intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghiên cứu chất lượng cuộc sống của bệnh nhân suy thận mạn đang điều trị ngoại trú tại phòng khám nội thận Bệnh viện Chợ Rẫy năm 2012

Chia sẻ: Trần Thị Hạnh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

131
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tại Việt Nam, ảnh hưởng của suy thận mạn đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân đang điều trị bảo tồn bằng thuốc là vấn đề cần được làm sáng tỏ hơn nữa. Nghiên cứu được thực hiện để tìm hiểu chất lượng cuộc sống của nhóm bệnh nhân này và các yếu tố liên quan khác.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghiên cứu chất lượng cuộc sống của bệnh nhân suy thận mạn đang điều trị ngoại trú tại phòng khám nội thận Bệnh viện Chợ Rẫy năm 2012

Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014<br /> <br />  <br /> <br /> NGHIÊN CỨU CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG  <br /> CỦA BỆNH NHÂN SUY THẬN MẠN ĐANG ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ  <br /> TẠI PHÒNG KHÁM NỘI THẬN BỆNH VIỆN CHỢ RẪY NĂM 2012 <br /> Nguyễn Thị Kim Liên*, Nguyễn Đỗ Nguyên**, Tô Minh Ngọc*** <br /> <br /> TÓM TẮT <br /> Mở đầu: Tại Việt Nam, ảnh hưởng của suy thận mạn đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân đang điều <br /> trị bảo tồn bằng thuốc là vấn đề cần được làm sáng tỏ hơn nữa. Nghiên cứu được thực hiện để tìm hiểu chất <br /> lượng cuộc sống của nhóm bệnh nhân này và các yếu tố liên quan khác. <br /> Mục  tiêu: Xác định điểm trung bình về chất lượng cuộc sống và các yếu tố liên quan của bệnh nhân suy <br /> thận mạn đang điều trị bảo tồn ngoại trú tại bệnh viện Chợ Rẫy năm 2012. <br /> Phương pháp nghiên cứu:Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 319 đối tượng được chọn ngẫu nhiên hệ thống <br /> tại bệnh viện Chợ Rẫy. <br /> Kết  quả:  Điểm trung bình về chất lượng cuộc sống của bệnh nhân được đánh giá qua thang đo SF36 là <br /> 42,5; trong đó điểm sức khỏe thế chất là 46,4 và điểm sức khỏe tinh thần là 38,7. Điểm sức khỏe thể chất có mối <br /> tương quan với thời gian chẩn đoán, chỉ số BUN và creatinin. Điểm sức khỏe tinh thần có mối liên quan với tuổi, <br /> nơi cư trú, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp và độ lọc cầu thận ước đoán eGFR; có mối tương quan với thời gian <br /> chẩn đoán đến điều trị. <br /> Kết luận: Chất lượng cuộc sống của đối tượng nghiên cứu có liên quan đến các yếu tố: thời gian chẩn đoán, <br /> tuổi, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, eGFR, chỉ số BUN và creatinin. <br /> Từ khóa: chất lượng cuộc sống, SF‐36, suy thận mạn. <br /> <br /> ABSTRACT <br /> STUDY ON THE QUALITY OF LIFE OF CHRONIC RENAL FAILURE PATIENTS AT RENAL <br /> ENDOCRINE CLINIC‐CHO RAY HOSPITAL, 2012 <br /> Nguyen Thi Kim Lien, Nguyen Do Nguyen, To Minh Ngoc <br /> * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 474 – 480 <br /> Background:  In  Vietnam,  effects  of  chronic  renal  failure  on  quality  of  life  of  patients  who  were  in  a <br /> conservative care with drugs need to be considered significantly. This study was undertaken to examine quality of <br /> life this patient group and related factors. <br /> Objectives: To determine the average score of quality of life and related factors among chronic renal failure <br /> out‐patients who were in a conservative care with drugs at Cho Ray Hospital in 2012. <br /> Methods:  A cross‐sectional study was conducted with 319 participants who were chosen by a systematic <br /> random sampling method at Cho Ray Hospital. <br /> Result: The average score of SF36 was 42.5; physical health score was 46.4; mental health score was 38.7. <br /> The physical health score was correlated with patient’s diagnosing time, BUN and creatinin index. The mental <br /> health score was associated with patient’s age, residence, marital status, occupation, eGFR, and diagnosing time. <br /> Conclusion:  The  quality  of  life  of  chronic  renal  failure  out‐patients  was  related  to  factors:  patient’s <br /> **Khoa Y tế Công cộng Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh <br /> Khoa Xét nghiệm, Bệnh viện Chợ Rẫy <br /> ***Ban phát triển dự án nghiên cứu khoa học, Leafshield Group <br /> Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thị Kim Liên ĐT: 0916912717 <br /> Email: kimlien.choray@gmail.com<br /> *<br /> <br /> 474<br /> <br /> Chuyên Đề Y Tế Công Cộng <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 <br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br />  <br /> diagnosing time, age, residence, marital status, occupation, eGFR, BUN and creatinin index. <br /> Key words: quality of life, SF‐36, chronic renal failure. <br /> <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ <br /> Suy thận mạn (STM) là một trong những vấn <br /> đề  y  học  được  nhiều  người  quan  tâm  vì  nó  dễ <br /> dàng dẫn tới những biến chứng nguy hiểm khác, <br /> hoặc thậm chí tử vong. Suy thận mạn không chỉ <br /> ảnh  hưởng  đến  sức  khỏe  thể  chất  mà  còn  tác <br /> động đến sức khỏe tinh thần của bệnh nhân và <br /> do  đó  làm  giảm  chất  lượng  cuộc  sống  (CLCS) <br /> của họ. Những yếu tố nguy cơ được quan tâm là <br /> tuổi, giới, chủng tộc(1,2,8,10,4). Theo một nghiên cứu <br /> tại Hà Nội cho thấy 75,9% bệnh nhân chạy thận <br /> nhân tạo chu kỳ có CLCS thấp (điểm SF36 ≤50), <br /> trong khi đó chỉ 5,35% bệnh nhân có CLSC khá <br /> tốt (SF36 >75 điểm); và các yếu tố ảnh hưởng đến <br /> CLCS bao gồm: nồng độ hemoglobin, chất lượng <br /> cuộc  lọc  máu,  nồng  độ  albumin  máu  và  CRP <br /> huyết  thanh(7).  