intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghề thơ trong quan niệm của Chế Lan Viên

Chia sẻ: Kinh Kha | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:7

71
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Với Chế Lan Viên, quan niệm về nghề thơ đã trở thành một phần không thể thiếu trong hệ thống quan niệm thơ, gắn liền với hành trình sáng tạo hơn năm mươi năm của ông. Vậy nghề thơ trong quan niệm của Chế Lan Viên là gì? Đây là vấn đề có ý nghĩa khoa học và thực tiễn rất lớn khi chúng ta tìm được câu trả lời từ chính sáng tác của nhà thơ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghề thơ trong quan niệm của Chế Lan Viên

TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 26, 2005<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> NGHỀ THƠ TRONG QUAN NIỆM CỦA CHẾ LAN VIÊN<br /> <br />            Trần Hoài Anh<br />                                                  Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế<br /> <br /> <br /> Chế Lan Viên không phải là người duy nhất vừa sáng tác,vừa chiêm nghiệm về <br /> bản thể  thơ. Câu hỏi “Thơ  là gì? ” luôn là nỗi ám  ảnh đối với người làm thơ  và <br /> người yêu thơ. Vì vậy, những suy nghĩ về nghề thơ cũng là điều mà các nhà thơ luôn  <br /> trăn trở. Với Chế Lan Viên, quan niệm về nghề thơ đã trở thành một phần không thể <br /> thiếu trong hệ thống quan niệm thơ, gắn liền với hành trình sáng tạo hơn năm mươi <br /> năm của ông.<br /> Vậy nghề  thơ  trong quan niệm của Chế  Lan Viên là gì? Đây là vấn đề  có ý <br /> nghĩa khoa học và thực tiễn rất lớn khi chúng ta tìm được câu trả lời từ chính sáng tác <br /> của nhà thơ.<br />         1. Với Chế Lan Viên thơ là một nghề:<br /> Thật ra, chẳng phải Chế  Lan Viên là người đầu tiên đề  ra quan niệm "thơ  là <br /> một nghề". Ngay từ  xưa  ở  phương Đông, Lục Du (đời Tống) cũng đã quan niệm <br /> rằng: "Thơ là một trong sáu nghề (lục nghệ). Không thể lấy thái độ chơi vui của trẻ <br /> con mà đối xử  với nó được! Nếu quả  thật con muốn học làm thơ, thì công phu của  <br /> thơ  chính là  ở  ngoài thơ  đó" [8].Quan niệm này cũng tương hợp với quan niệm của  <br /> phương Tây khi Marie Noel cho rằng: "Cỏ mọc, tiếng động, hoang mang bên đường <br /> cái, con chim, làn gió đều dạy tôi nghề làm thơ" [9]. Còn ở nước ta, theo Xuân Diệu, <br /> trong  Phủ  biên tạp lục, còn lưu lại thư  của Nguyễn Cư  Trinh (1716­1767) trả  lời  <br /> Mạc Thiên Tích, trong đó có viết: "Tóm lại nghề thơ không ngoài việc căn bản phải  <br /> trung hậu, ý nghĩa phải hàm súc và phải có cái hay ở  chỗ giản dị. Còn việc trau dồi  <br /> cho văn hoa đẹp đẽ, rèn luyện cho khéo lạ  lùng, đó chẳng qua là việc làm thêm mà <br /> thôi" [3]. Và chính nhà thơ Xuân Diệu cũng cho rằng: "Nghề thơ cũng lắm công phu,  <br /> làng thơ ta phải biết cho đủ đường" [3].