intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghiên cứu ảnh hưởng của viên bogamin lên hoạt độ ast, alt và tình trạng oxy hóa trên thực nghiệm

Chia sẻ: Ni Ni | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

41
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của bài viết nhằm đánh giá ảnh hưởng của bogamin dùng liều cao, dài ngày đến hoạt độ AST, ALT và tình trạng oxy hóa trên chuột cống bình thường. Mời các bạn cùng tham khảo tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghiên cứu ảnh hưởng của viên bogamin lên hoạt độ ast, alt và tình trạng oxy hóa trên thực nghiệm

TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2013<br /> <br /> NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA VIÊN BOGAMIN LÊN<br /> HOẠT ĐỘ AST, ALT VÀ TÌNH TRẠNG OXY HÓA<br /> TRÊN THỰC NGHIỆM<br /> Nguyễn Thị Vân Anh*; Phạm Xuân Phong**; Nguyễn Văn Long***<br /> TÓM TẮT<br /> Bogamin là sản phẩm được bào chế từ lá cây Đỏ ngọn (Cratoxylon prunifolium,<br /> Kurtz), và Diệp hạ châu đắng (Phyllanthus amarus) do Học viện Quân y bào chế,<br /> đạt tiêu chuẩn cơ sở. Nghiên cứu này đánh giá ảnh hưởng của bogamin uống liều<br /> cao liên tục trong 42 ngày ở hai mức liều 450 và 675 mg/kg thể trọng. Kết quả cho<br /> thấy, ở nhóm uống bogamin liều 675 mg làm tăng có ý nghĩa nồng độ TAS huyết<br /> tương và hàm lượng GSH gan so với nhóm chuột không uống bogamin tương ứng<br /> là 22,2 và 29,7%. Bogamin không ảnh hưởng đến hoạt độ các enzym AST, ALT,<br /> SOD, GPx máu và chỉ số MDA ở gan.<br /> * Từ khóa: Bogamin; AST; ALT; Thực nghiệm.<br /> <br /> THE EFFECT OF BOGAMIN ON CONCENTRATION OF AST,<br /> ALT AND OXIDILIZATION IN EXPERIMENT<br /> SUMMARY<br /> Bogamin is the product preprared from Cratoxylum pruniflorum leaves and Phyllanthus<br /> urinaria, which met the Vietnam Military Medical Uniwersity’s standard. This study<br /> evaluated the effects of chronic oral administration of bogamin at high dosages for 42<br /> continuous days at two different levels: 450 and 675 mg/kg body weight. The results showed<br /> that the test group had significantly higher plasma TAS concentration and hepatic GSH<br /> level compared with control group (22.2% and 29.7% higher, respectively). Bogamin didn’t<br /> influence the enzyme activity of blood AST, ALT, SOD, GPx and hepatic MDA index.<br /> * Key words: Bogamin; AST; ALT; Experiment.<br /> <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Gan đảm nhiệm chức năng sinh lý<br /> quan trọng trong duy trì sức khỏe con<br /> <br /> người. Gan cũng có thể bị nhiễm độc và<br /> tổn thương, dẫn đến giải phóng hàng<br /> loạt các enzym chứa trong tế bào như<br /> AST, ALT, LDH... vào máu. Tùy mức độ<br /> <br /> * Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Giang<br /> ** Viện Y học Cổ truyền Quân đội<br /> *** Học