Tại  bệnh  viện  Chợ  Rẫy,  điểm <br /> CLCS của bệnh nhân sau chạy thận tăng lên 41,3 <br /> điểm so với trước chạy thận là 12,1 điểm(5). Mỗi <br /> năm,  khoa  Nội  Thận  ‐  bệnh  viện  Chợ  Rẫy  tiếp <br /> nhận gần 4000 ca bệnh nội trú và 38.000 ca điều <br /> trị  ngoại  trú,  số  lượng  bệnh  nhân  có  xu  hướng <br /> tăng qua các năm(5). Tuy nhiên bệnh nhân đang <br /> điều  trị  suy  thận  mạn  bảo  tồn  bằng  thuốc  lại  ít <br /> được chú ý đến so với bệnh nhân đang áp dụng <br /> phương  pháp  điều trị  thay thế.Nghiên  cứu này <br /> nhằm  xác  định  điểm  trung  bình  về  chất  lượng <br /> cuộc  sống  của  bệnh  nhân  suy  thận  mạn  giai <br /> đoạn  điều  trị  bảo  tồn  bằng  thuốc  ở  độ  tuổi <br /> trưởng  thành  đang  điều  trị  ngoại  trú  tại  phòng <br /> khám nội thận bệnh viện Chợ Rẫy năm 2012 và <br /> mối  liên  quan  của  điểm  chất  lượng  cuộc  sống <br /> với các đặc tính của mẫu nghiên cứu và các chỉ <br /> số xét nghiệm. <br /> <br /> ĐỐI  TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU <br /> Đối tượng nghiên cứu <br /> Nghiên  cứu  thực  hiện  trên  bệnh  nhân  suy <br /> thận mạn giai đoạn điều trị bảo tồn bằng thuốc ở <br /> độ tuổi trưởng thành, đang điều trị ngoại trú tại <br /> phòng khám nội thận ‐ bệnh viện Chợ Rẫy năm <br /> <br /> Chuyên Đề Y Tế Công Cộng <br /> <br /> 2012. Loại trừ các bệnh nhân không muốn tham <br /> gia  nghiên  cứu,  không  thể  trả  lời  phỏng  vấn, <br /> bệnh  nhân  nặng  đang  bị  suy  hô  hấp  và  bệnh <br /> nhân kèm theo bệnh lý ung thư. <br /> <br /> Cỡ mẫu nghiên cứu <br /> Cỡ  mẫu được  tính  theo  phương  pháp  dành <br /> cho nghiên cứu cắt ngang mô tả: <br /> N=[<br /> <br /> σ2]/d2<br /> <br /> Giả định giá trị σ được ước lượng dựa theo <br /> nghiên  cứu  của  Lê  Việt  Thắng  trên  112  bệnh <br /> nhân  suy  thận  mạn  tính  được  chạy  thận  nhân <br /> tạo chu kỳ, với điểm trung bình chất lượng cuộc <br /> sống SF‐36 là 40,78 ± 19,37(7). Độ chính xác mong <br /> muốn là 2,5 với mức ý nghĩa thống kê 0,05 và dự <br /> trù 25% mất dữ liệu BUN và creatinin, do đó, cỡ <br /> mẫu tối thiểu là 308 bệnh nhân. <br /> <br /> Phương pháp nghiên cứu <br /> Nghiên  cứu  cắt  ngang  mô  tả  với  phương <br /> pháp chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống với khoảng <br /> cách mẫu k=200:10=20. Một số ngẫu nhiên I ≤ 20 <br /> sẽ  được  chọn  mỗi  ngày.  Phỏng  vấn  trực  tiếp <br /> bệnh nhân dựa trên bộ câu hỏi phỏng vấn soạn <br /> sẵn  và  thu  thập  kết  quả  xét  nghiệm  cận  lâm <br /> sàng.  Dữ  liệu  thu  thập  được  nhập  bằng  phần <br /> mềm  EpiData  3.1và  phân  tích  bằng  phần  mềm <br /> Stata 11.0. <br /> <br /> Liệt kê và định nghĩa biến số <br /> Điểm sức khỏe thể chất <br /> Là trung bình cộng điểm của 5 lĩnh vực: sức <br /> khỏe  liên  quan  hoạt  động  chức  năng,  giới  hạn <br /> hoạt động do khiếm khuyết chức năng, sức khỏe <br /> liên quan cảm nhận đau đớn, sức khỏe tổng quát, <br /> sức khỏe liên quan đến cảm nhận cuộc sống. <br /> <br /> Điểm sức khỏe tinh thần <br /> Là trung bình cộng điểm của 5 lĩnh vực: sức <br /> khỏe  tổng  quát,  sức  khỏe  liên  