<br /> Tuy tiếp thu quan niệm của người xưa, nhưng điều độc đáo ở Chế Lan Viên là  <br /> ông không chỉ xem thơ là một nghề mà còn là một thứ đạo ở đó nhà thơ là một đạo sĩ  <br /> luôn mang nặng nghiệp chướng của thơ. Nói như Vàng Anh, con gái của nhà thơ thì <br /> Chế  Lan Viên là người "mang cái ách văn chương" [6], Trần Mạnh Hảo thì gọi ông <br /> là "người làm vườn vĩnh cửu" [5]. Ngay từ  thuở  mới bước vào nghề, trong lời tựa  <br /> 41<br /> tập  Điêu tàn  được xem như  tuyên ngôn nghệ  thuật của Chế  Lan Viên, nhà thơ  đã <br /> dõng dạc tuyên bố: "Làm thơ là làm việc phi thường" [11]. Như vậy, trong quan niệm <br /> của Chế Lan Viên nghề thơ không phải là một nghề "ngứa cổ hót chơi" hay nói như <br /> Lục Du là "không thể lấy thái độ vui chơi của trẻ con mà đối xử  với thơ được", mà  <br /> thơ là một nghề đặc biệt, nghề cao cả, nghề thiêng liêng:<br /> Nếu làm thơ phải có hồn thi sĩ<br /> Sao làm thơ không có nghề như thợ nhỉ ?<br /> Nghề đếm lá, nghề trông sao, nghề tát bể,<br /> Nghề dịch vụ tinh thần...thế...thế...<br /> Ba vạn sáu ngàn nghề, ta phải kể: nghề thơ.<br /> (Thơ về thơ) <br /> Vì quan niệm thơ  là một nghề, là một thứ  đạo, một thứ  tôn giáo cho nên theo  <br /> Chế Lan Viên, nhà thơ phải đặt cược cả cuộc đời và niềm tin của mình vào trong đó, <br /> không thể "đổi nghề" theo kiểu "làm thơ khó. Anh chàng đi buôn" (Đổi nghề). Và với <br /> Chế Lan Viên, điều này đã trở thành lẽ sống của đời ông:<br /> Anh, nhà thơ chiêm tinh chưa tìm ra sao chổi của riêng mình,<br /> Cái đuôi nó hóa bầu trời trước anh vạn năm, giờ bay đâu mất?<br /> Bốn bên vạn thiên hà mà sao vắng ngắt?<br /> Nhưng chẳng lẽ vì thế mà bỏ nghề, thôi chẳng chiêm tinh.<br /> (Chiêm tinh)<br /> Nhà thơ Lê Đạt cũng đã từng phát biểu rằng: "Không người thơ nào không trải  <br /> qua những cơn tuyệt vọng muốn quẳng thơ  đi làm một nghề  gì khác cho nó khỏe.  <br /> Nhưng thơ là một nghiệp, một tình yêu đắm đuối" [4]. Tuy có nhiều điểm rất khác  <br /> nhau trong quan niệm thơ, nhưng ở quan niệm về nghề thơ Lê Đạt và Chế Lan Viên <br /> đã có những điểm tương đồng. <br /> Thơ  là một nghề, nhưng không phải là một nghề  bình thường như  bao nghề <br /> khác. Đó là một nghề rất đặc biệt. Chế Lan Viên đã cho rằng đây là nghề của bề sâu, <br /> nghề của những tìm tòi trăn trở, nghề của tình yêu đắm đuối, của niềm say mê sáng  <br /> tạo.<br /> 2. Thơ là nghề của "bề sâu", của lao động thầm lặng, nghiêm túc và sáng  <br /> tạo:<br /> Trong tác phẩm Đời thừa, Nam Cao quan niệm: ''Sự cẩu thả trong bất cứ một  <br /> nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là  <br /> đê tiện'' [10]. Còn Lê Đạt thì cho rằng: ''Theo tôi thơ là một nghề, đã là nghề thì phải <br /> có kỷ  luật lao động. Không nên thụ  động thắp hương chờ  mà phải chủ  động gọi <br /> hứng đến. Công việc này đòi hỏi một kỷ luật nghiệt ngã và gian khổ''[4]. Như  vậy, <br /> 42<br /> dù viết văn hay làm thơ thì công việc sáng tạo của người cầm bút cũng đòi hỏi một <br /> tinh thần lao động nghiêm túc và có trách nhiệm cao với tác phẩm của mình. Song, <br /> cũng như  các nhà thơ  khác, Chế  Lan Viên không những xem lao động thơ  là một  <br /> nghề  nghiêm túc, sáng tạo mà với ông đó còn là nghề  của bề sâu: ''Thơ  là nghề  của <br /> bề sâu. Nghề thơ cũng như nghề giếng vậy, chỉ có đi sâu mới tìm ra nước'' [12]. Cái  <br /> ''bề  sâu'' của nghề  thơ  mà Chế  Lan Viên nói đến phải chăng là sự  đi sâu khám phá  <br /> thế  giới nội tâm con người, sự  ''lặn sâu'' vào cuộc đời để  chạm đến những bến bờ <br /> hư thực