ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI VIỆN VIỆT NAM HỌC VÀ KHOA HỌC PHÁT TRIỂN ------------------------------
ZHAO BIN XUAN
(TRIỆU BÂN TOÀN)
HIỆN TƢỢNG “NGÂN HÀNG” TỰ PHÁT VÀ TÁC ĐỘNG
CỦA NÓ ĐỐI VỚI KINH TẾ BIÊN MẬU Ở MỘT SỐ KHU
VỰC BIÊN GIỚI TRUNG - VIỆT
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP THẠC SĨ
Ngành: Việt Nam học
Mã số: 60220113
Hà Nội, 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI VIỆN VIỆT NAM HỌC VÀ KHOA HỌC PHÁT TRIỂN -------------------------
ZHAO BIN XUAN
(TRIỆU BÂN TOÀN)
HIỆN TƢỢNG “NGÂN HÀNG” TỰ PHÁT VÀ TÁC ĐỘNG
CỦA NÓ ĐỐI VỚI KINH TẾ BIÊN MẬU Ở MỘT SỐ KHU
VỰC BIÊN GIỚI TRUNG - VIỆT
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP THẠC SĨ
Ngành: Việt Nam học
Mã số: 60220113
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS Phạm Hồng Tung
Hà Nội, 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là kết quả nghiên cứu nghiêm túc của cá nhân
tôi dưới sự hướng dẫn trực tiếp của GS.TS. Phạm Hồng Tung. Nội dung được trình
bày trong luận văn hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với bất kỳ công trình
nghiên cứu nào đã được công bố.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Tác giả luận văn
Triệu Bân Toàn
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ và chỉ bảo tận
tâm của GS.TS. Phạm Hồng Tung trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận
văn tốt nghiệp. Vì vậy, tôi xin được gửi đến Thầy lời cảm ơn, biết ơn chân thành và
sâu sắc nhất.
Đồng thời tôi xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô trong Viện Việt Nam học
và Khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tận tình truyền đạt kiến thức
trong những năm tôi học tập và nghiên cứu ở trường. Những hành trang kiến thức mà
các thầy cô mang lại cho tôi sẽ không chỉ là nền tảng cho quá trình nghiên cứu luận
văn mà còn là hành trang quý báu cho công việc và cuộc sống của tôi sau này.
Tôi cũng chân thành cảm ơn các bạn học cùng khóa và các bạn Việt Nam đã tận
tình giúp đỡ tôi tìm tài liệu, góp ý trong suốt quá trình viết luận văn.
XÁC NHẬN CỦA NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
Tôi đã đọc và đồng ý với nội dung luận văn của học viên.
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
(Ký tên)
GS.TS.Phạm Hồng Tung
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN MẬU DỊCH VÀ HOẠT
ĐỘNG GIAO DỊCH TIỀN TỆ BIÊN GIỚI Trung - Việt. ................................... 10
1.1. Khái quát sự phát triển của mậu dịch Trung - Việt thời cổ đại..................... 10
1.2. Khái quát sự phát triển của mậu dịch Trung - Việt thời cận đại ................ 13
1.3. Một số thành tựu về mậu dịch của hai nước Trung - Việt ............................ 21
1.3.1. Mậu dịch Trung – Việt giai đoạn 1991 - 2000..................................... 22
1.3.2 . Mậu dịch Trung – Việt giai đoạn 2001-2006...................................... 24
1.3.3. Mậu dịch Trung – Việt giai đoạn 2007 - 2014..................................... 26
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CỦA “NGÂN HÀNG TỰ PHÁT”
TẠI BIÊN GIỚI TRUNG - VIỆT .......................................................................... 29
2.1. Thực trạng giao dịch, buôn bán ở biên giới Trung - Việt ............................. 29
2.1.1. Cơ cấu hàng hóa của Trung Quốc xuất sang Việt Nam ....................... 29
2.1.2. Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc sang Việt Nam ............... 33
2.1.3. Hình thức mậu dịch và các loại hàng hóa mua bán giữa Trung Quốc
và Việt Nam .................................................................................................. 34
2.1.4. Tình hình phát triển kinh tế mậu dịch của của Việt Nam và Trung
Quốc những năm gần đây .............................................................................. 36
2.2. Lý thuyết cơ bản phát triển của “Ngân hàng tự phát” .................................. 45
2.2.1. Khái niệm liên quan của “Ngân hàng tự phát” .................................... 45
2.2.2. Lý thuyết liên quan đến phát triển của “Ngân hàng tự phát” .............. 48
2.3. Tiểu kết chương 2 ......................................................................................... 55
Chƣơng 3. ĐÁNH GIÁ, PHÂN TÍCH CÁC HOẠT ĐỘNG LIÊN QUAN ĐẾN
“NGÂN HÀNG TỰ PHÁT” ................................................................................... 56
3.1. Nguồn gốc của các loại “Ngân hàng tự phát” .............................................. 56
3.1.1. Nguồn gốc lịch sử của “Ngân hàng tự phát” ....................................... 56
3.1.2. Nguồn gốc xã hội: “Ngân hàng tự phát” để bù đắp cho sự thiếu hụt
trong cơ chế giải quyết thương mại biên giới ................................................ 62
3.2. Tác động của “Ngân hàng tự phát” tới kinh tế biên mậu khu vực biên giới
Việt - Trung .......................................................................................................... 74
3.2.1. Điểm mạnh của hoạt động “Ngân hàng tự phát” và tính bất hợp pháp
trong hoạt động của “Ngân hàng tự phát” ..................................................... 74
3.3.2. “Ngân hàng tự phát” dễ dàng thao tác tỷ giá hối đoái biên giới ......... 82
3.3. Một số đề xuất về giải pháp quản lý đối với hoạt động “Ngân hàng tự phát” .. 83
3.3.1. Vấn đề trong quá trình phát triển “Ngân hàng tự phát” ...................... 83
3.3.2. Học tập kinh niệm quản lý “Ngân hàng tự phát” của Việt Nam ......... 86
3.3.3. Các chính sách quản lý “Ngân hàng tự phát” mang tính công khai hóa
và hợp phát hóa ở biên giới Trung - Việt ....................................................... 95
3.4. Tiểu kết chương 3 ....................................................................................... 115
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 116
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 118
DANH MỤC VIẾT TẮT
ACFTA: ASEAN - Trung Quốc Hiệp định Thương mại tự do
APEC: tiếng Anh:Asia-Pacific Economic Cooperation
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương
ASEAN: tiếng Anh: Association of Southeast Asian Nations,
viết tắt là ASEAN Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
CBRC: China Banking Regulatory Commission
CIRC: China Insurance Regulatory Commission
CNDC: công ty xăng dầu Hải Dương Quốc gia Trung Quốc
CSRC: China Securities Regulatory Commission
DWT: Deadweight tonnage, là đơn vị đo năng lực vận tải an toàn của tàu
thủy tính bằng tấn.
FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FTA: Hiệp định thương mại tự do
PBOC: People's Bank Of China
Trung Quốc CMG: Merchants Group
WTO: tiếng Anh: World Trade Organization, viết tắt WTO〃
tiếng Pháp: Organisation mondiale du commerce; tổ chức Thương mại Thế giới
DANH MỤC BẢNG BỂU, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
1.1 Danh mực bảng biểu
Bảng 1.1. Tình hình cửa khẩu biên giới tỉnh Quảng Tây TQ và VN ....................... 14
Bảng 2.1: Tình hình xuất nhập khẩu Trung - Việt từ năm 1991 đến năm 2000 ........ 23
Bảng 3.1: Tình hình xuất nhập khẩu ở khu vực biên giới Việt – Trung giai đoạn
2001 – 2006 ............................................................................................................... 25
Bảng 1.2: Bảng thống kê các loại sản phẩm Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc ở
khu vực biên giới Việt Trung. ................................................................................... 29
Bảng 2.2: Những sản phậm tự Việt Nam xuất khẩu đến Trung Quốc ...................... 30
Bảng 3.2: Cơ cấu hàng hóa từ Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc ..................... 31
Bảng 4.2: Các loại sản phẩm xuất – nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc ....... 34
Bảng 5.2. Bảng thống kê tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc
giai đoạn 2009 – 2011. .............................................................................................. 37
Bảng 1.3: Bảng so sánh ngân hàng chính quy và “Ngân hàng tự phát” ................... 73
Bảng 2.3: Ưu thế của Ngân hàng tự phát .................................................................. 76
Bảng 3.3: Tình hình hoạt động của “Ngân hàng tự phát” ......................................... 78
Bảng 4.3. Pháp luật quản lý của chính phủ Việt Nam đối với “Ngân hàng tự phát” 88
1.2. Danh mục biểu đồ
Biểu đồ 1.1: Tốc độ tăng trưởng của kim ngạch xuất, nhập khẩu giai đoạn 1991 - 2000 .. 22
Biểu đồ 2.1: Tốc độ tăng trưởng của kim ngạch xuất, nhập khẩu giai đoạn 2001 - 2002 .. 25
Biểu đồ 1.3: Cơ cấu các doanh nghiệp thanh toán bằng “Ngân hàng tự phát ........... 81
1.3. Danh mục Sơ đồ
Sơ đồ 1.2: Sơ đồ kế toán mậu dịch biên giới Việt – Trung ....................................... 54
Sơ đồ 1.3: Các hình thức tổ chức của ngân hàng biên mậu .................................... 109
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Lý do thực tiễn
Từ năm 1991 đến nay mậu dịch biên giới hai nước phát triển càng ngày càng
tốt. Do các lãnh đạo hai nước sáng tạo quan hệ hữu nghị tiếp tục phát triển làm cho
tình hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Hai bên cùng nhau nỗ lực phát triển quan hệ Việt Nam - Trung Quốc “láng giềng
hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”, và mãi là “láng
giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”. Việt Nam và Trung Quốc trong các
vấn đề của khu vực và quốc tế có những quan điểm và lợi ích giống nhau. Hai bên
hài lòng nhận thấy quan hệ giữa hai Đảng, hai nước không ngừng được củng cố và
phát triển. Nhất trí cho rằng Trung Quốc và Việt Nam có lợi ích chiến lược chung
trên nhiều vấn đề quan trọng. Từ xưa đến nay, hai nước từ xưa đến nay, có lịch sử
lâu dài trao đổi hàng hóa và trao đổi kinh tế tự do, chủ yếu tập trung ở khu vực biên
giới của hai nước. Khái niệm của khu vực biên giới hai nước chưa rõ vì hai nước có
quan hệ láng giềng, cư dân biên giới có thể trao đổi hàng hóa, nhiều dân cư biên
giới hai nước di dân đến nhà nước đối phương. Ngoài ra, mậu dịch Trung - Việt rất
quan trọng vì nó chịu ảnh hưởng ngoài giao, chính trị, quan hệ quốc tế...
Trong mối quan hệ phát triển hai nước như vậy, trong cái lĩnh vực phát triển
sôi động nhất, đến bất kỳ cửa khẩu nào mà có giáp giới giữa biên giới hai nước đều
chính kiến, hoạt động chính kiến rất là sôi động, hàng hóa nông nghiệp, hàng hóa
lâm nghiệp, hàng hóa công nghiệp, thậm chí là hàng hóa văn hóa trao đổi giữa hai
nước rất thường xuyên. Đó là một trong những tuyến biên giới có hoạt động biên
giới sôi động, hiện nay là toàn bộ khu vực Đông Nam Á. Hoạt động kinh tế biên
mậu có 3 loại hình: Một là, mậu dịch quốc gia của hai nước, đây là hình thức cơ bản
của mậu dịch kinh tế Trung - Việt. Hai là, công ty mậu dịch hai nước phải tuân theo
xuất nhập khẩu quy định của nhà nước,mậu dịch này chủ yếu là hàng hóa trao đổi
1
của vùng biên giới hai nước,đây là hình thức phụ của mậu dịch kinh tế Trung - Việt.
Ba là, mậu dịch tiểu ngạch trao đổi cư dân hai bên, đây là hình thức truyền thống
của mậu dịch kinh tế Trung - Việt. Đặt ra những vấn đề không chỉ là vấn đề kinh tế,
vấn đề an ninh, còn có vấn đề an ninh xã hội, còn vấn đề đả bảo lợi ích chính cho
tham gia hoạt động như vậy. Hơn nữa, thì giao dịch “Ngân hàng tự phát” không chỉ
lãi xuất, còn có nhiều dịch vụ.
Khái niệm liên quan của Ngân hàng tự phát
“Ngân hàng tự phát” tồn tại trong khu vực biên giới Trung - Việt (đặc biệt là
tại các cửa khẩu thương mại biên giới thịnh vượng, khu kinh tế và các điểm thương
mại biên giới), để tham gia vào các dịch vụ đổi tiền, thanh toán tiền hàng, chuyển
tiền, chủ yếu là trong các dịch vụ thương mại biên giới loại nhỏ và tổ chức kinh
doanh thương mại truyền thống ở biên giới. Vì hoạt động kinh doanh của nó với
hoạt động kinh doanh của ngân hàng chính quy tương tự, lại mang hình thức kinh
doanh bán hàng rong, được người dân địa phương gọi là “Ngân hàng tự phát”.
Ở Trung Quốc, một số học giả đã coi “Ngân hàng tự phát” giống như ngân
hàng ngầm. Sau khi nghiên cứu, tác giả đã khảo sát thực địa phân tích và các thông
tin có liên quan, cho rằng hai loại ngân hàng này khác nhau nhưng có liên quan với
nhau. Vì vậy, đối với “Ngân hàng tự phát” tiến hành giới định khái niệm để
xác định, cũng cần thiết để xác định khái niệm về ngân hàng ngầm và phân tích mối
quan hệ giữa hai ngân hàng.
Ngân hàng ngầm có nghĩa là không qua cơ quan quản lý tài chính nhà nước
phê duyệt thành lập, nhằm thu được lợi ích bất hợp pháp, tham gia vào các hoạt
động bất hợp pháp như tiền gửi giao dịch tài chính, cho vay lãi xuất cao hơn ngân
hàng, cho vay nặng lãi, chuyển tiền, vốn phi pháp qua biên giới, phi pháp hoạt động
giao dịch truyền thống và tổ chức tài chính, trong số đó hầu hết trong thế giới thực
là theo hình thức công ty đầu tư tài sản tồn tại.
Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đã ban hành (năm 2004 Trung Quốc chống
rửa tiền) báo cáo cho thấy, ngân hàng ngầm là một tổ chức tài chính bất hợp pháp,
2
nó lợi dụng hoặc lợi dụng một phần mạng lưới thanh toán ngân hàng và tổ chức tài
chính khác, triển khai tiết kiệm và vay vốn, chuyển xuyên tiền vốn qua biên giới,
bất hợp pháp kinh doanh ngoại hối và hoạt động tài chính bất hợp pháp khác. Và chỉ
ra rằng các ngân hàng ngầm trôi dạt bên ngoài hệ thống quản lý tài chính, rất dễ
dàng để trở thành rửa tiền, trốn thuế, buôn lậu, tham nhũng và các hoạt động tội
phạm khác. Theo các loại kinh doanh chủng loại khác nhau, ngân hàng ngầm có
thể được chia thành: ngân hàng ngầm loại kiểu tiết kiệm cho vay và ngân hàng
ngầm đổi ngoại tệ. Có hai loại ngân hàng: ngân hàng ngầm kiểu tiết kiệm cho vay
chủ yếu là tham gia thu hút tiền tiết kiệm và dịch vụ cho vay vào bất hợp pháp, kiểu
ngân hàng ngầm trao đổi tiền ngoại tệ chủ yếu là triển khai đổi tiền tệ và hoạt động
vốn xuyên biên giới. Thông qua cả hai “Ngân hàng tự phát” và “ngân hàng ngầm”
tiến hành xác định, nó có thể được nhìn thấy tồn tại trong khu vực biên giới Trung -
Việt “Ngân hàng tự phát” không liên quan đến dịch vụ gửi tiền, so với kiểu đổi tiền
“ngân hàng ngầm” dịch vụ hình thức tương tự. Nhưng sau khi tác giả thông qua các
doanh nghiệp thương mại biên giới, các hộ cá thể và thậm chí những người kinh
doanh “Ngân hàng tự phát” tại thành phố Đông Hưng, tỉnh Quảng Tây thực hiện
nhiều cuộc phỏng vấn sâu đã tìm hiểu được rằng: không phải tất cả các “Ngân hàng
tự phát” đều tham gia có liên quan đến rửa tiền và các hoạt động vi phạm khác.
Nhiều người kinh doanh “Ngân hàng tự phát” chỉ kiếm chênh lệch tỷ giá từ việc
bán đồng nhân dân tệ sang tiền Việt Nam, tiền USD hoặc ngoại tệ khác hoặc theo
trong khi ngân hàng chính quy quốc gia giữa tiền Trung Quốc và tiền Việt Nam
thanh toán thương mại biên giới không thông thoát, giúp một số doanh nghiệp biên
giới thương mại số lượng nhỏ và các hộ cá thể thương mại biên giới giao dịch kinh
doanh làm dịch vụ thanh toán và các dịch vụ khác.
Hiện nay, thông qua các “Ngân hàng tự phát” hầu hết thanh toán thương mại là
những thương mại hợp pháp. Vì vậy, mặc dù các “Ngân hàng tự phát” và ngân hàng
ngầm dịch vụ kinh doanh tương tự và cũng đều là các tổ chức tài chính phi chính
thức, được ẩn trong “ngầm”, nhưng bài viết này sẽ phân biệt “Ngân hàng tự phát”
3
và “ngân hàng ngầm”. Theo giới chuyên môn nghiên cứu, ngân hàng tồn tại trong
khu vực biên giới Trung - Việt, chủ yếu là tham gia trao đổi tiền tệ, thanh toán tiền
vốn và hoạt động chuyển tiền khác, trong thế hệ thanh toán biên mậu Trung - Việt
chiếm một vị trí quan trọng, loại kinh doanh thanh toán theo hình thức bán rong tổ
chức kinh tế dân gian này gọi là “Ngân hàng tự phát”.
1.2. Lý do khoa học
- Nguồn gốc lịch sử
Hoạt động “Ngân hàng tự phát” này không phải là bây giờ mới phát triển, cũng
không phải là bây giờ mới có mà là có hàng trăm năm nay, đặc biệt kể từ khi hai
nước có đường biên giới, thì đây là trở thành một thói quen. Trong cái giao dịch
song biên giới giữa hai nước thì cái thói quen này càng được củng cố vùng biên giới
Trung - Việt, bởi vì cái vùng đấy thì cửa giao thương kinh tế, trước đây còn có rất
nhiều thương mại của người Trung Hoa, có cả người Việt Nam.
- Nguồn gốc xã hội
Trong cái vùng biên giới đấy, nó có địa lý, cái động người của dân tộc họ sống
một địa bản. Ví dụ như người Dao, Mông, Thái, Tày v.v... trong cái khoa học gọi là
“Cross-broder ethnic mirrorities”
- Nguồn gốc kinh tế
Nhóm buôn bán có xu hướng “lách luật” buôn lậu.
Thông qua nghiên cứu “Ngân hàng tự phát” hay là “Ngân hàng tự phát” này
càng ngày càng có ít tôn trọng pháp luật của ngân hàng chính Trung Quốc và Việt
Nam. Bài viết này giới thiệu trước quá trình diễn ra phát triển và nguồn gốc của
“Ngân hàng tự phát”. Sau khi phân tích hiện trạng “Ngân hàng tự phát” của khu
biên giới Trung Việt, sử dụng phương thức điều tra và phỏng vấn các xí nghiệp và
thương nhân của khu biên giới Hà Khẩu Vân Nam-Trung Quốc Lào Cai (Việt Nam)
để phân tích sử dụng tình hình “Ngân hàng tự phát”, theo sự phân tích của kết quả
này có thể cho rằng “Ngân hàng tự phát” thoả mãn nhu cầu của kết quả tiền vốn của
các thương nhân trao đổi cư dân biên giới và các xí nghiệp tiểu ngạch, tồn tại của nó
4
có kết luận tính khách quan và tính hợp lý. Tiếp đó ,nghiên cứu những vấn đề phát
triển và nguyên nhân của sự phát triển của “Ngân hàng tự phát”. Trên cơ sở đó học
kinh nghiệm quản lý “ Ngân Hàng Ngoài Đường” của Việt Nam, bài viết này đưa ra
chính sách quản lý “Ngân hàng tự phát” của biên giới Trung Quốc. phải rõ rằng,
Chính sách đổi tên “Ngân hàng tự phát” đổi tên “Ngân hàng Biên Mậu”, chủ yếu
bao gồm 6 phương diện như sâu:
1. Đưa ra pháp luật và pháp quy rõ ràng đối với “ Ngân hàng Biên Mậu”;
2. Thiếp lập chế độ giám sát của ngân hàng biên mậu;
3. Cho ngân hàng biên mậu khuyến khích và chính sách ưu đãi, thành lập thị trường
kinh doanh thống nhất;
4. Dành cho ngân hàng biên mậu và ngân hàng thương nghiệp giao lưu hoạt động,
triển khai hoạt động lành mạnh và cạnh tranh tốt;
5. Khuyến khích ngân hàng biên mậu tổ chức và sáng tạo nghiệp vụ mới;
6. Hoàn thiện biện pháp đầy đủ và rõ ràng của ngân hàng biên mậu.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Các công trình nghiên cứu về quan hệ Trung - Viêt sau năm 1991
Chính sách đổi mới từ năm 1986 đến nay khoảng hơn 25 năm đổi mới, đã tác
động đến mọi mặt đời sống của cả xã hội Việt Nam trên tất cả mọi phương diện. Sự
đánh giá quá trình 25 năm chuyển biến của hoạt động tinh thần của người Việt là vô
cùng quan trọng, bởi vì cũng trong khoảng thời gian này, thế giới cũng đang đối
diện với một chuyển động lớn nhất trong lịch sử nhân loại: biến đổi khí hậu, sự
khan hiếm của tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái kinh tế của Âu Mỹ, sự bùng nổ
của thế lực Trung Quốc, sự xung đột các tôn giáo ở Trung Đông… Thế giới và nhân
loại đang đứng trước một sự thay đổi lớn về môi trường tự nhiên, kinh tế xã hội và
tâm linh con người. Trong khi đó, kinh nghiệm 25 năm đổi mới và chuyển biến lớn
của xã hội Việt Nam đã để lại nhiều bài học sâu sắc về mặt ứng xử của con người
trước thay đổi của môi trường - môi trường tự nhiên cũng như môi trường kinh tế.
5
Trong kết toán mậu dịch biên mậu, Phạm Kim Nga [24] phân tích số liệu từ
năm 1991- năm 2006 mậu dịch xuất nhập khẩu hai nước Trung Việt, tìm hiểu đặc
trưng và hiện trạng phát triển của mậu dịch hai nước, phát hiện vấn đề chủ yếu là
mậu dịch hai nước mất cân đối, phân tích nguyên nhân mậu dịch mất cân đối. Chu
Tăng Lương [23] nghiên cứu phát hiện những năm gần đây trong mậu dịch đối
ngoại Việt Nam vẫn là trạng thái nhập siêu.
Trong vị trí của hai bên mậu dịch, Vương Quyên [36] vận dụng thiệt bị phần
mềm SPSS phân tích số liệu thống kê thực tế mậu dịch hai bên Trung - Việt, phát
hiện quan hệ số liệu là 0.981, chỉ ra hai nước có thể hỗ trợ với nhau.
2.2. Các công trình nghiên cứu về biên mậu Trung - Việt
Trong chính sách mậu dịch Trung - Việt, Nguyễn Văn Chính cho rằng hai nước
đều đang ở thời đại nền kinh tế có kế hoạch chuyển hướng kinh tế thị trường, tồn tại
nhiều nguyên nhân hạn chế,ví dụ như: mâu thuẫn xã hội rất phức tạp, kỹ thuật lạc
hậu, pháp luật không thuận tiện, nhưng theo chính phủ hai nước với cải cách mới,
chính phủ hai bên có thể mượn ưu thế ví dụ như: thuận lợi của giao thông địa lý,
nguồn gốc lịch sử và cấu trúc của sản phẩm bổ sung cho nhau, thúc đẩy phát triển
toàn diện của quan hệ mậu dịch hai bên. Nguyễn Thị Thủy [44] giới thiệu quan hệ
hợp tác mậu dịch hai nước Trung - Việt, phân tích các nguyên nhân có lời phát triển
quan hệ mậu dịch hai nước Trung - Việt ví dụ như: địa lý, chính trị, văn hóa v.v...
1. Nghiên cứu vấn đề về phát triển mậu dịch Trung - Việt
2. Nghiên cứu chính sách thúc đẩy phát triển mậu dich Trung - Việt
Nguyễn Thị Khi Dung [9], Viện Nghiên Cứu Quản lý kinh tế Trung Ương
(Chủ nhiệm đề tài cấp Bộ 1999): ''Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng
cơ chế chính sách và các biện pháp quản lý kinh tế đặc thù đối với khu vực cửa
khẩu trên bộ phía Bắc Việt Nam''. Tác giả khẳng định rằng, giao lưu kinh tế qua
biên giới là sự thể hiện xu thế hội nhập kinh tế giữa các nước gần nhau về vị trí địa
lý, thực hiện mục tiêu mở rộng hợp tác kinh tế giữa các nước láng giềng.
6
Đề tài khoa học cấp Bộ: "Một số giải pháp nhằm phát triển thương mại hàng
hóa Việt Nam - Trung Quốc qua biên giới trên bộ thời kỳ đến 2005", do tác giả
Phạm Thị Cải [2] làm chủ nhiệm cho thấy: Phát triển thương mại hàng hóa Việt
Nam - Trung Quốc qua biên giới trên bộ là chủ trương của cả Chính phủ Trung
Quốc và Chính phủ Việt Nam.
Tác giả Nguyễn Đăng Ninh [25] trong ''Đổi mới quản lý nhà nước về hoạt
động xuất nhập khẩu trên địa bàn các tỉnh biên giới Việt Nam - Trung Quốc'', NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004, khẳng định, cùng với quá trình cải cách và mở cửa,
trên cơ sở nhận thức vai trò của hoạt động kinh tế biên mậu mà trọng tâm là việc
thúc đẩy giao lưu kinh tế qua các cửa khẩu trên bộ, Chính phủ Việt Nam đã ban
hành hàng loạt các chính sách có liên quan để hỗ trợ cho quá trình này.
“Đề án phát triển biên mậu Việt Nam - Trung Quốc thời kỳ 2006 – 2010” của
Bộ Thương mại [1] nhận định: Trung Quốc là một nước đang phát triển có dân số
lớn nhất thế giới, kinh tế phát triển vào loại nhanh nhất thế giới. Ngay từ những
ngày đầu cải cách mở cửa, Trung Quốc đã có một chiến lược khá toàn diện trong
việc phát triển biên mậu, cho đến ngày nay đang tham gia sâu vào thể chế kinh tế
thế giới nhưng về cơ bản vẫn duy trì những chính sách đó.
2.3. Các công trình nghiên cứu về hoạt đồng “Ngân hàng tự phát”
Tóm lại, qua đánh giá sơ bộ tình hình nghiên cứu có thể thấy rằng, các công
trình nghiên cứu đã thực hiện mới chỉ đề cập đến một số khía cạnh trong quan hệ
thương mại Trung - Việt. Chưa có công trình nào đi sâu vào việc đánh giá một cách
có hệ thống thực trạng và triển vọng “Ngân Hàng Ngoài Đường”. Hiện nay, nhiều
văn bảng chủ yếu phân tích những phương diện như cấu trúc mậu dịch, tiêu thụ mậu
dịch, địa vị mậu dịch, chính sách mậu dịch v.v... Một phần văn bản nghiên cứu vấn
đề tồn tại mậu dịch Trung - Việt và nguyên nhân hạn chế phát triển mậu dịch Trung-
Việt, đưa ra chính sách cải thiện.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
“Ngân Hàng Tự Phát” ở một số khu vực biên giới Trung - Việt.
7
3.2. Nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu
- Làm rõ nguồn gốc lịch sử của hoạt động biên mậu “Ngân hàng tự phát”.
- Làm rõ nguồn gốc xã hội của hoạt động biên mậu “Ngân hàng tự phát”.
- Làm rõ nguồn gốc kinh tế của hoạt động biên mậu Ngân hàng tự phát”.
- Làm rõ tác động của “Ngân Hàng Tự Phát” đối với kinh tế biên mậu Việt –
Trung.
- Khảo sát và đánh giá thực trạng phát triển của Ngân hàng tự phát”.
- Đề xuất một số giải pháp quản lý đối với “Ngân hàng tự phát”.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi lựa chọn phương pháp nghiên cứu mang tính
liên ngành: lịch sử, văn hóa, kinh tế...
1. Khảo sát thực trạng phát triển của nền kinh tế Việt Nam, thông qua các tài liệu,
sự kiện và các hoạt động kinh tế biên mậu thể hiện trạng thái của mậu dịch biên giới
Trung - Việt.
2. Tổng hợp các tư liệu liên quan đến mậu dịch biên giới Trung - Việt ở khu vực
biên giới Trung - Việt, chủ yếu là khu vực biên giới huyện Hà Khẩu Trung Quốc và
tỉnh Lào Cai Việt Nam và trên thế giới.
3. So sánh sự phát triển của mậu dich biên giới huyện Hà Khẩu Trung Quốc và tỉnh
Lào Cai Việt Nam.
4. Khảo sát thực tế ở một số biên giới huyện Hà Khẩu Trung Quốc và tỉnh Lào Cai
Việt Nam theo hướng tiếp cận liên ngành Dân Tộc Học và Xã Hội Học.
5. Đóng góp mới
Làm rõ thực trạng “Ngân hàng tự phát” có lợi ích và suy yếu nào để phát triển
biên mậu Trung Việt.
Đề xuất một số giải pháp để cải thiện chính sách “Ngân hàng tự phát” Trung Quốc.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
8
Chƣơng 1: Khái quát lịch sử phát triển mậu dịch và hoạt động giao dịch tiền tệ
ở biên giới Trung - Việt
Chƣơng 2. Thực trạng pháp triển của hoạt động “Ngân hàng tự phát” ở biên
giới huyện Hà Khẩu Trung Quốc và Lào Cai Việt Nam
Chƣơng 3. Phân tích và đánh giá về hoạt động của “Ngân hàng tự phát”
9
Chƣơng 1.
KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN MẬU DỊCH VÀ HOẠT ĐỘNG GIAO
DỊCH TIỀN TỆ BIÊN GIỚI Trung - Việt
1.1. Khái quát sự phát triển của mậu dịch Trung - Việt thời cổ đại
Năm 221 trước Công nguyên, Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, thiết
lập một vương triều phong kiến tập quyền trung ương thống nhất đầu tiên trong lịch
sử Trung Quốc. Nhà Tần phía Bắc đánh đuổi Hung Nô, xây dựng Vạn lý trường
thành để bảo vệ bờ cõi của mình; nam chinh bắc chiến, thiết lập quận huyện để cai
trị, sau khi Tần Thủy Hoàng thôn tính Bách Việt, đã lập thêm bốn quận Mân Trung,
Nam Hải, Quý Lâm, Tượng Quận. Tượng Quận nằm ở Bắc bộ Việt Nam ngày nay,
nhưng nhà Tần mệnh vận rất ngắn, sớm bị diệt vong.Nhà Hán ra đời. Vào đời Hán
Vũ Đế, đời nhà Hán trong khu Lĩnh Nam thiết lập 09 quận, trong đó có Giao Chỉ,
Cửu Chân, Nhật Nam là ba quận hiện nay là Trung bộ và Bắc bộ Việt Nam.
Nhà Đường thay thế nhà Hán trị vì đất nước, đời Nam Bắc triều thống trị Giao
Châu mấy trăm năm. Nhà Đường mới đầu đặt Giao Châu là Tổng quản phủ, sau đó
lại đổi thành Giao Châu Đô đốc Phủ năm 679 lại đổi tên thành An Nam Đô Hộ Phủ
thành phủ, hiện nay là Hà Nội. Năm 939, Ngô Quyền tự xưng vua, Bắc bộ Việt
Nam bắt đầu độc lập với Trung Quốc. Lãnh thổ của triều Nguyên vượt quá Hán
Đường. Nửa sau thế kỷ 13, Nhà Nguyên đã ba lần tấn công xâm lược nước Đại Việt
và cả ba lần đều bị thất bại. Nhưng không lâu, nhà Nguyên và nước Việt Nam lại
khôi phục quan hệ truyền thống bang giao. Từ đó đến cuối Nguyên, sứ thần của hai
nước đi lại thường xuyên và cũng không còn đối đầu quân sự quy mô lớn nữa. Cả
hai nước duy trì mối quan hệ hòa bình và thân thiện.
Nhà Minh thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình. Sau khi, Chu Nguyên
Chương lên làm Hoàng đế, An Nam [19] đã nhận cáo dụ của nhà Minh và xin nhà
Minh sắc phong, thiết lập mối quan hệ của nhà Minh với nước An Nam. Mối quan hệ
của Trung Quốc với các nước Đông Nam Á trong thời kỳ này là thịnh vượng nhất.
10
Mối quuan hệ ấy được hình thành từ nhà Minh duy trì cho đến thời kỳ nhà Thanh
(năm 1644-1840). Năm 1666, nhà Thanh chính thức phong Lê Duy Hỷ làm vua Đại
Việt [13], từ đó nước Đại Việt định kỳ cống vật cho Nhà Thanh, mối quan hệ hòa hảo
giữa hai nước duy trì hơn hai trăm năm. Nhân dân được sống trong hòa bình.
Nhà Tống, mậu dịch có đường bộ và đường thủy. Mậu dịch đường thủy chủ
yếu là Khâm Châu, Liêm Châu (hiện nay là huyện Hạ Phố, tỉnh Quảng Châu), từ
Đại Việt đi thuyền đến, đường bộ gần phải mất nửa ngày mới đến. Nếu từ Đại Việt
đến Vĩnh An Châu (nay là Tỉnh Quảng Ninh) đến Khâm Châu thuyền phải đi mất
một ngày mới đến.
Khi mới bắt đầu từ Đại Việt đi thuyền đến Liêm Châu, vì đường sá xa xôi, gió
biển lớn, sóng biển cao, thường hay xảy ra tai nạn, thuyền bị đắm, cho nên những
thương nhân chuyển sang đi bên đường Khâm Châu. Đường mậu dịch bằng đường
bộ chủ yếu là tại Vĩnh Bình Trại (nay là huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam)
và Nam Giang San ...
Khi đó, những điểm mậu dịch này được gọi là Bãi Bác Dịch. Bãi Bác Dịch
nằm tại ngoại thành Khâm Châu Dịch Giang Đông, mậu dịch ở đây có hai loại: Một
loại là mậu dịch dân gian, lượng mậu dịch không lớn, gọi là tiểu cương. Chính
quyền ở đây tiến hành quan phương mậu dịch, số lượng lớn, gọi là đại cương. Dân
Châu Vĩnh An (Đại Việt) sinh sống gần bờ biển nên họ sống nhờ biển, họ bắt cá,
tôm, ngao và các loại hải sản để đi đổi với người Trung Quốc lấy gạo và vải.
Thương nhân người Việt chuyên làm nghề mậu dịch, nếu đến Khâm Châu
buôn bán, phải nộp công văn trước cho quan phủ Khâm Châu mới được từ đường
biển vào Bãi Bác Dịch Khâm Châu tiến hành giao dịch, thương nhân Đại Việt và
quan viên mang các hàng đến bán chủ yếu như vàng, bạc, đồng tiền, hương trầm,
hương quang, hương thục, hương sinh, chân châu ngọc trai, ngà voi, sừng trâu...
Tiểu thương nhân của Tống triều thì mang giấy, bút, gạo, vải... đến giao dịch với
người Việt.
11
Những thương nhân giàu có thường là người Tứ Xuyên [46], họ mang đến thổ
cẩm, mua về các loại hương của Đại Việt, số lượng giao dịch có thể đạt đến hàng
nghìn lạng, nhưng một năm chỉ đi lại được một lần. Hai bên mua và bán đàm phán,
họ ngồi với nhau vừa uống rượu, vừa trò chuyện, vừa trả giá. Quan phủ theo tỉ lệ
400 tiền thu 30 tiền thuế. Hai bên đều có một số gian thương, triều Tống có người
bán thuốc giả, có thương nhân người Việt xảo quyệt trộn đồng vào vàng bạc, hương
trầm ngâm muối, để cho nó chìm được xuống nước.
Bãi Bác Dịch Thủy Bình Trại chỉ cách Đại Việt một dòng sông là thị trường
giao dịch chủ yếu của đường bộ. Ở đây, mậu dịch dân gian là chủ yếu. Giao Chỉ [15]
chủ yếu có các sản phẩm là hương liệu, sừng trâu, ngà voi, vàng bạc và
muối… để đổi các loại hàng vải, lụa với người Tống Triều.
Huyện Vũ Duyên (nay là huyện Vũ Minh, Trung Quốc) sản xuất loại vải
khổ hẹp rất được ưa chuộng. Điểm mậu dịch Nam Giang San (nay là biên giới
Long Châu, Quảng Tây) là nơi mậu dịch dân gian tiến hành mậu dịch của Tô
Mậu Châu Đại Việt, dân biên giới Đại Việt mang đồ thổ sản của miền núi đến đổi
hàng vải, cẩm, the lụa của dân biên giới nhà Tống. Ngoài ra, còn có những mậu
dịch phi pháp.
Gần biên giới Đại Việt có nơi thịnh sản mỏ vàng, thiếu lao động, đã lừa người
từ Tống Triều bán sang Đại Việt để làm nô lệ, khai thác mỏ vàng.
“Nam Châu khách lữ, lừa người làm nô gánh phụ, khi đến Châu Động thì trói
lại mang đi bán, mỗi người bán được hai lạng vàng. Từ Châu đông lại bán đến
Giao Chỉ, bán được ba lạng vàng, mỗi năm bán ra mấy trăm gần nghìn người, nếu
ai có năng khiếu nghệ thuật thì bán giá gấp đôi, hiểu biết văn sách thì hơn
bán được hơn hai lần nữa. Lấy khăn che mặt đi đường, đầu ngẩng lên để không
nhìn thấy đường mà biết là đi đâu. Ra khỏi nước, họ chỉ biết người chủ và phải làm
nô lệ cả đời, trên trán bị khắc 4-5 chữ, đàn bà con gái thì khác chữ vào eo. Họ bị
bắt giữ đánh đập nếu chạy trốn sẽ bị giết chết” [75]
Ở thời nhà Nguyên, khi Đại Việt trong thời kỳ triều Trần, vì triều Trần áp dụng
12
chính sách phong tỏa, mậu dịch của hai nước Trung - Việt đã bị ảnh hưởng nghiêm
trọng, nhưng hai dân biên giới trên sinh hoạt vẫn cần phải đi lại trao đổi. Mậu dịch
dân gian thời kỳ này vẫn được tiến hành. Hàng hóa của Đại Việt có bạc trắng, đồng,
thiếc, ngà voi, lông thú, quế, cau…đổi với hàng Trung Quốc là lụa, thổ cẩm, vải,
lược ngà, giấy và đồ đồng, đồ sắt.
Mậu dịch của thời Minh vẫn có đường thủy và đường bộ, vì đi đường thủy số
lượng vận chuyển lớn và nhanh, thuận tiện. Họ đã mở Phường Thành, Phật Đào hai
đường thủy Tao, Ninh Việt, Dung Luân hai trạm thế vận chuyển, Phật Đào, Long Môn.
Huyện Linh Sơn có Long Môn, An Xuyên. Hai mã Tao, An Hà, Cơ Mu là hai trạm vận
chuyển. Thiên Mã Sao huyện Khâm châu là trạm đường thủy và đường ngựa đều đi
được. Đại Việt cũng có thiết lập An Thủy Sao của Tĩnh An Châu, Đồng An trạm vận
chuyển, Vạn Ninh Thủy Tao, Vạn Ninh trạm vận chuyển của huyện Vạn Ninh.
1.2. Khái quát sự phát triển của mậu dịch Trung - Việt thời cận đại
Bảng 1.1. Tình hình cửa khẩu biên giới tỉnh Quảng Tây TQ và VN
Cửa khẩu Trung Quốc Cửa khẩu Việt Nam
Móng Cái Đông Hưng
Đồng Đăng Bằng Tượng
Hữu Nghị Quan Hữu Nghị Quan
Tà Lùng Thủy Khẩu
Trà Lĩnh Long Bang
Hoành Mô Động Trung
Chi Ma Ái Điểm
Bình Nhi Quan Binh Nhi Quan
Hạ Lang Khoa Giáp
Xin Mần Đo Lông
Pò Peo Nhạc Vu
Sóc Giang Bình Mãng
13
Nhà Thanh từ Trung Quốc sang Việt Nam bằng đường bộ chủ yếu qua 7
con đường, ở tỉnh Quảng Tây có 5 đường đi. Con đường thứ nhất là từ Bằng Tường,
Quảng Tây thông qua thị Trấn Nam Quan (nay là Hữu Nghị Quan), đi vào Văn Uyên,
Việt Nam (nay là Đồng Đăng, tỉnh Lạng Sơn Việt Nam). Đây là đường chỉ dùng để
vận chuyển đồ cống cho triều đình thương khách dân gian không được đi lại.
Đường thứ hai là từ Bằng Tường, Quảng Tây đi sang Văn Uyên, Thoát Lãng,
Lạng Sơn. Đường thứ ba là từ Phủ Tư Minh (nay là huyện Ninh Minh) qua Ma
Thiên Lĩnh, qua Tư Linh, Lộc Bình Nhì Châu đến Việt Nam.
Đường thứ bốn là từ Dật Long Châu Bình (sau gọi là Quan, nay thuộc thành
phố Bằng Tường) sang Thất Uyên Châu Việt Nam. Đường thứ năm là Quan Long
Khẩu của Long Châu sang Đạt Long, Việt Nam.
Trong địa phận của tỉnh Vân Nam có hai đường đi: đường thứ nhất là Từ Mông
Tự qua Liên Hoa Than đi sang Trình Lan động Việt Nam; đường thứ hai là từ Dật
Hà Dương sang Việt Nam. Trước thời kỳ Càn Long (1736-1795) mậu dịch Trung -
Việt đóng cửa. Trong thời kỳ Càn Long, theo yêu cầu của vua Việt Nam, Nguyễn
Quang Bình, mới bắt đầu hồi phục thương mại mậu dịch.
Thời kỳ Dân Quốc, tiền lưu thông trên thị trường rất phức tạp, chế tạo của
Pháp lưu thông tại Việt Nam là đồng tiền xu Pháp Quang, tiền giấy Pháp giấy, còn
người Anh sử dụng tại Hồng Kông là đồng tiền Cảng Dương, tiền giấy gọi là Cảng
Giấy. Xưa khi Lục Vinh Đình cai quản Quảng Tây và năm 1918 phát hành đồng tiền
và tiền giấy “tiền Lão Quế” [31], dân biên giới gọi là “tiền Lão Lộc”.
Năm 1932, Lục Vinh Đình lại tiếp tục phát hành “tiền Quế”. Có hai loại tiền:
tiền đồng xu và tiền giấy, đồng thời, còn lưu thông nhiều loại tiền khác. Đến thế kỷ
20, những năm 40, nhất là năm 1946 - 1949, vì thời cuộc không ổn định nên đồng
tiền sử dụng còn hỗn loạn, phức tạp. Đồng tiền không ổn định, mất giá rất nhanh,
sáng tối tỷ lệ khác biệt rất lớn, chẳng hạn như buổi sáng số tiền có thể mua được
một đấu gạo, chiều thì chỉ đủ mua một nửa đấu gạo thôi.
