i

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

------------------------

LÊ THỊ HÀ

NGHIÊN CỨU GIẢM PROTEIN THÔ TRÊN CƠ SỞ CÂN ĐỐI MỘT SỐ AXIT AMIN THIẾT YẾU TRONG THỨC ĂN HỖN HỢP ĐẾN SINH TRƢỞNG CỦA LỢN CON GIAI ĐOẠN CAI SỮA - 56 NGÀY TUỔI LLUUẬẬNN VVĂĂNN TTHHẠẠCC SSỸỸ KKHHOOAA HHỌỌCC NNÔÔNNGG NNGGHHIIỆỆPP

Thái Nguyên - 2007

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

ii

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM ------------------------

LÊ THỊ HÀ

XÁC ĐỊNH TỶ LỆ LYSINE TRÊN NĂNG LƢỢNG

TRAO ĐỔI VÀ NGHIÊN CỨU GIẢM PROTEIN THÔ TRÊN CƠ SỞ CÂN ĐỐI MỘT SỐ AXIT AMIN THIẾT YẾU TRONG THỨC ĂN HỖN HỢP CỦA LỢN CON

GIAI ĐOẠN 28 ĐẾN 56 NGÀY TUỔI LLUUẬẬNN VVĂĂNN TTHHẠẠCC SSỸỸ KKHHOOAA HHỌỌCC NNÔÔNNGG NNGGHHIIỆỆPP

Chuyên ngành: Chăn nuôi

Mã số:

60.62.40

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS - TS TRẦN VĂN PHÙNG

Thái Nguyên - 2007

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

iii

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện đề tài tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình tạo điều kiện

và đóng góp những ý kiến quý báu để trình và hoàn thiện luận văn này.

Tôi xin trân trọng cảm ơn: Đảng uỷ - Ban giám hiệu nhà trường, Khoa sau đại học,

Khoa Chăn nuôi - Thú y, các Thầy, Cô giáo Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên, đặc

biệt là Thầy giáo, Phó Giáo sư - TS Trần Văn Phùng trực tiếp hướng dẫn tôi.

Tôi xin trân trọng cảm ơn Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Phú Thọ,

trường Trung học Nông nghiệp Phú Thọ, Phòng Thí nghiệm Trung tâm - Trường Đại học

Nông lâm Thái Nguyên, Trại Chăn nuôi lợn nái ngoại Tân Thái, Trại Chăn nuôi lợn

Cương Hường đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài.

Để hoàn thành luận văn này tôi còn nhận được sự động viên, giúp đỡ của gia đình

và bạn bè.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành trước mọi sự giúp đỡ quý báu đó.

Thái nguyên, tháng 10 năm 2007

Tác giả

Lê Thị Hà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

iv

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn

trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.

Mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn đều đã được cảm ơn. Các thông tin,

tài liệu trình bày trong luận văn này đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Thái nguyên, tháng 10 năm 2007

Tác giả

Lê Thị Hà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

v

MỤC LỤC

TRANG

NỘI DUNG

1

MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề

1

2. Mục đích đề tài

2

3

Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Cơ sở khoa học

3

1.1.1. Sử dụng con lai trong chăn nuôi lợn hiện nay

3

1.1.2. Đặc điểm tiêu hoá của lợn con giai đoạn sau cai sữa

7

1.1.3. Axit amin và vai trò với cơ thể lợn.

10

1.1.4. Sản xuất và sử dụng axit amin tổng hợp trong chăn nuôi lợn.

14

1.1.5. Protein lý tưởng và ứng dụng trong chăn nuôi lợn

17

1.1.6. Nhu cầu protein và lysine của lợn con:

27

1.1.7. Kỹ thuật sử dụng thức ăn cho lợn con theo mẹ và giai đoạn sau cai sữa

28

1.1.8. Vấn đề ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi hiện nay.

32

1.1.9. Vấn đề sử dụng khẩu phần ăn giảm protein có bổ sung thêm axit amin

33

hiện nay

1.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước.

35

1.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước.

35

1.2.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước

39

44

Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu

44

2.1.1. Đối tượng nghiên cứu

44

2.1.2. Địa điểm nghiên cứu

44

2.1.3.Thời gian nghiên cứu

44

44

2.2. Nội dung nghiên cứu

45

2.3. Phương pháp nghiên cứu

45

2.3.1. Phương pháp tiến hành các thí nghiệm

45

2.3.1.1. Nguyên tắc chung

46

2.3.1.2 Phương pháp bố trí thí nghiệm 1

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

vi

47

2.3.1.3 Phương pháp bố trí thí nghiệm 2.

52

2.3.1.4. Phương pháp chế biến và phối trộn thức ăn thí nghiệm

52

2.3.1.5. Phương pháp nuôi dưỡng lợn nái và lợn con

53

2.3.2. Phương pháp phân tích thành phần hoá học của thức ăn

53

2.3.2.1. Phương pháp xác định vật chất khô.

53

2.3.2.2. Phương pháp xác định hàm lượng protein thô

53

2.3.2.3. Phương pháp xác định hàm lượng khoáng tổng số

53

2.3.2.4. Phương pháp xác định hàm lượng xelluloz tổng số

53

2.3.2.5. Phương pháp xác định hàm lượng lipit

53

2.3.2.6. Phương pháp phân tích axit amin trong nguyên liệu thức ăn

54

2.3.2.7. Phương pháp tính năng lượng trao đổi của thức ăn

54

2.3.3. Các chỉ tiêu theo dõi

55

2.3.4. Phương pháp theo dõi các chỉ tiêu

56

2.3.5. Phương pháp sử lý số liệu

57

Chƣơng 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

57

3.1. Kết quả thí nghiệm 1

57

3.1.1 Sinh trưởng tích luỹ của lợn thí nghiệm.

59

3.1.2. Sinh trưởng tuyệt đối và tương đối của lợn thí nghiệm 1

61

3.1.3. Tiêu tốn thức ăn/ 1 kg tăng khối lượng lợn con từ 28 - 56 ngày tuổi (kg)

62

3.1.4 Tiêu tốn protein và lysine/kg tăng khối lượng của lợn

3.1.5. Chi phí thức ăn/ 1 kg tăng khối lượng lợn con từ 28 - 56 ngày tuổi

63

(đồng)

3.2. Kết quả thí nghiệm 2

66

3.2.1. Kết quả thí nghiệm 2a

66

3.2.1.1. Sinh trưởng tích luỹ của lợn thí nghiệm 2a

66

3.2.1.2. Sinh trưởng tương đối và sinh trưởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm 2a

67

3.2.1.3 Tiêu tốn thức ăn / 1 kg tăng khối lượng của lợn thí nghiệm 2a

69

3.2.1.4 Tiêu tốn protein và lysine/kg tăng khối lượng của lợn

70

3.2.1.5. Chi phí thức ăn/ kg tăng khối lượng giai đoạn lợn con cai sữa đến 56

72

ngày tuổi

3.2.1.6 Lượng nitơ thải ra trong phân, nước tiểu và nồng độ một số khí độc hại

73

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

vii

trong chuồng nuôi

3.2.2. Kết quả thí nghiệm 2b

74

3.2.2.1. Khả năng sinh trưởng tích lũy của lợn thí nghiệm

74

3.2.2.2. Sinh trưởng tuyệt đối và tương đối của lợn thí nghiệm 2b

76

3.2.2.3. Tiêu tốn thức ăn, protein và lysine /1kg tăng khối lượng lợn con thí

78

nghiệm 2b

3.2.2.4. Chi phí thức ăn/1kg tăng khối lượng lợn con thí nghiệm 2b

80

3.2.2.5. Kết quả xác định hàm lượng nitơ thải ra trong phân và nước tiểu

81

85

KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ ĐỀ NGHỊ

CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN

87

KẾT QUẢ LUẬN VĂN

88

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu trong nước

88

II. Tài liệu nước ngoài

90

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

viii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN

Diễn giải

Từ viết tắt

Cộng sự

:

cs

Đơn vị tính

:

ĐVT

Năng lượng tiêu hoá

:

DE

Năng lượng trao đổi/ME

:

NLTD

Năng lượng

NL

:

Megajun

: MJ

Kilôgam

:

kg

Khối lượng

:

KL

Thí nghiệm

:

TN

Tiêu chuẩn Việt nam

:

TCVN

Tiêu tốn thức ăn

:

TTTA

Thức ăn

:

TA

Số thứ tự

:

STT

Vật chất khô

:

VCK

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

ix

DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN VĂN

NỘI DUNG

TRANG

Bảng 2.1. Sơ đồ bố trí thí nghiệm 1

46

Bảng 2.2. Công thức và thành phần dinh dưỡng của thức ăn thí nghiệm 1

47

(%)

Bảng 2.3. Sơ đồ bố trí thí nghiệm 2a

48

Bảng 2.4. Sơ đồ bố trí thí nghiệm 2b

49

Bảng 2.5. Công thức và thành phần dinh dưỡng của thức ăn thí nghiệm 2a

50

(%)

Bảng 2.6. Công thức và thành phần dinh dưỡng của thức ăn

51

thí nghiệm 2b (%)

Bảng 3.1. Sinh trưởng tích luỹ của lợn con thí nghiệm 1

57

Bảng 3.2. Sinh trưởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm 1

60

Bảng 3.3. Sinh trưởng tương đối của lợn thí nghiệm 1

60

Bảng 3.4. Tiêu tốn thức ăn/ 1 kg tăng khối lượng từ 28 - 56 ngày tuổi của

61

thí nghiệm 1

Bảng 3.5. Tiêu tốn protein và lysine/ 1 kg tăng khối lượng từ 28 - 56 ngày

62

tuổi của thí nghiệm 1

Bảng 3.6. Chi phí thức ăn/ 1 kg tăng khối lượng lợn thí nghiệm 1

65

Bảng 3.7. Sinh trưởng tích luỹ của lợn thí nghiệm 2a

66

Bảng 3.8. Sinh trưởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm 2a

68

Bảng 3.9. Sinh trưởng tương đối của lợn thí nghiệm 2a

68

Bảng 3.10. Tiêu tốn thức ăn/ 1 kg tăng khối lượng giai đoạn

69

cai sữa - 56 ngày tuổi thí nghiệm 2a

Bảng 3.11. Tiêu tốn protein/1 kg tăng khối lượng giai đoạn

70

cai sữa - 56 ngày tuổi thí nghiệm 2a

Bảng 3.12. Tiêu tốn lysine/1 kg tăng khối lượng giai đoạn cai sữa - 56 ngày

71

tuổi thí nghiệm 2a

Bảng 3.13. Chi phí thức ăn/ kg tăng khối lượng giai đoạn

72

cai sữa đến 56 ngày tuổi thí nghiệm 2a

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

x

Bảng 3.14. Lượng nitơ thải ra trong phân, nước tiểu và nồng độ một số khí thải ra

73

trong chuồng nuôi (n=7) thí nghiệm 2a

Bảng 3.15. Sinh trưởng tích lũy của lợn thí nghiệm 2b

75

Bảng 3.16. Sinh trưởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm 2b

77

Bảng 3.17. Sinh trưởng tương đối của lợn thí nghiệm 2b

78

Bảng 3.18. Tiêu tốn thức ăn/ 1 kg tăng khối lượng lợn thí nghiệm 2b

79

Bảng 3.19. Tiêu tốn protein/ 1 kg tăng khối lượng lợn thí nghiệm 2b

79

Bảng 3.20. Tiêu tốn lysine/ 1 kg tăng khối lượng lợn thí nghiệm 2b

80

Bảng 3.21. Chi phí thức ăn/1kg tăng khối lượng lợn thí nghiệm 2b

81

Bảng 3.22. Kết quả phân tích hàm lượng nitơ trong phân và nước tiểu của

82

lợn thí nghiệm 2b

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

xi

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ LAI TẠO TRONG LUẬN VĂN

Biểu đồ. Hoạt động của men tiêu hoá ở giai đoạn lợn con .................................................... 9

Sơ đồ: Sơ đồ lai tạo các dòng lợn PIC ................................................................................... 6

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

1

MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề

Chúng ta biết rằng, quá trình sinh trưởng và phát triển của của lợn con

giai đoạn sau cai sữa đến 56 ngày tuổi đòi hỏi đầy đủ về nhu cầu dinh dưỡng

đặc biệt là protein. Về thực chất, nhu cầu protein của lợn con chính là nhu cầu

về các axit amin. Nếu bổ sung không đầy đủ các axit amin thiết yếu cho lợn

con, kể cả về mặt số lượng và tỷ lệ các axit amin, sẽ dẫn đến sinh trưởng của

lợn con bị ảnh hưởng, lợn chậm lớn, ảnh hưởng đến khả năng sản xuất của

các giai đoạn tiếp theo. Mặt khác nếu khẩu phần ăn cho lợn con trong giai

đoạn này có đủ hoặc dư thừa lượng protein mà không đủ về mặt số lượng và

tỷ lệ các axit amin thiết yếu sẽ dẫn đến việc đào thải protein ra môi trường,

gây lãng phí thức ăn và ảnh hưởng đến môi trường sinh sống của cả gia súc

lẫn con người.

Ngay từ những năm đầu của thập niên 60, rất nhiều nghiên cứu về nhu

cầu của lysine và methionine cho gia súc và gia cầm đã được tiến hành với lý

do đây là những axit amin giới hạn đầu tiên và khả năng đáp ứng trong sản

xuất. Cho đến những năm 1980, việc sản xuất tryptophan và threonine mới có

khả năng đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn chăn nuôi, đây là khởi đầu cho

các nghiên cứu nhằm cung cấp đủ nhu cầu axit amin và giảm thiểu việc thừa

các axit amin trong phân và nước tiểu.

Chăn nuôi lợn ở nước ta hiện nay mặc dù đã phát triển khá mạnh mẽ cả

về số lượng và chất lượng, song còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt các tỉnh

miền núi phía Bắc. Do giá sản phẩm thịt luôn giao động, thị trường tiêu thụ

hạn hẹp, giá sản phẩm có xu hướng giảm, nhưng giá các loại thức ăn giàu

đạm, như bột cá, đậu tương,...lại có xu hướng tăng khá cao, nên đã ảnh hưởng

lớn tới sản xuất chăn nuôi, phần nào ảnh hưởng đến việc mở rộng và phát

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

triển sản xuất.

2

Để giải quyết một phần khó khăn trên, hiện nay các cơ sở sản xuất thức

ăn thường áp dụng phương pháp nâng cao lượng protein trong thức ăn hỗn

hợp để đảm bảo nhu cầu axit amin, nhưng việc làm này ảnh hưởng lớn đến

môi trường (do một phần nitơ thừa mà cơ thể không sử dụng sẽ thải ra bên

ngoài hình thành nên các chất như nitrit, nitrat, SO4, NH3 ...) và giảm hiệu quả kinh tế. Do đó việc nghiên cứu xác định tỷ lệ thích hợp protein trên cơ sở cân

bằng axit amin nhằm tiết kiệm thức ăn protein, nguồn thức ăn có xu hướng

ngày càng tăng giá trên thị trường và giảm thiểu ô nhiễm môi trường là vấn đề

cần thiết. Vì những lý do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:

“Xác định tỷ lệ lysine trên năng lượng trao đổi và nghiên cứu giảm

protein thô trên cơ sở cân đối một số axit amin thiết yếu trong thức ăn hỗn

hợp của lợn con giai đoạn 28 đến 56 ngày tuổi”.

2. Mục đích đề tài

- Xác định tỷ lệ lysine/NLTĐ thích hợp cho lợn con giai đoạn từ cai

sữa đến 56 ngày tuổi.

- Xác định mức giảm protein thô thích hợp trong thức ăn cho lợn con

trên cơ sở cân đối lysine, methionine, threonine và tryptophan nhằm tiết kiệm

thức ăn đạm, làm tăng hiệu quả kinh tế của chăn nuôi lợn con giai đoạn này.

- Giảm thiểu các chất thải ra bên ngoài môi trường như hàm lượng nitơ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

trong phân, nước tiểu và một số khí H2S, NH3 , SO2 , … bằng việc giảm tỷ lệ protein tổng số trong thức ăn có cân đối đủ một số axit amin thiết yếu.

3

Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Cơ sở khoa học

1.1.1. Sử dụng con lai trong chăn nuôi lợn hiện nay

Như chúng ta đều biết, trong chăn nuôi gia súc gia cầm nói chung, chăn

nuôi lợn nói riêng thì công tác giống đóng vai trò rất quan trọng trong việc

thúc đẩy chăn nuôi phát triển cả về mặt số lượng và chất lượng. Đồng thời

đẩy mạnh việc cải tạo và nâng cao phẩm chất các giống lợn của nước ta, tạo

ra những con giống mới có năng suất cao. Để đạt được yêu cầu trên thì ngoài

việc tạo ra những điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc tốt, chúng ta cần tiến hành

chọn phối, chọn giống, nhân giống một cách nghiêm túc và chính xác. Nhân

giống là bước tiếp theo của chọn lọc và cải tiến di truyền, nhân giống sẽ phát

huy được hiệu quả của chọn lọc. Bằng phương pháp chọn lọc và nhân giống

thuần chủng cũng nâng cao được năng suất chăn nuôi, nhưng đến một giai

đoạn nào đó thì hiệu quả chọn lọc sẽ bị hạn chế do tần số đồng hợp tử đạt tỷ

lệ cao. Muốn nâng cao năng suất lên nữa, thì chúng ta cần tiến hành lai tạo để

có tổ hợp gen mới.