viện Quân y<br /> Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Văn Long<br /> (nguyenvanlong.vmmu@gmail.com)<br /> Ngày nhận bài: 11/10/2013; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 21/10/2013<br /> Ngày bài báo được đăng: 10/11/2013<br /> 46<br /> <br /> TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2013<br /> <br /> và nguyên nhân tổn thương của tế bào<br /> gan, hoạt độ của các enzym trên thay đổi<br /> khác nhau. Trong đó, AST và ALT là 2<br /> enzym thường tăng cao và sớm khi có<br /> tổn thương hủy hoại tế bào gan [5]. Hiện<br /> nay, nhiều nghiên cứu khẳng định gốc tự<br /> do là nguyên nhân liên quan đến nhiều<br /> quá trình bệnh lý, trong đó có các bệnh<br /> lý về gan [10]. Một số nghiên cứu cho<br /> thấy polyphenol có nhiều trong cây Đỏ<br /> ngọn (Cratoxylon prunifolium Kurtz),<br /> flavonoid trong lá Đỏ ngọn có tác dụng<br /> chống oxy hoá mạnh [4, 6, 7]. Diệp hạ<br /> châu là dược liệu được nhân dân sử<br /> dụng lâu đời để điều trị các bệnh gan<br /> mật. Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy<br /> Diệp hạ châu (Phyllanthus amarus) có<br /> tác dụng điều trị viêm gan, có khả năng<br /> chống oxy hoá và bảo vệ tế bào gan trên<br /> thực nghiệm và trên lâm sàng [2, 3].<br /> Bogamin là sản phẩm của sự kết hợp<br /> của cao Đỏ ngọn và cao Diệp hạ châu<br /> đắng. Để nghiên cứu ảnh hưởng của<br /> bogamin đến tế bào gan và tình trạng<br /> oxy hoá, chúng tôi tiến hành đề tài với<br /> mục tiêu: Đánh giá ảnh hưởng của<br /> bogamin dùng liều cao, dài ngày đến<br /> hoạt độ AST, ALT và tình trạng oxy hóa<br /> trên chuột cống bình thường.<br /> ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP<br /> NGHIÊN CỨU<br /> 1. Đối tượng nghiên cứu.<br /> - Chế phẩm bogamin do Học<br /> viện Quân y bào chế từ cao lá cây<br /> Đỏ ngọn (Cratoxylon prunifolium<br /> Kurtz) và Diệp hạ châu đắng<br /> (Phyllanthus amarus), đạt tiêu chuẩn<br /> <br /> cơ sở.<br /> Trung tâm Y Dược học Quân sự, Học<br /> vi- Chuột cống trắng đủ tiêu chuẩn thí<br /> nghiệm, không phân biệt giống đực, cái,<br /> chủng Wistar, trọng lượng từ 180 - 220<br /> g/con, số lượng 30 con. Động vật thí<br /> nghiệm do Ban Chăn nuôi, Học viện Quân<br /> y cung cấp, được nuôi dưỡng trong điều<br /> kiện phòng thí nghiệm của ện Quân y.<br /> 2. Phương pháp nghiên cứu.<br /> - Thiết kế nghiên cứu: dựa vào<br /> quy định của Bộ Y tế về nghiên cứu<br /> thuốc y học cổ truyền [1]: chuột cống<br /> trắng đủ tiêu chuẩn thí nghiệm, phân<br /> chia ngẫu nhiên thành 3 nhóm, mỗi<br /> nhóm 10 con. Nhóm 1 (nhóm chứng<br /> sinh học): chuột được uống nước<br /> cất, liều 5 ml/kg thể trọng chuột/24<br /> giờ liên tục trong thời gian 42 ngày.