TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 26, 2005<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
NGHỀ THƠ TRONG QUAN NIỆM CỦA CHẾ LAN VIÊN<br />
<br />
Trần Hoài Anh<br />
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế<br />
<br />
<br />
Chế Lan Viên không phải là người duy nhất vừa sáng tác,vừa chiêm nghiệm về <br />
bản thể thơ. Câu hỏi “Thơ là gì? ” luôn là nỗi ám ảnh đối với người làm thơ và <br />
người yêu thơ. Vì vậy, những suy nghĩ về nghề thơ cũng là điều mà các nhà thơ luôn <br />
trăn trở. Với Chế Lan Viên, quan niệm về nghề thơ đã trở thành một phần không thể <br />
thiếu trong hệ thống quan niệm thơ, gắn liền với hành trình sáng tạo hơn năm mươi <br />
năm của ông.<br />
Vậy nghề thơ trong quan niệm của Chế Lan Viên là gì? Đây là vấn đề có ý <br />
nghĩa khoa học và thực tiễn rất lớn khi chúng ta tìm được câu trả lời từ chính sáng tác <br />
của nhà thơ.<br />
1. Với Chế Lan Viên thơ là một nghề:<br />
Thật ra, chẳng phải Chế Lan Viên là người đầu tiên đề ra quan niệm "thơ là <br />
một nghề". Ngay từ xưa ở phương Đông, Lục Du (đời Tống) cũng đã quan niệm <br />
rằng: "Thơ là một trong sáu nghề (lục nghệ). Không thể lấy thái độ chơi vui của trẻ <br />
con mà đối xử với nó được! Nếu quả thật con muốn học làm thơ, thì công phu của <br />
thơ chính là ở ngoài thơ đó" [8].Quan niệm này cũng tương hợp với quan niệm của <br />
phương Tây khi Marie Noel cho rằng: "Cỏ mọc, tiếng động, hoang mang bên đường <br />
cái, con chim, làn gió đều dạy tôi nghề làm thơ" [9]. Còn ở nước ta, theo Xuân Diệu, <br />
trong Phủ biên tạp lục, còn lưu lại thư của Nguyễn Cư Trinh (17161767) trả lời <br />
Mạc Thiên Tích, trong đó có viết: "Tóm lại nghề thơ không ngoài việc căn bản phải <br />
trung hậu, ý nghĩa phải hàm súc và phải có cái hay ở chỗ giản dị. Còn việc trau dồi <br />
cho văn hoa đẹp đẽ, rèn luyện cho khéo lạ lùng, đó chẳng qua là việc làm thêm mà <br />
thôi" [3]. Và chính nhà thơ Xuân Diệu cũng cho rằng: "Nghề thơ cũng lắm công phu, <br />
làng thơ ta phải biết cho đủ đường" [3].<br />
Tuy tiếp thu quan niệm của người xưa, nhưng điều độc đáo ở Chế Lan Viên là <br />
ông không chỉ xem thơ là một nghề mà còn là một thứ đạo ở đó nhà thơ là một đạo sĩ <br />
luôn mang nặng nghiệp chướng của thơ. Nói như Vàng Anh, con gái của nhà thơ thì <br />
Chế Lan Viên là người "mang cái ách văn chương" [6], Trần Mạnh Hảo thì gọi ông <br />
là "người làm vườn vĩnh cửu" [5]. Ngay từ thuở mới bước vào nghề, trong lời tựa <br />
41<br />
tập Điêu tàn được xem như tuyên ngôn nghệ thuật của Chế Lan Viên, nhà thơ đã <br />
dõng dạc tuyên bố: "Làm thơ là làm việc phi thường" [11]. Như vậy, trong quan niệm <br />
của Chế Lan Viên nghề thơ không phải là một nghề "ngứa cổ hót chơi" hay nói như <br />
Lục Du là "không thể lấy thái độ vui chơi của trẻ con mà đối xử với thơ được", mà <br />
thơ là một nghề đặc biệt, nghề cao cả, nghề thiêng liêng:<br />
Nếu làm thơ phải có hồn thi sĩ<br />
