân và biết cách thiết lập, duy trì và phát triển các mối quan hệ với các thành viên của cộng đồng (họ hàng, bạn bè, hàng xóm,...). Để làm được điều này, thông qua những nội dung môn học, GV cần giáo dục HS biết cách làm chủ chính mình cũng như cách làm chủ các mối quan hệ xã hội. Xuất phát từ luận điểm này, chúng tôi có thể dẫn ra một vài lợi thế cũng như những tác động tích cực của phương pháp kịch trong dạy học như sau: 423
  4. Thứ nhất, đây là phương pháp dạy học có thể giúp HS thâm nhập vào thế giới nội tâm con người cũng như vào thế giới các quan hệ xã hội giúp HS thu nhận những kinh nghiệm, kiến thức, thái độ và kỹ năng ứng xử trong thế giới quan hệ đó. Bởi vì, các cá nhân trong xã hội không tồn tại như một ốc đảo, mà luôn luôn có quan hệ hữu cơ và tương tác với người khác. Trong quá trình tương tác, cá nhân học được các ứng xử từ hành vi của người khác và nhận ra hành vi của mình thông qua phản ứng của người đối diện, từ đó điều chỉnh hành vi của mình. Có thể nói, GV sử dụng phương pháp kịch trong dạy học không những HS có nhiều cơ hội tương tác với nhau mà trong đóng vai, diễn kịch hay mô phỏng, tình cảm của HS với với môn học, đối với bạn bè và đối với giáo viên được nảy nở và duy trì. Nhờ đó mà GV có thể giúp HS phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Thứ hai, trong giáo dục phổ thông mới, người học ở đây chính là HS ở vào các giai đoạn lứa tuổi từ 6 đến 19 tuổi. Căn cứ vào sự phát triển tâm lý theo các giai đoạn lứa tuổi cho thấy, ở lứa tuổi HS tiểu học, mặc dù các em có hoạt động chủ đạo là học tập nhưng các em vừa mới bước qua khỏi giai đoạn lứa tuổi mẫu giáo với hoạt động chủ đạo là vui chơi nên nếu như các em được học tập kiến thức phổ thông trong không khí vui nhộn có thể giúp các em có nhiều hứng thú và tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng, thoải mái hơn. (Vũ Thị Nho, 2000). Mặc khác, ở các lứa tuổi cao hơn như lứa tuổi thiếu niên (HS cấp 2) và lứa tuổi đầu thanh niên (HS cấp 3), mặc dù một trong những hoạt động chủ đạo của các em là hoạt động học tập, thế nhưng nếu được học tập các kiến thức trong bầu không khí vui vẻ, sôi động cũng phần nào giúp các em giảm bớt đi những áp lực, căng thẳng từ những kiến thức trong sách giáo khoa. Có thể nói các phương pháp kịch trong dạy học còn có tác dụng hấp dẫn, cuốn hút sự tập trung cao độ của HS. Chính điều này sẽ giúp cho HS chiếm lĩnh được tri thức trong trạng thái tâm lý vui tươi, thoải mái mà ít có phương pháp nào có được. (Lê Văn Hồng, nnk., 2001) Thứ ba, lợi thế của phương pháp kịch trong dạy học là HS tham gia tích cực vào quá trình học. Học sinh được quyền đưa ra quyết định, tự giải quyết các vấn đề và phản ứng với kết quả của các quyết định do mình đưa ra. Mặt khác, trong đóng vai, diễn kịch và mô phỏng luôn chứa đựng yếu tố về mặt xúc cảm tình cảm, thế nên, khi tham gia, HS có cơ hội được hình thành các kỹ năng nhâm nhập vào đời sống nội tâm của chính mình và của người khác, HS có thể rèn luyện sự kiên nhẫn để có thể lắng nghe và thấu cảm với những tâm tư của người khác… thông qua đó mà HS sẽ biết cách ứng xử sao cho phù hợp với hoàn cảnh và đối tượng. Từ đó mà HS sẽ được phát triển kỹ năng giao tiếp ứng xử trong các tình huống thực tiễn. Chính vì lợi thế này mà phương pháp kịch trong dạy học có thể đáp ứng yêu cầu cần đạt về năng lực chung của HS của chương trình giáo dục phổ thông mới là “năng lực tự chủ và năng lực giao tiếp và hợp tác” (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2018) Thứ tư, đóng vai, diễn