intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệm kỳ kiểm toán đến tính độc lập của kiểm toán viên khi thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính

Chia sẻ: Cánh Cụt đen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

49
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết bằng việc phân tích các nội dung điển hình liên quan đến việc hình thành năm nguy cơ đe dọa tính độc lập của kiểm toán viên (trong nhiệm kỳ ngắn và nhiệm kỳ mở rộng) khi đưa ra kết luận về báo cáo tài chính, nhóm Tác giả đã tìm thấy bằng chứng về ảnh hưởng giữa nhiệm kỳ kiểm toán (Audit firm Tenure) mở rộng (kéo dài) và tính độc lập của kiểm toán viên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệm kỳ kiểm toán đến tính độc lập của kiểm toán viên khi thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính

  1. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 193 NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA NHIỆM KỲ KIỂM TOÁN ĐẾN TÍNH ĐỘC LẬP CỦA KIỂM TOÁN VIÊN KHI THỰC HIỆN KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH Nguyễn Thị Lan Anh* Nguyễn Văn Đông** TÓM TẮT: Bằng việc phân tích các nội dung điển hình liên quan đến việc hình thành năm nguy cơ đe dọa tính độc lập của kiểm toán viên (KTV) (trong nhiệm kỳ ngắn và nhiệm kỳ mở rộng) khi đưa ra kết luận về báo cáo tài chính (BCTC), nhóm Tác giả đã tìm thấy bằng chứng về ảnh hưởng giữa nhiệm kỳ kiểm toán (Audit firm Tenure) mở rộng (kéo dài) và tính độc lập của KTV. Một bảng hỏi được thiết kế và gửi qua mạng internet đến các KTV đang làm việc tại các công ty kiểm toán tại Việt Nam để thu thập thông tin và thu về 121 phiếu trả lời hợp lệ. Phương pháp kiểm định giả thuyết về giá trị trung bình của 2 tổng thể (Paired Samples T-test) được thực hiện nhằm so sánh các tình huống tương tự trong cả hai nhiệm kỳ kiểm toán ngắn và dài để xem xét mối liên hệ giữa tính độc lập với nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng hay không. Kết quả kiểm định cho thấy tồn tại mối quan hệ giữa hai yếu tố này. Từ đó, nhóm Tác giả đã hình thành đề xuất đối với KTV và cơ quan quản lý Nhà nước trong việc duy trì tính độc lập của kiểm toán viên khi kiểm toán BCTC cho các đơn vị có lợi ích công chúng. Từ khóa: kiểm toán viên, độc lập, kinh nghiệm, đơn vị có lợi ích công chúng, nhiệm kỳ kiểm toán ABSTRACT: By analyzing the typical situations related to the formation of five threats to the independence of auditors (in short and extended audit tenures) when forming an opinion about financial statements, the Authors reached the main purpose on the impact of the extended audit tenure on auditor independence. Questionnaires was designed and sent to 300 auditors who are working at auditing companies in Vietnam to collect primary data. However, only 121 usable responses were available for the study. Descriptive statistics and the paired samples t-test were used for the analysis of the responses and testing the hypothesis for statistical significance. The research results show that there is a relationship between auditor independence and the extended audit tenures. Based on our findings, some key intuitive recommendations were proposed for auditors and State agencies in order to maintain the independence of auditors when they audit the financial statements of public interest entities. Keywords: Auditor, independence, experience, public interest entities, audit tenure 1. GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU Kiểm toán BCTC là một trong những dịch vụ chủ yếu được các công ty kiểm toán cung cấp * Đại học Kinh tế quốc dân, Việt Nam. Tác giả nhận phản hồi: Email: nguyenlananh1182@gmail.com - Điện thoại: 0981829911 ** Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam
  2. 194 HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA hiện nay. Nguyện vọng thiết yếu của các nhà đầu tư, chủ sở hữu, nhà quản lý, khách hàng, nhà cung cấp, thậm chí cả người lao động trong doanh nghiệp… là được sử dụng thông tin tài chính đáng tin cậy nhằm đưa ra quyết định đúng đắn. Để có cuộc kiểm toán với chất lượng toàn diện thì người nắm giữ vai trò kiểm toán (KTV) phải có phẩm hạnh tốt và trình độ chuyên môn vững vàng (Nguyễn Quang Quynh và Nguyễn Thị Phương Hoa, 2016, tr 40). Trong đó, độc lập được coi là nguyên tắc cơ bản hàng đầu về đạo đức nghề nghiệp cho người hành nghề kiểm toán (Trần Thị Giang Tân và cộng sự, 2014, tr 255). Hơn nữa, cuộc kiểm toán được thực hiện vì lợi ích của công chúng nên KTV được đòi hỏi độc lập về cả hình thức lẫn tư tưởng (Bộ Tài chính, 2015). Đã có rất nhiều nghiên cứu về tính độc lập của KTV trong lịch sử phát triển của kiểm toán. Ngay từ năm 1992, Miller (1992) đã khẳng định về sự cần thiết phải xem xét đến tư chất của KTV tham gia vào cuộc kiểm toán. Các nhà quản lý có trách nhiệm thuê, chấm dứt hợp