TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2014<br />
<br />
NGHIÊN CỨU BIẾN ĐỔI CẬN LÂM SÀNG CỦA<br />
BỆNH GIÁC MẠC HÌNH CHÓP<br />
Lê Xuân Cung*; Trương Khánh Mỹ Hằng**; Phạm Ngọc Đông*<br />
TÓM TẮT<br />
Mục tiêu: nhận xét đặc điểm cận lâm sàng của bệnh nhân (BN) bị bệnh giác mạc hình chóp<br />
(GMHC) đến khám tại Khoa Kết giác mạc, Bệnh viện Mắt TW.<br />
Đối tượng nghiên cứu: 65 mắt (43 BN) bị bệnh GMHC đến khám và theo dõi tại Khoa Kết<br />
giác mạc, Bệnh viện Mắt TW từ tháng 1 - 2013 đến 9 - 2013.<br />
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang.<br />
Kết quả: nghiên cứu 65 mắt ở 43 BN. Công suất khúc xạ trung bình ở giai đoạn nhẹ, trung<br />
bình, nặng là 47,6 ± 0,26 D, 50,56 ± 1,99 D và 61,79 ± 4,42 D; độ loạn thị trung bình giai đoạn<br />
nhẹ, trung bình nặng là 4,78 ± 2,11 D, 4,38 ± 2,72 D và 7,47 ± 3,40 D. Đo photokeratography<br />
cho thấy càng giai đoạn nặng, vòng tròn trung tâm càng nhỏ, méo mó và các vòng tròn càng<br />
gần nhau. Tổn thương mô bệnh học khá điển hình với những mô tả trong y văn.<br />
Kết luận: đặc điểm cận lâm sàng trên BN nghiên cứu khá điển hình và có thể dùng để chẩn<br />
đoán bệnh ở giai đoạn sớm khi chưa có biểu hiện lâm sàng. Ở giai đoạn muộn, khi đặc điểm<br />
lâm sàng không còn điển hình thì tổn thương mô bệnh học sẽ giúp khẳng định chẩn đoán ở<br />
những mắt được ghép giác mạc xuyên.<br />
* Từ khoá: Bệnh giác mạc hình chóp; Địa hình giác mạc.<br />
<br />
Study of subclinical changes of keratoconus<br />
SUMMARY<br />
Objectives: To assess subclinical and pathological features of the keratoconic patients, who were<br />
examined in the Corneal and External Disease Department, National Institute of Ophthalmology.<br />
Subjects: 43 patients (65 eyes) with keratoconus who were examed and followed in the Corneal<br />
and External Disease Department, National Institute of Ophthalmology from January 2013 to<br />
September 2013.<br />
Results: There were 65 eyes of 43 patients. Six eyes were in mild stage, 15 eyes were in<br />
moderate stage and 44 eyes in advanced stage. The mean corneal refractive power in mild,<br />
moderate and advanced stage are 47.6 ± 0.26 D, 50.56 ± 1.99 D and 61.79 ± 4.42 D,<br />
respectively. The mean corneal astigmatism in mild, moderate and advanced stage are 4.78 D ±<br />
2.11 D, 4.38 ± 2.72 D and 7.47 ± 3.40 D, respectively. Photokeratographies showed that the more<br />
severe stage has the more deformed central ring and the more narrow gaps between rings. The<br />
pathological lesions have typical features.<br />
Conclusion: The keratoconic patients have typical subclinical features which help to diagnose<br />