Sao làm thơ không có nghề như thợ nhỉ ?<br />
Nghề đếm lá, nghề trông sao, nghề tát bể,<br />
Nghề dịch vụ tinh thần...thế...thế...<br />
Ba vạn sáu ngàn nghề, ta phải kể: nghề thơ.<br />
(Thơ về thơ) <br />
Vì quan niệm thơ là một nghề, là một thứ đạo, một thứ tôn giáo cho nên theo <br />
Chế Lan Viên, nhà thơ phải đặt cược cả cuộc đời và niềm tin của mình vào trong đó, <br />
không thể "đổi nghề" theo kiểu "làm thơ khó. Anh chàng đi buôn" (Đổi nghề). Và với <br />
Chế Lan Viên, điều này đã trở thành lẽ sống của đời ông:<br />
Anh, nhà thơ chiêm tinh chưa tìm ra sao chổi của riêng mình,<br />
Cái đuôi nó hóa bầu trời trước anh vạn năm, giờ bay đâu mất?<br />
Bốn bên vạn thiên hà mà sao vắng ngắt?<br />
Nhưng chẳng lẽ vì thế mà bỏ nghề, thôi chẳng chiêm tinh.<br />
(Chiêm tinh)<br />
Nhà thơ Lê Đạt cũng đã từng phát biểu rằng: "Không người thơ nào không trải <br />
qua những cơn tuyệt vọng muốn quẳng thơ đi làm một nghề gì khác cho nó khỏe. <br />
Nhưng thơ là một nghiệp, một tình yêu đắm đuối" [4]. Tuy có nhiều điểm rất khác <br />
nhau trong quan niệm thơ, nhưng ở quan niệm về nghề thơ Lê Đạt và Chế Lan Viên <br />
đã có những điểm tương đồng. <br />
Thơ là một nghề, nhưng không phải là một nghề bình thường như bao nghề <br />
khác. Đó là một nghề rất đặc biệt. Chế Lan Viên đã cho rằng đây là nghề của bề sâu, <br />
nghề của những tìm tòi trăn trở, nghề của tình yêu đắm đuối, của niềm say mê sáng <br />
tạo.<br />
2. Thơ là nghề của "bề sâu", của lao động thầm lặng, nghiêm túc và sáng <br />
tạo:<br />
Trong tác phẩm Đời thừa, Nam Cao quan niệm: ''Sự cẩu thả trong bất cứ một <br />
nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là <br />
đê tiện'' [10]. Còn Lê Đạt thì cho rằng: ''Theo tôi thơ là một nghề, đã là nghề thì phải <br />
có kỷ luật lao động. Không nên thụ động thắp hương chờ mà phải chủ động gọi <br />
hứng đến. Công việc này đòi hỏi một kỷ luật nghiệt ngã và gian khổ''[4]. Như vậy, <br />
42<br />
dù viết văn hay làm thơ thì công việc sáng tạo của người cầm bút cũng đòi hỏi một <br />
tinh thần lao động nghiêm túc và có trách nhiệm cao với tác phẩm của mình. Song, <br />
cũng như các nhà thơ khác, Chế Lan Viên không những xem lao động thơ là một <br />
nghề nghiêm túc, sáng tạo mà với ông đó còn là nghề của bề sâu: ''Thơ là nghề của <br />
bề sâu. Nghề thơ cũng như nghề giếng vậy, chỉ có đi sâu mới tìm ra nước'' [12]. Cái <br />
''bề sâu'' của nghề thơ mà Chế Lan Viên nói đến phải chăng là sự đi sâu khám phá <br />
thế giới nội tâm con người, sự ''lặn sâu'' vào cuộc đời để chạm đến những bến bờ <br />
hư thực của cõi tâm linh? Đi vào "hiện thực bên trong" (G.Lukács) thơ sẽ tìm được lẽ <br />
chân như. Song, thơ càng đi vào bề sâu, càng đi vào thế giới bên trong của thơ, cái mà <br />
người xưa gọi là ''nội thi'' thì càng đòi hỏi người làm thơ phải có tinh thần lao động <br />
nghiêm túc và sáng tạo. Đây cũng là một vấn đề chính yếu mà Chế Lan Viên quan <br />
tâm trong nghề thơ. Lao động trong nghề thơ, theo Chế Lan Viên không phải là lao <br />