đồng kiểm toán… trong thẩm quyền của họ, điều này khiến KTV có thể bị ảnh hưởng bởi vấn đề xung đột lợi ích và nhiều nguy cơ phá vỡ nguyên tắc độc lập khi kiểm toán BCTC. Thêm vào đó, sự lệ thuộc vào lợi ích kinh tế từ những dịch vụ phi kiểm toán mà công ty kiểm toán cung cấp cho khách hàng; mối quan hệ giữa công ty kiểm toán với khách hàng, mối quan hệ cá nhân nảy sinh giữa KTV với thành viên của khách thể kiểm toán do nhiệm kỳ kiểm toán kéo dài… có thể ảnh hưởng lớn đến tính độc lập của KTV khi thực hiện kiểm toán. Ngoài ra, vấn đề đảm bảo tính độc lập ngày càng trở nên khó khăn hơn khi đối tượng kiểm toán ngày càng phức tạp, số lượng các công ty kiểm toán gia tăng, phí kiểm toán có khả năng giảm trong điều kiện cạnh tranh. Một trong ba nguyên tắc cơ bản khi lựa chọn đội ngũ KTV cho cuộc kiểm toán là công ty kiểm toán cần tránh thay đổi KTV cho một khách hàng trong nhiều năm. KTV có thể tích lũy kinh nghiệm kiểm toán cũng như những hiểu biết sâu về khách hàng của mình từ đó tăng hiệu quả cho cuộc kiểm toán (Nguyễn Quang Quynh và Ngô Trí Tuệ, 2014, trang 126). Tuy nhiên, KTV có xu hướng dễ dàng lựa chọn ý kiến chấp nhận toàn phần cho cuộc kiểm toán BCTC nếu kéo dài thời gian kiểm toán tại một khách hàng (Vanstraelen, 2000). Chính vì vậy, để hạn chế khả năng vi phạm tính độc lập, các quốc gia trên thế giới đều có những qui định cụ thể về thời hạn luân chuyển KTV của các công ty kiểm toán. Tại Việt Nam, thành viên Ban Giám đốc phụ trách tổng thể cuộc kiểm toán và KTV hành nghề ký báo cáo kiểm toán không được phép ký báo cáo kiểm toán quá 3 năm liên tục cho một khách hàng (Bộ Tài chính, 2015) và độ dài tối đa của nhiệm kỳ kiểm toán là 5 năm nằm trong các qui định tại Mỹ và Brazil. Để tăng cường hiệu quả kiểm toán, các công ty kiểm toán muốn thực hiện kiểm toán BCTC trong nhiều năm với các khách hàng (kéo dài nhiệm kỳ kiểm toán), mặt khác, ngoài việc cung cấp dịch vụ kiểm toán BCTC, các công ty kiểm toán còn cung cấp nhiều dịch vụ phi kiểm toán như tư vấn thuế, tư vấn kế toán, soát xét BCTC, dịch vụ nâng cao hiệu quả hoạt động (tài chính, chuỗi cung ứng, tư vấn quản trị rủi ro…)... Những vấn đề trên đã trở thành một trong những nguyên nhân hình thành sự hoài nghi về việc khó xử của KTV khi tuân thủ tính độc lập trong quá trình kiểm toán (Craswell, 1999; Quick and Warming-Rasmussen, 2005). Vì vậy, nghiên cứu quan điểm của người được khảo sát về tác động của nhiệm kỳ kiểm toán đến tính độc lập của KTV khi thực hiện kiểm toán BCTC có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn. Xuất phát từ kết quả nghiên cứu, nhóm Tác giả hình thành các giải pháp ngăn chặn hành vi vi phạm tính độc lập của KTV trong việc đưa ra gợi ý về độ dài của một nhiệm kỳ kiểm toán.
  3. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 195 Trong quá trình thực hiện nghiên cứu, nhóm tác giả đã trả lời hai câu hỏi nghiên cứu sau đây: Câu hỏi 1: Nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng có làm ảnh hưởng đến tính độc lập của KTV khi thực hiện kiểm toán BCTC của các đơn vị có lợi ích công chúng không? và Câu hỏi 2: Thời gian của nhiệm kỳ kiểm toán là bao lâu để không ảnh hưởng đến tính độc lập của KTV trong quá trình kiểm toán BCTC của các đơn vị có lợi ích công chúng?; Đối tượng nghiên cứu là nhiệm kỳ của KTV khi thực hiện kiểm toán BCTC của các đơn vị có lợi ích công chúng. Ngoài Phần 1 - Giới thiệu, bài viết gồm các nội dung cơ bản sau: Phần 2 - Tổng quan nghiên cứu; Phần 3 - Cơ sở lý luận, Phần 4 - Phương pháp nghiên cứu, Phần 5 - Thảo luận kết quả nghiên cứu và Phần 6 - Kết luận. 2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU Các nghiên cứu trên thế giới Nhiệm kỳ kiểm toán là khoảng thời gian mà một công ty kiểm toán thực hiện kiểm toán liên tục cho các khách hàng của mình. Trong lịch sử phát triển của kiểm toán, đã có nhiều nghiên cứu thực nghiệm được thực hiện nhằm đánh giá ảnh hưởng của yếu tố này đến tính độc lập của KTV. Thời gian kiểm toán cho một khách hàng kéo dài sẽ có nguy cơ tạo ra sự quen thuộc giữa hai bên, điều này có thể làm ảnh hưởng đến tính độc lập của KTV và chất lượng kiểm toán. Tổng hợp các nghiên cứu đã thực hiện, nhóm nghiên cứu xác định, tồn tại hai nhóm quan điểm khác nhau về ảnh hưởng của độ dài nhiệm kỳ kiểm toán đối với tính độc lập của KTV khi kiểm toán BCTC. Theo quan điểm thứ nhất, độ dài của nhiệm kỳ kiểm toán không ảnh hưởng đến tính độc lập của KTV. Việc duy trì cùng một công ty kiểm toán trong thời gian dài được coi là kinh tế hơn đối với kiểm toán khách hàng có qui mô lớn do chi phí cho việc nghiên cứu ban đầu về khách thể kiểm toán cao. Liên quan đến việc thu hút khách hàng, Geiger và Raghunandan (2002) cho rằng, các công ty kiểm toán có xu hướng giảm giá phí kiểm toán trong năm đầu tham gia kiểm toán để thu hút khách hàng, do đó, tất yếu công ty kiểm toán