Như vậy lai tạo là một biện pháp nhân giống nhằm nâng cao năng suất

chăn nuôi và chất lượng sản phẩm thông qua tận dụng ưu thế lai. Thuật ngữ

ưu thế lai lần đầu tiên được nhà khoa học người Mỹ tên là Shull đưa vào năm

1914. Theo ông ưu thế lai là tập hợp của những hiện tượng liên quan đến sức

phát triển nhanh hơn, khả năng chống chịu bệnh tốt hơn và năng suất cao hơn

ở thế hệ đời con so với bố mẹ. Hiện nay có nhiều nước chăn nuôi lợn phát

triển, 70 - 90% lợn nuôi thịt là lợn lai hybrid. Tại đó, ưu thế lai được coi là

một nguồn lực sinh học để tăng năng suất và hạ giá thành sản phẩm chăn

nuôi. Tuy nhiên trong thực tế có một số vấn đề, đó là: ưu thế lai bằng không

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

khi năng suất của con lai chỉ bằng mức trung bình của lợn bố mẹ và không

4

phải bất cứ cặp lai nào cũng đều cho ưu thế lai. Ưu thế lai không di truyền và

độ lớn của ưu thế lai phụ thuộc vào hệ số di truyền. Các tính trạng có hệ số di

truyền thấp sẽ có ưu thế lai cao và những tính trạng có hệ số di truyền cao sẽ

có ưu thế lai thấp.

Trong thực tế chăn nuôi lợn hiện nay thường sử dụng một số công

thức lai như:

+ Lai kinh tế: Kết quả của lai kinh tế là con lai F1 chỉ dùng vào mục

đích nuôi thịt hoặc cho cá thể khác dòng đã có sự phân hoá về di truyền giao

phối để tạo con lai, cũng chỉ sử dụng vào mục đích nuôi thịt. Có 3 phương

pháp lai kinh tế, đó là:

- Lai kinh tế đơn giản, đây là phương pháp lai đơn giản và sử dụng

được tối đa 100% ưu thế lai từ con lai bố mẹ nhằm nâng cao một số đặc điểm

tốt ở các giống, mục đích của hình thức lai này là sử dụng ưu thế lai tạo lợn

thịt thương phẩm.

- Lai kinh tế phức tạp 3 giống: Là lai từ 3 giống trở lên, tạo con lai

thương phẩm có 3 máu cho năng suất cao. Công thức lai chung là (C x AB).

Hiện nay công thức lai 3 giống phổ biến ở đồng bằng Bắc Bộ là dùng giống

Móng cái, Yorkshire và Landrace, hoặc chăn nuôi lợn ngoại Yorkshire,

Landrace và Duroc. Kết quả cuối cùng của công thức lai 3 máu là con lai

thương phẩm có khả năng tăng khối lượng cao, mức tiêu tốn thức ăn ít, độ

dày mỡ lưng thấp, sức sống cao…

- Lai kinh tế 4 giống: Sử dụng con bố là đực lai, con mẹ là cái lai, công

thức tổng quát là (AB x CD). Đây là phương pháp lai có sử dụng 4 giống

thuần để tạo lợn thịt thương phẩm theo cách 2 giống làm thành một cặp.

Hiện nay trong ngành chăn nuôi ở nước ta chưa ứng dụng rộng rãi phương

pháp lai kép này vì chúng ta chưa có cơ sở tạo được dòng thuần cao sản, gồm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

các gen thuần trội để các con lai có thể phát huy ưu thế lai mạnh mẽ hơn.

5

+ Lai cải tiến: Là phương pháp dùng để sửa chữa khuyết, nhược điểm

của một giống nào đó, mà về cơ bản giống này đã đáp ứng được yêu cầu của sản

xuất và người tiêu dùng. Ví dụ: Giống lợn Pietrain của Pháp là một giống tốt,

tăng khối lượng nhanh, tỉ lệ nạc cao,...nhưng khả năng sinh sản thấp, người ta

dùng lợn Á Đông để cải tiến nâng cao khả năng sinh sản của giống này.

+ Lai cải tạo: Phương pháp này thường dùng các giống nhập nội để cải

tạo đặc điểm di truyền của giống địa phương, như: dùng lợn Đại bạch để lai

cải tạo với giống lợn Móng Cái để tạo giống lợn mới mang đặc điểm chính

của giống Đại bạch, còn giống lợn Móng Cái thì giữ lại đặc điểm mắn đẻ, khả

năng sinh sản cao và chống chịu bệnh tật tốt.

Ở Việt Nam hiện nay, có rất nhiều chương trình lai tạo ra lợn lai thịt

có 4 - 5 giống trong đó có hệ thống nhân giống hình tháp của công ty PIC

(công ty giống lợn nước Anh, hiện đã được chuyển giao cho Việt Nam). Đây

là một mô hình giống chiếm khoảng 30% thị phần sản xuất giống lợn ngoại

lai Hybrid của Việt Nam. Với 3 dòng thuần dòng cụ kỵ là dòng L11 (giống

Yorshire, chuyên hoá tăng theo khối lượng, tỷ lệ nạc), dòng L06 (giống

Landrace chuyên hoá theo khả năng sinh sản), và dòng L64 (giống Pietrain

chuyên hoá tỷ lệ nạc cao) và 2 dòng tổng hợp là L19 và L95.

Để tạo ra lợn lai nuôi thịt có 4 - 5 máu có năng suất, chất lượng cao

đáp ứng nhu cầu thị trường hiện nay, người ta thường cho lợn đực giống

dòng 402 lai với lợn nái CA và C22. Lợn đực dòng 402 được tạo ra từ việc

cho lai tạo giữa lợn đực dòng L64 và lợn nái dòng L11. Lợn nái C22 và CA

dòng bố mẹ được tạo ra bằng cách cho lai giữa đực dòng L19 với lợn nái

C1050 và C1230.

Lợn nái C22 có đặc điểm toàn thân màu trắng, bốn chân chắc khoẻ, thân

hình phát triển cân đối. Khả năng sinh sản cao, đẻ sai con (từ 10 - 12 con/ ổ), nuôi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

con khéo. Khi cho lai với đực 402 sẽ tạo ra lợn lai nuôi thịt có 4 máu.

6

Lợn nái CA có đặc điểm ngoại hình là toàn thân màu trắng, tầm vóc

trung bình đẻ sai con (từ 11 - 13 con/ ổ), nuôi con khéo. Khi cho lai với

đực 402 sẽ tạo ra con lai hybrid 5 giống để nuôi thịt. Lợn lai hybrid nuôi

thịt 4 hoặc 5 giống có năng suất chăn nuôi cao, phẩm chất thịt tốt (Tỷ lệ

nạc cao), phù hợp với phương thức chăn nuôi công nghiệp hiện nay, được

thị trường ưa chuộng. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này, cần phải đáp

ứng đầy đủ về dinh dưỡng (số lượng và chất lượng thức ăn), về chăm sóc

nuôi dưỡng ...

GGP (Cô kþ)

L06 Landrance

L19 Duroc lai

L95 Meishan

L11 Yorkshire

L64 Pietran

L19

GP (¤ng bµ)

GP (1230)

GP (1050)

402

C22

CA

Sơ đồ lai tạo các dòng lợn PIC

4 m¸u

4 m¸u

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

PS (Bè mÑ)

7

1.1.2. Đặc điểm tiêu hoá của lợn con giai đoạn sau cai sữa

Mục đích của việc chăn nuôi lợn con giai đoạn theo mẹ là làm thế nào

để lợn con đạt khối lượng cai sữa cao, khi nuôi thịt lợn sinh trưởng phát triển

nhanh, đồng thời là cơ sở để tạo giống tốt và giúp chúng ta nâng cao được sức

sống của đàn con. Để đạt được mục đích trên, bên cạnh việc tao cho lợn con

điều kiện chăm sóc tốt, chúng ta cần hiểu rõ các đặc điểm của lợn con giai

đoạn theo mẹ, đặc biệt là đặc điểm của cơ quan tiêu hoá lợn con để từ đó phối

hợp được khẩu phần thức ăn phù hợp.

Đặc điểm cơ quan tiêu hoá của lợn con giai đoạn theo mẹ phát triển

nhanh về cấu tạo và hoàn thiện dần về chức năng tiêu hoá: Dung tích của dạ

dày lợn con lúc 10 ngày tuổi có thể tăng gấp 3 lần lúc sơ sinh, lúc 20 ngày

tuổi tăng gấp 8 lần lúc 60 ngày tuổi tăng gấp 60 lần (dung tích lúc sơ sinh

khoảng 0,03 lít).

Dung tích ruột non của lợn con lúc 10 ngày tuổi gấp 3 lần lúc sơ sinh,

lúc 20 ngày tuổi gấp 6 lần và lúc 60 ngày tuổi gấp 50 lần. Dung tích ruột già

của lợn con lúc 10 ngày tuổi gấp 1,5 lần lúc sơ sinh, lúc 20 ngày tuổi gấp 2,5

lần và lúc 60 ngày tuổi gấp 60 lần.

Về chức năng tiêu hoá: lợn con mới sơ sinh các men tiêu hoá chưa có

hoạt lực cao, trong giai đoạn theo mẹ, chức năng tiêu hoá của một số men tiêu

hoá được hoàn thiện dần:

- Men pepsin: Lợn con dưới một tháng tuổi, men pepsin trong dạ dày

chưa có khả năng tiêu hoá protein của thức ăn, vì lúc này trong dịch vị không

có HCl tự do, lượng axit tiết ra rất ít và nhanh chóng liên kết với dịch nhầy

của dạ dày, gây ra hiện tượng thiếu axit hay còn gọi là "Hypoclohydric".

Đây là một đặc điểm quan trọng trong tiêu hoá dạ dày ở lợn con. Khi có HCL

tự do sẽ kích hoạt men pepsinogen và men này mới có khả năng tiêu hoá.Vì

thiếu HCl tự do nên dịch vị không có tính sát trùng, vi sinh vật xâm nhập vào

dạ dày dễ sinh sôi nẩy nở và phát triển gây ra các bệnh về đường tiêu hoá ở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

lợn con.

8

Chúng ta có thể kích thích tế bào vách dạ dày lợn con tiết ra HCL tự do

sớm hơn bằng cách bổ sung thức ăn sớm cho lợn con. Nếu tập cho lợn con ăn

sớm vào lúc 5-7 ngày tuổi thì HCL tự do có thể được tiết ra từ ngày tuổi thứ 14.

- Men trypsin:

Là men tiêu hoá protein do tuyến tụy tiết ra, ở thai lợn lúc 2 tháng tuổi,

trong chất tiết đã có men trypsin, thai càng lớn, họat tính của men trypsin

càng cao. Khi lợn con mới đẻ ra, men trypsin của dịch tuỵ đã có hoạt tính cao

để bù đắp lại khả năng tiêu hoá kém của men pepsin dạ dày.

- Men catepsin:

Là men tiêu hoá protein trong sữa. Đối với lợn con ở 3 tuần tuổi đầu,

men catepsin có hoạt tính mạnh, sau đó hoạt tính giảm dần theo sự tăng dần

hàm lượng HCL tự do trong dịch vị.

- Men amylaza và maltaza:

Hai men này có trong nước bọt và trong dịch tụy lợn con từ lúc mới đẻ,

nhưng dưới 3 tuần tuổi hoạt tính còn thấp, do đó khả năng tiêu hoá tinh bột của

lợn con còn kém, chỉ tiêu hoá được 50 % lượng tinh bột ăn vào. Đối với tinh bột

sống, lợn con tiêu hoá càng kém. Sau 3 tuần tuổi, men amylaza và maltaza mới có

hoạt tính mạnh, nên khả năng tiêu hoá tinh bột của lợn con tốt hơn.

- Men saccaraza:

Đối với lợn con dưới 2 tuần tuổi men saccaraza hoạt tính còn thấp,

nếu cho lợn con ăn đường saccrose thì rất dễ bị ỉa chảy.

- Men lactaza:

Có tác dụng tiêu hoá đường lactose trong sữa. Men này có hoạt tính

mạnh ngay từ khi lợn con mới đẻ ra và tăng cao nhất ở tuần tuổi thứ 2, sau đó

hoạt tính của men này giảm dần.

- Men lipaza và chymosin:

Hai men này có hoạt tính mạnh trong 3 tuần đầu và sau đó hoạt tính

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

giảm dần.

9

Hoạt động của một số loại men tiêu hoá ở lợn con được trình bày tại

(biểu đồ 1).

LỢN

Qua đó chúng ta thấy men amylase, maltase và protease tăng dần theo sự

tăng lên của ngày tuổi, men lipase tăng dần đến khi cai sữa sau đó giảm dần. Riêng

men lactase tăng cao nhất ở giai đoạn 2 tuần tuổi sau đó giảm dần theo sự tăng lên

của ngày tuổi. Đây chính là điểm cần lưu ý khi bổ sung thức ăn cho lợn con.

Thông thường lợn con sau cai sữa thường rất hay bị tổn thương nhung

mao ở thành ruột non do ảnh hưởng của thức ăn, khi đó sẽ giảm khả năng sản

xuất men tiêu hoá của lợn con, giảm khả năng tiêu hoá và hấp thụ thức ăn.

Thức ăn không được hấp thụ sẽ chuyển xuống ruột già, làm tăng sự phát triển

của vi sinh vật có hại và tăng khả năng bùng phát vi khuẩn E.coli làm cho lợn

bị ỉa chảy. Biểu hiện bên ngoài của hiện tượng này là lợn con gầy, sút cân,

lông da nhợt nhạt, sinh trưởng giảm. Do vậy thức ăn bổ sung cho lợn con phải

đáp ứng được khả năng tiêu hoá của chúng.

Nhiều thực nghiệm còn xác nhận rằng nhiều loại vi khuẩn đường ruột

đã sinh ra các chất kháng sinh ức chế sự phát triển của vi khuẩn gây ra bệnh

như: Vi khuẩn phó thương hàn, vi khuẩn thối rữa. Ở lợn con mới sinh, hệ vi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

sinh vật đường ruột chưa phát triển, chưa đầy đủ số lượng vi khuẩn có lợi, cho

10

nên chưa tạo được sự cân bằng về hệ vi sinh vật tiêu hoá của lợn con, tạo điều

kiện cho các vi khuẩn gây bệnh như E. coli phát triển mạnh nên lợn con bị rối

loạn tiêu hoá.

Như vậy để tăng tỷ lệ tiêu hoá và làm giảm tiêu chảy ở lợn con cũng

như để phù hợp với khả năng tiêu hoá của lợn, thì trong sản xuất thức ăn cho

lợn con giai đoạn tập ăn và sau cai sữa chúng ta nên sử dụng các loại thức ăn

dễ tiêu hoá như: Bột sữa, đường lactose,...thức ăn cần được rang chín và

nghiền nhỏ đồng thời bổ sung thêm một số axit hữu cơ như: axit lactic,...

1.1.3. Axit amin và vai trò với cơ thể lợn.

Như chúng ta đã biết, protein của thức ăn được cấu tạo từ các axit amin,

thực ra lợn không có nhu cầu về protein mà là nhu cầu về các axit amin. Tuy

nhiên lượng axit amin trong khẩu phần có liên quan chặt chẽ đến lượng

protein trong thức ăn. Vì vậy việc quan tâm đến lượng protein có trong thức

ăn là rất quan trọng, đặc biệt trong trường hợp chỉ sử dụng thức ăn tự nhiên

mà không bổ sung các loại axit amin công nghiệp.

Axit amin được tạo thành do thủy phân protein dưới tác dụng của các

enzym, axit hoặc kiềm. Quyết định đặc tính của các axit amin là nhóm amin

(-NH2) và nhóm cacboxil (- COOH).

Khi tách các hợp chất sinh học, người ta thu được hơn 100 loại axit

amin, nhưng chỉ có khoảng 20 -22 loại axit amin có vai trò quan trọng dinh

dưỡng động vật. Các axit amin tìm thấy trong tự nhiên hầu hết ở dạng L, ở

dạng này cơ thể sử dụng tốt, một số axit amin ở dạng D. Trong công nghiệp

người ta đã tổng hợp được hỗn hợp axit amin dạng D và dạng L.

Trong 20 loại axit amin thường gặp trong tự nhiên không phải chất nào

cũng có tầm quan trọng như nhau. Có những axit amin không nhất thiết phải

có mặt trong thức ăn, và nếu thiếu chúng thì trong cơ thể động vật có thể tổng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

hợp được từ những chất khác. Đó là các axit amin có thể thay thế, ngược lại

11

có những axit amin không thể thay thế được, chúng nhất thiết phải có sẵn

trong thức ăn người ta gọi chúng là các axit amin không thể thay thế, gồm:

lysine, methionine, tryptophan, leucine, isoleucine, threonine, phenyllalanine,

valine, hystidin, arginine.