động cày sâu cuốc bẫm như người nông dân miệt mài trên đồng ruộng, càng không <br />
phải như nghề làm pháo "Cứ hét lên vì sợ chẳng vào tai" (Nghĩ về nghề, nghĩ về thơ, <br />
nghĩ...) mà là kiểu lao động trong thầm lặng và nhiều khi rất cô đơn, là kiểu lao động <br />
"cày sâu cuốc bẫm" trên từng trang giấy. Đó là một hoạt động tinh thần đầy sáng tạo <br />
gắn với vô thức, với tâm linh:<br />
Ngọn đèn tắt cho trang giấy ngủ<br />
Khi ta ngủ rồi trang giấy vẫn còn mơ<br />
Nó làm việc với đáy bể với sao trời ai biết được<br />
Khi cỏ đọng sương trời thì thơ đọng những câu thơ. <br />
(Trang giấy) <br />
''Khi ta ngủ rồi trang giấy vẫn còn mơ''. Như vậy, lao động thơ không chỉ có ý <br />
thức, mà còn cả tiềm thức, vô thức. Nhưng dù là sáng tạo trong cõi vô thức đi chăng <br />
nữa thì thơ cũng là nghề của sự tìm tòi, của trải nghiệm, của khám phá và sáng tạo. <br />
Bởi vì: ''Thơ ở trong cuộc sống'' (Paul Eluard) [9] nên có "lặn vào cuộc sống" nhà thơ <br />
mới tìm ra được những giá trị đích thực của thơ:<br />
Chớ ngại thơ phải đi qua con đường cằn khô sa mạc,<br />
Những suối thơ không chảy sẵn bên nhà.<br />
(Sổ tay thơ) <br />
Vì ''Những suối thơ không chảy sẵn bên nhà'' cho nên theo Chế Lan Viên, để <br />
khám phá, để sáng tạo trong nghề, nhà thơ phải biết ''đánh hơi tài như kẻ đi săn'', <br />
phải biết tìm ''những câu thơ ẩn giữa rừng như thú dữ'' (Săn thơ), phải biết kịp nắm <br />
bắt khoảnh khắc thăng hoa của sự sáng tạo khi: ''một thi pháp vụt ngang đầu lóe <br />
sáng'' (Thơ về thơ)... Có như thế thì thơ mới đạt đến độ chín của tư duy và chiều sâu <br />
của tâm hồn. Độ nhạy cảm, độ tinh tế của nghề thơ cũng chính là ở đó.<br />
43<br />
Như vậy, để sáng tạo thơ, thi nhân phải sống giữa cõi mộng và thực, giữa tỉnh <br />
và mơ, giữa tiềm thức và vô thức, giữa hiện hữu và hư vô. Do đó, không thể xem lao <br />
động thơ là một lao động bình thường mà là lao động sáng tạo của chiều sâu trí tuệ <br />
và tâm linh, là "nghề của bề sâu" như Chế Lan Viên quan niệm. Vì quan niệm như <br />
vậy nên ông là người luôn trăn trở, tìm hiểu khám phá các khía cạnh của thơ và công <br />
việc làm thơ qua hàng loạt các bài mang tính chất lý luận về thơ: Nghĩ về thơ, Nghĩ <br />
về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ..., Sổ tay thơ, Thơ bình phương Đời lập phương, Thơ về <br />
thơ, đúng như nhận định của Vũ Tuấn Anh: ''Chế Lan Viên là nhà thơ có nhiều trăn <br />
trở, suy nghĩ về nghề: Sổ tay thơ, Nghĩ về thơ, nghĩ về nghề, nghĩ... Dưới hình thức <br />
những đoạn thơ ngắn, những câu thơ có vẻ ''ghi vội'' là lý luận về thơ, là kinh <br />
nghiệm tích lũy, là thể nghiệm mạnh dạn của một nhà thơ đã có bốn mươi năm cầm <br />
bút nghĩ về rất nhiều khía cạnh của nghề'' [1]. <br />
Với ý thức sâu sắc về nghề, Chế Lan Viên luôn có quá trình lao động thơ <br />
nghiêm túc, luôn có khát vọng sáng tạo để làm mới chính thơ mình: ''Anh làm việc rất <br />