cần duy trì khách hàng càng lâu càng tốt để có thể phục hồi lại khoản lỗ của mình từ năm đầu tiên; họ đã chứng minh, sự liên kết lâu dài giữa công ty kiểm toán và khách hàng của công ty không thực sự làm giảm tính độc lập của KTV, tính độc lập đó chỉ bị suy giảm trong năm đầu tham gia kiểm toán chứ không phải cho toàn bộ cam kết kiểm toán lâu dài. Cũng đồng tình với quan điểm này, thông qua việc phân tích dữ liệu thu được bằng kiểm định T do 1.250 KTV Thụy Điển cung cấp, Chia-Ah và Karlsson (2010) khẳng định không có bất kỳ sự đe dọa nào đến tính độc lập của KTV khi nhiệm kỳ kiểm toán được kéo dài. Cũng với kết quả nghiên cứu thực nghiệm Ouyang và Wan (2013) đã tìm thấy bằng chứng về sự ảnh hưởng của việc kéo dài nhiệm kỳ kiểm toán đối với những khách hàng có qui mô nhỏ đến tính độc lập từ đó ảnh hưởng đến chất lượng của cuộc kiểm toán. Các tác giả cũng cho rằng, nhiệm kỳ kiểm toán trong thời gian 10 năm không còn phù hợp đến thời điểm hiện nay. Theo quan điểm thứ hai, độ dài của nhiệm kỳ kiểm toán ảnh hưởng đến tính độc lập của KTV. Mautz và Sharaf (1961) đã lưu ý rằng sự liên kết lâu dài với cùng một khách hàng có thể dẫn đến hậu quả là sự trung thực của KTV không được đề cao, vì vậy, nếu giữ lại các KTV trong hơn năm năm sẽ ảnh hưởng và làm giảm tính độc lập kiểm toán (Teoh và Lim, 1996). Do đó, một KTV bắt buộc tuân thủ chế độ luân chuyển sẽ cải thiện chất lượng kiểm toán bằng cách giảm khả năng các khách hàng có điều kiện gây ra ảnh hưởng xấu đến các đánh giá của KTV (Brody và Moscove,
  4. 196 HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 1998) và giảm thiểu các mối đe dọa đến thái độ độc lập của họ. Trong một môi trường thử nghiệm, Dopuch và cộng sự (2001) nhận thấy, các KTV ít có khả năng áp đặt một kết quả kiểm toán có lợi cho khách hàng nếu nhiệm kì kiểm toán ngắn, tạo cơ sở để khách hàng cải thiện chất lượng BCTC. Theo chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kiểm toán của nhiều quốc gia, độc lập là khía cạnh quan trọng nhất nhằm đảm bảo tính khách quan khi ban hành ý kiến kiểm toán. Đứng trên quan điểm của người sử dụng kết quả kiểm toán, chất lượng kiểm toán sẽ được đảm bảo khi KTV giữ được thái độ độc lập trong quá trình kiểm toán, do đó, các qui định luân chuyển kiểm toán được hình thành. Tuy nhiên, theo Petty và Cuganesan (1996), việc bắt buộc luân chuyển kiểm toán sẽ dẫn đến gia tăng chi phí kiểm toán cũng như làm giảm sự thu hút của công ty kiểm toán đối với nhân lực kiểm toán chất lượng cao do thu nhập của họ có nguy cơ sụt giảm từ chi phí kiểm toán lớn và khi đó, khách hàng có thể buộc phải chấp nhận chất lượng dịch vụ thấp hơn từ chủ thể kiểm toán. Nghiên cứu tại Việt Nam Thông qua kết quả phân tích hồi qui (được thực hiện trên 660 quan sát), Nguyễn Anh Hiền (2017) đã không tìm thấy bằng chứng về mối liên hệ giữa thời hạn luân chuyển KTV và chất lượng kiểm toán. Ngoài ra, kết quả thống kê mô tả cho thấy, nếu cùng một KTV thực hiện kiểm toán BCTC thì chất lượng kiểm toán sẽ tăng dần theo từng năm và đạt cao nhất ở năm thứ 5; từ năm thứ 6 chất lượng kiểm toán bắt đầu giảm và giảm mạnh ở năm thứ 7 (Nguyễn Anh Hiền, 2017). Khoảng trống nghiên cứu Như vậy, trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của nhiệm kì kiểm toán đến tính độc lập của KTV khi thực hiện kiểm toán BCTC, tuy nhiên, theo hiểu biết của nhóm Tác giả, chưa có nghiên cứu nào tại Việt Nam đề cập đến vấn đề này. Vì vậy, trong khuôn khổ của bài viết, chúng tôi tập trung làm rõ ảnh hưởng của nhiệm kỳ kiểm toán đến tính độc lập của KTV khi thực hiện kiểm toán BCTC của các đơn vị có lợi ích công chúng tại Việt Nam. 3. CƠ SỞ LÝ LUẬN Khung lý thuyết Jensen & Meckling (1976) cho rằng xung đột sẽ phát sinh khi có thông tin không đầy đủ và bất cân xứng giữa chủ sở hữu và người quản lý (những người được các chủ sở hữu ủy quyền để sử dụng các loại tài sản của họ). Hơn nữa nhà quản lý không phải lúc nào cũng hành động vì lợi ích lớn nhất của chủ sở hữu. Thực tế cho thấy, cả hai bên hướng đến những lợi ích khác nhau và vấn đề này sẽ được giảm thiểu bằng cách sử dụng các cơ chế thích hợp để có thể hạn chế sự phân hóa lợi ích giữa cổ đông và người quản lý công ty, vì vậy, KTV được coi là tác nhân để bảo vệ quyền lợi của cả hai bên tham gia vào mối quan hệ này. Xuất phát từ phân tích trên, Nhóm Tác giả sử dụng Lý thuyết đại diện để làm khung lý thuyết cho nghiên cứu về ảnh hưởng của nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng đến tính độc lập của KTV khi thực hiện cung cấp dịch vụ đảm bảo. Nhiệm kỳ kiểm toán Khái niệm về nhiệm kỳ kiểm toán đối với hoạt động kiểm toán BCTC là điều cần thiết cho mục đích kiểm soát chất lượng. Nguyên tắc công bố thông tin hướng vào việc đảm bảo cung cấp thông tin phù hợp, đáng tin cậy và đầy đủ cho phép các chủ thể sử dụng thông tin tài chính đưa ra