the patients in the mild stage. In late stage, the clinical features are not typical, pathological<br />
features would confirm the positive diagnose in the eyes undergone keratoplasty.<br />
* Key words: Keratoconus; Corneal topography.<br />
* Bệnh viện Mắt Trung ương<br />
** Trường Đại học Y Hải Phòng<br />
Người phản hồi (Corresponding): Lê Xuân Cung (cunghienminh@yahoo.com)<br />
Ngày nhận bài: 06/03/2014; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 05/04/2014<br />
Ngày bài báo được đăng: 15/04/2014<br />
<br />
1<br />
<br />
TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2014<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Trong bệnh học giác mạc, GMHC là<br />
bệnh lý thoái hóa giác mạc ít gặp. Mặc dù<br />
bệnh không gây viêm nhiễm, nhưng gây<br />
giảm thị lực trầm trọng ở giai đoạn trung<br />
bình và nặng, do nhu mô giác mạc bị<br />
mỏng đi ở vùng trung tâm hoặc cạnh<br />
trung tâm làm giãn lồi giác mạc, gây nên<br />
tình trạng cận loạn thị nặng [4]. Ở giai<br />
đoạn sớm, thị lực của BN giảm từ từ do<br />
thay đổi khúc xạ ở một hoặc hai mắt, do<br />
vậy bệnh rất dễ nhầm với tật khúc xạ đơn<br />
thuần. Trên thực tế, đã có nhiều BN bị<br />
chẩn đoán nhầm và được chỉ định phẫu<br />
thuật laser excimer để điều trị cận loạn thị<br />
gây biến chứng nguy hiểm. Khi BN đến<br />
khám, bệnh ở giai đoạn muộn, đôi khi chỉ<br />
có tổn thương sẹo đục giác mạc, phẫu<br />
thuật ghép giác mạc xuyên để điều trị và<br />
xét nghiệm mô bệnh học bệnh phẩm giác<br />
mạc sẽ giúp khẳng định chẩn đoán. Vì vậy,<br />
chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với<br />
mục tiêu: Nhận xét đặc điểm cận lâm<br />
sàng của bệnh GMHC, qua đó giúp chẩn<br />
đoán bệnh ở giai đoạn sớm và khẳng định<br />
chẩn đoán bệnh ở giai đoạn muộn.<br />
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP<br />
NGHIÊN CỨU<br />
1. Đối tƣợng nghiên cứu.<br />
43 BN (65 mắt) bị bệnh GMHC đến<br />
khám tại Khoa Kết giác mạc, Bệnh viện<br />
Mắt TW.<br />
2. Phƣơng pháp nghiên cứu.<br />
Mô tả cắt ngang.<br />
* Cách thức nghiên cứu:<br />
BN được lập hồ sơ theo mẫu nghiên<br />
cứu. Các thông tin thu từ việc hỏi, thăm<br />
khám được ghi chép đầy đủ.<br />
- Hỏi bệnh:<br />
+ Thủ tục hành chính.<br />
+ Lý do đến khám mắt.<br />
+ Thời điểm phát hiện bệnh (thời điểm<br />
<br />
bắt đầu xuất hiện triệu chứng), thời điểm<br />
đi khám được phát hiện có tật khúc xạ và<br />
được chẩn đoán xác định bệnh GMHC.<br />
+ Bệnh tại mắt phối hợp: viêm kết mạc<br />
dị ứng, ngứa, dụi mắt, đeo kính tiếp xúc.<br />
+ Tiền sử gia đình: trong gia đình có ai<br />
bị bệnh như BN.<br />
+ Triệu chứng cơ năng: nhìn mờ, nhìn lóa,<br />
chói sáng, chảy nước mắt.<br />
- Khám lâm sàng<br />
+ Thử thị lực: dùng bảng thị lực Snellen.<br />