quan  đến  cảm <br /> nhận  cuộc  sống,  sức  khỏe  liên  quan  đến  hoạt <br /> động  xã  hội,  giới  hạn  hoạt  động  do  khiếm <br /> khuyết tâm lý, sức khỏe tinh thần tổng quát. <br /> <br /> 475<br /> <br /> Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014<br /> <br />  <br /> Tổng  điểm  chung  của  thang  đo  SF36  được <br /> tính  bằng  trung  bình  cộng  điểm  sức  khỏe  thể <br /> chất và điểm sức khỏe tinh thần. <br /> <br /> KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN <br /> <br /> đối  tượng  nghiên  cứu  có  thời  gian  chẩn  đoán <br /> đến điều trị xấp xỉ trên dưới 5 tháng. Vì vậy, đây <br /> cũng là một trong những nguyên nhân góp phần <br /> lý giải cho các kết quả về sau. <br /> <br /> Đặc điểm đối tượng nghiên cứu <br /> <br /> Kết quả xét nghiệm cận lâm sàng <br /> <br /> Nghiên  cứu  được  thực  hiện  trên  319  đối <br /> tượng  hội  đủ  các  tiêu  chí  chọn  mẫu.  Độ  tuổi <br /> trung bình là 48 ± 12 tuổi, kết quả này phù hợp <br /> với nghiên cứu của tác giả Lê Việt Thắng (48 ± 13 <br /> tuổi); và cao hơn so với nghiên cứu tại Ấn Độ (42 <br /> ± 13 tuổi)(7); sự khác biệt về tuổi trung bình mắc <br /> STM có sự chênh lệch nhất định ở các quốc gia <br /> khác nhau. Tỷ lệ nam xấp xỉ nữ, 47% và 53%; tỷ <br /> lệ bệnh nhân đến từ các tỉnh khác (67%) cao gấp <br /> đôi  so  với  tỷ  lệ  bệnh  nhân  đến  từ  TP.Hồ  Chí <br /> Minh  (33%),  các  kết  quả  này  đều  phù  hợp <br /> nghiên cứu của Lâm Nguyễn Nhã Trúc tại bệnh <br /> viện  Chợ  Rẫy  năm  2007(6).Về  tình  trạng  hôn <br /> nhân: 75% đối tượng có gia đình, 25% đối tượng <br /> độc thân, điều này được giải thích vì đối tượng <br /> tham gia nghiên cứu là người trưởng thành. Về <br /> nghề nghiệp của đối tượng: 19% lao động trí óc, <br /> 45% lao động chân tay. Về cách chi trả viện phí: <br /> 78%  đối  tượng  tự  chi  trả,  22%  đối  tượng  được <br /> người thân chi trả. 90% tổng số đối tượng tham <br /> gia  có  bảo  hiểm  y  tế,  tỉ  lệ  này  được  lý  giải  bởi <br /> việc đối tượng sử dụng bảo hiểm y tế nhằm cho <br /> việc điều trị STM trong một thời gian dài. <br /> <br /> Bảng 2: Kết quả các chỉ số xét nghiệm của đối tượng <br /> nghiên cứu <br /> <br /> Bảng 1: Thời gian chẩn đoán bệnh đến điều trị của <br /> bệnh nhân  <br /> Đặc tính (n=319) Trung bình Trung vị GTNN GTLN<br /> Thời gian chẩn<br /> đoán đến điều trị<br /> 22,5<br /> 5<br /> 0,5<br /> 120<br /> (tháng)<br /> <br /> Thời gian từ lúc chẩn đoán đến điều trị bệnh <br /> của đối tượng trung bình là 22,5 tháng, dao động <br /> từ 2 đến 48 tháng. Đối tượng điều trị sớm nhất là <br /> sau  0,5  tháng  sau  khi  được  chẩn  đoán  STM  và <br /> chậm nhất là sau 120 tháng. Do tỷ lệ bệnh nhân <br /> ngoại  tỉnh  cao  và  đối  tượng  thường  chỉ  đến  tái <br /> khám và điều trị khi nhận thấy những dấu hiệu <br /> bệnh rõ ràng nên thời gian chẩn đoán bệnh đến <br /> điều trị có sự chênh lệch rất lớn, có