  5. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 197 quyết định hợp lý.   Nhiệm kỳ của KTV được định nghĩa là độ dài của mối quan hệ giữa KTV - khách hàng. Một mối quan hệ kéo dài giữa KTV và khách hàng của họ có thể tạo thành sự đe dọa đến tính độc lập vì quan hệ cá nhân và sự quen thuộc có thể phát triển giữa các bên, điều này có thể làm giảm tính thận trọng nghề nghiệp của KTV trong quá trình kiểm toán. Ngoài mối đe dọa độc lập này, việc tham gia kiểm toán có thể trở thành thói quen theo thời gian và nếu vậy, KTV sẽ dành ít nỗ lực hơn để xác định các điểm yếu của kiểm soát nội bộ và các nguồn hình thành rủi ro kiểm toán. Theo đánh giá của các thành viên Ủy ban kiểm toán Hoa Kỳ, năng lực phát hiện những yếu tố bất thường của KTV tăng lên trong những năm kiểm toán đầu tiên, và sau đó giảm dần, đạt đến mức yếu nhất sau 20 năm cung cấp dịch vụ đảm bảo. Do đó, có thể thấy rằng, một mối liên hệ tiêu cực có thể xảy ra giữa nhiệm kỳ kiểm toán và chất lượng kiểm toán. Tính độc lập của KTV Trong lịch sử kiểm toán BCTC, đã có nhiều nhà khoa học nhấn mạnh tầm quan trọng về tính độc lập của KTV nhằm xây dựng một nền tảng vững chắc để cho hoạt động này phát triển không ngừng và đáp ứng niềm tin của các đối tượng sử dụng thông tin. Hơn nữa, việc đảm bảo tính độc lập khi tiến hành kiểm toán có ý nghĩa quan trọng vì nó có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng kiểm toán (Deangelo, 1981). Chất lượng báo cáo kiểm toán được lập bởi KTV là một thành phần cơ bản để bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, chủ sở hữu vốn, khách hàng, nhà cung cấp... Tuy nhiên, điều này không thể đạt được nếu KTV không độc lập, đồng thời, KTV có khả năng phát hành báo cáo kiểm toán với ý kiến có lợi cho khách hàng của mình (Shafie và cộng sự, 2009). Theo kết quả nghiên cứu của Okolie (2014), tính độc lập của KTV bị suy giảm dẫn đến chất lượng kiểm toán bị giảm sút và có thể mang lại thu nhập cao hơn cho nhà quản lý doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm của Tepalagul & Lin (2015) cho thấy, tầm quan trọng của khách hàng; nhiệm kỳ kiểm toán; dịch vụ phi kiểm toán và sự liên kết của khách hàng với các công ty kiểm toán được coi là bốn mối nguy hiểm hàng đầu đối với tính độc lập của KTV.   Độc lập được coi là phức tạp và gây tranh cãi nhất, nhưng đây là khía cạnh nền tảng của nghề kiểm toán vì nó củng cố cam kết nghề nghiệp đối với người sử dụng thông tin. Lý do cho sự phức tạp và tính chất gây tranh cãi của nó là kết quả của nhiều quy tắc và quy định được thiết lập theo thời gian bởi các cơ quan chuyên môn (Eilifsen và cộng sự, 2006, tr.577). Xem xét các lợi ích của việc bảo vệ sự độc lập của KTV, Ủy ban Châu Âu đã ban hành các tiêu chuẩn được áp dụng trên toàn Liên minh Châu Âu. Hoa Kỳ ban hành Đạo luật Sarbanes Oxley (SOX) năm 2002, trong đó mô tả các yêu cầu độc lập của KTV Hoa Kỳ (Hayes và cộng sự, 2004, tr.83). Độc lập về tư tưởng và độc lập về hình thức là cần thiết để KTV hành nghề đưa ra kết luận hoặc được coi là đưa ra kết luận một cách không thiên vị, không mâu thuẫn về lợi ích hoặc không bị ảnh hưởng một cách bất hợp lý từ người khác (Bộ Tài chính, 2015). Độc lập về mặt tư tưởng giúp KTV đưa ra ý kiến khách quan về đơn vị được kiểm toán; độc lập về mặt hình thức khiến những người sử dụng kết quả kiểm toán tin rằng, KTV duy trì được thái độ khách quan trong quá trình kiểm toán. Do đó, KTV phải chịu trách nhiệm thực hiện đánh giá chính mình trên cả hai phương diện để xác minh xem rủi ro về việc duy trì tính độc lập có thể được chấp nhận hay không. Các mối đe dọa đối với tính độc lập thường rất đáng kể và do đó làm giảm hiệu quả của KTV trong việc cung cấp dịch vụ kiểm toán. Vì vậy, KTV cần thiết xem xét đảm bảo các yêu cầu về tính độc lập, các nguy cơ có thể
  6. 198 HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA làm phương hại đến việc duy trì tính độc lập và xác định các biện pháp bảo vệ phù hợp. Trong quá trình thực hiện kiểm toán, tính độc lập của KTV có thể bị đe dọa bởi các nguy cơ sau đây: Thứ nhất, nguy cơ do tư lợi. Nguy cơ này xảy ra khi KTV có lợi ích vật chất hoặc phi vật chất với khách hàng. Chúng bao gồm những lợi ích của gia đình KTV với khách hàng, sự phụ thuộc vào phí thu được một khách hàng, nỗi lo mất khách hàng, cho vay hoặc nhận khoản vay từ khách hàng, và các khoản phí khác (Makademh, 2006). KTV cần cân đối lợi ích và các mối đe dọa khi cung cấp dịch vụ phi kiểm toán cho khách hàng (Schmidt, 2012). Thứ hai, nguy cơ tự kiểm tra. Nguy cơ khi một KTV chuyên nghiệp không đánh giá được một cách hợp lý kết quả xét đoán chuyên môn hay kết quả dịch vụ do chính họ hoặc do một cá nhân khác trong doanh nghiệp kiểm toán nơi họ làm việc thực hiện trước đó, mà KTV chuyên nghiệp sẽ dựa vào đó để hình thành xét đoán khi thực hiện các hoạt động hiện tại hoặc