+ Khám giác mạc bằng sinh hiển vi đèn<br />
khe phát hiện các tổn thương của bệnh<br />
GMHC như đường Vogt, vòng Fleicher,<br />
mỏng giác mạc, dấu hiệu Muson, các tổn<br />
thương tại mắt khác.<br />
+ Soi đáy mắt phát hiện tổn thương đi<br />
kèm.<br />
- Khám cận lâm sàng<br />
+ Xét nghiệm photokeratoscopy:<br />
Chụp hình khúc xạ giác mạc bằng máy<br />
Photokeratoscopy SK 2000 nhằm phát<br />
hiện những bất thường về hình dạng giác<br />
mạc. Kết quả thu được sẽ là những vòng<br />
tròn đồng tâm. Nếu bề mặt giác mạc cong<br />
đều, hình ảnh thu được sẽ là vòng tròn<br />
đồng tâm cách đều nhau. Nếu bề mặt<br />
giác mạc không đều, hình ảnh thu được<br />
sẽ là những vòng tròn méo mó biến dạng.<br />
+ Xét nghiệm bản đồ giác mạc (Corneal<br />
Topography): Đo bằng máy Humphrey<br />
(Hãng Zeiss). Xét nghiệm bản đồ giác<br />
mạc biểu diễn công suất khúc xạ tại mỗi<br />
điểm trên giác mạc và được mã hóa bằng<br />
một màu nhất định. Đây là xét nghiệm<br />
cận lâm sàng quan trọng, giúp chẩn đoán<br />
xác định bệnh, đặc biệt ở giai đoạn sớm<br />
khi dấu hiệu lâm sàng chưa rõ ràng.<br />
+ Đo độ dày giác mạc và độ sâu tiền<br />
phòng:<br />
- Độ dày giác mạc được đo bằng máy<br />
chụp cắt lớp quang học (OCT) bán phần<br />
<br />
2<br />
<br />
TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2014<br />
<br />
trước. Giác mạc bình thường có độ dày<br />
trung tâm trung bình khoảng 0,52 mm<br />
(0,50 - 0,65 mm) và vùng ngoại vi thường<br />
dày hơn khoảng 0,7 mm [2]. Trong bệnh<br />
GMHC, độ dày giác mạc ở trung tâm<br />
hoặc cạnh trung tâm bị mỏng đi.<br />
- Độ sâu tiền phòng cũng được đo<br />
bằng máy OCT. Độ sâu tiền phòng là<br />
khoảng cách từ mặt sau giác mạc đến<br />
mặt trước thể thủy tinh và mống mắt.<br />
Độ sâu tiền phòng ở trung tâm khoảng<br />
3 - 3.5 mm, càng gần rìa độ sâu của tiền<br />
phòng càng giảm. Ở BN GMHC độ sâu<br />
tiền phòng lớn hơn.<br />
- Phân tích tổn thương mô bệnh học:<br />
Bệnh phẩm là mảnh giác mạc được lấy<br />
sau khi ghép giác mạc xuyên, ngâm cố<br />
định trong dung dịch Bouin, chuyển đúc và<br />
cắt mảnh theo phương pháp thường quy,<br />
sau đó được nhuộm HE (Hematoxilin-Eosin),<br />
Trichrome Masson, Blue Alcian và phân<br />
tích tổn thương mô bệnh học dưới kính<br />
hiển vi.<br />
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ<br />
BÀN LUẬN<br />
1. Đặc điểm BN theo giai đoạn.<br />
Giai đoạn nhẹ: 6 mắt (9,2 ); giai đoạn<br />
trung bình: 15 mắt (23,1 ); giai đoạn nặng:<br />
44 mắt (67,7 ).<br />
Phần lớn phát hiện ở giai đoạn nặng<br />
(67,7%), chỉ có 6 mắt (9,2 ) phát hiện ở<br />
giai đoạn nhẹ nhờ các xét nghiệm cận<br />
lâm sàng.<br />
2. Kết quả xét nghiệm bản đồ giác mạc.<br />