kịch và mô phỏng là phương pháp dạy học sinh động để gắn kết giữa lý luận với thực tiễn. Đặc biệt trong việc giải quyết các tình huống có nhiều mâu thuẫn. Với phương pháp dạy học này, HS học được nhiều cách giải quyết những tình huống đa dạng, phức tạp trong học tập cũng như trong công việc và trong cuộc sống. Nhờ đó mà HS sẽ đáp ứng được yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thông mới về năng lực chung của HS là năng lực nhận biết và thấu cảm được suy nghĩ, tình cảm, thái độ của người khác; nhận biết được mâu thuẫn giữa bản thân với người khác hoặc giữa những người khác với nhau; có thiện chí dàn xếp và biết cách dàn xếp mâu thuẫn và biết cách hoá giải mâu thuẫn. (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2018) 424
  5. Thứ năm, khi GV sử dụng phương pháp kịch trong dạy học, HS sẽ có cơ hội thuận lợi để thể hiện hiểu biết, kỹ năng và phương pháp ứng xử của mình; cơ hội thể hiện thái độ và cá tính của mình trước người khác. Nhờ đó mà HS nhận biết tình cảm, cảm xúc của bản thân và hiểu được ảnh hưởng của tình cảm, cảm xúc đến hành vi; HS có thể làm chủ tình cảm, cảm xúc để có hành vi phù hợp trong các tình huống/ hoàn cảnh; HS biết đánh giá được những ưu điểm và hạn chế về tình cảm, cảm xúc của bản thân; tự tin, lạc quan; biết tự điều chỉnh tình cảm, thái độ, hành vi của bản thân; luôn bình tĩnh và có cách cư xử phù hợp. Trên đây là những một số điểm mạnh của phương pháp kịch trong dạy học. Tuy nhiên, phương pháp này cũng có một số khó khăn nhất định: Thứ nhất, HS sẽ gặp khó khăn trong việc lĩnh hội tri thức một cách có hệ thống. Bởi vì tình huống/ kịch bản và vai diễn vai diễn thường có tính phi cấu trúc về khuôn mẫu nội dung học tập. Để khắc phục hạn chế này, GV cần có sự lồng ghép/ kết hợp với phương pháp dạy học khác để có thể hệ thống lại kiến thức cho HS sau những buổi diễn. Thứ hai, phương pháp dạy học này sẽ không phát huy hiệu quả cao với những HS thụ động, có tâm lý e ngại, ngượng ngùng và không có khả năng diễn. Việc đóng vai, diễn kịch và mô phỏng đôi khi vượt quá khả năng của HS đối với các tình huống, vai diễn đòi hỏi phải diễn xuất tinh tế. Do vậy, GV cần hỗ trợ HS vượt qua những trở ngại tâm lý và đồng thời trang bị kiến thức, kỹ năng cần thiết cho HS trước khi các em tham gia phương pháp học tập này. Thứ ba, hạn chế lớn nhất của phương pháp kịch trong dạy học là dễ gây ảnh hưởng đến kế hoạch chung của quá trình dạy học trong nhà trường. Bởi vì để thực hiện một vai diễn thường mất nhiều thời gian chuẩn bị kịch bản và diễn xuất. Thế nên, GV cần có kế hoạch cụ thể cho những nội dung kiến thức cần truyền tải đến HS, đồng thời GV cần có sự kết hợp việc học tập trên lớp và sự tự học tại nhà của HS (chuẩn bị kịch bản, tập diễn….) để đảm bảo nội dung kiến thức phù hợp với thời lượng dạy học của khung chương trình. 3.3. Các loại phương pháp kịch 3.3.1. Đóng vai. Đóng vai có tác dụng rất lớn trong việc phát triển kỹ năng giao tiếp và kỹ năng thâm nhập đời sống nội tâm của người khác. Yếu tố quyết định thành công của phương pháp đóng vai là kịch bản. Học sinh sẽ tham gia hoạt động học bằng cách đóng vai theo kịch bản GV đã chuẩn bị sẵn (có lồng ghép nội dung học tập). Kịch bản được soạn thảo một cách chi tiết các đối thoại và hành động của các nhân vật. Khi thực hiện đóng vai, HS không nhất thiết phải rập khuôn theo các chi tiết đó. Nói cách khác, các vai diễn phải có tính mở, để tạo điều kiện cho HS sáng tạo. Để đảm bảo cho phương pháp dạy học này có kết quả, GV cần chú ý những điểm