cung cấp dịch vụ hiện tại của mình; Thứ ba, nguy cơ về sự bào chữa: Nguy cơ khi một KTV chuyên nghiệp tìm cách bênh vực khách hàng hoặc doanh nghiệp, tổ chức nơi mình làm việc tới mức làm ảnh hưởng tới tính khách quan của bản thân; Thứ tư, nguy cơ từ sự quen thuộc: Nguy cơ gây ra do quan hệ lâu dài hoặc thân thiết với khách hàng hoặc doanh nghiệp, tổ chức nơi mình làm việc, khiến KTV chuyên nghiệp dễ thông cảm cho quyền lợi hoặc dễ dàng chấp nhận cho việc làm của họ; Thứ năm, nguy cơ bị đe dọa: Nguy cơ KTV chuyên nghiệp bị ngăn cản hành xử một cách khách quan do các đe dọa có thực hoặc do cảm nhận thấy, bao gồm sức ép gây ảnh hưởng không hợp lý đến KTV chuyên nghiệp. Để hạn chế các nguy cơ có thể xảy ra hoặc sẵn sàng phương án để đối phó với chúng thì công ty kiểm toán và KTV cần xác định các biện pháp bảo vệ. Các biện pháp này bao gồm các biện pháp được xây dựng trong môi trường làm việc của KTV và những qui định của nhà nước, doanh nghiệp. Trước hết, KTV hành nghề phải sử dụng xét đoán chuyên môn để xác định phương pháp hợp lý nhất nhằm xử lý với các nguy cơ cao hơn mức có thể chấp nhận được, bằng cách áp dụng biện pháp bảo vệ để loại trừ hay làm giảm các nguy cơ đó xuống mức có thể chấp nhận được bằng việc từ chối thực hiện hoặc rút khỏi hợp đồng cung cấp dịch vụ. Khi thực hiện các xét đoán của mình, kế toán viên, KTV hành nghề phải xem xét liệu một bên thứ ba phù hợp và có đầy đủ thông tin, sau khi xem xét các sự kiện và tình huống có sẵn cho kế toán viên, KTV hành nghề tại thời điểm đó, có thể kết luận một cách tương đối chắc chắn rằng, sau khi áp dụng các biện pháp bảo vệ, các nguy cơ đó sẽ bị loại trừ hoặc làm giảm xuống mức có thể chấp nhận được và các nguyên tắc đạo đức cơ bản không bị vi phạm hay không. Khi xem xét vấn đề này, cần phải xem xét đến các yếu tố như mức độ nghiêm trọng của nguy cơ, tính chất của hợp đồng cung cấp dịch vụ và cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp kiểm toán. Các biện pháp bảo vệ được xây dựng trong môi trường làm việc sẽ khác nhau tùy thuộc vào từng trường hợp, bao gồm các biện pháp bảo vệ ở cấp độ doanh nghiệp kế toán, kiểm toán và cho từng hợp đồng cụ thể; Sau cùng, các biện pháp bảo vệ do tổ chức nghề nghiệp quy định, do pháp luật và các quy định có liên quan điều chỉnh, gồm: Các yêu cầu về học vấn, đào tạo và kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán; Các yêu cầu về cập
  7. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 199 nhật kiến thức chuyên môn; Các quy định về quản trị doanh nghiệp; Các chuẩn mực nghề nghiệp; Sự giám sát của tổ chức nghề nghiệp hoặc cơ quan quản lý và các hình thức kỷ luật; và Soát xét độc lập do bên thứ ba được trao quyền hợp pháp thực hiện đối với các báo cáo, tờ khai, thông báo hay thông tin do kế toán viên, KTV chuyên nghiệp cung cấp. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phương pháp nghiên cứu và xây dựng giả thuyết nghiên cứu Trong nghiên cứu của mình, Nhóm Tác giả sử dụng kết hợp phương pháp thống kê mô tả và kiểm định t. Thứ nhất, phương pháp thống kê mô tả được sử dụng để thống kê các quan sát, xác định tỷ lệ phần trăm và tính giá trị trung bình của các chỉ tiêu; Thứ hai, phương pháp kiểm định giả thuyết về giá trị trung bình của 2 tổng thể (Paired Samples T-test) được thực hiện nhằm so sánh các tình huống tương tự trong cả hai nhiệm kỳ kiểm toán ngắn và dài để xem xét mối liên hệ giữa nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng với tính độc lập của KTV khi kiểm toán BCTC cho các đơn vị có lợi ích công chúng. Mặc dù mẫu nghiên cứu có thể không thỏa mãn điều kiện phân phối chuẩn, nhưng do cỡ mẫu của mỗi nhóm đều lớn hơn 30 nên thỏa mãn điều kiện để thực hiện kiểm định t (Weiss, 2012, trang 375; Anderson, Sweney và William, 2011, trang 362; Berenson và cộng sự, 2012, trang 366). Như đã trình bày ở trên, có 5 nguy cơ có thể phá cỡ tính độc lập của KTV trong quá trình kiểm toán BCTC: nguy cơ do tư lợi; nguy cơ tự kiểm tra; nguy cơ về sự bào chữa; nguy cơ từ sự quen thuộc và nguy cơ bị đe dọa. Xuất phát từ nội dung này, 5 cặp giả thuyết được hình thành như sau (Bảng 1). Bảng 1: Các cặp giả thuyết STT Giả thuyết Ho Giả thuyết H1 1 Nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng không ảnh Nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng có ảnh hưởng hưởng đến nguy cơ do tư lợi đến nguy cơ do tư lợi 2 Nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng không ảnh Nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng có ảnh hưởng hưởng đến nguy cơ tự kiểm tra đến nguy cơ tự kiểm tra 3 Nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng không ảnh Nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng có ảnh hưởng hưởng đến nguy cơ về sự bào chữa đến nguy cơ về sự bào chữa 4 Nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng không ảnh Nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng có ảnh hưởng hưởng đến nguy cơ từ sự quen thuộc đến nguy cơ từ sự quen thuộc 5 Nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng không ảnh Nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng có ảnh hưởng hưởng đến nguy cơ bị đe dọa đến nguy cơ bị đe dọa Nguồn: Tác giả tự xây dựng Thu thập dữ liệu Để thu thập được dữ liệu từ các đối tượng khảo sát, nhóm Tác giả tiến hành khảo sát qua Phiếu điều tra. Trước tiên, nhóm Tác giả tiến hành phỏng vấn sâu các cá nhân có hiểu biết chuyên sâu và nhiều kinh nghiệm về lĩnh vực kiểm toán các đơn vị có lợi ích công chúng. Mục đích của