của cõi tâm linh? Đi vào "hiện thực bên trong" (G.Lukács) thơ sẽ tìm được lẽ <br /> chân như. Song, thơ càng đi vào bề sâu, càng đi vào thế giới bên trong của thơ, cái mà  <br /> người xưa gọi là ''nội thi'' thì càng đòi hỏi người làm thơ phải có tinh thần lao động <br /> nghiêm túc và sáng tạo. Đây cũng là một vấn đề  chính yếu mà Chế  Lan Viên quan  <br /> tâm trong nghề  thơ. Lao động trong nghề  thơ, theo Chế  Lan Viên không phải là lao <br /> động cày sâu cuốc bẫm như người nông dân miệt mài trên đồng ruộng, càng không  <br /> phải như nghề làm pháo "Cứ hét lên vì sợ chẳng vào tai" (Nghĩ về nghề, nghĩ về thơ,  <br /> nghĩ...) mà là kiểu lao động trong thầm lặng và nhiều khi rất cô đơn, là kiểu lao động <br /> "cày sâu cuốc bẫm" trên từng trang giấy. Đó là một hoạt động tinh thần đầy sáng tạo  <br /> gắn với vô thức, với tâm linh:<br /> Ngọn đèn tắt cho trang giấy ngủ<br /> Khi ta ngủ rồi trang giấy vẫn còn mơ<br /> Nó làm việc với đáy bể với sao trời ai biết được<br /> Khi cỏ đọng sương trời thì thơ đọng những câu thơ. <br />                                                                               (Trang giấy) <br /> ''Khi ta ngủ rồi trang giấy vẫn còn mơ''. Như vậy, lao động thơ  không chỉ có ý  <br /> thức, mà còn cả tiềm thức, vô thức. Nhưng dù là sáng tạo trong cõi vô thức đi chăng  <br /> nữa thì thơ  cũng là nghề của sự tìm tòi, của trải nghiệm, của khám phá và sáng tạo. <br /> Bởi vì: ''Thơ ở trong cuộc sống'' (Paul Eluard) [9] nên có "lặn vào cuộc sống" nhà thơ <br /> mới tìm ra được những giá trị đích thực của thơ:<br /> Chớ ngại thơ phải đi qua con đường cằn khô sa mạc,<br /> Những suối thơ không chảy sẵn bên nhà.<br /> (Sổ tay thơ) <br /> Vì ''Những suối thơ  không chảy sẵn bên nhà'' cho nên theo Chế  Lan Viên, để <br /> khám phá, để  sáng tạo trong nghề, nhà thơ  phải biết ''đánh hơi tài như  kẻ  đi săn'',  <br /> phải biết tìm ''những câu thơ ẩn giữa rừng như thú dữ'' (Săn thơ), phải biết kịp nắm <br /> bắt khoảnh khắc thăng hoa của sự  sáng tạo khi: ''một thi pháp vụt ngang đầu lóe  <br /> sáng'' (Thơ về thơ)... Có như thế thì thơ mới đạt đến độ chín của tư duy và chiều sâu <br /> của tâm hồn. Độ nhạy cảm, độ tinh tế của nghề thơ cũng chính là ở đó.<br /> 43<br /> Như vậy, để sáng tạo thơ, thi nhân phải sống giữa cõi mộng và thực, giữa tỉnh <br /> và mơ, giữa tiềm thức và vô thức, giữa hiện hữu và hư vô. Do đó, không thể xem lao  <br /> động thơ là một lao động bình thường mà là lao động sáng tạo của chiều sâu trí tuệ <br /> và tâm linh, là "nghề  của bề sâu" như  Chế  Lan Viên quan niệm. Vì quan niệm như <br /> vậy nên ông là người luôn trăn trở, tìm hiểu khám phá các khía cạnh của thơ và công <br /> việc làm thơ qua hàng loạt các bài mang tính chất lý luận về thơ:  Nghĩ về thơ, Nghĩ <br /> về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ..., Sổ tay thơ, Thơ bình phương ­ Đời lập phương, Thơ về  <br /> thơ, đúng như nhận định của Vũ Tuấn Anh: ''Chế Lan Viên là nhà thơ  có nhiều trăn  <br /> trở, suy nghĩ về nghề: Sổ tay thơ, Nghĩ về thơ, nghĩ về nghề, nghĩ... Dưới hình thức <br /> những  đoạn thơ  ngắn, những câu thơ  có vẻ  ''ghi vội'' là lý luận về  thơ, là kinh <br /> nghiệm tích