<br /> Nhóm 2 (nhóm uống cao bogamin<br /> liều 1): chuột uống cao bogamin liều<br /> 450 mg/kg/24 giờ liên tục trong 42<br /> ngày. Nhóm 3 (nhóm uống cao<br /> bogamin liều 2): chuột được uống<br /> cao bogamin liều 675 mg/kg/24 giờ<br /> liên tục trong thời gian 42 ngày.<br /> - Cách tiến hành thí nghiệm và<br /> các chỉ tiêu đánh giá: cho chuột thí<br /> nghiệm uống bằng sonde dạ dày<br /> nước cất hoặc bogamin với thể tích<br /> ở tất cả các nhóm như nhau 5 ml/kg<br /> thể trọng, cho uống hàng ngày vào<br /> một giờ cố định (8 giờ sáng) trong 42<br /> ngày liên tục. Đến ngày thứ 42, tiến<br /> hành giết chuột theo phương<br /> <br /> 47<br /> <br /> TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2013<br /> <br /> pháp gây mê bằng ketamin. Lấy<br /> máu xác định hoạt độ ALT, AST,<br /> SOD, GPx và nồng độ TAS trong<br /> máu. Phẫu tích lấy gan, rửa sạch<br /> bằng nước muối sinh lý, xác định hàm<br /> lượng MDA và GSH trong gan.<br /> <br /> - Địa điểm nghiên cứu và làm các<br /> xét nghiệm: Trung tâm Nghiên cứu Y Dược học quân sự, Học viện Quân y.<br /> - Xử lý số liệu: thống kê bằng<br /> phần mềm Staview 5.01.<br /> <br /> KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN<br /> 1. Thay đổi hoạt độ AST và ALT ở các nhóm chuột thí nghiệm.<br /> Kết quả nghiên cứu xác định thay đổi hoạt độ AST, ALT máu ở chuột<br /> cống trắng thí nghiệm sau khi cho uống bogamin liều cao (450 mg/kg và 675<br /> mg/kg) liên tục trong 42 ngày.<br /> Bảng 1: Hoạt độ AST máu của các nhóm chuột cống trắng.<br /> NHÓM NGHIÊN CỨU<br /> <br /> LIỀU SỬ<br /> DỤNG<br /> <br /> n<br /> <br /> HOẠT ĐỘ AST<br /> (U/l)<br /> <br /> TỶ LỆ (%) THAY<br /> ĐỔI SO VỚI<br /> CHỨNG<br /> <br /> Nhóm chứng sinh học<br /> <br /> (1)<br /> <br /> -<br /> <br /> 10<br /> <br /> 50,50 ± 10,66<br /> <br /> -<br /> <br /> Nhóm bogamin liều 1<br /> <br /> (2)<br /> <br /> 450 mg/kg<br /> <br /> 10<br /> <br /> 54,60 ± 15,61<br /> <br /> ↑ 8,12%<br /> <br /> Nhóm bogamin liều 2<br /> <br /> (3)<br /> <br /> 675 mg/kg<br /> <br /> 10<br /> <br /> 59,60 ± 14,93<br /> <br /> ↑ 18,02%<br /> <br /> p<br /> <br /> p1-2,3,2-3 > 0,05<br /> <br /> Hoạt độ enzym AST trong máu của chuột thí nghiệm ở nhóm chứng sinh<br /> học và hai nhóm nghiên cứu thay đổi không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).<br /> Bảng 2: Hoạt độ ALT máu của các nhóm chuột cống trắng.<br /> TỶ LỆ (%) THAY<br /> ĐỔI SO VỚI<br /> CHỨNG<br /> <br /> LIỀU SỬ DỤNG<br /> <br /> n<br /> <br /> HOẠT ĐỘ ALT<br /> (U/l)<br /> <br /> Nhóm chứng sinh học (1)<br /> <br /> -<br /> <br /> 10<br /> <br /> 42,50 ± 11,45<br /> <br /> -<br /> <br /> Nhóm bogamin liều 1 (2)<br /> <br /> 450 mg/kg<br /> <br /> 10<br /> <br /> 47,70 ± 13,19<br /> <br /> ↑ 12,24%<br /> <br /> Nhóm bogamin liều 2 (3)<br /> <br /> 675 mg/kg<br /> <br /> 10<br /> <br /> 50,60 ± 15,00<br /> <br /> ↑ 19,06%<br /> <br /> NHÓM NGHIÊN CỨU<br /> <br /> p<br /> <br /> p1-2,3; 2-3 > 0,05<br /> <br /> Hoạt độ enzym ALT trong máu của chuột thí nghiệm ở nhóm chứng và<br /> hai nhóm nghiên cứu uống bogamin thay đổi không có ý nghĩa thống kê (p ><br /> 0,05).