  8. 200 HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA việc phỏng vấn chuyên gia là nhằm xin ý kiến về độ phù hợp của Bảng hỏi được sử dụng trong quá trình điều tra. Sau khi có những điều chỉnh cần thiết, Phiếu điều tra được gửi đến các KTV. Cuộc khảo sát được xây dựng nhằm nghiên cứu về nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng có tác động đến các nguy cơ ảnh hưởng đến tính độc lập của KTV khi kiểm toán BCTC cho các đơn vị có lợi ích công chúng. Bảng hỏi được kế thừa có điều chỉnh từ nghiên cứu của Chia-Ah và Karlsson (2010) theo các nội dung sau đây: Phần 1: giới thiệu về mục đích, ý nghĩa của nghiên cứu, cách thức trả lời và lời cảm ơn của Tác giả với những người tham gia trả lời Phiếu; Phần 2: trình bày các tình huống được đưa vào nghiên cứu, Tác giả liệt kê 11 nội dung (đã được đề cập trong nghiên cứu của Chia-Ah và Karlsson (2010)): TL1 (TL1.3- Thời gian kiểm toán liên tục cho khách hàng dưới 3 năm; TL1.5- Thời gian kiểm toán liên tục cho khách hàng từ 5 năm trở lên), TL2 TL1 (TL2.3- Thời gian kiểm toán liên tục cho khách hàng dưới 3 năm; TL2.5- Thời gian kiểm toán liên tục cho khách hàng từ 5 năm trở lên) được sử dụng để đo lường nguy cơ do tư lợi; tương tự như vậy, KT3 (KT3.3; KT3.5), KT4 (KT4.3; KT4.5) được sử dụng để đo lường nguy cơ tự kiểm tra; BC5 (BC5.3; BC5.5), BC6 (BC6.3; BC6.5) được sử dụng để đo lường nguy cơ về sự bào chữa; ĐD7 (ĐD7.3; ĐD7.5), ĐD 8 (ĐD8.3; ĐD8.5), ĐD 9 (ĐD 9.3; ĐD 9.5) được sử dụng để đo lường nguy cơ bị đe dọa và QT10 (QT10.3; QT10.5), QT11 (QT11.3; QT11.5) được sử dụng để đo lường nguy cơ từ sự quen thuộc. Người tham gia khảo sát được yêu cầu lựa chọn mức ảnh hưởng của vấn đề được nêu ra đến các nguy cơ đe dọa tính độc lập của KTV theo thang đo Likert - 5 điểm (từ Ảnh hưởng nghiêm trọng đến Hoàn toàn không ảnh hưởng); Phần 3: gồm các câu hỏi về thông tin của người tham gia trả lời phiếu: họ và tên, tuổi, chức vụ công tác, nơi làm việc (Tác giả chia công ty kiểm toán thành Big 4 và Non Big 4), giới tính (gồm Nam và Nữ), số năm kinh nghiệm làm kiểm toán (dựa vào kết quả phỏng vấn sâu, Tác giả chia kinh nghiệm của KTV thành 2 mức kinh nghiệm là ≤ 5 năm và > 5 năm). Kích thước mẫu cho cuộc khảo sát này được xác định bằng công thức của Slovin (Trần Thị Kim Thu, 2012, trang 34), với kích thước tổng thể là 793 KTV đủ điều kiện kiểm toán cho các đơn vị có lợi ích công chúng (số lượng KTV tính đến 15/10/2019), Bộ Tài chính (2019) và phạm vi sai số là 10% (kết quả thu được có thể giải thích được 90% hiện tượng nghiên cứu), cỡ mẫu được xác định là 89. Kết quả khảo sát Căn cứ vào danh sách các KTV đủ điều kiện kiểm toán các đơn vị có lợi ích công chúng tính đến 10/2019 (Bộ Tài chính, 2019), Tác giả tiến hành gửi 300 phiếu đến các KTV theo hình thức chọn mẫu thuận tiện thông qua mối quan hệ của nhóm Tác giả và đồng nghiệp. Bảng hỏi được phát đi bằng công cụ Google Drive và thu về trong thời gian một tháng. Sau khi loại bỏ những phiếu không có giá trị nghiên cứu, Tác giả tiến hành đánh số thứ tự các phiếu thu thập được để tránh nhầm lẫn trong quá trình xử lý dữ liệu và thống kê các câu trả lời của KTV nhằm phục vụ cho mục đích phân tích. Có 135 KTV tham gia trả lời Phiếu, số phiếu hợp lệ phục vụ cho mục đích nghiên cứu là 121 phiếu, với số phiếu thu được này, kết quả phân tích có thể giải thích được trên 90% hiện tượng nghiên cứu, trong đó 36 KTV nam (29,75%) và 85 KTV nữ (70,25%); 81 KTV (66,94%) có
  9. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 201 từ 5 năm kinh nghiệm kiểm toán trở xuống đối với các đơn vị có lợi ích công chúng và 40 KTV (33,06%) có trên 5 năm kinh nghiệm kiểm toán đối với các đơn vị có lợi ích công chúng; 35 KTV (28,93%) đang làm việc tại các công ty kiểm toán Big 4 và 86 KTV (71,07%) làm ở những công ty kiểm toán khác. 5. THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Đánh giá độ tin cậy của thang đo Theo kết quả kiểm định độ tin cậy của thang đo, chỉ số Cronbach’s Alpha có giá trị là 0,912. Điều này khẳng định rằng, tất cả các dữ liệu đã thu thập được đều đáng tin cậy. Kết quả kiểm định ảnh hưởng của nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng đến các nguy