lũy, là thể nghiệm mạnh dạn của một nhà thơ đã có bốn mươi năm cầm  <br /> bút nghĩ về rất nhiều khía cạnh của nghề'' [1]. <br /> Với ý thức sâu sắc về  nghề, Chế  Lan Viên luôn có quá trình lao động thơ <br /> nghiêm túc, luôn có khát vọng sáng tạo để làm mới chính thơ mình: ''Anh làm việc rất <br /> kỹ với cả bài thơ và từng câu thơ, từng ý, từng hình ảnh, từng chữ. Có thể nói trong  <br /> thơ  Chế  Lan Viên có những bài chưa hay, những bài ta không thích, nhưng bài nào  <br /> cũng chứa đựng một cái gì đó mới mẻ, hầu như không có bài nào tẻ  nhạt, viết cẩu  <br /> thả'' (Nguyễn Văn Hạnh) [2]. Bởi vì là nhà thơ, hơn ai hết Chế Lan Viên ý thức được <br /> rằng sản phẩm cuối cùng của nghề thơ là tác phẩm, đứa con tinh thần mà nhà thơ để <br /> lại cho đời. Và đây cũng là một chuẩn giá trị để  làm thước đo chất lượng của nghề, <br /> của thơ.<br /> 3. Tác phẩm là sự  kết tinh tài năng, lao động nghệ  thuật của nhà thơ  và <br /> khẳng định sự tồn tại của nghề thơ:<br /> Trong tác phẩm Sổ tay thơ, Chế Lan Viên đã nhận thức rằng: ''Đời một thi sĩ là <br /> thơ  như đời một nông dân là lúa''. Điều này mặc nhiên đã khẳng định sản phẩm của  <br /> nghề  thơ  phải là tác phẩm thơ  chứ  tuyệt nhiên không phải là một cái gì khác thơ,  <br /> ngoài thơ. Bởi lẽ, không phải nhà thơ nào cũng xem thơ là lẽ sống, là nghiệp chướng  <br /> của mình, mà nhiều khi người ta mượn thơ  như  phương tiện để  đạt được những  <br /> "mục đích ngoài thơ". Chính vì vậy, quan niệm trên của Chế  Lan Viên là một sự <br /> cảnh tỉnh đối với những ai xem thơ  như  một “giấy thông hành” để  mưu cầu danh  <br /> vọng cho bản thân mình. Mặt khác, quan niệm đó của Chế Lan Viên cũng khẳng định <br /> một điều có tính nguyên tắc: tác phẩm không chỉ  là sản phẩm của nghề  thơ  mà nó <br /> còn là kết tinh tài năng, lao động nghệ thuật và khẳng định sự tồn tại của nghề  thơ <br /> cũng như vị trí, tầm vóc của nhà thơ  trong cuộc đời: "Nhà thơ  sống là nhà thơ  đẻ  ra <br /> được tác phẩm" [13].<br /> <br /> <br /> 44<br /> Con đường đến với nghệ thuật cũng như con đường đến với thơ của mỗi nghệ <br /> sĩ tùy thuộc vào thiên năng của mỗi người. Song, có một điều chắc chắn đó không  <br /> phải chỉ là sản phẩm ''trời cho'' đơn thuần mà  phải là sự  kết tinh của một quá trình <br /> lao động sáng tạo. Chế Lan Viên cho rằng: ''Từ muôn đời nay, những nghệ sĩ lớn đều  <br /> tự  ràng buộc mình chặt chẽ. Chỉ  có kẻ  viết tồi thì mới viết  ẩu, viết bừa, tự  buông  <br /> thả lấy mình, đạp lên cả  lương tâm trách nhiệm mà đi. Những nghệ sĩ chân chính bị <br /> ràng buộc bởi thiên chức, thiên lương, nếu không ''thiện'' thì ''nhân'', nhân tình, nhân <br /> phẩm. Bởi cái mình thấy, mình nghe, bởi cái bát ngát của đời, bởi cái tam thiên mẫu <br /> tự của sự sống mà họ từng chứng kiến'' [14]. Như vậy với Chế Lan Viên, tác phẩm <br /> thơ  là kết quả  của một ý thức lao động nghiêm túc, là kết tinh thiên lương của nhà  <br /> thơ. Bởi "Không có bài thơ  nào xuất hiện thần kỳ, bất thần trong một phút đâu.  <br /> Chúng ta ngạc nhiên thấy mặt trời mọc lên trên mặt biển hôm nay, mà quên đi rằng <br /> nó đã thao thức suốt đêm qua  ở  phía bên kia chân trời... nghệ  thuật" [13]. Song nhà  <br /> thơ ''không đưa ngay trái tim mình cho độc giả/Mà hái một trái cây đưa cho họ" ( Nhà  <br /> thơ  I), tức là nhà thơ  không bày tỏ  trực tiếp tư tưởng tình cảm của mình mà bày tỏ <br /> gián tiếp thông qua tác phẩm. Vì thế, sự  tồn tại của nhà thơ  và nghề  thơ  bao giờ <br /> cũng gắn liền với sự tồn tại của tác phẩm. Và tác phẩm bao giờ cũng là cái chân giá  <br /> trị để định danh nhà thơ:<br /> Khi ta kỷ niệm Nguyễn Du chả ích gì cho Nguyễn<br /> Chẳng qua để kẻ yêu thơ khỏi tủi trong lòng.<br /> Ông đã hóa mây trắng ngang trời hoài niệm,<br /> Hóa ra Kiều cao gấp mấy đời ông.<br /> (Kỷ niệm Nguyễn Du) <br /> Quả thật, nếu không có Truyện Kiều liệu Nguyễn Du có được như thế không? <br /> Qua một hiện tượng cụ thể, Chế Lan Viên đã khái quát một chân lý: chính tác phẩm  <br /> làm nên sự bất tử của nhà thơ. Và những cảm nhận của ông về thơ Nguyễn Trãi một  <br /> lần nữa lại khẳng định chân lý muôn đời này: "Chúng tru di máu, tru di người, chứ tru <br /> di thơ  sao được?/Ngọc sáng ngời là hóa thân của máu, của hồn oan" ( Thơ  Nguyễn  <br /> Trãi). Song, Chế  Lan Viên cũng cảnh báo rằng: dẫu cho tác phẩm thơ  có trở  thành <br /> bất tử chăng nữa, thì nhà thơ cũng không vì thế mà tự mãn, vì sự đào thải là qui luật  <br /> của tất cả mọi nghề nghiệp. Song sự đào thải và tự đào thải trong nghề thơ lại càng  <br /> oan   nghiệt   hơn.   Vì   vậy,   nếu   nhà   thơ   chỉ   biết   gặm   nhấm   vào   "danh   vọng   già  <br /> nua/Lượm tên tuổi mình rụng quanh gốc già như quả  khế chua/Lượm cái hào quang  <br /> cũ héo hon như chùm táo rụng'' (Cuối mùa), ''không biến đời anh thành tác phẩm dành <br /> cho đời'' thì họ sẽ tự đưa tên tuổi và nghề thơ của mình lên ''giàn hỏa'' và ''đời chẳng  <br /> biết lấy cớ gì để tha cho anh cả'' (Hạt gạo).<br /> 45<br />          Tóm lại, đi suốt hành trình hơn năm mươi năm sáng tạo, Chế Lan Viên không  <br /> những là nhà thơ lớn, mà còn là một nhà văn hóa, nhà lý luận phê bình ''luôn say mê đi <br /> tìm cái đẹp của thơ, say mê khám phá cái bí  ẩn của công việc làm thơ'' [1]. Vì vậy,  <br /> quan niệm về nghề thơ của Chế Lan Viên không những cho ta thấy được tư  duy lý <br /> luận sắc sảo của ông trong việc đi tìm bản thể thơ mà quan trọng hơn là thấy được ý <br /> thức trách nhiệm của một nhà thơ luôn có khát vọng khám phá thế giới ảo diệu của  <br /> thơ, xem thơ như một tôn giáo giữa cuộc đời mà ông là một tín đồ sống ''dấn thân hết  <br /> mình'' (Sartre) với thơ, vì thơ và cho thơ. Thế nên, Chế Lan Viên thực sự là “một bậc  <br /> thầy tiên phong đầy thông tuệ” (Trần Đình Sử) [7] “không chỉ  làm giàu cho hiện tại  <br /> mà còn tạo lực đẩy cho quá trình vận động văn học, có ý nghĩa gieo giống cho những <br /> mùa sau” (Vũ Tuấn Anh) [2].<br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> <br /> 1. Vũ Tuấn Anh biên tập.  Nhà thơ Việt Nam hiện đại. Nxb Khoa học xã hội, Hà <br /> Nội (1984).<br /> 2. Vũ Tuấn Anh.  Chế  Lan Viên về  tác giả  tác phẩm , Nxb Giáo dục, Hà Nội <br /> (2001)<br /> 3. Xuân Diệu. Công việc làm thơ, Nxb Văn học, Hà Nội (1994) <br /> 4. Lê Đạt. Nghiệp thơ, Báo Thơ số 5 (11/2003) 6.