14
Việt Nam sử dụng đồng tiền là của ngân hàng Hội Lý Đông Phương Pháp phát
hành “BO SHI TE”. Biến động tỷ giá ảnh hưởng lớn đến phát triển thương mại của
cả hai bên. Từ năm 1840, sau chiến tranh thuốc phiện, chính sách đóng cửa tự thủ
của Trung Quốc bị phá vỡ, hàng nhập từ phương Tây sang đến duyên hải đông Nam
bị bán phá giá , dần dần lan rộng vào lục địa, sau mấy chục năm sau đó, một số sản
phẩm mới từ ba tuyến đường vào biên giới Việt Trung.
Tuyến đường thứ nhất là Hương Cảng - Quảng Châu Ngô Châu - Nam Ninh -
Long Châu hoặc Bạch Sắc; tuyến thư hai là Hải Phòng Việt Nam - Hà Nội - Lạng
Sơn - Long Châu Quảng Tây Trung Quốc; Tuyến đường thứ ba là Hải Phòng Việt
Nam - Hà Nội - Lào Cai - Hà Khẩu, lúc đó thuộc tỉnh Quảng Đông, Đông Hưng -
Móng Cái Việt Nam cũng là một điểm mậu dịch, nhưng không bằng Long Châu -
Lạng Sơn, Hà Khẩu - Lào Cai phồn vinh.
Khi đó giao thông không thuận lợi, đường bộ quốc lộ rất ít, giao thông vận
chuyển đắt, các phương tiện vận chuyển thô sơ. Chủ yếu là do người gánh ngựa thồ,
lượng vận chuyển có hạn. Vận chuyển bằng thuyền đi theo đường thủy rất lớn, nó
vừa thuận lợi, vừa rẻ cho nên những thị trấn gần bờ sông từ từ phát triển, trở lên
phồn vinh. Long Châu nhờ vào sông Lệ Giang (nay là sông Tả) nguồn chảy từ Việt
Nam, đi theo dòng sông Chảy, qua tổng Tà, Phục Thuận, dọc theo nước chảy
về phía đông, qua Quý Cảng, Ngô Châu đến Quảng Châu.
Hà Khẩu dựa vào sông Nậm Thi. Mặc dù Đông Hưng có đường biển, phía nam
có thể đi đến Hồng Kỳ, Hải Phòng, miền Bắc có thể đi đến được Bắc Hải, Hồng
Kông, nhưng đường lộ không có đường sông và cũng không có con đường lộ lý
tưởng, vì vậy không tốt bằng Long Châu, Hà Khẩu phát triển và thịnh vượng. Đến
thời kỳ Dân Quốc, hàng ngoại đã đi vào thị trường Trung Việt nhiều năm .
Có hai loại muối ăn, muối chín và muối thô. Muối chín nhỏ mịn, nhưng hương
vị không ngon bằng muối biển, giá đắt hơn so với muối thô. Muối biển giá rẻ nhưng
thô. Sức mua của dân biên giới không cao, thường mua muối biển.
Ở Quảng Tây, đi theo đường bờ biển Hòa Phổ, Bắc Hải, Khâm Châu làm bằng
15
muối biển, họ gánh đến Ngọc Lâm, chuyển qua Hằng Châu, Nam Ninh và sau đó
bán ra biên giới. Biên giới Vân Nam cũng có hai con đường chuyển muối ăn,
một đường là được vận chuyển từ đất liền là muối giếng (còn gọi là muối nấu chín)
và một con đường khác là dọc theo sông Hồng vận chuyện muối biển đến Hà Khẩu
- Lào Cai Việt Nam.
Lúc đó, biên giới chưa có đèn điện, dân biên giới ban đêm đốt đèn dùng dầu,
không có đều kiện dùng giá cao dầu tây (kerosene, dầu hỏa), chỉ có thể dùng những
dầu tự sản xuất như dầu trẩu, dầu vừng, dầu hạt cải.
Mối quan hệ của Trung Quốc với Việt Nam có hai ngàn năm lịch sử. Có thể
nói, trong quan hệ giữa Trung Quốc và các nước Đông Nam Á thì quan hệ giữa
Trung - Việt thân mật nhất.
Pháp xâm lược Việt Nam, không chỉ muốn xâm chiếm mà còn muốn phá hoại
mối quan hệ truyền thống Trung - Việt . Hơn thế nữa, Việt Nam biên giới giáp
với tỉnh Quảng Tây, Vân Nam Trung Quốc, mục tiêu quan trọng của Pháp là muốn
lợi dụng Việt Nam làm cơ sở để xâm lược Trung Quốc. Đối với chính sách xâm
lược và chiến tranh của Pháp, chính phủ nhà Thanh ban đầu có thái độ khá kiên
quyết, nhưng trong chiến tranh thời kỳ đầu với sự thất bại của quân Thanh, lập
trường của chính phủ nhà Thanh đã phát sinh biến đổi.
Chính sách cơ bản của chính phủ nhà Thanh là để tránh chiến tranh cầu hòa,
nhân nhượng và nhượng bộ. Ngày 09 tháng 06 năm 1885, Lý Hồng Chương [20]
đại diện cho chính phủ nhà Thanh và đại sứ viên Pháp tại Trung Quốc Bade Nuo đã
ký “Trung - Pháp hội định điều khoản Việt Nam” hoặc gọi là “Hiệp ước Trung -
Pháp”. Trong hiệp ước này, chính phủ nhà Thanh chính thức công nhận Pháp là
thực dân thống trị Việt Nam.
Kể từ đó, cắt đứt quan hệ quan phương truyền thống giữa Trung Quốc và Việt
Nam đã kéo dài hơn 2000 năm. Sau khi các cường quốc phương Tây chiếm đóng
các nước khu vực Đông Nam Á, biến các nước này thành thị trường tiêu thụ hàng
hóa, nơi đầu tư và nơi cung cấp nguyên liệu của chúng. Do Trung Quốc với khu vực
16
Đông Nam Á về mặt địa lý tiếp giáp với nhau và có quan hệ lịch sử lâu đời gắn bó
chặt chẽ, vì vậy trong triều đại nhà Thanh hệ thống thực dân, Trung Quốc và Đông
Nam Á quan hệ thương mại đã được tiến lên phát triển hơn nữa.
Cuối thể kỷ XIX, từ ba nước Việt Nam, Campuchia, Lào, người Pháp đã thành
lập Liên bang Đông Dương. Từ đó, Trung Quốc và Liên bang Đông Dương mức
mậu dịch của năm 1897 là 103,5 lạng (tiền hải quan). Năm 1898 là 170,5 lạng, năm
1899 là 255,7 lạng, năm 1990 là 228,9 lạng, năm 1906 là 555,5 lạng, năm 1907 là
1091,7 lạng. Cho dù, đồng tiền có hạ xuống một chút, nhưng nó vẫn giữ được giá trị
cao. Năm 1916 là 502,9 lạng, năm 1917 là 408,4 lạng, năm 1907 là 1091,7 lạng
[55].
Khi Trung Quốc mới thành lập, ngày 05 tháng 12 năm 1949, Chủ tịch nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Hồ Chí Minh đã gửi điện đến chúc mừng Chủ tịch
Mao Trạch Đông. Ngày 14 Tháng 01 năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố
“Việt Nam sẽ sẵn sàng chuẩn bị thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước tôn trọng
quyền bình đẳng, lãnh thổ chủ quyền của nước Việt Nam và chủ quyền quốc gia của
các nước”[33]. Ngày hôm sau, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam - Hòang Minh
Giám đã gặp Thủ tướng Trung Quốc kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Chu Ân Lai. Việt
Nam công nhận Trung Quốc mới và quyết định thiết lập quan hệ ngoại giao với
nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, chính phủ Trung Quốc và cùng nhau phái đại
sứ trao đổi đi lại giữa hai quốc gia. Ngày 18 tháng 1 năm 1950, Bộ trưởng Ngoại
giao Trung Quốc Chu Ân Lai đã gặp gỡ Bộ trưởng Ngoại giao Việt Hoàng Minh
Giám: Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa công nhận Chính phủ nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa là một chính quyền hợp pháp thay mặt cho ý chí của nhân
dân Việt Nam. Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Chính phủ nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng thiết lập quan hệ ngoại giao và cùng phái đại
sứ trao đổi, để củng cố mối quan hệ ngoại giao của hai nước, tăng cường tình hữu
nghị và hợp tác giữa hai nước. Như vậy, ngày 18 tháng 01 năm 1950, Việt Nam và
Trung Quốc đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Việt Nam là nước Đông
17
Nam Á đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, Trung Quốc là nước
đầu tiên trên thế giới công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Ngày
02 Tháng 09 năm 1945, Việt Nam tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Tháng 12 năm 1946, quân đội Pháp tại Việt Nam đã phát động một cuộc tấn
công vũ trang toàn diện. Vào tháng Giêng năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến
Bắc Kinh, đề nghị Trung Quốc cung cấp hỗ trợ cho Việt Nam để chống Pháp. Năm
1950 chính phủ Trung Quốc đã cử các cố vấn quân sự cho đoàn đại biểu Việt Nam.
Với sự hỗ trợ của chính phủ Trung Quốc, Việt Nam triển khai Chiến biên giới
và chiến dịch Điện Biên Phủ một chiến dịch có tính chất quyết địch toàn diện chiến
thắng của Việt Nam. Tháng 01 năm 1950 thiết lập lại quan hệ ngoại giao đến năm
1960, thương mại giữa hai nước đi theo con đường phát triển bình thường.
Năm 1950-1954, Việt Nam vẫn đang trong thời gian chiến tranh chống Pháp. Tình
hình phát triển thương mại bị ngưng trệ nhưng trong năm 1950, mức thương mại
của Trung Quốc và Việt Nam là 10 vạn đô la. Việt Nam và Trung Quốc trong năm
1952 đã ký một hợp đồng thương mại đầu tiên. Đến năm 1978 Trung - Việt đã chấm
dứt quan hệ mậu dịch. Tuy nhiên, mỗi năm hai bên vẫn ký kết hiệp định thương mại
và giấy hợp đồng đổi hàng.
Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc có thực phẩm, nông sản phẩm, động vật
và sản phẩm từ động vật, quặng thiếc và nhập khẩu từ Trung Quốc muối, gạo, sản
phẩm công nghiệp, vải cây, sợi bông, dược phẩm, hóa chất... Năm 1953, mức
thương mại giữa hai nước đã tăng trưởng nhanh chóng, tăng gấp ba lần so với năm
1952. Đến năm 1950, xuất khẩu hàng hóa so với năm 1953 tăng hơn gấp đôi. Từ
năm 1952 - 1954, sản xuất nông nghiệp Việt Nam do ảnh hưởng kéo dài của chiến
tranh, đời sống của người dân khó khăn, nhập khẩu chủ yếu là lương thực, vải,
thuốc men và các hàng tiêu dùng cần thiết. Năm 1954, sau khi ký Hiệp Định
Genevơ [17], sự rút lui của quân đội Pháp ở miền Bắc Việt Nam, phía bắc vĩ tuyến
17 hoàn toàn được giải phóng. Việt Nam hàn gắn vết thương chiến tranh và xây
dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa.
18
Năm 1954 - 1964, Trung Quốc xuất khẩu hàng hóa vào Việt Nam ngoài các
loại hàng tiêu dùng ra còn có thép, hóa chất, máy móc, thiết bị, vật liệu chịu lửa, xe
lửa, máy công cụ cắt kim loại, thỏi nhôm và các sản phẩm ngành công nghiệp nặng
khác, nhằm phục hồi và phát triển của ngành công nghiệp nặng tại Việt Nam. Trên
cơ sở nguyên liệu sẵn có, Việt Nam xuất khẩu sang một bộ phận hàng công nghiệp
như xi măng, gang thép, vải bông trắng, máy móc... Sự phát triển thương mại Việt
Nam – Trung Quốc thời kỳ này là rất nhanh. Năm 1955 tổng mức nhập khẩu tăng
hơn gấp đôi với năm 1954, sau đó từng năm tăng dần, từ năm 1956 với 47.920.000
nhân dân tệ đến năm 1964 tăng lên 74780 USD, tăng 64% so với năm 1956, năm
1964 hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc lần đầu tiên vượt quá 20 triệu
USD, tăng 39% so với năm 1956 [36]. Nhìn chung, những năm 50 thế kỷ 20, mậu
Dịch của Việt Nam với Trung Quốc mới bắt đầu kinh doanh, mức thương mại tương
đối nhỏ. Đến năm 1950 sau, mức thương mại mậu dịch của hai nước gia tăng rất lớn,
năm 1960 đạt đến 8331 vạn USD và những năm sau đó mỗi năm bình quân cũng
khoảng trên 6000 đô la Mỹ. Tháng 7, năm 1955, Việt Nam và Trung Quốc đã ký
Hiệp ước về vấn đề công ty thương mại địa phương quốc doanh của hai nước trao
đổi hàng, thương mại quốc doanh địa phương chủ yếu là mậu dịch quốc gia cấp tỉnh,
mậu dịch địa phương quốc doanh làm theo nguyên tắc “Bình đẳng và cùng có lợi,
hỗ trợ lẫn nhau” yêu cầu xuất nhập khẩu cân bằng, mậu dịch quốc doanh cấp huyện
bù đắp cho sự thiếu thốn của thương mại quốc doanh cấp tỉnh. Theo bản hiệp ước
quy định liên quan, một số địa phương của tỉnh Quảng Tây, Vân Nam sẽ phân biệt
với các cơ quan thương nghiệp của các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Lương Sơn, Việt
Nam ký kết giao ước trao đổi hàng hóa. Tháng 09 năm 1956 công ty mậu dịch tỉnh
Vân Nam cùng với tỉnh Hà Giang, phía tây bắc Khu tự trị dân tộc Thái, Mèo (nay là
tỉnh Lai Châu) Việt Nam. Cũng năm 1956, Công ty lâm nghiệp tại Côn Minh đã ký
kết Hợp đồng xuất nhập khẩu mậu dịch quốc doanh địa phương Điền Việt. Tỉnh
Vân Nam và Việt Nam đã xác định mức xuất nhập khẩu giữ trong vòng 1,5 triệu
nhân dân tệ mỗi năm, số tiền này đã được sử dụng mãi cho đến năm 1969 khi Việt
19
Nam chấm dứt hợp đồng, kéo dài 14 năm. Các chuyến hàng đi từ Côn Minh, đến ba
cửa khẩu: cửa khẩu Hà Khẩu, Sông Kim Hà, cửa khẩu Thiên Bảo giao nhận hàng
hóa. Cả hai bên hàng đổi hàng, đổi hàng còn thừa thì ghi sổ sách kế toán, thanh toán
bằng ngân hàng, hàng hoá của công ty thương mại quốc doanh Tỉnh Vân Nam trao
đổi nhập khẩu hàng về, có thể được bán trên địa bàn tỉnh. Trong tháng 06 năm 1958,
đại biểu Trung - Việt đã ký Hiệp ước hội đàm vấn đề mậu dịch mức nhỏ, quy định
giữa hai công ty, công ty mậu dịch dân gian huyện Hà Khẩu và công ty mậu dịch
Lâm Thổ Sản Lào Cai Việt Nam triển Khai khinh doanh mậu dịch số lượng nhỏ,
hạn chế mức mậu dịch là trong vòng 10% của mức thương mại của quốc doanh tỉnh
Vân Nam - Việt Nam, phương thức mậu dịch giống như mậu dịch quốc doanh cấp
tỉnh. Từ năm 1958 - 1965 trong tám năm thực hiện hợp đồng giữa các công ty
thương mại quốc doanh cấp huyện, công ty xuất nhập khẩu và xuất huyện Hà Khẩu
tổng số mậu dịch là 1.597.598 nhân dân tệ, trong đó xuất khẩu nhân dân tệ 82 vạn
9398 và nhập khẩu 76vạn 8.200 nhân dân tệ. Khối lượng xuất nhập khẩu trung bình
trong năm là 19 vạn 9.700 nhân dân tệ. Năm 1966 “Cách mạng Văn hóa” bắt đầu,
chấm dứt thương mại quốc doanh cấp huyện. Ở Quảng Tây, các công ty thương mại
quốc doanh địa phương với các công ty thương mại quốc doanh tương đương Việt
Nam chỉ có một vài thương nhân. Hàng xuất khẩu chủ yếu là vải bông, hạt giống
lúa mì, giống trâu bò, thực phẩm, máy móc nông nghiệp, xe ngựa, bóng đèn, phích
nước, pin và hàng tiêu dùng và văn phòng phẩm, mỹ phẩm... Hàng nhập khẩu chủ
yếu là dầu hỏa, muối biển, xi măng đá phosphate, pin chiếu sáng, rau, chuối, mây,
mục nhĩ, các loại thảo mộc, thủy hải sản, lạc, dâu tây...
Sau Hội nghị Geneve 1954, về khôi phục hòa bình ở Đông Dương, Hoa
Kỳ ngay lập tức không giữ lời hứa của mình. Tháng 8 năm 1964, Hoa Kỳ đã tạo ra
“Sự kiện Vịnh Bắc Bộ”[42] để lấy cớ, bắt đầu ném bom vào miền Bắc Việt Nam,
trực tiếp đưa quan sang xâm lược Việt Nam. Về vấn đề này, chính phủ Trung Quốc
tuyên bố “Mỹ xâm phạm đến Việt Nam, là xâm phạm đến Trung Quốc, nhân dân
Trung Quốc sẽ không bao giờ ngồi xem mà không cứu”[3]. Do cuộc đấu tranh
20
chung của Việt Nam và Trung Quốc, Hoa Kỳ không trong trường hợp có thể chiến
thắng trong chiến tranh. Tháng 11 năm , Mĩ đã công bố vô điều kiện chấm dứt ném
bom vào miền Bắc Việt Nam và trong tháng 01 năm 1969 bắt đầu cuộc đàm phán
tại Paris Pháp. Năm 1973, Mỹ và chính quyền Ngụy ở chiến trường miền Nam Việt
Nam đã bị tấn công toàn diện, quân đội Mỹ đã buộc phải tuyên bố ngừng chiến và
vô điều kiện rút quân đội Mỹ xâm lược ra khỏi Việt Nam. Năm 1975, chiến dịch Hồ
Chí Minh đã kết thúc hơn nửa thế kỷ chiến tranh tại miền Nam. Việt Nam
đã đạt được chiến thắng thống nhất đất nước, giải phóng dân tộc. Theo thống kê
chưa đầy đủ, từ năm 1950 đến tháng 03 năm 1978, Trung Quốc trợ giúp vật chất
Việt Nam tổng giá trị trên 20 USD, bao gồm cả vũ khí và đạn dược, vật tư quân sự,
quần áo, thực phẩm, xăng dầu. Tính theo trọng lượng, ở giai đoạn này, Trung
Quốc đã cung cấp hỗ trợ cho hơn 100 tấn nguyên liệu hàng năm cho Việt Nam. Trợ
giúp vật chất của Trung Quốc sang Việt Nam là một sự hỗ trợ mà bất kỳ nước nào
khác không thể so sánh được. Từ năm 1978 đến năm 1990, thương mại giữa Việt
Nam – Trung Quốc là thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Tổng Bí thư Đỗ Mười năm 1991
trong chuyến sang thăm Trung Quốc đã tiến hành cuộc hội đàm với chủ tịch Giang
Trạch Dân, lãnh đạo của hai nước Việt Nam và Trung Quốc đã cùng ký bản “Công
Báo Liên Hợp Trung Việt”, kết thúc kéo dài 12 năm trạng thái bế tắc của hai bên.
Năm 1999, các nhà lãnh đạo của hai bên Trung - Việt cùng xác định 16 chữ phương
châm về phát triển quan hệ của hai nước “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện,
ổn định lâu dài, hướng về tương lai”. Năm 2000, hai nước đã ban hành “Tuyên bố
chung về hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới”[32], để cho thế kỷ 21 quan hệ Trung -
Việt hữu nghị láng giềng tốt và hợp tác toàn diện giữa sự phát triển lành mạnh và ổn
định đã đặt một cơ sở kiên cố vững chắc .
1.3. Một số thành tựu về mậu dịch của hai nƣớc Trung - Việt
Kể từ khi mối quan hệ hai nước bình thường hóa, quan hệ thương mại giữa
Việt Nam và Trung Quốc đã phát triển nhanh chóng, đạt tốc độ tăng trưởng rất cao.
Năm 1966, Trung Quốc chỉ là đối tác thương mại lớn thứ sáu của Việt Nam. Đến
21
năm 1998, Trung Quốc trở thành đối tác lớn thứ năm của Việt Nam. Đến năm 2001,
Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ ba của Việt Nam. Từ năm 2004
đến nay, Trung Quốc liên tiếp là đối tác lớn nhất của Việt Nam.
1.3.1. Mậu dịch Trung – Việt giai đoạn 1991 - 2000
Ở Giai đoạn này, hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc với tỷ lệ tăng
trưởng trung bình hàng năm là 78,42%. Nhưng chỉ từ năm 1991 - 1995 số lượng
xuất khẩu đạt đến 116,52% tỷ lệ tăng trưởng trung bình, cùng một thời kỳ với tỷ lệ
tăng trưởng xuất khẩu bình quân cả nước lên tới 6,54 lần. Sự bùng nổ của tốc độ
tăng trưởng kinh tế do Việt Nam bắt đầu cải cách và mở cửa. Trong thời gian này,
mối quan hệ Việt Nam với Mỹ còn chưa bình thường hóa, Việt Nam chưa gia nhập
vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Thứ hai, sự sụp đổ của Liên Xô và các
nước Đông Âu đã làm mất mối quan hệ truyền thống thương mại với Việt Nam.
Thứ ba, Trung Quốc và Việt Nam là láng giềng gần gũi là thị trường lớn nhất của
Việt Nam, giao thông vận tải thuận tiện đã mang lại rất nhiều thuận lợi cho thương
mại của hai bên.
Biểu đồ 1.1: Tốc độ tăng trưởng của kim ngạch xuất, nhập khẩu
giai đoạn 1991 – 2000
Nguồn tư liệu: Viện Nghiên Cứu Trung Quốc
22
Giai đoạn từ năm 1996 đến năm 2000, Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc
hàng hóa với tỷ lệ tăng trưởng trung bình là 40,5%, thấp hơn so với giai đoạn
trước đó, nhưng vẫn còn cao hơn so với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân của
Việt Nam ở giai đoạn này là 1,8 lần. Vẫn ở thời kỳ này, hàng hóa của Việt Nam xuất
khẩu sang Trung Quốc giảm tăng trưởng vì thương mại của Việt Nam bị ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Nhưng đến năm 2000, số lượng xuất khẩu
của Việt Nam sang Trung Quốc phát triển nhanh chóng, đạt 1.05 tỷ USD, đây là
lần đầu tiên xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc vượt quá hơn ranh giới 1
tỉ USD. Về phần Nhập khẩu từ năm 1991 đến năm 1995, tốc độ tăng trưởng nhập
khẩu trung bình đã tăng 87,8%. Để đáp ứng nhu cầu hàng tiêu dùng của người dân
Việt Nam, để phát triển các ngành công nghiệp, nông nghiệp, Việt Nam đã nhập
khẩu hàng hóa cỡ hàng lớn từ Trung Quốc. Từ giai đoạn năm 1996 đến năm 2000
Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc số lượng hàng hóa tăng trưởng khá ổn định.
Bảng 2: Tình hình xuất nhập khẩu Trung - Việt từ năm 1991 đến năm 2000
Kim ngạch Kim ngạch Mậu dịch bằng xuất nhập khẩu
xuất khẩu nhập khẩu Năm Tỷ giá nhập khẩu (Đô la Mỹ) (Đô la Mỹ) (Đô la Mỹ) (%)
1991 19.1 +3.7 +0.7 18.4
1992 95.6 +66.7 +63.8 31.8
1993 135.8 +37 +50.3 85.5
1994 295.7 +151.5 +51.2 144.2
1995 361.9 +8.9 +32.2 329.7
1996 340.2 +3.3 +11.2 329.0
23
1997 474.1 404.4 +69.7 +14.7
1998 440.1 515.0 -74.9 -17
1999 746.1 683.4 +63 +8.4
2000 1536.4 1401.1 +135.3 +8.8
Nguồn tư liệu: Vụ châu Á-Thái Bình Dương. Bộ Công Thương đơn vị triệu USD, tỷ giá %
Thời kỳ này, Việt Nam tổng giá trị nhập khẩu là 3.332.9 triệu USD tăng 5,46 lần
so với giai đoạn 1991 - 1995. Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu năm 1997 là 22,9%,
năm 1999 là 32%, vào năm 2000 tốc độ tăng lên dữ dội đến 105%. Trên cán cân
thương mại, giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2000 Việt Nam đã được duy trì bởi
thặng dư xuất khẩu. Chỉ riêng năm 2000, Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc
thặng dư lên tới 135.300.000 USD. Năm 1991 đến năm 2000 tổng thặng dư
đạt 502.800.000 USD chiếm 185,7% lượng tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam
sang Trung Quốc [7]. Nhưng điều đáng chú ý rằng ở giai đoạn này xuất khẩu của
Việt Nam sang Trung Quốc thặng dư tăng giảm không ổn định.
1.3.2 . Mậu dịch Trung – Việt giai đoạn 2001-2006
Giai đoạn này của sự phát triển của quan hệ thương mại giữa hai nước là rất ổn
định, vượt quá mục tiêu của lãnh đạo hai nước đã nêu ra, là thực hiện tỷ lệ tăng
trưởng trung bình của hàng nhập khẩu và xuất khẩu đạt 27,4%, nhiều hơn so với Mỹ
và Nhật Bản và Việt Nam trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc.
(Trong năm 2004, tổng lượng hàng nhập khẩu và xuất khẩu đạt của Mỹ và Việt
Nam là 6.0119 tỷ USD, Việt Nam và Nhật Bản là 7.0055 tỷ USD và tổng lượng
nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc đã lên đến 7.0192 USD) [5].
Giai đoạn 2001 - 2006, Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc tỷ lệ tăng trưởng
bình quân hàng năm 35,6%, năm 2001 trong lịch sử của một thương mại, nghiên
cứu và phát triển chiến lược hiện tại và trong tương lai là 1,04 tỷ USD, trong năm
2006 đạt mức 30 tỷ USD.
24
Bảng 3.1: Tình hình xuất nhập khẩu ở khu vực biên giới Việt – Trung
giai đoạn 2001 – 2006
(Đơn vị: tỷ đô la Mỹ)
Kim ngạch xuất Kim ngạch nhập Mậu dịch bằng Năm khẩu khẩu nhau
2001 1417.4 1606.2 -188.8
2002 1518.3 2158.8 -640.5
2003 1883.1 3138.6 -1255.5
2004 2735.5 4456.5 -1721
2005 2961 5778.9 -2817.9
2006 3030 7390 -4360
Nguồn tư liệu: Viện nghiên cứu Trung Quốc
Đồng thời, giai đoạn này Việt Nam nhập khẩu hàng hóa của Trung Quốc tốc độ
cũng tăng lên rất nhanh, năm 2001 là 1.06 tỷ USD, năm 2006 đã tăng đến 7.04 tỷ
USD. So sánh tỷ lệ xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc, có thể thấy Việt
Nam nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc nhiều hơn so với xuất khẩu hàng hóa sang
Trung Quốc, dẫn đến sự nhập siêu hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc.
Biểu đồ 2.1: Tốc độ tăng trưởng của kim ngạch xuất, nhập khẩu
giai đoạn 2001 - 2002
Nguồn tư liệu: Viện Nghiên cứu Trung Quốc
25
Thông qua các số liệu thống kê, có thể thấy sự thương mại giữa Việt Nam và
Trung Quốc mất cân bằng. Mặc dù, giai đoạn 2001 - 2006 hàng hoá của Việt Nam
xuất khẩu sang Trung Quốc đang phát triển rất nhanh, nhưng so với hàng hóa xuất
khẩu của Trung Quốc sang Việt Nam tỷ lệ vẫn còn thấp. Việt Nam từ năm 2001 đến
năm 2006 liên tục nhập khẩu lớn hơn xuất khẩu. Sự cân bằng chênh lệch từ năm
2001 là 1.089 USD vào năm 2006 tăng đến 4 tỉ USD [40]. Nguyên nhân chính là
sức cạnh tranh của các công ty Việt Nam với công ty Trung Quốc vẫn còn thấp. Đặc
biệt là hàng Trung Quốc giá rẻ, chủng loại kiểu cách phong phú để đáp ứng hầu hết
nhu cầu của người tiêu dùng.
1.3.3. Mậu dịch Trung – Việt giai đoạn 2007 - 2014
Phát triển nhanh chóng của thương mại giữa Trung Quốc và Việt Nam trong
giai đoạn này, từ năm 2006 sau khi Việt Nam gia nhập WTO, tốc độ tăng trưởng
phát triển mỗi năm tăng lên. Trong hợp tác thương mại giữa Việt Nam và Trung
Quốc, Trung Quốc trong nhiều năm duy trì xuất khẩu sang Việt Nam nhiều hơn là
nhập khẩu. Theo thống kê của Bộ Thương vụ Trung Quốc, trong năm 2008, số
lượng xuất nhập khẩu thương mại của Trung Quốc với Việt Nam là 19,46 tỷ USD,
tăng 28,8% so với năm trước, trong đó xuất khẩu của Trung Quốc là 15,12 tỷ USD
tăng 27,2%; nhập khẩu 43.4 tỷ USD tăng 34,6%, sự bội thu thương mại của Trung
Quốc là 6.78 tỷ USD. Theo thống kê của hải quan Trung Quốc, trong năm 2009,
tổng lượng nhập khẩu và xuất khẩu giữa Trung Quốc và Việt Nam 21,05 tỷ USD,
tăng 8,2%, trong đó xuất khẩu của Trung Quốc xuất khẩu sang Việt Nam là 16.39 tỷ
USD tăng 7,8%, nhập khẩu từ Việt Nam 4,75 tỷ USD, tăng 9,5%, sự bội thu thương
mại của Trung Quốc 11.55 tỷ USD. Từ năm 2004, Trung Quốc trong bảy năm liên
tiếp là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Năm 2010, Việt Nam trong Đông
Nam Á (ASEAN) là đối tác thương mại lớn thứ năm của Trung Quốc. Từ tháng
Giêng đến tháng 07 năm 2011, mức thương mại Trung - Việt là 21.52 tỷ USD. Tăng
40%. Trong đó, xuất khẩu của Trung Quốc là 15.92 tỷ USD đã tăng 35,8%. Nhập
khẩu là 5,6 tỷ USD, tăng 53,7%. Tính đến cuối tháng 7 năm 2011, Việt Nam đầu tư
26
đối thoại thực tế tích lũy lên tới 120 triệu USD. Năm 2012, một báo cáo của Ngân
hàng đầu tư tập đòan Hoa Kỳ cho biết: lợi ích kinh tế to lớn liên kết giữa Việt Nam
và Trung Quốc, có thể giúp ngăn chặn tình hình căng thẳng tiếp tục leo thang ở biển
nam Trung Quốc. Lãnh đạo và nhân dân hai quốc gia đang cố gắng bình thường hóa
quan hệ. Thống kê tháng 11 năm 2014 tại Việt Nam tổng giá trị nhập khẩu từ Trung
Quốc đã đạt 39,9 tỷ USD, so với cùng kỳ năm 2013 đã tăng 18,9%; đồng thời, 11
tháng trước khi thương mại Việt Nam - Trung Quốc sự nhập siêu đạt 26,4 tỷ USD,
so với cùng kỳ năm 2013 tăng 22,1% [41]. Những số liệu này cho thấy Trung Quốc
vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam. Đầu tháng 12 năm 2014, báo
chí Việt Nam theo trích dẫn phát ngôn của Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng
Hải cho biết: các nền kinh tế của Việt Nam và Trung Quốc liên kết chặt chẽ, nhập
khẩu và xuất khẩu liên quan đến thị trường Trung Quốc và ngược lại.
Hoạt động giao dịch tiền tệ ở khu vực biên giới Việt – Trung hiện nay diễn
ra trên phạm vi rộng. Ở lãnh thổ của Việt Nam thì diễn ra công khai, còn ở
lãnh thổ Trung Quốc thì diễn ra lén lút. Hoạt động của loại hình ngân hàng
này mang tính nhỏ lẻ, thiếu sự chuyên nghiệp, tính an toàn không cao. Nhưng
lại thuận tiện, nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu trao đổi, mua bán, giao thương
của những cư dân khu vực biên giới Việt – Trung.
1.4. Tiểu kết chƣơng 1
Như vậy, mậu dịch ở khu vực biên giới Việt – Trung có lịch sử phát triển lâu đời.
Mặc dù sự phát triển ấy có những bước phát triển thăng trầm khác nhau. Song tựu
chung lại, cho đến nay, tình hình phát triển của mậu dịch khu vực này đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn.
Trong suốt chiều dài lịch sử, sự phát triển mậu dịch khu vực này là minh chứng
về mối quan hệ thân thiết giữa Việt Nam và Trung Quốc. Quá trình phát triển của
27
mậu dịch khu vực biên giới Trung - Việt đã phản ánh rõ nét mối quan hệ của Việt
Nam và Trung Quốc trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Từ lịch sử lâu bền ấy, các hoạt động tiền tệ ở khu vực này đã diễn ra một cách
sôi động từ rất lâu. Nó phản ánh sự phát triển thịnh vượng, buôn bán, giao lưu, trao
đổi được diễn ra một cách mạnh mẽ.
28
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CỦA “NGÂN HÀNG TỰ PHÁT” TẠI BIÊN
GIỚI TRUNG - VIỆT
2.1. Thực trạng giao dịch, buôn bán ở biên giới Trung - Việt
2.1.1. Cơ cấu hàng hóa của Trung Quốc xuất sang Việt Nam
Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc chủ yếu là nguyên
liệu chưa thông qua gia công, giá trị thấp, lợi nhuận không cao. Hàng hóa xuất khẩu
chính của Trung Quốc đến Việt Nam là hàng hóa công nghiệp, máy móc, hàng tiêu
dùng và các sản phẩm tinh chế. Nó phản ánh mối quan hệ của ngành công nghiệp
hai nước. Bởi tài nguyên của hai nước không giống nhau và cả sự khác biệt của lực
lượng lao động và trình độ kỹ thuật.
Từ năm 1991 đến năm 1995, hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc
chủ yếu có nguyên liệu, sản phẩm nông nghiệp sơ chế, gạo, nguyên dầu, sản phẩm
bằng gỗ, cao su, than, kim loại màu, dầu dừa, hải sản, nông thổ sản, lâm sản,
khoáng sản, hoa quả, rau xanh, mây tre, dầu thực vật, chè lá, đồ nhôm.... Đến những
năm 90 thế kỷ trước, hàng hóa từ Việt Nam xuất khẩu sang Trung
Quốc bắt đầu định hình, chủ yếu là tài nguyên khoáng sản, dầu, than, hải sản, cao su
tự nhiên và các sản phẩm sử dụng nhiều lao động như giày dép, quần áo... Nhìn
chung, hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc được chia thành 4 loại:
Bảng 1.2: Bảng thống kê các loại sản phẩm Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc
ở khu vực biên giới Việt Trung.
Các sản phẩm Việt Nam xuất khẩu Tên sản phẩm sang Trung Quốc
Than đá, dầu thô, cao su tự nhiên, Nguyên liệu khoáng sản...
Lương thực, chè, rau và trái cây, hạt Các sản phẩm nông nghiệp điều...
29
Tôm, cá, cua ... Hải sản tươi sống và đông lạnh
Hàng thủ công giày dép, sản phẩm làm Hàng tiêu dùng hàng ngày bằng da ...
Nguồn: Tác giả thống kê; ngày 12/03/2014
Bảng 2.2: Những sản phậm tự Việt Nam xuất khẩu đến Trung Quốc
Đơn vị: Tỷ đô la Mỹ
Hàng hóa 1992 1993 1995 1996 1997 1998 1999 2000
3.48 16.88 1.20 1.13 87.21 58.60 59.47 64.89 1994 Hạt điều
2.93 8.29 12.00 0.09 32.81 51.54 51.65 222.97 Hải sản
1.70 0.11 10.00 27.31 3.55 2.02 3.68 3.06 Cà phê
0.80 0.30 0.19 0.10 0.31 Trà
1.67 1.15 Đừa
72.63 41.87 10.75 14.78 60.10 92.38 64.82 51.83 66.39 Cao su
0.31 3.33 Gỗ
1.72 0.63 Quặng
0.99 0.87 5.77 28.69 19.11 5.22 3.61 7.86 Than đá
7.95 2.09 Dầu dừa
31.72 7.60 106.42 16.67 87.77 86.70 331.66 749.02 Dầu tho
5.09 24.84 10.45 35.68 120.35 Hoa quả
24.05 3.17 0.33 5.51 0.49 Gạo
0.20 3.50 lạc
0.12 2.59 0.63 0.57 2.61 Hàng dệt
1.89 2.14 3.24 Giầy
1.42 3.50 Sản phẩm hóa chất
95.60 135.80 295.70 361.90 340.20 474.10 478.90 858.90 1.530.0 Tổng cộng
Nguồn tư liệu: Viện nghiên cứu Trung Quốc
Từ số liệu và bảng thống kê trên, chúng ta có thể thấy các sản phẩm nông sản và
các nguyên liệu thô xuất khẩu sang Trung Quốc chiếm một tỷ lệ cao và mang lại
30
những hiệu quả kinh tế nhất định cho Việt Nam. Trong năm 2000, riêng dầu xuất
khẩu giá trị đạt đến 0.75 tỷ USD và các sản phẩm hải sản có tổng giá trị xuất khẩu
đạt 0.220 tỷ USD. Rau, trái cây, hạt điều và cao su có số lượng xuất khẩu lớn.
Từ giai đoạn năm 2001 - 2006, so với giai đoạn năm 1996 - 2000, ngoài việc
xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp và nguyên liệu, Việt Nam còn xuất khẩu sang
Trung Quốc các mặt hàng như quần áo, giày dép, máy tính và linh kiện điện tử, mặc
dù các sản phẩm này chiếm các thành phần không cao mấy, nhưng tốc độ tăng rất
cao và ổn định.
Bảng 3.2: Cơ cấu hàng hóa từ Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc
2001 2002 2003 2004 2005 2006
Giá Giá
trị trị Năm Tỷ Tỷ Giá Tỷ Giá Tỷ Giá Tỷ Giá Tỷ (Tỷ (Tỷ
trọng trọng trị trọng trị trọng trị trọng trị trọng đô la đô la
Mỹ) Mỹ)
Kim
1417. 1518. 1883. 2735. ngạch 100 100 100 100 2961 100 3030 100 4 3 1 5 xuất
khẩu
18 173.6 11.4 174 9.2 48.2 1.8 62 2.1 65 2.1 Hải sản 253
10 77.8 5.1 86.6 4.6 137.6 34.9 1.2 24.6 0.8 Hoa quả 145
3.1 Hạt điều 30.3 2.1 38.3 2.5 53.5 2.8 70.2 2.6 97.4 3.3 94.5
0.2 3.9 0.3 6.9 0.4 5.9 0.2 7.6 0.3 15.9 0.5 Cà phê 2.6
0.5 0 1.7 0.1 0.3 0 19.2 0.7 12 0.4 12.4 0.4 Gạo
31
0.8 0.1 0.6 0 0.8 0 3.5 0 6 0 7.6 0.3 Trà
0.5 3.3 0.2 0.7 0 0.4 0 0 0 0.8 0 Hạt tiêu 6.6
Cao su 51.6 3.6 89.8 5.9 160 8.5 358 13.1 519.2 18 851.8 28.1
39 686.8 45.2 863 46 1471 53.8 1160 39 399.9 13.2 Dầu tho 559
Than đá 17.3 1.2 44.3 2.9 51.2 2.7 134 4.9 370.2 13 594.8 19.6
9.3 0.7 13.3 0.9 1.3 0.1 30.1 1.1 60.3 2 94.1 3.1 Gỗ
Hàng 7.8 0.6 2.1 0.1 7.3 0.4 14 0.5 8.1 0.3 29.7 0.9 dệt
5.1 0.4 7.3 0.5 10.9 0.6 19.2 0.7 28.3 0.9 42 1.4 Giầy
Phụ
kiện 2.7 0.2 3.6 0.2 21.1 1.1 21.6 0.8 74.6 2.5 73.8 2.4 máy
tính
Dây 0.2 0 0.6 0 1.6 0.1 7.7 0.3 11.6 0.4 điện
Nguồn: Thư viện Trung Quốc
Từ cơ cấu sản phẩm hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc, ta thấy
chủ yếu là nguyên liệu thô và than đá, đặc biệt là giai đoạn năm 2001 - 2006, tỷ
trọng xuất khẩu của dầu thô chiếm 40% trong cơ cấu xuất khẩu. Bởi vì Trung
Quốc đã bắt đầu thực hiện các ngành công nghiệp nặng và các giai đoạn công
nghiệp hóa, đô thị hóa đẩy nhanh tiến độ các ngành giao thông cũng đang phát triển
nhanh chóng. Đó là nhu cầu tăng trưởng năng lượng và nguyên liệu của Trung Quốc.
Sản phẩm thủy sản và các sản phẩm nông nghiệp xuất ra Châu Âu tỷ lệ đã giảm, bởi
vì Trung Quốc gia nhập WTO, chất lượng yêu cầu của sản phẩm nông nghiệp đòi
32
hỏi cao, các doanh nghiệp Việt không thích ứng với tình hình mới, cộng với Trung
Quốc và Thái Lan đã ký Hiệp định về rau xanh và trái cây. Từ đầu năm 2004, Trung
Quốc thực hiện mua bán rau quả tự do hóa, trong khi đó sản phẩm rau và trái cây
của Việt Nam mẫu mã ít, bao bì không đẹp mắt để mất lợi thế cạnh tranh của mình.
2.1.2. Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc sang Việt Nam
Giai đoạn 1991 – 2000, hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam chủ yếu về y học, nhiệt,
bông, hàng dệt kim, quần áo, bia, xà phòng bột, xe đạp, phân bón, hàng gia dụng ...
Trong thời gian từ năm 1996 đến năm 2000, nhập khẩu các hàng hoá loại lớn
gồm có máy móc nông nghiệp, máy móc gia công sản phẩm nông nghiệp, thiết bị
sản xuất xi măng, máy móc dệt may, thiết bị sản xuất phân bón và máy phát điện
nhỏ, xe tải nhẹ, sản phẩm sắt thép, vật liệu xây dựng, thiết bị y tế, thực phẩm, thuốc
trừ sâu. Giai đoạn năm 2000, hàng hóa của Trung Quốc xuất khẩu sang Việt Nam
chủ yếu là xe máy, sản phẩm điện tử, dầu tinh chế, hàng dệt may và kết hợp sản
phẩm đa dạng, cao hơn gấp đôi so với xuất khẩu hàng hóa từ Việt Nam sang Trung
Quốc. Giai đoạn này, Việt Nam nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc có năm loại:
Nguyên liệu: Các sản phẩm xăng dầu, xi măng, sắt, thép, vật liệu xây dựng,
thủy tinh, hóa chất, thuốc trừ sâu, phân bón, thuốc nhuộm. Thực phẩm, lương thực,
trái cây, bột mì, dầu thực vật, hạt giống. Hàng tiêu dùng, dược liệu, sản phẩm điện
tử, quần áo, đồ chơi. Năm loại sản phẩm nhập khẩu nói trên, máy móc thiết bị
chiếm 27,95%, nguyên liệu chiếm 19,7%, hàng hóa chiếm 47% [40]. Từ năm
2001 đến năm 2006 tại giai đoạn này, Việt Nam nhập khẩu hàng hóa từ Trung
Quốc chủ yếu có mười loại sản phẩm: sắt thép, thiết bị máy móc, máy tính, điện tử
linh kiện, phụ tùng xe máy, xe ô tô và phụ tùng, dược phẩm và nguyên liệu dược
phẩm… Trong số đó, lượng nhập khẩu trong năm 2001 là 100 triệu USD, đến năm
2006 các loại sản phẩm nhập khẩu đã tăng gấp đôi, giá trị nhập khẩu lên tới 10 tỷ
USD, quy mô lớn nhất là xăng dầu lên đến 500 triệu USD. Từ cấu trúc các loại sản
phẩm nhập khẩu xem, các loại phụ tùng linh kiện chiếm tỷ trọng tương đối lớn,
33
nhưng kết cấu hàng hóa từ Việt Nam sang Trung Quốc nguyên liệu chiếm tỷ lệ
tương đối lớn. Có thể thấy sự mất cân đối về phát triển kinh tế giữa hai nước
Trung - Việt .