* Đặc điểm công suất khúc xạ giác mạc:<br />
<br />
CSKX<br />
<br />
80<br />
70<br />
60<br />
50<br />
40<br />
30<br />
20<br />
10<br />
<br />
BN<br />
<br />
0<br />
1<br />
<br />
5<br />
<br />
9<br />
<br />
13<br />
<br />
Giai đoạn nhẹ<br />
<br />
17<br />
<br />
21<br />
<br />
25<br />
<br />
29<br />
<br />
GĐ trung bình<br />
<br />
33<br />
<br />
37<br />
<br />
41<br />
<br />
GĐ nặng<br />
<br />
Biểu đồ 1: Công suất khúc xạ giác mạc.<br />
Đánh giá công suất khúc xạ giác mạc<br />
trung bình trong các nhóm BN nghiên cứu<br />
cho thấy nhóm BN ở giai đoạn nhẹ 47,6 ±<br />
0,26 D, giai đoạn trung bình 50,56 ± 1,99<br />
D và giai đoạn nặng 61,79 ± 4,42 D. Khúc<br />
xạ cao nhất nằm chủ yếu trong phần giác<br />
mạc trung tâm với đường kính 3 mm<br />
(85%), 12% mắt có cao nhất lệch phía<br />
dưới thái dương ngoài khoảng 3 mm<br />
trung tâm và một vài trường hợp 3 vùng<br />
màu nóng nhất nằm phía trên. Đặc điểm<br />
này cho thấy, trong nghiên cứu của<br />
chúng tôi mắt GMHC chủ yếu nằm trong<br />
nhóm hình thái mỏng trung tâm và cạnh<br />
trung tâm phía thái dương dưới. Chỉ số<br />
khúc xạ giác mạc mắt GMHC của chúng<br />
tôi cao hơn nhiều khúc xạ giác mạc bình<br />
thường 42 - 45 D [1]. Kết quả này tương<br />
tự với kết quả nghiên cứu của Reena<br />
Sharma [3 chỉ số khúc xạ trung bình<br />
69,2 ± 1,3 D.<br />
* Độ loạn thị:<br />
<br />
3<br />
<br />
TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2014<br />
Độ loạn<br />
<br />
Độ loạn<br />
<br />
7.47<br />
<br />
8<br />
7<br />
6<br />
<br />
4.78<br />
<br />
4.38<br />
<br />
5<br />
4<br />
3<br />
<br />
Độ loạn TB<br />
<br />
2<br />
1<br />
<br />
ngoại vi gần hơn. Giai đoạn nặng, trừ 2<br />
mắt phù cấp tính không thể chụp hình<br />
giác mạc, những mắt chụp được hình<br />
giác mạc cho hình ảnh tất cả các vòng<br />
tròn đều méo mó, biến dạng và vòng tròn<br />
nằm sát nhau hơn, không còn nhìn rõ<br />
hình ảnh từng vòng riêng rẽ. Kết quả của<br />
chúng tôi tương tự với mô tả trong y văn.<br />
4. Độ dày giác mạc.<br />
<br />
0<br />
GĐ nhẹ<br />
<br />
GĐ trung<br />
bình<br />
<br />
GĐ nặng<br />
<br />
Giai đoạn<br />
<br />
Biểu đồ 2: Độ loạn thị.<br />
Kết quả xét nghiệm chụp bản đồ giác<br />
mạc cho thấy độ loạn trung bình giai đoạn<br />
nhẹ 4,78 ± 2,11 D, giai đoạn trung bình<br />
4,38 ± 2,72 D, độ loạn thị giữa hai giai<br />
đoạn nhẹ và trung bình khác biệt không<br />
có ý ngh a thống kê (p 0,05), độ loạn trung<br />
bình giai đoạn nặng rất lớn (7,47 ± 3,40 D)<br />
với giá trị độ loạn lớn nhất là 12,5 D.<br />
Trong nhóm nghiên cứu có những mắt có<br />
cùng công suất khúc xạ, nhưng độ loạn<br />
thị khác nhau khiến thị lực khác nhau<br />