Vai trò sinh học của lysine, methionine, tryptophan, leucine, isoleucine,

threonine, phenyllalanine, valine, hystidin được xác định ở chỗ chúng có

trong tất cả các protein quan trọng của cơ thể động vật, nhưng cơ thể không tự

tổng hợp được, và không thay thế chúng bằng những axit amin khác. Vì vậy

chúng được gọi là axit amin không thể thay thế. Các axit amin này cần được

đưa vào cơ thể động vật từ thức ăn với số lượng theo nhu cầu tương ứng.

Thiếu một trong 10 axit amin không thay thế trong khẩu phần thức ăn sẽ gây

ảnh hưởng xấu tới trạng thái của động vật: động vật non sẽ ngừng lớn, phát

triển kém, động vật trưởng thành sẽ giảm thể trọng, kém ăn dễ bị mắc bệnh.

Bởi vì, khi thiếu axit amin trong cơ thể không thể tổng hợp được protein tế

bào, máu và bạch cầu, mà trong thành phần của các hợp chất này cần phải có

những axit amin đó. Như vậy việc tổng hợp các enzyme cũng sẽ chậm lại, khi

thiếu các enzyme việc trao đổi chất sẽ không thể thực hiện được. Như vậy,

thiếu axit amin không thay thế làm phá hủy hoạt động sống của động vật.

Quá trình tích luỹ protein bị ảnh hưởng bởi sự thiếu hụt của axit amin

trong khẩu phần, thức ăn của lợn chủ yếu là các loại ngũ cốc nên thường

nghèo protein và không cân đối dinh dưỡng, đặc biệt là sự cân đối các axit

amin. Đối với sinh trưởng và phát triển của lợn, các loại thức ăn trên thường

kém cả về số lượng và tỷ lệ các axit amin. Protein trong ngũ cốc thường thiếu

3 axit amin quan trọng là: lysine, methionine và tryptophan.

- Lysine là một axit amin không thể thay thế quan trọng nhất đối với

tất cả các động vật. Trong các khẩu phần thức ăn có nguồn gốc thực vật nói

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

chung đều thiếu lysine. Axit amin này ảnh hưởng tới trạng thái của hệ thần

12

kinh, tới hàm lượng kali ở trong mô, đến sự định hình của mô xương, đến sự

tạo thành axit nucleic,...Khi thiếu lysine con vật ăn không ngon miệng, chậm

lớn, kiệt sức dần, phá vỡ sự tái tạo các cơ quan chức năng của cơ thể, khô

da,...nếu thêm 0,2 % L - lysine vào khẩu phần ăn là hạt ngũ cốc và khô đậu

tương sẽ làm cho lợn phàm ăn, tăng khối lượng nhanh. Lợn rất cần lysine, đặc

biệt là những lợn dưới 50 kg. Nhu cầu lysine của lợn tùy thuộc vào giai đoạn

sinh trưởng, đối với lợn cai sữa nhu cầu này chỉ còn khoảng hơn một nửa so

với lợn 2 tuần tuổi.

- Axit amin thứ 2 thường thiếu trong khẩu phần thức ăn của lợn là

tryptophan. Thiếu axit amin này đặc biệt là trường hợp thiếu kéo dài thì lợn

sẽ giảm thể trọng, tiêu hóa thức ăn kém, tăng tuyến giáp trạng, bị đục thủy

tinh của mắt, teo buồng trứng và tinh hoàn, bị rụng lông. Những lợn trong độ

tuổi phát triển rất nhạy cảm với sự thiếu hụt tryptophan. Sự trao đổi

tryptophan có liên quan mật thiết với các vitamin B12 và B6, trong gan nếu

thiếu vitamin B12, sẽ giảm hoạt tính của các enzyme.

- Axit amin thứ ba là methionine: Trong phân tử methionine chứa một

nguyên tử lưu huỳnh và nhóm metyl ( - CH3 ) rất không bền, nhóm này được

cơ thể sử dụng để metyl hóa những hợp chất khác. Không có hoặc thiếu axit

amin này lợn ngừng sinh trưởng, hiệu suất sử dụng thức ăn thấp, thường thấy

hiện tượng thiếu máu, tích mỡ ở gan, làm giảm hoạt động tuyến tụy, cơ bị teo.

Methionine đóng vai trò quan trọng trong các quá trình biến đổi của nhiều

chất, như: protein, chất béo, hocmon, cholesteron, trong hoạt động của hệ

thần kinh, trong quá trình chuyển hóa amin hóa và quá trình oxi hóa khử ở các

mô của cơ thể,... Trong cơ thể động vật methionine có liên quan chặt chẽ với

sự tạo thành và trao đổi colin, vitamin B12 và axit folic. Cùng với những chất

này methionine làm tăng khả năng sử dụng chất béo trong khẩu phần thức ăn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

của động vật. Nhu cầu methionine ở động vật trưởng thành cao hơn so với

13

động vật còn non, có thể là sự liên quan với sự phát triển của lông (ở lông

chứa rất nhiều lưu huỳnh). Trong khẩu phần của lợn con sẽ thiếu methionine

khi giảm lượng protein có nguồn gốc động vật. Nếu trong khẩu phần có

vitamin B12 làm giảm nhu cầu của methionine. Trường hợp thiếu methionine

và cystine trong thức ăn sẽ rối loạn dinh dưỡng ở gan lợn, nếu thêm hai axit

amin đó vào khẩu phần, cũng như vitamin E sẽ loại trừ được hiện tượng kể

trên. Việc dư thừa methionine trong khẩu phần thức ăn sẽ làm giảm khá nhiều

tốc độ sinh trưởng của động vật. Trong trường hợp này methionine được xem

như là một chất độc (Ngoài tác dụng làm giảm tốc độ sinh trưởng còn làm

thay đổi bệnh lý của lá lách, tuyến tụy, gan, thận, ruột non).

Bổ sung methionine và lysine vào khẩu phần thức ăn là ngô và khô đậu

tương có tổng hàm lượng protein khác nhau (16,14 và 12 %) cho hiệu quả

tăng trọng của lợn cai sữa khá cao, đặc biệt là khẩu phần có 12 -14 % protein.

Ở khẩu phần 14 % thêm 0,0375 % methionine thì tăng trọng và tiêu tốn thức

ăn trên 1 kg tăng trọng là 762,7 g trong một ngày đêm và 3,09 kg; thêm

0,075% methionine và 0,15% lysine vào khẩu phần 12% thì các chỉ tiêu trên

là 731 g và 3,15 kg. Bổ sung đồng thời hai axit amin này vào thức ăn sẽ làm

tăng sự đồng hóa nitơ và nâng cao hàm lượng thịt trong cơ thể lợn. Có đầy đủ

methionine còn giúp cho cơ thể khắc phục tình trạng thiếu cholin và thúc đẩy

sự tổng hợp chất này (Lương Đức Phẩm, 1982 [11].

Bên cạnh 3 axit amin thường thiếu trong thức ăn của lợn vừa nói ở trên,

thì các axit amin không thể thay thế còn lại cũng có vai trò hết sức quan trong

đối với cơ thể, đó là:

- Leucine: Là một axit amin không thể thay thế, cần thiết để xây dựng

protein mô, cần thiết cho hoạt động của tuyến tụy, khi bổ sung đầy đủ nhu cầu

leucine cho cơ thể động vật sẽ kích thích hoạt động của hệ tuần hoàn, tuy

nhiên nếu chúng ta cung cấp dư thừa leucine trong khẩu phần thức ăn làm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

cho cơ thể động vật ngừng lớn.

14

- Isoleucine: Khi có axit amin không thể thay thế này trong cơ thể sẽ

tạo thành glucogen và các chất khác nữa. Trong khẩu phần thức ăn không có

isoleucine thì mức các axit amin tự do trong các mô của gà con sẽ bị thay đổi

nhanh chóng và gà sẽ bị chết. Trong trường hợp axit amin này không đủ trong

khẩu phần, động vật sẽ sụt cân khá nhanh.

- Threonine: đây là một axit amin không thể thay thế trong cơ thể tham

gia gián tiếp hàng loạt biến đổi dành cho glycine. Threonine được dùng để

tổng hợp axit béo và gluxit,...Khi khẩu phần thức ăn không đủ threonine, gan

sẽ bị mỡ hoá, động vật bị sụt cân. Khi thiếu cả threonine và tryptophan trong

thức ăn, động vật sẽ bị mỡ hoá ở gan giống như trường hợp thiếu threonine.

- Phenyllalanine: Trong cơ thể phenyllalanine là một axit amin không

thể thay thế, biến đổi và tạo thành các hợp chất khác trong quá trình trao đổi

chất. Trong khẩu phần không đủ phenyllalanine thì lợn sẽ sút cân và tăng chi

phí về thức ăn.

- Valine: Valine rất cần thiết đối với hoạt động bình thường của hệ thần

kinh. Khi không đủ valine trong khẩu phần thức ăn, động vật sẽ giảm thể

trọng, rối loạn phối hợp các chuyển động, bắp thịt bị yếu đi.

- Arginine: Axit amin này có trong các protein kiềm tính với một

lượng khá lớn, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo thành urê. Trong cơ

thể arginine sẽ biến thành ocnitin, mà ocnitin có tác dụng rất lớn trong quá

trình tổng hợp urê. Arginine có tác dụng dương tính trong chăn nuôi gia cầm

rõ rệt. Gà con hầu như không tổng hợp được arginine. Axit amin này có ảnh

hưởng đến việc hấp thụ canxi, cùng với glysine cũng có ảnh hưởng đến sự

phát triển lông ở gia cầm.

1.1.4. Sản xuất và sử dụng axit amin tổng hợp trong chăn nuôi lợn

Hiện nay, trên thị trường đã có 4 loại axit amin được sử dụng rộng rãi

trong công nghiệp chế biến thức ăn. Đứng đầu là L-lysine HCl, đây là loại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

axit amin được sử dụng rộng rãi nhất trong thức ăn cho lợn. Ba loại axit amin

15

là DL-methionine, L-threonine và L-tryptophan được sử dụng ít hơn đặc biệt

tryptophan, chủ yếu dùng để sản xuất thức ăn cho lợn con.

Việc sản xuất và sử dụng các axit amin tổng hợp làm thức ăn cho gia

súc đã diễn ra trong khoảng 40 năm nay. Trong những năm cuối của thập kỷ

1950-1960, DL-methionine đã được sản xuất bằng phương pháp tổng hợp hóa

học đã được sử dụng trong chăn nuôi gia cầm. Việc sản xuất L-lysine bằng

phương pháp lên men đã được tiến hành tại Nhật Bản trong những năm của

thập niên '60 của thế kỷ trước. Việc sử dụng DL-methionine, L-lysine HCl, L-

threonine và L - tryptophan được tiến hành vào những năm cuối của thập niên

'80. Với tiến bộ của công nghệ sinh học, giá thành sản xuất của các axit amin

tổng hợp đã giảm đáng kể, đây chính là yếu tố quan trọng trong việc sử dụng

chúng vào sản xuất và chế biến thức ăn cho gia súc, gia cầm. Ngày nay, việc

sử dụng các axit amin tổng hợp có vai trò quan trọng trong việc cải thiện khả

năng sử dụng protein cũng như năng suất của vật nuôi. Hàng năm sản lượng

các axit amin tổng hợp được sản xuất ra khá cao, sản lượng của năm 2000 đối

với DL-methionine là 550.000 tấn, L-lysine HCl là 550.000 tấn, L-threonine

đạt 30.000 tấn và L - tryptophan đạt 1.000 tấn.

DL - methionine được sản xuất theo phương pháp tổng hợp hóa học từ

các chất như acrolein, axit hydrocyanic và methyl mercaptan. Sản lượng DL -

methionine kể trên bao gồm cả methionine hydroxyt (có giá trị dinh dưỡng

tương đương với DL - methionine). Các axit amin còn lại như L-lysine HCL,

L- threonine và L-tryptophan đều được sản xuất bằng phương pháp lên men.

Bằng việc nuôi cấy các chủng vi sinh vật đặc trưng cho việc sản xuất từng

axit amin, trong môi trường nuôi cấy có chứa glucose hoặc đường và các chất

dinh dưỡng khác (như muối ammonium sulfate, chất cung cấp nitơ, khoáng và

vitamine). Từ môi trường nuôi cấy, các axit amin được tách chiết bằng thiết bị

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

trao đổi ion. Năng suất lên men của từng chủng vi sinh vật là yếu tố quan

16

trọng nhất trong việc sản xuất các axit amin. Ngày nay, năng suất lên men L-

lysine HCl từ glucose và đường đã đạt trên dưới 50%.

Sử dụng axit amin tổng hợp trong sản xuất thức ăn gia súc:

Trong số các axit amin, chúng ta thấy lysine là axit amin được đề cập

đến nhiều nhất trong dinh dưỡng của lợn vì hai lý do chính sau đây. Thứ nhất,

hàm lượng của lysine trong trong cơ và các tế bào khác là tương đối cao

(khoảng 7%). Lý do thứ hai là hầu hết các loại thức ăn cung cấp cho lợn đều

có hàm lượng lysine thấp, đặc biệt là các loại thức ăn ngũ cốc. Ví dụ như ngô

chỉ có 0,25% lysine, chỉ bằng 1/4 đến 1/3 nhu cầu của lợn. Lúa mỳ và yến

mạch có hàm lượng lysine cao hơn ngô (từ 0,35 đến 0,40%) nhưng vẫn thấp

hơn nhiều nhu cầu của các loại lợn. Vì thế khi sử dụng các hạt ngũ cốc làm

thức ăn cho lợn, chúng ta phải sử dụng thêm các loại thức ăn cung cấp protein

có hàm lượng lysine cao (như khô đậu tương, bột cá…) để cung cấp đủ nhu

cầu lysine cho lợn. Mặt khác, chúng ta cũng thường ít gặp sự thiếu hụt của 9

axit amin thiết yếu còn lại bởi vì chúng thường được cung cấp một lượng

tương đối khi chúng ta bổ sung protein nhằm cung cấp đủ lysine. Hay nói một

cách khác, khi ta sử dụng protein nhằm đảm bảo đủ nhu cầu của lysine, thì

cũng đã cung cấp đủ nhu cầu của các axit amin khác.

Tầm quan trọng của việc sử dụng axit amin tổng hợp trong việc sản

xuất thức ăn protein cho nhu cầu của con người:

Ngành công nghiệp chăn nuôi gia súc có thể hiểu như là ngành công

nghiệp sản xuất thức ăn protein chất lượng cao (thịt, sữa) từ những nguồn

protein có chất lượng kém hơn (ví dụ: từ protein thực vật như đậu tương). Do

đó để đáp ứng nhu cầu protein của con người, điều cần thiết là phải cải thiện

hiệu quả chuyển đổi protein từ thức ăn sang thịt. Các axit amin tổng hợp hiện

nay đóng vai trò rất quan trọng trong việc cải thiện hiệu quả sản xuất protein

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

động vật và góp phần làm tăng khả năng cung cấp protein cho nhu cầu của

17

con người. Chúng ta có thể lấy ví dụ về sự đóng góp của L-lysine HCl trong

sản xuất protein như sau:

Phương trình bậc một mô tả sự thay thế nguồn cung cấp protein (đậu

tương) bằng việc bổ sung L-lysine HCl vào ngô như sau (Tính trong một tấn

thức ăn):

50 kg đậu tương = 48,5 kg ngô + 1,5 kg L-lysine HCl.

Khi áp dụng công thức thay thế này, mức protein tổng số trong thức ăn

giảm đi 2%. Phương trình này được hiểu là khi sử dụng 1 tấn L-lysine HCl có

thể thay thế được cho 33 tấn đậu tương. Hàng năm trên toàn thế giới sử dụng

khoảng 550.000 tấn L-lysine HCl, tương đương chúng ta đã tiết kiệm được 18

triệu tấn đậu tương, gần bằng một nửa sản lượng đậu tương của nước Mỹ (38

triệu tấn/năm) là một trong các nước sản xuất đậu tương lớn trên thế giới.

1.1.5. Protein lý tưởng và ứng dụng trong chăn nuôi lợn

Protein cần thiết cho động vật như là nguồn dinh dưỡng không thể thay

thế và đứng hàng đầu trong đời sống động vật. Nhờ protein có sẵn trong thức

ăn, gia súc mới có thể tổng hợp được protein của cơ thể và các sản phẩm, ngoài

ra còn tổng hợp ra các chất xúc tác sinh học, như enzyme và hocmon, cùng với

các hợp chất khác đóng vai trò quan trọng trong các quá trình sinh lý. Nói đến

protein trong quá trình dinh dưỡng là phải nhắc đến axit amin, vì động vật

không thể hấp thu trực tiếp protein, mà phải qua quá trình tiêu hóa, biến đổi

protein của thức ăn thành các hợp phần là các axit amin từ các axit amin cơ thể

mới xây dựng thành các protein trong các mô và các chất hoạt động sinh lý

khác. Trong dinh dưỡng protein - axit amin người ta phải xác định được nhu

cầu của động vật, quá trình tiêu hóa và mức độ tiêu hóa của chất này, xây dựng

được định mức thức ăn sao cho phù hợp với nhu cầu dinh dưỡng, đảm bảo cho

động vật nuôi có năng suất cao (tăng trọng nhanh, cho nhiều sản phẩm, chi phí

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

thức ăn cho một/ đơn vị tăng khối lượng hoặc sản phẩm thấp).