kỹ với cả bài thơ và từng câu thơ, từng ý, từng hình ảnh, từng chữ. Có thể nói trong <br />
thơ Chế Lan Viên có những bài chưa hay, những bài ta không thích, nhưng bài nào <br />
cũng chứa đựng một cái gì đó mới mẻ, hầu như không có bài nào tẻ nhạt, viết cẩu <br />
thả'' (Nguyễn Văn Hạnh) [2]. Bởi vì là nhà thơ, hơn ai hết Chế Lan Viên ý thức được <br />
rằng sản phẩm cuối cùng của nghề thơ là tác phẩm, đứa con tinh thần mà nhà thơ để <br />
lại cho đời. Và đây cũng là một chuẩn giá trị để làm thước đo chất lượng của nghề, <br />
của thơ.<br />
3. Tác phẩm là sự kết tinh tài năng, lao động nghệ thuật của nhà thơ và <br />
khẳng định sự tồn tại của nghề thơ:<br />
Trong tác phẩm Sổ tay thơ, Chế Lan Viên đã nhận thức rằng: ''Đời một thi sĩ là <br />
thơ như đời một nông dân là lúa''. Điều này mặc nhiên đã khẳng định sản phẩm của <br />
nghề thơ phải là tác phẩm thơ chứ tuyệt nhiên không phải là một cái gì khác thơ, <br />
ngoài thơ. Bởi lẽ, không phải nhà thơ nào cũng xem thơ là lẽ sống, là nghiệp chướng <br />
của mình, mà nhiều khi người ta mượn thơ như phương tiện để đạt được những <br />
"mục đích ngoài thơ". Chính vì vậy, quan niệm trên của Chế Lan Viên là một sự <br />
cảnh tỉnh đối với những ai xem thơ như một “giấy thông hành” để mưu cầu danh <br />
vọng cho bản thân mình. Mặt khác, quan niệm đó của Chế Lan Viên cũng khẳng định <br />
một điều có tính nguyên tắc: tác phẩm không chỉ là sản phẩm của nghề thơ mà nó <br />
còn là kết tinh tài năng, lao động nghệ thuật và khẳng định sự tồn tại của nghề thơ <br />
cũng như vị trí, tầm vóc của nhà thơ trong cuộc đời: "Nhà thơ sống là nhà thơ đẻ ra <br />
được tác phẩm" [13].<br />
<br />
<br />
44<br />
Con đường đến với nghệ thuật cũng như con đường đến với thơ của mỗi nghệ <br />
sĩ tùy thuộc vào thiên năng của mỗi người. Song, có một điều chắc chắn đó không <br />
phải chỉ là sản phẩm ''trời cho'' đơn thuần mà phải là sự kết tinh của một quá trình <br />
lao động sáng tạo. Chế Lan Viên cho rằng: ''Từ muôn đời nay, những nghệ sĩ lớn đều <br />
tự ràng buộc mình chặt chẽ. Chỉ có kẻ viết tồi thì mới viết ẩu, viết bừa, tự buông <br />
thả lấy mình, đạp lên cả lương tâm trách nhiệm mà đi. Những nghệ sĩ chân chính bị <br />
ràng buộc bởi thiên chức, thiên lương, nếu không ''thiện'' thì ''nhân'', nhân tình, nhân <br />
phẩm. Bởi cái mình thấy, mình nghe, bởi cái bát ngát của đời, bởi cái tam thiên mẫu <br />
tự của sự sống mà họ từng chứng kiến'' [14]. Như vậy với Chế Lan Viên, tác phẩm <br />
thơ là kết quả của một ý thức lao động nghiêm túc, là kết tinh thiên lương của nhà <br />
thơ. Bởi "Không có bài thơ nào xuất hiện thần kỳ, bất thần trong một phút đâu. <br />
Chúng ta ngạc nhiên thấy mặt trời mọc lên trên mặt biển hôm nay, mà quên đi rằng <br />
nó đã thao thức suốt đêm qua ở phía bên kia chân trời... nghệ thuật" [13]. Song nhà <br />
thơ ''không đưa ngay trái tim mình cho độc giả/Mà hái một trái cây đưa cho họ" ( Nhà <br />
thơ I), tức là nhà thơ không bày tỏ trực tiếp tư tưởng tình cảm của mình mà bày tỏ <br />