<br /> <br /> 48<br /> <br /> TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2013<br /> <br /> 2. Thay đổi một số chỉ số chống oxy hóa và oxy hóa ở các nhóm chuột<br /> thí nghiệm.<br /> * Thay đổi một số chỉ số chống oxy hóa:<br /> Bảng 3: Hoạt độ SOD hồng cầu của các nhóm chuột cống trắng.<br /> NHÓM NGHIÊN CỨU<br /> <br /> LIỀU SỬ DỤNG<br /> <br /> n<br /> <br /> HOẠT ĐỘ SOD<br /> (UI/l)<br /> <br /> TỶ LỆ (%)<br /> THAY ĐỔI SO<br /> VỚI CHỨNG<br /> <br /> Nhóm chứng sinh học<br /> <br /> (1)<br /> <br /> -<br /> <br /> 10<br /> <br /> 1573,00 ± 311,38<br /> <br /> -<br /> <br /> Nhóm bogamin liều 1<br /> <br /> (2)<br /> <br /> 450 mg/kg<br /> <br /> 10<br /> <br /> 1646,00 ± 352,74<br /> <br /> ↑ 4,64%<br /> <br /> Nhóm bogamin liều 2<br /> <br /> (3)<br /> <br /> 675 mg/kg<br /> <br /> 10<br /> <br /> 1689,00 ± 284,08<br /> <br /> ↑ 7,37%<br /> <br /> p<br /> <br /> p1-2,3;2-3 > 0,05<br /> <br /> Chuột sau 42 ngày liên tục uống bogamin ở hai mức liều 450 mg và 675<br /> mg/kg thể trọng có tăng nhẹ (p > 0,05) hoạt độ SOD hồng cầu lần lượt là<br /> 4,64 và 7,37% so với nhóm chứng.<br /> Bảng 4: Hoạt độ GPx huyết tương của các nhóm chuột cống trắng.<br /> NHÓM NGHIÊN CỨU<br /> <br /> LIỀU SỬ DỤNG<br /> <br /> n<br /> <br /> TỶ LỆ (%)<br /> HOẠT ĐỘ GPx<br /> THAY ĐỔI SO<br /> (UI/g Hb)<br /> VỚI CHỨNG<br /> <br /> Nhóm chứng sinh học (1)<br /> <br /> -<br /> <br /> 10<br /> <br /> 665,00 ± 11,56<br /> <br /> -<br /> <br /> Nhóm bogamin liều 1 (2)<br /> <br /> 450 mg/kg<br /> <br /> 10<br /> <br /> 592,00 ± 15,49<br /> <br /> ↓ 10,98%<br /> <br /> Nhóm bogamin liều 2 (3)<br /> <br /> 675 mg/kg<br /> <br /> 10<br /> <br /> 691,00 ± 14,51<br /> <br /> ↑ 3,91%<br /> <br /> p<br /> <br /> p1-2,3 > 0,05; p2-3 > 0,05<br /> <br /> Hoạt độ GPx huyết tương của các nhóm nghiên cứu ở thời điểm sau 42<br /> ngày liên tục uống bogamin ở hai mức liều 450 mg/kg và 675 mg/kg thể<br /> trọng có thay đổi nhẹ (p > 0,05) giảm 10,98 và tăng 3,91 % so với nhóm<br /> chứng sinh học.<br /> Bảng 5: Nồng độ TAS máu của các nhóm chuột cống trắng.<br /> NHÓM NGHIÊN CỨU<br /> <br /> LIỀU SỬ DỤNG<br /> <br /> n<br /> <br /> NỒNG ĐỘ TAS<br /> MÁU (µmol/ml)<br /> <br /> TỶ LỆ (%) THAY<br /> ĐỔI SO VỚI<br /> CHỨNG<br /> <br /> Nhóm chứng sinh học<br /> <br /> (1)<br /> <br /> -<br /> <br /> 10<br /> <br /> 1,50 ± 0,29<br /> <br /> -<br /> <br /> Nhóm bogamin liều 1<br /> <br /> (2)<br /> <br /> 450mg/kg<br /> <br /> 10<br /> <br /> 1,63 ± 0,21<br /> <br /> ↑ 8,33%<br /> <br /> Nhóm bogamin liều 2<br /> <br /> (3)<br /> <br /> 675 mg/kg<br /> <br /> 10<br /> <br /> 1,83 ± 0,22<br /> <br /> ↑ 22,20%<br /> <br /> p<br /> <br /> p2-1,3 > 0,05; p3-1 < 0,05<br /> <br /> 49<br /> <br /> TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2013<br /> <br /> Nồng độ TAS trong máu của nhóm uống bogamin ở liều 450 mg/kg liên<br /> tục trong 42 ngày tăng so với nhóm chứng với tỷ lệ 8,33 %. Nhưng sự thay<br /> đổi này không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Ở nhóm uống liều 675 mg/kg<br /> thể trọng, nồng độ TAS trong máu tăng so với nhóm chứng với tỷ lệ 22,20%,<br /> sự thay đổi này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).<br /> Bảng 6: Hàm lượng GSH gan của các nhóm chuột cống trắng.<br /> NHÓM NGHIÊN CỨU<br /> <br /> LIỀU SỬ<br /> DỤNG<br /> <br /> HÀM LƯỢNG<br /> GSH GAN CHUỘT<br /> (mg/g tổ chức)<br /> <br /> TỶ LỆ (%) THAY<br /> ĐỔI SO VỚI<br /> CHỨNG<br /> <br /> Nhóm chứng sinh học<br /> <br /> (1)<br /> <br /> -<br /> <br /> 1,01 ± 0,17<br /> <br /> -<br /> <br /> Nhóm bogamin liều 1<br /> <br /> (2)<br /> <br /> 450 mg/kg<br /> <br /> 1,10 ± 0,21<br /> <br /> ↑ 8,51%<br /> <br /> Nhóm bogamin liều 2<br /> <br /> (3)<br /> <br /> 675 mg/kg<br /> <br /> 1,31 ± 0,34<br /> <br /> ↑ 29,70%<br /> <br /> p<br /> <br /> p2-1,3 > 0,05; p3-1 < 0,05<br /> <br /> Ở thời điểm sau 42 ngày uống bogamin liên tục với liều 450 mg/kg thể<br /> trọng, hàm lượng GSH gan chuột của nhóm nghiên cứu tăng 8,51% so với<br /> nhóm chứng. Sự thay đổi này không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Hàm<br /> lượng GSH ở nhóm chuột uống liều 675 mg/kg thể trọng liên tục trong 42<br /> ngày tăng hơn so với nhóm chứng sinh học với tỷ lệ 29,70%, thay đổi có ý<br /> nghĩa thống kê (p < 0,05).<br /> Như vậy, sau khi cho chuột uống bogamin ở mức liều cao 675 mg/kg thể<br /> trọng liên tục trong 42 ngày, các chỉ số TAS và GSH tăng so với nhóm<br /> chứng.<br /> * Thay đổi chỉ số oxy hóa:<br /> Bảng 7: Hàm lượng MDA gan của các nhóm chuột cống trắng.<br /> NHÓM NGHIÊN CỨU<br /> <br /> LIỀU SỬ DỤNG<br /> <br /> HÀM LƯỢNG GSH<br /> MDA (nmol/g tổ<br /> chức)<br /> <br /> TỶ LỆ (%) THAY<br /> ĐỔI SO VỚI<br /> CHỨNG<br /> <br /> Nhóm chứng sinh học<br /> <br /> (1)<br /> <br /> -<br /> <br /> 7,55 ± 1,78<br /> <br /> -<br /> <br /> Nhóm bogamin liều 1<br /> <br /> (2)<br /> <br /> 450 mg/kg<br /> <br /> 8,23 ± 1,82<br /> <br /> ↑ 9,01%<br /> <br /> Nhóm bogamin liều 2<br /> <br /> (3)<br /> <br /> 675 mg/kg<br /> <br /> 7,93 ± 2,26<br /> <br /> ↑ 5,03%<br /> <br /> p<br /> <br /> p1-2,3 > 0,05; p2-3 > 0,05<br /> <br /> Ở thời điểm sau 42 ngày cho chuột thí nghiệm uống bogamin liên tục ở<br /> hai mức liều 450 mg/kg và 675 mg/kg thể trọng, nồng độ MDA gan chuột<br /> của các nhóm nghiên cứu thay đổi nhẹ tăng lần lượt 9,01% và 5,03% so với<br /> nhóm chứng sinh học. Tuy nhiên, sự thay đổi này chưa có ý nghĩa thống kê<br /> (p > 0,05).<br /> 50<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2