18

Khi cân bằng tối ưu các axit amin hoặc còn gọi là protein lý tưởng, tất

cả các axit amin đều đạt tới ngưỡng tới hạn như nhau. Do vậy, một việc hết

sức quan trọng là phải biết được loại và tỷ lệ các axit amin trong protein lý

tưởng, coi đó như là mức chuẩn để có thể xây dựng các khẩu phần ăn cũng

như để so sánh chất lượng các protein khác. Protein lý tưởng cung cấp chính

xác số lượng axit amin theo nhu cầu của gia súc. Chúng ta biết rằng protein

của khẩu phần chỉ có thể sử dụng cho tích luỹ nitơ nếu như các axit amin của

nó được hấp thụ trước khi di chuyển đến phần cuối của hồi tràng. Cole và cs,

1979 [31]; 1980 [32], cho rằng với các giống lợn khác nhau, có tính biệt, khối

lượng cơ thể, hoặc ở giai đoạn sinh trưởng khác nhau thì có nhu cầu về số

lượng protein khác nhau nhưng về mặt chất lượng (thành phần các axit amin)

của protein đó không khác nhau. Kết luận này dựa trên một thực tế là chúng ta

khó có thể phân biệt được mẫu cấu trúc của các axit amin của protein tế bào

thịt của các loại lợn có khối lượng khác nhau. Điều này cho thấy, nếu chúng

ta biết được kiểu mẫu của các axit amin của các loại lợn này thì có thể áp

dụng cho các loại lợn khác, giống lợn khác.

Một vấn đề khác nữa là, protein của khẩu phần thiếu một hoặc nhiều

axit amin thiết yếu thì quá trính tích luỹ protein chỉ được cải thiện khi bổ sung

thêm các axit amin này. Còn nếu protein khẩu phần thiếu các axit amin không

thiết yếu thì quá trình tích luỹ protein sẽ được cải thiện bởi việc được bổ sung

bất kỳ axit amin nào. Do đó chúng ta có thể hiểu protein lý tưởng là loại

protein sẽ không được cải thiện bằng việc bổ sung bất kỳ loại axit amin nào.

Và chỉ bổ sung đồng thời tất cả các loại axit amin thì quá trình tích luỹ protein

mới được cải thiện.

Để đánh giá chất lượng protein khẩu phần người ta thường đánh giá

trên các mặt như sau: protein thức ăn có chất lượng tốt hơn khi lợn có tốc độ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

sinh trưởng nhanh, hệ số chuyển hoá thức ăn thấp hơn, tích luỹ nitơ, tỷ lệ tích

19

luỹ thịt nạc, tỷ lệ nạc/mỡ cao hơn, quá trình tổng hợp urê thấp hơn, nồng độ

urê trong máu thấp hơn, tỷ lệ ô xy hoá axit amin thấp hơn...

Các phƣơng pháp xác định protein lý tƣởng:

Hiện nay có 4 phương pháp xác định tỷ lệ các axit amin của protein lý

tưởng, đó là:

- Phương pháp xác định tỷ lệ các axit amin trong khẩu phần khi đem

nuôi lợn có năng suất cao nhất.

- Phương pháp phân tích tỷ lệ các axit amin của cơ thể lợn.

- Phương pháp thay đổi tỷ lệ của các axit amin của khẩu phần để có

được tích luỹ nitơ cao nhất: Đối với phương pháp này có hai khả năng xảy ra,

một là bổ sung thêm các axit amin hoặc lấy bớt các axit amin ra khỏi cấu trúc

cơ bản.

- Phương pháp xác định khối lượng của từng axit amin cần cho quá

trình tích luỹ protein.

*Phương pháp xác định tỷ lệ các axit amin của khẩu phần có năng

xuất cao nhất khi bổ sung cho lợn: được nghiên cứu khoảng 40 năm về trước.

Tuy nhiên các kết quả theo dõi cho thấy phương pháp này không đáp ứng được

yêu cầu của mẫu tỷ lệ các axit amin lý tưởng. Khi nghiên cứu về protein của

trứng, người ta thấy protein của trứng cho năng xuất cao nhất khi đem làm thức

ăn cho động vật, nhưng vẫn chưa đạt mẫu tỷ lệ axit amin lý tưởng, lý do là giá

trị sinh học của trứng được coi bằng 1 (Block và cs, 1944 [28]), tuy nhiên khi

thêm 10% các axit amin không thiết yếu như glycine, axit glutamic chẳng hạn,

thì giá trị sinh học của trứng vẫn bằng 1, do đó người ta cho rằng trong protein

của trứng, không có axit amin thiết yếu nào là tới hạn cả (Bender,1965. Trích

từ Wang at. All, 1989 [58]). Trong khi đó chúng ta biết rằng, mẫu tỷ lệ các axit

amin được coi là lý tưởng khi mà tất cả các axit amin đều ở mức tới hạn tương

đương nhau, và với mẫu tỷ lệ các axit amin này mặc dù có các axit amin thiết

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

yếu ở mức thấp nhất nhưng vẫn cho tích luỹ nitơ cao nhất.

20

*Phương pháp phân tích tỷ lệ các axit amin của cơ thể:

Phương pháp này dựa trên quan sát cho rằng, mẫu tỷ lệ các axit amin

của protein được coi là có chất lượng cao phải gần giống với mẫu tỷ lệ của

axit amin của động vật ăn loại thức ăn đó. Thành phần axit amin của protein

cơ thể được quy định bởi mã di truyền (DNA). Trong đó có một mẫu tỷ lệ axit

amin riêng biệt được sử dụng để tạo ra một protein đặc hiệu. Điều này dẫn

đến thành phần của các axit amin khác nhau giữa các loài (Lehninger, 1982.

Trích từ Wang at. All, 1989 [58]). Việc xác định protein lý tưởng theo phương

pháp này gặp phải một trở ngại do sự khác nhau trong việc phân bổ đến tế bào

và quá trình tổng hợp axit amin (đó là sự khác nhau về sự tổng hợp protein và

phân bổ đến các tế bào khác nhau).

*Phương pháp thay đổi tỷ lệ của các axit amin của khẩu phần để có

được mức tích luỹ nitơ cao nhất:

Phương pháp này dựa trên hai vấn đề sau: Trong khuôn khổ của thí

nghiệm thì protein của khẩu phần là yếu tố duy nhất tác động đến tích luỹ

protein và khi protein khẩu phần là yếu tố duy nhất giới hạn quá trình tích luỹ

protein cơ thể thì quá trình tích luỹ nitơ được xác định bởi nồng độ của các

axit amin giới hạn thứ nhất của protein này. Có hai cách để áp dụng phương

pháp này mà có chung một kết quả. Cách thứ nhất là bổ sung thêm các axit

amin cho đến khi không có axit amin nào bị thiếu hụt trong protein đó. Cách

thứ hai là lấy bớt đi các axit amin thừa để tất cả các axit amin ở cùng mức tới

hạn như nhau. Khi đó tỷ lệ giữa các axit amin đều giống nhau giữa hai

phương pháp. Đây là phương pháp có tính logic cao nhất có thể áp dụng khi

xác định protein lý tưởng. Để giải thích về vấn đề này, chúng ta có thể tham

khảo một ví dụ sau:

Nếu như bổ sung thêm 1 gam lysine vào trong khẩu phần ăn của lợn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

sinh trưởng làm cho sự sinh trưởng tăng 10%, nhưng khi chúng ta bổ sung

21

thêm 2 gam lysine, không làm tăng thêm mức sinh trưởng của lợn nữa thì

chúng ta có thể nói rằng lysine là axit amin giới hạn thứ nhất trong khẩu phần

này và 1 gam lysine bổ sung thêm đủ làm cho lysine trở thành axit amin

không giới hạn. Nói một cách khác khi ta bổ sung thêm 1gam lysine vào trong

khẩu phần thì một hoặc nhiều axit amin khác sẽ trở thành giới hạn trong khẩu

phần này.Trong ví dụ này, thí nghiệm sự thay đổi hàm lượng lysine trong

khẩu phần và xác định tốc độ sinh trưởng của lợn được sử dụng để xác định

số lượng lysine cần thiết để đạt được sinh trưởng tốt hơn.

Áp dụng phương pháp này chúng ta có thể xác định được mức giới hạn

của tất cả các axit amin còn lại. Tuy nhiên khi áp dụng phương pháp này

người ta thường chỉ thử nghiệm trên một hoặc hai axit amin tinh thể và

thường xác định được số gam axit amin cần thiết trong khẩu phần để làm tăng

khối lượng cơ thể trên một đơn vị thức ăn sử dụng mà không xác định đầy đủ

mẫu tỷ lệ của các axit amin. Và khó khăn lớn nhất của phương pháp này là

khi mà ta bổ sung thêm một axit amin để nó trở thành không giới hạn thì

chính việc làm này lại làm cho các axit amin khác trở thành giới hạn. Để xác

định mẫu tỷ lệ của các axit amin với mức giới hạn tương đương nhau, cần

thiết phải tiến hành đồng thời 10 axit amin thiết yếu. Về mặt lý thuyết, để xác

định một điểm mà tại đó có một hoặc nhiều axit amin khác cùng ở mức giới

hạn, chúng ta phải sử dụng 4 mức axit amin ăn vào khác nhau. Như vậy

chúng ta phải thử nghiệm ít nhất 40 mức thí nghiệm (4 x 10) để có thể có đủ

thông tin về sự giới hạn của các axit amin trong khẩu phần trước khi tiến hành

thử nghiệm trên một loại khẩu phần ăn nào đó. Tuy nhiên để giải quyết khó khăn

này, Fuller và cs, 1978 [42] đã áp dụng thành công phương pháp này trong việc

nâng cao giá trị sinh học của protein của đại mạch từ 0,50 - 0,93.

Phương pháp loại bỏ các axit amin không giới hạn trong một tỷ lệ axit

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

amin dựa trên một nguyên tắc cơ bản là tích luỹ nitơ được xác định bởi lượng

22

ăn vào của axit amin giới hạn thứ nhất, vì thế việc loại bỏ các axit amin giới

hạn khác không ảnh hưởng đến tích luỹ nitơ. Tuy nhiên phương pháp loại bỏ

axit amin chỉ là logic hình thức, thực chất không làm được điều này.

*Phương pháp xác định khối lượng của từng axit amin cần cho quá

trình tích luỹ protein:

Bản chất của quá trình này là tích luỹ nitơ (Y) được xác định bởi lượng

tiêu thụ của axit amin giới hạn thứ nhất (X) thông qua phương trình hồi quy

tuyến tính Y= a + bX. Ở đây Y là lượng nitơ mất đi trong khẩu phần không có

axit amin đơn lẻ. Và X là lượng axit amin cần để cho cân bằng nitơ bằng

không và hàm thuận nghịch 1/b là sự thay đổi lượng axit amin ăn vào/ sự thay

đổi của tích luỹ nitơ. Đây chính là lượng axit amin cần để tăng được một đơn

vị của nitơ tích luỹ. Khi áp dụng dụng phương pháp này cho tất cả các axit

amin khác thì chúng ta sẽ xác định được số lượng của mỗi axit amin cần để

tăng được một đơn vị nitơ tích luỹ. Người ta thường áp dụng phương pháp

này để xác định nhu cầu duy trì của các axit amin cho lợn.

Trong protein lý tưởng, tỷ lệ axit amin dựa trên mối quan hệ với lượng

protein trong khẩu phần, ở đây lysine được tính là 100%

Đối với lợn sinh trưởng tỷ lệ này như sau:

(theo ARC, 1981[25],Wang, Fuller, 1989 [58], Cole, 1992 [37], Chung,

1992 [38])

Lysine 100

Threonine 65

Methionine + Cystein 55

Tryptophan 19

Arginine 42

Isoleucine 50

Leucine 100

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

Histidine 33

23

Phenylalanine + Tyrosine 100

Valine 70

Trong đó cystine chiếm 50% nhu cầu của các axit amin có chứa lưu

huỳnh và tyrosine có chứa 50% nhu cầu axit amin có chứa mạch vòng.

Methionine và phenyllaline có thể chuyển đổi thành cystine và tyrosine với

100% hoạt động. Việc chuyển đổi này theo tỷ lệ 1,25 methionine =1 cystine.

Arginine là axit amin thiết yếu chỉ với gia súc non khi đang có cường

độ sinh trưởng mạnh, còn khi gia súc đã trưởng thành trong cơ thể có thể tự

tổng hợp đủ nhu cầu.

Tỷ lệ lý tưởng về các axit amin kể trên phù hợp với tất cả các loại lợn

sinh trưởng không tính đến di truyền, tính biệt và khối lượng.

* Mối quan hệ giữa protein và năng lượng trong dinh dưỡng lợn:

Mọi quá trình sinh học diễn ra trong cơ thể đều cần năng lượng, sinh

trưởng không đơn thuần chỉ là sự tĩch lũy sinh khối dưới dạng các hợp chất

hữu cơ như: protein, lipit, gluxit và khoáng… mà đó còn là một quá trình

trong đó năng lượng được dự trữ dưới dạng năng lượng hóa học trong chính

các hợp chất hữu cơ. Bởi vậy, việc xem xét một cách tách rời giữa năng lượng

và protein, axit amin, không tính đến mối quan hệ giữa chúng trong nghiên

cứu rất dễ dẫn đến những bế tắc trong việc ước đoán nhu cầu cũng như trong

nuôi dưỡng gia súc.

Năng lượng trong thức ăn rất cần cho duy trì và sinh trưởng của lợn,

nếu dư thừa sẽ tích luỹ trong cơ thể dưới dạng mỡ. Protein được sử dụng để

tích luỹ thịt (nạc) và trao đổi protein. Việc xác định quan hệ tỷ lệ hợp lý giữa

protein và năng lượng trong khẩu phần nhằm phát huy tối đa ảnh hưởng tích

cực của chúng đến khả năng tích lũy protein của lợn trong qua trình sinh

trưởng là vấn đề cốt lõi trong nuôi dưỡng gia súc. Tuy nhiên, tỷ lệ protein hay

axit amin đối với năng lượng hay trạng thái cân bằng giữa năng lượng và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

protein để đạt được tốc độ tối đa của các mô nạc là rất khác nhau, phụ thuộc

24

vào giống, tính biệt, giai đoạn sinh trưởng, điều kiện môi trường (Batterham,

1994 [27], Campbell và Taverner, 1988a [34]).

Những kết quả nghiên cứu của Black, 1974 [26] trên cừu, Campbell,

1985 [33] trên lợn cho thấy, khi lượng nitơ tiếp nhận từ thức ăn thấp hơn so

với nhu cầu, sự tích lũy protein tăng một cách tuyến tính với sự tăng lượng

nitơ ăn vào hàng ngày mà không phụ thuộc vào mức năng lượng tiếp thu được

nhiều hay ít. Điều đó có nghĩa là nếu trong quá trình sinh trưởng, lợn được

nuôi dưỡng bằng khẩu phần quá nghèo protein và mặc dù được cho ăn tự do

nhưng lượng protein ăn vào không đáp ứng đủ nhu cầu thì sự tích lũy protein

trong cơ thể cũng không thể tăng lên được dù cho mức năng lượng khẩu phần

có thay đổi như thế nào, kiểu đáp ứng về sinh trưởng như vậy được gọi là pha

phụ thuộc protein. Nhưng khi tăng dần lượng nitơ ăn vào do tăng hàm lượng

protein trong khẩu phần trong điều kiện cho ăn tự do, sự tích lũy protein tăng

lên nhưng chỉ đạt đến một giới hạn nhất định và không tăng thêm nữa. Trong

điều kiện như vậy nếu tăng đồng thời năng lượng ăn vào thì tốc độ tích lũy

protein tiếp tục tăng lên và sự tăng này không phụ thuộc vào lượng nitơ ăn

vào hàng ngày, nếu dư thừa sẽ bị khử amin và nitơ sẽ đào thải qua nước tiểu.

Kiểu đáp ứng về sinh trưởng như vậy được gọi là pha phụ thuộc năng lượng.

Khi xây dựng khẩu phần ăn cho lợn chúng ta phải thiết lập được cân bằng

giữa protein và năng lượng sao cho có tích luỹ protein tối đa và giảm đáng kể

tích luỹ mỡ. Mối quan hệ giữa protein và năng lượng được Standing

Committee of Agriculture (SCA, 1987 [54]) mô tả và cho thấy mối quan hệ

này bị ảnh hưởng bởi từng giai đoạn sinh trưởng, tính biệt, môi trường, giống

cá thể và hormone sinh trưởng, SCA cũng đề xuất mức lysine/ năng lượng

trao đổi đối với lợn con từ sơ sinh đến 5 kg là 0,7 gam, 5- 20 kg là 0,67 gam

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

và từ 50- 90 kg là 0,51 gam.