sau: Bước 1: Giáo viên lên kế hoạch cho bài tập đóng vai. Trước hết cần xác định mục đích và nội dung của các vai diễn và lên chương trình để thực hiện được các mục tiêu này. Khi kịch bản được soạn thảo, GV cần phân công rõ ràng cho từng HS: Ai đóng vai? Ai quan sát? Quan sát cái gì? Cách thức quan sát và ghi chép. Giáo viên nên giao việc đến mọi thành viên trong nhóm và đảm bảo rằng HS nào cũng có sự đóng góp vào vai diễn. Các nhiệm vụ này cần được thông tin đầy đủ, chi tiết và rõ ràng đến HS. Nếu có điều kiện, GV nên hình thành các nhóm phụ trách các nhân vật và yêu cầu có sự thảo luận nhóm về kịch bản để khái quát đặc điểm các nhân vật. Trong trường hợp các vai diễn có nhiều hành động phức tạp, GV có thể làm mẫu trước khi HS đảm nhận vai diễn để HS hiểu và tự tin hơn khi nhập vai. 425
  6. Bước hai: Điều khiển thực hiện bài tập đóng vai Vai diễn chỉ nên được bắt đầu khi HS đã được tìm hiểu kỹ vai diễn của mình và đã có tâm thế sẵn sàng nhập vai. Nếu được chuẩn bị chu đáo, các HS có thể tự đảm nhận vai diễn của mình mà không cần sự trợ giúp của GV. Nguyên tắc chung là GV càng ít can thiệp vào vai diễn càng tốt. Đối với HS có sự tính thụ động và còn lúng túng trong vai diễn, GV cần động viên và có sự hỗ trợ giúp HS diễn tự tin hơn. Trong quá trình HS thực hiện đóng vai, GV có thể tiến hành thảo luận hoặc quay video cảnh diễn đó để HS đóng vai có điều kiện tự nhận xét, tự đánh giá, bổ sung chi tiết cho quá trình diễn. Bước ba: Tổng kết. Đây là bước quan trọng và tốn nhiều thời gian. Giáo viên nên tiến hành tổng kết ngay sau cảnh diễn. Mục đích là để nhận xét về vai diễn và rút ra những kết luận tổng quát. Để làm tốt khâu này, GV nên chuẩn bị trước các câu hỏi cho từng cá nhân hoặc nhóm để HS có điều kiện suy nghĩ cách trả lời. Nên đưa ra nhiều câu hỏi có tính gợi mở. Ví dụ: Em cảm thấy như thế nào sau khi đóng vai? Điều gì khiến em hài lòng hay chưa hài lòng trong khi diễn? Tại sao em lại tiến hành như vậy? Em có thể làm khác được không?.... Giáo viên nên để HS tự nhận xét vai diễn của mình trước khi có ý kiến của GV và các bạn quan sát. Những nhận xét và góp ý nên mang tính tích cực, có tinh thần xây dựng, hạn chế tối đa sự chê bai, chỉ trích. Đối với những HS hay nhóm HS đã có kỹ năng và kinh nghiệm đóng vai, GV cần tạo cơ hội cho các em được trao đổi ý nghĩ, cảm tưởng sau vai diễn. Giáo viên cần rút ra kinh nghiệm từ thành công hoặc chưa thành công để từ đó khái quát theo mục tiêu đã xác định và chuẩn bị cho các kịch bản tiếp theo. 3.3.2. Diễn kịch Hiệu quả của phương pháp diễn kịch rất cao, đặc biệt đối với những chủ đề có tính xã hội. So với phương pháp đóng vai, diễn kịch đòi hỏi HS phải làm việc nhiều hơn. Do vậy, HS cũng được rèn luyện và phát triển nhiều hơn về mọi phương diện. Nếu trong đóng vai, GV thường phải chuẩn bị kịch bản, thì trong diễn kịch GV chỉ đưa ra chủ đề và HS phải tự soạn thảo kịch bản theo chủ đề GV cho trước. Về quy mô, đóng vai có thể được tiến hành ở mức vi mô trong những tình huống cụ thể, ngắn, có tính chất minh họa, còn diễn kịch thường có quy mô lớn hơn, hoành tráng hơn, đòi hỏi nhiều HS tham gia hơn. Để phương pháp diễn kịch thu được kết quả dạy học cao, các chủ đề do GV đưa ra cho HS cần rõ ràng, nên kết hợp giữa nội dung học tập với những yếu tố cảm xúc. Khi HS đã hình thành kịch bản, GV cần đọc và góp ý. Giai đoạn viết kịch bản thường mất nhiều thời gian. Giáo viên nên chia nhóm và thông tin đến nhóm kế hoạch tiến độ cụ thể của việc xây dựng kịch bản (xây dựng cốt truyện; xây dựng nhân