2.1.3. Hình thức mậu dịch và các loại hàng hóa mua bán giữa Trung Quốc và
Việt Nam
Hình thức mua bán giữa Việt Nam – Trung Quốc là thương mại chính quy, buôn
bán nhỏ, thương mại biên giới. Hình thức thương mại chính quy của hàng hóa xuất
nhập khẩu là phải có giấy phép kinh doanh, những hàng hóa này lưu thông phải thông
qua cửa khẩu quốc tế hoặc cửa khẩu quốc gia, phải tuân thủ các thủ tục xuất nhập khẩu
thương mại quốc tế. Hình thức Buôn bán nhỏ là hàng hóa xuất nhập khẩu ở dạng giấy
phép ban hành của chính quyền nhân dân cấp tỉnh. Những hàng hóa này lưu thông chỉ
cần thông qua cửa khẩu cấp tỉnh, tuân thủ các thủ tục xuất nhập khẩu thương mại cấp
tỉnh là được. Hình thức thương mại biên giới là hai bên trực tiếp mậu dịch, hàng hóa
lưu thông, dân biên giới lấy hàng sản xuất của mình trực tiếp trao đổi. Hình thức
thương mại biên giới này đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng vùng biên giới. Giá thị
trường trao đổi hàng hóa của thị trường biên giới rất rẻ, hàng hóa cũng đã sẵn sàng.
Tuy nhiên, hình thức trao đổi hàng hóa này số lượng không được nhiều.
Bảng 4.2: Các loại sản phẩm xuất – nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc
( Đơn vị: Tỷ đô la mỹ)
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Đô la mỹ
1.629.13 2.158.79 3.122.32 4.459.45 5.778.91 7.390.91
Tổng số
Tốt độc tăng
14.47
32.51
44.63
42.73
29.67
27.89
trưởng
Đô la mỹ
1.112.83 1.260.68 1.881.19 2.814.86 3.544.78 4.338.08
Tổng số
Tỷ trọng
68.31
58.4
60.25
63.16
61.34
58.69
54.47
69.06
108.26
480.51
789.92
1.400.01
1. Gang thép và các
34
loại khắc kim loại phủ
thông
2.Máy móc,
219.36
347.91
446.8
607.19
817.56
1.200.07
thiếp bị
231.66
473.44
721.14
739.85
884.34
555.33
3. Các loại dầu
74,12
127,94
200,52
290.26
323,61
304,76
4. Các nguyên liệu
hàng dệt
5. Các loại
62.32
57.69
244.21
391.98
264.26
298.74
sản phẩm hóa chất
6. Các phụ
21.96
42.26
63.86
103.89
155.38
243.18
kiện điện tự và máy tính
433.23
121.89
47.71
92.73
134.9
121.81
7. Các phụ kiện xe máy
4.8
4.24
29.01
51.12
99.91
107.47
8. Phụ kiện xe o-tô
nguyên chất
5.05
10.42
12.96
22.37
35.24
59.73
9. Nguyên liệu cao su
10. Nguyên vật liệu và
5.59
5.83
6.744
34.86
39.66
46.98
các loại thuốc
898.11
1241.13
2234.13
3052.83
Tổng số
Đô la mỹ 516.3
31.69
41.6
39.75
38.66
41.31
Tỷ trọng
Nguồn tư liệu: Viên nghiên cứu Trung Quốc.
Những năm 90 thế kỷ 20, chính sách của nhà nước Trung Quốc không theo kịp
với xu hướng thị trường, xuất khẩu sang Việt Nam chủ yếu thông qua thương mại
biên giới, thương mại chính quy xuất khẩu gặp nhiều khó khăn.
35
Như vậy, việc nhập khẩu và xuất khẩu hàng hóa giữa hai nước chủ yếu thông
qua thương mại quy mô nhỏ và thương mại biên giới, ở giai đoạn này thương mại
số lượng nhỏ chiếm 80% tổng thương mại giữa hai nước. Ngày 07/11/ 1991, Việt
Nam và Trung Quốc đã ký một thỏa thuận thương mại giữa hai chính phủ, ở
giai đoạn này mậu dịch nhỏ và thương mại chính thức bắt đầu cân bằng, mỗi bộ
phận chiếm số tiền thương mại 40% - 50%. Đến giai đoạn hiện nay, sau khi Trung
Quốc gia nhập WTO, Trung Quốc phải thực hiện lời cam kết với WTO, do đó chính
sách ưu đãi biên giới dần dần điều chỉnh lại làm cho hợp với quy định quốc tế.
Thương mại biên giới giữa hai nước giảm xuống, chỉ chiếm 20% - 30% tổng lượng
thương mại của hai bên. Có thể nhìn thấy quan hệ thương mại giữa Việt Nam và
Trung Quốc đã đạt được những thành tựu nhất định. Nó phản ánh sự đa dạng phong
phú của việc trao đổi hàng hóa, các thành phần khác nhau trong xã hội đã tham gia
vào thương mại hai bên. Trong bối cảnh quốc tế, hai nước đã trở thành thành viên
của WTO, Trung Quốc và ASEAN đã nhất trí thành lập một khu vực thương mại tự
do. Việt Nam và Trung Quốc thông qua cơ chế “hai hành lang một vành đai” để
tăng cường mong muốn hợp tác giữa hai nước, thương mại giữa Việt Nam và Trung
Quốc sẽ có điều kiện phát triển nhanh chóng, chính sách thương mại giữa hai nước
sẽ từng bước phù hợp với tiêu chuẩn hóa thông lệ quốc tế, mang lại một triển vọng
tốt đẹp cho hợp tác thương mại giữa hai nước.
2.1.4. Tình hình phát triển kinh tế mậu dịch của của Việt Nam và Trung Quốc
những năm gần đây
Trong những năm gần đây, ngoài việc đẩy mạnh các quan hệ ngoại giao của
hai bên, quan hệ kinh tế và thương mại giữa hai nước cũng là một chiến lược toàn
diện theo hướng phát triển và đạt được kết quả tốt đẹp. Trong thời gian này, cơ cấu
xuất nhập khẩu hàng hoá của hai bên đã thay đổi không nhiều. Nhưng số lượng tăng
nhanh, đặc biệt là tăng trưởng về chất lượng. Theo số liệu thống kê của hải quan
Việt Nam, năm 2011, mức xuất nhập khẩu Việt Nam với Trung Quốc đạt đến 35,071
36
USD, so với năm 2010 tăng 30,7%. Trong khi đó, Việt Nam xuất khẩu với Mỹ là
21,045 tỷ USD, với Nhật Bản lên tới 21,018 USD. Lần đầu tiên, số lượng xuất khẩu
Việt Nam sang Trung Quố lên tới 11,012 USD, tăng 52,21%, nhập khẩu đạt 24,059
USD, tăng 22,85%.
Bảng 5.2. Bảng thống kê tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc
giai đoạn 2009 – 2011.
(Đơn Vị: Tỷ đô la mỹ, %)
Xuất Xuất Nhập Chênh Năm nhập khẩu Khẩu lệch khẩu
Kim Tăng Kim Tăng Kim Tăng Kim Tăng
Ngạch lên Ngạch Lên Ngạch Lên Ngạch Lên
2009 4.909 8.23 16.441 5.04 21.345 5.76 11.532 3.74
2010 7.309 48.89 20.019 21.76 27.327 28.00 12.710 10.22
2011 11.125 52.21 24.593 22.85 35.718 30.71 13.468 5.97
Nguồn tư liệu: Viện Nghiên Cứu Trung Quốc
Theo thống kê của hải quan Trung Quốc, năm 2011 tổng lượng nhập khẩu và
xuất khẩu hàng hóa của Trung Quốc lên tới 3642 tỷ USD, so với năm 2010 tăng
22,5%, trong đó hàng xuất khẩu lên tới 1898,6 USD, tăng 20,3%, hàng nhập khẩu
lên tới 1743,4 tỷ USD, tăng 24,9%, năm 2011 Việt Nam tổng số xuất khẩu sang
Trung Quốc đã lên đến 11,012 tỷ USD, chỉ chiếm 0,64% tổng lượng nhập khẩu của
Trung Quốc, nó rất dễ dàng để nhìn thấy tiềm năng của thị trường Trung Quốc xuất
khẩu rất lớn, để cho Việt Nam mang lại không gian xuất khẩu rộng lớn. Đặc biệt,
mậu dịch của cửa khẩu, các dịch vụ phát triển sôi động, thu hút rất nhiều lĩnh vực
kinh tế khác nhau tham gia, bao gồm doanh nghiệp nhà nước, công ty TNHH,
công ty liên doanh, doanh nghiệp nước ngoài, tập thể và cá nhân... và tích cực thúc
đẩy nền kinh tế - xã hội của các tỉnh ven biển cộng đồng phát triển, đồng thời mạnh
mẽ thúc đẩy sự phát triển của thị trường trong nước. Phát triển kinh tế cửa khẩu
37
cũng thúc đẩy một số lĩnh vực sản xuất. Sự phát triển của ngành phục vụ, tạo nên cơ
hội côngăn việc làm mới, tăng thu ngân sách địa phương, và thúc đẩy sự phát triển
của các khu vực biên giới để đô thị hóa cải thiện mức sống của nhân dân biên giới.
Đối với khu vực hành lang kinh tế, do lợi thế vị trí địa lý, trong những năm gần đây,
thương mại của hai bên phát triển nhanh chóng. Trong số đó, tỉnh Quảng Tây, Trung
Quốc là tỉnh duy nhất có đường kết nối bờ biển với Việt Nam, tỉnh Quảng Tây hợp
tác kinh tế và thương mại với Việt Nam đã phát triển trong nhiều lĩnh vực. Chẳng
hạn như thương mại, du lịch, năng lượng, bảo vệ môi trường, đường vận chuyển
bằng đường bộ và đường biển. Ngoài các thỏa thuận hợp tác đã ký kết giữa hai
Chính phủ, chính quyền tỉnh Quảng Tây cũng kết hợp với các cơ quan chức năng
Việt Nam, các đơn vị đã ký kết một số thỏa thuận hợp tác khác, như “hai hành lang,
một vành đai” [16] hợp tác và phát triểnđã tạo ra một điều kiện tốt đẹp hơn.
* Về mặt thương mại
Từ năm 2001 đến năm 2010, hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc đã
đạt được sự phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Để cả hai nước bước vào thế kỷ
21 có một sự hợp tác thương mại tốt đẹp hơn làm tiền đề, vì thế năm 2000, số lượng
thương mại hai bên lên tới 2,5 tỷ USD, lần đầu tiên vượt quá mục tiêu 2,0 tỷ USD.
Từ năm 2001 đến năm 2010, Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất
của Việt Nam. Tốc độ tăng trưởng trung bình của thương mại hai bên tăng 25% kể
từ năm 2001 - 2008. Trong đó có một số sự kiện quan trọng như năm 2004, thương
mại hai bên lên tới 7,2 tỷ USD. Năm 2005 lên tới 9,12 tỷ USD, so với năm 2004
tăng 26,6 %. Năm 2006 lên tới 10,63 tỷ USD, tăng 16,5% so với năm 2005, năm
2007 lên tới 16,35 tỷ USD tăng 53,8% so với năm 2006, năm 2008 đến 20,82 tỷ
USD, so với năm 2005 tăng hơn 2,28 lần đạt trước hai năm mà hai bên đặt ra. Mục
đích là để đạt 20 tỷ USD trong năm 2001. Năm 2009 mặc dù bị ảnh hưởng bởi cuộc
khủng hoảng tài chính thế giới, nhưng quan hệ thương mại hai bên vẫn phát triển.
Thương mại hai bên lên tới 21,35 tỷ USD, tăng 2,6% so với năm 2008. Năm 2010
đạt hơn 22 tỷ USD [40]. Mức xuất nhập khẩu của Việt Nam chiếm 17% tổng lượng
38
thương mại ngoại mậu, hàng hóa của Trung Quốc xuất khẩu vào Việt Nam chủ yếu
là từ ba tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, (chiếm 90% tổng số tiền Trung
Quốc xuất khẩu sang Việt Nam). Đồng thời, ba tỉnh này cũng là ba tỉnh nhập khẩu
hàng hóa Việt Nam sang Trung Quốc nhiều nhất (chiếm 85% tổng lượng hàng
Trung Quốc nhập khẩu hàng Việt Nam). Trong những năm gần đây, quan hệ thương
mại hai bên nổi bật ở các mặt như hàng Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Trung
Quốc ngày càng mạnh. Năm 2000 là 0,5 tỷ USD, đến năm 2005 đạt 3,22 tỷ USD,
năm 2006 lên đến 3,65, năm 2007 lên tới 1,65 tỷ USD, năm 2008 lên tới 4,85 tỷ
USD, năm 2009 lên đến 4,91 tỷ USD, năm 2010 5,20 tỷ USD. Như đã trình bày ở
trên, từ năm 2000 đến năm 2009 lượng xuất khẩu tăng 3,19 lần, tốc độ tăng trưởng
trung bình hàng năm là 13,75%. Đây là thành tựu to lớn về xuất khẩu hàng năm
tăng lên của Việt Nam. Không chỉ là một tốc độ tăng trưởng cao, hàng hoá xuất
khẩu đa dạng hóa và chủng loại nhiều, mở rộng thị trường Việt Nam đẩy mạnh xuất
khẩu, Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc chủ yếu là các sản phẩm: dầu thô,
than đá và một số sản phẩm nhiệt đới. Ví dụ: cao su, rau và trái cây, hạt tiêu,
hạt điều, sắn lát, dụng cụ bằng gỗ cao cấp. Thực phẩm chế biến, mực tươi, hải sản.
Các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam, hải sản đã là một thị trường khổng lồ
ổn định, khuyến khích nghề nông nghiệp, thủy sản phát triển ở Việt Nam, mang lại
cơ hội việc làm cho người nông dân nhiều hơn, đặc biệt là ở các tỉnh biên giới, tăng
thu nhập cho nông dân và nâng cao mức sống của họ.
2.1.5.2. Về nhập khẩu của Việt Nam
Từ năm 2000, nhập khẩu đạt 1,4 tỷ USD đến năm 2005 tăng lên 5,89 tỷ USD,
đến năm 2009 đã đạt 10,4 tỷ USD. Chỉ có thời gian chín năm (2000 - 2009). Nhập
khẩu tăng 11,7 lần trung bình tăng trưởng hàng năm là 31,45 phần trăm [37]. Các
mặt hàng chủ yếu nhập khẩu là máy móc, nguyên liệu để thích ứng với sản xuất
Việt Nam, khả năng chi trả, để đáp ứng nhỏ, phân tán, sản xuất tự phát cần có nhu
cầu, bổ sung các nguồn cung cấp hàng hóa tiêu dùng người dân Việt Nam. Ưu điểm
của hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc là: chi phí vận tải thấp, đơn giá và chủng
39
loại phù hợp với thu nhập và sở thích của người Việt Nam, đặc biệt là hàng tiêu
dùng. Các tiềm năng kinh tế của hai nước và tính hợp tác ngày càng nổi bật. Nếu
giai đoạn 1991 - 2000, các mối quan hệ thương mại hai chiều chủ yếu thông qua
thương mại biên giới, thì giai đoạn năm 2001 đến năm 2010 quốc mậu chiếm thế
mạnh, hình thức cũng rất đa dạng. Ví dụ: tạm nhập tái xuất, thương mại trung
chuyển, vận chuyển mậu dịch, chế biến mậu dịch. Thương mại giữa hai nước bằng
thương mại biên giới tỉnh Quảng Tây và Vân Nam và ở miền bắc Trung Quốc phát
triển đến Thượng Hải, Giang Tô, Hải Nam, Quảng Đông, Thâm Quyến và những
nơi khác. Thông qua phát triển các quan hệ mậu dịch thương mại đa dạng ,cuộc
sống của dân biên giới hai bên, quan điểm xã hội cơ bản được thay đổi. Đặc biệt là
sự phát triển của các đặc khu kinh tế cửa khẩu cũng mạnh mẽ thúc đẩy việc điều
chỉnh các tổ chức kinh tế địa phương.
2.1.5.3. Về đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam.
Trong năm 2000 chỉ có hai dự án đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam, với
tổng vốn đầu tư 15.350.000 USD, đến năm 2009 các dự án đầu tư là 700 dự án với
tổng vốn đầu tư 20,6 tỷ USD, đến tháng 11 năm 2010 đầu tư trực tiếp của Trung
Quốc vào Việt Nam cũng như tính hiệu quả của dự án là 749 dự án, với tổng
vốn đầu tư đăng ký là 3,018 tỷ USD [50], xếp thứ 16 hạng đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam. Các dự án đầu tư tại Việt Nam chủ yếu là ngành chế tạo sản xuất công
nghiệp, điện lực và khai thác mỏ, tiếp theo là các dịch vụ, bất động sản, nông
nghiệp, lâm nghiệp, chế biến thủy sản, dịch vụ y tế, ngành giáo dục. Khu vực phía
nam của Trung Quốc và các tỉnh là đối tác để đầu tư vào Việt Nam. Nguyên chỉ tỉnh
Quảng Tây, đã có hơn 100 dự án với tổng vốn đầu tư lên tới 500 triệu USD. Từ năm
2005 đến 2010, từ thông số FDI [14] đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam có
thể thấy được, từ giai đoạn năm 1989 đến năm 2004 trong 15 năm, chỉ có 70 dự án
FDI với tổng vốn tích lũy 9.160.000 USD, nhưng chỉ trong năm 2006 đạt đến
40.130.000 tỷ USD, lên đến năm 2007 lên tới 57.250.000 USD, năm 2008
40
là 37.350.000 USD. Năm 2009 bởi cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, nhưng
Trung Quốc vẫn tiếp tục tăng FDI tại Việt Nam có 76 dự án và đăng ký vốn mới
38.000.000 USD. Từ năm 1989 đến năm 2009, tổng vốn FDI đạt đến
293.030.000 USD, tăng 40 triệu USD năm 2010, là Trung Quốc tổng vốn FDI vào
Việt Nam lên đến 3,3 tỷ USD. Tổ chức đầu tư tương đối hợp lý, bao gồm cả Việt
Nam đang có nhu cầu cần phải phát triển và Trung Quốc có thế mạnh đồng nghiệp.
Ví dụ: chế biến thức ăn chăn nuôi, lương thực, chế biến thực phẩm, sản xuất phụ
tùng, lắp ráp ô tô, lắp ráp xe máy, khai thác mỏ, xây dựng nhà máy điện, nâng cấp
công trình giao thông, kiến thiết cơ sở hạ tầng, khách sạn, nhà hàng, khu chăm sóc
sức khỏe, đầu tư của ngân hàng….
2.1.5.4. Về hợp tác phát triển
Từ năm 2001 Trung Quốc ưu đãi tín dụng cho Việt Nam. Trong lĩnh vực công
nghiệp có 10 dự án, khai thác mỏ 10 dự án, trong ngành luyện kim có 5 dự án, hóa
chất, phân bón năm dự án, 3 dự án máy móc. Ngày 22 Tháng 10 năm 2008,
phái đoàn chính phủ Việt Nam sang thăm Trung Quốc, Thủ tướng Việt Nam –
Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo đã tham dự lễ ký kết hợp
tác kinh tế giữa hai bên. Bao gồm: Ngân hàng Xuất nhập khẩu của Trung Quốc để
cung cấp tín dụng ưu đãi của người mua về phía đông của Hà Nội là một dự
án đường sắt để Bộ Tài chính Việt Nam và chính quyền thành phố Thâm Quyến
về Hải Phòng. Tại Hải Phòng thành lập một khu vực kinh tế và thương mại lớn.
Giai đoạn năm 2009 đến năm 2010, Hiệp hội Việt Nam đối ngoại hữu hảo và Trung
Quốc hiệp hội hữu nghị nước ngoài Liên minh hợp tác. Tập đoàn xăng dầu Việt
Nam và Trung Quốc CMG (Merchants Group) về việc xây dựng và hoạt động của
hợp tác cảng BẾN ĐÌNH - SAO MAI, LPG Tập đoàn xăng dầu Việt Nam và công
ty xăng dầu Hải Dương Quốc gia Trung Quốc (CNDC) hợp tác chiến lược. Hợp tác
của các dự án này, đã mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam.
41
2.1.6.5. Về du lịch
Sự phát triển toàn diện về du lịch giữa hai nước, khách du lịch của hai bên ngày
càng tăng. Trung Quốc là quốc gia liên tục có khách đi du lịch tới Việt Nam nhiều
nhất. Từ năm 2001 đến 2010 lên tới 80 triệu người, trong đó năm 2004 đã lên tới 77
vạn 8 nghìn 400 người, thấp hơn một chút trong năm 2009 do tác động của cuộc
khủng hoảng tài chính thế giới, chỉ lên đến 51 vạn 9 ngàn người. Nhưng trong tám
tháng đầu năm 2010 đạt 59 vạn 1nghìn 300 người, so với cùng kỳ năm 2009 gia
tăng 96,2% chiếm 15,20% [39] du khách nước ngoài đến Việt Nam. Tích cực tham
gia vào sự phát triển hợp tác ngành du lịch của hai bên trong phạm vi “Hai hành
lang, một vành đai”, hợp tác chặt chẽ giữa hai bên công ty du lịch, đặc biệt là ở Hà
Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh Việt Nam và các tỉnh Quảng Tây, Vân Nam, tỉnh Hải
Nam của Trung Quốc. Khách du lịch Trung Quốc đến Việt Nam, thông qua cửa
khẩu tỉnh Quảng Tây chiếm 700 khách du lịch Việt Nam hàng năm đến Trung Quốc
bình quân là 200.000 Lượt người. Du lịch đường bộ mỗi ngày có ba chuyến xe buýt
từ Hà Nội đến Nam Ninh. Đường du lịch bờ biển từ Bắc Hải Hải Phòng, mỗi tuần
có một chuyến tàu thủy chuyển hai ngàn người khách du lịch đến Việt Nam.
2.1.5.6. Về hợp tác năng lượng
Hiện nay, Trung Quốc đã xây dựng một mạch điện áp cao từ Phòng Thành đến
tỉnh Lào Cai Việt Nam, để cung cấp 500 triệu KW/H năng lượng cho các tỉnh biên
giới phía Bắc Việt Nam. Đồng thời, tỉnh Quảng Tây mỗi năm phải nhập khẩu than
số lượng lớn ở Việt Nam để cung cấp nhiên liệu cho nhà máy điện trong nước. Hợp
tác trong lĩnh vực vòng tròn kinh tế xây dựng một số nhà máy điện lớn.
2.1.5.7. Về giao thông vận tải
Đây là yếu tố quyết định của sự phát triển kinh tế hành lang chạy. IA quốc lộ là
các tuyến đường giao thông chính hành lang kinh tế Nam Ninh - Singapore, nó
thông qua lãnh thổ Việt Nam hơn 30 tỉnh, thành phố. Trong phân khúc phía Bắc, từ
Lạng Sơn về Hà Nội (khoảng 170 km), là điểm khởi đầu của một hành lang kinh
tế Nam Ninh - Hà Nội - Lạng Sơn - Hải Phòng - Quảng Ninh và từ một Nam Ninh -
42
Singapore, giữa Việt Nam và Trung Quốc các nước ASEAN và các quốc gia đường
giao thông bộ vận tải hành khách đóng một vai trò rất quan trọng. Ngoài ra, trên
con đường số 18 (Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh) là
một phần của hành lang kinh tế dài đến 342km, là đường cấp ba theo tiêu
chuẩn đường đồng bằng, tạo điều kiện cho các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam và
các tỉnh phía Nam của Trung Quốc hàng hóa vận chuyển thuận tiện. Lên đến 3%
cây số của đường sắt Hà Nội đến Nam Ninh, 1435k theo triều rộng của đường ray
vào tháng 11 năm 2009 đã được xây dựng xong, vận chuyển hàng hóa đi Nam Ninh
- Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh để khu vòng tròn kinh tế mang lại
một hiệu quả chưa từng có. Hệ thống hải cảng, hệ thống hải cảng Việt Nam so với
các khu vực nội hải cảng vẫn còn trong tình trạng lạc hậu, chấp nhận chuyển được
50.000 DWT [11] tải bến rất ít, chỉ chiếm 1,4%. Bến cảng tải trọng chứa 30 nghìn
DWT đến 50.000 DWT chiếm 1,9%, bến cảng tải trọng chứa 20,000 DWT đến
30.000 DWT chiếm 9.5. Bến cảng tải trọng chứa để 10.000 đến 20.000 DWT chiếm
hơn 70%, đặc biệt là cầu cảng Container tỷ lệ thấp, đã hạn chế sự phát triển khai
thác có hiệu quả của hải cảng. Năm 2001, cảng Vịnh Bắc Bộ Quảng Tây có năng
lực bốc xếp công suất 70 triệu tấn/năm, đã trở thành cảng bốc xếp hàng tập trung
nhanh nhất của Trung Quốc, trong đó cảng Phòng Thành là cảng lớn thứ ba của khu
vực miền Nam Trung Quốc, cảng Khâm Châu Container bốc xếp hàng đạt 16vạn
1000 tấn. Hiện nay các cơ quan trong tỉnh Quảng Tây, Hải Nam, Quảng Đông đang
tích cực phối hợp với các phòng ban có liên quan của Việt Nam để giúp Việt Nam
sửa chữa tàu biển và sản xuất tàu thuyền, kiến thiết cảng, bến hiện đại hóa không
ngừng hợp tác chặt chẽ với các nước ASEAN, để đóng góp giúp cho thương mại
Việt Nam - Trung Quốc và khu vực mậu dịch tự do ASEAN phát triển. Quan hệ
mậu dịch kinh tế Trung Việt phát triển tốt đẹp, là phải thu thập các yếu tố đầy đủ,
thuận lợi, điều kiện chủ quan và khách quan. Về chủ quan mà nói một mối quan hệ
chính trị truyền thống đẹp giữa hai nước đã được củng cố và phát triển. Nó được hỗ
43
trợ bởi một chiến lược toàn diện cho sự hợp tác và phát triển trong tương lai. Văn
bản hợp tác kinh tế của cấp chính phủ, các cấp bộ, chính quyền địa phương, các
doanh nghiệp giữa hai nước đang đóng một vai trò tích cực cho các thành phần kinh
tế hai bên hợp tác kinh tế tạo ra một cơ sở pháp lý. Khách quan mà nói: ASEAN -
Trung Quốc Hiệp định Thương mại tự do [18] (ACFTA), hai nước đều là nước
thành viên WTO, APEC [8], để cho quan hệ kinh tế giữa hai nước mang lại mức
thuế thuận lợi. Theo kinh nghiệm phát triển kinh tế của một tỉnh biên giới của Trung
Quốc - Việt Nam có thể thấy rằng doanh nghiệp Trung Quốc rất coi trọng thị trường
Việt Nam. Ví dụ: nhiều học giả tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc đã thẳng thắn chia sẻ:
từ quan điểm công nghệ chu kỳ nhìn ra, tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến và những
tỉnh phát triển nhanh khác, có nhu cầu mở rộng thị trường ASEAN. Trong đó quan
trọng nhất là thị trường Việt Nam, việc chuyển giao công nghệ và kỹ thuật là để cho
Trung Quốc chấp nhận công nghệ mới cao hơn. Từ một cái nhìn vĩ mô, nỗ lực xây
dựng “hai hành lang, một vành đai” (một trục, hai cánh), chiến lược sẽ thúc đẩy sự
phát triển và kinh tế của hai nước, thương mại và đầu tư giữa hai nước trong các xu
hướng kinh tế chuyển đổi. Từ một quan điểm chiến lược hiện đại hóa, công nghiệp
hóa mà nói, Việt Nam cũng có một nhu cầu rất lớn để mở rộng thị trường kinh
doanh, thu hút vốn FDI từ Trung Quốc phù hợp với quy trình công nghệ tại Việt
Nam. Năm 2011 đến năm 2015 hai nước dự tinh sẽ tăng trưởng giá trị xuất nhập
khẩu 15% mỗi năm. Trong những năm gần đây, quan hệ kinh tế của hai bên ngày
càng phát triển, tăng trưởng ngày càng cao. Nhập khẩu và xuất khẩu thương mại trị
giá hơn so với mục tiêu, lĩnh vực dự án và hợp tác kinh tế đầu tư đề xuất đa dạng
hóa, phù hợp với nhu cầu và tiềm năng của cả hai bên, và ngày càng đáp ứng nhu
cầu của nhân dân hai nước và công ty cao hơn. Đầu tháng 11 năm 2011, theo lời
mời của Uỷ ban Trung ương, Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào, Tổng bí thư Trung ương
Đảng cộng sản Việt Nam - Nguyễn Phú Trọng chính thức sang thăm Trung Quốc.
Ngày 11 Tháng 10 năm 2011 tại Bắc Kinh, trước sự chứng kiến của hai Tổng Bí thư
44
và đại diện của cả hai bên, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam và Bộ
trưởng bộ Thương mại Trung Quốc đã ký Kế hoạch 5 năm hợp tác và phát triển
kinh tế và thương mại giữa Trung Quốc và Việt Nam giai đoạn 2012 - 2016.
Kế hoạch phát triển 5 năm nhằm mở rộng và tăng cường quan hệ hợp tác kinh tế và
thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc, thúc đẩy sự phát triển toàn diện quan hệ
hữu nghị và hợp tác, đặt một nền tảng vững chắc cho quan hệ hợp tác chiến lược
giữa hai nước Trung - Việt. Nó mở rộng lĩnh vực hợp tác, thành lập các hình thức
mới của sự hợp tác, thúc đẩy hợp tác kinh tế và thương mại trong nhiều lĩnh vực.
Bao gồm: thương mại, đầu tư, công nghệ khoa học kỹ thuật, tài nguyên, năng lượng,
cơ sở hạ tầng cơ bản, khu vực xây dựng công nghiệp, ngành công nghiệp dịch vụ,
mạnh mẽ thúc đẩy “hai hành lang, một vành đai” [48] hợp tác. Nó tiếp tục chiều sâu
của hợp tác kinh tế và thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc nâng cao mức độ
hợp tác kinh tế và thương mại, tiếp tục mở rộng quy mô của thương mại và đầu tư
hai bên. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có chuyến thăm chính thức Trung Quốc đạt
kết quả tốt, một chiến lược thúc đẩy hợp tác giữa hai Đảng, hai nước Trung - Việt .
Đồng thời, đối với hợp tác, phát triển và hòa bình đã mang lại tác động tích cực cho
khu vực và trên thế giới.
2.2. Lý thuyết cơ bản phát triển của “Ngân hàng tự phát”
2.2.1. Khái niệm liên quan của “Ngân hàng tự phát”
“Ngân hàng tự phát” tồn tại trong khu vực biên giới Trung - Việt (đặc biệt là tại
các cửa khẩu thương mại biên giới thịnh vượng, khu kinh tế và các điểm thương
mại biên giới), để tham gia vào các dịch vụ đổi tiền, thanh toán tiền hàng, chuyển
tiền, chủ yếu là trong các dịch vụ thương mại biên giới loại nhỏ và tổ chức kinh
doanh thương mại truyền thống ở biên giới. Vì hoạt động kinh doanh của nó với
hoạt động kinh doanh của ngân hàng chính quy tương tự, lại mang hình thức kinh
doanh bán hàng rong, được người dân địa phương gọi là “Ngân hàng tự phát”.
Ở Trung Quốc, một số học giả đã coi “Ngân hàng tự phát” giống như ngân
hàng ngầm. Sau khi nghiên cứu, tác giả đã khảo sát thực địa phân tích và các thông
45
tin có liên quan, cho rằng hai loại ngân hàng này khác nhau nhưng có liên quan với
nhau. Vì vậy, đối với “Ngân hàng tự phát” tiến hành giới định khái niệm để
xác định, cũng cần thiết để xác định khái niệm về ngân hàng ngầm và phân tích mối
quan hệ giữa hai ngân hàng.
“Ngân hàng tự phát” có nghĩa là không qua cơ quan quản lý tài chính nhà nước
phê duyệt thành lập, nhằm thu được lợi ích bất hợp pháp, tham gia vào các hoạt
động bất hợp pháp như tiền gửi giao dịch tài chính, cho vay lãi xuất cao hơn ngân
hàng, cho vay nặng lãi, chuyển tiền, vốn phi pháp qua biên giới, phi pháp hoạt động
giao dịch truyền thống và tổ chức tài chính, trong số đó hầu hết trong thế giới thực
là theo hình thức công ty đầu tư tài sản tồn tại.
Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đã ban hành (năm 2004 Trung Quốc chống
rửa tiền) báo cáo cho thấy, ngân hàng ngầm là một tổ chức tài chính bất hợp pháp,
nó lợi dụng hoặc lợi dụng một phần mạng lưới thanh toán ngân hàng và tổ chức tài
chính khác, triển khai tiết kiệm và vay vốn, chuyển xuyên tiền vốn qua biên giới,
bất hợp pháp kinh doanh ngoại hối và hoạt động tài chính bất hợp pháp khác. Và chỉ
ra rằng các ngân hàng ngầm trôi dạt bên ngoài hệ thống quản lý tài chính, rất dễ
dàng để trở thành rửa tiền, trốn thuế, buôn lậu, tham nhũng và các hoạt động tội
phạm khác. Theo các loại kinh doanh chủng loại khác nhau, ngân hàng ngầm có
thể được chia thành: ngân hàng ngầm loại kiểu tiết kiệm cho vay và ngân hàng
ngầm đổi ngoại tệ. Có hai loại ngân hàng: ngân hàng ngầm kiểu tiết kiệm cho vay
chủ yếu là tham gia thu hút tiền tiết kiệm và dịch vụ cho vay vào bất hợp pháp, kiểu
ngân hàng ngầm trao đổi tiền ngoại tệ chủ yếu là triển khai đổi tiền tệ và hoạt động
vốn xuyên biên giới. Thông qua cả hai “Ngân hàng tự phát” và “ngân hàng ngầm”
tiến hành xác định, nó có thể được nhìn thấy tồn tại trong khu vực biên giới Trung -
Việt “Ngân hàng tự phát” không liên quan đến dịch vụ gửi tiền, so với kiểu đổi tiền
“ngân hàng ngầm” dịch vụ hình thức tương tự. Nhưng sau khi tác giả thông qua các
doanh nghiệp thương mại biên giới, các hộ cá thể và thậm chí những người kinh
doanh “Ngân hàng tự phát” tại thành phố Đông Hưng, tỉnh Quảng Tây thực hiện
46
nhiều cuộc phỏng vấn sâu đã tìm hiểu được rằng: không phải tất cả các “Ngân hàng
tự phát” đều tham gia có liên quan đến rửa tiền và các hoạt động vi phạm khác.
Nhiều người kinh doanh “Ngân hàng tự phát” chỉ kiếm chênh lệch tỷ giá từ việc
bán đồng nhân dân tệ sang tiền Việt Nam, tiền USD hoặc ngoại tệ khác hoặc theo
trong khi ngân hàng chính quy quốc gia giữa tiền Trung Quốc và tiền Việt Nam
thanh toán thương mại biên giới không thông thoát, giúp một số doanh nghiệp biên
giới thương mại số lượng nhỏ và các hộ cá thể thương mại biên giới giao dịch kinh
doanh làm dịch vụ thanh toán và các dịch vụ khác.
Hiện nay, thông qua các “Ngân hàng tự phát” hầu hết thanh toán thương mại là
những thương mại hợp pháp. Vì vậy, mặc dù các “Ngân hàng tự phát” và ngân hàng
ngầm dịch vụ kinh doanh tương tự và cũng đều là các tổ chức tài chính phi chính
thức, được ẩn trong “ngầm”, nhưng bài viết này sẽ phân biệt “Ngân hàng tự phát”
và “ngân hàng ngầm”. Theo giới chuyên môn nghiên cứu, ngân hàng tồn tại trong
khu vực biên giới Trung - Việt, chủ yếu là tham gia trao đổi tiền tệ, thanh toán tiền
vốn và hoạt động chuyển tiền khác, trong thế hệ thanh toán biên mậu Trung - Việt
chiếm một vị trí quan trọng, loại kinh doanh thanh toán theo hình thức bán rong tổ
chức kinh tế dân gian này gọi là “Ngân hàng tự phát”.
Quản lý công khai, hợp pháp hóa
Quản lý công khai hóa và hợp phát hóa “Ngân hàng tự phát”, trước tiên chúng
ta phải làm cho các “Ngân hàng tự phát” công khai hóa và hợp phát hóa, công khai
hóa và hợp phát hóa là câu nói dễ hiểu về việc hợp pháp, tức để cho “Ngân hàng tự
phát” có địa vị hợp pháp. Đồng thời, khuyến khích “Ngân hàng tự phát” từ dưới đất
không trật tự của “vùng màu xám” đi lên mặt đất có trật tự và đi lên bãi cát có ánh
nắng mặt trời. Sau đó thông qua hướng dẫn và quy phạm hành vi giao dịch của
“Ngân hàng tự phát” để các “Ngân hàng tự phát” từng bước phát triển dần dần tiến
đến tiêu chuẩn hóa.
Mậu dịch biên giới
47
Thương mại mậu dịch biên giới là để đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống
của người dân ở các khu vực biên giới, dân biên giới và các doanh nghiệp của một
quốc gia với dân biên giới các nước láng giềng trong khu vực biên giới triển khai
hoạt động thương mại mậu dịch.
Cục quản lý ngoại tệ quốc gia năm 2003 ban hành “Biện pháp quản lý ngoại tệ
mậu dịch biên giới” [34], thương mại biên giới của nước ta được chia thành ba hình
thức:
Thứ nhất, thương mại biên giới loại hình thức nhỏ. Đây là một hình thức
thương mại giữa các doanh nghiệp trong khu vực biên giới, chỉ những doanh nghiệp
được sự đồng ý của các phòng ban có liên quan cho phép có quyền hoạt động
thương mại tại khu biên giới của các doanh nghiệp kinh doanh với các nước láng
giềng hoặc các cơ quan thương mại khác do nhà nước chỉ định cửa khẩu triển khai
hoạt động thương mại. Những loại mậu dịch này khá chuẩn, là một phương thức
mậu dịch chính của một quốc gia hoặc một khu vực thương mại biên giới.
Thứ hai, cư dân biên giới đi lại mậu dịch là một phương thức tiến hành mậu
dịch, là chỉ theo đường biên giới trong phạm vi 20km và cũng là điểm nhà nước qui
định mở cửa hoặc nhà nước chỉ định thị trường mở, cư dân biên giới Việt Nam và
cư dân biên giới các nước láng giềng triển khai không quá số lượng hạn chế mậu
dịch hoặc số tiền của các hoạt động kinh doanh hàng hóa. Đây là hình thức cư dân
biên giới tăng cường giao lưu một loại mậu dịch truyền thống, bởi số tiền ít .
Thứ ba, hợp tác kinh tế và kỹ thuật với nước ngoài ở khu vực biên giới, có
nghĩa là được sự phê chuẩn của các phòng ban có liên quan quản lý của nhà nước
cho phép doanh nghiệp có quyền kinh doanh kỹ thuật kinh tế đối ngoại và trong khu
vực biên giới triển khai hợp tác lao động, thuê công trình với các nước láng giềng
và thực hiện các dự án hợp tác kinh tế và kỹ thuật của nước ngoài.
2.2.2. Lý thuyết liên quan đến phát triển của “Ngân hàng tự phát”
2.2.2.1. Kiềm chế tài chính và lý thuyết sâu tài chính
48
Trung Quốc là một quốc gia đang phát triển, cũng có tồn tại vấn đề kiềm
chế tài chính rất rõ rệt. Trong các thị trường tài chính của Trung Quốc, ngân hàng
thương mại hiện đại và cửa hàng cầm đồ truyền thống, ngân hàng ngầm, hiệp hội,
cho vay nặng lãi, “Ngân hàng tự phát” và các tổ chức tài chính tư nhân khác cùng
tồn tại, nhưng các ngân hàng thương mại nhà nước vẫn chiếm ưu thế độc quyền tài
chính chính thức, được chính phủ hỗ trợ các chính sách ưu đãi. Vì vậy, tài chính
chính quy phát triển nhanh chóng. Các cửa hàng cầm đồ, ngân hàng ngầm, “Ngân
hàng tự phát” và các tổ chức tài chính tư nhân khác, từ trước tới nay đều bị chính
phủ kiểm soát và ngăn chặn, bắt buộc nó phải chôn giấu “dưới đất” để kinh doanh,
trôi dạt phía bên ngoài của hệ thống quản lý tài chính của chính phủ và các cửa
hàng cầm đồ, ngân hàng ngầm, “Ngân hàng tự phát” và các tổ chức tài chính tư
nhân khác lại tồn tại quản lý kinh doanh không qui phạm, không đủ khả năng kiểm
soát khống chế rủi ro. Nó tồn tại “ngầm” không được sự điều chỉnh hướng dẫn
quản lý tài chính của Chính phủ, làm cho xã hội phát triển kinh tế ổn định lành
mạnh thành một tai hoạ ngầm. Để đạt được sự phát triển kinh tế nhanh chóng, cần
phải loại bỏ kiềm chế tài chính trở ngại lớn này. Tác giả Edward Shaw [71] vào năm
1973 xuất bản cuốn sách “Độ sâu tài chính trong phát triển kinh tế” đã đề xuất giải
quyết những vấn đề về tài chính sâu hay còn được gọi là “tự do hóa tài chính”.
Shaw chỉ ra rằng hệ thống tài chính và phát triển kinh tế được liên kết chặt chẽ,
chính phủ can thiệp quá nhiều sẽ cản trở sự phát triển của hệ thống tài chính, hệ
thống tài chính lạc hậu sẽ cản trở sự phát triển kinh tế, tạo ra một vòng tuần hoàn ác
tính. Chính phủ nhân tạo phân khúc thị trường, quản lý lãi suất, phân phối tín dụng,
kiềm chế tài chính những hành vi này sẽ dẫn đến các chủ thể kinh tế lựa chọn
và đầu tư các kênh tài chính hạn hẹp, sự khan hiếm của các công cụ tài chính,
những khó khăn tài chính bên ngoài, cho sự phát triển kinh tế bền vững và lành
mạnh là rất không có lợi. Vì vậy, để thay đổi tình hình phát triển kinh tế lạc hậu,
phải loại bỏ kiềm chế tài chính, tiến hành cải cách sâu sắc về tài chính. Cụ thể mà
nói, là làm cho sự phát triển thị trường tài chính do quy định của chính phủ chuyển
49
sang lực lượng thị trường quyết định là chính, giảm bớt sự can thiệp của chính phủ
quá nhiều trong việc phát triển tài chính, việc bãi bỏ các hạn chế về lãi suất, mở
rộng tiếp cận thị trường, cho phép các tổ chức tài chính dân gian nhiều hơn vào thị
trường tài chính chính quy, phát huy đầy đủ vai trò cơ bản của thị trường trong việc
phân bổ nguồn lực và dần dần hình thành một hệ thống tài chính lành mạnh. Lý
thuyết sâu tài chính đối với “Ngân hàng tự phát”, phát triển cũng có ý nghĩa chủ đạo.