25

* Sự thiếu hụt và dư thừa axit amin ở lợn:

Theo kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả, khi khẩu phần ăn thiếu axit

amin lợn có một vài triệu chứng lâm sàng đặc trưng. Dấu hiệu rõ ràng nhất là

lượng thức ăn ăn vào giảm, thể hiện thức ăn thừa nhiều, lợn chậm lớn, hiệu

quả kinh tế thấp.

Lợn cũng có thể chịu được lượng protein ăn vào cao mà ít có biểu hiện

bệnh tật đáng kể, ngoại trừ đôi khi có thể bị ỉa chảy nhẹ. Tuy nhiên khi cho

lợn ăn protein quá cao (vượt quá 20% đối với lợn choai) là lãng phí, gây ô

nhiễm và kết quả là làm giảm tăng khối lượng và hiệu quả sử dụng thức ăn.

Trong khẩu phần thức ăn gồm chủ yếu là ngô và đậu tương thường có

chứa một lượng axit amin nhất định vượt quá nhu cầu cần thiết (như arginine,

leucine, phenylalanine+ tyrosine) để đạt được sự sinh trưởng tối ưu, nhưng

lượng vượt này ít ảnh hưởng tới kết quả nuôi dưỡng của lợn. Ngược lại nếu

chúng ta bổ sung quá nhiều axit amin tinh thể như arginine, leucine,

methionine có thể làm giảm lượng thức ăn ăn vào và giảm tốc độ sinh trưởng.

Lợn ăn quá nhiều một lượng axit amin riêng lẻ có thể gây nhiều triệu

chứng xấu, như tính độc, tính đối kháng, hay tính mất cân bằng tuỳ theo bản

chất của ảnh hưởng. Sự đối kháng thường xảy ra giữa các axit amin có quan

hệ về mặt cấu trúc. Ví dụ như đối kháng lysine - arginine ở gia cầm, khi

lượng lysine trong khẩu phần vượt quá nhu cầu sẽ làm tăng nhu cầu lượng

arginine. Tuy nhiên ở lợn dư thừa lysine không làm tăng nhu cầu arginine.

Sự mất cân bằng axit amin cũng có thể xảy ra khi khẩu phần được bổ

sung thêm một hay nhiều axit amin không phải là axit amin giới hạn. Trong

hầu hết các trường hợp đó, lượng thức ăn ăn vào đều giảm, giảm tốc độ sinh

trưởng hoặc giảm hiệu quả sử dụng thức ăn. Một hiện tượng khác nữa thường

được quan sát thấy là sự cân bằng trong quan hệ tỷ lệ giữa các axit amin, đặc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

biệt là các axit amin không thay thế trong khẩu phần bị phá vỡ do cung cấp

26

quá dư thừa một hay nhiều axit amin và làm tăng thêm nhu cầu của gia súc

với axit amin khác. Ngoài ra, cung cấp quá thừa protein so với nhu cầu còn

làm giảm hiệu suất sử dụng năng lượng thô trong thức ăn, tăng ô nhiễm môi

trường do tăng hàm lượng amoniac trong phân và nước tiểu (NRC, 1998

[48]). Nếu chúng ta rút bớt lượng axit amin vượt quá khỏi khẩu phần thì lợn

sẽ nhanh chóng trở lại bình thường.

Để cân bằng các axit amin trong khẩu phần thức ăn, người ta

thường áp dụng các biện pháp:

- Biện pháp thứ nhất khắc phục sự thiếu hụt một phần axit amin bằng

cách cho con vật ăn nhiều protein có trong thức ăn cơ bản, có nghĩa là tăng

lượng thức ăn nền trong khẩu phần. Như vậy khẩu phần vẫn không cân đối

axit amin , mà chỉ đáp ứng cho nhu cầu dinh dưỡng một hoặc vài axit amin

giới hạn nhiều khi lại quá thừa các axit amin khác. Về phương diện kinh tế,

biện pháp này ít kinh tế, gây lãng phí thức ăn cơ bản, vì chi phí cho một đơn

vị tăng trọng hoặc sản phẩm thường cao, trừ trường hợp khi nguồn thức ăn gia

súc ở địa phương có nhiều và rẻ. Biện pháp này thường thấy trong chăn nuôi

thô sơ đơn giản, chăn nuôi tự túc gia đình và phân tán đang được thực hiện

trong nhiều gia đình ở nông thôn hiện nay, thiếu các nguồn thức ăn khác mà

chỉ có một phần thức ăn cơ bản. Trong chăn nuôi hiện đại biện pháp này

thường không được áp dụng.

- Biện pháp thứ hai là phối hợp các nguồn protein tự nhiên, qua tính

toán, có thể bổ sung lẫn cho nhau để cân đối thành phần axit amin trong khẩu

phần, chúng ta có thể dùng mấy nguồn protein thực vật, hoặc phối hợp giữa

nguồn thực vật với nguồn động vật hoặc các sinh khối vi sinh vật. Ngày nay

nhiều nước trên thế giới đã xác định được tương đối đầy đủ nhu cầu dinh

dưỡng cho riêng từng loài gia súc ở từng mức độ sinh trưởng, cùng với các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

thành phần của các nguồn thức ăn, phối hợp tạo ra một nguồn thức ăn hỗn

27

hợp có giá trị dinh dưỡng đầy đủ. Tuy nhiên thực tế cho thấy hầu hết các loại

thức ăn động vật thường có giá trị dinh dưỡng protein và axit amin cao.

Chúng có đầy đủ các axit amin, thành phần và tỷ lệ của các axit amin rất cân

đối có độ hòa tan cao, tạo đều kiện cho động vật tiêu hóa tốt, như: sữa, sản

phẩm làm từ cá, ...bên cạnh đó một số thức ăn động vật lại nghèo dinh dưỡng

như: bã thải công nghiệp thịt không có thành phần axit amin ổn định, thường

nghèo lysine, methionine, tryptophan. Cùng với thức ăn động vật, thì thức ăn

thực vật cũng có một số loại thức ăn, như: hạt ngũ cốc đều ít lysine, còn trong

ngô methionine tương đối khá, song lại ít tryptophan. Sinh khối vi sinh vật,

đặc biệt là nấm men, có giá trị dinh dưỡng gần với protein, một số vitamin

nhóm B và D2, các chất khoáng,... có thể bổ sung đầy đủ cho các khẩu phần

ngũ cốc,...Sự phối hợp các nguồn thức ăn để có khẩu phần cân đối về dinh

dưỡng là biện pháp quan trọng nhất trong chăn nuôi hiện nay.

- Biện pháp thứ ba là bổ sung các axit amin giới hạn (các axit amin

không thay thế có hàm lượng ít nhất, và có giá trị quan trọng trong dinh

dưỡng động vật) bằng các sản phẩm của ngành công nghiệp hóa học và vi

sinh vật học. Đó là các D, L - axit amin và L - axit amin. Về mặt dinh dưỡng

thì các axit amin tổng hợp có thể khác với các axit amin được giải phóng từ

protein thức ăn trong quá trình tiêu hóa, nhưng các loại axit amin tổng hợp có

thể đáp ứng được nhu cầu rất lớn, tạo điều kiện dễ dàng cho việc sản xuất một

khối lượng lớn thức ăn có giá trị cao.

1.1.6. Nhu cầu protein và lysine của lợn con:

Nhu cầu protein và lysine của lợn con và lợn thịt được xác định bằng

phương pháp thừa số ( Factorial approach), và được xác định trên nhu cầu duy

trì và nhu cầu tích luỹ protein:

Nhu cầu protein duy trì (Pm) (theo ARC, 1981 [25] Pm ( g) = 0.983*W0.75.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

Ở đây W là khối lượng cơ thể.

28

Tỷ lệ sử dụng protein trong thức ăn ăn vào bằng 53 - 35% tuỳ theo khối

lượng cơ thể.

Nhu cầu lysine cho lợn con được biểu thị qua phương trình sau: A = 1,793 - ( 0,0873 x W) + ( 0,00429 x W2)- (0,000089 x W3). R2 = 0,9985

Trong đó: A là nhu cầu của lysine ( % trong khẩu phần)

W là khối lượng lợn (kg).

Theo công thức này nhu cầu axit amin, lysine trong một kg vật chất cho

lợn con có khối lượng 5kg sẽ là 1,45 %, khối lượng 6 kg sẽ là 1,40%, lợn có

khối lượng 10 kg là 1,26 %, lợn có khối lượng 15 kg là 1,15 %, lợn có khối

lượng 20 kg là 1,05 %. Tuy nhiên ở đây mô hình ước tính nhu cầu axit amin

không đề cập đến sự khác biệt, yếu tố môi trường. Một điểm cần lưu ý nữa là

sẽ không có sự chuyển đổi thích hợp khi áp dụng mô hình ước tính này ở giai

đoạn kết thúc nuôi khởi động (khi khối lượng cơ thể là 19,9 kg) sang bắt đầu

nuôi lợn choai (khối lượng cơ thể là 20 kg). Lý do là mô hình để ước tính nhu

cầu axit amin cho lợn có khối lượng 20 kg có đề cập đến khả năng tích luỹ

thịt nạc, trong khi đó mô hình ước tính nhu cầu axit amin cho lợn giai đoạn

nuôi khởi động lại không tính đến tỷ lệ phát triển thịt nạc.

Nhu cầu về lysine còn được tính theo hàm lượng lysine trong chất đạm

tối thiểu là 6g lysine /16g N đối với lợn con và lợn vỗ béo là 5 gam. Trên cơ

sở của lượng đạm tích luỹ được trong cơ thể lợn và hệ số sử dụng lysine

chúng ta tính được nhu cầu của axit amin lysine/con/ngày.

1.1.7. Kỹ thuật sử dụng thức ăn cho lợn con theo mẹ và giai đoạn sau cai sữa:

*Thức ăn cho lợn con:

Nguồn dinh dưỡng cho lợn con trong 21 ngày sau sinh chủ yếu là sữa

mẹ, số lượng và chất lượng sữa của lợn nái có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

triển của lợn con. Sau 21 ngày sữa của lợn mẹ bắt đầu giảm cả về số lượng và

29

chất lượng, do đó không đáp ứng được nhu cầu. Các chất dinh dưỡng mà lợn

con nhận từ thức ăn ngày càng tăng mới đảm bảo cho sự phát triển bình

thường. Do vậy để bổ sung năng lượng cho lợn con cần chọn những loại thức

ăn nguyên liệu có chất lượng cao, dễ tiêu hoá và hàm lượng xơ thấp.

+ Ngô: Hiện nay ngô được trồng phổ biến ở nước ta. Trong các loại hạt

ngũ cốc dùng làm thức ăn gia súc, trừ cao lương, ngô có hàm lượng năng

lượng cao nhất. Có nhiều giống ngô khác nhau, các giống này cho các hạt có

màu sắc khác nhau như: trắng, vàng. Trong đó ngô vàng chứa nhiều caroten

và các sắc tố nhất. Ngô giàu tinh bột, ngon miệng, tỷ lệ tiêu hóa cao.

Trong ngô có chứa 720- 800 g tinh bột/ kg chất khô, hàm lượng xơ thấp,

giá trị năng lượng trao đổi cao 3.100 - 3.200 kcal/kg, tỷ lệ chất béo trong hạt

ngô tương đối cao 4- 6 % cho nên lợn tiêu hoá rất tốt các chất dinh dưỡng

trong ngô, tỷ lệ tiêu hoá xấp xỉ 90%. Tuy nhiên trong protein của ngô thiếu

nhiều các axit amin thiết yếu và một số nguyên tố khoáng do đó phải bổ sung

thêm các axit amin tổng hợp và các nguyên tố khoáng.

+ Gạo: Là nguồn lương thực chủ yếu cho người, nhưng cũng được sử

dụng một phần làm thức ăn cho lợn. Gạo có hàm lượng xơ từ 40- 80 g/ kg và

protein là 70- 87g/ kg, hàm lượng lysine, arginine, tryptophan trong protein

của gạo cao hơn ngô. Gạo chứa khoảng 11-13 % protein thô và 10 - 15% lipit.

+ Đậu tương: là một trong những loại hạt họ đậu được sử dụng phổ

biến để làm thức ăn cho gia súc, gia cầm. Là nguồn thức ăn thực vật giàu

protein. Trong 1 kg khô đậu tương có từ 370 - 380 g protein, 160- 180 g chất

béo và 3.300 - 3.900 Kcalo năng lượng trao đổi. Giá trị sinh học của protein

đậu tương gần giống với protein ở động vật, đậu tương giàu axit amin không

thay thế nhất là lysine, tryptophan là những axit amin thường bị thiếu trong

thức ăn thực vật. Protein đậu tương dễ hòa tan trong nước và giàu lysine nên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

gia súc dễ tiêu hóa và hấp thu.

30

+ Bột cá: Là thức ăn động vật có chứa chất lượng dinh dưỡng cao, được

chế biến từ cá tươi hoặc từ sản phẩm phụ của công nghiệp chế biến cá hộp.

Trong protein bột cá có đầy đủ axit amin không thay thế như: Lysine 7,5 %,

Methyonin 3%, izoleucine 4,8 % ... Protein bột cá sản xuất ở nước ta có biến

động từ 35- 60 %, khoáng tổng số biến động từ 16,9- 34,5 %, muối 5- 10 %,

Canxi 5,5- 8,7 %, Photpho 3,5- 4,8 %; Các chất hữu cơ trong bột cá được lợn

tiêu hoá và hấp thu với tỷ lệ cao 85- 90 %.

Ngoài ra thức ăn cho lợn con có thể sử dụng các loại thức ăn nguyên liệu

giầu dinh dưỡng như bột sữa, gluten ngô, axit amin tổng hợp như: lysine,

methionin, threonine, tryptophan và các muối khoáng đa, vi lượng như

Dicanxiphotphat, bột khoáng, Premix- Vitamin.

Các loại thức ăn nguyên liệu này cần được xử lý qua nhiệt độ để tăng mùi

thơm và giúp cho lợn tiêu hoá tốt hơn. Thức ăn hỗn hợp cho lợn cần có hàm

lượng đạm thô từ 18- 19 %, năng lượng trao đổi 3.200 kcalo/ kg và xơ không

quá 4 %.

Trong chăn nuôi lợn hiện nay, việc làm thế nào để tăng năng suất, giảm

giá thành là một vấn đề mà hiện nay đang được các nhà chăn nuôi đặc biệt

quan tâm. Để đạt được mục tiêu như trên thì bổ sung thức ăn sớm và cai sữa

sớm cho lợn con là một trong các biện pháp quan trọng.

*Kỹ thuật tập cho lợn con ăn và cai sữa cho lợn con:

Lợi ích của việc tập cho lợn con ăn sớm:

+ Đảm bảo cho lợn con sinh trưởng, phát dục bình thường, không hoặc

ít bị stress, không bị thiếu hụt dinh dưỡng cho nhu cầu sinh trưởng nhanh của

lợn con sau 3 tuần tuổi và khi cai sữa.

+ Thúc đẩy bộ máy tiêu hóa của lợn con phát triển nhanh và sớm hoàn

thiện hơn. Khi bổ sung thức ăn sớm cho lợn con thì kích thích tế bào và vách

dạ dày tiết ra HCl ở dạng tự do sớm hơn và tăng cường phản xạ tiết dịch vị.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

Khác với lợn lớn, lợn con chỉ tiết dịch vị khi có thức ăn vào dạ dày.

31

+ Việc bổ sung thức ăn sớm cho lợn con còn giúp nâng cao được khối

lượng cai sữa lợn con. Qua nghiên cứu cho thấy rằng khối lượng cai sữa chịu

ảnh hưởng tới 57% của thức ăn bổ sung, trong khi đó chịu ảnh hưởng của sữa

mẹ khoảng 38% và của khối lượng sơ sinh là 5%

+ Hạn chế tình trạng nhiễm ký sinh trùng và vi trùng do lợn hay gặm

nền chuồng, thành chuồng. Thường sau 6-10 ngày tuổi lợn con mọc thêm

răng, nên hay ngứa lợi, nếu có thức ăn để nhấm nháp cả ngày sẽ đỡ ngứa lợi,

lợn con bớt gặm lung tung.

Thời gian bắt đầu tập cho lợn con ăn: Thường bắt đầu tập cho lợn con

ăn từ 7- 10 ngày tuổi, cho thức ăn vào máng tập ăn để lợn con tự ăn cả ngày.

Thức ăn được rang chín sẽ có mùi thơm, lợn con thích ăn hơn và khả năng

tiêu hoá tốt hơn, áp dụng chế độ ăn tự do cho lợn con giai đoạn theo mẹ, cho

thức ăn vào máng ít một và nhiều lần trong ngày để thức ăn luôn mới, mùi

thơm hấp dẫn lợn con ăn được nhiều hơn. Qua nhiều thí nghiệm và thực tế

cho thấy: những lợn con được tập ăn sớm thì tăng khối lượng nhanh hơn, tỉ lệ

mắc bệnh ít hơn. Do lượng dinh dưỡng nhận từ sữa mẹ ngày càng giảm đi sau

21 ngày sau khi sinh, nên lượng dinh dưỡng mà lợn con nhận được từ thức ăn

phải ngày càng tăng mới đảm bảo cho lợn con phát triển bình thường.