gián tiếp thông qua tác phẩm. Vì thế, sự tồn tại của nhà thơ và nghề thơ bao giờ <br />
cũng gắn liền với sự tồn tại của tác phẩm. Và tác phẩm bao giờ cũng là cái chân giá <br />
trị để định danh nhà thơ:<br />
Khi ta kỷ niệm Nguyễn Du chả ích gì cho Nguyễn<br />
Chẳng qua để kẻ yêu thơ khỏi tủi trong lòng.<br />
Ông đã hóa mây trắng ngang trời hoài niệm,<br />
Hóa ra Kiều cao gấp mấy đời ông.<br />
(Kỷ niệm Nguyễn Du) <br />
Quả thật, nếu không có Truyện Kiều liệu Nguyễn Du có được như thế không? <br />
Qua một hiện tượng cụ thể, Chế Lan Viên đã khái quát một chân lý: chính tác phẩm <br />
làm nên sự bất tử của nhà thơ. Và những cảm nhận của ông về thơ Nguyễn Trãi một <br />
lần nữa lại khẳng định chân lý muôn đời này: "Chúng tru di máu, tru di người, chứ tru <br />
di thơ sao được?/Ngọc sáng ngời là hóa thân của máu, của hồn oan" ( Thơ Nguyễn <br />
Trãi). Song, Chế Lan Viên cũng cảnh báo rằng: dẫu cho tác phẩm thơ có trở thành <br />
bất tử chăng nữa, thì nhà thơ cũng không vì thế mà tự mãn, vì sự đào thải là qui luật <br />
của tất cả mọi nghề nghiệp. Song sự đào thải và tự đào thải trong nghề thơ lại càng <br />
oan nghiệt hơn. Vì vậy, nếu nhà thơ chỉ biết gặm nhấm vào "danh vọng già <br />
nua/Lượm tên tuổi mình rụng quanh gốc già như quả khế chua/Lượm cái hào quang <br />
cũ héo hon như chùm táo rụng'' (Cuối mùa), ''không biến đời anh thành tác phẩm dành <br />
cho đời'' thì họ sẽ tự đưa tên tuổi và nghề thơ của mình lên ''giàn hỏa'' và ''đời chẳng <br />
biết lấy cớ gì để tha cho anh cả'' (Hạt gạo).<br />
45<br />
Tóm lại, đi suốt hành trình hơn năm mươi năm sáng tạo, Chế Lan Viên không <br />
những là nhà thơ lớn, mà còn là một nhà văn hóa, nhà lý luận phê bình ''luôn say mê đi <br />
tìm cái đẹp của thơ, say mê khám phá cái bí ẩn của công việc làm thơ'' [1]. Vì vậy, <br />
quan niệm về nghề thơ của Chế Lan Viên không những cho ta thấy được tư duy lý <br />
luận sắc sảo của ông trong việc đi tìm bản thể thơ mà quan trọng hơn là thấy được ý <br />
thức trách nhiệm của một nhà thơ luôn có khát vọng khám phá thế giới ảo diệu của <br />
thơ, xem thơ như một tôn giáo giữa cuộc đời mà ông là một tín đồ sống ''dấn thân hết <br />
mình'' (Sartre) với thơ, vì thơ và cho thơ. Thế nên, Chế Lan Viên thực sự là “một bậc <br />
thầy tiên phong đầy thông tuệ” (Trần Đình Sử) [7] “không chỉ làm giàu cho hiện tại <br />
mà còn tạo lực đẩy cho quá trình vận động văn học, có ý nghĩa gieo giống cho những <br />
mùa sau” (Vũ Tuấn Anh) [2].<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
<br />
1. Vũ Tuấn Anh biên tập. Nhà thơ Việt Nam hiện đại. Nxb Khoa học xã hội, Hà <br />
Nội (1984).<br />
2. Vũ Tuấn Anh. Chế Lan Viên về tác giả tác phẩm , Nxb Giáo dục, Hà Nội <br />
(2001)<br />
3. Xuân Diệu. Công việc làm thơ, Nxb Văn học, Hà Nội (1994) <br />
4. Lê Đạt. Nghiệp thơ, Báo Thơ số 5 (11/2003) 6.<br />
5. Trần Mạnh Hảo. Thơ phản thơ, Nxb Văn học, Hà Nội (1998)<br />