Hiện nay, ngân hàng chính qui giữa Trung Quốc và Việt Nam phát triển hệ thống
thanh toán thương mại biên giới còn chưa đủ, rất khó để đáp ứng nhu cầu thanh toán
thương mại qua biên giới của khu vực biên giới Trung - Việt cho tất cả chủ thể
trên thị trường. Nhưng “Ngân hàng tự phát” trong lợi thế kinh doanh của mình một
cách hiệu quả bù đắp cho những thiếu sót trong hệ thống thanh toán thương mại
biên giới, cho thương mại biên giới Trung - Việt tại khu vực biên giới và giao dịch
kinh doanh thương mại biên giới kinh doanh cá thể cung cấp một dịch vụ thanh toán
thương mại thuận tiện và hiệu quả qua biên giới. Vì vậy, để đạt được phát triển bền
vững và lành mạnh của khu vực biên giới Trung - Việt của xã hội và nền kinh
tế của Việt Nam, cần thiết phải thay đổi tư tưởng của chính phủ về vấn đề quản lý
“Ngân hàng tự phát”, mở rộng tiếp cận thị trường, hướng dẫn hợp lý “Ngân hàng tự
phát” từ “dưới đất” [26] đi “lên mặt đất” [35], dưới sụ hướng dẫn và giúp đỡ các cơ
quan quản lý tài chính của chính phủ, và giảm dần thậm chí loại bỏ các tác động
tiêu cực của “Ngân hàng tự phát” cho sự phát triển kinh tế và xã hội trong khu vực
biên giới. “Ngân hàng tự phát” đóng một vai trò bổ sung trong hệ thống thanh toán
thương mại biên giới Trung - Việt và để khuyến khích và hướng dẫn các “Ngân
hàng tự phát” phát triển lành mạnh.
2.2.2.2. Lý thuyết thay đổi thể chế
Douglass C.North [69] đã cho các yếu tố thể chế nạp vào phạm vi phân tích
kinh tế học, nghiên cứu và phân tích về vai trò quan trọng của các yếu tố thể chế đối
với tăng trưởng kinh tế, do đó Douglass C.North đã trở thành một trong những đại
diện mới của chế độ kinh tế học. Douglass C.North trong cuốn sách của ông “Các
50
thể chế, sự thay đổi thể chế và hoạt động kinh tế” lưu ý rằng: thay đổi thể chế là
để điều chỉnh thể chế, là quá trình thay thế và chuyển đổi, mà còn là quá trình
của đổi mới thể chế, là các tổ chức kinh tế để có được nhiều quyền lực hơn và lợi
ích thay đổi thể chế hiện tại, quá trình thiết lập thể chế mới, tổ chức hình thức mới.
Tổ chức kinh tế được giao dịch trên một thể chế đặc biệt, cùng với sự phát triển của
thời đại và sự nhận biết cao của họ, khi hệ thống ban đầu không thể đáp ứng nhu
cầu của các tổ chức kinh tế, tổ chức kinh tế đòi hỏi phải thay đổi thể chế hiện có.
Ông Douglass C.North cho rằng, các thể chế nối tiếp có sự khác nhau là do sự khác
biệt về chính trị, pháp lý, cơ sở kinh tế, một môi trường chế độ là do chính trị, pháp
lý, kinh tế các nguyên tắc cơ bản cấu tạo thành. Nếu môi trường chế độ của một xã
hội là để thích nghi với thể chế tuần tự của nó. Lúc này, chế độ của xã hội ở trạng
thái cân bằng, tổ chức kinh tế hài lòng với các chế độ hiện tại và do đó không yêu
cầu thay đổi đối với chế độ hiện có. Nếu chế độ xã hội này và chế độ môi trường
không tương đương thích hợp với sắp xếp của nó, có nghĩa là, các chế độ xã hội
nằm trong một trạng thái không cân bằng. Do đó, các chủ thể kinh tế không thể
có được lợi nhuận mong muốn bên ngoài của nó. Khi đó, chủ thể kinh tế có điều
chỉnh về chế độ và chế độ sắp xếp lại động lực. Trong bài viết của Lâm Nghị Phu
[56] “Về chế độ thay đổi của lý thuyết kinh tế học - biến đổi gây ra và thay đổi bắt
buộc” - những thay đổi chế độ chia ra thành hai mặt: gây ra sự thay đổi chế độ và
thay đổi thể chế bắt buộc. Ông Lâm nghị Phu chỉ ra, khi tính cám dỗ chế độ là chế
độ hiện có nằm trong trạng thái không cân đối, một người hoặc một nhóm người để
nắm bắt cơ hội lợi nhuận từ chế độ không cần bằng, do tự phát xướng đạo và tổ
chức vận động tính tự phát biến đổi chế độ, tính tự phát chế độ thay đổi là một trong
những loại kế tiếp của chế độ thay đổi. Sự bắt buộc tính tự phát chế độ thay
đổi được xác định bởi các chính phủ đưa ra quy định bắt buộc và mệnh lệnh kích
hoạt sự thay đổi chế độ, là một sự thay đổi chế độ từ trên xuống dưới. Ông Lâm
Nghị Phu cho rằng, trong điều kiện kỹ thuật nhất định, các chi phí giao dịch là một
51
yếu tố cốt lõi trong các chế độ cạnh tranh được xem xét. Tính cám dỗ thay đổi
chế độ chi phí giao dịch khá cao và dễ bị sinh ra vấn đề “đi theo chiều”. Vì vậy, chỉ
có chế độ hiện có sắp xếp cá nhân không thể có được cơ hội thu lợi nhuận, quy luật
thay đổi của thể chế mới hoàn toàn thỏa mãn kết quả rành lợi nhuận cá nhân của họ
vượt qua. Thay đổi thể chế bắt buộc khác nhau, khi chính phủ tin rằng chế độ mới
thu được bằng cách sử dụng lợi nhuận kỳ vọng để thay đổi chế độ hiện có, có thể
vượt quá các chi phí phải trả, thì chính phủ sẽ có ý nguyện phải thực hiện những
thay đổi chế độ, nhưng do vấn đề quan liêu, tư tưởng hình thức cứng nhắc, xã hội
kiến thức khoa học vẫn còn thiếu và các yếu tố khác, chính phủ có thể không nhất
định thiết lập một hệ thống phù hợp với nhu cầu của xã hội. Sự xuất hiện và phát
triển của “Ngân hàng tự phát” là một người (hoặc một nhóm người) trong hệ thống
tài chính có sẵn không thể đạt được các mong muốn trong lợi nhuận ban đầu bên
ngoài dẫn đến những thay đổi trong nhu cầu gây ra bởi các hệ thống trước đó, mà là
do quá trình thay đổi thể chế, mà đó còn là sản vật mất cân bằng đặc biệt của hệ
thống kinh tế tài chính Trung Quốc. Cụ thể mà nói, với sự phát triển nhanh chóng
thương mại biên giới của Trung Quốc với Việt Nam, thương mại biên giới của
Trung Quốc trong khu vực biên giới đặc biệt là chủ thể mậu dịch là thương mại biên
giới số lượng nhỏ của doanh nghiệp và cư dân biên giới đi lại mậu dịch có thể hộ
kinh doanh đối với thể hệ thanh toán thương mại biên giới Trung - Việt đưa ra yêu
cầu cao hơn, hy vọng các hệ thống thanh toán thương mại biên giới chính
thức để đáp ứng hiệu quả, thuận tiện, chi phí thấp để thanh toán biên mậu và các
nhu cầu thanh toán số lượng lớn thương mại qua biên giới. Tuy nhiên, thị trường tài
chính của hai nước Trung Quốc và Việt Nam trình độ phát triển không cao, tài chính
biên giới thông tin liên lạc và hợp tác không đủ và các lý do khác, ngân hàng chính
quy các hệ thống thanh toán thương mại biên giới vẫn còn có khuyết điểm nhất định,
không thể đáp ứng nhu cầu của tất cả chủ thể thị trường trong khu vực biên giới
thanh toán tiền vốn. Bởi hệ thống tài chính của nước ta hiện tại không thể phối hợp
52
hòa giải với sự phát triển hiện tại của thị trường tài chính. Nó khó đáp ứng các nhu
cầu tài chính của doanh nghiệp vốn tài chính yếu và các doanh nghiệp nhỏ hoặc
buôn nhỏ lẻ. Trong khi đó, “Ngân hàng tự phát” lại tổ chức tài chính tư nhân
hoạt động linh hoạt, thủ tục thuận tiện, chi phí thấp, với ngoại hối tiền mặt, bù đắp
tốt hơn cho sự thiếu hụt chính thức hệ thống thanh toán thương mại biên giới, trong
các khu vực biên giới Trung - Việt được sự hoan nghênh của các doanh nghiệp và
cá thể. Do đó, “Ngân hàng tự phát” ở khu vực biên giới Trung - Việt ngày càng
tăng và mở rộng. Hiện nay, sự phát triển của hệ thống thanh toán thương mại biên
giới vẫn chưa hoàn hảo, cần phải phát huy tác dụng bổ sung của “Ngân hàng tự
phát”, có thể nói sự tồi tại và phát triển của “Ngân hàng tự phát” có tính hợp lý.
“Ngân hàng tự phát” đi đến công khai hóa là kết quả của gây ra sự thay đổi thể chế.
Đối với các nhà kinh doanh “Ngân hàng tự phát” mà nói, sau khi các “Ngân hàng tự
phát” có tư cách hợp pháp, hoạt động kinh doanh và lợi nhuận đầu tư sẽ có thể được
sự bảo vệ của chế độ pháp luật. Từ đó “Ngân hàng tự phát” giảm rủi ro trong quá
trình giao dịch. Cho nên, người tham gia “Ngân hàng tự phát” kêu gọi cho tổ chức
tài chính dân gian như “Ngân hàng tự phát” tư cách hợp pháp hóa.
2.2.2.3. Lý thuyết thanh toán thương mại biên giới
Thanh toán thương mại biên giới đề cập đến các khu vực biên giới của chính
phủ hai nước, các doanh nghiệp hoặc cá nhân trong việc mua bán hàng hóa, cung
cấp dịch vụ lao động kỹ thuật và phân bổ ngân sách và các hoạt động khác, hành vi
thu tiền hoặc chi trả cho nước đồi phương. Thanh toán thương mại biên giới là một
phần của một thanh toán thương mại quốc tế, vì nó liên quan đến thanh toán xuyên
biên giới, quốc tịch hai bên thanh toán bất đồng, lựa chọn loại tiền giao dịch khác
nhau. Vì vậy, khi giao dịch đồng tiền thanh toán phải được sự chấp nhận cho cả hai
bên, của cơ sở tham khảo ý kiến hoặc thậm chí cần tiến hành thông qua nước thứ ba
chuyển đổi tiền tệ, trao đổi, so với thủ tục thanh toán thương mại trong nước phức
tạp hơn. Giao lưu kinh tế giữa hai nước thường đi kèm với sự phát sinh của quyền
53
nợ, quan hệ nợ, trong thương mại biên giới, thương khách nhập khẩu chưa
nhận được hàng hoá nhập khẩu mà chưa thanh toán thì hình thành cái nợ của nước
xuất khẩu và thương khách nước nhập khẩu có sở hữu thu tiền nợ của người nhập
khẩu. Thông qua thanh toán thương mại biên giới, một bên tiếp nhận hàng hóa và
dịch vụ, bên khác nhận được tiền hàng. Ngân hàng đóng vai trò dịch vụ thanh toán
chính trong hệ thống thanh toán thương mại biên giới, phát huy tác dụng quan trọng.
Với sự phát triển liên tục của kinh doanh ngân hàng biên giới, các dịch vụ tín dụng
và thanh toán mậu dịch biên giới, SWIFT điện chuyển, ủy quyền thu nhận, xuất
nhập khẩu đạt tiền và các loại dịch vụ thanh toán khác, cũng đều được vận dụng
trong thanh toán thương mại biên giới.
Sơ đồ 1.2: Sơ đồ kế toán mậu dịch biên giới Việt – Trung
Nguồn: Tác giả
Trong các hệ thống thanh toán thương mại biên giới Trung - Việt , các ngân
hàng thương mại chính quy và “Ngân hàng tự phát” cạnh tranh và thúc đẩy lẫn nhau,
đều là chủ thể dịch vụ thanh toán trọng yếu trong hệ thống thanh toán thương mại
biên giới Trung - Việt . Nhiều thương hộ dân biên giới Việt –Trung đều làm sổ, thẻ
gửi tiền tiết kiệm làm số tài khoản tại khu vực biên giới trong các ngân hàng thương
mại, cung cấp các tài khoản tiết kiệm cá nhân cho bên kia, sau khi hai bên đạt được
một thỏa thuận biên mậu, bên xuất khẩu hàng thông qua gửi tiền vào số tài khoản
54
của mình xong chuyển giao cho các nhà xuất khẩu của nước bên kia.Kinh doanh
chính của các “Ngân hàng tự phát” là xử lý dịch vụ thanh toán thương mại qua biên
giới. Vì thế, nó cũng liên quan đến lý thuyết thanh toán thương mại biên giới,
“Ngân hàng tự phát” phương thức thanh toán thương mại qua biên giới là thương
mại xuất nhập khẩu hai nước đạt được hiệp ước biên mậu, nhà nhập khẩu phải trả
tiền hàng và chi phí thủ tục cho “Ngân hàng tự phát” địa phương. “Ngân hàng tự
phát” địa phương bên nhập khẩu bằng điện thoại hoặc fax thông báo cho “Ngân
hàng tự phát” địa phương cho bên nhà xuất khẩu. “Ngân hàng tự phát” địa phương
bên nhà xuất khẩu lấy tương ứng giá mua tiền hàng trả cho nhà xuất khẩu, sau khi
hai bên mới tính toán tiền hàng và các loại chi phí tại Trung - Việt do các ngân
hàng thương mại chính quy Trung Quốc và Việt Nam về cơ bản không nắm giữ các
vị trí trong các quỹ tiền tệ của nước khác, do đó khi cần phải sử dụng đồng tiền của
nước đối phương đồng tiền thanh toán, các ngân hàng thương mại chính quy còn
cần phải thông qua “Ngân hàng tự phát” để có được số tiền cần thiết để thanh toán.
2.3. Tiểu kết chƣơng 2
Qua nghiên cứu ở phần trên cho thấy, tình hình biên mậu ở khu vực biên giới
phát triển ngày càng mạnh mẽ. Nhờ có sự phát triển ấy mà một loại hình ngân
hàng mới được ra đời “Ngân hàng tự phát” nhằm mục đích phục vụ cho quá trình
buôn bán, trao đổi hàng hóa giữa hai nước được diễn ra một cách thuận tiên và
nhanh chóng.
Song bên cạnh những mặt tích cực cho nền kinh tế hai nước Việt – Trung thì nó
còn có những mặt trái như một hình thức rửa tiền, các hoạt động phi pháp của các
thế lực ngầm. Chính vì thế mà ngân hàng này luôn luôn tồn tại ẩn sâu dưới đất.
Không được pháp luật công nhận và thường xuyên bị kiểm soát bởi các lực lượng
an ninh.
Tuy nhiên, tình hình biên mậu ở khu vực biên giới Việt – Trung diễn ra hết sức
phức tạp, khó kiểm soát. Vì thế, các “Ngân hàng tự phát” vẫn hoạt động bình thường.
Như vậy, cần có những biện pháp để quản lý và đưa ngân hàng này từ dưới đất
lên hoạt động trên mặt đất, công khai và hợp pháp.
55
Chƣơng 3
ĐÁNH GIÁ, PHÂN TÍCH CÁC HOẠT ĐỘNG LIÊN QUAN ĐẾN
“NGÂN HÀNG TỰ PHÁT”
3.1. Nguồn gốc của các loại “Ngân hàng tự phát”
3.1.1. Nguồn gốc lịch sử của “Ngân hàng tự phát”
Năm 1949 - 1990: Giai đoạn kinh doanh lẻ tẻ. Trung Quốc và Việt Nam vào
ngày 18/01/1950 chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Kể từ đó, Trung Quốc và
Việt Nam bắt đầu dần dần mở rộng đi lại mậu dịch kinh tế. Tháng 2/1953, hai chính
phủ Trung Quốc và Việt Nam ở Bắc Kinh, đã ký “Hiệp ước về việc mở cửa thương
mại biên giới nhỏ giữa hai nước”. Tháng 02/1954, chính phủ hai nước lại cùng ký
“Hiệp định về thương mại biên giới giữa hai nước”. Từ đó, thương mại biên giới
giữa Trung Quốc và Việt Nam đã chính thức triển khai hợp tác kinh tế và thương
mại. Tỉnh Quảng Tây và Vân Nam gần sát với khu vực biên giới Việt Nam, hai bên
hợp tác ngày càng chặt chẽ hơn, cư dân biên giới hai nước đi lại thương xuyên, mậu
dịch biên giới số lượng nhỏ và dân biên giới giao lưu chợ búa ngày càng đông vui
hơn. Nhưng, vì lúc đó Trung Quốc và Việt Nam đều mới được thành lập và trải qua
một cuộc chiến tranh lâu dài, tất cả đều phải xây dựng lại, các tổ chức chính phủ
trong tất cả các lĩnh vực quản lý thương mại biên giới vẫn chưa hoàn hảo, không có
tổ chức hoặc cơ quan chuyên môn phụ trách về thanh toán thương mại biên giới
chuyên dụng trong lĩnh vực tài chính, không thể đáp ứng nhu cầu của chủ thể khu
biên giới hai nước Việt – Trung. Trong trường hợp này, một số người có đầu óc
buôn bán ở biên giới đã nắm được cơ hội bày quầy hàng doanh nghiệp nhỏ
hoạt động dịch vụ đổi tiền, bởi vì hầu hết dân biên giới hai bên đều tiến hành
thương mại biên giới nhỏ, giao dịch mậu dịch số lượng nhỏ, dân biên giới hai bên
cũng đều quen thanh toán tiền hàng bằng tiền mặt và vì cơ quan tài chính chính phủ
không thành lập dịch vụ đổi tiền đồng Nhân dân tệ ra đồng tiền Việt Nam. Vì vậy,
các quầy hàng nhỏ đổi tiền phổ biến này rất được sự hoan nghênh cả hai bên. Loại
56
kinh doanh theo hình thức bán rong này, hoạt động kinh doanh ngoại tệ chủ yếu.
Đây là dịch vụ đổi tiền ngoại tệ, tổ chức truyền thống này có chức năng giống như
ngân hàng được dân địa phương gọi là “Ngân hàng tự phát”. “Ngân hàng tự phát” vì
thế mà ra đời. “Ngân hàng tự phát” được thành lập sớm chủ yếu là thực hiện thanh
toán thương mại biên giới Việt – Trung thuận tiện, nâng cao hiệu quả giao dịch
thanh toán và thu trả kinh phí, là một tổ chức nhỏ và rải rác, nằm rải rác ở các khu
vực biên giới Trung - Việt . Từ năm 1960 đến năm 1970, tình hình chính trị trong
nước và quốc tế ở Trung Quốc và Việt Nam đều bất ổn, không có thời gian quan
tâm đến mậu dịch biên giới hai bên. Trên một mặt vì năm 1961, Việt Nam nằm
trong thời điểm cứu quốc chống Mỹ khốc liệt khó khăn. Cho đến khi giải phóng
miền Nam Việt Nam, năm 1975, cuộc chiến tranh Mỹ - Việt Nam mới kết thúc. Khu
vực biên giới Việt Nam - Trung Quốc cũng bị ảnh hưởng chiến tranh Mỹ - Việt Nam,
luôn luôn nằm trong một trạng thái canh phòng cao độ. Mặt khác, từ năm 1966 đến
năm 1976 là thời kỳ “cách mạng văn hóa” [12] của Trung Quốc, nền kinh tế đã xây
dựng trì trệ, thương mại biên giới với Trung - Việt cũng suy giảm theo. Đặc biệt là,
sự suy thoái của quan hệ Trung - Việt vào năm 1979, sau khi bùng nổ cuộc chiến
tranh biên giới Việt – Trung. Cho đến năm 1989, trong thời gian mười năm, các
cuộc xung đột biên giới Việt – Trung không ngừng, các cửa khẩu và các lối thông
quan bị đóng cửa, quan hệ giữa chính phủ hai nước bị gián đoạn, thương mại biên
giới Việt – Trung nằm trong trạng thái bế tắc. Trong thời gian này, trong khu vực
biên giới Việt – Trung chỉ còn một phần nhỏ dân biên giới vẫn duy trì liên lạc với
nhau, một số thương mại biên giới quy mô nhỏ giữa những con đường mòn vẫn còn
tiến hành “Ngân hàng tự phát” cũng được đi kèm với thương mại biên giới rải rác
tồn tại, nhưng quy mô hơi nhỏ.
Giai đoạn 1991 - 1995
Năm 1991 quan hệ Việt – Trung bình thường hóa. Ngày 7/11/1991, đại diện
chính phủ Trung Quốc và đại diện chính phủ Việt Nam tại Bắc Kinh đã ký
57
“Hiệp định lâm thời về việc xử lý các vấn đề biên giới của Chính phủ nước Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa và Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam” và “Hiệp định thương mại giữa Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và Chính phủ
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”, cả hai bên cần làm việc với nhau để
thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực biên giới Việt – Trung và tích cực tạo điều
kiện để từng bước mở lên 21 cặp cửa khẩu biên giới. Kể từ đó, chính phủ Việt
Nam đã ký kết một loạt hiệp định kinh tế và thương mại có lợi phát triển kinh
tế thuận lợi trong khu vực biên giới. Hội đồng Nhà nước Trung Quốc đã
cử đội điều tra đến khu vực biên giới, sau khi đến bốn tỉnh Quảng Tây, Tân Cương,
Hắc Long Giang điều tra thực địa, đề xuất chính sách ưu đãi biên cho thương mại
biên giới. Đây là hàng loạt phương pháp để phục hồi nhanh chóng và phát triển vì
thương mại biên giới Việt – Trung bị chiến tranh đình trệ, thương mại biên giới
Việt – Trung mỗi năm khối lượng ngày càng tăng cho thấy một xu hướng tốt. Sau
khi thương mại biên giới Việt – Trung hoàn toàn phục hồi, doanh nghiệp thanh
toán thương mại biên giới cũng hoạt động sôi nổi trở lại. Nhưng, do sự nhiễu loạn
các yếu tố của chiến tranh và chính trị trong nước và ngoài nước lâu dài, chính phủ
Việt – Trung đối với các khu vực biên giới mức độ hỗ trợ tài chính còn yếu. Do đó,
hai bên Trung Quốc và Việt Nam ở giai đoạn này các ngân hàng chính quy còn
chưa tham gia vào hệ thống thanh toán thương mại biên giới. Các giao dịch
thương mại biên giới của Quảng Tây và Vân Nam khi mậu dịch với Việt Nam từ
lâu đã quen sử dụng phương thức thanh toán là “một bên giao tiền, một bên giao
hàng” thanh toán bằng tiền mặt, trong khi thanh toán theo đường chính thức khó
khăn mà đáp ứng việc trao đổi thương mại chủ thể về tiền mặt, tăng nhanh việc thu
vốn lại và nâng cao yêu cầu hiệu quả sử dụng vốn. Vì vậy, thanh toán thương mại
biên giới này giữa Quảng Tây, Vân Nam và Việt Nam trao đổi tiền tệ nhất là hai
bên đổi tiền chủ yếu phụ thuộc vào thành phần tổ chức dân gian “Ngân hàng tự
phát” để hoàn thành đổi tiền ngoại tệ. Sau khi, “Ngân hàng tự phát” bình thường
hóa quan hệ hai nước, với sự thịnh vượng của thương mại biên giới đã được phát
58
triển nhanh chóng và vì không có ngân hàng chính quy can thiệp và cạnh tranh,
“Ngân hàng tự phát” ở giai đoạn này đã trở thành một chủ đạo trong hệ thống
thanh toán thương mại biên giới Trung - Việt .
* Năm 1996 - 2004: Giai đoạn kiềm chế sự phát triển của “Ngân hàng tự phát”
Đối với các hệ thống thanh toán thương mại biên giới Trung - Việt mà nói,
năm 1996 là một năm có ý nghĩa tiêu biểu. Theo tháng 05 năm 1993 Ngân hàng
Trung ương Trung Quốc và Việt Nam đã ký tại Bắc Kinh “Hiệp ước về hợp tác và
thanh toán”. Tháng 12 năm 1996, ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc chi
nhánh Đông Hưng và ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam ở
Móng Cái đã khai thông dịch vụ thanh toán thương mại biên giới. Việc làm
này đánh dấu một chứng tỏ ngân hàng thương mại của Trung Quốc bắt đầu đi vào
kinh doanh dịch vụ thanh toán thương mại biên giới. Ngân hàng Nông nghiệp Trung
Quốc chi nhánh Hà Khẩu cũng vào tháng 12 năm 1997 với Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn Việt Nam Chi nhánh tỉnh Lào Cai ký kết hợp đồng hợp tác
thanh toán thương mại biên giới. Cho đến nay, biên giới Trung Quốc với Việt Nam
tại tỉnh Quảng Tây và tỉnh Vân Nam, hai tỉnh đã đưa ra một ngân hàng chính thức
để trao đổi giải quyết việc thanh toán biên mậu. Sau đó, trong sự phát triển kinh
doanh thanh toán thương mại biên giới chính thức hơn, chuyển khoản, ủy thu, thư
tín dụng và thanh toán thương mại biên giới khác nhiều sản phẩm mới đã đuợc đưa
ra, hệ thống SWIFT an toàn và hiệu quả và dựa trên dịch vụ ngân hàng trực tuyến
trên mạng “biên giới thông” cũng được sử dụng để tăng cường các ngân hàng chính
quy biên hai bên hiệu quả giải quyết sự thanh toán thương mại. Thông qua sự mạnh
mẽ thúc đẩy của ngân hàng thương mại chính quy của chính phủ hai nước Việt –
Trung dịch vụ kinh doanh thanh toán thương mại biên giới đã được phát triển nhanh
chóng. Sau khi ngân hàng thương mại chính quy can thiệp vào hệ thống thanh toán
thương mại biên giới phần lớn đã thu hẹp không gian sinh sống của “Ngân hàng tự
phát”, cơ quan quản lý tài chính ở Quảng Tây, Vân Nam đã nhiều lần đối với “Ngân
hàng tự phát” và tổ chức kinh tế dân gian trong vùng biên giới tiến hành đả kích và
59
thanh lý, làm cho “Ngân hàng tự phát” có thời gian giảm xuống đáng kể. Đến năm
1998, chính phủ Việt Nam đã đưa pháp luật để cung cấp cho “Ngân hàng tự phát”
có tính chất hợp pháp hóa. Tháng 05 năm 2002, Việt Nam ban hành giấy phép kinh
doanh cho những “Ngân hàng tự phát” và chính sách biên giới hai bên trước khi
đóng cửa khẩu bất cứ lúc nào. Xuất nhập cảnh không hạn chế, cho nên trong khu
vực biên giới, nhiều dân xuất nhập cảnh tiến hành triển khai dịch vụ này. Đặc biệt là
nhân viên dịch vụ Việt Nam sang Trung Quốc để tiến hành kinh doanh thường
xuyên. Ở giai đoạn này, chỉ tính trong khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái, tỉnh Quảng
Ninh Việt Nam có gần 50 [4] “Ngân hàng tự phát” đăng ký kinh doanh.
* Năm 2005 đến nay: Giai đoạn hòa hợp, đổi mới và cạnh tranh ngày càng
mạnh mẽ.
Kể từ khi cải cách năm 2005 của chế độ tỷ giá nhân dân tệ, đồng nhân dân
tệ đã hình thành tình hình tỷ giá ổn định, cho nên tiền nhân dân tệ ở Việt Nam giá trị
được tăng lên không ngừng. Tuy nhiên, bởi vì tiền nhân dân tệ và đồng tiền Việt
Nam còn chưa thành lập một cơ chế trao đổi trực tiếp, thông qua “Ngân hàng tự
phát” để tiến hành mậu dịch thực hiện việc thanh toán tiền hàng đã là một lựa chọn
thanh toán của nhiều doanh nghiệp biên mậu số lượng nhỏ và dân thương khách
biên giới Việt – Trung đi lại buôn bán, thúc đẩy sự phát triển của “Ngân hàng tự
phát”. Sau nhiều năm với ngân hàng chính thức cạnh tranh và cải tiến phát triển.
Hiện nay, “Ngân hàng tự phát” đã thay đổi rất nhiều so với giai đoạn đầu của sự
phát triển. Từ quan điểm hình thức tổ chức xem, giai đoạn phát triển đầu của “Ngân
hàng tự phát” nằm rải rác hoạt động kinh doanh theo cá nhân quầy hàng nhỏ.
Giai đoạn này, số lượng của “Ngân hàng tự phát” giảm bớt, nhưng bằng cách từ
hình thức tư nhân kinh doanh rải rác thay đổi thành thực thể kinh tế dân gian do tập
đoàn có thế mạnh tài chính ra đứng đầu và lãnh đạo. Từ bề ngoài xem, dường như
mọi nhà “Ngân hàng tự phát” vẫn tiếp tục là hình thức thực hiện bởi một hoặc hai
nhà kinh doanh trên đường phố chào khách đến. Nhưng trên thực tế, hầu hết các chủ
gian hàng nhỏ này đại đa số có các cơ quan quản lý cấp trên của họ. Một số còn có
60
2 đến 3 lớp cấp trên cơ quan quản lý. Họ chỉ là nhân viên lễ tân của “Ngân hàng tự
phát”. Một số giao dịch lớn hoặc phức tạp vẫn còn phải xin ý kiến của cấp trên. Một
vài “Ngân hàng tự phát” thuê nhân viên có kinh nghiệm của ngân hàng chính qui
làm cố vấn, để họ học hỏi kinh nghiệm quản lý kinh doanh của ngân hàng chính quy.
Mặt khác, từ quan điểm phạm vi kinh doanh, trong thời khoa học kỹ thuật “Ngân
hàng tự phát” mới phát triển, dịch vụ của họ chủ yếu là đổi tiền, ngày nay hoạt động
của “Ngân hàng tự phát” mở rộng trở nên đa dạng hơn, tính chất dịch vụ phong phú
hơn về tài chính ngân hàng .Bởi vì có sức tài chính mạnh của tập đoàn đằng sau hậu
trường hỗ trợ. Trong những năm gần đây, “Ngân hàng tự phát” phần nhiều phát
triển sự trao đổi tiền ngoại tệ từ nơi xa và làm các dịch vụ đại lý thu tiền hàng, cho
vay, với cái cách làm thủ tục nhanh tiện và hiệu quả cao, tốc độ thanh toán tiền
nhanh, cơ sở thuận tiện cũng như tỷ lệ vốn giải quyết nhanh đã thu hút nhiều dân
mậu dịch thương mại biên giới. Ngoài ra, “Ngân hàng tự phát” cũng tổ chức tài trợ
thương mại, bảo lãnh và các giao dịch kinh doanh khác, các tài trợ thương mại, bảo
lãnh đối tượng chính là những thương dân biên giới hoặc doanh nghiệp đã nhiều lần
làm dịch vụ tại “Ngân hàng tự phát”, thường là căn cứ theo tình hình tín dụng của
đối tượng tài trọ đề cung cấp cho số tiền bảo lãnh tài trợ khác nhau. Một số giao
dịch cần phải cung cấp giấy chứng nhận tiền gửi ngân hàng hoặc gán nhà. Nhưng
trong những năm gần đây sự cạnh tranh giữa “Ngân hàng tự phát” với ngân hàng
chính quy ngày càng quyết liệt hơn. Để thúc đẩy thuận lợi hóa thương mại, tiêu
chuẩn hóa. Trung Quốc áp dụng chính sách thí điểm thanh toán thương mại nhân
dân tệ qua biên giới, kể từ ngày 01 tháng 07 năm 2009, tại Thượng Hải và Quảng
Đông, Quảng Châu, Thâm Quyến, Chu Hải và Đông Hoàn bốn thành phố là nơi
công tác thí điểm đi đầu triển khai thanh toán tiền nhân dân tệ thương mại qua biên
giới. Ngày 22/06/2010, Hội đồng Nhà nước cho phép Bắc Kinh, Tây Tạng, Quảng
Tây, Hải Nam, 18 tỉnh (khu tự trị và thành phố) là đợt thứ hai khu tỉnh thí điểm
thanh toán tiền nhân dân tệ thương mại qua biên giới. Mặc dù bị ảnh hưởng của lối
thanh toán giữa hai nước ngân hàng Việt – Trung không được lưu thông, kiểm soát
61
của chính phủ Việt Nam hạn chế ngoại hối và cơ chế liên quan không hoàn thiện và
những yếu tố khác. Trung Quốc đối với dịch vụ thanh toán nhân dân tệ mậu dịch
quá cảnh Việt Nam vẫn còn nhiều trở ngại. Nhưng với chính sách cải cách hoàn
thiện không ngừng, thì sẽ có nhiều doanh nghiệp đủ điều kiện đối với các công ty
thương mại biên giới sẽ chọn ngân hàng chính quy để làm thủ tục thanh toán thương
mại biên giới.
3.1.2. Nguồn gốc xã hội: “Ngân hàng tự phát” để bù đắp cho sự thiếu hụt trong
cơ chế giải quyết thương mại biên giới
Đầu tiên, lối thanh toán thương mại biên giới ngân hàng thương mại chính quy
Việt – Trung không được lưu thông. Chủ yếu biểu hiện là ngân hàng thương mại
chính quy không kinh doanh dịch vụ đổi tiền nhân dân tệ ra đồng tiền Việt Nam trao
để đổi trực tiếp. Khi nhà xuất khẩu nước đối phương đòi hỏi phải thanh toán tiền
hàng bằng tiền mặt trong khi ngân hàng thương mại chính quy không có đủ số tiền
yêu cầu, vì thế “Ngân hàng tự phát” đã giải quyết số tiền cần thanh toán. Ngân hàng
thanh toán thương mại biên giới trong tình trạng bị động. Nguyên nhân chủ yếu do
hai bên không vận hành ngân hàng thương mại chính quy vào kinh doanh dịch vụ
trao đổi trực tiếp tiền nhân dân tệ và tiền Việt Nam. Tình trạng này do giữa ngân
hàng chính quy Việt – Trung còn thiếu một cơ chế củng cố và thanh toán đồng tiền
mặt Việt Nam và tiền nhân dân tệ của Trung Quốc. Đồng tiền Việt Nam biến động
lớn, cùng với cơ chế củng cố thanh toán bù trừ của ngân hàng chưa được hình thành.
Các thương nhân Trung Quốc cho rằng nắm giữ đồng tiền Việt Nam sẽ có rủi ro lớn.
Vì vậy, ngân hàng thương mại chính quy Trung Quốc không muốn cầm giữ đồng
tiền Việt Nam. Ngoài ra, cũng vì giữa ngân hàng hai bên hệ thống bình bổ thanh
toán còn chưa được hoàn thiện. Đồng thời, ngân hàng thương mại Việt Nam cũng
không muốn giữ đồng tiền mặt Việt Nam quá nhiều. Năm 2007, Ngân hàng Nông
nghiệp Việt Nam xuất hiện kinh doanh nhân dân tệ suy sụp và xin Cục Quản lý
Ngoại tệ chi nhánh tỉnh Vân Nam đề xuất sẽ lấy số tiền đã đặt trong tài khoản ngân
hàng Kiến thiết 300 triệu tiền nhân dân tệ đổi sang tiền đô la Mỹ và chuyển giao trở
62
lại cho Việt Nam. Đó là một sự việc điển hình về lối thanh toán bù trừ của hai bên
Việt – Trung không lưu thông. Thứ hai là tỷ giá ngân hàng chính quy thiếu quyền
định giá tỷ lệ đổi tiền nhân dân tệ với tiền Việt Nam. Mặc dù, Ngân hàng nông
nghiệp Trung Quốc tỉnh Vân Nam chi nhánh Hà Khẩu trong năm 2004 đã đưa đầu
treo bảng giá tỷ lệ đổi tiền nhân dân tệ với tiền Việt Nam. Ngân hàng Công thương
Trung Quốc Chi nhánh Quảng Tây năm 2011 đã đưa ra quầy giao dịch treo bảng giá
đổi nhân dân tệ với đồng tiền Việt Nam. Tiếp theo là Ngân hàng Vịnh Bắc Bộ
Quảng Tây, Ngân hàng Trung Quốc chi nhánh Quảng Tây cũng Bắt đầu treo bàng
giá đổi tiền nhân dân tệ với đồng tiền Việt Nam, nhưng hiện nay tỷ giá thị trường
nhân dân tệ với đồng tiền Việt Nam vẫn do “Ngân hàng tự phát” quyết định. Chủ
yếu là do ngân hàng thương mại chính quy hai bên còn chưa tham gia vào lĩnh vực
chuyển đổi trực tiếp của nhân dân tệ và đồng tiền Việt Nam dẫn đến tình hình
“Ngân hàng tự phát” nhất thống tỷ giá. Ngân hàng chính quy mất quyền định giá.
“Ngân hàng tự phát” có tính chất kinh doanh với chi phí vận hành thấp, báo giá hấp
dẫn, cung cấp tiền bạc và tình hình nhu cầu về những lợi thế thị trường phản ứng
nhanh. Mặc khác “Ngân hàng tự phát” trong một thời gian dài phát triển và mở rộng,
đã có quy mô quỹ lớn và có thể liên hợp với nhiều nhà “Ngân hàng tự phát” triển
khai dịch vụ. Nếu ngân hàng thương nghiệp chính quy treo bảng giá đổi tiền nhân
dân tệ và đồng tiền Việt Nam không căn cứ theo sự biến hóa cung ứng của thị
trường và nhu cầu điều chỉnh kịp thời sẽ phát sinh từ cơ hội lợi nhuận. Đồng thời,
có thể sẽ bị “Ngân hàng tự phát” tấn công. Do đó, để bảo vệ phòng chống tỷ giá rủi
ro, ngân hàng thương mại chính quy có thể không đưa ra một mức giá niêm yết hợp
lý và ngân hàng thương mại chính quy Việt – Trung cũng bị mất quyền định giá tỷ
giá đổi tiền đồng nhân dân tệ với tiền Việt Nam. Theo tài liệu năm 2011 của Ngân
hàng Nhân dân Trung Quốc Trung tâm Chi nhánh Nam Ninh cho biết: hiện tại,
“Ngân hàng tự phát” định giá tỷ lệ đổi tiền nhân dân tệ ra đồng tiền Việt Nam vẫn là
ưu thế chủ đạo tỷ giá thị trường của tiền nhân dân tệ ra đồng tiền Việt Nam. Thứ ba,
Trung Quốc và Việt Nam đã chưa có chính sách hỗ trợ phù hợp. Từ quan điểm của
63
Trung Quốc, hệ thống quản lý thanh toán thương mại biên giới không thống nhất,
các ngân hàng thương mại chính quy ở khu vực biên giới Quảng Tây, Vân Nam khi
tiến hành công việc thanh toán thương mại qua biên giới đã phù hợp với các thỏa
thuận cơ quan ký kết giữa Ngân hàng của mình và đại lý Việt Nam ký hiệp ước để
đặt ra quy định phương pháp quản lý thanh toán thương mại biên giới của Ngân
hàng mình và không có hệ thống quản lý thanh toán thương mại biên giới thống
nhất. Kết quả là tỷ giá nhân dân tệ so với đồng tiền Việt Nam, lệ phí kinh doanh và
các thủ tục lưu trình khác đối với quá trình này là không thống nhất, không tiện cho
khách hàng đến các ngân hàng khác nhau để giao dịch và cũng không tiện cho cơ
quan quản lý tài chính thống nhất quản lý. Từ quan điểm phía Việt Nam, chính phủ
Việt Nam để thực hiện một số chính quyền hạn chế ngoại hối của ngân hàng để thực
hiện việc thanh toán thương mại qua biên giới. Một là, chính phủ Việt Nam chỉ cho
phép đồng nhân dân tệ ở nước láng giềng trong khu cửa khẩu kinh tế và khu vực
biên giới Việt Nam - Trung Quốc lưu thông và sử dụng, chỉ cho phép Ngân hàng
Công thương chính quy Việt Nam tại khu kinh tế cửa khẩu và khu biên giới tiến
hành kinh doanh dịch vụ nhân dân tệ. Thứ hai, đối với doanh nghiệp Việt Nam gửi
tiền nhân dân tệ tại lãnh thổ Trung Quốc không được công nhận, nếu thu tiền xuất
khẩu mà không chuyển tiền vào địa phận Việt Nam, sẽ không được hưởng xuất
khẩu hoàn thuế. Những chính sách này làm cho các doanh nghiệp Việt Nam và cá
nhân trong nước ta làm dịch vụ thanh toán. Trong nội địa Việt Nam dùng tiền nhân
dân tệ sẽ bị hạn chế. Mặt khác, các ngân hàng thương mại chính quy Trung Quốc và
Việt Nam có cách quản lý tài khoản thanh toán thương mại biên giới của riêng mình,
các điều khoản sử lý dịch vụ kinh doanh liên quan không thống nhất, không có lợi
cho doanh nghiệp thanh toán thương mại qua biên giới giữa hai bên. Mặt khác, các
ngân hàng thương mại chính qui Trung Quốc và Việt Nam có cách quản lý tài khoản
thanh toán thương mại biên giới của riêng mình, các điều khoản sử lý dịch vụ kinh
doanh liên quan không thống nhất, không có lợi cho doanh nghiệp thanh toán
thương mại qua biên giới giữa hai bên. Đó là vì cơ chế thanh toán thương mại biên
64
giới Việt – Trung tồn tại trong những vấn đề chủ yếu trên và “Ngân hàng tự phát”
sẵn sàng chấp nhận rủi ro biến động tỷ giá tiền Viẹt Nam. Hoạt động trao đổi trực
tiếp giữa đồng nhân dân tệ và đồng tiền Việt Nam có thể huy động quy mô lớn quỹ
tiền tệ. Vì vậy, “Ngân hàng tự phát” trong việc thanh toán thương mại biên giới
Trung - Việt vẫn đóng một vai trò quan trọng. Khi nhập khẩu thương mại biên
giới phải trả tiền của nước kia. Ngân hàng thương mại chính quy cần phải cấp vốn
tiền mặt đồng nhân dân tệ hoặc đồng tiền Việt Nam. Chỉ có “Ngân hàng tự phát”
mới có quỹ dự trữ ngoại tệ để được giúp đỡ. Như vậy, “Ngân hàng tự phát” bù đắp
thiếu sót của lối thanh toán ngân hàng thương mại biên giới Việt – Trung không lưu
loát, là thanh tính cuối cùng và người điều hòa thanh toán thương mại biên giới có
thể bảo vệ tiến hành trôi chảy của các thanh toán thương mại biên giới trong khu
vực biên giới Trung - Việt .