Đến giai đoạn cai sữa cho lợn con ăn như sau:

Ngày tách mẹ, chúng ta giảm đi 1/2 lượng thức ăn của lợn con so với

ngày trước đó. Ngày kế sau đó giảm đi 1/3 lượng thức ăn so với ngày trước

cai sữa. Đến ngày thứ 4 trở lại lượng thức ăn của ngày trước cai sữa.

Nếu theo dõi không có gì rối loạn về tiêu hoá thì từ ngày thứ 5 trở đi

mức ăn cứ tăng dần theo yêu cầu của lợn con. Lượng tức ăn cho lợn con

những ngày mới cai sữa dựa trên khả năng tiêu hoá của từng đàn lợn và tình

trạng tiêu chảy. Thực tiễn cho thấy việc điều tiết tốt lượng thức ăn giai đoạn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

này có vai trò rất quan trọng và phụ thuộc vào chất lượng thức ăn.

32

1.1.8. Vấn đề ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi hiện nay

Việc làm thế nào để hạn chế ô nhiễm môi trường chăn nuôi đã và đang

rất được quan tâm ở nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Phân và

nước thải từ các cơ sở chăn nuôi gia súc thải ra là một nguồn chất thải lớn gây

ô nhiễm môi trường. Các khí độc đặc biệt như khí nitơ và khí NH3 tạo ra

trong môi trường chăn nuôi gây ảnh hưởng lớn tới sức khỏe con người

(Nowak (1995).Trích từ Phùng Thị Vân, Phạm Sỹ Tiệp và cs, 2002 [24 ] ).

Brake (1998). Trích từ Phùng Thị Vân, Phạm Sỹ Tiệp và cs, 2002 [24 ] ).

Môi trường chăn nuôi kém làm giảm năng suất và sức khỏe vật nuôi Attar và

Trong thức tế chăn nuôi hiện nay, các nước chăn nuôi phát triển đang

sử dụng các hóa chất hấp thụ mùi, bổ sung các hợp chất sinh học vào thức ăn

nhằm giảm thiểu việc thải nitơ và hạn chế mùi hôi thối ở phân (Duffy và

Brooks, 1998 [39]. Bổ sung chế phẩm sinh học Di-odorase vào thức ăn nuôi

lợn thịt làm giảm hàm lượng khí NH3, giảm tỷ lệ chết, nâng tăng trọng và

giảm tiêu tốn thức ăn. Bên cạnh với các nghiên cứu cải tạo một số mô hình

chuồng trại của nước ngoài cho phù hợp với điều kiện khí hậu ở nước ta (Lê

Thanh Hải và cs, 1999 [2]), bổ sung chế phẩm Micro - Aid vào thức ăn để

giảm mùi hôi thối ở phân ( Nguyễn Đăng Vang và cs, 2000. Trích từ Phùng

Thị Vân, Phạm Sỹ Tiệp và cs, 2002 [22 ]), thì việc nghiên cứu xử lý chất thải

bằng công nghệ sinh học cũng đang được quan tâm, như mô hình bioga kết hợp

sử dụng một số loại chế phẩm sinh học đã góp phần hạn chế đáng kể ô nhiễm

môi trường trong chăn nuôi (Phùng Thị Vân, Phạm Sỹ Tiệp và cs, 2002 [24] ).

Những năm gần đây, ở nước ta chăn nuôi lợn nông hộ và trang trại

đang tăng dần quy mô đầu lợn. Tuy nhiên tăng quy mô đầu gia súc nhưng lại

chưa đi cùng với các giải pháp kỹ thuật thích hợp thì việc gây ô nhiễm môi

trường, giảm năng suất chăn nuôi và gia súc nuôi trong môi trường bị ô nhiễm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

thì sản phẩm chăn nuôi không đáp ứng được yêu cầu chất lượng sẽ là điều

33

không tránh khỏi. Vì vậy việc nghiên cứu tìm ra các biện pháp nhằm giảm

thiểu ô nhiễm môi trường, như việc nghiên cứu giảm protein thô trên cơ sở

cân đối một số axit amin thiết yếu trong thức ăn hỗn hợp đến sinh trưởng lợn

con sau cai sữa là rất cần thiết, góp phần bảo vệ môi trường, sức khỏe cho

cộng đồng dân cư.

1.1.9. Vấn đề sử dụng khẩu phần ăn giảm protein có bổ sung thêm axit

amin hiện nay

Hiện nay, xu hướng sử dụng khẩu phần ăn giảm mức protein tổng số có

bổ sung thêm các axit amin tổng hợp đang được nghiên cứu nhiều trên thế

giới. Để áp dụng vấn đề này, chúng ta cần phải hiểu rõ một số nguyên tắc cơ

bản khi sử dụng các axit amin tổng hợp cho lợn như sau: Thứ nhất, việc sử

dụng axit amin tổng hợp sẽ không có hiệu quả trừ khi trong thức ăn thiếu loại

axit amin đó, nghĩa là chúng ta không nên bổ sung thêm lysine vào khẩu phần

mà đã có đủ lượng lysine cho nhu cầu của lợn. Tuy nhiên khi khẩu phần có

hàm lượng protein thấp và thiếu lysine thì việc bổ sung thêm lysine sẽ làm

tăng thêm năng suất chăn nuôi.

Thứ hai, việc bổ sung axit amin thiết yếu thứ hai trong trường hợp axit

amin thiết yếu thứ nhất vẫn bị thiếu cũng không có hiệu quả, thậm chí còn

gây hậu quả xấu. Ví dụ, việc bổ sung methionine vào khẩu phần mà vẫn thiếu

lysine sẽ không có hiệu quả ngay cả khi thiếu methionine. Nếu trong khẩu

phần mà lysine bị thiếu hụt hơn methionine thì trước hết chúng ta phải bổ

sung lysine, rồi mới bổ sung methionine. Vì lý do đó, một điều quan trọng là

chúng ta phải hiểu được thứ tự của các axit amin sẽ trở thành axit amin thiết

yếu khi chúng ta giảm lượng protein trong khẩu phần. Đối với lợn thứ tự của

axit amin thiết yếu thứ nhất, nhì và ba trong khẩu phần ngô đậu tương là

lysine, threonine và tryptophan. Đối với gà broiler thứ tự đó là methionine,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

lysine và threonine.

34

Ưu điểm nổi bật của việc sử dụng khẩu phần có mức protein thấp

nhưng được bổ sung thêm axit amin tổng hợp cho lợn là tác động tích cực đến

môi trường. Việc đào thải nitơ từ các trang trại chăn nuôi đã và đang là mối

đe dọa nghiêm trọng đối với sức khỏe con người bởi ô nhiễm amoniac, ô

nhiễm nitrate/nitrite trong đất và nước. Người chăn nuôi hiện nay ngày càng

phải đối mặt với các nguyên tắc bảo vệ môi trường nghiêm ngặt. Việc giảm

mức protein trong thức ăn kết hợp bổ sung thêm các axit amin tổng hợp đang

là cách tốt nhất để giải quyết vấn đề ô nhiễm nitơ với chăn nuôi lợn. Một số

nghiên cứu khác cũng chỉ ra được rằng tỷ lệ thịt nạc cũng có xu hướng giảm

khi sử dụng khẩu phần có tỷ lệ protein thấp và được bổ sung thêm axit amin

tổng hợp cho lợn vỗ béo. Điều này có thể giải thích là do khẩu phần giảm

protein có năng lượng cao hơn do chúng ta thay một phần ngô bằng khô đậu

tương trong khi năng lượng của ngô cao hơn năng lượng của khô đậu tương.

Đây là một vấn đề cần được nghiên cứu khắc phục.

Ngoài ra chúng ta cần phải tính đến hiệu quả kinh tế của việc sử dụng

khẩu phần có mức protein thấp được bổ sung thêm axit amin. Đối với khẩu

phần có mức protein thấp vừa phải được bổ sung lysine không gây trở ngại

lớn do giá của lysine không cao. Nhưng khi chúng ta giảm mức protein trong

khẩu phần nhiều hơn và phải sử dụng cả lysine, methionine, threonine và

tryptophan thì giá của khẩu phần sẽ tăng lên do giá của methionine, threonine

và đặc biệt tryptophan còn khá cao. Tuy nhiên chúng ta có thể thấy hiệu quả

của việc sử dụng khẩu phần này trong việc giảm thiểu ô nhiễm môi trường

thông qua giảm lượng nitơ, amoniac và một số khí thải khác.

* Việc sử dụng axit amin tổng hợp trong sản xuất thức ăn cho lợn

trong thời gian tới.

Việc cải thiện hiệu quả sử dụng protein của thức ăn chăn nuôi bằng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

việc bổ sung axit amin tổng hợp trở nên ngày càng quan trọng trong việc bảo

35

đảm nguồn cung cấp protein cho nhu cầu con người và bảo vệ môi trường.

Ngoài 4 loại axit amin tổng hợp đã được sản xuất và áp dụng trên thực tế, các

loại axit amin tổng hợp tiếp theo như isoleucine, valine và arginine cũng sẽ

được sản xuất và áp dụng trong tương lai. Khi đó ý nghĩa của việc sử dụng

các axit amin tổng hợp trong chăn nuôi lợn sẽ càng rõ rệt hơn, con người vừa

có đủ nguồn protein chất lượng cao, bảo vệ nguồn tài nguyên đất và môi

trường sống.

1.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc

1.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước

Các nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng cho lợn con tập ăn và cai sữa để

cai sữa sớm lợn con mới được quan tâm thực hiện trong vòng 10 năm gần

đây, khi mà yêu cầu của sản xuất về tăng hệ số lứa đẻ của lợn nái, tăng khả

năng sử dụng thức ăn của lợn nái ngày càng cấp thiết.

Các tác giả Hoàng Văn Tiến và Nguyễn Đăng Bật, 1995 [21] đã nghiên

cứu thức ăn để cai sữa sớm cho lợn con giống Đại bạch, Landrace và con lai

F1 (ĐB x L) ở 35 ngày tuổi với 3250 kcal ME/ kg; 20,5 % protein thô và 1.4

% lysine làm cho lợn lô thí nghiệm có tốc độ tăng trọng cao hơn lô đối chứng

(có tỷ lệ lysine 0,9% ) là 0,38% kg /con, giảm tiêu tốn thức ăn cho 1 kg lợn

con đến 45 ngày tuổi ngày tuổi là 0,2 kg. Các chỉ tiêu sinh lý máu của lợn thí

nghiệm như: số lượng hồng cầu, hàm lượng Hemoglobin, hàm lượng protein

huyết thanh, hàm lượng globuline và hoạt tính enzyme GOT (Glutamo Oxalo

- Transaminasa) đều cao hơn lô đối chứng. Điều đó chứng tỏ khả năng tổng

hợp protein trong cơ thể tăng khi thành phần dinh dưỡng của khẩu phần lô thí

nghiệm đáp ứng tốt cho nhu cầu sinh trưởng và phát triển của lợn con so với

công thức thức ăn ở lô đối chứng. Từ kết quả trên, các tác giả đã tiến hành rút

ngắn thời gian cai sữa lợn con từ 45 ngày tuổi xuống 35 ngày, rút ngắn được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

khoảng cách giữa 2 lứa đẻ, giảm tỷ lệ hao mòn của lợn nái.

36

Trần Quốc Việt và cs, 1999 [23], nghiên cứu xác định mức năng lượng,

axit amin và tỷ lệ axit amin/ năng lượng thích hợp cho lợn con sau cai sữa. Thí

nghiệm được tiến hành trên 216 lợn con cai sữa (ở 35 ngày tuổi, khối lượng 8 -

9 kg) và đã xác định được mức năng lượng thích hợp trong khẩu phần cho lợn

con sau cai sữa chứa 20% protein thô và 1,25 % lysine là 3250 - 3350 Kcal/kg

và tỷ lệ lysine/ năng lượng thích hợp là 0,9 - 1,0 g/ MJ DE.

Lê Thanh Hải, Lã Văn Kính, Danny Singh và ctv, 1999 [2]. Xác định

nhu cầu năng lượng và axit amin cho lợn con 3 máu ngoại (Y x L x D) sau cai

sữa (28 ngày tuổi). Kết quả thí nghiệm cho thấy, khi mật độ năng lượng tăng

lên từ 14 - 16 MJ DE và mức axit amin trong khẩu phần lợn con cai sữa tăng

lên (từ 0,8 - 1,1 g lysine/ MJ DE) thì khả năng tăng khối lượng và chuyển hóa

thức ăn của lợn cũng được cải thiện theo. Khẩu phần tốt nhất cho lợn con cai

sữa có mật độ năng lượng từ 15 - 16 MJ DE và 1,0 - 1,1 g lysine/ MJ DE; 0,4

- 0,44 methionine/ MJ DE; 0,57 - 63 g Met + Cys/ MJ DE; 0,63 - 0,7 g

threonine/ MJ DE và 0,18 - 0,2 g tryptophan/ MJ DE.

Các tác giả Nguyễn Ngọc Hùng và ctv, 2001[4], đã nghiên cứu ảnh

hưởng của tỷ lệ lysine/năng lượng trong khẩu phần đến các chỉ tiêu sản xuất

của lợn thịt giống Yorkshire và con lai Yorkshire x Thuộc Nhiêu. Kết quả

nghiên cứu cho thấy, đối với lợn Yorkshire có tiềm năng nạc cao, tỷ lệ

lysine/năng lượng của khẩu phần ảnh hưởng có ý nghĩa đối với các tính trạng

sinh trưởng như mức độ tăng khối lượng, lượng thức ăn tiêu thụ và tiêu tốn

thức ăn/1 kg tăng khối lượng. Đối với tính trạng thân thịt mặc dù có ảnh

hưởng nhưng không có sự khác biệt. Ở cả hai đối tượng nghiên cứu trên, mức

tăng trọng và tỷ lệ nạc/thịt xẻ tăng lên đạt giá trị cao nhất ở mức 0,65 - 0,55 g

lysine /MJ năng lượng tiêu hoá và sau đó tăng chậm hoặc có xu hướng giảm

xuống ở mức cao hơn là 0,75 - 0,65 g/MJ DE. Từ những kết quả này các tác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

giả đề nghị tỷ lệ lysine /năng lượng tiêu hoá thích hợp cho lợn Yorkshire là

37

0,65 - 0,55 gam/ MJ DE, của lợn lai Yorkshire x Thuộc nhiêu là 0,55 - 0,45

g/MJ DE cho hai giai đoạn 20 - 50 và 50 - 85 kg khối lượng cơ thể. Đồng thời

các tác giả cũng cho biết không nhận thấy sự tương tác giữa lysine và năng

lượng đối với các tính trạng sinh trưởng và chất lượng thịt ở cả hai đối tượng

lợn là Yorkshire và Yorkshire x Thuộc Nhiêu.

Các tác giả Vũ Thị Lan Phương và Đỗ Văn Quang, 2001 [12], đã xác

định tỷ lệ lysine /năng lượng thích hợp cho lợn sinh trưởng và lợn vỗ béo

giống Yorkshire cho thấy với các mức lysine khác nhau có ảnh hưởng đáng

kể đến các chỉ tiêu như tiêu tốn thức ăn của lợn trong giai đoạn từ 0 - 8 tuần,

khả năng thu nhận thức ăn và tốc độ tăng khối lượng của lợn giai đoạn cuối (8

- 16 tuần). Mức lysine là 0,65 gam/MJ DE đã làm giảm đáng kể tiêu tốn thức

ăn (0,3kg) so với mức 0,95 g/MJ DE. Ở giai đoạn từ 8 - 16 tuần, với mức

lysine là 0,55 g/MJ DE và mức năng lượng là 12,50 MJ DE /kg thức ăn cho

khả năng thu nhận thức ăn và tăng trọng cao nhất (tương ứng 2,31

kg/con/ngày, 680 g/con/ngày). Mức lysine là 0,75 g/MJ và mức năng lượng

12,50 MJ/kg thức ăn cho kết quả thấp nhất về các chỉ tiêu trên (1,96

kg/con/ngày và 585 g/con/ngày). Các tỷ lệ lysine/năng lượng khác nhau

không ảnh hưởng rõ rệt đến các chỉ tiêu phẩm chất thịt như tỷ lệ nạc, mỡ,

xương da và tỷ lệ thịt xẻ. Các tác giả cũng xác định được khẩu phần ăn có

năng lượng là 13,5 - 12,5 MJ DE với tỷ lệ lysine/ MJ năng lượng tiêu hoá

từ 0,65 - 0,55 gam tương ứng với hai giai đoạn vỗ béo có hiệu quả kinh tế

cao nhất.