khoảng 50% <br /> <br /> 476<br /> <br /> Chỉ số<br /> n<br /> TB<br /> BUN (mg/dl)<br /> 319 68,3<br /> Creatinin (mg/dl) 319 7,3<br /> Hb (g/dl)<br /> 143 10,4<br /> <br /> Độ lệch chuẩn Trung vị<br /> 28,8<br /> 65,0<br /> 4,9<br /> 6,7<br /> 17,68<br /> 10,6<br /> <br /> Kết quả xét nghiệm cho thấy chỉ số BUN đạt <br /> trung  bình  68,3  mg/dl  với  độ  lệch  chuẩn  28,8 <br /> mg/dl  (nhỏ  nhất:  10,0,  cao  nhất:  107,0  mg/dl). <br /> Nồng độ creatinin trong máu trung bình là 7,3 ± <br /> 4,9  mg/dl  (nhỏ  nhất:  1,1  mg/dl,  cao  nhất:  22,0 <br /> mg/dl).  Nồng  độ  hemoglobin  trong  máu  trung <br /> bình là 10,4 ± 17,68 g/dl nhưng do xét nghiệm Hb <br /> bị mất mẫu > 50% nên không đưa vào phân tích. <br /> Do có rất nhiều nguyên nhân gây bệnh STM <br /> nên  các  chỉ  số  xét  nghiệm  đóng  vai  trò  quan <br /> trọng  và  hữu  ích  để tiên  lượng tình trạng  bệnh <br /> và chỉ ra hướng điều trị thích hợp cho mỗi bệnh <br /> nhân.  Các  chỉ  số  xét  nghiệm  trong  nghiên  cứu <br /> này cho thấy bệnh nhân suy thận ở mức từ trung <br /> bình – nặng (độ II, III). Chỉ số BUN và creatinin <br /> trung  bình  cao  hơn  nhiều  so  với  trị  số  ở  người <br /> bình thường (0,5 – 1,3 mg%). Chỉ số Hemoglobin <br /> là 10,4 thấp hơn so với giá trị tham khảo (đối với <br /> phụ nữ là 12 – 16 g/dL và nam là 13 – 18 g/dL) <br /> do người bệnh suy thận không tạo đủ nội tiết tố, <br /> kích thích tủy xương tạo hồng cầu. Vì vậy, trước <br /> đây một trong những giải pháp điều trị suy thận <br /> mạn là truyền máu(4). <br /> Bảng 3: Phân loại chức năng thận theo eGFR  <br /> Độ lọc cầu thận từ Creatinin huyết<br /> 2<br /> thanh (eGFR) (ml/phút/1,73m )<br /> Giai đoạn II (60 – 89)<br /> Giai đoạn III (30 – 59)<br /> Giai đoạn IV (15 – 29)<br /> Giai đoạn V (≤15)<br /> <br /> Tần số<br /> (n)<br /> 12<br /> 37<br /> 50<br /> 218<br /> <br /> Tỉ lệ%<br /> (4)<br /> (12)<br /> (16)<br /> (68)<br /> <br /> Chức  năng  thận  có  thể  được  phân  loại <br /> thành  các  giai  đoạn  dựa  vào  độ  lọc  cầu  thận <br /> ước  đoán  (eGFR).  Chỉ  số  eGFR  được  ước  tính <br /> <br /> Chuyên Đề Y Tế Công Cộng <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 <br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br />  <br /> dựa  trên  tuổi,  giới  tính  và  chỉ  số  xét  nghiệm <br /> creatinin huyết thanh của một người, nghĩa là <br /> độ lọc cầu thận càng cao thì thận làm việc càng <br /> tốt.  Kết  quả  phân  tích  cho  thấy  tất  cả  bệnh <br /> nhân  trong  nghiên  cứu  đều  có  eGFR  từ <br /> 89ml/phút/1,73  m2  trở  xuống,  trong  đó  phần <br /> lớn bệnh nhân tham gia nghiên cứu có eGFR ≤ <br /> 15ml/phút/1,73 m2 (68%) tương ứng chức năng <br /> thận  giai  đoạn  V.  Vì  giai  đoạn  V  là  suy  thận <br /> giai  đoạn  cuối  với  đầy  đủ  các  biểu  hiện  của <br /> STM,  do  đó  mà  số  lượng  bệnh  nhân  trong <br /> nghiên  cứu  cũng  tăng  dần  theo  từng  chức <br /> năng  thận.  