Nguồn gốc kinh tế
“Ngân hàng tự phát” chủ yếu để đáp ứng nhu cầu tài chính thanh toán
thương mại biên giới số lượng nhỏ và dân biên giới đi lại buôn bán thanh toán biên
mậu tại khu vực biên giới Trung - Việt . “Ngân hàng tự phát” là một sản phẩm đặc
biệt của hoạt động thương mại quá cảnh ở khu vực biên giới, tuy nhiên, không phải
tất cả thương mại biên giới được đều cần “Ngân hàng tự phát” tham gia, công ty lớn
trong khu bảo thuế, do sự giám sát nghiêm ngặt của hải quan, thường có một hệ
thống giải quyết thanh toán tiêu chuẩn sẽ không chọn “Ngân hàng tự phát” để làm
dịch vụ thanh toán. “Ngân hàng tự phát” chủ thể nhu cầu tài chính chủ yếu là các
doanh nghiệp triển khai mậu dịch số lượng nhỏ và cá nhân để thực hiện đi lại buôn
bán thương mại biên giới. Thực hiện việc xuất nhập khẩu mậu dịch của các công ty
nhỏ, các doanh nghiệp nhỏ thường là kinh tế tài chính yếu kém, hệ thống kế toán tài
chính không hoàn hảo, nhưng các ngân hàng thương mại chính quy để xử lý các
doanh nghiệp kinh doanh thanh toán thương mại biên giới có điều kiện thẩm định
nghiêm ngặt hơn. Nhiều công ty nhỏ, các doanh nghiệp nhỏ có thể không cung cấp
tài liệu và thủ tục cần thiết cho ngân hàng chính quy. Do đó không thể thông qua
65
ngân hàng chính quy làm thủ tục thanh toán và chuyển đổi tiền, đối với cá nhân dân
biên giới trong khi đi lại buôn bán mậu dịch biên giới và để tiến hành các hoạt động
kinh doanh cũng vậy. Trong khu vực biên giới Trung - Việt, nhiều dân biên giới
nhập khẩu trái cây sấy khô, nước hoa, thuốc mỡ Bạch hổ đặc sản Việt Nam
về, hoạt động theo hình thức bán kinh doanh cá thể; dân biên giới của Trung Quốc
cũng đi ra cửa khẩu sang Việt Nam để mang theo quần áo, các đồ điện gia dụng
nhỏ, đặc sản hàng hoá Trung Quốc hoạt động kinh doanh. Những thương hiệu biên
mậu này vốn ít, tính lưu động lớn, thường là do thiếu trình độ chuyên môn, giấy tờ
chứng minh không đầy đủ mà không được các cơ quan liên quan cấp giấy cho phép
kinh doanh mậu dịch biên giới. Ngưỡng cửa của ngân hàng thương mại chính quy
hơi cao và thủ tục rườm rà phức tạp hơn cũng làm cho việc giao dịch khó mà thông
qua ngân hàng chính quy tiến hành thanh toán. Ngoài ra, do hoạt động biên giới
thương mại có đặc điểm lượng nhỏ, giao dịch liên tiếp, tính lưu động lớn, vì vậy các
công ty và thương hộ cá nhân trong khu vực biên giới từ lâu đã rất ưu chuộng cho
việc sử dụng thanh toán bằng tiền mặt. Đặc biệt là dân biên giới đi lại buôn bán với
nhau trong các khu vực biên giới. “Ngân hàng tự phát” có ưu thế như thủ tục đơn
giản, tính năng thuận tiện nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu kinh doanh thương mại
biên giới nhỏ và dân biên giới đi lại buôn bán với nhau trong các khu vực biên giới.
Những năm gần đây, với sự phát triển sâu của Khu vực tự do Trung Quốc - ASEAN,
tỉnh Quảng Tây, Vân Nam và thương mại biên giới số lượng nhỏ và dân biên giới đi
lại buôn bán với nhau trong các khu vực biên giới Việt Nam nổi lên đà tăng trưởng
nhanh chóng. Năm 2012, tổng số xuất nhập khẩu của thương mại biên giới Quảng
Tây với Việt Nam là 8,348 tỷ USD, tăng 33,6%; năm 2011, tổng số xuất nhập khẩu
của thương mại biên giới giữa Vân Nam và Việt Nam là 290 triệu USD, tăng 35 %;
Năm 2011, thành phố Đông Hưng Quảng Tây thương mại biên giới là 1,475 tỷ USD,
tăng 53,6% [41], so với Vân Nam và Việt Nam thương mại biên giới và dân biên
giới đi lại buôn bán với nhau trong các khu vực biên giới điểm kinh doanh có đà
phát triển rất tốt. Theo quy mô mậu dịch của tỉnh Quảng Tây, Vân Nam thương mại
66
biên giới không ngừng mở rộng, thương mại biên giới cá thể và dân biên giới đi lại
buôn bán thương mại biên giới đối với “Ngân hàng tự phát” nhu cầu thanh toán và
đổi tiền cũng theo quy mô kinh doanh mở rộng mà không ngừng tăng thêm. “Ngân
hàng tự phát” hoạt động kinh doanh sẽ trở nên sôi nổi hơn.
“Ngân hàng tự phát” ngoài dịch vụ chủ yếu là phục vụ thương mại biên giới
nhỏ và dân biên giới đi lại buôn bán mậu dịch. Nó ngày càng đa dạng hơn. Loại
hình kinh doanh được phục vụ tốt hơn cho nhu cầu khác của thị trường giao dịch
chủ thể trong khu vực biên giới.
Thứ nhất, trong khu vực biên giới Trung - Việt có nhiều doanh nghiệp trung
bình, nhỏ và hộ kinh doanh cá nhân thực lực tài chính yếu kém, trình độ chuyên
môn chưa đầy đủ, khó mà để có được nguồn vốn hỗ trợ của ngân hàng thương mại
chính quy. Do đó, khi vốn của những doanh nghiệp trung bình, nhỏ và hộ kinh
doanh cá nhân này khó chu chuyển không thể trả tiền hàng cho nhà xuất khẩu bên
kia, thông thường đều làm dịch vụ bảo đảm thủ tục tạm ứng tiền hàng tại “Ngân
hàng tự phát”, có những doanh nghiệp trung bình và nhỏ và cá thể hộ kinh doanh vì
trong cơ chế tài chính chính quy khó mà có được hộ trợ cho nên đã trở thành nhóm
khách hàng ổn địch của” Ngân hàng tự phát”. Năm 2003, Vân Nam có một công ty
có một số tiền thanh toán trước rất lớn, thông qua điều tra cho thấy, công ty đó dài
hạn trong trạng thái lỗ vốn, vốn lưu động khoảng trống lớn. Nó chủ yếu lấy tiền
ngoại tệ đổi về là để sử dụng cho việc trả tiền lương và bù vảo khoản chống của vốn
lưu động. Vì thế, chúng ta có thể thấy rằng công ty này có xu hướng đã thông qua
“Ngân hàng tự phát” tiến hành góp vốn ngắn hạn.
Thứ hai là đối với thương khách Trung - Việt sự cần thiết đến nước đối phương
du lịch, tiêu thụ hoặc đầu tư mà nói các hộ kinh doanh muốn tiền địa phương tồn tại
thì nhiều thương nhân cần phải đi vào sâu lãnh thổ của nước khác, đổi một số tiền
của nước đó, để trả tiền hàng nhưng các ngân hàng thương mại chính quy còn chưa
mở dịch vụ tiền nhân dân tệ đổi ra tiền mặt Việt Nam. Vì vậy, du khách sẽ thông
qua “Ngân hàng tự phát” để trao đổi tiền.
67
Thứ ba, đối với một số dân biên giới Việt Nam, bởi vì trong những năm gần đây
giá trị của đồng nhân dân tệ ổn định và tăng cao, còn đồng tiền Việt Nam thì trong
sự mất giá và liên tục xuống giá. Do đó, có một số dân biên giới Việt Nam thông
qua “Ngân hàng tự phát” đổi đồng tiền Việt Nam chuyển đổi thành nhân dân tệ và
sau đó gửi vào tài khoản trong ngân hàng thương mại chính quy của Trung Quốc,
hy vọng sẽ làm tăng giá tài sản bảo hiểm rủi ro tiền tệ của họ.
“Ngân hàng tự phát” có lợi thế kinh doanh nghiệp vụ đa dạng, hiệu quả và
thuận tiện của nó để đáp ứng tốt hơn các nhu cầu tài chính của người chủ thể các thị
trường khác nhau và hiện tại thông qua các “Ngân hàng tự phát” thanh toán thương
mại đại đa số là hợp pháp thương mại, có thể thấy rằng, “Ngân hàng tự phát” đối
với sự phát triển của thương mại biên giới Trung - Việt trong việc thúc đẩy vẫn
đóng một vai trò lớn hơn.
Tính hạn chế của Ngân hàng thƣơng mại chính quy
Mặc dù, trong những năm gần đây ngân hàng thương mại chính quy theo
hướng dẫn của cơ quan quản lý tài chính của Trung Quốc đã đẩy nhanh tốc bước
xây dựng hệ thống thanh toán thương mại biên giới nhưng” Ngân hàng tự phát” so
với các ngân hàng thương mại chính quy vẫn có những lợi thế riêng của mình. Các
ngân hàng thương mại chính quy trước mắt vẫn còn khó khăn để hoàn toàn thay thế
“Ngân hàng tự phát”.
Thứ nhất, từ điểm kinh doanh phân bố theo số liệu của tỉnh Quảng Tây cho
thấy từ kinh doanh đến giá thành và lợi nhuận. Ngân hàng thương mại chính quy
không thể thiết lập các chi nhánh tại tất cả các khu vực biên giới Trung - Việt . Theo
Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc chi nhánh trung tâm thành phố Nam Ninh tài liệu
cho thấy, tính đến cuối năm 2008 đã được ngân hàng công nghiệp, ngân hàng Trung
Quốc, ngân hàng nông nghiệp, ngân hàng xây dựng bốn ngân hàng thương mại nhà
nước, 10 chi nhánh ngân hàng thương mại đã thành lập mối quan hệ đại lý với các
ngân hàng thương nghiệp Việt Nam nhưng chỉ có mở năm chi nhánh nằm tại cửa
68
khẩu quốc tế loại 1 của Quảng Tây, bảy cửa khẩu biên giới loại 2 đều không có
mạng lưới dịch vụ, và trong 10 cơ quan này, có tám chi nhánh được đặt tại Đông
Hưng, Bằng Tường, Hữu Nghị. Qua ba cửa khẩu lớn, lượng giao dịch cũng tập
trung trong những nơi này. Hai cửa khẩu khác chỉ có hai chi nhánh và khối lượng
kinh doanh còn nhỏ. Mặc dù, trong những năm gần đây các tổ chức ngân hàng
chính thức cũng đã tăng nhiều ngân hàng thương mại. Nhưng tốc độ mở rộng vẫn
còn tương đối chậm, tính đến tháng 11 năm 2012, khu vực Quảng Tây chỉ có ngân
hàng công thương, Ngân hàng Nông nghiệp, Ngân hàng Trung Quốc, Ngân hàng
xây dựng và ngân hàng Vịnh Bắc Bộ Quảng Tây năm ngân hàng thương mại, năm
ngân hàng thương mại ở Quảng Tây đã mở 5 ngân hàng trong cửa khẩu cấp 1 kinh
doanh thanh toán thương mại biên giới. Các ngân hàng thương mại cũng đang dần
phát triển kinh doanh thanh toán điện tử, nhưng đối với nhiều doanh nghiệp vừa và
nhỏ và hộ cá thể mà nói, họ vẫn quen với việc đến điểm thực thể làm dịch vụ.
Thanh toán thương mại biên giới mô hình phân phối không đồng đều của các điểm
thanh toán, lượng giao dịch quá tập trung là không có lợi cho sự phát triển cân bằng
của khu vực Quảng Tây. Ngân hàng thương mại chính quy kinh doanh thanh toán
thương mại qua biên giới phát triển không đều, không tạo thuận lợi triển khai
hoạt động thương mại qua biên giới của các doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh
làm dịch vụ thanh toán biên mậu. Ngược lại, “Ngân hàng tự phát” là do những thực
thể kinh tế nằm rải rác tổ chức thành, cơ cấu tổ chức lỏng lẻo, không có văn phòng
cố định, tính lưu động cao, hầu như trong tất cả các khu vực biên giới đều có hình
bóng của “Ngân hàng tự phát” xuất hiện, người kinh doanh “Ngân hàng tự phát”
hoặc nhân viên nghiệp vụ trên khắp khu biên giới đi trên khắc các đường phố để thu
hút khách hàng và có thể đến tận nhà để cung cấp các dịch vụ kinh doanh cho các
doanh nghiệp và hộ cá thể kinh doanh, đã được nhiều doanh nghiệp công ty và cá
thể hoan nghênh.
Thứ hai là từ nay, người kinh doanh xem ngân hàng thương mại chính quy dịch
vụ thanh toán thương mại không dùng tiền mặt với các doanh nghiệp. Thời gian làm
69
việc từ thứ hai đến thứ sáu, sáng từ 8:30-12:00, chiều từ 14:30-17:00, ngày cuối
tuần và ngày lễ đều không làm việc. Thời gian sắp xếp như thế này là ngân hàng
thương mại chính quy lượng dịch vụ tích tổng hợp, sắp xếp nhân sự, chi phí của
hoạt động và các yếu tố khác để xem xét, nhưng thương mại biên giới, đặc biệt là
trong thương mại biên giới số lượng nhỏ và dân biên giới đi lại buôn bán số tiền ít
và nhiều lần và có đặc điểm giao dịch thường xuyên, các ngân hàng thương mại
chính quy thời gian làm việc đối với các doanh nghiệp thương mại biên giới và kinh
doanh cá thể mang lại xử lý tiến độ kinh doanh thanh toán thương mại qua biên giới
bất tiện. Nhưng “Ngân hàng tự phát” không hạn chế giờ hoạt động kinh doanh, có
thể nói hoạt động 24 giờ đồng hồ một ngày và sẽ luôn luôn có thể thực hiện công
việc kinh doanh. Kết quả là công ty thương mại biên giới kinh doanh và hộ cá nhân
trong ngày cho bất kỳ khoảng thời gian cần thiết nào cần xử lý giải quyết thanh toán,
đổi ngoại tệ và kinh doanh chuyển tiền, cũng có thể đến để “Ngân hàng tự phát”
quầy hàng xử lý được và cũng có thể gọi điện thoại trực tiếp cho nhân viên dịch vụ
của “Ngân hàng tự phát”, do họ đến tận nơi cung cấp dịch vụ phục vụ, hay là liên hệ
trực tiếp với nhà kinh doanh “Ngân hàng tự phát” xin tạm ứng tiền hàng, sau đó
thanh toán sau, “Ngân hàng tự phát” giờ làm việc linh hoạt, đối với biên mậu số
lượng nhỏ và nhiều lần thanh toán tốt hơn tính năng phù hợp hơn.
Thứ ba, từ quá trình hiệu quả làm dịch vụ mà xem. Để cân nhắc bảo mật tài
sản và quản lý rủi ro, ngân hàng thương mại chính quy có một chế độ xem xét kiểm
soát dịch vụ tương đối thận trọng và chặt chẽ. Ví dụ như doanh nghiệp trong ngân
hàng thương mại chính quy để làm dịch vụ thanh toán thương mại biên giới và thu
trả tiền tệ, công ty hoặc doanh nghiệp đầu tiên phải mở tài khoản thanh toán thương
mại biên giới tại ngân hàng và cung cấp các chứng từ thương mại phù hợp, như các
hợp đồng xuất nhập khẩu, giấy hoạch toán trả tiền hàng nhập khẩu, giấy hoạch toán
trả tiền hàng xuất khẩu, hóa đơn hàng hóa, tờ khai hải quan… để xử lý các dịch vụ
nhận và chi trả. Những tài liệu này phải cung cấp Cho ngân hàng, công ty còn phải
70
đến cục quản lý ngoại tệ. Cục thường vụ, cục phòng thuế, Hải quan và các phòng
ban khác để gửi đơn xin, cần phải thông qua các thủ tục có liên quan và chứng minh
mới được phê duyệt. Sau khi qua hàng loạt các thủ tục phức tạp, doanh nghiệp mới
được ngân hàng thương mại chính quy chấp nhận có trình độ làm thủ tục thương
mại biên giới chính thức dịch vụ thu trả và tư cách tương ứng. Một số các công ty
trung bình và nhỏ và hộ kinh doanh cá thể trong khu vực biên giới khó mà đáp ứng
các yêu cầu nghiêm ngặt để được phê duyệt. Cho dù đạt được đáp ứng yêu cầu,
nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ và hộ kinh doanh cá thể cũng cảm thấy làm việc với
ngân hàng thương mại chính thức, thủ tục phức tạp và hiệu xuất thấp. Ngược lại,
thông qua “Ngân hàng tự phát” làm dịch vụ chuyển đổi tiền và thanh toán khoản
tiền hàng trên cơ bản là không cần phải làm bất kỳ thủ tục nào, thậm chí không cần
phải ký văn bản thỏa thuận, phụ thuộc vào đàm phán bằng lời nói. Chẳng hạn như,
doanh nghiệp hoặc cá nhân trong “Ngân hàng tự phát” để xử lý kinh doanh thu đổi
ngoại tệ, nếu một khách hàng muốn ở khu vực biên giới của tỉnh Quảng Tây, Vân
Nam chuyển tiền về Việt Nam, chỉ cần cho biết họ tên, địa chỉ, số điện thoại của
người nhận và các thông tin khác để nói cho nhà kinh doanh “Ngân hàng tự
phát” biết. Sau đó đưa tiền cho nhà kinh doanh “Ngân hàng tự phát”, người thụ
hưởng sẽ rất nhanh ở Việt Nam nhận được số tiên tương đương. Nếu bạn là khách
hàng cũ, thậm chí có thể bạn chỉ cần gọi một cú điện thoại trước bảo nhà kinh
doanh “Ngân hàng tự phát” gửi tiền cho người thụ hưởng, sau đó mới thanh toán
với “Ngân hàng tự phát”. Bởi vì họ không cần phải làm bất kỳ thủ tục hoạch toán
nào, “Ngân hàng tự phát” làm dịch vụ hiệu xuất cao hơn. Cho nên, “Ngân hàng tự
phát” đã trở thành một lựa chọn hàng đầu và ưa thích đối với nhiều doanh nghiệp
trung bình, nhỏ và hộ kinh doanh cá nhân để tiến hành các hoạt động thanh toán
thương mại qua biên giới.
Bốn là, từ quan điểm chi phí ta thấy, doanh nghiệp thương mại biên giới Trung
- Việt và hộ cá thể, nếu làm dịch vụ thu đổi chuyển tiền trong ngân hàng thương
71
mại chính quy thì phải chịu hai loại chi phí giá thành, một loại là cho các chi phí
mua bán giá chênh lệnh của tiền nhân dân tệ đổi ra tiền Việt, đồng đô la Mỹ và các
ngoại tệ khác. Ngân hàng thương mại chính quy của Trung Quốc mua bán ngoại hối
chênh lệch là 5‰, vì đồng tiền Việt Nam tỷ giá biến động hơi lớn, đổi tiền nhân dân
tệ sang đồng tièn Việt Nam rủi ro cao hơn. Do đó, chi phí đổi cao hơn, căn cứ theo
hiển thị dữ liệu của Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc chi nhánh Đông Hưng
cung cấp, mua bán tiền VN chênh lệch là 200 VN đồng. Một loại nữa là chi phí vốn
ngoại tệ qua biên giới. Khi chuyển tiền qua ngân hàng thương mại chính quy, ngân
hàng thương mại và ngân hàng nước láng giềng đại lý đều thu chi phí chuyển tiền
qua biên giới của khách hàng, từ Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc chi
nhánh Đông Hưng tìm hiểu biết, chi phí được tính vào số tiền thanh toán của khách
hàng là 1%, tối thiểu là 50 nhân dân tệ và không giới hạn trở lên. Vì vậy, các doanh
nghiệp thương mại biên giới và hộ kinh doanh cá thể trong các ngân hàng thương
mại chính quy mỗi làm một dịch vụ sẽ phải trả không ít hơn 50 nhân dân tệ và các
chi phí tiền đổi giá chênh lệch. Nhưng trong “Ngân hàng tự phát” nếu làm một dịch
vụ chỉ phải trả 20 đến 30 nhân dân tệ và tiền đổi ngoại tệ giá chênh lệch mua bán và
không có thu chi phí thủ tục nữa. Vì vậy cho thấy, “Ngân hàng tự phát” chi phí dịch
vụ thấp cũng thu hút được rất nhiều vốn thực lực yếu hơn, cố gắng để tiết kiệm chi
phí giao dịch của các doanh nghiệp thương mại và các hộ kinh doanh cá nhân.
“Ngân hàng tự phát” và các ngân hàng thương mại chính quy làm dịch vụ thanh
toán thương mại qua biên giới và tình hình liên quan so sánh như trong bảng sau:
72
Bảng 1.3: Bảng so sánh ngân hàng chính quy và “Ngân hàng tự phát”
Nguồn tài liệu: Tác giả sưu tầm
Quy định về ngoại hối có sự khác biệt giữa Trung Quốc và Việt Nam
Theo luật pháp của Trung Quốc quy định, doanh nghiệp và người dân nếu cần
trao đổi tiền tệ phải đến cơ quan quản lý tài chính chấp thuận việc thành lập các
ngân hàng ngoại hối được chỉ định và các tổ chức phi ngân hàng thu đổi ngoại tệ
chuyển đổi tiến hành đổi tiền, cư dân cá nhân không được phép triển khai dịch vụ
kinh doanh ngoại hối. Do đó, “Ngân hàng tự phát” ở Trung Quốc được coi là các tổ
chức tài chính tư nhân bất hợp pháp, nhà kinh doanh “Ngân hàng tự phát” tham gia
trao đổi ngoại tệ, chuyển ngoại hối và các hoạt động khác là bất hợp pháp. Trong
những năm gần đây, tỉnh Quảng Tây và Vân Nam của Trung Quốc, các cơ quan
công an cũng đã cùng ngân hàng nhân dân cơ quan quản lý ngoại tệ và các phòng
ban khác đã nhiều lần cùng nhau triển khai các hành động chung để đả kích các
“Ngân hàng tự phát” tại biên giới Trung - Việt , mặc dù nó đã đạt được một số thành
tích và có tác dụng răn đe nhất định. Sau khi trong một khoảng thời gian đả
kích đấu tranh hoạt động, “Ngân hàng tự phát” trong địa phương hầu hết biến mất,
73
nhưng sau khi việc quản lý thả lỏng xong “Ngân hàng tự phát” đã dần dần
hoạt động trở lại, hiệu quả quản trị là không đựoc hiệu quả. Nhưng “Ngân hàng tự
phát” ở Việt Nam được công nhận và được bảo vệ bởi luật pháp, chính phủ Việt
Nam cho phép tổ chức trao đổi tiền tệ tư nhân tồn tại. Năm 1998, chính phủ Việt
Nam trong điều lệ quản lý ngoại hối cho thêm điều dân biên giới Việt Nam và tổ
chức được phép thiết lập các điểm đổi ngoại tệ dân gian trong khu vực biên giới
Trung - Việt , cũng như là trứớc pháp lý của nhà nước sẽ chính thức cung cấp cho
hoạt động lâu dài trong khu vực biên giới, tình trạng nửa bí mật và bí mật của
“Ngân hàng tự phát” tại Việt Nam có tính chất hợp pháp. Sau đó, chính phủ Việt
Nam lại ra một số pháp luật và quy định có liên quan đến “Ngân hàng tự phát”.
Từ đầu tháng 05 năm 2002 đã bắt đầu cấp giấy phép kinh doanh cho những “Ngân
hàng tự phát” phù hợp quy định và pháp luật đã ban. Bởi vì chính phủ Trung Quốc
và chính phủ Việt Nam đối với pháp luật quy định có xung đột và cả dân biên giới
hai bên Trung Quốc - Việt Nam cũng đã quen sử dụng “Ngân hàng tự phát” thuận
tiện để xử lý tiền thanh toán thương mại qua biên giới. Vì vậy, cơ quan công an và
Ngân hàng Nhân dân và các phòng ban khác đả kích “Ngân hàng tự phát” là một
khó khăn lớn, cũng đã rất nhiều đề xuất ra rất nhiều phương án để quản lý cũng bởi
vì không thể phối hợp thương lượng phù hợp tốt hơn giữa hai bên nên khó mà đạt
được kết quả. Đây cũng là nguyên nhân môi trường bên ngoài cho “Ngân hàng tự
phát” tồn tại lâu dài ở khu vực biên giới Trung - Việt .
3.2. Tác động của “Ngân hàng tự phát” tới kinh tế biên mậu khu vực biên giới
Việt - Trung
3.2.1. Điểm mạnh của hoạt động “Ngân hàng tự phát” và tính bất hợp pháp trong
hoạt động của “Ngân hàng tự phát”
“Ngân hàng tự phát” được hình thành một cách tự nhiên bởi sức mạnh của
nhân dân, hình thức của các tổ chức tài chính không công khai và không hợp phát
hóa, nhà kinh doanh “Ngân hàng tự phát” tính cảnh giác rất mạnh, thường chỉ tiến
74
hành giao dịch với khách quen hoặc khách hàng do người quen giới thiệu đến giao
dịch, cả hai bên tiến hành giao dịch riêng, thương lượng xong giao dịch. Đặc biệt là
“Ngân hàng tự phát” trong khu vực biên giới Vân Nam - Quảng Tây, vì không
giống như ở Việt Nam, “Ngân hàng tự phát” đã được chính phủ Việt Nam hợp pháp
hóa thừa nhận, nhưng hay bị cơ quan quản lý tài chính Trung Quốc thanh lý và đả
kích. Do đó, ở Quảng Tây, Vân Nam các nhà kinh doanh “Ngân hàng tự phát” và
các cơ quan quản lý triển khai đóng cửa các Ngân hàng tự phát. Khi các nhà quản lý
đến “Ngân hàng tự phát”, họ đóng cửa ngay. Nhưng sau đó, các cơ quan quản lý
vừa đi, nhân viên “Ngân hàng tự phát” lại ra đường phố kéo khách hàng. Kết quả là
“Ngân hàng tự phát” luôn luôn nằm trong khu vực hoạt động quản lý tài chính bất
hợp pháp, các cơ quan quản lý tài chính khó mà nắm được tình hình thực tế của
“Ngân hàng tự phát”, không bắt được động thái lưu động vốn của “Ngân hàng tự
phát” giám sát có hiệu quả rất khó khăn.
* Tính tích cực của “ Ngân hàng tự phát”: Hoạt động “Ngân hàng tự phát” có
tính linh hoạt giao dịch
Ngân hàng thương mại chính quy bị hạn chế bởi các yếu tố như: chi phí vận
hành, phân bổ nguồn lực, các luật quy định và nhiều yếu tố khác, phải có cơ sở kinh
doanh cố định, theo giờ làm việc thống nhất để kinh doanh, nhưng không phải bất
cứ nơi nào trong khu vực biên giới cũng mở chi nhánh ngân hàng. Ngược lại, do
“Ngân hàng tự phát” trôi dạt ngoài hệ thống quản lý tài chính, không có sự hạn chế
quá nhiều của quy tắc và quy định và do đó hoạt động kinh doanh linh hoạt hơn và
thuận tiện hơn. Một mặt là cơ sở kinh doanh tổ chức lỏng lẻo hơn, không có nơi
cố định kinh doanh. Nhân viên nghiệp vụ “Ngân hàng tự phát” có thể di chuyển tự
do trong khu vực biên giới để thu hút khách hàng, khi giao hàng có thể trực tiếp từ
ngân hàng thương mại chính quy rút tiền mặt ra đưa cho khách hàng và cũng có thể
dùng phương thức thông qua ngân hàng trên mạng chuyển tiền. Thậm chí chỉ là một
cú điện thoại của khách hàng, họ có thể phái nhân viên đưa tiền đến tận nơi giao
cho khách hàng. Các nhu cầu khác nhau của khách hàng đều có thể được đáp ứng.
75
Mặt khác không bị hạn chế của giờ làm việc, kinh doanh cả ngày. Trong khi đó,
ngân hàng thương mại chính quy giờ kinh doanh bình thường từ 8:30 sáng đến
17:00 chiều. Nhưng “Ngân hàng tự phát” không phải chịu sự hạn chế này, miễn là
khách hàng có nhu cầu, tại bất kỳ thời gian nào trong ngày chỉ cần gọi điện thoại
cho “Ngân hàng tự phát”. “Ngân hàng tự phát” sẽ phái nhân viên đến tận nơi phục
vụ hoặc dịch vụ bán hàng trên trang web hoặc sử dụng các kênh ngân hàng trực
tuyến để hoàn thành giải quyết thanh toán .
Bảng 2.3: Ưu thế của Ngân hàng tự phát
Nguyên Nhân Số doanh Tỷ lệ doanh Số “Ngân Tỷ lệ người kinh
nghiệp nghiệp làm dịch hàng tự doanh làm dịch vụ ở
vụ ở “Ngân phát” “Ngân hàng tự phát”
hàng tự phát”
Chi phí thủ tục 36 78% 185 89% thấp
Môi trường kinh
doan đông sôi 31 67% 116 56%
nổi
Thủ tực đơn 29 63% 151 73% giản
Tiền vốn chuyển 25 54% 141 68% nhanh
12 26% 34 16%
Nguồn: Thư viện Trung Quốc
* Điểm yếu của hoạt động “Ngân hàng tự phát”
Hoạt động “Ngân hàng tự phát” chủ yếu bằng độ tin cậy để giao dịch. Về mặt
lý thuyết mà nói, “Ngân hàng tự phát” thuộc loại cá thể dân gian tổ chức phi chính
76
phủ rải rác kinh doanh, không có hệ thống kinh doanh quản lý chặt chẽ, không có
nơi kinh doanh cố định, tính di động cao, trôi dạt ngoài hệ thống quản lý tài chính
của nước ta. Do đó, nó có thể xảy ra lừa đảo khách hàng, lấy mất tiền của khách
hàng rồi trốn thoát. Tính chất bảo mật kém hơn so với các ngân hàng thương mại
chính quy. Qua điều tra, tác giả thấy rằng “Ngân hàng tự phát” xâm hại lợi ích của
khách hàng rất hiếm, “Ngân hàng tự phát” có một mức độ cao của sự tín nhiệm ở
khu vực biên giới Trung - Việt . Sau khi Việt Nam giải phóng (1975),”Ngân hàng tự
phát” đã rải rác tồn tại, trải qua thời gian dài kinh doanh “ngầm”, đã hình thành có
tiêu chí tín dụng riêng của ngành: hai bên không cần phải ký bất kỳ giấy hợp đồng
hoặc cam kết nào. Tất cả đều phụ thuộc vào đàm phán bằng lời nói. Thông thường
là thực hiện kinh doanh với người quen, dùng phương thức khách quen giới thiệu
khách mới để kinh doanh. Nếu đã là khách hàng cũ biết nhau thì có thể dùng
phương thức trả trước thu sau, nghĩa là giúp khách hàng ứng trước tiền, sau đó hai
bên tiến hành thanh toán sau; và đối với một số khách hàng rải rác giao dịch ít ỏi,
mặc dù cũng dùng phương thức trả trước thu sau nhưng cũng phải thu tiền trước của
khách hàng, sau mới làm hộ dịch vụ liên quan cho khách hàng. Nhưng việc đó cũng
giúp những khách hàng này giao dịch kinh doanh cũng nhanh và thuận tiện, không
bao giờ nợ và quỵt nợ. Ngay cả những thỉnh thoảng có phát sinh sự kiện nhân viên
“Ngân hàng tự phát” cầm tiền của khách hàng chạy trốn, nhà kinh doanh “Ngân
hàng tự phát” sau đó sẽ nhanh chóng bù đắp cho sự mất mát của khách
hàng, để đảm bảo việc thực hiện bình thường của hoạt động kinh doanh. Như vậy,
“Ngân hàng tự phát” đã thiết lập một uy tín cao trên thị trường, phát triển của một
số khách hàng ổn định. Sự tín nhiệm là một cơ sở quan trọng cho hoạt động kinh
doanh của “Ngân hàng tự phát”, nhà kinh doanh “Ngân hàng tự phát” biết rằng uy
tín thương nghiệp là huyết mạch kinh doanh của mình, cho nên họ sẽ tìm cách để
duy trì uy tín kinh doanh của mình.
77
Bảng 3.3: Tình hình hoạt động của “Ngân hàng tự phát”
Tỉ lệ doanh Tỉ lệ thƣơng Độ đáng tin Số lƣợng nghiệp làm hộ làm dịch Số lƣợng đối với doanh djich vụ tại vụ tại "ngân thƣơng hộ "ngân hàng nghiệp "ngân hàng hàng từ phát từ phát " từ phát " "
Độ tín dụng
và đáng tin 31 67% 162 78% cây cao ,tiền
vốn an toàn
Tƣơng đối
đáng tin ,chỉ `15 33% 45 22% có một số có
vấn đề
Không đáng
0 0 0 0 tin và độ tính
dụng kém
Nguồn: Tác giả sưu tầm
* Hoạt động “Ngân hàng tự phát” kinh doanh quản lý không quy phạm
Nhà kinh doanh “Ngân hàng tự phát” thường thường là dân biên giới hoặc kiều
dân khu vực biên giới Việt – Trung. Những người kinh doanh này có kinh nghiệm
phong phú lâu năm sinh sống trong các khu vực biên giới Việt – Trung, đã nhạy bén
nắm bắt được hệ thống thanh toán thương mại biên giới ngân hàng chính quy là
không hoàn hảo và nên đã tiến hành đổi tiền dân gian là một cơ hội có lợi. Họ đã
thiết lập “Ngân hàng tự phát” phù hợp với sức tài chính của mình. Họ thường thuê
bạn bè hay người quen của mình để giúp đỡ thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Tuy nhiên, những người kinh doanh “Ngân hàng tự phát” trình độ thường không
cao, chủ yếu là theo đuổi lợi ích kinh tế, quản lý không đạt tiêu chuẩn, không có cơ
quan quản lý chuyên môn và nhân viên làm việc dài hạn ổn định , không có chế độ
78
rằng buộc và điều lệ của công ty rõ ràng và cũng không có thiết lập một hệ thống
kiểm soát nội bộ chặt chẽ, cách thức phòng chống rủi ro thấp. Bởi vì, trong quá
trình giao dịch không cẩn thận xác định thân phận của khách hàng, không can thiệp
vào chi tiết nguồn kinh phí giao dịch của khách hàng. Vì vậy “Ngân hàng tự phát”
rất rễ bị những người tham gia rửa tiền, buôn lậu, cờ bạc và các hoạt động tội phạm
khác lợi dụng. Ngoài ra, người kinh doanh “Ngân hàng tự phát” không thiết lập hệ
thống có hiệu quả về phần thưởng và trừng phạt cho nhân viên, các nhân viên chỉ
một cách mù quáng theo đuổi lợi ích riêng của họ, tiền trích tỷ lệ phần trăm, chứ
không phải tổ chức như một toàn diện để lựa chọn khách hàng tốt, để có một
phương thức an toàn hơn, đối với thương mại hoạt động có nguy cơ cao hơn. Người
kinh doanh “Ngân hàng tự phát” quản lý rủi ro chủ yếu phần lớn sẽ thông qua các
lối để thay chuyển sang cho nhiều người tham gia thị trường và chủ thể, bao gồm cả
các doanh nghiệp thương mại biên giới nhỏ, dân biên giới đi lại buôn bán kinh
doanh cá thể và thậm chí cả ngân hàng thương mại chính quy thông qua “Ngân
hàng tự phát” điều động ngoại tệ. Từ đó, tạo cho các hoạt động sản xuất kinh doanh
bình thường trong khu vực biên giới.
* Cơ hội của hoạt động “Ngân hàng tự phát”
Thương mại biên giới là thị trường hóa và khu vực hóa. Trung Quốc và Việt
Nam đã nối nhau gia nhập WTO và dần dần mở ra thị trường giữa hai nước. Thực hiện
chiến lược phát triển miền Tây của Trung Quốc, xây dựng Trung Quốc - Khu vực
Thương mại tự do ASEAN và cũng như hợp tác khu vực sông Mê-công, khu kinh tế
tam góc để triển khai hợp tác, đã mở rộng đối ngoại của vùng biên giới, tích cực tham
gia vào hợp tác khu vực quốc tế và trong nước để đạt được sự phát triển nhanh chóng
của nền kinh tế trong khu vực và sự thịnh vượng chung, đã đưa đến cơ hội chưa từng
có. Giao thông vận tải thuận lợi. Đường sắt Côn Minh từ tỉnh Vân Nam, Côn Minh đến
huyện tự trị dân tộc Dao, Hà Khẩu biên giới Việt- Trung tổng chiều dài 468 km, toàn
chuyến đường có 62 trạm. Tháng 01 năm 1910 chính thức thông xe. Trung Quốc và
Việt Nam đã đạt được sự đồng thuận trong năm 2006, sẽ cùng nhau thúc đẩy xây dựng
79
“hành lang kinh Côn - Hà” (Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Hành lang
kinh tế Quảng Ninh). Năm 2014, hai nước chính thức mở các tuyến đường sắt xuyên Á,
là một con đường chung hợp các thông tin liên lạc, năng lượng, giao thông vận tải là
một trong những động mạch giao thông quan trọng, tạo thành một mạng lưới khu vực
đường sắt rộng lớn. Với đường giao thông vận tải thông suốt, sẽ làm giảm chi phí của
thương mại qua biên giới trong lĩnh vực vật chất lưu thông, để tăng nhanh tốc độ
thương mại biên giới Trung - Việt và mở rộng Trung Quốc - Khu vực Thương mại tự
do ASEAN đóng một vai trò ảnh hưởng rất lớn.
* Thách thức của hoạt động “Ngân hàng tự phát”
“Ngân hàng tự phát” tăng sự khó khăn của nhà quản lý tài chính Trung Quốc đối
với sự quản lý lưu động của tiền nhân dân tệ.
Với sức mạnh tăng trưởng kinh tế không ngừng của Trung Quốc, đồng nhân
dân tệ nằm trong trạng thái tăng giá liên tục, đồng nhân dân tệ tại các nước láng
giềng sự ảnh hưởng ngày càng tăng, nhiều doanh nghiệp Việt Nam và cá thể thương
hộ, đặc biệt là những người doanh nghiệp và các cá thể mậu dịch trong khu vực
biên giới của Trung - Việt và các vùng kinh tế cửa khẩu đều nhất trí tính tiền hàng
bằng đồng nhân dân tệ cho việc bảo trị và tăng giá hơn. Tuy nhiên, vì đồng nhân
dân tệ đến nay vẫn còn chưa là đồng tiền chuyển đổi tự do, trong nội địa việc
trao đổi nhân dân tệ không thể trực tiếp thông hối. Vì vậy “Ngân hàng tự phát” đã
trở thành đồng tiền nhân dân tệ lưu động qua biên giới trạm tạm chuyển và một
trung tâm tập trung phân phối, trong khu vực biên giới Việt – Trung nhiều doanh
nghiệp và thương gia đều thông qua “Ngân hàng tự phát” để trao đổi tiền mặt một
số lượng lớn của đồng tiền Việt Nam sang đồng nhân dân tệ ra vào thông qua nhiều
cách khác nhau để mang ra nước ngoài, đã tạo lên kết quả là số lượng tiền mặt rất
lớn của tiền nhân dân tệ lưu động quá cảnh. Bởi vì “Ngân hàng tự phát” hoạt động
bí mật, tách ly ra phạm vi quy chế tài chính nước ta, sau đó một số lượng lớn tiền
nhân dân tệ thông qua “Ngân hàng tự phát” di chuyển qua biên giới và ngoài hệ
thống ngân hàng tuần hoàn, trong lãnh thổ của Việt Nam cũng vẫn còn số lượng rất
80
lớn tiền mặt tiền nhân dân tệ. Theo Ngân Hàng Nhân Dân Trung Quốc điều tra
Thống kê, đến cuối năm 2004 số lượng tiền mặt đồng nhân dân tệ vẫn còn trong
lãnh thổ của Việt Nam là khoảng 6,4 tỷ nhân dân tệ, các nước láng giềng và khu vực
Hồng Kông và Ma-cao tiền mặt của nhân dân tề với tỷ lệ lớn nhất trong tổng cộng
là đọng lại, chiếm khoảng 30%. Đến cuối năm 2006 vẫn còn trong lãnh thổ của Việt
Nam là khoảng 5,2 tỷ nhân dân tệ tiền mặt. Đến cuối năm 2007, các nước giáp biên
giới Việt Nam, Lào, Myanmar đã có hơn 15 tỷ nhân dân tệ đọng lượng trở lên [66].
Theo các phòng ban có liên quan của Trung Quốc số liệu giám sát cho thấy, tính đến
cuối năm 2012 đã có hơn 50 tỷ nhân dân tệ tiền mặt đọng lại trong ba nước nói trên.
Theo Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc chi nhánh Trung tâm Côn Minh khảo sát
cho thấy, Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam Chi nhánh thành phố Lào Cai trong
nửa đầu năm 2008 chỉ giữ lại 6 triệu nhân dân tệ [67], thấy bị mắc kẹt trong lãnh
thổ của Việt Nam tiền nhân dân tệ tiền mặt chủ yếu là đọng lại trong khu vực tư
nhân, hầu hết trong số đó là nhà kinh doanh” Ngân hàng tự phát” giữ.
Biểu đồ 1.3: Cơ cấu các doanh nghiệp thanh toán bằng
“Ngân hàng tự phát ”(đơn vị: nhà)
Nguồn: Tác giả sưu tầm
Trong những năm gần đây, do” Ngân hàng tự phát” làm phong phú dịch vụ
ngành nghề kinh doanh của mình, vốn tài chính dần dần tăng lên, nó có thể phục vụ
81
cho nhiều doanh nghiệp thương mại biên giới, cá thể kinh doanh, du khách hai bên
và chủ thể thị trường Trung - Việt hàng loạt các dịch vụ tài chính, đồng tiền nhân
dân tệ lưu động quy mô quá cảnh cũng ngày càng gia tăng. Với đồng nhân dân tệ
dưới sự chấp nhận của các nước láng giềng không ngừng gia tăng, nếu mà nước ta
không có thể thiết lập cơ chế thu hồi nhân dân tệ tốt, sẽ có nhiều hơn nữa đồng nhân
dân tệ vẫn còn đọng lại trong lãnh thổ của Việt Nam, mà sẽ tăng khó khăn cho sự
quản lý tài chính của Trung Quốc, giám sát việc lưu thông đồng nhân dân tệ khu
vực biên giới của khó hơn, gây khó khăn lớn cho việc quản lý đồng nhân dân tệ tại
khu vực biên giới.
* Tác động tiêu cực của “Ngân hàng tự phát”: khuyến khích hoạt động rửa
tiền và các hoạt động tội phạm khác
Do người kinh doanh “Ngân hàng tự phát” không quan tâm hỏi han về nguồn
vốn của khách hàng và cũng không xem xét nguồn vốn là có phù hợp luật pháp quy
định của hai nước Trung - Việt hay không, miễn là có dịch vụ là họ làm. Do đó,
buôn lậu, cờ bạc, tiền ma túy, trốn thuế, tham nhũng và những người tham gia các
hoạt động tội phạm khác và thương mại bất hợp pháp sẽ thông qua “Ngân hàng tự
phát” gửi số tiền rất lớn bất hợp pháp chuyển ra nước ngoài, nhà kinh doanh “Ngân
hàng tự phát” có tính năng bí ẩn, trôi dạt ngoài hệ thống quản lý tài chính. Vì vậy
“Ngân hàng tự phát” cung cấp cho hoạt động rửa tiền và các hoạt động tội phạm
khác không gian sống bí ẩn hơn, đã trở thành cái ô bảo vệ cho việc rửa tiền và các
hoạt động tội phạm khác, nghiêm trọng gây trở ngại cho các cơ quan quản lý tài
chính theo dõi và giám sát các quỹ bất hợp pháp, tăng độ khó cho công tác chống
rửa tiền. Khu vực biên giới Trung - Việt lại thuộc khu cờ bạc, buôn lậu, tiền thuốc
ma túy cũng là khu vực chuyển tiền qua biên giới, “Ngân hàng tự phát” tham gia
vào di chuyển vốn trong một phạm vi lớn sẽ tăng khó khăn cho việc hai chính phủ
liên hợp hoạt động chống rửa tiền xuyên biên giới.