Các tác giả Lã Văn Kính và ctv, 2001[6] cũng công bố kết quả nghiên

cứu về sử dụng nguyên liệu chế biến và một số loại thức ăn bổ sung trong

khẩu phần của lợn con sau cai sữa cho thấy khi sử lý nguyên liệu ngô bằng

phương pháp ép đùn trong khẩu phần lợn con sau cai sữa đã làm cải thiện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

26,8% tăng khối lượng, 9,6% hệ số sử dụng thức ăn và 14,20 % lượng thức ăn

38

ăn vào so với ngô không được sử lý. Sử dụng đậu tương đã được sử lý bằng

công nghệ sinh học để thay thế hoàn toàn sữa bột trong khẩu phần của lợn con

sau cai sữa đã cải thiện 8,4% tăng trọng, 4,9% hệ số sử dụng thức ăn và 2,7%

lượng thức ăn ăn vào. Việc bổ sung axit formic trong khẩu phần cho lợn con

sau cai sữa đã cải thiện năng suất và hiệu quả sử dụng thức ăn so với không

bổ sung. Mức bổ sung thích hợp nhất là 0,65%, ở mức này làm tăng 13,1%

mức tăng khối lượng của lợn, 6,96% hệ số chuyển đổi thức ăn và 3,8% lượng

thức ăn ăn vào so với không bổ sung.

Lã Văn Kính, 2002 [7] đã xác định mức protein và axit amin tối ưu cho

các giai đoạn tuổi của lợn con sau cai sữa cho kết quả sau: Mức dinh dưỡng

thích hợp cho lợn con sau cai sữa là 22% protein, 1,5% lysine, 0,85% met+

cys; 0,9% threonine và 0,77 % met + cys; 0,81 % threonine và 0,24% met +

cys cho giai đoạn 42 - 56 ngày tuổi.

Hồ Trung Thông, 2002 [22] đã nghiên cứu ảnh hưởng của lượng protein

ăn vào đến tỷ lệ tiêu hóa protein và các con đường đào thải nitơ của lợn sinh

trưởng, cho biết: Khi tăng tỷ lệ protein trong thức ăn từ 4,58% đến 30,02 (tính

theo vật chất khô) tỉ lệ tiêu hóa biểu kiến protein (tiêu hóa phân) tăng dần và

có khuynh hướng đạt giá trị cực đại. Do đó đối với các nghiên cứu có xác

định tỉ lệ tiêu hóa cần phối hợp khẩu phần có hàm lượng protein không quá

thấp (không nên thấp hơn 14% tính theo vật chất khô). Tỷ lệ tiêu hóa protein

nên được tính theo tỉ lệ tiêu hóa chuẩn (còn gọi là tỉ lệ tiêu hóa đúng) là tỉ lệ

tiêu hóa sau khi đã trừ lượng nitơ nội sinh, vì tỉ lệ tiêu hóa chuẩn không phụ

thuộc lượng protein ăn vào. Lượng nitơ thải qua phân và qua nước tiểu tăng

lên khi lượng protein ăn vào tăng tuy vậy tổng nitơ đào thải tăng chủ yếu là

do tăng lượng nitơ đào thải qua nước tiểu.

Lã Văn Kính, Vương Nam Trung, 2003 [8]. Xác định khẩu phần thức ăn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

tối ưu cho lợn giai đoạn theo mẹ, cho biết: thức ăn tập ăn cho lợn con giai

39

đoạn theo mẹ phải đạt được mục đích: Kích thích sự phát triển của hệ thống

men tiêu hóa, bù đắp nguồn dinh dưỡng thiếu hụt từ sữa mẹ, đồng thời tăng

khối lượng lợn con lúc cai sữa, giảm hao hụt khối lượng lợn mẹ, cải thiện

tăng trọng và thức ăn ăn vào, tăng khả năng tiêu hóa, hấp thu. Để có thể tạo

được khẩu phần thức ăn đạt được mục đích trên thì việc đầu tiên là xác định

được mức năng lượng và các amino acid tối ưu của khẩu phần, sau đó là tìm

các biện pháp hạ giá thành thức ăn. Khẩu phần tốt nhất cho lợn con giai đoạn

theo mẹ có mức độ dinh dưỡng 3300 Kcal ME/ kg thức ăn và 5,0 mg lysine;

1,35 mg methionine; 2,5 mg methionine + cystine; 3,0 mg threonine/ Kcal

ME hay 1,6% lysin; 0,43% methionine; 0,91% methionine + cystine và 0,96

% threonine. Thay thế 40% bột cặn sữa bằng lactose trong khẩu phần lợn con

giai đoạn theo mẹ đã không những không gây ảnh hưởng đáng kể tới tăng

trọng, lượng thức ăn tiêu thụ của lợn mà còn giảm 2,71 % chi phí thức ăn/ kg

tăng khối lượng.

1.2.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước.

Campbell và cộng sự,1985 [33] cho rằng lợn từ 20 -45 kg đạt tích lũy

protein tối đa khi khẩu phần chứa 3,39 g lysine/ Mcal DE, tỷ lệ trên cao hơn

khuyến cáo của NRC,1998 [48] (là lợn con từ 20 -50 kg cần 2,21 g lysine/

Mcal DE, nhưng thấp hơn khuyến cáo của ARC, 1981 [25] với lợn từ 15 - 50

kg cần 3,51 g lysine/ Mcal DE, tương đương 16 g lysine/ ngày để đạt tăng

trọng cao nhất.

Campbell và Taverner, 1988b [35] sử dụng 43 lợn đực thiến để nghiên

cứu về nhu cầu của protein và các axit amin ở giai đoạn từ 8 - 20 kg. Các tác

giả đã sử dụng 7 khẩu phần ăn có cùng mức năng lượng (15,9 MJ năng lượng

tiêu hoá/1 kg thức ăn) và các mức protein từ 119 - 232 g/kg (8,70 - 17,30 gam

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

lysine/kg thức ăn). Áp dụng chế độ ăn tự do cho tất cả các loại lợn thí nghiệm.

40

Kết quả nghiên cứu cho thấy, theo sự tăng lên của tỷ lệ protein trong khẩu

phần (từ 119 g - 232 g/kg), lượng thức ăn ăn vào không thay dổi (0,93 - 0,97

kg/con/ngày), nhưng sinh trưởng tuyệt đối tăng dần từ 419 g/ngày đến 618

g/ngày. Tỷ lệ chuyển hoá thức ăn giảm dần từ 2,28 - 1,51 kg thức ăn/ 1 kg

tăng khối lượng. Tỷ lệ protein / 1 kg thịt cũng tăng dần từ 150 g/kg đến 162

g/kg. Tỷ lệ chất béo giảm dần từ 218 g/kg xuống 133 g/kg, trong khi đó tỷ lệ

nước tăng dần từ 616 g/kg đến 690 g/kg.

Mối quan hệ tương tác giữa các axit amin trong khẩu phần và năng

lượng tiêu hoá đối với lợn có khối lượng từ 20 - 50 kg được Chiba và cs, 1991

[36] nghiên cứu trên 2 thí nghiệm. Trong thí nghiệm 1 các tác giả sử dụng 3

tỷ lệ lysine khác nhau là 1,50; 2,35 và 3,20 g/Mcal DE, được điều chỉnh tương

ứng với 5 mức năng lượng tiêu hoá từ 3,0 đến 4,0 Mcal/kg. Trong thí nghiệm

2, tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của 6 mức lysine/năng lượng tiêu hoá (từ

1,90 đến 3,90 g/Mcal) ở hai mức năng lượng tiêu hoá là 3,25 và 3,75 Mcal/kg.

Thí nghiệm chỉ ra rằng, khi tăng tỷ lệ các axit amin trong khẩu phần thì cần

phải tăng mức năng lượng. Phân tích hồi quy cho thấy, tăng trọng của lợn thí

nghiệm và hệ số giữa tăng trọng/ năng lượng tiêu hoá đạt tối ưu khi tỷ lệ

lysine/ năng lượng tiêu hoá ở mức 3,0 gam/Mcal.

Các tác giả Saldana và cs, 1993 [56] nghiên cứu về nhu cầu của

threonine tiêu hoá cho lợn con sau cai sữa từ 6 - 16 kg thể trọng và lợn vỗ béo

từ 58 - 96 kg thể trọng. Tỷ lệ threonine tiêu hoá trong khẩu phần từ 0,60 -

0,76% đối với lợn con sau cai sữa và 0,30 - 0,50 % đối với lợn vỗ béo. Khẩu

phần cơ sở của lợn con sau cai sữa có 17,6% protein tổng số và 1,25% lysine.

Khẩu phần cơ sở cho lợn vỗ béo có 9,70% protein tổng số và 0,75% lysine.

Kết quả thí nghiệm cho thấy đối với lợn vỗ béo, các chỉ tiêu sinh trưởng tuyệt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

đối và hệ số chuyển hóa thức ăn sẽ đạt tối ưu khi tỷ lệ threonine tiêu hoá trong

41

khẩu phần đạt 0,28%. Đối với lợn con sau cai sữa, sinh trưởng tuyệt đối đạt

tối đa khi tỷ lệ threonine tiêu hoá đạt 0,46%, tuy nhiên hệ số chuyển hoá thức

ăn/ 1 kg tăng khối lượng không đạt tối đa trong khoảng threonine nghiên cứu.

Các tác giả Paul Bikker, Martin và Marlou, 1994 [52] nghiên cứu trên 95

lợn cái có khối lượng từ 20 - 45 kg để xác định ảnh hưởng của mức năng

lượng và protein ăn vào đến thành phần của các axit amin trong thịt và các cơ

quan của lợn sinh trưởng. Các tác giả đã sử dụng 2 thí nghiệm với 15 mức

protein ăn vào khác nhau từ 127 - 350 g/ngày, mức năng lượng tiêu hoá ăn

vào từ 15,80 - 18,80 MJ/ ngày. Thành phần của các axit amin trong toàn bộ cơ

thể lợn (g/16 g nitơ) thu được như sau: lysine 6,64; methionine 2,21;

threonine 3,62 và tổng số axit amin thiết yếu là 42,80. Thành phần protein

trong các cơ quan nội tạng chiếm 14,8 - 15,8 % tổng số protein của cơ thể

tương ứng với hai mức năng lượng thấp nhất và cao nhất. Các tác giả rút ra

kết luận rằng, hàm lượng các axit amin (trong thịt, các cơ quan nội tạng và

toàn bộ cơ thể) và protein tích luỹ trong khoảng từ 20 - 40 kg thể trọng bị ảnh

hưởng bởi lượng protein và năng lượng ăn vào.

Van Lunen T.A. và D.J.A. COLE, 1996 [57] nghiên cứu ảnh hưởng của tỷ

lệ lysine/ DE đối với năng suất sinh trưởng và tích lũy protein ở lợn lai cho thấy:

Cho lợn lai 3 máu ăn protein quá mức không có lợi cho sinh trưởng vì một phần

năng lượng dùng cho quá trình deamin hóa. Mức tích lũy lipit không đổi trong

khoảng 0,4 - 0,8 g lysine/ MJ DE sau đó giảm dần trong khoảng từ 1,0 -1,4 g

lysine/ MJ DE. Như vậy, mức lysine thích hợp nhất là 0,95 -1,0 g/ MJ. Mức tích

lũy nitơ cao nhất là 28 - 30 g/ ngày ( hay 175 -187 g protein/ ngày).

Mahn .D.C và R.G. Shields, 1998 [50]. Nghiên cứu thành phần axit amin

thiết yếu và không thiết yếu của cơ thể lợn từ sơ sinh đến 145 kg thể trọng và

so sánh với các nghiên cứu khác cho biết: Thành phần axit amin của các bộ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

phận cơ thể (như thân thịt, lông, máu và tích lũy trong các mô cơ khác) của lợn

42

có khối lượng từ 8,5 đến 145 kg là như nhau trong mỗi bộ phận của cơ thể

nhưng lại khác nhau về hàm lượng giữa các thành phần. Hàm lượng lysine,

arginine, histidine, isoleucine, threonine và methionine của thân thịt là cao hơn

các tổ chức khác. Tuy nhiên trong máu có leucine, valine, lysine và lông có

cystine cao hơn thân thịt. Tỷ lệ lysine trong protein toàn bộ cơ thể tăng đến

khoảng 37 kg khối lượng thì đạt mức bình ổn, trong khi đó các axit amin thiết

yếu khác tăng lên đến 8,5 kg và sau đó tiến tới bình ổn. Ngược lại, tryptophan

giảm từ sơ sinh đến 8,5 kg và sau đó giữ ở tỷ lệ như nhau đến 145 kg.

Heger và cs, 2003 [45] đã tiến hành 5 thí nghiệm cân bằng để nghiên cứu

hiệu suất sử dụng của các axit amin isoleucine, leucine, valine, histidine và

phenylalanine + tyrosine. Từ đó nghiên cứu nhu cầu duy trì của các axit amin

này đối với lợn sinh trưởng. Các tác giả đã sử dụng các khẩu phần cơ bản

gồm có casein và các axit amin tổng hợp như là nguồn cung cấp nitơ chính có

chứa các mức khác nhau của từng loại axit amin tương ứng với tỷ lệ tích luỹ

protein là 0, 33, 66, 99 và 132 g/ngày. Tất cả các axit amin khác được bổ sung

vượt quá 30%. Theo sự tăng lên của nồng độ các axit amin tới hạn, thì tích luỹ

nitơ cũng tăng theo phương trình tuyến tính. Dựa trên phương trình tuyến tính

mô tả mối quan hệ giữa tích luỹ axit amin trong cơ thể và lượng axit amin ăn

vào, hiệu suất sử dụng của các axit amin tiêu hoá hồi tràng được tính đối với

isoleucine là -0,81; leucine là - 0,81; valine là - 0,82; histidine là - 1,17 và

phenylalanine + Tyrosine là - 0,67. Bằng phép ngoại suy khi cân bằng nitơ

bằng không, các tác giả đã tính được nhu cầu các axit amin dành cho duy trì

đối với isoleucine là 18, leucine 33, valin2 là 23, histidine 14 và phenylalanine + Tyrosine là 43 mg/W0,75.

Tác giả Otto và cs, 2003 [51] đã tiến hành nghiên cứu về ảnh hưởng

của khẩu phần giảm mức protein đến việc sử dụng và đào thải nitơ cũng như

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

khả năng tiêu hóa axit amin của lợn sinh trưởng. Mục đích của thí nghiệm

43

nhằm xác định xem khi cho lợn ăn khẩu phần giảm mức protein có giữ được

khả năng tích lũy nitơ như lợn ăn khẩu phần không giảm nitơ cũng như có

làm giảm tỷ lệ tiêu hóa các axit amin hay không? Các tác giả đã tiến hành hai

lô thí nghiệm với 6 lợn thí nghiệm được chia theo ô Latinh. Khẩu phần cơ sở

là ngô - đậu tương có 4 mức protein tổng số là 15, 12, 9 và 6%. Khẩu phần đối

chứng là là khẩu phần cơ sở có casein với 15% protein tổng số và một khẩu phần

không có protein. Các axit amin tổng hợp được bổ sung vào các khẩu phần có

12, 9 và 6% protein tổng số. Tỷ lệ các axit amin không thiết yếu và axit amin

thiết yếu là 45:55 với việc bổ sung axit glutamic vào khẩu phần có 9 và 6%

protein. Các khẩu phần casein và không có protein được sử dụng để xác định

tổng nitơ nội sinh và hao hụt axit amin hồi tràng.

Các nghiên cứu mới đây của trường Đại học Kentucky đã chứng minh

được rằng, việc đào thải nitơ đã giảm từ 15-20% khi giảm đi 2% protein tổng

số của khẩu phần có bổ sung thêm lysine, và lượng nitơ giảm đi 30-35% khi

giảm 4% protein tổng số và bổ sung thêm 4 axit amin. Hàm lượng amoniac và

các khí thải khác từ phân cũng giảm đáng kể khi sử dụng khẩu phần có mức

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

protein thấp được bổ sung thêm các axit amin tổng hợp.

44

Chƣơng 2

ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. ĐỐI TƢỢNG, ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU

2.1.1. Đối tƣợng nghiên cứu

- Lợn bố mẹ dòng CA được tạo ra từ con đực L19 phối với con cái

dòng ông bà C1230. Lợn nái CA có đặc điểm toàn thân màu trắng, bốn chân

chắc khoẻ, thân hình phát triển cân đối. Khả năng sinh sản cao, đẻ sai con

(từ 10 - 12 con/ ổ), nuôi con khéo. Giống lợn này hiện nay được nuôi khá

phổ biến ở các tỉnh miền Bắc nước ta và khi cho lai với đực 402 sẽ tạo ra

lợn lai nuôi thịt có 4 máu nuôi thương phẩm đang rất được người chăn nuôi

ưa chuộng. Tuổi lợn nghiên cứu từ cai sữa đến hết 56 ngày.

- Lợn lai thương phẩm 5 máu ngoại của công ty CP, ở độ tuổi từ cai sữa

đến hết 56 ngày.

- Phân tích thành phần hoá học của nguyên liệu thức ăn tại Phòng Thí

2.1.2. Địa điểm nghiên cứu: - Trại chăn nuôi lợn ngoại Tân Thái - Huyện Đồng Hỷ - Tỉnh Thái Nguyên và Trại chăn nuôi lợn ngoại Cương Hường - Xã Tích Lương - Thành phố Thái Nguyên. nghiệm trung tâm, trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.

2.1.3.Thời gian nghiên cứu

Từ tháng 11/2004 - hết tháng 12/2006

2.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

2.2.1. Xác định tỷ lệ lysine/ năng lượng trao đổi của thức ăn hỗn hợp

cho lợn con giai đoạn cai sữa đến 56 ngày tuổi.