nhiều. Kết quả này cũng tương tự với<br />
nghiên cứu của Reena Sharma với độ<br />
loạn trung bình 7,5 ± 1,1 D [3 .<br />
3. Kết quả xét nghiệm photokeratography.<br />
<br />
Ở giai đoạn nhẹ, 6/6 mắt bệnh có hình<br />
ảnh chụp hình giác mạc không biến đổi<br />
nhiều so với mắt lành, chỉ có duy nhất<br />
hình vòng tròn trong cùng ở trung tâm<br />
giác mạc bị méo, không đồng tâm với các<br />
vòng tròn ngoại vi. Giai đoạn trung bình,<br />
tất cả 15 mắt đều có tổn thương với hình<br />
ảnh vòng tròn trung tâm giác mạc nhỏ<br />
hơn và khoảng cách giữa các vòng tròn<br />
<br />
Độ dày giác mạc trong nghiên cứu<br />
được ghi nhận tại vùng giác mạc mỏng<br />
nhất. Kết quả cho thấy, 70 số mắt bệnh<br />
giác mạc mỏng vùng trung tâm giác mạc<br />
còn lại mỏng vị trí cạnh trung tâm phía<br />
thái dương dưới. Kết quả này cũng tương<br />
tự với y văn: GMHC có thể mỏng ở vùng<br />
trung tâm hoặc cạnh tâm phía thái<br />
dương. Độ dày giác mạc trung bình theo<br />
từng giai đoạn nhẹ, trung bình, nặng lần<br />
lượt là 488,67 ± 22,19 µm, 484,25 ± 16,3<br />
µm và 400,93 ± 58,47 µm. Sự khác biệt<br />
này có ý ngh a thống kê (p < 0,001). Độ<br />
dày giác mạc trong nhóm nghiên cứu nhỏ<br />
hơn nhiều so với độ dày giác mạc trung<br />
tâm bình thường 520 µm [4 . Kết quả của<br />
chúng tôi cũng tương tự với nghiên cứu<br />
của Bruno M Fontes là 508 ± 16 µm [6 ,<br />
của Keisuke Kawana và CS [6 là 449,5 ±<br />
43,2 µm và Reena Sharma là 421,13 ±<br />
13,6 µm.<br />
5. Độ sâu tiền phòng.<br />
Bảng 1: Độ sâu tiền phòng.<br />
<br />
n<br />
<br />
(X ± SD)<br />
<br />
p<br />
<br />
Nhẹ<br />
<br />
6<br />
<br />
2,92 ± 1,59<br />
<br />
> 0,05<br />
<br />
Trung bình<br />
<br />
15<br />
<br />
3,32 ± 0,36<br />
<br />
Nặng<br />
<br />
44<br />
<br />
3,52 ± 1,20<br />
<br />
Độ sâu tiền phòng thay đổi giữa các<br />
<br />
4<br />
<br />
TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2014<br />
<br />
giai đoạn. Giai đoạn nhẹ độ sâu tiền phòng<br />
nhỏ nhất 2,81 mm, lớn nhất 3,10 mm,<br />
giai đoạn trung bình: độ sâu tiền phòng<br />
nhỏ nhất 2,47 mm, lớn nhất 3,90 mm, giai<br />
đoạn nặng: độ sâu tiền phòng nhỏ nhất<br />
2,93 mm, lớn nhất 4,3 mm. Tuy nhiên,<br />
sự khác biệt không có ý ngh a thống kê<br />
(p 0,05), do máy OCT đo độ sâu tiền<br />
phòng tính từ cực trước thể thủy tinh đến<br />
mặt sau giác mạc ở vị trí trung tâm mà<br />
không phải tất cả đối tượng nghiên cứu<br />
giác mạc đều mỏng nhất ở trung tâm. Khi<br />
đánh giá độ sâu tiền phòng của mắt cận thị,<br />
Hosny và CS cho kết quả 3,5 ± 0,37 mm<br />
[7 , Đường Thị Anh Thơ là 3,68 ± 0,22 mm<br />
[3 . Do vậy, đo độ sâu tiền phòng không<br />
phải là xét nghiệm đặc hiệu cho bệnh<br />