3.3.2. “Ngân hàng tự phát” dễ dàng thao tác tỷ giá hối đoái biên giới
“Ngân hàng tự phát” chủ yếu dựa vào đồng tiền hai nước Trung - Việt đổi
82
tiền đô la mỹ và tính tỷ giá đồng đô la Mỹ ra tiền nhân dân tệ so với đồng tiền Việt
tính thập giá và theo cung cấp nhu cầu thị trường quan hệ tiền để xác định tỷ giá
hối đoái trên thị trường tiền nhân dân tệ so với đồng tiền Việt với mức độ tổng thể
của tỷ giá hối đoái, từ quy mô lớn “Ngân hàng tự phát” tham khảo tài liệu để thiết
lập một tiêu chuẩn đối với tỷ giá báo giá cho các đối tác và khách hàng. Sau đó, dựa
trên tỷ giá đó tham chiếu phù hợp với tình hình của mình quyết định tỷ giá riêng của
mình. Do đó, “Ngân hàng tự phát” thống trị lĩnh vực thị trường tỷ lệ dựa vào có vốn
mạnh tài chính của “Ngân hàng tự phát” trung tâm để quyết định tỷ lệ. Ngân hàng
thương mại Trung - Việt khi quyết định tỷ giá cũng bị ảnh hưởng của nó. Ví dụ như
Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc chi nhánh huyện Tĩnh Tây cũng nằm trong
khu vực biên giới Trung Quốc - Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc chi
nhánh Đông Hưng và Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam huyện Trà Lâm tỷ giá đổi
tiền để thực hiện tỷ giá của mình. Song ngân hàng Đông Hương và ngân hàng Trà
Lâm Việt Nam đều tham khảo “Ngân hàng tự phát” tỷ giá hối đoái của đồng nhân
dân tệ và đồng tiền Việt Nam để thực hiện. Như vậy, tỷ lệ thanh toán thương mại
biên giới Trung - Việt dễ bị “Ngân hàng tự phát” thao túng giật dây, khi doanh
nghiệp thương mại biên giới Trung Quốc nhập khẩu một chuyến hàng lớn từ Việt
Nam về, bên Việt Nam yêu cầu dùng tiền Việt Nam để thanh toán và đồng tiền Việt
Nam lại khan hiếm trên thị trường trong khu vực biên giới không đủ dùng [68]. Lúc
này, “Ngân hàng tự phát” có vốn lớn để thu được lợi ích cao hơn, đã nâng cao tỷ giá
đổi tiền lên. Kết quả là toàn bộ giá cả thị trường thanh toán thương mại biên giới
đều bị ảnh hưởng, trên thị trường tỷ giá hối đoái thực tế và tỷ giá bộ tính đã bị
chênh lệch, thậm chí biến động rất lớn, hàng nhập khẩu của Trung Quốc sẽ bị gia
tăng đáng kể, kết quả trong các doanh nghiệp thương mại và kinh doanh cá nhân
xuyên biên giới phải đối mặt với rủi ro tỷ giá lớn hơn.
3.3. Một số đề xuất về giải pháp quản lý đối với hoạt động “Ngân hàng tự phát”
3.3.1. Vấn đề trong quá trình phát triển “Ngân hàng tự phát”
3.3.1.1. Luật pháp cần có biện pháp để giải quyết bế tắc của các ngân hàng
83
“Ngân hàng tự phát” là một loại tổ chức tài chính với tư cách dân gian tự hình
thành và cũng là một bộ phận của tài chính cá nhân. Sau năm 2005, các chính sách
quốc gia về tài chính tư nhân có ít nới lỏng. Ngày 25 tháng 05 năm 2005, ngân hàng
Nhân dân Trung Quốc đã ban hành “Báo cáo Kết quả tài chính khu vực Trung Quốc
trong năm 2004”. Trong đó đã nêu ra: “chúng ta nên hiểu biết đúng đắn về tác dụng
bổ sung tài chính tư nhân”, “tăng cường các chỉ tiêu tài chính tư nhân về hành vi
và hướng dẫn, lấy lợi tránh hại và thúc đẩy phát triển lành mạnh của nó”[28]. Đây
là lần đầu tiên cơ quan quản lý tài chính Trung Quốc có thái độ rõ ràng đối với sự
biến đổi tài chính tư nhân từ phủ định để khẳng định. Vì chính sách quản lý lỏng lẻo
nên tài chính cá nhân còn chưa điều chỉnh kịp thời và bổ sung. Trong hệ thống tài
chính của Trung Quốc, tài chính tư nhân vẫn là trong vị trí tương đối khó giải quyết.
Trong pháp luật và Quy định của Trung Quốc hiện nay, chỉ có “Tòa án nhân dân tối
cao toà án về một số ý kiến trường hợp cho vay”, “đáp lại về việc làm thế nào để
xác nhận hiệu quả hành vi cho vay giữa công dân và doanh nghiệp?”. Một số giải
thích từ phía tư pháp đối với vấn đề bộ phận cho vay tư nhân đã làm quy định đơn
giản. Năm 2008, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đã trình giấy lên Hội đồng Nhà
nước để chuyên môn lập pháp luật về cho vay tư nhân – “pháp lệnh cho vay” (dự
thảo) đến nay còn chưa đưa ra. Vì thế cho thấy, tài chính tư nhân đã không được hỗ
trợ có hiệu quả và bảo vệ về mặt pháp lý. Cụ thể đến “Ngân hàng tự phát” mà nói ,
các luật và quy định của quốc gia Trung Quốc càng không có luật và quy định trực
tiếp đối với “Ngân hàng tự phát”, “Quy định quản lý tổ chức tài chính”, “Lệnh cấm
các ngân hàng ngầm và thông báo đả kích hành vi cho vay nặng lãi” “về việc
quyết định trừng phạt lừa mua ngoại tệ, trốn ngoại hối và mua bán ngoại tệ bất hợp
pháp”. “Biện pháp đình chỉ hoạt động của các tổ chức tài chính bất hợp pháp và các
hoạt động kinh doanh tài chính phi pháp” và các văn bản quy phạm pháp luật có
mấy điều rải rác trong một số các quy định liên quan đến “Ngân hàng tự phát”. Tuy
nhiên, những luật này tính mục tiêu và khả năng thao tác không mạnh, không thể
hình thành hệ thống pháp lý quản lý “Ngân hàng tự phát” hiệu quả, hệ thống pháp
84
luật và các luật này chủ yếu là đả kích “Ngân hàng tự phát”. Đối với “Ngân hàng tự
phát” kìm chế sự phát triển của nó. Đây là việc làm không phù hợp với nhu cầu thị
trường chủ, nhu cầu thực tế đối với “Ngân hàng tự phát” trong các khu vực biên
giới. Bởi vì, sự bảo vệ pháp lý không theo kịp, “Ngân hàng tự phát” một thời gian
dài trong tình trạng ẩn nấp, bán ẩn nấp, hoạt động kinh doanh rất bất thường và
không quy phạm. Nó rất khó khăn để có hiệu quả bảo vệ quyền lợi hai bên khi giao
dịch của “Ngân hàng tự phát”.
3.3.1.2. Thiếu sự giám sát hiệu quả của chính phủ
Cơ quan giám sát của các tổ chức tài chính chính quy chủ yếu là “ba dòng một
hội” (Ngân hàng nhân dân, hội kiểm soát ngân hàng, CSRC và CIRC). “Ba dòng
một hội” - các quy định hiệu quả để bảo vệ sự phát triển lành mạnh và ổn định của
thị trường tài chính chính quy của nước ta. Nhưng trước mắt, trong nước Trung
Quốc tồn tại rộng rãi và rất nhiều tổ chức tài chính tư nhân mà không được giám sát
và hướng dẫn hiệu quả của chính phủ, luật pháp và các quy định hiện hành có liên
quan đến vấn đề quản lý tài chính cá nhân nước ta chủ yếu là: “Luật quản lý giám
sát Ngân hàng”, “Luật Ngân Hàng Nhân Dân Trung Quốc”… Nhưng không chỉ rõ
giám quản chủ thể cơ quan quản lý tài chính tư nhân, các cơ quan quản lý có liên
quan phân chia nhiệm vụ không rõ ràng, dễ dẫn đến giám quản khoảng chân không
và quy định lặp lại cùng tồn tại. “Ngân hàng tự phát” một thời gian dài đã ở vào khu
khoảng chống giám quản tài chính. Cơ quan Quản lý tài chính Trung Quốc từ trước
tới nay vẫn giữ thái độ đàn áp Quản trị “Ngân hàng tự phát”, dùng biện pháp “có
xảy ra sự việc xong mới quản”: Nếu người kinh doanh “Ngân hàng tự phát” không
có hành vi phạm tội nghiêm trọng, cơ quan quản lý tài chính cũng không kiểm tra
đến và cũng không muốn bỏ nhiều tiền để giám sát quản lý. Chỉ khi “Ngân hàng tự
phát” hoạt động có nguy cơ tài chính nghiêm trọng, cơ quan quản lý tài chính mới
ra lệnh cấm. Tuy nhiên, vì do “Ngân hàng tự phát” là một tổ chức tài chính tư nhân
tự phát, cách quản lý kinh doanh của nó nhiều chỗ không quy phạm, bình thường đã
85
tích tụ rủi ro lớn trong quá trình kinh doanh, người giao dịch rất khó nắm được
xác định chính xác, sự nguy cơ của “Ngân hàng tự phát”, trong trạng thái không có
sự quản lý của cơ quan tài chính chính phủ nhà nước khiến các bên tham gia giao
dịch tại “Ngân hàng tự phát” đều phải đối mặt với những rủi ro nhất định, có thể
gây ra một tác động tiêu cực lớn hơn. Ngoài ra, “Ngân hàng tự phát” đối với việc
xác định thông tin cá nhân của khách hàng, giám sát nguồn vốn kinh phí không chú
ý để tâm đến cho nên rất dễ dàng cho bọn tội phạm lợi dụng kẽ hở làm cho “Ngân
hàng tự phát” đã trở thành một điểm nóng của hoạt động rửa tiền, buôn lậu và các
hoạt động tội phạm khác. Vì vậy, cơ quan quản lý tái chính phải hướng dẫn và điều
chỉnh “Ngân hàng tự phát” đi vào phát triển kinh doanh để có hiệu quả duy trì sự
phát triển ổn định kinh tế và xã hội của khu vực biên giới Trung - Việt .
3.3.2. Học tập kinh niệm quản lý “Ngân hàng tự phát” của Việt Nam
3.3.2.1. Kinh nghiệm quản lý hoạt động “Ngân hàng tự phát” của Việt Nam
Hoạt động “Ngân hàng tự phát” là loại hình tồn tại của tổ chức tài chính tư
nhân. Như vậy không phải là một hiện tượng độc đáo cho Trung Quốc, trong khu
vực biên giới của nước láng giềng Việt Nam có thể được nhìn thấy hình bóng “Ngân
hàng tự phát” ở khắp mọi nơi trong một thời gian dài. Đặc biệt là năm 1998, sau khi
chính phủ Việt Nam tuyên bố công nhận “Ngân hàng tự phát” có tư cách hợp pháp.
Ở khu vực biên giới Việt Nam, nhất là khu vực Móng Cái và các vùng lân cận
“Ngân hàng tự phát” phát triển rất nhanh và rộng. Nhưng bên cạnh đó cũng làm cho
“Ngân hàng tự phát” của cả Việt Nam và Trung Quốc triển khai hợp tác xuyên quốc
gia ngày càng nhiều. “Ngân hàng tự phát” trong hệ thống thanh toán mậu dịch biên
giới Trung - Việt có một thời gian đã chiếm địa vị chủ đạo. Chính phủ Việt Nam
cho phép “Ngân hàng tự phát” hợp pháp hóa. Và đã làm cho “Ngân hàng tự phát”
trước kia hoạt động ẩn nấp ra hoạt động công khai. Theo hướng chỉ đạo của Chính
phủ Việt Nam phát huy tác dụng vai trò của nó trong thanh toán thương mại qua
biên giới, đối với sự phát triển kinh tế lành mạnh và ổn định của Việt Nam có đóng
86
góp nhất định. Vì vậy, nếu cứ một cách mù quáng gây áp lực đối với “Ngân hàng tự
phát” trong trường hợp không hiệu quả mấy, chính phủ Trung Quốc có thể học hỏi
kinh nghiệm có liên quan của chính phủ Việt Nam về vấn đề quản lý “Ngân hàng tự
phát” và sẽ đưa “Ngân hàng tự phát” của biên giới Trung - Việt của Trung Quốc
công khai hóa, hợp phát hóa và làm cho loại nguồn lực tài chính tư nhân này trở
thành lực lượng giúp nền kinh tế phát triển.
3.3.2.2. Quy chế và chính sách của “Ngân hàng tự phát” Việt Nam
Theo đề nghị của giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Thủ tướng Chính
phủ Việt Nam, ngày 08 tháng 12 năm 2000, ban hành một quyết định “Quy tắc quản
lý tiền tệ trong Khu vực biên giới Việt Nam và cửa khẩu khu vực kinh tế các nước
láng giềng”. Trong đó, Điều VI ghi rõ: “Thành lập điểm đổi tiền trong 8 khu vực
biên giới và khu kinh tế cửa khẩu biên giới, hợp pháp tiến hành kinh doanh tiền tệ
với các nước lang giềng. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo hệ thống quản lý
ngoại hối hiện hành để hướng dẫn các điểm thu đổi ngoại tệ cho các doanh nghiệp
kinh doanh tiền tệ biên giới. Điều thứ 07 ghi rõ: “Đối với dân biên giới Việt Nam
phù hợp điều kiện quy định Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, ngân hàng nhà nước
Việt Nam sẽ cấp giấy phép kinh doanh cho điểm thu đổi ngoại tệ, người được phép
thanh lập điểm đổi ngoại tệ, phải theo quy định làm thủ tục đăng ký”. Sau đó, chính
phủ Việt Nam và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lại ban hành tiếp: “Quyết định bổ
sung và sửa đổi tiến hành điều lệ quản lý ngoại tệ năm 1998 của Chính phủ Việt
Nam”, “Quyết định về điểm đại lý ngoại hối ở Việt Nam” và “Quản lý luật pháp bổ
sung và sửa đổi pháp lệnh của cơ quan tổ chức tín dụng” pháp luật và các quy định
khác. Trong đó có chính phủ Việt Nam đối với” Ngân hàng tự phát” các quy định có
liên quan về việc đăng ký và quản lý [27]. Chính phủ Việt Nam quản lý “Ngân hàng
tự phát” bằng các chính sách và các quy định có liên quan được tóm tắt như trong
bảng dưới đây:
87
Bảng 4.3. Pháp luật quản lý của chính phủ Việt Nam đối với
“Ngân hàng tự phát” [49]
Đăng ký
Chi nhánh cấp tỉnh, thành phố của Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam
Cơ quan làm thủ tục đăng ký
Địa điểm mở
Cơ sở đổi ngoại tệ phải mở tại khu vực trung tâm kinh tế, văn hóa, và giao thông, hoặc khu vực có nhu cầu đổi ngoại tệ với tiền mặt lớn.
Nhân viên và thiết bị
Cơ sở đổi ngoại tệ phải đáp ứng nhu cầu thiết bị về công việc đổi ngoại hối tiền mặt, và phải có nhân viên chuyên nghiệp về hoặt động giao dịch ngoại hối, kế toán hạch toán, nhận biết tiền giả.
Điều kiện và văn bản đăng ký cần thiết Hồ sơ lưu trữ
Đơn xin mở cơ sở đổi ngoại tệ; bản phụ giấy chứng nhận đăng ký thương mại đã công chứng; trong tình hình mở đại lý, phải ký kết hợp đồng đại lý ngoại hối với ngân hàng và các cơ quan cho vay có dịch vụ ngoại hối.
Làm tục thủ đăng ký lần đầu
Trình tự đăng ký
Đối với thực thể kinh tế xin đăng ký mở cơ sở đổi ngoại tệ lần đầu, phải đưa hồ sơ xin phép đăng ký của thực thể kinh tế cho chi nhánh Ngân hàng Việt Nam tại địa điểm đăng ký lưu trữ.
Thời gian làm thủ tục đang ký Vòng 7 ngày
Sau khi nhận được hồ sơ đầy đủ theo quy định, chi nhánh Ngân hàng Việt Nam tại nơi đăng ký sẽ xét duyệt hồ sơ trong vòng 7 ngày, và trao cho tổ chức đạt yêu cầu giấy phép kinh doanh.
Đăng ký một cơ sở đổi ngoại tệ phải nộp lệ phí 800.000 đồng VN(khoảng 200 RMB). Lệ phí đăng ký
Công việc quản lý thƣờng ngày
Nơi giao dịch
Ở những khu vực có nhu cầu đổi ngoại tệ lớn như khu kinh tế cửa khẩu, khu du lịch có thể xây dựng thị trường đổi ngoại tệ với quy mô lớn, đồng thời cho phép mở những cơ sở đổi ngoại tệ với quy mô nhỏ phân bố giải rác.
88
Giá cả giao dịch
Cơ sở đổi ngoại tệ phải tham khảo tỷ lệ quan phương do ngân hàng Quốc gia Việt Nam quy định, đồng thời tham khảo tỷ lệ giao dịch do ngân hàng và cơ cấu cho vay có dịch vụ đổi ngoại tệ đưa ra, và đưa ra tỷ lệ mua bán và giá cả giao dịch hợp lý của mình.
Thuế
Nộp theo quy mô kinh doanh, bình quân mỗi một cơ sở đổi ngoại tệ một tháng phải nộp tiền thuế 800.000 VN đồng (khoảng 200 RMB) tiền thuế.
Chế độ báo cáo
Cơ sở đổi ngoại tệ phải báo cáo tình hình giao dịch định kỳ với chi nhánh cấp tỉnh và thành phố của ngân hàng Quốc gia Việt Nam; Ngân hàng và cơ cấu có dịch vun đổi ngoại tệ phải báo có tình hình giao dịch( gồm có cơ sở do ngân hàng và cơ cấu kinh doanh trực tiếp và cơ sở đại lý) định kỳ với chi nhánh cấp tỉnh, thành phố của ngân hàng Quố gia Việt Nam; Chi nhánh cấp tỉnh và thành phố ngân hàng Quốc gia Việt Nam phải báo cáo định kỳ về tình hình giao dịch ngoại hối của các cơ sở đổi ngoại tệ, ngân hàng cũng như các cơ cấu vay vốn có dịch vụ kinh doanh ngoại hối cho tổng ngân hàng Quốc gia Việt Nam.
Xử lý tiền giả Khi khách hàng sử dụng tiền giả giao dịch, cơ sở giao dịch phải ghi rõ và tịch thu tiền giả, trong trường hợp nghiêm trọng phải báo cho công an để xử lý.
Cơ quan giám sát
Bộ môn giám sát của chi nhánh cấp tỉnh, thành phố ngân hàng Quốc gia Việt Nam có trách nhiệm giám sát đối với những cơ sở kinh doanh dịch vụ đổi ngoại tệ. Nếu có trường hợp vi phạm quy định, chi nhánh cấp tỉnh và thành phố ngân hàng Quốc gia Việt Nam có quyền tạm dựng hoạt động kinh doanh hoặc tịch thu giấy phép kinh doanh của cơ sở kinh doanh.
Nguồn: tác giả sưu tầm
Tình hình phát triển của “Ngân hàng tự phát” Việt Nam
Chính phủ Việt Nam đã cho phép “Ngân hàng tự phát” hợp pháp hóa, chủ yếu
là do trình độ phát triển kinh tế ở Việt Nam không phải là cao, lĩnh vực tài chính
kém phát triển, thiếu dự trữ ngoại hối, nếu doanh nhân nước ngoài xuất khẩu sang
Việt Nam trong thương mại biên giới Trung - Việt , đều yêu cầu các nhà nhập khẩu
Việt Nam phải thông qua Ngân hàng Việt Nam dùng đồng ngoại tệ cứng thanh toán
89
bằng đô la Mỹ. Ngân hàng chính quy Việt Nam không có đủ dự trữ đô la đê hỗ trợ.
Tính đến cuối tháng 12 năm 2012, dự trữ ngoại hối của Việt Nam chỉ đủ để chi trả
cho mức độ nhu cầu hàng nhập khẩu là 2 đến 3 tháng [72], thấp hơn tiêu chuẩn so
với các biện pháp thông thường có quy mô vừa phải dự trữ ngoại hối lượng nhập
khẩu là ba tháng, dự trữ ngoại hối của Việt Nam vẫn còn ở mức thấp, doanh nghiệp
Việt Nam không thể đáp ứng nhu cầu để thanh toán nhập khẩu tiền hàng và tiền Việt
Nam so với đô la Mỹ, đồng nhân dân tệ và ngoại tệ khác. “Ngân hàng tự phát” Việt
Nam và các tổ chức đổi tiền ngoại tệ phi chính phủ khác trong sự phát triển lâu dài
của việc trao đổi tiền tệ đã tích lũy rất nhiều đô la Mỹ và đồng nhân dân tệ và tiền
ngoại tệ khác. Đồng nhân dân tệ ngày càng được thương nhân Việt Nam công nhận.
Từ năm 1998, Chính phủ Việt Nam lần đầu tiên ở trên pháp lý cho phép “Ngân
hàng tự phát” kinh doanh hợp pháp. Và từ năm 2002 bắt đầu cấp “Ngân hàng tự
phát” giấy phép kinh doanh. “Ngân hàng tự phát” sau thời gian dài nằm trong trạng
thái ẩn náu hoặc nửa ẩn náu đã dần dần vào trong các thị trường chính phủ định để
mở cửa kinh doanh, quy mô ngày một lớn hơn. Năm 2005, Cục Quản lý ngoại hối
Nhà nước Chi nhánh trung tâm thành phố cảng Phòng Thành, Móng Cái đối với
“Ngân hàng tự phát” khu vực Việt Nam, thực hiện một cuộc điều tra kỹ lưỡng. Kết
quả cho thấy chỉ riêng khu vực Móng Cái Việt Nam, “Ngân hàng tự phát” đã có đến
hơn 100, trong đó 67 đã đăng ký thủ tục tại chính phủ Việt Nam. Những “Ngân
hàng tự phát” này đã có khoảng 10 triệu nhân dân tệ tiền mặt, 60 triệu nhân dân tệ
tiền gửi và có khoảng tiền Việt tương đương trị giá 30 triệu bằng tiền nhân dân tệ
tiền vốn, có thể sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của hàng triệu đô la Mỹ vào việc giải
quyết thanh toán [73]. Đến cuối năm 2008, theo Ngân Hàng Nhân Dân Trung Quốc
chi nhánh Trung tâm Nam Ninh số liệu thống kê chưa đầy đủ, số “Ngân hàng tự
phát” đăng ký tại Việt Nam Móng Cái đã đạt hơn 350 [74].
* Đặc điểm chính phủ quản lý của hoạt Động “Ngân hàng tự phát” Việt Nam
Chính phủ Việt Nam ngay từ đầu đã ra luật quy định có liên quan đến “Ngân
hàng tự phát”. Chính phủ Việt Nam rất coi trọng phát triển thương mại biên giới, coi
90
thương mại biên giới ở một vị trí quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế. Vì vậy,
để tạo thuận lợi cho sự phát triển của hoạt động thanh toán thương mại biên giới,
chính phủ Việt Nam đã đưa ra một số quy định pháp luật, trong khu vực biên giới và
khu vực Khu kinh tế cửa khẩu, thành lập các điểm đổi tiền tư nhân. Nghĩa là “Ngân
hàng tự phát” trước kia là hoạt động dưới đất nay toàn bộ hợp pháp hóa, cho phép
nó hoạt động thu đổi, mua bán ngoại tệ. Ngoài ra, chính phủ Việt Nam còn trên điều
lệ pháp luật trong quy định các tiền ngoại tệ của các nước láng giềng được lưu
thông trong khu biên giới Việt Nam, để tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại biên
giới Việt Nam, “Ngân hàng tự phát” có tư cách hợp pháp, những người kinh doanh
sẽ không phải thực hiện các hoạt động ngầm, mà còn có lợi cho việc giám sát họat
động của nó.
Thứ hai là cơ quan quản lý “Ngân hàng tự phát” cấp trên trao quyền cho các
chi nhánh quản lý địa phương đi quản lý. Ngân hàng Trung Ương Việt Nam - Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan chủ quản của “Ngân hàng tự phát” về thiết lập,
vận hành, quản lý cho đến các quy tắc và quy định hoạt động, đều do Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam quy định. Những người kinh doanh”Ngân hàng tự phát”
lần đầu tiên trình đơn đăng ký kinh doanh lên chính phủ Việt Nam cũng phải trình
lên Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trước để cho họ phê duyệt. “Ngân hàng tự phát”
sau khi đăng ký có được trình độ kinh doanh hợp pháp, Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam cụ thể trao quyền xuống cơ quan chi nhánh của các tỉnh. Chi nhánh cơ quan
quản lý sẽ thay mặt ngân hàng Quốc gia giám sát và quản lý hoạt động “Ngân hàng
tự phát”. Do được giao quyền, các chi nhánh ngân hàng Trung Ương ở các tỉnh sẽ
thiết lập một điểm giám sát ở từng khu kinh tế cửa khẩu, mật thiết để ý tới “Ngân
hàng tự phát” xem những hoạt động kinh doanh của các điểm dân gian ngoại hối
làm việc có tuân thủ theo pháp luật hay không.
Một lần nữa, “Ngân hàng tự phát” vào thị trường ngoại tệ, giao dịch trao đổi
giám sát thị trường. Theo các quy định có liên quan của ngân hàng nhà nước Việt
Nam, hoạt động “Ngân hàng tự phát” giao dịch thuộc về thị trường ngoại tệ trong
91
hoạt động sàn giao dịch. Các “Ngân hàng tự phát” phải có một vị trí cố định kinh
doanh và phải thực hiện các hoạt động trao đổi tiền tệ đủ trang thiết bị cần thiết,
chẳng hạn như điện thoại, máy kiểm soát tiền… cũng cần phải được trang bị
một đội ngũ nhân viên có kiến thức chuyên môn về kế toán và hạch toán. Đồng
thời cũng phải có nhân viên đổi tiền biết xác định tiền thật hay giả. Mỗi nhà “Ngân
hàng tự phát” đều phải đến cơ quan chính phủ đăng ký, thanh toán các khoản
thuế và phí quản lý, trung bình mỗi “Ngân hàng tự phát” thuế hàng tháng trả tiền
của các ngân hàng và chi phí quản lý đổi thành tiền nhân dân tệ. Chính phủ Việt
Nam sẽ yêu cầu cụ thể trong việc trao đổi tiền tệ của khu kinh tế cửa khẩu và du
khách nước ngoài nghỉ mát xây dựng thị trường ngoại tệ lớn hơn để tạo điều kiện
quản lý tập trung, chẳng hạn như trong các thành phố lân cận Đông Hưng - Móng
Cái, tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam có một thị trường kế hoạch thống nhất để quản lý
“Ngân hàng tự phát”.
* Chính Phủ Việt Nam quản lý hoạt động “Ngân hàng tự phát” trong giao dịch
đối với Trung Quốc
Dự trữ ngoại hối của Việt Nam không phải là nguyên nhân chính mà do sự tồn
tại của hoạt động “Ngân hàng tự phát”. Điểm này đối với tình hình Trung Quốc dự
trữ ngoại hối đủ không phù hợp, nhưng hệ thống ngân hàng chính quy không hoàn
hảo nên là điều kiện thuận lợi để “Ngân hàng tự phát” họat động ở biên giới hai
nước Trung - Việt cùng tồn tại. Vì vậy, học hỏi kinh nghiệm quản lý “Ngân hàng tự
phát” của chính phủ Việt Nam là hữu ích cho Trung Quốc. Để chính phủ ra chính
sách quản lý “Ngân hàng tự phát” tốt hơn phù hợp với điều kiện của Trung Quốc.
Từ kinh nghiệm quản lý “Ngân hàng tự phát” của chính phủ Việt Nam, chúng ta có
thể nhận được sự gợi ý sau.
- Làm rõ vị trí phát luật của hoạt động “Ngân hàng tự phát”
Phát triển kinh tế cần phải có hệ thống tài chính hỗ trợ, khu vực biên giới có rất
nhiều kiểu người tham gia thị trường, nhu cầu tài chính của họ rất đa dạng, khi ngân
hàng chính quy không thể đáp ứng các nhu cầu khác nhau của tất cả các thành viên
92
tham gia thị trường. Trong khi đó, “Ngân hàng tự phát” lại có cách thức tích lũy vốn.
“Ngân hàng tự phát” sẽ trở thành một sự bổ sung mạnh mẽ cho các ngân hàng
thương mại chính quy. Thực tế, “Ngân hàng tự phát” của chính phủ Việt Nam cho
thấy rằng: Chính phủ cần phải nhìn nhận chính xác vai trò của “Ngân hàng tự phát”.
Nó tồn tại rộng rãi trong khu vực biên giới Việt – Trung. Cần có chỉ đạo và hướng
dẫn cụ thể để “Ngân hàng tự phát” phát triển. Điều đó làm thay đổi tác động tiêu
cực của “Ngân hàng tự phát” đối với ảnh hưởng phát triển kinh tế và xã
hội. Điều đầu tiên, Trung Quốc cần làm là phải cho “Ngân hàng tự phát” được hợp
pháp hóa. Chính phủ Việt Nam trước pháp luật công khai thừa nhận “Ngân hàng tự
phát” địa vị hợp pháp và đưa ra một số điều luật thay đổi, bổ sung quy định, để cho
nhà kinh doanh “Ngân hàng tự phát” Việt Nam làm theo luật pháp và Chính phủ bảo
vệ quyền lợi cho các bên tham gia giao dịch. Vì vậy, để làm cho sự hiện diện của
“Ngân hàng tự phát” tại khu vực biên giới theo hướng phát triển hợp pháp chính
quy. Điều đó là cần thiết và phải đưa ra một bộ luật với những quy định khoa học và
toàn diện cho “Ngân hàng tự phát”, để các hoạt động của nó có tiêu chuẩn tham
chiếu và căn cứ theo phát triển của thời đại kịp thời điều chỉnh chính sách quản lý
“Ngân hàng tự phát”.
- Chính sách hỗ trợ nhất định cho hoạt động “Ngân hàng tự phát”
Hoạt động “Ngân hàng tự phát” là một lực lượng tự phát phi chính phủ tự nhiên
hình thành tổ chức, phần lớn “Ngân hàng tự phát” lực vốn yếu kém, trình độ kinh
doanh quản lý thấp, hành vi giao dịch không đạt tiêu chuẩn, kém khả năng kiểm
soát khống chế rủi ro và các khiếm khuyết khác. Những trở ngại này đã hạn chế
“Ngân hàng tự phát” phát huy được thế mạnh của mình. Trong phương hướng phát
triển kinh tế xã hội, Chính phủ Việt Nam thừa nhận sự tồn tại của “Ngân hàng tự
phát” có thiếu sót nên họ đã dùng biện pháp hướng dẫn và quản lý để hỗ trợ, ra quy
định và chính sách để quy phạm hoạt động kinh doanh của “Ngân hàng tự phát”,
thành lập một nơi thống nhất kinh doanh, phát động nguồn lực tài chính để hỗ trợ
“Ngân hàng tự phát” phát triển quy phạm. Dưới sự hướng dẫn và hỗ trợ của Chính
93
phủ Việt Nam, “Ngân hàng tự phát” từ rối loạn kinh doanh cho đến kinh doanh có
trật tự phát triển và đóng góp cho sự phát triển kinh tế mậu dịch Việt Nam. Chính
phủ của Trung Quốc cũng nên phân tích đầy đủ tình hình thực tế của “Ngân hàng tự
phát” trong khu vực biên giới Trung - Việt , tuân theo các quy tắc thị trường kinh tế,
ưu hóa nguồn lực trang thiết bị, tôn trọng đầy đủ trên cơ sở nguyện vọng của người
kinh doanh “Ngân hàng tự phát”. Trung Quốc cần có chính sách hỗ trợ thực tế để
này vượt qua những trở ngại mà phát triển, để đáp ứng lớn hơn - nhu cầu phát triển
kinh tế và xã hội của Trung Quốc trong khu vực biên giới.
- Sự điều chỉnh giám sát hoạt động “Ngân hàng tự phát”
Pháp luật và quy định việc chỉ định Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan
quản lý hoạt động “Ngân hàng tự phát”, đặc biệt là trong quá trình Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam và các chi nhánh của tỉnh, thành phố xác nhận rõ trách nhiệm pháp
lý của mình với hoạt động “Ngân hàng tự phát”. Chính phủ Việt Nam công nhận
“Ngân hàng tự phát” vào phạm vi quy chế tài chính của mình là sự cần thiết cho
phát triển kinh tế và an ninh tài chính. Nhưng chính phủ Việt Nam cũng nhận ra
rằng quá nhiều can thiệp của chính phủ vào thị trường thì sẽ không hiệu quả. Do đó
dẫn đến gây trở ngại cho sự phát triển lành mạnh trong hoạt động của “Ngân hàng
tự phát”. Vì vậy, chính phủ Việt Nam không quy định nhiều chính sách và luật để
giám sát nghiêm ngặt với hoạt động của “Ngân hàng tự phát”. Ngoài các hoạt động
kinh doanh bất hợp pháp trừng phạt nghiêm chỉnh ra, không can thiệp quá nhiều vào
hoạt động kinh doanh bình thường của “Ngân hàng tự phát”, chỉ cung cấp một số
dịch vụ pháp lý giám sát bảo vệ và yêu cầu người kinh doanh “Ngân hàng tự phát”
thực hiện cơ bản đăng ký giao dịch và nghĩa vụ báo cáo định kỳ. Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam còn giao những quyền giám sát cụ thể xuống cho các cơ quan quản
lý chi nhánh cấp tỉnh. Vì thế, chính phủ Trung Quốc cũng phải nắm được mức độ
can thiệp vấn đề giám sát của hoạt động “Ngân hàng tự phát” đối với hành vi vi
phạm nghiêm trọng phải xử lý nghiêm minh. Những hoạt động kinh doanh bình
thường của “Ngân hàng tự phát” thì có thể thích hợp giám sát, thả lỏng quản chế để
94
“Ngân hàng tự phát” có thể có một không gian phát triển tự do và thoải mái hơn, có
lợi để khuyến khích “Ngân hàng tự phát” hoạt động công khai.
3.3.3. Các chính sách quản lý “Ngân hàng tự phát” mang tính công khai hóa và
hợp phát hóa ở biên giới Trung - Việt
Hoạt động “Ngân hàng tự phát” là đi kèm với việc dân biên giới đi lại buôn
bán với nhau và các doanh nghiệp thương mại mậu dịch trong khu vực biên giới
phát sinh nảy nở ra một hiện tượng độc đáo. Thông qua phân tích điều tra tình hình
các công ty thương mại biên giới và kinh doanh cá thể thành phố Đông Hưng tỉnh
Quảng Tây đối với nhu cầu hoạt động “Ngân hàng tự phát”. Chúng ta có thể
thấy”Ngân hàng tự phát” với sự tồn tại của nó là theo nhu cầu thực tế trong nước và
các khu vực biên giới. Do đó, cơ quan quản lý tài chính của Trung Quốc nên rút
kinh nghiệm của chính phủ Việt Nam về quản lý “Ngân hàng tự phát” ở khu vực
biên giới. Đặc biệt là nhu cầu các cơ quan thương mại nhỏ và dân biên giới đi lại
mậu dịch thanh toán tiền hàng, vay lãi, quyết toán vốn, đưa “Ngân hàng tự phát” lên
công khai hóa và hợp phát hóa xong, tiến thêm một bước quản lý kinh doanh “Ngân
hàng tự phát”, để cho nó thở thành hệ thống thanh toán thương mại biên giới Trung
- Việt loại 1. Từ đó giảm bớt và loại bỏ các tác động tiêu cực của nó đối với phát
triển kinh tế. “Ngân hàng tự phát” tiến hành công khai hóa và howph phát hóa quản
lý là giai đoạn từ xưa đến nay cho đến trong một khoảng thời gian dài của thời gian
giải quyết vấn đề phát triển không quy phạm. Đó là lựa chọn tốt hơn và để bù đắp
vấn đề con đường thanh toán thương mại biên giới giữa các ngân hàng chính quy
không thông thoát. Sau khi hoạt động “Ngân hàng tự phát” được công khai hóa và
hợp phát hóa và đã có một tư cách tổ chức tài chính hợp pháp, không còn dùng gọi
tên “Ngân hàng tự phát” không chính qui này nữa. Vì “Ngân hàng tự phát” có dịch
vụ chủ yếu là thanh toán thương mại biên giới. Kiến nghị sau khi “Ngân hàng tự
phát” được công khai hóa và hợp phát hóa sẽ đổi tên thành “Ngân hàng Biên Mậu”.
- Quy định pháp luật và quy định công khai hóa và hợp pháp hóa Ngân hàng
Biên Mậu
95
So với các ngân hàng thương mại, Ngân hàng Biên Mậu trong thanh toán mậu
dịch số lượng nhỏ và dân biên giới đi lại buôn bán có lợi thế tự nhiên hơn. Nhưng
Ngân hàng Biên Mậu chưa được sự công nhận của chính phủ Trung Quốc. Cơ quan
quản lý tài chính của Trung Quốc theo “Quyết định về trừng phạt liên quan đến tội
phạm lừa đảo và buôn bán trái phép ngoại hối”. Điều lệ trong quyết định coi tính
chất hoạt động kinh doanh của ngân hàng biên mậu thuộc loại phi pháp. Mua bán
ngoại tệ sẽ bị kết án tội kinh doanh trái phép. Tuy nhiên, hiệu quả đàn áp quản lý
không thỏa đáng. Ngân hàng Biên Mậu vì sự thiếu luật quy định liên quan, nó dễ
dàng ẩn “ngầm” để thực hiện những hoạt động kinh doanh không nền nếp. Do đó,
cho Ngân hàng Biên Mậu có tư cánh hợp pháp. Việc khuyến khích Ngân hàng Biên
Mậu từ mất trật tự “vùng xám”, “ngầm” đi “lên bãi cát ánh nắng mặt trời” có trật tự
“công khai hóa và hợp phát hóa”- hoạt động công khai. Tiến hành hướng dẫn và quy
phạm hành vi kinh doanh giao dịch của Ngân hàng Biên Mậu có thể làm giảm đáng
kể thương mại qua biên giới khả năng của các ngân hàng biên mậu tham gia vào các
hoạt động bất hợp pháp. Từ đó ngân hàng biên mậu dần dần đi vào nền nếp tiêu
chuẩn hóa. Hiện nay, chính phủ Trung Quốc chưa đưa ra một quy định rõ ràng về
vấn đề quản lý Ngân hàng Biên Mậu, các điều luật và quy định liên quan chủ yếu
đều là ngăn chặn đàn áp quản trị, rất khó để hướng dẫn một cách hiệu quả Ngân
hàng Biên Mậu đi lên “mặt đất”, cũng không thể bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
các bên giao dịch ngân hàng biên giới. Vì vậy, phải sửa đổi quy định hiện hành
xung đột biên giới với Ngân hàng Biên Mậu hợp pháp hóa. Đồng thời ra một
quyển luật hoàn chỉnh chuyên môn đối với Ngân hàng Biên Mậu cụ thể, cho ngân
hàng này tư cách hợp pháp hóa và thông qua các đạo luật quy phạm hành vi Ngân
hàng Biên Mậu khác.
- Sửa và bổ sung các luật và quy định có hiện tại
Hiện nay, hội đồng Nhà nước luật hành chính và Ngân hàng Nhân dân, cục
quản lý ngoại tệ, hội giám sát ngân hàng ban hành các quy định chủ yếu để đàn áp
và quản chế Ngân hàng Biên Mậu, chẳng hạn như: “Quyết định trừng phạt liên
96
quan đến tội phạm lừa đảo và buôn bán trái phép ngoại hối”, “Về thông báo cấm
ngân hàng ngầm và đấu tranh chống vay nặng lãi”, “lệnh cấm các ngân hàng ngầm,
chống cho vay nặng lãi”… Các luật này chủ yếu là để “Ngân hàng Nhân dân Trung
Quốc được chấp thuận hay không” làm cơ sở đối với các hoạt động tài chính bất
hợp pháp và tổ chức tài chính bất hợp pháp được xác định, để Ngân hàng Biên Mậu
bị mất không gian hoạt động hợp pháp. Vì vậy, muốn thực hiện công khai hóa và
howph phát hóa Ngân hàng Biên Mậu phải sửa đổi các luật quy định trên đối với
giới định hoạt động tài chính bất hợp pháp và tổ chức tài chính bất hợp pháp, để cho
Ngân hàng Biên Mậu công khai hóa và hợp phát hóa một không gian pháp lý. Ngoài
ra, cũng cần phải sửa đổi “Luật Ngân hàng Nhân dân”, “Luật Ngân hàng thương
mại”, “Luật quản lý giám sát ngân hàng”, “Luật công ty”, “Luật Hợp đồng”… Nội
dung liên quan trong đó, công nhận tính hợp pháp của Ngân hàng Biên Mậu, bãi bỏ
quy định bắt buộc liên quan đến đè ép Ngân hàng Biên Mậu. Quy định tính cưỡng
ép, cấu tạo thị trường hóa quan hệ góp vốn, xác nhận người kinh doanh Ngân hàng
Biên Mậu hợp lý phân phối và sử dụng vốn của mình, lấy tài sản đầu tư lấy lợi
nhuận quyền tài sản hợp pháp, bảo vệ lợi ích hợp pháp và những lợi ích liên quan
của người kinh doanh Ngân hàng Biên Mậu. Ngoài ra, còn phải ra chính sách quản
lý ngoại tệ đặc biệt, dưới sự giám sát của cơ quan quản lý ngoại hối, cho phép các
ngân hàng biên mậu trong phạm vi biên giới Trung - Việt triển khai dịch vụ đổi tiền
số lượng hạn chế, việc chuyển nhượng, thanh toán, chuyển tiền và các dịch vụ khác
- Đặt ra luật qui định chuyên môn cho Ngân hàng Biên Mậu
Trong hệ thống pháp luật hiện hành của nước ta, luật pháp đối với dân biên giới
hoạt động tài chính tư nhân liên quan, chủ yếu để ngăn chặn và quản lý Ngân hàng
Biên Mậu. Bên cạnh đó, tồn tại rải rác trong các loại luật và quy định, nó là khó
khăn thích hợp với nhu cầu phát triển đặc điểm công khai hóa và hợp phát hóa của
ngân hàng biên giới. Vì vậy, cần phải đặt ra một quyển sách hoàn thiện các luật và
quy định cụ thể đối với ngân hàng biên giới. Biện pháp quản lý ngân hàng biên giới
“trong” biện pháp quản lý ngân hàng, làm rõ địa vị hợp pháp của ngân hàng biên
97
giới. Cho phép Ngân hàng Biên Mậu trong phạm vi biên giới Trung - Việt tiến hành
đổi tiền nhân dân tệ ra tiền Việt Nam, chuyển tiền quá cảnh và các hoạt động kinh
doanh hợp pháp. Trên pháp lý, bảo vệ người kinh doanh ngân hàng biên mậu hoạt
động kinh doanh chính đáng và tài sản hợp pháp. Đối với ngân hàng khởi dậy thiết
lập, phạm vi kinh doanh, hạn chế mức tiền giao dịch, nhân viên vật tư trang thiết bị,
tỷ giá hối đoái, cho phép ra, vào thị trường, quy định ra tiêu chuẩn thao tác chi tiết
và khả thi. Năm 2009, cục quản lý ngoại hối Trung Quốc đã ra chính sách thí điểm
nghiệp vụ đặc biệt cho phép đổi tiền ngoại tệ, cho phép các tổ chức phi tài chính
trong nước triển khai nghiệp vụ đổi tiền ngoại tệ, do đó rất nhiều tổ chức tài chính
tư nhân từ “dưới đất” đi lên “mặt đất’. Trong đó cung cấp cho Ngân hàng Biên Mậu
công khai hóa và hợp phát hóa ý nghĩa. Tuy Nhiên, năm 2012 chính sách sửa đổi
thí điểm nghiệp vụ đặc biệt cho phép đổi tiền ngoại tệ trong yêu cầu cơ cấu phi tai
chính muốn triển khải hoạt động kinh doanh đổi tiền ngoại tệ phải có 500 vạn đồng
nhân dân tệ hoặc vốn tương đương đăng ký trở lên, phần nhiều chủ yếu là trong các
hình thức tư nhân cá thể. Ngân hàng Biên Mậu vốn tài chính yếu nên khó đạt được
yêu cầu này. Vì vậy, có thể thiết lập ngưỡng cửa thấp hơn của điều kiện ra nhập,
chẳng hạn như Ngân hàng Biên Mậu vốn đăng ký 50 vạn đồng nhân dân tệ cũng
được xin cấp giấy phép kinh doanh ngân hàng biên giới. Đồng thời, còn phải trong
“Biện pháp quản lý ngân hàng biên mậu” đối với ngân hàng biên mậu giao dịch hai
bên tham gia giao dịch bên giao dịch. Chi phí giá thành, trách nhiệm vi phạm
hợp đồng, phạm vi tài sản thế chấp, quyền và nghĩa vụ quy định rõ ràng, từ đó để
bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch và để điều chỉnh hành
vi giao dịch của Ngân hàng Biên Mậu. Ngoài ra, để duy trì lợi thế kinh doanh thuận
tiện của Ngân hàng Biên Mậu, trong luật quản lý biện pháp đơn giản hóa làm thủ
tục kinh doanh của doanh nghiệp thương mại biên giới và cá thể. Đây cũng là việc
làm có lợi cho việc thúc đẩy thuận lợi hóa thương mại.