vật; dàn cảnh, lời thoại…) để tất cả các thành viên trong nhóm đều được tham gia chuẩn bị kịch bản. Trước khi diễn thật, GV nên để HS diễn tập thử vài lần. Các thiết bị và hóa trang nên đơn giản, không cầu kỳ theo hướng chuyên nghiệp. Trong trường hợp HS chưa quen với phương pháp học tập này, nên bắt đầu từ phương pháp đóng vai, sau đó chuyển sang kịch ngắn (5 phút). Khi các HS đã tự tin, có khả năng thâm nhập nhân vật và diễn xuất mới diễn kịch dài. 3.3.3 Phương pháp mô phỏng Phương pháp này rất phù hợp cho các môn khoa học xã hội và đặc biệt là môn Văn học, giáo dục công dân và môn hoạt động trải nghiệm. Mô phỏng là biến thể của đóng vai. Đó là 426
  7. hình thức “nhại lại” một vai trò nào đó. Chẳng hạn: vai của một nhân vật nào đó trong văn học hay vai của một cá nhân cụ thể trong xã hội (ông bố/ bà mẹ trong gia đình, nhà doanh nghiệp, ông bộ trưởng, chú công an…) Khi sử dụng phương pháp mô phỏng trong dạy học, GV sẽ giao HS nhiệm vụ tìm hiểu về đối tượng sẽ mô phỏng, tình huống điển hình để thể hiện đối tượng sẽ mô phỏng, tình huống điển hình để thể hiện đối tượng, viết kịch bản cho tình huống và diễn kịch theo tình huống đó. Trong quá trình HS làm động tác “nhại lại”, các HS khác đóng vai trò người phán xét và người phản biện. Điều này làm cho mô phỏng trở thành phương pháp học tập sôi nổi và hấp dẫn. Một lợi thế khác của mô phỏng là làm cho các tình huống học tập gắn liền với thực tế cuộc sống, mang lại cho HS nhiều kinh nghiệm mà trước đó HS chưa có. Phương pháp này cũng giúp HS kỹ năng giải quyết các tình huống thường gặp trong học tập cũng như trong cuộc sống thực tiễn. 4. KẾT LUẬN Phương pháp kịch trong dạy học là một trong các nhóm phương pháp tổ chức tương tác hành động học cho HS. Với những đặc tính nổi trội của phương pháp là không những có tác dụng hấp dẫn, cuốn hút sự tập trung cao độ của HS, qua đó, tình cảm của người học với với môn học, đối với bạn bè và đối với GV được nảy nở và duy trì; mà phương pháp này còn nhấn mạnh khía cạnh tổ chức hành động học của HS và sự tương tác giữa các hành động của GV với HS, giữa HS với HS trong quá trình HS tiến hành các hành động học, trong đó yếu tố tương tác được đặt lên hàng đầu. Các đặc điểm đặc trưng của phương pháp kịch trong dạy học có thể đáp ứng được một số yêu cầu, mục tiêu cũng như định hướng phát triển về phẩm chất và năng lực của HS trong chương tình giáo dục phổ thông mới. Không có phương pháp dạy học nào là vạn năng, thế nên, khi sử dụng phương pháp kịch trong dạy học, GV cần có sự kết hợp/ lồng ghép với các phương pháp dạy học khác để có thể đạt hiệu quả tối đa khi thực hiện các nội dung trong chương trình giáo dục phổ thông mới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ giáo dục và đào tạo (2018). Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể (Ban hành kèm thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo). 2. Lê Văn Hồng (chủ biên), Lê Ngọc Lan (2001). Tâm lí học lứa tuổi và Tâm lí học sư phạm. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục. 3. Phan Trọng Ngọ (2005). Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà trường. Nhà xuất bản Đại học Sư phạm 4. Vũ Thị Nho (2000). Tâm lý học Phát triển. Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội 5. https://data.moet.gov.vn/index.php/s/LETzPhj5sGGnDii#pdfviewer 6. http://hcmup.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=21032%3Athaphoctap&ca tid=5398%3Akhobaiviet&Itemid=9269&lang=zh&site=34 427
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2