cơ Bảng 2: Thống kê mô tả và Kết quả kiểm định giả thuyết về giá trị trung bình của 2 tổng thể Giá trị Ý nghĩa trung Giá trị t Các nguy cơ Tên biến thống kê bình (t value) (Sig.) (Mean) TL1.3 3,02 Cặp thứ nhất 7,525 0,000 TL1.5 2,40 Nguy cơ do tư lợi TL2.3 2,92 Cặp thứ hai 5,902 0,000 TL2.5 2,63 KT3.3 2,67 Cặp thứ ba 5,236 0,000 KT3.5 2,42 Nguy cơ tự kiểm tra KT4.3 3,00 Cặp thứ tư 5,236 0,000 KT4.5 2,75 BC5.3 2,20 Cặp thứ năm 5,236 0,000 Nguy cơ về sự bào BC5.5 1,95 chữa BC6.3 2,32 Cặp thứ sáu 3,105 0,002 BC6.5 2,20 ĐD7.3 2,33 Cặp thứ bảy 4,276 0,000 ĐD7.5 2,20 ĐD8.3 2,16 Nguy cơ về sự đe dọa Cặp thứ tám 3,288 0,001 ĐD8.5 2,07 ĐD9.3 2,54 Cặp thứ chín 6,290 0,000 ĐD9.5 2,29 QT10.3 2,00 Cặp thứ mười 4,121 0,000 Nguy cơ về sự quen QT10.5 1,88 thuộc Cặp thứ mười QT11.3 1,92 3,288 0,001 một QT11.5 1,83
  10. 202 HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA Nguồn: Kết quả thống kê mô tả và kiểm định t (thông qua phần mềm SPSS 20 Kết quả kiểm định cho thấy, tất cả các cặp tình huống được kiểm định đều có ý nghĩa thống kê (t>1,96 và sig.
  11. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 203 trung bình của tổng thể tăng từ 1,557 đến 1,568 với tình huống đánh giá nguy cơ từ sự quen thuộc. Mặc dù mức tăng của các giá trị trung bình không đáng kể nhưng đây là dấu hiệu thể hiện sự khác biệt so với kết quả nghiên cứu của chúng tôi. 6. KẾT LUẬN Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối quan hệ giữa nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng đến tính độc lập của KTV thông qua kết quả kiểm định các cặp giả thuyết liên quan đến 5 mối nguy cơ không tuân thủ tính độc lập (nguy cơ do tư lợi, nguy cơ tự kiểm tra, nguy cơ về sự bào chữa, nguy cơ từ sự quen thuộc, nguy cơ bị đe dọa) khi kiểm toán BCTC của các đơn vị có lợi ích công chúng. Ngoài ra, kết quả kiểm định t một mẫu được áp dụng cho nhiệm kỳ kiểm toán dưới 3 năm và nhiệm kỳ kiểm toán từ 5 năm trở lên xác nhận rằng bất kỳ độ dài của nhiệm kỳ nào cũng có thể là nguồn gốc tạo ra mối đe dọa đến sự độc lập của KTV. Trên thực tế, đối với công ty kiểm toán, nhiệm kỳ kiểm toán kéo dài có thể giúp cho cuộc kiểm toán được tổ chức hiệu quả hơn, tuy nhiên, theo qui định trong Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán và kiểm toán, Kiểm toán viên hành nghề không được tham gia thực hiện kiểm toán cho một đơn vị có lợi ích công chúng trong 5 năm tài chính liên tục (Bộ Tài chính, 2015). Kết hợp với kết quả nghiên cứu trên, nhóm Tác giả cho rằng tính độc lập là một khái niệm tương đối, nó phụ thuộc nhiều vào bản thân KTV khi hành nghề. Trước khi nhận nhiệm vụ kiểm toán từ cấp trên, các KTV cần phải tự phân tích sự độc lập của họ về mặt hình thức, tư tưởng và xác nhận rằng họ có đủ xứng đáng để thực hiện cuộc kiểm toán với tính chính trực và khách quan cao nhất hay không. Nếu kết quả của các phân tích khẳng định tính độc lập có thể bị suy giảm thì họ cần xem xét các biện pháp bảo vệ phù hợp hoặc xem xét lại quyết định có nên tham gia vào cuộc kiểm toán. Kết quả kiểm định cho thấy, tính độc lập bị suy giảm khi nhiệm kỳ kiểm toán kéo dài, tuy nhiên, sự suy giảm này là không đáng kể. Kết hợp kết quả nghiên cứu của chúng tôi với phát hiện của Nguyễn Anh Hiền (2017): nếu cùng một KTV thực hiện kiểm toán BCTC thì chất lượng kiểm toán sẽ tăng dần theo từng năm và đạt cao nhất ở năm thứ 5, nhóm nghiên cứu khuyến nghị cơ quan quản lý Nhà nước nên cân nhắc về nhiệm kỳ kiểm toán trong thời hạn 5 năm thay bằng thời hạn đang áp dụng hiện nay, đồng thời có hình phạt xử lý mạnh và kịp thời đối với trường hợp vi phạm về tính độc lập. Mặc dù nghiên cứu đã có được kết quả cụ thể, tuy nhiên do giới hạn về thời gian và nguồn lực nên Tác giả chưa thực hiện nghiên cứu với toàn bộ các công ty kiểm toán độc lập tại Việt Nam. Ngoài ra, kết quả khảo sát chỉ đại diện được trên 90% hiện tượng nghiên cứu; các phần tử được chọn vào mẫu kiểm toán bằng phương pháp thuận tiện dựa trên mối quan hệ của nhóm Tác giả và các đồng nghiệp. Do đó, trong tương lai, nhóm Tác giả sẽ tiếp tục phát triển nghiên cứu này và khắc phục các nhược điểm trên để kết quả nghiên cứu có ý nghĩa tốt hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Anderson, D., Sweney, D. & William, T. (2011), Essentials of Statistics for Business and Economics, 6th edition, South-Western, USA. 2. Berenson, M., Levine, D. & Krehbiel, T. (2012), Basis Business Statistics: Concepts ans