- Thiết lập có hiệu quả chế độ giám sát Ngân hàng Biên Mậu
98
Trước khi công khai hóa và hợp phát hóa, Ngân hàng Biên Mậu trôi dạt bên
ngoài hệ thống quản lý tài chính, nằm trong tình trạng “ba không”: không có
người quản lý, không có người giám sát, không có người hướng dẫn”. Như vậy
không có lợi cho ngân hàng thương mại qua biên giới thoát khỏi bản thân cơ cấu
tổ chức phân tán, phòng ngừa rủi ro yếu và cũng không có lợi cho việc duy trì sự
ổn định trật tự kinh tế và xã hội trong khu vực biên giới Trung - Việt. Sau ánh
sánh hóa, Ngân hàng Biên Mậu phải bắt buộc đi vào phạm vi quản lý giám sát
của cơ quan quản lý tài chính chính phủ. Người kinh doanh ngân hàng biên mậu
sẽ lo lắng nếu cơ quan quản lý tài chính thực hiện giám sát chặt chẽ hoạt động
kinh doanh của mình. Do đó phá hoại thứ tự giao dịch tự nhiên của Ngân hàng
Biên Mậu. Vì vậy, cần phối hợp tốt quan hệ quản lý tài chính với thị trường tự do
giao dịch của Ngân hàng Biên Mậu.
- Tuân theo nguyên tắc giám sát can thiệp thích hợp
Sau khi hợp pháp hóa các Ngân hàng Biên Mậu, chính phủ hướng dẫn can
thiệp ngân hàng biên giới nên tôn trọng mong muốn của chủ thể giao dịch. Ngân
hàng này phát huy đầy đủ vai trò cơ bản của cơ chế thị trường trong nguồn lực phân
bổ, chủ yếu dựa vào lực lượng uy tín chủ thể giao dịch ngân hàng biên mậu và
hợp đồng tín dụng chịu thực hiện tự mình quy phạm và phát triển. Vai trò của chính
phủ nên định vị để tạo một môi trường chế độ pháp lý lành mạnh của Ngân hàng
Biên Mậu để cung cấp dịch vụ cho phát triển thương mại biên giới. Do đó, chính
phủ đối với Ngân hàng Biên Mậu giám sát nên thực hiện theo các nguyên tắc can
thiệp thích hợp , chủ yếu là giám sát gián tiếp, tránh quá nhiều sự giám sát trực tiếp.
Trong các hình thức quy định, hệ thống cung cấp cho các quy định về phạm vi ngân
hàng biên mậu, phương pháp và giám sát việc thực hiện các chương trình, không có
pháp lý ủy quyền không được phép tự tiện can thiệp vào các hoạt động thương mại
và kinh doanh qua biên giới của Ngân hàng Biên Mậu. Nếu không, quyền riêng của
thị trường dễ bị quyền công của chính phủ xâm phạm. Do đó phá hoại thuộc tính tự
nhiên hợp lý của thị trường tài chính dân gian. Tất nhiên, đối với Ngân hàng Biên
99
Mậu có thể liên quan đến hoạt động rửa tiền và các hoạt động tài chính bất hợp
pháp khác, tổ chức giám sát tài chính chính phủ phải giám sát chặt chẽ, tăng hình
phạt, phát huy tác động răn đe pháp lý, tích tực hướng dẫn các nhà kinh doanh Ngân
hàng Biên Mậu triển khai hoạt động kinh doanh hợp pháp .
- Tăng cường tính giám sát tự kỷ luật
Thành lập Ngân hàng Biên Mậu tổ chức tự quản - Hiệp hội Ngân hàng Biên
Mậu tự kỷ luật, yêu cầu tất các cả các Ngân hàng Biên Mậu đã đăng ký tại chính
phủ phải tham gia Hiệp hội Ngân hàng Biên Mậu tự kỷ luật, trở thành một thành
viên của Hiệp hội, do chính phủ trong khu vực biên giới ủy nhiệm cơ quan chi
nhánh Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc [47] tỉnh Quảng Tây, Vân Nam, cơ quan
chi nhánh giám sát ngân hàng một chuyên gia và sau đó hiệp hội Đại hội bầu tám
người kinh doanh Ngân hàng Biên Mậu ưu tú của ngành lập thành nhân viên chủ
quản hiệp hội. Trong khu vực, Ngân hàng Biên Mậu tập trung thiết lập chi nhánh
hiệp hội, chịu trách nhiệm giám sát và quản lý hoạt động kinh doanh ngân hàng địa
phương biên giới. Hiệp hội tự kỷ luật Ngân hàng Biên Mậu cần phải quy định bao
gồm: trách nhiệm hội viên, quản lý thành viên, tổ chức kỷ luật, bao gồm cả kỷ luật
khoa học chi tiết và có luật kết hợp tính hoạt động mạnh quy định hiệp hội. Đặc biệt
là sự cần thiết phải thiết kế tốt và có hiệu quả các cơ chế khuyến khích và trừng phạt,
cơ chế xếp hạng tín dụng để biểu hiện tinh thần và vật chất khen thưởng cho những
thành viên xuất sắc của Ngân hàng Biên Mậu. Đối với người vi phạm quy định phải
xử phạt hợp lý và tăng cường Ngân hàng Biên Mậu công bố thông tin. Từ đó, kích
thích các ngân hàng đẩy mạnh tự điều chỉnh và quyền kiểm soát nội bộ, hình thành
bầu không khí tốt của việc tuân thủ pháp luật trong ngành nghiệp.
- Giám sát chủ thể rõ ràng
Trước nhất cần phải rõ ràng rằng, chỉ dựa vào ngành nghiệp tự quy định hoặc
quy định của chính phủ đơn phương còn chưa đủ, ngành nghề tự quy định và
quy định của chính phủ phải được phối hợp đầy đủ với sự hình thành của một lực
lượng giám sát, để cùng nhau thúc đẩy sự phát triển lành mạnh và có trật tự ngành
100
ngân hàng biên mậu. Một mặt, cần phải đối với chính phủ giám sát và ngành nghề
tự quy định tiến hành phân chia hiệu quả. Chính phủ giám sát nên đóng một vai trò
trong việc kiểm soát điều khiển vĩ mô, thông qua Ngân hàng Biên Mậu để tạo ra
môi trường pháp lý thuận lợi cho ngân hàng này, ra quy định hợp lý có hiệu quả
khuyến khích và hạn chế cơ chế để thực hiện giám sát gián tiếp với Ngân hàng Biên
Mậu. Và Hiệp hội Ngân hàng Biên Mậu tự kỷ luật chịu trách nhiệm cho các
hoạt động và thực hiện các chính sách cụ thể do cơ quan quản lý tài chính chính phủ
giám sát và hướng dẫn. Mặt khác, chính phủ cần phải rõ ràng cơ quan quản lý Ngân
hàng Biên Mậu giám sát chủ thể, phòng ngừa sự xuất hiện của chân không giám sát
và lặp lại giám sát. Việt Nam không thiết lập cơ quan giám sát quản lý ngân hàng
chuyên ngành, do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Ban Quản lý có trách nhiệm giám
sát với ngân hàng biên mậu tiến hành giám sát, giám sát Ngân hàng Biên Mậu cho
vào phạm vi giám sát của ngân hàng nhà nước Việt Nam. Hơn nữa, hệ thống quản
lý tài chính của Trung Quốc là dựa trên “một dòng 3 hội” (ngân hàng nhân dân
PBOC, hội giám sát ngân hàng CBRC, CSRC và CIRC) là mô hình cơ bản, hội
giám sát ngân hàng CBRC là cơ quan giám sát chức năng ngân hàng của Trung
Quốc, về kinh nghiệm quản lý, tài nguyên thông tin và phòng ngừa rủi ro là có
nhiều ưu thế, Ngân hàng Biên Mậu hoạt động kinh doanh và tương tự với dịch vụ
của ngân hàng chính quy. Do đó, phải do hội giám sát ngân hàng chịu trách nhiệm
chính của trách nhiệm giám sát chính phủ. Cụ thể mà nói, hội giám sát ngân hàng
và cơ quan chi nhánh khu biên giới Trung - Việt phải thiết lập: dịch vụ mới tăng
hoặc thay đổi nghiệp vụ, rút ra thị trường, giao dịch số lượng lớn, vốn yêu cầu, dịch
vụ đi lại giữa ngân hàng chính quy và Ngân hàng Biên Mậu tiến hành giám sát liên
tục kiểm soát rủi ro. Bởi vì, sự trao đổi tiền tệ của Ngân hàng Biên Mậu, thương
mại biên giới Việt Nam thanh toán tiền hàng hoặc dịch vụ liên quan đến dòng vốn
lưu động xuyên biên giới, Vì vậy, phải do ngân hàng Nhân dân Trung Quốc và chi
nhánh cơ qua của nó phụ trách giám sát ngân hàng biên mậu kinh doanh ngoại hối
101
tại khu vực biên giới Trung - Việt. Làm rõ phạm vi trách nhiệm của từng cơ quan
giám sát Ngân hàng Biên Mậu để tránh giám sát lẫn lỗn và giám sát chân không,
đồng thời mà còn để tăng cường giao tiếp và hợp tác trong các cơ quan quản lý khác
nhau, xây dựng phối hợp và cơ chế quản lý hiệu quả.
- Tăng cường giám sát hoạt động rửa tiền và các hoạt động bất hợp pháp tài
chính khác
Khu vực biên giới đã luôn luôn là khu vực phát sinh tỷ lệ cao về rửa tiền và các
hoạt động tài chính bất hợp pháp khác, do ngân hàng biên mậu không xem xét các
nguồn quỹ của khách hàng, nhiều công ty, cá nhân đã thông qua Ngân hàng Biên
Mậu trái phép chuyển tiền qua biên giới ra nước ngoài. Ngân hàng Biên Mậu vô
hình đã trở thành cái ô bảo vệ cho hoạt động rửa tiền và các hoạt động tài chính bất
hợp pháp khác. Vì vậy, sau khi hợp pháp hóa các ngân hàng biên mậu, phải giải
quyết này lỗ hổng nghiêm trọng hiện có của ngân hàng biên mậu, tăng cường theo
dõi hoạt động rửa tiền và các hoạt động tài chính bất hợp pháp khác. Việc đầu tiên
là đưa hoạt động giao dịch của ngân hàng biên mậu vào hệ thống giám sát chống
rửa tiền của Ngân hàng Nhân dân, do chi nhánh hoặc văn phòng của Ngân hàng
Nhân dân Trung Quốc và các hiệp hội ngân hàng trong khu vực biên giới cùng chịu
trách nhiệm cho việc giám sát hoạt động ngân hàng biên mậu địa phương, xác định
nhiệm vụ của mình, tìm thấy xử lý kịp thời các giao dịch đáng ngờ. Thứ hai, quy
định các Ngân hàng Biên Mậu cần phải thực hiện nghĩa vụ cung cấp báo cáo giám
sát chống rửa tiền và các hoạt động tài chính bất hợp pháp khác. Đối với khách
hàng đến làm dịch vụ,người kinh doanh ngân hàng biên mậu phải tiến hành
xác định thân phận của khách hàng, yêu cầu khách hàng đề xuất các tài liệu có liên
quan và các tài liệu chứng minh, chẳng hạn như giấy chứng minh thư của khách cá
thể, giấy phép kinh doanh của công ty hoặc doanh nghiệp, đăng ký thuế, làm tốt
công tác đăng ký giao dịch của mỗi lần làm dịch vụ giao dịch. Đồng thời, những
người kinh doanh Ngân hàng Biên Mậu phải thực hiện nghĩa vụ báo cáo nghiêm túc
thông tin giao dịch đáng ngờ, chú ý tới hoạt động kinh doanh hàng ngày của từng
102
khách hàng, từ số lượng giao dịch, các dòng vốn lưu động, tần số giao dịch... Mặt
khác, phân tích ý định thực sự của việc giao dịch của khách hàng phát hiện giao
dịch đáng ngờ báo cáo cho cơ quan quản lý ngay lập tức. Một lần nữa, việc thành
lập cơ chế khen thưởng và trừng phạt hiệu quả, các tổ chức tài chính tham gia vào
việc giám sát hoạt động rửa tiền cần phải trả số tiền nhất định của nguồn nhân lực,
vật liệu và chi phí tài chính, cho nên tính chủ động tích cực của cơ quan tổ chức tài
chính không cao. Trước tình hình này, cơ quan quản lý tài chính nên thiết lập một
cơ chế khuyến khích thưởng phạt, đối với ngân hàng biên mậu tham gia và công tác
chống rửa tiền được hưởng tiền thưởng và chính sách ưu đãi khuyến khích tài chính
nhất định, đối với những ngân hàng không muốn thực hiện nghĩa vụ chống rửa tiền
hoặc giám sát hoạt động rửa tiền, nếu trong quá trình giám sát theo dõi mà phát hiện
khách hàng của mình có hoạt động rửa tiền và các hoạt động tài chính bất hợp pháp
khác và thậm chí thông đồng, bao che hành vi rửa tiền, sẽ phạt nặng cho những
ngân hàng biên mậu này, thậm chí thu lại giấy phép kinh doanh.
- Giúp Ngân hàng Biên Mậu nhiều sự tín nhiệm và có các chính sách ưu tiên
Thành lập một thị trường kinh doanh thống nhất. Bởi Ngân hàng Biên Mậu rời
rạc và phân bố rộng rãi ở khu vực biên giới Quảng Tây, Vân Nam, ngoài một phần
nhỏ có nơi tương đối cố định để kinh doanh. Ngoài những quán ngân hàng biên mậu
đổi tiền dọc theo đường phố cửa khẩu Đông Hưng, Quảng Tây có địa điểm kinh
doanh cố định ra, đại đa số vẫn trong vị trí cố định bên ngoài. Nhiều hơn là các
điểm giống như những quầy hàng bán hàng đặc sản lưu động của Việt Nam. Ngân
hàng biên mậu với hình thức phân tán rải rác trong Khu vực biên giới Trung - Việt
không lợi cho cho cơ quan quản lý tài chính tiến hành thống nhất quản lý và cũng
không có lợi cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp kinh doanh giữa các doanh
nghiệp, thương gia cá thể và Ngân hàng Biên Mậu. Đối với đặc tính “Ngân hàng tự
phát” Việt Nam nhỏ và phân tán, chính phủ Việt Nam tại Móng Cái đã Quy hoạch
một thị trường thống nhất “Ngân hàng tự phát”. Trung Quốc có thể học hỏi kinh
nghiệm của Việt Nam. Tại khu Ngân hàng Biên Mậu tập trung nhiều, chẳng hạn
103
như cửa khẩu Đông Hưng, thành phố Đông Hưng, Quảng Tây đã chuyên thiết lập
một thị trường kinh doanh Ngân hàng Biên Mậu thống nhất. Yêu cầu Ngân hàng
Biên Mậu phải đến đăng ký tại cơ quan quản lý Công Thương, mới được hưởng
hưởng các chính sách ưu đãi của chính phủ, tránh tình trạng mất trật tự không có
giấy phép. Những Ngân hàng Biên Mậu đã đăng ký tại chính phủ đều phải xin một
quán cố định làm nơi kinh doanh của mình trong thị trường thống nhất, bình thường
hoạt động kinh doanh trong những cơ sở cố định đó. Do hội hiệp ngân hàng tự luật,
phái nhân viên quản lý trong thị trường kinh doanh hàng ngày ngân hàng biên mậu
tiến hành tự luật quản lý, hiệp hội giám sát ngân hàng và Ngân hàng Nhân dân
thường xuyên hoặc không thường xuyên cho ai đến thị trường tiến hành giám sát và
kiểm tra. Ngoài ra, để bảo vệ ngân hàng biên mậu cùng những nhà kinh doanh trong
thị trường giao dịch vốn an toàn, có thể thiết lập tổ trật tự an toàn thị trường để duy
trì giao dịch thị trường và trật tự an toàn. Để duy trì lợi thế và phương thức linh hoạt
kinh doanh Ngân hàng Biên Mậu cho phép nhân viên ngân hàng này cung cấp dịch
vụ tại chỗ cho khách hàng cá nhân và doanh nghiệp, nhưng trong khi giao dịch phải
tiến hành xem xét thận phận và nguồn vốn của khách hàng và làm tốt công tác đăng
ký giao dịch.
- Cung cấp cho tài chính ưu đãi, thuế và các chi phí hành chính
Người kinh doanh Ngân hàng Biên Mậu phần nhiều là vốn cá nhân yếu kém,
một số ngân hàng biên mậu do hai ba người góp vốn kinh doanh, đằng sau có
tập đoàn hỗ trợ chỉ là một phần nhỏ, để Ngân hàng Biên Mậu được hoạt động hợp
pháp. Đích chính là đưa ngân hàng này vào hệ thống quản lý tài chính của Trung
Quốc. Do đó, trong phần thuế và quản lý chi phí nên dành cho ngân hàng biên mậu
phần hỗ trợ và ưu đãi lớn hơn, tránh tình hình ngân hàng biên giới do thuế quá nặng
mà không muốn đi “lên mặt đất” xảy ra. Các phòng ban có liên quan cần được phân
chia rõ ràng, do cơ quan quản lý công thương phụ trách ngân hàng biên mậu đăng
ký kinh doanh và thu lệ phí, do hiệp hội ngân hàng biên mậu tự quy định phụ trách
thu tiền luật phí quản lý kinh doanh thị trường, do cơ quan phòng thuế phụ trách thu
104
tiền thuế liên quan của Ngân hàng Biên Mậu. Trong khi thu thuế của Ngân hàng
Biên Mậu phải tiến hành thiết kế khoa học và hợp lý. Nếu ngân hàng này sau khi
hoạt động hợp pháp vì thuế quá nặng lợi nhuận không nhiều. Như vậy, nhiều ngân
hàng biên mậu ẩn “dưới đất” không muốn hoạt động công khai. Vì vậy, phải thông
qua giảm thuế, miễn thuế cho ngân hàng biên mậu không gian lợi nhuận hợp lý,
nhằm khuyến khích ngân hàng biên mậu công khai hóa và hợp phát hóa, ra chính
sách không thu thuế hoặc thu thuế ít của Ngân hàng Biên Mậu. Ngoài ra, cần phải ra
quỹ đặc biệt để hỗ trợ việc xây dựng các tài trợ công khai hóa và hợp phát hóa ngân
hàng xuyên biên giới trong các cơ sở phần mềm và phần cứng.
- Thiết lập hệ thống Ngân hàng Biên Mậu thống nhất
Ngân hàng Biên Mậu là tổ chức cá nhân hoạt động kinh doanh rải rác, nếu sau
khi ánh công khai hóa và hợp phát hóa để mỗi nhà ngân hàng đều phụ trách thiết lập
thanh toán theo điện tử của mình, quản lý rủi ro, thông tin khách hàng, chẳng hạn
như xây dựng hệ thống, có khả năng gây ra các nhà Ngân hàng Biên Mậu mỗi nhà
một kiểu, tiêu chuẩn khác nhau, xuất hiện tình hình quản lý hỗn loạn. Ngoài ra, mỗi
ngân hàng phải có trách nhiệm xây dựng hệ thống biên giới của riêng mình, nếu thế
mỗi ngân hàng biên mậu đều phải trả chi phí phát triển thành tiền rất lớn, dễ dàng
vượt quá phạm vi dung sai nguồn vốn của ngân hàng biên mậu loại nhỏ. Vì vậy, có
thể do hiệp hội giám sát ngân hàng và Ngân hàng Nhân dân cùng đưa ra tiêu chuẩn
xây dựng hệ thống thống nhất, ngành tài chính ra kinh phí xây dựng, hiệp hội ngân
hàng tự quản phụ trách xây dựng một thanh toán điện tử thống nhất của Ngân hàng
Biên Mậu, thu thập thông tin và hệ thống xử lý, hệ thống giám sát rủi ro và đánh giá,
phát huy vai trò lợi thế nguồn lực của chính phủ, tận dụng các công nghệ cao. Sự
hình thành một hệ thống ngân hàng biên mậu thống nhất toàn ngành liên mạng, giúp
giảm tổng thể chi phí tổng hợp khai thác của mỗi ngân hàng, mà còn có lợi cho nhà
quản lý tài chính của Trung Quốc tiến hành hướng dẫn, kịp thời, thuận tiện, giám sát
ngành Ngân hàng Biên Mậu.
105
- Hướng dẫn Ngân hàng Biên Mậu và Ngân hàng thương mại triển khai mở
rộng hợp tác và cạnh tranh lành mạnh
Ngân hàng Biên Mậu và các ngân hàng thương nghiệp chính quy đều là thành
viên chủ yếu của hệ thống thanh toán thương mại qua biên giới. Cả hai đều là cơ
cấu tài chính có tính lợi nhuận, đều coi việc nỗ lực theo đuổi thêm thu nhập làm
phương hướng của họ và lại tiến hành dịch vụ kinh doanh của họ tương tự. Do đó,
từ lâu hai bên đã tham gia vào cuộc cạnh tranh hơi khốc liệt. Theo cuộc khảo sát
một vài năm trước đây của cơ quan liên quan Trung Quốc ước tính “Ngân hàng tự
phát”. Lúc đó, hàng năm tiến hành trao đổi tiền nhân dân tệ và đồng tiền Việt Nam
lên tới gần 10 triệu nhân dân tệ, bằng năm lần tổng doanh thu của ngân hàng thành
phố Đông Hưng [78]. Ngân hàng thương mại chính quy coi Ngân hàng Biên
Mậu chiếm lợi nhuận thị trường của họ. Vì vậy, nghĩ ra các biện pháp, không tiếc giá
thành để triển khai chèn ép cạnh tranh với Ngân hàng Biên Mậu. Nhưng so với các
ngân hàng thương mại chính quy, ngân hàng biên mậu tồn tại sự tài chính yếu của mình,
có khuyết điểm khó mà tiến hành giao dịch số lượng tiền lớn. Trong các hệ thống thanh
toán thương mại biên giới Trung - Việt hiện nay, các Ngân hàng Biên Mậu và các ngân
hàng thương mại chính quy, thực sự quan hệ là một hình thức cạnh tranh và phụ thuộc
lẫn nhau, thiếu ai cũng không được, cả hai đều có lợi thế của họ và cũng đều có cái
thiếu sót của mình. Do đó, quản lý ngân hàng biên mậu ánh sánh hóa phải giải quyết
các hợp tác và tranh chấp giữa ngân hàng biên mậu và các ngân hàng thương mại chính
thức, tránh tình hình cả hai rơi vào cuộc cạnh tranh ác liệt luẩn quẩn bất lợi, nên được
sự dẫn dắt của cơ quan quản lý tài chính Trung Quốc, thiết lập nền tảng giao lưu và
hợp tác giữa Ngân hàng Biên Mậu và ngân hàng thương mại chính quy, để trong thể
chất thanh toán thương mại biên giới hợp sức phát huy hai cấp quan trọng, cùng nhau
để thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của khu kinh tế và xã hội biên giới Việt Nam
tỉnh Quảng Tây và Vân Nam.
- Để thúc đẩy giao lưu và hợp tác giữa hai ngân hàng
106
Là một hệ thống dịch vụ chủ yếu thanh toán thương mại biên giới, ngân hàng
thương mại khu vực biên giới Vân Nam, Quảng Tây. Từ năm 1996 triển khai dịch
vụ thanh toán thương mại biên giới đến nay, đã được sự hỗ trợ mạnh mẽ của chính
sách quốc gia, hiện nay đã thành lập bao gồm: chuyển điện, ủy thác nhận thu, thư
tín dụng và các sản phẩm thanh toán thương mại biên giới, dựa trên công nghệ cao
hệ thống thanh toán điện tử SWIFT và các hoạt động nền tảng ngân hàng trực tuyến.
Ngoài ra, ngân hàng thương mại của Trung Quốc trải qua một thời gian dài kinh
nghiệm phát triển thị trường thay đổi, trong chế độ xây dựng thể chế, phòng ngừa
rủi ro và kiểm soát, đào tạo cán bộ ,đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm, các biện
pháp quản lý chín chắn hơn. ngân hàng biên mậu trong một thời gian dài nằm trong
trạng thái phân tán lẻ tẻ, bất kể là thiết bị thanh toán tiền, nơi văn phòng làm việc và
cơ sở vật chất phần cứng, phần mềm hoặc các hệ thống quản lý khác, trình độ nhân
viên đều tồn tại rất nhiều chỗ không chuẩn, ẩn nhiều rủi ro hơn. Điều này đòi hỏi cơ
quan quản lý tài chính của Trung Quốc phải thành lập sàn giao dịch và hợp tác giữa
các ngân hàng thương mại và các ngân hàng biên mậu, hệ thống thanh toán điện tử
biên giới hiện có cung cấp cho ngân hàng biên mậu dùng chung và cổ vũ khuyến
khích ngân hàng biên mậu học hỏi ngân hàng thương mại kinh nghiệm trong việc
xây dựng hệ thống, kiểm soát rủi ro, ủng hộ các nhân viên ngân hàng biên mậu
tham gia vào các hoạt động đào tạo của ngân hàng thương mại và của cơ quan quản
lý tài chính, nâng cao trình độ chuyên nghiệp của nhân viên Ngân hàng Biên
Mậu. Đặc biệt là trong tình hình ngày càng nghiêm trọng tiền nhân dân tệ giả, nên
chú trọng tập trung đào tạo kỹ năng xét nhận tiền giả của nhân viên ngân hàng biên
mậu. Ngoài ra, các cơ quan quản lý tài chính dẫn đầu các cuộc họp giao lưu định kỳ
của nhân viên quản lý ngân hàng biên mậu và nhân viên quản lý ngân hàng thương
mại, để tăng cường ngân hàng thương mại và Ngân hàng Biên Mậu về việc dịch vụ
thanh toán biên mậu điều độ vốn và dịch vụ đi lại hỗ trợ lẫn nhau.
- Cho phép Ngân hàng Biên Mậu tiến hành tổ chức và đổi mới nghiệp vụ. Tổ
chức Ngân hàng Biên Mậu thành lập theo hình thức đa dạng hóa
107
Trải qua quá trình tiến hóa lâu dài, bây giờ kích thước và quy mô của ngân
hàng biên mậu đã nổi lên như một xu hướng đa dạng hóa. Một số ngân hàng do hai
ba thân thích họ hàng hoặc bạn bè chung vốn kinh doanh, chỉ làm dịch vụ đổi tiền
và chuyển tiền nhỏ. Một số ngân hàng biên mậu đằng sau là tập đoàn có vốn mạnh
để hỗ trợ, quầy lễ tân chỉ là nhân viên nghiệp vụ của nó đứng lên kinh doanh. Ngân
hàng Biên Mậu có vốn lớn có làm các dịch vụ như: trao đổi tiền tệ biên giới, ủy
quyền thu nhận, thanh toán hối đối, bảo lãnh tài chính và nghiệp vụ đa dạng khác.
Một số Ngân hàng Biên Mậu còn tiến hành hợp tác liên khu vực hoặc xuyên biên giới,
các nhà điều hành khu biên giới Quảng Tây, Vân Nam hoặc người kinh doanh Quảng
Tây, Vân Nam với người kinh doanh bên Việt Nam liên hợp kinh doanh ngân hàng
biên mậu, làm các loại dịch vụ. Do đó, phải khuyến khích những ngân hàng biên mậu:
có qui mô vốn nhất định, hệ thống tài chính tương đối đầy đủ, quản lý vận hành
tương đối quy phạm liên hợp lại, hoạt động tiêu chuẩn hóa, cuối cùng phát triển hình
thành tổ chức tài chính tư nhân có qui mô lớn, tín dụng tốt, vốn lớn mạnh. Có thể nói,
đối với Ngân hàng Biên Mậu do mấy người thân hay bạn bè góp vốn kinh doanh, vốn
tiền hơi yếu kém, cho phép nó theo tư cách tư nhân đăng ký , đối với ngân hàng biên
mậu có tập đoàn hỗ trợ, sức tài chính mạnh, khuyến khích họ sử dụng hình thức công
ty tài chính tư nhân kinh doanh; đối với ngân hàng biên mậu do hai bên Trung - Việt
hợp tác liên doanh nên khuyến khích họ đăng ký thành công ty tài chính liên doanh
Trung - Việt. Đối với một số Ngân hàng Biên Mậu biểu hiện tốt, uy tín cao vượt trội,
vốn nhiều, thêm một bước dẫn họ thành ngân hàng thương nghiệp tư nhân. Ngoài ra,
cũng cho phép ngân hàng thương mại nhà nước góp cổ phần vào một số ngân hàng
biên mậu ưu tú, trở thành cổ đông của ngân hàng biên mậu, cùng nhau quản lý kinh
doanh, phát triển thành ngân hàng hợp tác. Cho những Ngân hàng Biên Mậu hình
thức tổ chức sự ủng hộ hỗ trợ và chính sách ưu đãi khác nhau, để thúc đẩy sự phát
triển của các ngân hàng biên giới tiêu chuẩn hóa dưới sự hướng dẫn của cơ quan quản
lý tài chính Trung Quốc, đáp ứng nhu cầu kinh doanh và thanh toán bù trừ biên giới
và tài chính của doanh nghiệp và dân biên giới đa dạng hóa .
108
- Cho phép các Ngân hàng Biên Mậu triển khai kinh doanh đa dạng hóa
Đối với một số sức tài chính mạnh của các ngân hàng biên giới mà nói, đơn
thuần chỉ làm dịch vụ đổi ngoại tệ, thanh toán tiền hàng, đã không thể tận dụng vốn
của mình. Theo tình hình thực tế phát triển của Ngân hàng Biên Mậu có thể cho
phép ngân hàng mậu dịch tiến hành đổi mới kinh doanh nhất định, chẳng hạn như
cho phép nhử triển khai qui mô nhất định cho vay tiền, bảo lãnh tài chính, tín dụng
bảo đảm, cho thuê và các hoạt động tư vấn tài chính, để cho sức tài chính mạnh của
ngân hàng biên mậu trở thành Ngân hàng Biên Mậu có tính toàn diện mạnh hơn.
Tất nhiên, chỉ có ngân hàng biên mậu sức tài chính mạnh, uy tín trên thị trường và
kiểm soát rủi ro chất lượng cao mới có đủ điều kiện để ra nhập một hình thức tiên tiến
hơn của sự phát triển. Yêu cầu nó phải thích hợp: vốn đăng ký là 10 triệu nhân dân tệ
trở lên. Đối tượng kinh doanh là đối với các doanh nghiệp trung bình và nhỏ và các hộ
kinh doanh cá thể hoạt động kinh doanh trong khu vực biên giới, có các điều kiện: lãi
suất cao nhất không được vượt quá bốn lần đối với lãi xuất cùng kỳ của ngân hàng
trung ương công bố lãi suất cho vay, tỷ lệ lãi suất thấp nhất không được thấp hơn so với
cùng kỳ 0,9 lần. Giao dịch cùng một khách hàng không giao dịch.
Sơ đồ 2: Các hình thức tổ chức của ngân hàng biên mậu
Nguồn tư liệu: Viện nghiên cứu mậu dịch biên giới Trung - Việt tỉnh
Vân Nam Trung Quốc
109
- Cải thiện biện pháp hỗ trợ để Ngân hàng Biên Mậu hoạt động công khai,
hợp pháp
Nhân dân tệ và đồng tiền Việt Nam đổi tiền mặt kinh doanh là nhu cầu thực
tế tại khu vực biên giới Trung - Việt, mà vì nhân dân tệ và đồng tiền Việt Nam
không thuộc về một đồng tiền tự do chuyển đổi, tùy thuộc rất nghiêm ngặt và hạn
chế vào các luật và quy định về quản lý ngoại hối của Trung Quốc, và tỷ giá
hối đoái của đồng tiền việt Nam biến động to rủi ro lớn. Do đó, ngân hàng thương
mại chính quy của nước ta không muốn triển khai dịch vụ kinh doanh này. Trước
tình hình này, có thể phát huy “Ngân hàng tự phát” khu vực biên giới Quảng Tây,
Vân Nam “Ngân hàng tự phát” và “Ngân hàng tự phát” Việt Nam liên hệ chặt chẽ,
có thể điều động một số lượng tiền lớn của hai bên và lợi thế nguồn vốn .cho phép
ngân hàng biên mậu triển khai dịch vụ đổi tiền mặt nhân dân tệ sang tiền mặt Việt
Nam. Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc, Cục Quản lý ngoại tệ nhà nước và cơ
quan quản lý tài chính khác cần phải đưa ra chính sách và thiết lập về cơ chế giao
dịch nhân dân tệ và đồng tiền Việt Nam ,hai loại tiền phi tự do lưu thông giao dịch
chuyển đổi lẫn nhau ,thông qua thỏa thuận hợp tác với Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam, bàn với nhau về việc triển khai điều chỉnh quy phạm kinh doanh trao đổi tiền
nhân dân tệ và tiền Việt Nam giữa “Ngân hàng tự phát” hai bên, để thuận tiện cho
việc tiến hành giám sát hiệu quả tình hình tiền mặt lưu thông dân gian của hai bên,
mà còn đáp ứng nhu cầu thị trường đối với tiền mặt trong các mậu dịch biên giới
của hai nước.
- Đẩy nhanh việc xây dựng cơ chế nhân dân tệ hồi lưu
Với sự nâng cao liên tục thực lực toàn diện của Trung Quốc, tiền nhân dân tệ
trong khu vực biên giới ngày càng được công nhận hơn. Vì vậy, sau khi cho phép
các ngân hàng biên mậu tiến hành dịch vụ kinh doanh đổi tiền nhân dân tệ ra đồng
tiền Việt nam trong khu vực biên giới Trung - Việt tỉnh Quảng Tây, Vân Nam, ước
tính sẽ có nhiều tiền mặt nhân dân tệ thông qua ngân hàng biên mậu đi vào lãnh thổ
Việt Nam. Ngoài ra, trước khi công khai hóa và hợp phát hóa ngân hàng biên mậu
110
giúp dân biên giới và doanh nghiệp biên mậu chuyển tiền mặt tiền nhân dân tệ sang
việt nam, cộng với khách du lịch Trung Quốc sang Việt Nam du lịch mang tiền
Trung Quốc sang Việt Nam tiêu thụ, cho thấy số lượng tiền nhân dân tệ lưu lại trong
lãnh thổ của Việt Nam rất lớn. Hiện nay, thị trường ly cảnh của đồng tiền nhân dân
tệ tại ngoại cảnh Trung Quốc vẫn chưa hoàn hảo, nếu chủ sở hữu đồng Nhân dân tệ
tìm thấy cơ hội trong việc bảo giá trị và tăng giá khó khăn trong lãnh thổ Việt Nam
và sự hồi lưu của đồng nhân dân tệ đường lối không thông thoát, nó rất dễ dàng làm
cho các doanh nghiệp, cá nhân và ngân hàng trong lãnh thổ của Việt Nam đối với
việc lưu giữ tiền nhân dân tệ độ chấp nhận sẽ giảm thấp. Trong trường hợp này,
chúng ta phải đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ chế hồi lưu của đông tiền nhân dân tệ,
làm thông thoát con đường hồi lưu của đồng tiền nhân dân tệ. Khuyến khích ngân
hàng thương mại trong nước. Đặc biệt là các cơ quan chi nhánh ngân hàng công
thương trong khu vực biên giới phát triển đa dạng hơn, đối với Việt Nam và các
nước láng giềng khác, các ngân hàng, các doanh nghiệp và cá nhân nhân dân tệ bảo
đảm giá trị, tăng giá trị, sản phẩm tài chính, cho phép ngân hàng tín dụng cao Việt
Nam. Các công ty và cá nhân giữ tiền nhân dân tệ quỹ đầu tư vào thị trường cổ
phiếu, thị trường phiếu công trái và phát sinh sản phẩm tài chính của Trung Quốc.
Đồng thời, phát huy đầy đủ lợi thế của mô hình địa lý của các nền kinh tế trong khu
vực Đông Nam Á của nước ta, tích cực việc phát hành phiếu công trái nhân dân tệ
tại Việt Nam và các nước láng giềng khác, đưa ra hỗ trợ tài chính và chính sách ưu
đãi, để khuyến khích ngân hàng thương mại nhiều hơn của Trung Quốc đặt chi
nhánh tại Việt Nam, chấp nhận tiền nhân dân tệ tiền mặt gửi tiền, có thể dần dần
đưa thông qua ngân hàng biên mậu di chuyển sang Việt Nam tiền nhân dân tệ vào
hệ thống ngân hàng thương mại, thúc đẩy việc thực hiện thuận lợi của việc tiền
nhân dân tệ tại Việt Nam hồi lưu.
- Thiết lập cơ chế truy cập ngân hàng biên giới và cơ chế thoát
Tiếp cận thị trường ngân hàng biên mậu chủ yếu bao gồm các tổ chức, doanh
nghiệp và các nhân viên trong ba lĩnh vực được phép vào. Trong điều kiện tiếp cận
111
với các tổ chức, miễn là vốn của ngân hàng nộp đơn biên giới, cơ sở hạ tầng, khống
chế rủi ro, trình độ điều hành và các điều kiện khác để đạt được yêu cầu của “Biện
Pháp quản lý ngân hàng biên giới” và các quy định có liên quan, sẽ cho phép đăng
ký, giảm thấp ngưỡng cửa đi và có lợi hướng dẫn nhiều ngân hàng từ “dưới đất” đi
lên “mặt đất”. Tất nhiên, cũng cần phải hợp lý khống chế kiểm soát tốc độ tăng
trưởng và số lượng các ngân hàng biên mậu, phòng ngừa tình hình số lượng quá
nhiều quá kém và cạnh tranh ác tính xuất hiện. Trong việc tiếp cận dịch vụ, cần phải
thực hiện theo các nguyên tắc quản lý kinh doanh thận trọng, xác định rõ phạm vi
quy định kinh doanh và điều kiện kinh doanh có liên quan cần thiết cho các ngân
hàng biên giới và cấm các ngân hàng tham gia vào thương mại qua biên giới trong
các dịch vụ và các hình phạt cho việc không tuân thủ các quy tắc nghiêm ngặt để
bảo vệ các ngân hàng biên mậu tham gia vào việc kinh doanh hợp pháp và kiểm
soát an toàn. Về mặt tiếp cận nhân viên làm việc, đối với nhân viên ngân
hàng thương mại biên giới không cần nghiêm ngặt có yêu cầu học lực, các nhân
viên ngân hàng biên giới chủ yếu là người có các quan hệ nhân mạch nhất định và
thực lợi tài chính nhất định trong khu vực biên giới, họ đã quen thuộc tình hình địa
phương, theo kinh nghiệm thực sự và theo lối quen dân gian giao dịch để thực hiện
các hoạt động kinh doanh, nhưng hơi thiếu về học thức chuyên môn tài chính. Do
đó, các cơ quan quản lý tài chính hoặc ngân hàng thương mại nhà nước phải chịu
trách nhiệm đối với nhân viên ngân hàng thương mại qua biên giới tiến hành vấn đề
cơ bản tài chính, luật ngoại tệ phòng ngừa rủi ro kinh doanh ngoại hối và nội dung
đào tạo để đảm bảo sự phát triển lành mạnh của ngành ngân hàng biên mậu từ đầu
nguồn. Dưới điều kiện thị trường kinh tế, sự cần thiết phải thiết lập một cơ chế để
lại cái tốt loại bỏ cái xấu cơ chế rút khỏi, phát huy phân bổ thị trường các nguồn
vốn tác dụng tính cơ bản, do thị trường quyết định vấn đề ngân hàng biên mậu đáng
phát triển hay là rút ra khỏi. Phải căn cứ theo luật chỉnh đốn ngân hàng biên mậu vi
phạm pháp luật kinh doanh, khi cần thiết phải thay thế pháp nhân công ty hoặc là
hình thức sát nhập tái tổ. Đối với những hành vi hoạt động thương mại bất hợp
112
pháp đáng kể, thị trường rủi ro lới của ngân hàng biên giới, cơ quan quản lý tài
chính phải kịp thời sử lý, xóa bỏ tư cách kinh doanh của họ, nghiêm chỉnh kiểm tra
người có liên quan, để cho gía thành vi phạm qui luật to hơn lợi ích dành được, để
cho những ngân hàng biên mậu khác có tác dụng khiếp sợ pháp luật. Thông qua
việc thành lập để lại cái tốt loại bỏ cái xấu cơ chế rút lui, ngăn chặn lối ngân hàng
biên mậu vi phạm luật qui không hợp pháp để chuyển rủi ro vào xã hội, buộc các
nhà quản lý kinh doanh ngân hàng biên mậu nâng cao chất lượng tư cách riêng của
họ, và cẩn thận thực hiện các hoạt động kinh doanh.
- Tăng cường hợp tác thanh toán thương mại biên giới giữa Trung Quốc và
Việt Nam
Sự phát triển bền vững và lành mạnh thanh toán biện mậu của tỉnh Quảng Tây
và tỉnh Vân Nam với Việt Nam không thể tách rời sự hỗ trợ tích cực của chính phủ
hai nước và hợp tác lẫn nhau. Hiện nay, chính phủ nước ta và chính phủ Việt Nam
về quản lý thanh toán biên giới vẫn còn thiếu hiệu quả về giao lưu và hợp tác, trong
những mặt: lối giải quyết thương mại biên giới lưu loát, quy định tỷ giá đồng tiền
Việt Nam và đồng tiền nhân dân tệ, liên hợp đả kích hoạt động rửa tiền và buôn lậu
tại khu vực biên giới. Ngân hàng trung ương và bộ phận quản lý ngoại tệ hai nước
vẫn chưa hình thành một cơ chế hợp tác tài chính tốt hơn, không có lợi cho sự phát
triển lâu dài của thương mại biên giới Trung - Việt. Vì vậy, chính phủ nước ta cần
phải tăng cường trao đổi và hợp tác với chính phủ Việt Nam trong việc thanh toán
biên mậu biên giới.