Chỉ  có  một  số  bệnh  nhân  (4%)  có <br /> eGFR  nằm  trong  khoảng  60‐89  ml/phút/1,73 <br /> m2, nghĩa là chức năng thận ở giai đoạn II‐thận <br /> bị tổn thương trung bình.  <br /> <br /> Điểm trung bình về chất lượng cuộc sống  <br /> <br /> tật bởi những biểu hiện của bệnh trên chính cơ <br /> thể của họ và thời gian điều trị lâu dài đòi hỏi <br /> kiên trì nên dẫn đến tinh thần bệnh nhân giảm <br /> sút;  bên  cạnh  đó,  những  áp  lực  từ  công  việc, <br /> gánh  nặng  chi  phí  điều  trị  và  nhịp  sống  bận <br /> rộn  làm  giảm  sự  quan  tâm  chăm  sóc  giữa  các <br /> thành viên gia đình và người bệnh, đặc biệt là <br /> về  mặt  tinh  thần;  đồng  thời,  quan  niệm  về <br /> bệnh  mạn  tính  có  thể  cũng  là  một  nguyên <br /> nhân.  Do  đó,  điểm  sức  khỏe  tinh  thần  của <br /> bệnh  nhân  thấp  hơn  điểm  sức  khỏe  thể  chất, <br /> kết  quả  này  phù  hợp  với  kết  quả  trên  nhóm <br /> bệnh  nhân  điều  trị  giai  đoạn  bảo  tồn  trong <br /> nghiên  cứu  của  Hoàng  Bùi  Bảo  thực  hiện  tại <br /> bệnh  viện  Trung  ương  Huế  và  cũng  tương <br /> đương  với  nghiên  cứu  trên  bệnh  nhân  suy <br /> thận giai đoạn cuối ở Hàn Quốc(3,9). <br /> <br /> Bảng 4: Điểm số sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh <br /> thần SF36 (n=319) <br /> <br /> Mối  liên  quan  giữa  điểm  chất  lượng  cuộc <br /> sống với các đặc tính mẫu <br /> <br /> Chất lượng cuộc sống<br /> Sức khỏe thể chất<br /> Sức khỏe tinh thần<br /> Tổng điểm SF36<br /> <br /> Trung bình<br /> 46,4<br /> 38,7<br /> 42,5<br /> <br /> Độ lệch chuẩn<br /> 7,8<br /> 11,2<br /> 8,1<br /> <br /> Điểm  trung  bình  chất  lượng  cuộc  sống  về <br /> sức  khỏe  thể  chất (SKTC)  là  46,4  ±  7,8  điểm <br /> (nhỏ  nhất:  21,3  điểm,  lớn  nhất:  75,0  điểm). <br /> Điểm trung bình của chất lượng cuộc sống về <br /> sức  khỏe  tinh  thần  (SKTT)  là  38,7  ±  11,2  điểm <br /> (khoảng  dao  động  23,7  –  73,0  điểm).  Điểm <br /> trung bình của thang đo SF‐36 là 42,5 ± 8,1 với <br /> điểm  số  cao  nhất  là  63,5  và  thấp  nhất  là  29,9 <br /> (chiếm  0,94%  và  2,82%)  trong  khi  đó  tiêu <br /> chuẩn  CLCS  cho  một  bệnh  nhân  mắc  bệnh <br /> mạn  tính  cần  điều  trị  lâu  dài  là  SF36  trên  75 <br /> điểm(8). Kết quả này cao hơn hẳn so với nghiên <br /> cứu của Lâm Nguyễn Nhã Trúc có điểm CLCS <br /> ở bệnh nhân trước và sau chạy thận lần lượt là <br /> 12 điểm và 41 điểm và nghiên cứu của Lê Việt <br /> Thắng  có  đểm  CLCS  ở  nhóm  bệnh  nhân <br /> nghiên  cứu  là  40,78  điểm(6,7).  