  12. 204 HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA Applications, 12th edition, Prentice Hall, USA. 3. Bộ Tài chính (2015), Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán, Ban hành kèm theo Thông tư số 70/2015/TT-BTC ngày 08 tháng 05 năm 2012 của Bộ Tài chính. 4. Bộ Tài chính (2019), Danh sách kiểm toán viên được chấp thuận thực hiện kiểm toán cho đơn vị có lợi ích công chúng năm 2019 (cập nhật đến ngày 15/10/2019), truy cập tại https://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/btc/r/lvtc/ktkt/ckdsktvhnvdnkt/ckdsktvhnvdnkt_ chitiet?dDocName=MOFUCM165018&_afrLoop=50082942076494697#!%40%40%3F_ afrLoop%3D50082942076494697%26dDocName%3DMOFUCM165018%26_adf.ctrl- state%3Deb41oeed3_50 ngày 30/10/2019. 5. Brody, R. G. & Moscove, S. A. (1998), Mandatory auditor rotation, National Public Accountant (May), 32-36. 6. Chia-Ah, E. và Karlsson, J. (2010), The impact of extended audit tenure on auditor independence, Master thesis. 7. Craswell, A. T. (1999), ‘Does the provision of non-audit services impair auditor independence’, International Journal of Auditing, vol. 3, pp. 29-40. 8. Deangelo, L. E. (1981), Auditor independence, ‘low balling’, and disclosure regulation, Journal of accounting and economics, 3, 113-127. 9. Dopuch, N., King, R. R. & Schwartz, R. (2001), An experimental investigation of retention and rotation requirements, Journal of Accounting Research, 39(1), 93-117. 10. Eilifsen, A., Messier Jr., W. F., Glover, S. M., & Prawitt, D. F. (2006), Auditing and Assurance Services, International Edition. Glasgow: McGraw Hill Education. 11. Hayes R., Dassen R., Schilder A., Wallage P. (2004), Principle of auditing: An Introduction to International Standards on Auditing, Second Edition, Prentice Hall. 12. Jensen, M. C., & Meckling, W. H. (1976), Theory of the firm: Management behaviour, agency costs and ownership structure, Journal of Financial Economics, 3(October), 305-360. 13. Geiger, M. A., & Raghunandan, K. (2002), Auditor tenure and audit reporting failures. Auditing: A Journal of Practice and Theory, 21(1): 67-78. 14. Makadmh, A. (2006), Factors influencing the auditor’s response to the desire of the customer accounting services, Journal of Accounting and Management and Insurance. 15. Miller, T. (1992), ‘Do we need to consider the individual auditor when discussing auditor independence?’, Accounting, Auditing & Accountability Journal, Vol. 5, No. 2, p.74 16. Nguyễn Anh Hiền (2017), Mối quan hệ giữa luân chuyển kiểm toán viên và chất lượng kiểm toán, truy cập tại http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinh-doanh/tai-chinh-doanh-nghiep/ moi-quan-he-giua-luan-chuyen-kiem-toan-vien-va-chat-luong-kiem-toan-132530.html ngày 02/12/2018 17. Nguyễn Quang Quynh và Ngô Trí Tuệ (2014), Giáo trình kiểm toán tài chính, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân.
  13. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 205 18. Nguyễn Quang Quynh và Nguyễn Thị Phương Hoa (2016), Giáo trình Lý thuyết kiểm toán, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân. 19. Okolie, A. O. (2014), Accrual - Based earnings Management, Corporate Policies and Managerial Decisions of Quoted Companies in Nigeria,  Research Journal of Finance and Accounting, 5 (2), 1-14. 20. Ouyang, B., Wan, H. (2013), “Does Audit Tenure Impair Auditor Independence? Evidence from Option Backdating Scandals”, International Journal of Business and Social Science, Vol 4 (14), pages 23-33. 21. Petty, R. & Cuganesan, S. (1996), Auditor rotation: Framing the debate, Australian Accountant, 66(4), 40-41. 22. Quick, R. and Ben-Rasmussen, W. (2005), ‘The impact of MAS on perceived auditor independence - some evidence from Denmark’, Accounting Forum, vol. 29, pp. 137-168. 23. Schmidt, J. J. (2012), Perceived Auditor Independence and Audit Litigation: The Role of Nonaudit Services Fees, The Accounting Review: May 2012, Vol. 87, No. 3, pp. 1033-1065. 24. Shafie, R., Hussin, W. N. W., Yusof, M. A., Hussain, M. H. M (2009), Audit Firm Tenure and Auditor Reporting Quality: Evidence in Malaysia, Vol.2, No. 2, 99-109. 25. Swanger, S.L.; Chewning, E. G. (2001), The effect of internal audit outsourcing on financial analysts’ perceptions of external auditor independence, Auditing: a Journal of Practice & Theory, Vol. 20(2): 115-129. 26. Teoh, H. Y. & Lim C. C. (1996), An empirical study of the effects of audit committees, disclosure of non-audit fees, and other issues on audit independence: Malaysian evidence, Journal of International Accounting, Auditing & Taxation, 5(2), 231-248. 27. Tepalagul, N., & Lin, L. (2015), Auditor independence and audit quality: a literature review, Journal of accounting, auditing & finance, 30(i), 101-121. 28. Trần Thị Kim Thu (2012), Điều tra xã hội học, NXB Đại học kinh tế quốc dân 29. Trần Thị Giang Tân và cộng sự (2014), Giáo trình kiểm toán, NXB Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. 30. Vanstraelen, A. (2000), Impact of renewable long - term audit mandates on audit quality, The European Accounting Review, 9 (3) 31. Weiss, N. (2012), Elementary Statistics, 8th edition, Pearson Education, USA.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
10=>1