Đầu tiên, chúng ta cùng phải chỉnh đốn” Ngân hàng tự phát” phát triển, trong
lãnh thổ Việt Nam” Ngân hàng tự phát” đã đạt được tư cách hợp pháp, tại hai tỉnh
biên giới Trung Việt tỉnh Quảng Tây và tỉnh Vân Nam” Ngân hàng tự phát” sau khi
công khai hóa và hợp phát hóa. Trong khu vực biên giới của tỉnh Vân Nam và tỉnh
Quảng Tây” Ngân hàng tự phát” nghiêng nhiều hơn về thực hiện hợp tác xuyên biên
giới, để được hưởng thỏa đáng giải quyết thanh toán tiền mặt. Trong trường hợp này,
cơ quan giám sát tài chính của Trung Quốc nên tăng cường cùng cơ quan quản lý tài
113
chính Việt Nam trao đổi và chia sẻ thông tin giao lưu về quản lý “Ngân hàng tự
phát”, cùng giám sát và qui phạm hành vi giao dịch của người tham gia hoạt động”
Ngân hàng tự phát”. Việc thứ hai là hình thành do chính phủ hai nước chủ đạo tỷ giá
hối đoái thị trường đồng nhân dân tệ đổi với đồng Việt Nam. Trong một thời gian
dài, khu vực biên giới Quảng Tây, Vân Nam và Việt Nam tỷ giá đồng nhân dân tệ
và đông Việt Nam đều do” Ngân hàng tự phát” giật dây, tăng nhiều rủi ro thanh toán
thương mại biên giới. Do đó, nếu” Ngân hàng tự phát” của hai nước có tư cách
hợp pháp, sau khi chịu sự giám sát quản lý của chính quyền hai nước, cần phải nỗ
lực để hình thành tỷ giá đồng nhân dân tệ và đồng Việt Nam hối đoái thị trường do
hai bên chính phủ chỉ đạo. Trong” Ngân hàng tự phát” công khai hóa và hợp phát
hóa sau một khoảng thời gian, do ngân hàng thương mại chính qui Trung - Việt
việc thanh toán giữa đồng nhân dân tệ và đồng Việt Nam thanh toán bù trừ các cơ
chế hòa bình khó mà nhanh chónh kiến lập. ngân hàng thương mại chính quy của
hai bên Trung - Việt không cung đầy đủ đồng tiền mặt đầy đủ của nước kia, cho
nên có thể tiếp tục do” Ngân hàng tự phát” căn cứ theo quan hệ cung cấp nhu cầu
của thị trường để xác định tỷ giá thị trường của nhân dân tệ và đồng tiền Việt Nam
trong khu vực biên giới .
Nhưng” Ngân hàng tự phát” nên được xác định theo hướng dẫn của cơ quan
quản lý tài chính, công khai, minh bạch và ổn định tỷ giá hối đoái, để ngăn chặn các
hành vi thao tác tỷ lệ đổi tiền phát sinh. Một thời gian dài trong tương lai, thông qua
tham vấn thường xuyên và hợp tác trong việc trao đổi của hai chính phủ, thúc đẩy
việc thành lập tiền tệ hai bên bình bù và thanh toán bù trừ cơ chế, cuối cùng hình
thành chính phủ do chính phủ hai nước Trung việt cùng nhau chủ đạo tỷ giá tiền đổi
hai nước,” Ngân hàng tự phát” theo hướng dẫn tỷ giá hối đoái chính thức của
nhà nước để tiến hành hoạt động giao dịch. Ngoài ra, nên dựa trên các nguyên tắc
hai bên cùng có lợi, tăng cường thương lượng và hợp tác giữa hai chính phủ. Ví dụ:
các cuộc đàm phán hai bên để giải quyết tốt hơn những khác biệt tồn tại trong công
tác quản lý ngoại tệ, sự ra đời nhiều hơn các chính sách và các biện pháp thương
114
mại qua biên giới giữa hai nước có lợi cho sự phát triển của hệ thống thanh toán,
cùng nhau thực hiện có hiệu quả phòng chống rửa tiền và chống buôn lậu và các
hoạt động khác, tăng cường liên kết giám sát hơn nữa vốn xuyên biên giới, cùng
nhau giám sát ngăn chặn rủi ro thanh toán thương mại biên giới. Thông Qua trao đổi
hợp tác chặt chẽ giữa chính phủ hai nước, tiếp tục thúc đẩy phát triển lành mạnh của
hệ thống thanh toán thương mại biên giới Trung - Việt hoàn thiện hơn. Từ đó mà
còn là để” Ngân hàng tự phát” sau khi công khai hóa và hợp phát hóa tạo ra một
môi trường thị trường tốt đẹp thuận tiện.
3.4. Tiểu kết chƣơng 3
Như vậy, “Ngân hàng tự phát” ngày càng phát huy được các tiềm năng phát
triển của mậu dịch hai nước Việt – Trung. Nó đáp ứng được những nhu cầu liên
quan đến mậu dịch, thương mại mà ngân hàng chính quy không đáp ứng được. Tính
chất công khai hóa và hợp phát hóa – công khai hóa của ngân hàng này thể hiện
ngày càng rõ rệt.
Ở Việt Nam, năm 1998 đã đưa “Ngân hàng tự phát” vào hoạt động hợp pháp
dưới sự quản lý của nhà nước. Việc làm ấy, đã hạn chế được các mặt tiêu cực mà
“Ngân hàng tự phát” và phát huy tối đa mặt tích cực của nó. Đồng thời, loại hình
ngân hàng này góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế của Việt Nam.
Thế nhưng, “Ngân hàng tự phát” ở Trung Quốc lại bị kiềm chế, bị cấm hoạt
động. Vì thế, ngân hàng này vẫn tồn tại một cách không hợp pháp. Nó không những
không phát huy được tính tích cực mà còn làm cho tình hình biên mậu khu vực biên
giới Việt – Trung diễn ra ngày càng phức tạp. Vậy nên, Trung Quốc cần học hỏi
cách quản lý của Việt Nam để đưa “Ngân hàng tự phát” ra ánh sáng – hoạt động
công khai, hợp pháp và có hiệu quả.
115
KẾT LUẬN
Lối thanh toán thương mại biên giới chính thức không được lưu loát, để đáp
ứng nhu cầu tiền vốn của chủ thể trên tất cả các thị trường, các ngân hàng thương
mại chính qui trên khách quan có tính hạn chế, luật quản lý ngoại tệ có sự khác biệt
giữa Trung Quốc và Việt Nam là một yếu tố tổng hợp là nền sinh sống đất đai của
“Ngân hàng tự phát” trong khu biên giới Trung - Việt.
“Ngân hàng tự phát” trong quá trình nhiều năm phát triển, dịch vụ kinh doanh
và quy mô vốn đã trải qua những thay đổi đáng kể, bởi vì phương thức kinh doanh
linh hoạt, thủ tục đơn giản, chuyển tiền nhanh chóng đến quỹ, chi phí thấp và các
nguyên nhân khác, đã được thương khách cá nhân và doanh nghiệp biên giới trong
khu vực biên giới Trung - Việt phổ biến hoan nghênh. Tuy nhiên, do “Ngân hàng tự
phát” trình độ của người kinh doanh không cao, độ bảo vệ pháp lý hơi trễ, thiếu sự
giám sát quản lý có hiệu lực của chính phủ và các nguyên nhân khác. “Ngân hàng tự
phát” đối với sự phát triển ổn định xã hội kinh tế của khu vực biên giới Trung - Việt
có ảnh hưởng tiêu cực. Chính phủ Trung Quốc từ lâu đều dùng thái độ ngăn chặn và
cấm chỉ đối với “Ngân hàng tự phát”, nhưng dưới tình hình ngân hàng chính thức
thanh toán thương mại biên giới Trung - Việt không hoàn hảo. “Ngân hàng tự phát”
ở khu vực biên giới Trung - Việt vẫn có nhu cầu thị trường rộng rãi, làm cho hiệu
quả của việc chính phủ đàn áp quản trị không thỏa đáng. Theo luật của chính phủ
Việt Nam, để phổ biến kinh nghiệm phát triển của “Ngân hàng tự phát” cho thấy
rằng, chính phủ và các cơ quan tài chính quản lý cần nhìn chính xác về sự “Ngân
hàng tự phát” tồn tại rộng rãi ở tại khu vực biên giới Trung - Việt, cung cấp cho
“Ngân hàng tự phát” một môi trường phát triển tốt đẹp, có tác dụng tích cực lợi cho
phát triển khu kinh tế biên giới và xã hội lành mạnh và ổn định trong khu vực biên
giới, để giảm thiểu các tác động tiêu cực xuống thấp nhất. Qua phân tích này, chúng
tôi cho rằng “gân hàng bãi” tại biên giới Trung - Việt nên dùng biện pháp quản lý
“ánh nắng mặt trời” hóa và sẽ đổi tên “Ngân hàng tự phát” thành “Ngân hàng Biên
Mậu”. Cụ thể bắt tay làm việc vào các phần sau:
116
Thứ nhất là quy định luật hoạt động công khai, hợp pháp cho “Ngân hàng tự phát”.
Thứ hai là thiết lập một chế độ giám sát hiệu quả của Ngân hàng Biên Mậu.
Thứ ba là cho Ngân hàng Biên Mậu hưởng nhiều chính sách hỗ trợ và ưu đãi.
Thứ tư là hướng dẫn ngân hàng mậu dịch biên giới triển khai mở rộng hợp tác
lành mạnh và cạnh tranh với các ngân hàng thương nghiệp.
Thứ năm là cho phép ngân hàng mậu dịch biên giới được tiến hành tổ chức và
đổi mới nghiệp vụ.
Thứ sáu là để cải thiện các biện pháp hỗ trợ Ngân hàng Biên Mậu công khai hóa.
Do sự chính sách ngoại tệ hai nước tồn tại tính khác biệt, tham vấn và hợp tác là
chưa đủ, thị trường tài chính kiến thiết chưa hoàn hảo… Nguyên nhân, trong các
giai đoạn hiện nay và một thời gian dài tiếp theo. “Ngân hàng tự phát” vẫn còn là hệ
thống thanh toán biên mậu bổ sung có lực, trong khi hệ thống thanh toán biên mậu
không được lưu thoát mấy. Vì thế, phải cần có quy phạm hiệu quả và hướng dẫn
“Ngân hàng tự phát” đi đến phát triển lành mạnh. Trong Tương lai theo giao lưu
không ngừng đi sâu về mặt chính trị và kinh tế giữa Trung Quốc và Việt Nam,
đường ngạch thanh toán không ngừng lưu thông của biên giới thậm chí cả khu vực
biên giới Trung - Việt để thiết lập trao đổi trực tiếp thị trường ngoại hối, giữa các
ngân hàng thương nghiệp chính quy Trung - Việt có thể được tiến hành thanh toán
trực tiếp, trao đổi ngoại tệ, chuyển tiền và các dịch vụ khác. Vả lại, chi phí của
“Ngân hàng tự phát” thấp hơn, tốc độ nhanh hơn, độ thuận tiện cao hơn, có thể lúc
này” Ngân hàng tự phát” đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của nó, và dần dần rút ra
khỏi thị trường, và cũng có thể khi đó “Ngân hàng tự phát” đã phát triển thành hình
thức cao hơn, đóng một vai trò lớn hơn trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, tiếp
tục là một hình thức tiên tiến hơn để góp phần phát triển kinh tế của Trung Quốc,
đây cũng cần phải được khám phá hơn nữa trong tương lai.
117
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT 1. Bộ Thương mại, Đề án phát triển biên mậu Việt Nam - Trung Quốc thời kỳ
2006 – 2010.
2. Phạm Thị Cải. Một số giải pháp nhằm phát triển thương mại hàng hóa Việt Nam
- Trung Quốc qua biên giới trên bộ thời kỳ đến 2005.
3. Chiến tranh Việt Nam (1955–1975) là giai đoạn thứ hai và là giai đoạn khốc liệt
nhất của Chiến tranh Đông Dương (1945–1979). Đây là cuộc chiến giữa hai bên,
một bên là Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam cùng Hoa Kỳ và một số đồng
minh khác như Úc, New Zealand, Đại Hàn, Thái Lan và Philippines tham chiến trực
tiếp; một bên là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, Cộng hòa Miền Nam Việt
Nam tại miền Nam Việt Nam, cùng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đều do Đảng Lao
động Việt Nam lãnh đạo, được sự viện trợ vũ khí và chuyên gia từ các nước xã hội
chủ nghĩa (cộng sản), đặc biệt là của Liên Xô và Trung Quốc. Cuộc chiến này tuy
gọi là "Chiến tranh Việt Nam" do chiến sự diễn ra chủ yếu tại Việt Nam, nhưng đã
lan ra toàn cõi Đông Dương, lôi cuốn vào vòng chiến cả hai nước lân cận
là Lào và Campuchia ở các mức độ khác nhau. Do đó cuộc chiến còn được gọi
là Chiến tranh Đông Dương lần thứ 2. Cuộc chiến này chính thức kết thúc với sự
kiện 30 tháng 4, 1975, khi Tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng hòa
đầu hàng quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam, trao chính quyền lại cho Chính
phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam. 4. Có một số “Ngân hàng tự phát” ở dưới đất, chưa công khai và hợp phát hóa, cho
nên chỉ phân tích số liệu thực tiễn và khảo sát thực tế.
5. Cục thương mại Nam Ninh.
6. Cục xúc tiến thương mại - Bộ thương mại Việt Nam (2006), Đầu tư và thương
mại của Việt Nam, NXB Thế Giới. 7. Cửa khẩu hải quan Nam Ninh và Hà Khẩu
8. Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (tiếng Anh: Asia-Pacific
118
Economic Cooperation, viết tắt là APEC) là tổ chức quốc tế của các quốc gia nằm
trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương với mục tiêu tăng cường mối quan hệ về
kinh tế và chính trị.
9. Nguyễn Thị Khi Dung, Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng cơ chế
chính sách và các biện pháp quản lý kinh tế đặc thù đối với khu vực cửa khẩu trên
bộ phía Bắc Việt Nam. Viện Nghiên Cứu Quản lý kinh tế Trung Ương.
10. Tô Cẩm Duy (2002), Mẫu thư tín Hoa Việt, NXB Trẻ.
11. DWT, viết tắt của cụm từ tiếng Anh deadweight tonnage, là đơn vị đo năng lực
vận tải an toàn của tàu thủy tính bằng tấn. Một con tàu được khẳng định là có trọng
tải ví dụ 20 nghìn DWT nghĩa là tàu này có khả năng an toàn khi chuyên chở 20
nghìn tấn trọng lượng tổng cộng của toàn bộ thủy thủ đoàn, hành khách, hàng
hóa, nhiên liệu, nước trên tàu, không xét các yếu tố khác ảnh hưởng đến an toàn của
tàu. Cầu tàu 20 nghìn DWT là cầu tàu tại cảng có đủ độ sâu, chiều dài và phương
tiện bốc dõ phù hợp để đón nhận và phục vụ tàu thủy 20 nghìn DWT.
12. Đại cách mạng văn hóa giai cấp vô sản (tiếng Hoa giản thể: 无产产产文化大
革命; tiếng Hoa phồn thể: 無產階級文化大革命; Bính âm: Wúchǎn Jiējí Wénhuà
Dà Gémìng; phiên thiết Hán-Việt: Vô sản giai cấp văn hóa đại cách mạng; thường
gọi tắt là Đại cách mạng văn hóa 文化大革命 wénhuà dà gémìng, hay vắn tắt hơn
là Văn cách 文革, wéngé) là một giai đoạn hỗn loạn xã hội và tình trạng vô chính
phủ ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa diễn ra trong 10 năm từ năm 1966-1976, gây
tác động rộng lớn và sâu sắc lên mọi mặt của cuộc sống chính trị, văn hóa, xã hội ở
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ngoài ra, cuộc cách mạng này đã làm thay đổi quan
niệm xã hội, chính trị và đạo đức của quốc gia này một cách sâu sắc và toàn diện.
13. Đại Việt (Hán-Việt: 大越), hay Đại Việt quốc (Hán-Việt: 大越國) là quốc
hiệu của nước Việt Nam tồn tại từ năm 1054 đến năm 1400 và từ năm 1428 đến
năm 1804.
119
14. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước
chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với
quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công
cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người
đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà
đầu tư thường hay được gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty
con" hay "chi nhánh công ty".
15. Giao Chỉ (chữ Hán: 交 趾 ) là tên gọi địa danh một phần lãnh thổ Việt
Nam trong lịch sử, từ thời Hùng Vương đến các kỳ thời Bắc thuộc.
16. Hợp tác phát triển hai hành lang một vành đai kinh tế Việt Nam – Trung Quốc
bao gồm hành lang kinh tế Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng, hành lang
kinh tế Nam Ninh – Lạng Sơn – Hà Nội – Hải Phòng, và vành đai kinh tế Vịnh Bắc
Bộ đã được lãnh đạo cao cấp hai nước thỏa thuận xây dựng. Đây là một sáng kiến
trong hợp tác có tính liên vùng và xuyên quốc gia, nhằm tận dụng và khai thác hiệu
quả tiềm năng và lợi thế của các địa phương mà “Hai hành lang một vành đai kinh
tế” đi qua, đồng thời phát huy vai trò lan tỏa của nó đối với các địa phương khác
thuộc Tây Bắc, Đông Bắc, đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam và vùng Tây Nam Trung
Quốc hướng tới mục tiêu chung là cùng có lợi và cùng phát triển bền vững. 17. Hiệp định Genève 1954 (tiếng Việt: Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954) là hiệp
định đình chiến được kí kết tại thành phố Genève, Thụy Sỹ để khôi phục hòa
bình ở Đông Dương. Hiệp định dẫn đến chấm dứt sự hiện diện của quân
độiPháp trên bán đảo Đông Dương, chính thức chấm dứt chế độ thực dân Pháp tại
Đông Dương.
18. Hiệp định thương mại tự do (FTA) là một Hiệp ước thương mại giữa hai hoặc
nhiều quốc gia. Theo đó, các nước sẽ tiến hành theo lộ trình việc cắt giảm và xóa bỏ
hàng rào thuế quan cũng như phi thuế quan nhằm tiến tới việc thành lập một khu
vực mậu dịch tự do. Theo thống kê của Tổ chức thương mại thế giới có hơn 200
Hiệp định thương mại tự do có hiệu lực.[1] Các Hiệp định thương mại tự do có thể
120
được thực hiện giữa hai nước riêng lẻ hoặc có thể đạt được giữa một khối thương
mại và một quốc gia như Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu-Chi Lê,
hoặc Hiệp định thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc
19. Khi đó người Trung Quốc gọi Việt Nam là “An Nam”, còn người Việt Nam gọi
đất nước của mình là “Đại Việt”. Trong bang giao giữa các vương triều ở hai nước,
tên gọi được sử dụng chung là “An Nam”.
20. Lý Hồng Chương (tiếng Hán giản thể: 李产章; phồn thể: 李鴻章; bính âm: Lǐ
Hóngzhāng; phiên âm Wade–Giles: Li Hung-chang), phiên âm tiếng Anh: Li
Hongzhang) (1823-1901), là một đại thần triều đình nhà Thanh trong lịch sử Trung
Quốc. Ông là người tỉnh An Huy, xuất thân gia đình quan lại. Trong cuộc đời quan
trường của mình ông đã thành lập Hoài quân tham gia cùng với Tăng Quốc
Phiên, Tả Tông Đường trấn áp phong trào Thái Bình Thiên Quốc. Vì có công lao to
lớn, ông được bổ nhiệm làm tổng đốc Hồ quảng, tổng đốc Trực Lệ kiêm Bắc dương
đại thần, Tổng đốc Lưỡng Quảng, Túc nghị nhất đẳng bá. 21. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. NXB Thế Giới Việt Nam, 2007.
22. Luật thuế xuất khẩu nhập khẩu, NXB Thế giới, 2001. 23. Chu Tăng Lương, Vấn đề nhập siêu của quận hệ mậu Trung-Việt, 2009. Tìm
hiểu ASEAN
24. Phạm Kim Nga, Phân tích, triển vộng và hiện trạng nguyên nhân của mậu dịch
biên giới Trung - Việt không bằng nhau, 2007. Tìm hiểu ASEAN.
25. Nguyễn Đăng Ninh (2004), Đổi mới quản lý nhà nước về hoạt động xuất nhập
khẩu trên địa bàn các tỉnh biên giới Việt Nam - Trung Quốc, NXB Khoa Học Xã
Hội, Hà Nội.
26. “Ngân hàng tự phát” không hợp pháp
27. Nguồn tư liệu trang Web của Bộ Tư Phát Việt Nam.
http//vbqppl.moi.gov.vn/pages/vbpq.aspx
Và trang Web http://old.bussines.gov.vn/index.aspx
28. Nhóm chính sách tiền tệ phân tích của Ngân Hàng Nhân Dân Trung Hoa. Năm
121
2004 Trung Quốc Báo Cáo. Báo Tài Chính Trung Quốc. 2005.05.26
29. Điểm đổi tiền là “Ngân hàng tự phát”
30. Nguyễn Mai (2002), Quản lý thương mại, NXB Bộ Công thương. 31. Một loại tiền tệ cũ tại năm 1918 phát hành
32. Quan hệ ngoại giao của Việt Nam. https://vi.wikipedia.org
33. Phương châm 16 chữ (tiếng Trung: 十六字方产) (thập lục tự phương châm) là
phương châm:" Sơn thủy tương liên, Lý tưởng tương thông, Văn hóa tương đồng,
Vận mệnh tương quan" nghĩa là sông núi gắn liền, cùng chung lý tưởng, hoà nhập
văn hoá, có chung định mệnh, được dịch là "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện,
ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" do lãnh đạo Trung Quốc đưa ra xác định tư
tưởng chỉ đạo và khung tổng thể phát triển quan hệ hai nước Việt – Trung trong thế
kỷ mới, đánh dấu quan hệ Trung Việt đã bước vào giai đoạn phát triển mới là một
trong 3 đột phá mở ra cục diện phát triển mới giữa quan hệ hai nước 34. Pháp luật quản lý ngoại tệ, do cục quản lý ngoại tệ quốc gia năm 2003 ban hành
35. Quản lý “Ngân hàng tự phát” công khai, hợp pháp hóa
36. Vương Quyên, Phân tích thực trạng của mậu dịch Trung-Việt, 2003, Tìm hiểu
ASEAN. 37. Số liệu do cục thương mại tỉnh Vân Nam Trung Quốc công bố, tác giả thống kê.
38. Số liệu do cửa khẩu Hà khẩu và cửa khẩu Nam Ninh Trung Quốc công bố.
39. Số liệu do của khẩu quốc gia Hà Khẩu và cửa khẩu Nam Ninh Trung Quốc
thống kê.
40. Số liệu do Viện Nghiên Cứu Trung Quốc công bố
41. Số liệu thống kê tại cửa khẩu hải quân Nam Ninh
42. Sự kiện Vịnh Bắc Bộ là sự kiện được cho là hai cuộc tấn công của Hải quân
Nhân dân Việt Nam chống lại hai tàu khu trục USS Maddox và USS Turner
Joy của Hải quân Mỹ. Hai cuộc tấn công được cho là đã xảy ra vào các ngày 2
tháng 8 và 4 tháng 8 năm 1964 ở vịnh Bắc Bộ. Cuộc tấn công đầu được cả 2 bên
xác nhận, nhưng cuộc tấn công sau đã được khẳng định chỉ là sự nhầm lẫn của Hoa
122
Kỳ, nhưng lại trở thành cái cớ để Hoa Kỳ mở màn chiến dịch dùng không quân
đánh phá miền Bắc Việt Nam.
43. Trần Minh Tiến (2004), Tham gia thị trường quốc tế, NXB Lao Động Xã hội.
44. Nguyễn Thị Thủy (2007), Quận hệ hợp tắc mậu dịch hai nước Trung-Việt, tr17.
45. Tọa tàm hợp tác kinh tế Việt Nam - Vân Nam - Trung Quốc, 2009.
46. Tứ Xuyên (tiếng Trung: 四川) là một tỉnh nằm ở tây nam của Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa. Tỉnh lị của Tứ Xuyên làThành Đô, một trung tâm kinh tế trọng yếu
của miền Tây Trung Quốc. Giản xưng của Tứ Xuyên là "Xuyên" hoặc "Thục", do
thời Tiên Tần, trên đất Tứ Xuyên có hai nước chư hầu là Thục và Ba, nên Tứ Xuyên
còn có biệt danh là "Ba Thục". Tỉnh Tứ Xuyên có một lịch sử lâu dài, cảnh
quan đẹp, sản vật phong phú, từ xưa đã được gọi là "Thiên phủ chi quốc" (天府之
国). Phía tây Tứ Xuyên là nơi cư trú của các dân tộc thiểu số như người
Tạng, người Di và người Khương.
47. Vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ là khu vực hợp tác kinh tế giữa các địa phương
của Việt Nam và Trung Quốc nằm xung quanh vịnh Bắc Bộ. Đây là một bộ phân
của chương trình hợp tác kinh tế "hai hành lang, một vành đai". Phạm vi của vành
đai này bao trùm: Ba thành phố cấp địa khu của tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc
gồm: Bắc Hải, Khâm Châu, Phòng Thành Cảng; Một thành phố cấp địa khu của
tỉnh Quảng Đông là Trạm Giang; Tỉnh đảo Hải Nam; 10 tỉnh, thành Việt
Nam gồm Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh
Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và Quảng Trị. Nội dung hợp tác bao
gồm thương mại, đầu tư, khai thác kinh tế biển, du lịch và bảo vệ môi trường biển. 48. Vì bên Việt Nam tài liệu về “Ngân hàng tự phát” rất ít. Cho nên còn có một số
vấn đề chưa rõ rằng.
49. Theo quy định của phát luật liên quan đến, các cơ cấu chi nhánh của cục quản lý
ngoại hối nhà nước cùng làm việc với các cơ cấu chi nhánh của ngân hàng Nhân
Dân Trung Quốc, nghiệp vụ của cục quản lý ngoại hối nhà nước do ngân hàng Nhân
123
Dân Trung Quốc đại lý. Tuy nghiệp vụ quản lý ngoại hối của cục quản lý ngoại hối
nhà nước tướng đối đọc lập, nhưng sự thiếp lập cơ cấu và nhân viên quản lý của nó
đều do các cơ cấu chi nhánh ngân hàng Nhân dân Trung Quốc tại chỗ quản lý. Cho
nên ở đây không liệt kê cục quản lý ngoại hối nhà nước riêng, khi kể đến ngân hàng
Nhân dân Trung Quốc quản giáo những nghiệp vụ liên quan đến ngoại hối,lưu
thông tiền vốn quốc tế của Ngân hàng tự phát, thực tế cũng bao gồm quản giáo cụ
quản lý ngoại hối.
TIẾNG ANH
50. Adams.D.W, Fitchett.D.A.Informal Finance in Low Income Countries[M]. West
View Press,1992.
51. Anders Isaksson The Importance of Informal Finance in Kenya Manufacturing
[R]. Statistics and Information Net works Branch of UNIDO.2002(5). 50. Department of commerce of Yunnan province.
52. Ghate.P.Informal Finance: Some Finding form Asia, Hong kong[M].Oxford
University Press,1992.
53. Hans Dieter Seibel, Heiko Schrade. Dhhikuti Revisrted: form ROSCA ti
Finance Company [J]. Saving and Development,1999(1):47-55.
54. Kara Hoff, Joseph E. Stiglitz. Introduction: Imperfect Information and Rural
Credit Markets-Puzzles and Policy Perspectives[J]. The World Bank Economic
Review,1990(4):235-250. 55. Liang Lin , “China Foreign Trade Statistics”, Harvard University press, 1974, tr
144-147
56. Lin,Justin Yifu.(Lâm Nghị Phu) An Economic Theory of Institutional Change:
Induced and Imposed Change[J].Cato Jouma1,1989.
57. L.Taylor. Structuralist Macroeconomics: App;icable Models for the Third
World[M].New York.1983.
58. Mark Schreiner. Informal Finance and the Design of Microfinance[J].
Development in Practice,2000,(5):637-640.
124
59. Meir Kohn. Finance Before the Industrial Revolution: An INtroduction [R].
Dartmouth college,Derpartment of Economics Working paper,1999.
60. Meyer Richard, Negarajan Geetha. Rural Financial Markets in Asia Paradigms,
Polisies, and Performance [M]. Asian Development Bank , 2000.
61. Robert Dekle, Koichi Hamada. On the rol of informal finance inn
Japan[R].Center for Institutional Reform and the Informal Sector.1996.
62. Tomothy Besley.Nonmarket Institutions for Credit and Risk Sharing in
Low-Income CountriesThe Journal of Economic Perspetives,1995,9(3):115-127.
63. Stiglitz, Joseph E,Andrew Weiss. Credit Rationing in Markets with Imperfect
Information[J].The American Economic Review,1981(3):303-410.
64. Sweder van Wijnbergen.Cradit Policy, Inflation and Growth in a Financially
Repressed Economy[J]. Journal of Development Economics,1983(I):45-65.
65. William F.Steel, Ernest Aryeetey, Hemamala Hettige, Machiko
Nissanke.Informal Financial Markets Under LIberalization in Four African
Countries[J]. Word Development,1997(5):817-830.
TIẾNG TRUNG
66. 刘光溪〃人民产国产化路径产产与云南产践〃中共中央党校学产〃2012.12〃
P55-59
67. 云 南 〃 产 境 人 民 产 产 算 超 95% 〃
Http//finance.sina.com.cn/roll/20090106/03015718711.shtml
68. 产产产〃中越产境地区本外产产产市产建产的思考〃区域金融研究〃2011(3),
P10-16
69. 道格拉斯·产斯.制度、制度产迁与产产产效(Các thể chế, sự thay đổi thể chế
và hoạt động kinh tế),上海:上海三产产店〃1994
125
70. 周元元〃徐产产等〃大力推广产产产行产算促产中越产产产展--产广西中
越产境产易产算情况的产产。南方金融。2000〃7.P52-54.
71. 产德产·肖.产产产展中的金融深化, 上海:上海三产产店〃1998
72. 越 南 外 产 产 产 已 达 产 产 产 的 2.3 个 月 产 口 需 求 水 平
http://www.mofcom.gov.com.cn
73. 当前广西产产产算存在的产产及解决产法。中国人民产行南宁中心支行内
部产告, 2007
74. 广西产产及产产金融服产金融情况。中国人民产行南宁中心支行内部产
告〃2008
75. 越南的明产人--产南产土生产人系列之二 徐杰舜 广西民族大学 越南产
易部.越中产产关系的产状和前景.南洋产料产产,2003,(4).
76. 阮海英.中越产产关系研究 (产中产范大学产士学位产文). 武产:产中产范
大学〃2008.
77. 潘金娥.中越产易:产状、前景与产易失衡的原因分析.产南产产横〃2007,(10).
78. 周增亮.中越产产关系中的产易逆差产产.产南产产横〃2009,(1).
79. 王娟.中越产易的产产分析.产南产产横〃2003,(1).
80. 产国富.中越产易产越南国内产产增产产献效产的产产分析.甘产产合大学
学产(社会科学版), 2010,(3).
81. 阮文政.中越产产合作的产状分析与产展产策.沿海企产与科技〃2006,(10).
126
82. 阮氏水.加强中越产产合作关系.科技情产开产与产产〃2007,17(13).
83. 古小松.21 世产初的中越关系:走向产产.产南产产横〃2005,(1).
84. 王产虎.中国越南产产合作近况及思考〃产南产产横〃2007,(2).
85. 川 皇 甫 海 蓉 . 从 中 国 与 产 盟 合 作 的 产 展 看 中 越 产 易 前 景 . 产 产 产 产 〃
2008,(09).
86. 者产昌〃产光德.越南加入 WTO 产中越产易的影响及产估 全国商情·产产
理产研究〃2008,(17).
87. 石峡〃曾佳蓉.中越产境产易存在的主要产产及产策分析.广西产产学院学
产〃2007,(4).
88. 和文产.中越产易产展产状分析.产代产产(产代物产中旬刊),2009,(07)
89. 刘 雅 . 产 产 全 球 化 与 区 域 一 体 化 下 的 中 越 “ 两 廊 一 圈 ” 合 作 . 当 代 产 太
2006,(10).
90. 蒙产惠.构建“两廊一圈”产产中越“双产;.市产产产〃2006,(2).
91. 产芳芳.多重产史机遇下中越产境产易产展的新思考.产南产产横〃2007,(3).
92. 唐蓉〃产中越产境产易产算产产的产产与分析,广西金融研究〃2002:50
93. 李增仁〃人民产在芒街--越南产陲小产地产产行写真,河北金融〃2004:36-37.
94. 范宏产〃刘志强。中越产境产易研究。北京:民族出版社〃2006:253-254.
95. 王荣〃中越产境产产产算产状及产展建产。产产与社会产展〃2009(1):52-55.
96. 潘永〃中越产境产易产算中 “地产产行”模式的产争产产研究--基于产产效
率的产角。学产产产〃2010(7):115-118.
97. 李慧产〃产中越产境产易取产男产产的分析〃区域金融研究 2012(4:55-60.
127
98. 产产玲〃产中产产境“地产产行”的产产与思考,金融博产 2006(10):37.
99. 徐友仁〃唐产〃中越产境“地产产行”探产产金融产产〃2007-01-23(009.
100. 李产荣〃人民产跨境产价产算:产产与思路。北京:中国金融出版社 2009.
101. 周元元〃徐产产等大理推广产产产行产算促产中越产产产展--产广西中越
产境产易产算情况的产产。南方金融〃2000(7):53-54.
102. 段全会〃文产等产产跨境流通及产境产易外产管理产产研究〃中国产政产
产出版社〃2005:231-237.
103. 产产〃 “地产产行”产取产, 产代金融 2005(5)32--33.
104. 产青〃石静等.云南产境“地产产行”生存根源及治理产策.西南金融〃
2005(2):40-42.
105. 产小平.人民产产易产算产点一云南省的产践和人民产国产化明.中国金
融〃2009(4):86-91.
106. 产磊.中产产境“地产产行”产状、成因及产策分析黑产江产外产产〃
2010(12) :122-124
107. 产产〃产蒂妮.产行产外产市产加挂越南盾牌价的探索区域金融研究〃
2010(11):29-33.
108. 产产产一中越产境地区本外产产产市产建产的思考区域金融研究〃
2011(3):10-16.
109. 中 国 人 民 产 行 2004 年 中 国 反 洗 产 产 告 [EB/OL].
http://www.pbc.gov.cn/publish/fanxiqianju/456/index.html.
110. 国家外产管理局产境产易外产管理产法[EB/OL].http://www.safe.gov.cn/.
111. 产产德·麦金产.产产产展中的产产与产本,上海:上海三产产店〃1998.
128
112. 产德产·肖.产产产展中的金融深化,上海:上海三产产店〃1998.
113. 道格拉斯·产斯.制度、制度产迁与产产产效,上海:上海三产产店〃1994.
114. 周元元.中越产产“地产产行”产成气候明.国产商产〃2006-02-28(00(J)
115. 河口产越南跨境人民产产产产展的产状及存在的产产.中国人民产行河
口中心支行内部送产文件〃2011 (12).
116. 广西产产及产产金融服产情况 .中国人民产行南宁中心支行内部产
告〃2008.
117. 高歌.CAF TA 框架下产产广西产境产易增产方式的研究,北京:民族出版
社〃2010:83.
118. 黄兴忠〃产产才.产兴私产产产迅速产展困.广西日产〃2010-06-27(005)
119. 刘光溪.人民产国产化路径产产与云南产践[[J].中共中央党校学产〃
2012(12): 55-59.
120. 云 南 产 境 产 易 人 民 产 产 算 超 95%
[EB/OL].http://finance.sina.coin.cn/roll/20090106/03015718711.shtm.
121. 中国人民产行产产政策分析小产.2004 年中国区域金融运行产告困].金
融产产〃2005-05-26(T00).
122. 越 南 外 产 产 产 已 达 产 产 产 的 2.3 个 月 产 口 需 求 水 平
[EB/OL].http://www.mofcom.gov.cn/aarticle/i/jyjl/j/201212/20121208501406.h
tml.
123. 当前广西产产产算存在的产产及解决产法.中国人民产行南宁中心支行
内部产告〃2007.
129
124. 中国人民产行昆明中心支行产产产〃周振海.人民产与周产非自由产产
产产机制研究产.西南金融〃2012(01):11 一 14.
125. 产产〃程敏〃李产云.中国云南和越南西北产境四省合作产展机制研究.
产产产〃2011(03):209-211.
126. 产 磊 . 瑞 产 “ 地 产 产 行 ” 产 产 分 析 . 云 南 产 产 大 学 学 产 ( 社 会 科 学
版),2010(06):30-31.
127. 产产花.民产金融:如何阳光化.中国金融〃2011(14):89-92.
128. 徐 友 仁 . 广 西 跨 境 人 民 产 产 算 产 产 产 产 旺 盛 困 . 金 融 产 产 〃
2011-11-25(003).
129. 魏 产 欣 . 越 南 政 府 产 布 法 令 〃 允 产 外 产 自 由 流 产 . 市 产 产 〃
2007-01-08(014).
130. 刘产香.产大个人本外产产产特产产产产产范产.21 世产产产产道〃
2012-04-26(011).
131. 王曙光.民产金融阳光化和政府产制.中国产产产产〃2009-02-13(005).
132. 产阳.产境地区跨境人民产产产产展的产状、障碍及产策困〕.金融产产〃
2012-01 一 30(006).
133. 黄 良 波 . 广 西 产 产 : 产 产 产 算 存 在 的 产 产 及 产 策 困 〕 . 金 融 产 产 〃
2007-11-19(005.
134. 产中意.广西与越南一般产易与产境产易的比产研究.广西大学〃2011.
135. 产慧.人民产区域化在广西中越产境产易及产产产算中的产产研究.西南
产产大学〃2009.
130
PHỤ LỤC
Phiếu điều tra tình hình thanh toán của các hộ kinh doanh cá thể tại khu vực
giao thƣơng biên giới
Xin chào, mong bạn an tâm, phiếu điều tra này chỉ sử dụng trong phạm vi
luận văn, không đề cấp đến bí mật cá nhân của bạn, đồng thời sẽ được bảo mật
nghiêm ngặt.
Bạn vui lòng đánh dấu “√” vào các mục phụ hợp với tình hình thực tế của bạn.
1. Giới tính của bạn: A. Nam B. Nữ
2. Bạn kinh doanh mậu dịch biên giới đã bao lâu:
(1) 1-3 năm (2) 3-5 năm (3) 5-10 năm (4) 10 năm trở lên
3. Chủng loại hàng hóa do bạn kinh doanh là:
(1) hoa quả
(2) đồ dùng gia đình
(3) trang sức đồ ngọc
(4) đồ biển tươi sống
(5) trang phụ, giày, mũ và các loại hàng dệt kim
(6) các thực phẩm Việt Nam như quả khô, cà phê, bánh kẹo v.v
(7) các loại đồ dùng Việt Nam như thuốc mỡ, nước hoa, thuốc lá v.v
(8) các lương thực như gạo, bột mì, khoai lang v.v
(9) các hàng hóa khác
131
4. Bạn có thực hiện các giao dịch tại “Ngân hàng tự phát” không?
( Nếu có thì trả lợi các đề sau đây theo thứ tự; nếu không thì trực tiếp trả lợi đề 11)
(1) Có (2) Không có
5. Bạn đã làm nghiệp vụ gì tại “Ngân hàng tự phát ”: (có thể chọn nhiều)
(1) đổi tiền (đồng Việt Nam, đô la Mỹ v.v)
(2) Kết toán tiền hàng
(3) chuyển tiền gửi tiền
(4) dung hợp và lưu thông vốn, vay mượn tiền vốn
(5) cầm cố và đảm bảo
(6) khác
6、Tỷ lệ thanh toán tại các kênh ngân hàng không chính thống trong các giao dịch
thanh khoản mậu dịch biên giới với Việt Nam
(1) <5% (2) 5%-20% (3) 20%-50% (4) 50%-80% (5) >80%
7. Lý do chọn “Ngân hàng tự phát” là: (có thể chọn nhiều)
(1) cước phí thủ tục thấp
(2) thủ tục làm dơn giản
(3) tiền vốn chuyển khoản nhanh, hiệu quả cao
(4) co the vay von,dung hợp và lưu thông vốn
(5) các điểm kinh doanh phân bố nhiều, nghiệp vụ viên có thể đến nhà phụ vụ.
(6) khác
8. Thông thường bạn chọn “Ngân hàng tự phát” nào để thực hiện giao dịch:(có thể
chọn nhiều)
(1) không kể quy mô, túy ý tìm một Ngân hàng tự phát đều có thể cúng cấp
phục vụ tốt.
(2) do bạn giới thiệu
(3) tìm nơi có nguồn vốn dòi dào、một lần có thể cung cấp dịch vự với số tiến lớn,
tiện hơn.
132
(4) đã có liên hệ mật thiếp với những Ngân hàng tự phát, thông thường không đổi nơi.
9. Làm nghiệp vụ tại Ngân hàng tự phát thông thường cần thủ tục gì? (có thể
chọn nhiều)
(1) hẹn nhau qua miệng
(2) ký hợp đồng chính thức
(3) cần tìm người đảm bảo
(4) cầm cố bằng đồ vật
10. Làm nghiệp vụ tại “Ngân Hàng Từ Phát đáng tin cậy không?
(1) rất đáng tin cậy, chuyển vốn an toàn đúng đắng, tín nhiệm cao.
(2) khá đáng tin cậy, chỉ có ít số tiền vốn có vấn đề hoạc là chỉ có ít số Ngân hàng
Từ Pháp tín nhiệm thấp.
(3) không đáng tin cậy, tín nhiệm xấu, thường xuyên vị phạm thỏa ước, an toàn tiền
vốn không đảm bảo được.
11. Bạn sẽ chọn ngân hàng nào để làm nghiệp vụ kết toán tiền vốn khi mậu dịch với
Việt Nam:
(1) Ngân Hàng Trung Quốc (2) Ngân hàng Nông Nghiệp (3) Ngân hàng Công
Thương (4)Ngân hàng Xây Dựng (5)Ngân hàng Giao Thông (6) Ngân hàng khác
12. Bạn chọn ngân hàng này để làm nghiệp vụ kết toán tiền vốn khi mậu dịch với
Việt Nam, lý do là: (có thể chọn nhiều)
(1) các điểm kinh doanh tiện lợi
(2) chuyển tiền nhanh chống
(3) cước phí làm thủ tục thấp
(4) có thể vay tiền
(5) ngân hàng tím nhiệm có tiếng, an toàn đáng tin cậy
(6) các dịch vụ giá tăng
(7) hệ thống kết toán vùng biên giới lạc hậu, lựa chọn ít.
(8) lý do khác
13. Bạn có ý muốn sang Ngân hàng tự phát làm nghiệp vụ không?
133
(1) có ý muốn, đa thấy người khác làm nghiệp vụ tại Ngân hàng tự phát và phản hồi
khá tốt.
(2) Có ý muốn, nhưng lo lăng quản lý không quy phạm, sợ tiền vốn không an toàn.
(3) Không có ý muốn, các ngân hang chính quy có thể thỏa mãn được các yêu cầu.
14. Bạn thấy rằng hệ thống kết toán mậu dịch biên giới còn có điều gì cần cải
thiện?(có thể chọn nhiều)
(1) điểm giao dịch kết toán ngân hàng biên giới ít, không thể nhanh chống thỏa mãn
được yêu cầu chuyển tiền.
(2) nhân dân tệ và đồng Việt Nam không thể đổi nhau ở ngân hàng chính quy,
không tiện lợi cho giao dịch.
(3) cước phí thủ tục của ngân hàng chính quy qua cao, thủ tục quá nhiều.
(4) ngân hàng chính quy có thể cung cấp các loại dịch vụ ít.
(5) khác
134