6. Nhiều tác giả. Nhà văn qua hồi ức người thân, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội <br />
(2001)<br />
7. Trần Đình Sử. Văn học và thời gian Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội (2002)<br />
8. Khâu Chấn Thanh. Lý luận văn học cổ điển Trung Quốc, Nxb Văn học, Hà Nội <br />
(2001).<br />
9. Đoàn Thêm trích dịch, Quan niệm và sáng tác thơ, Viện Đại học Huế (1962). <br />
10. Tuyển tập Nam Cao. Nxb Văn học, Hà Nội (2003).<br />
11. Chế Lan Viên. Điêu tàn, tác phẩm và dư luận, Nxb Văn học, Hà Nội (2001).<br />
12. Chế Lan Viên. Suy nghĩ và bình luận, Nxb Văn học, Hà Nội (1971)<br />
13. Chế Lan Viên. Phê bình văn học, Nxb Văn học, Hà Nội (1962).<br />
14. Chế Lan Viên. Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân, Nxb Tác phẩm mới, <br />
Hà Nội (1981). <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
46<br />
TÓM TẮT<br />
<br />
Chế Lan Viên không những là một nhà thơ lớn mà còn là một nhà lý luận phê bình có <br />
những đóng góp không nhỏ vào việc hiện đại hóa thơ ca cũng như lý luận văn học dân tộc. <br />
Trong từng giai đoạn sáng tác, ông đều có những bài viết mang ý nghĩa khái quát như một <br />
tuyên ngôn về quan niệm thơ của mình. Trong đó, quan niệm về nghề thơ là một yếu tố <br />
không thể thiếu trong hệ thống quan niệm về thơ của Chế Lan Viên.<br />
Quan niệm thơ là một nghề, đó là nghề bề sâu, nghề của sáng tạo gắn với vô thức, <br />
với tâm linh và tác phẩm thơ là nhân tố khẳng định sự tồn tại của nghề thơ trong quan niệm <br />
Chế Lan Viên là sự tiếp biến quan niệm thơ phương Đông, phương Tây và dân tộc, đồng <br />
thời cũng thể hiện cái nhìn độc đáo của ông về nghề thơ. Đó là sự đóng góp của Chế Lan <br />
Viên vào hệ thống lý luận về thơ của dân tộc.<br />
<br />
<br />
<br />
POEM MAKING AS AN OCCUPATION IN CHE LAN VIEN’S VIEW<br />
Tran Hoai Anh <br />
College of Pedagogy, Hue University<br />
SUMMARY<br />
<br />
Che Lan Vien was not only a great poet but also a theoretician and a critic that made <br />
considerable contributions to the modernization of the nation’s poetry and literature theory. In <br />
each period of his literary composition, Che Lan Vien always made some pieces of writing to <br />
declare his own views about poetry, of which the view of writing poems as a vocation is an <br />
essential part of his systemic conception about poetry.<br />
The view that writing poems is a vocation, a creative one that links with the unconciousness <br />
and spiritual life, as well as with a piece of poetic work is a factor that confirms the existence of <br />
what is so called poetical vocation in Che Lan Vien’s conception, is an assimilation and a <br />
transformation of the oriental, western and national views about poetry. The view at the same <br />
time expresses his unique look at poem writing. This is a contribution of Che Lan Vien to the <br />
nation’s system of poetical theory.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
47<br />