<br /> 5. Trần Mạnh Hảo. Thơ phản thơ, Nxb Văn học, Hà Nội (1998)<br /> 6. Nhiều tác giả. Nhà văn qua hồi ức người thân, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội <br /> (2001)<br /> 7. Trần Đình Sử. Văn học và thời gian  Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội (2002)<br /> 8. Khâu Chấn Thanh. Lý luận văn học cổ điển Trung Quốc, Nxb Văn học, Hà Nội <br /> (2001).<br /> 9. Đoàn Thêm trích dịch, Quan niệm và sáng tác thơ, Viện Đại học Huế (1962). <br /> 10. Tuyển tập Nam Cao. Nxb Văn học, Hà Nội (2003).<br /> 11. Chế Lan Viên. Điêu tàn, tác phẩm và dư luận, Nxb Văn học, Hà Nội (2001).<br /> 12. Chế Lan Viên. Suy nghĩ và bình luận, Nxb Văn học, Hà Nội (1971)<br /> 13. Chế Lan Viên. Phê bình văn học, Nxb Văn học, Hà Nội (1962).<br /> 14. Chế  Lan Viên. Từ  gác Khuê Văn đến quán Trung Tân, Nxb Tác phẩm mới, <br /> Hà Nội (1981). <br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 46<br /> TÓM TẮT<br /> <br /> Chế Lan Viên không những là một nhà thơ lớn mà còn là một nhà lý luận phê bình có  <br /> những đóng góp không nhỏ vào việc hiện đại hóa thơ ca cũng như lý luận văn học dân tộc.  <br /> Trong từng giai đoạn sáng tác, ông đều có những bài viết mang ý nghĩa khái quát như  một  <br /> tuyên ngôn về  quan niệm thơ  của mình. Trong đó, quan niệm về  nghề  thơ  là một yếu tố  <br /> không thể thiếu trong hệ thống quan niệm về thơ của Chế Lan Viên.<br /> Quan niệm thơ  là một nghề, đó là nghề  bề  sâu, nghề  của sáng tạo gắn với vô thức,  <br /> với tâm linh và tác phẩm thơ là nhân tố khẳng định sự tồn tại của nghề thơ trong quan niệm  <br /> Chế  Lan Viên là sự  tiếp biến quan niệm thơ  phương Đông, phương Tây và dân tộc, đồng  <br /> thời cũng thể hiện cái nhìn độc đáo của ông về  nghề  thơ. Đó là sự  đóng góp của Chế  Lan  <br /> Viên vào hệ thống lý luận về thơ của dân tộc.<br /> <br /> <br /> <br /> POEM MAKING AS AN OCCUPATION IN CHE LAN VIEN’S VIEW<br />                                                                             Tran Hoai Anh <br /> College of Pedagogy, Hue University<br /> SUMMARY<br /> <br />            Che Lan Vien was not only a great poet but also a theoretician and a critic that made  <br /> considerable contributions to the modernization of the nation’s poetry and literature theory. In  <br /> each period of his literary composition, Che Lan Vien always made some pieces of writing to  <br /> declare his own views about poetry, of which the view of writing poems as a vocation is an  <br /> essential part of his systemic conception about poetry.<br />     The view that writing poems is a vocation, a creative one that links with the unconciousness  <br /> and spiritual life, as well as with a piece of poetic work is a factor that confirms the existence of  <br /> what is so called poetical vocation in Che Lan Vien’s conception, is an assimilation and a  <br /> transformation of the oriental, western and national views about poetry. The view at the same  <br /> time expresses his unique look at poem writing. This is a contribution of Che Lan Vien to the  <br /> nation’s system of poetical theory.<br /> <br /> <br /> <br /> <br />  <br /> <br /> <br /> 47<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2