Điểm  sức  khỏe <br /> tinh thần của bệnh nhân tham gia nghiên cứu <br /> thấp  hơn  7,7  điểm  so  với  điểm  sức  khỏe  thể <br /> chất, điều này được lý giải bởi một số nguyên <br /> nhân sau đây: trước tiên là cảm giác lo sợ bệnh <br /> <br /> Chuyên Đề Y Tế Công Cộng <br /> <br /> Bảng 5: Mối liên quan giữa điểm sức khỏe thể chất <br /> với đặc tính mẫu <br /> Đặc tính<br /> Nhóm tuổi*<br /> 20 – 29<br /> 30 – 39<br /> 40 – 49<br /> 50 – 59<br /> 60 – 81<br /> Tình trạng hôn nhân<br /> Sống một mình<br /> Sống chung<br /> Phân loại eGFR<br /> (ml/phút/1,73m2)<br /> Giai đoạn II (60-89)<br /> Giai đoạn III(30-59)<br /> Giai đoạn IV(15- 29)<br /> Giai đoạn V (≤15)<br /> <br /> Sức khỏe thể chất<br /> n<br /> TB<br /> ĐLC<br /> 27<br /> 46<br /> 98<br /> 109<br /> 39<br /> <br /> 49,5<br /> 45,8<br /> 46,4<br /> 36,2<br /> 37,9<br /> <br /> 6,9<br /> 5,4<br /> 9,2<br /> 7,7<br /> 6,8<br /> <br /> 78<br /> 241<br /> <br /> 47,7<br /> 46,0<br /> <br /> 8,4<br /> 7,6<br /> <br /> 12<br /> 37<br /> 50<br /> 218<br /> <br /> 48,2<br /> 48,9<br /> 46,4<br /> 45,8<br /> <br /> 9,7<br /> 7,6<br /> 8,2<br /> 7,6<br /> <br /> p<br /> <br /> 0,07<br /> <br /> 0,09<br /> <br /> 0,14<br /> <br /> Có  sự  khác  biệt  giữa  các  đối  tượng  ở  các <br /> nhóm tuổi khác nhau, tình trạng hôn nhân và <br /> phân  loại  bệnh  theo  eGFR,  tuy  nhiên  sự  khác <br /> biệt  không  có  ý  nghĩa  thống  kê.  Có  thể  do  cỡ <br /> mẫu  chưa  đủ  lớn  để  khẳng  định  các  mối  liên <br /> quan này. <br /> <br /> 477<br /> <br /> Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014<br /> <br />  <br /> Bảng 6: Mối liên quan giữa điểm sức khỏe tinh thần <br /> với đặc tính mẫu và eGFR <br /> Đặc tính<br /> Nhóm tuổi*<br /> 20 – 29<br /> 30 – 39<br /> 40 – 49<br /> 50 – 59<br /> 60 – 81<br /> Tình trạng hôn nhân<br /> Sống một mình<br /> Sống chung<br /> Nơi cư trú<br /> Tỉnh<br /> Thành phố<br /> Nghề nghiệp*<br /> Lao động trí óc<br /> Lao động tay chân<br /> Khác (hưu/già)<br /> Phân loại<br /> 2<br /> eGFR(ml/ph/1,73m )<br /> Giai đoạn II (60-89)<br /> Giai đoạn III(30-59)<br /> Giai đoạn IV(15- 29)<br /> Giai đoạn V (≤15)<br /> <br /> Sức khỏe tinh thần<br /> TB<br /> ĐLC<br /> p<br /> <br /> 27<br /> 46<br /> 98<br /> 109<br /> 39<br /> <br /> 42,4<br /> 38,8<br /> 40,7<br /> 36,2<br /> 37,9<br /> <br /> 10,1<br /> 10,1<br /> 12,5<br /> 10,7<br /> 9,6<br /> <br /> 0,02<br /> <br /> Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về điểm <br /> SKTT  ở  những  đối  tượng  có  nghề  nghiệp  khác <br /> nhau (p = 0,004). Đối tượng lao động trí óc và lao <br /> động  chân  tay  có  điểm  SKTT  cao  hơn  những <br /> người đã về hưu/già. Mối liên quan này có thể bị <br /> ảnh hưởng bởi tuổi của đối tượng. <br /> <br /> 78<br /> 241<br /> <br /> 43,7<br /> 37,1<br /> <br /> 11,1<br /> 10,7<br /> <br /> 0,001<br /> <br /> Nhóm bệnh nhân giai đoạn II có điểm SKTT <br /> thấp hơn so với nhóm có giai đoạn III, IV hoặc V <br /> và  sự  khác  biệt  này  có  ý  nghĩa  thống  kê  (p  = <br /> 0,03). <br /> <br /> 215<br /> 104<br /> <br /> 37,7<br /> 40,7<br /> <br /> 10,1<br /> 12,9<br /> <br /> 0,04<br /> <br /> 59<br /> 145<br /> 115<br /> <br /> 41,4<br /> 40,1<br /> 35,5<br /> <br /> 12,5<br /> 11,6<br /> 9,1<br /> <br /> 0,004<br /> <br /> 12<br /> 37<br /> 50<br /> 218<br /> <br /> 30,7<br /> 40,3<br /> 40,8<br /> 38,4<br /> <br /> 2,5<br /> 10,7<br /> 12,7<br /> 11,0<br /> <br /> n<br /> <br /> Mối tương quan giữa điểm chất lượng cuộc <br /> sống với thời gian chẩn đoán bệnh đến điều <br /> trị và các chỉ số xét nghiệm <br /> Bảng 7: Tương quan giữa điểm trung bình sức khoẻ <br /> thể chất với thời gian chẩn đoán bệnh đến điều trị và <br /> các chỉ số xét nghiệm <br /> <br /> 0,03<br /> <br /> Bệnh nhân tham gia nghiên cứu càng lớn tuổi <br /> thì điểm SKTT càng giảm, sự khác biệt này có ý <br /> nghĩa thống kê với p = 0,02. Có thể do các bệnh <br /> nhân lớn tuổi có sức khỏe thể chất kém hơn và họ <br /> đồng thời nhận biết được điều này, ngoài ra việc <br /> tạo ra gánh nặng tài chính cho con cháu cũng có <br /> thể là nguyên nhân khiến đối tượng thuộc nhóm <br /> lớn tuổi hơn dễ bị sa sút về mặt tinh thần. <br /> Điểm SKTT trung bình ở người độc thân (43,7 <br /> ± 11,1) cũng cao hơn những người đã có gia đình <br /> (37,1 ± 10,7) và sự khác biệt này có ý nghĩa thống <br /> kê với p= 0,001. Có thể do những áp lực tâm lý và <br /> vật  chất  đã  gây  ảnh  hưởng  lên  chất  lượng  cuộc <br /> sống của đối tượng này về mặt tinh thần. <br /> Những  bệnh  nhân  ở  tỉnh  có  điểm  sức  khỏe <br /> tinh  thần (37,7 ±  10,1) thấp hơn  những người  ở <br /> thành phố Hồ Chí Minh (40,7 ± 12,9) và sự khác <br /> biệt này có ý nghĩa thống kê với p= 0,04. Kết quả <br /> này phù hợp với hoàn cảnh thực tế, do việc điều <br /> trị  xa  nhà  sẽ  gây  tốn  kém  về  thời  gian,  chi  phí, <br /> đồng thời những bất an khi phải rời khỏi nơi ở <br /> <br /> 478<br /> <br /> trong  thời  gian  dài  sẽ  ảnh  hưởng  đến  cả  sức <br /> khỏe tinh thần và thể chất của đối tượng. <br /> <br /> Các yếu tố<br /> Thời gian chẩn đoán (tháng)<br /> BUN (mg/dl)<br /> Creatinin (mg/dl)<br /> <br /> Hệ số<br /> KTC 95%<br /> p<br /> -0,04 -0,066 – -0,006 0,02<br /> -0,03 -0,064 – -0,005 0,02<br /> -0,19 -0,367 – -0,022 0,03<br /> <br /> Kết quả cho thấy mối tương quan có ý nghĩa <br /> thống  kê  giữa  điểm  sức  khỏe  thể  chất  với  thời <br /> gian chẩn đoán bệnh đến điều trị (p=0,02) và các <br /> chỉ số xét nghiệm: BUN (p=0,02) và Creatinin (p <br /> = 0,03).Khi thời gian chẩn đoán bệnh đến điều trị <br /> tăng  lên  một  tháng  thì  điểm  sức  khỏe  thể  chất <br /> giảm 0,04 điểm. Khi chỉ số xét nghiệm BUN tăng <br /> lên một đơn vị thì điểm sức khỏe thể chất giảm <br /> 0,03  điểm.  Khi  chỉ  số  xét  nghiệm  creatinin  tăng <br /> lên một đơn vị thì điểm sức khỏe thể chất giảm <br /> 0,19 điểm. <br /> Bảng 8: Tương quan giữa điểm trung bình sức khoẻ <br /> tinh thần với thời gian chẩn đoán bệnh đến điều trị và <br /> các chỉ số xét nghiệm <br /> Yếu tố<br /> Thời gian chẩn<br /> đoán (tháng)<br /> BUN (mg/dl)<br /> Creatinin<br /> (mg/dl)<br /> <br /> Hệ số<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1