GMHC, không có ý ngh a nhiều trong đánh<br />
giá mức độ tổn thương bệnh GMHC. Kết<br />
quả của chúng tôi cũng tương tự với<br />
Bruno M Fontes [6]: độ sâu tiền phòng<br />
trung bình 3,3 ± 0,2 mm (3,07 - 3,63 mm).<br />
6. Tổn thƣơng mô bệnh học.<br />
Trong nghiên cứu có 5 mẫu bệnh phẩm<br />
giác mạc được lấy sau phẫu thuật ghép<br />
giác mạc xuyên. Những mẫu bệnh phẩm<br />
này được phân tích tổn thương mô bệnh<br />
học bằng kính hiển vi. Kết quả cho thấy,<br />
cả 5 bệnh phẩm có hình ảnh biểu mô giác<br />
mạc chỗ dày chỗ mỏng, 3 bệnh phẩm tổn<br />
thương biểu mô hơi dày có xu hướng<br />
sừng hóa (đây là những mắt bệnh có sẹo<br />
giác mạc). Không thấy hình ảnh lớp màng<br />
đáy biểu mô dày lên và hình ảnh lắng<br />
đọng các hạt ferritin như mô tả trong y<br />
văn. Về tổn thương tại màng Bowman, cả<br />
5 bệnh phẩm có tổn thương đứt đoạn,<br />
không liên tục hay độ dày không đều. Tổn<br />
thương lớp nhu mô khá điển hình với<br />
hình ảnh sợi collagen sắp xếp lộn xộn,<br />
<br />
giảm số lượng sợi collagen dẫn đến giảm<br />
chiều dày lớp nhu mô, nhu mô giác mạc<br />
ở trung tâm mỏng hơn ngoại vi. Trên 5<br />
bệnh phẩm chúng tôi quan sát được các<br />
tổn thương nếp gấp màng Descemet,<br />
màng Descemet không thẳng đều mà gấp<br />
khúc nhiều đoạn. Trên bệnh phẩm của<br />
giác mạc BN có phù giác mạc, không phát<br />
hiện tổn thương co cuộn màng Descemet.<br />
Trên các bệnh phẩm đều thấy hình ảnh<br />
lớp nội mô không đều, rời rạc, thưa thớt.<br />
Mặc dù, số lượng bệnh phẩm không<br />
nhiều nhưng những tổn thương mô bệnh<br />
học trong nghiên cứu khá điển hình và<br />
tương tự với mô tả trong y văn cũng như<br />
nghiên cứu của Bruno F Fernandes về<br />
tổn thương mô bệnh học của 49 trường<br />
hợp GMHC [9 : 80 tổn thương mỏng<br />
biểu mô, 71 rạn màng Bowman, 63 tổn<br />
thương cuộn màng Descemet, 18 rách<br />
màng Descemet, 29 có hình ảnh lắng<br />
đọng sát lớp biểu mô và 24 tổn thương<br />
sẹo giác mạc.<br />
KẾT LUẬN<br />
Bệnh GMHC là một hình thái thoái hoá<br />
giác mạc ít gặp nhưng gây giảm thị lực<br />
trầm trọng. Ở giai đoạn muộn, bệnh có<br />
thể được chẩn đoán dễ dàng qua thăm<br />
khám lâm sàng. Tuy nhiên, ở giai đoạn<br />
sớm trên lâm sàng bệnh thường biểu<br />
hiện khá kín đáo nên dễ bị chẩn đoán<br />
nhầm với các tật khúc xạ đơn thuần. Để<br />
chẩn đoán bệnh ở giai đoạn sớm, các<br />
thăm khám cận lâm sàng, đặc biệt là<br />
chụp bản đồ giác mạc rất có giá trị giúp<br />
chẩn đoán xác định bệnh, qua đó giúp<br />
thày thuốc có kết hoạch theo dõi, điều trị<br />
hợp lý. Khi BN đến khám ở giai đoạn rất<br />
muộn khi đã hình thành sẹo trên giác<br />
mạc, hình ảnh lâm sàng không còn điển<br />
<br />
5<br />
<br />