2.2.2. Xác định tỷ lệ protein thích hợp trong thức ăn hỗn hợp của lợn

con giai đoạn cai sữa đến 56 ngày tuổi khi giảm tỷ lệ protein trên cơ sở cân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

đối lysine, methionine, threonine và tryptophan.

45

2.2.3. Nghiên cứu ảnh hưởng của việc giảm tỉ lệ protein tổng số trong

thức ăn của lợn con giai đoạn cai sữa đến 56 ngày tuổi đến hàm lượng nitơ

thải ra trong phân và nước tiểu, hàm lượng khí H2S, NH3, SO2...trong

chuồng nuôi.

2.3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.3.1. Phƣơng pháp tiến hành các thí nghiệm

2.3.1.1. Nguyên tắc chung

- Các thí nghiệm tiến hành theo phương pháp phân lô so sánh, đảm bảo

đồng đều về giống, tuổi, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng của lợn mẹ và lợn

con giữa các lô. Mỗi đàn lợn con sẽ được chia làm hai lô: lô I, lô II hoặc lô III

theo nguyên tắc đảm bảo sự đồng đều và khi kết thúc thí nghiệm có số lượng

đàn lợn mẹ và số lượng lợn con giữa các lô tương đương nhau.

- Mỗi một thí nghiệm chia làm hai giai đoạn:

+ Giai đoạn tiền thí nghiệm từ sơ sinh đến cai sữa: giai đoạn này tất cả

lợn thí nghiệm của các lô đều được chăm sóc, nuôi dưỡng giống nhau để tạo

sự đồng đều (thời gian cai sữa của lợn thí nghiệm tuỳ thuộc vào từng loại lợn:

với lợn ông bà CA và lợn thương phẩm 5 máu, thời gian cai sữa là 28 ngày).

+ Giai đoạn thí nghiệm từ lúc cai sữa đến 56 ngày tuổi: Thức ăn cho

mỗi lô được phối hợp đảm bảo yêu cầu của thí nghiệm. Khi lợn con tập ăn,

cho ăn cùng một loại thức ăn, đến khi tiến hành thí nghiệm sẽ phân thành các

lô, lợn con ở lô nào được ăn các khẩu phần thức ăn thí nghiệm của lô đó.

- Thành phần dinh dưỡng của thức ăn thí nghiệm giữa các lô giống

nhau về năng lượng, protein, vitamin, khoáng … chỉ khác nhau về yếu tố

thí nghiệm.

- Công thức thức ăn hỗn hợp của các lô thí nghiệm được thiết lập trên

phần mềm OPTIMIX Versron 4.0 của Viện nghiên cứu về dinh dưỡng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

Biofactory- Cộng hoà Séc.

46

2.3.1.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm 1

- Tên thí nghiệm 1

Xác định tỷ lệ lysine/ năng lượng trao đổi thích hợp trong thức ăn

hỗn hợp cho lợn con dòng CA giai đoạn 28 đến 56 ngày tuổi.

Mục đích của thí nghiệm 1:

+ Xác định ảnh hưởng của các tỷ lệ lysine/ năng lượng trao đổi khác

nhau trong thức ăn hỗn hợp đến sinh trưởng của lợn con giai đoạn từ cai sữa

đến 56 ngày tuổi.

+ Xác định được tỷ lệ bổ sung thích hợp lysine/ năng lượng trao đổi

trong thức ăn cho lợn con giai đoạn này.

+ Xác định hiệu quả kinh tế của các khẩu phần ăn có tỷ lệ bổ sung

lysine khác nhau.

Bảng 2.1. Sơ đồ bố trí thí nghiệm 1

STT Diễn giải ĐVT Lô 1a Lô 1b Lô 1c

1. Số lượng lợn nái 9 con

2. Giống lợn nái C1230 -

3. Tuổi lợn mẹ Từ lứa đẻ thứ 1 -2 -

4. Khối lượng lợn mẹ (kg) 150 - 180 kg

5. Số lượng lợn con (con) 26 28 27 con

6. Giống (loại) lợn con CA (L19 x C1230) -

7. Thời gian thí nghiệm 28 -56 ngày tuổi. Ngày tuổi

8. Tỷ lệ đực/cái 12/14 15/14 13/14 -

9. Khối lượng bắt đầu thí nghiệm Kg/con 6,32  0,16 6,31  0,17 6,37  0,16

Tỷ lệ lysine/ ME

Yếu tố thí nghiệm g/Mcal 3,88 4,27 4,46 10.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

So sánh P  0,05

47

Bảng 2.2. Công thức và thành phần dinh dƣỡng của thức ăn

thí nghiệm 1 (%)

STT Nguyên liệu Lô 1a Lô 1b Lô 1c

1. Ngô 54,62 54,44 54,50

2. Gạo 15,00 15,00 15,00

3. Khô đậu tương 11,95 12,23 12,14

4. Bột cá 7,00 6,49 6,44

5. Bột sữa khử bơ 9,16 9,20 9,20

6. Lysine 0,15 0,33 0,42

7. Methionine 0,03 0,11 0,09

8. Muối ăn 0,02 0,02 0,02

9. Bột khoáng 0,57 0,56 0,56

10. Dicanxiphotphat 0,75 0,87 0,88

11. Men tiêu hoá 0,50 0,50 0,50

12. Premix VTM 0,25 0,25 0,25

Trong 1 kg thức ăn có:

NLTĐ (Kcal) 3200 3200 3200

Protein (g) 190 190 190

Xơ (g) 16,85 16,81 16,83

Lysine (g) 12,42 13,66 14,28

Ca (g) 10 10 10

Photpho (g) 8 8 8

3,88 4,27 4,46 tỷ lệ lysine/ NL (g/1000 Kclo)

2.3.1.3. Phương pháp bố trí thí nghiệm 2

- Tên thí nghiệm 2:

Nghiên cứu giảm protein thô trên cơ sở cân đối một số axit amin thiết

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

yếu trong thức ăn hỗn hợp của lợn con giai đoạn từ 28 đến 56 ngày tuổi.

48

- Mục đích của thí nghiệm 2:

+ Xác định ảnh hưởng của các mức protein khác nhau trong thức ăn

hỗn hợp đến sinh trưởng của lợn con giai đoạn cai sữa đến 56 ngày tuổi

(Dòng CA và lợn thương phẩm 5 máu ngoại).

+ Xác định được mức protein thích hợp của thức ăn hỗn hợp cho

lợn con giai đoạn cai sữa đến 56 ngày tuổi

+ Xác định hiệu quả kinh tế của các khẩu phần ăn có các mức

protein khác nhau sử dụng trong chăn nuôi lợn con.

- Đối tƣợng thí nghiệm

Thí nghiệm 2 tiến hành trên 2 đối tượng lợn là:

+ Thí nghiệm 2a: Tiến hành trên lợn con dòng bố mẹ CA, tại trại chăn

nuôi lợn ngoại Tân thái - Đồng Hỷ - Thái nguyên.

+ Thí nghiệm 2b: Tiến hành trên lợn lai 5 máu ngoại, tại trại chăn nuôi

lợn ngoại Cương Hường - xã Tích lương - TP Thái nguyên.

- Sơ đồ bố trí thí nghiệm 2 đƣợc trình bày trên Bảng 2.3 và 2.4

Bảng 2.3. Sơ đồ bố trí thí nghiệm 2a

STT Diễn giải ĐVT Lô 2a1 Lô 2a3

1. Số đàn lợn nái Lô 2a2 12 con

2. Giống lợn nái C1230 -

3. Tuổi lợn mẹ Lứa đẻ 1 - 2 -

4. Khối lượng lợn mẹ 150 - 180 kg

5. Số lượng lợn con 36 37 36 con

6. Giống (loại) lợn con CA (L19 x C1230) -

7. Thời gian thí nghiệm 28 - 56 ngày tuổi. -

8. Tỷ lệ đực/cái 18/18 18/19 17/19 -

9. KL bắt đầu TN Kg/con 6,83  0,17 6,65  0,14 6,63  0,18

10. 20 19 18 % Yếu tố thí nghiệm (Mức protein trong khẩu phần)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

So sánh P  0,05

49

Bảng 2.4. Sơ đồ bố trí thí nghiệm 2b

STT Diễn giải ĐVT Lô 2b1 Lô 2b2 Lô 2b3

1 Số đàn lợn nái con 5

2 Giống lợn nái CA -

3 Tuổi lợn mẹ Đẻ lứa 3 - 4 -

Khối lượng lợn mẹ kg 150 - 180

5 Số lượng lợn con con 15 15 15

6 Giống (loại) lợn con Lợn con thương phẩm 5 máu -

Thời gian thí nghiệm 28 đến 56 ngày tuổi 7 -

Tỷ lệ đực/cái 7/8 6/9 7/8 8 -

9 KL bắt đầu TN Kg/con 7,51 7,48 7,47

(Mức protein trong khẩu phần)

10 Yếu tố thí nghiệm % 20 19 18

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

So sánh P  0,05

50

Bảng 2.5. Công thức và thành phần dinh dƣỡng của thức ăn

thí nghiệm 2a (%)

STT Nguyên liệu Lô2a1 Lô 2a2 Lô 2a3

49,62 52,30 54,99 1 Ngô

10,00 10,00 10,00 2 Gạo

22,95 20,10 17,25 3 Khô đậu tương

5,00 5,00 5,00 4 Bột cá

7,00 7,00 7,00 5 Bột sữa khử bơ

0,14 0,23 0,33 6 Lysine

0,30 0,31 0,33 7 Methionine

2,04 1,99 1,95 8 Dầu đậu nành

0,08 0,10 0,12 9 Muối ăn

2,57 2,65 2,73 10 Dicanxiphotphat

0,30 0,30 0,30 11 Premix VTM

Trong 1 kg thức ăn có:

3200 3200 3200 NLTĐ (Kcal)

200 190 180 Protein (g)

36,49 35,06 33,62 Xơ (g)

12,42 12,42 12,42 Lysine (g)

6,83 6,83 6,83 Met + Cys (g)

10 10 10 Ca (g)

8 8 8 Photpho (g)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

2,0 2,0 2,0 Na (g)

51

Công thức và thành phần dinh dưỡng thức ăn thí nghiệm 2 được trình

bày tại Bảng 2.5 và Bảng 2.6.

Bảng 2.6. Công thức và thành phần dinh dƣỡng của thức ăn

thí nghiệm 2 b (%)

STT Nguyên liệu

1 Ngô Lô2b1 49,67 Lô 2b2 52,42 Lô 2b3 55,17

2 Gạo 10,00 10,00 10,00

3 Khô đậu tương 22,84 19,87 16,89

4 Bột cá 5,00 5,00 5,00

5 Bột sữa khử bơ 7,00 7,00 7,00

6 L-Lysine 0,14 0,24 0,34

7 DL-Methionine 0,30 0,32 0,33

8 L-Threonine 0,04 0,09 0,14

9 L-Tryptophan 0,01 0,03 0,04

10 Dầu đậu nành 2,03 1,97 1,92

11 Muối ăn 0,08 0,10 0,12

12 Dicanxiphotphat 2,58 2,66 2,74

13 Premix VTM 0,30 0,30 0,30

Tổng cộng 100 100 100

Trong 1 kg thức ăn có:

Năng lượng trao đổi (kcal) 3200 3200 3200

Protein (g) 200 190 180

Lysine (g) 12,42 12,42 12,42

Methionine + cystein (g) 7,31 7,31 7,31

Threonine (g) 8,07 8,07 8,07

Tryptophan (g) 2,36 2,36 2,36

Canxi (g) 10 10 10

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

Photpho (g) 8 8 8

52

2.3.1.4. Phương pháp chế biến và phối trộn thức ăn thí nghiệm

Thức ăn cho lợn con được chuẩn bị từ các nguyên liệu đã được xác định

thành phần hoá học, hàm lượng các chất dinh dưỡng và tỷ lệ các axit amin.

Các loại nguyên liệu như ngô, gạo tẻ, khô đậu tương, bột cá được rang

chín, nghiền thành bột. Các loại khác như bột sữa khử bơ, các axit amin, dầu

đậu nành, muối ăn, bột khoáng, dicanxi photphat, men tiêu hoá, premix

Vitamin, được sử dụng dưới dạng chế biến sẵn trên thị trường.

Khi tiến hành phối trộn các loại nguyên liệu có tỷ lệ lớn được cân

bằng cân đồng hồ có độ chính xác  5 gam, các loại nguyên liệu có tỷ lệ

thấp như axit amin tổng hợp, premix … được cân bằng cân kỹ thuật có độ

chính xác  0,1g.

Thức ăn được trộn bằng tay, theo phương pháp "vết dầu loang", đảm bảo

trộn thật đều. Khối lượng thức ăn một lần trộn đảm bảo đủ cho ăn 5 - 7 ngày.

Sau khi trộn xong thức ăn được bảo quản trong điều kiện tốt nhất để tránh ảnh

hưởng của điều kiện ngoại cảnh đến chất lượng thức ăn.

2.3.1.5. Phương pháp nuôi dưỡng lợn nái và lợn con

Tuỳ thuộc vào điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc của cơ sở chăn nuôi,

nhưng vẫn đảm bảo độ đồng đều về khẩu phần ăn, giống, tuổi, điều kiện chăm

sóc nuôi dưỡng cho lợn mẹ.

- Lợn con được tập ăn sớm từ 12 - 14 ngày tuổi, trong giai đoạn tập ăn

lợn con được ăn cùng một loại thức ăn, khi lợn con cai sữa tiến hành phân đàn

và từ giai đoạn này lợn con sẽ được ăn theo khẩu phần thí nghiệm.

- Phương pháp cho ăn: Để lợn con thích nghi dần với việc ăn hoàn toàn

thức ăn do con người cung cấp, giúp lợn ăn được nhiều và ăn hết thức ăn,

chúng tôi tiến hành cho lợn ăn 5 bữa/ ngày, cho ăn cám khô hoàn toàn, nước

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

uống tự do.

53

- Trong quá trình thí nghiệm đảm bảo đồng đều mọi biện pháp kỹ thuật

chăm sóc nuôi dưỡng để hạn chế thấp nhất ảnh hưởng của yếu tố ngoại cảnh

đến lợn thí nghiệm.

- Phương pháp ghi chép số liệu: Tất cả các số liệu được chúng tôi ghi

chép hàng ngày vào sổ theo mẫu thống nhất.

2.3.2. Phƣơng pháp phân tích thành phần hoá học của thức ăn

2.3.2.1. Phương pháp xác định vật chất khô

Việc xác định độ ẩm của thức ăn gia súc được tiến hành theo tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) - 4326 - 86 [14], sấy mẫu khô tuyệt đối ở nhiệt độ 105 0C

cho tới khi có khối lượng không đổi.

2.3.2.2. Phương pháp xác định hàm lượng protein thô

Hàm lượng protein trong thức ăn được tiến hành theo tiêu chuẩn Việt

Nam ( TCVN) - 4328-86 [16] theo phương pháp Kjeldahl trên hệ thống phân

tích Gerhardt.

2.3.2.3. Phương pháp xác định hàm lượng khoáng tổng số

Hàm lượng khoáng tổng số được tiến hành theo tiêu chuẩn Việt Nam

(TCVN - 4327 - 86 [15]).

2.3.2.4. Phương pháp xác định hàm lượng xelluloz tổng số

Hàm lượng xelluloz tổng số được tiến hành theo phương pháp Weende

(TCVN 4329 - 86 [17]) trên thiết bị phân tích ANKOM Fibre Alalyzer 200.

2.3.2.5. Phương pháp xác định hàm lượng lipit

Hàm lượng lipit trong thức ăn gia súc được tiến hành theo (TCVN)

4331 - 86 [18] trên hệ thống phân chiết bán tự động Shoxhlet.

2.3.2.6. Phương pháp phân tích axit amin trong nguyên liệu thức ăn.

Xác định hàm lượng axit amin trên máy phân tích axit amin tự động

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

BIOCHM 20 của Thụy Điển.

54

2.3.2.7. Phương pháp tính năng lượng trao đổi của thức ăn

Năng lượng thô của thức ăn được tính theo công thức của Ewan (1989)

như sau:

NL thô (Kcal/kg TA) = 4.143 + (56 x % lipit) + (15 x % protein thô) -

(44 x % khoáng tổng số)

R2 = 0,98

Năng lượng trao đổi được tính theo công thức của Hoffmann,

chiemann, 1980 [40]: NLTD (MJ/kg TA) = 0,0210 x1 + 0,0374 x2 + 0,0144x3 + 0,0171x4 - 0,0014 C+

Trong đó:

x1, x2, x3 và x4 lần lượt là protein, lipit, xơ và dẫn xuất không đạm tiêu

hoá, tính bằng g/kg thức ăn.

+: Hệ số sử dụng đường trong thức ăn khi mà lượng đường trong thức

C: lượng đường (g/kg)

ăn vượt quá 80 g/1 kg vật chất khô.

2.3.3. Các chỉ tiêu theo dõi

1. Sinh trưởng tích luỹ của lợn con thí nghiệm: Khối lượng lợn thí nghiệm

tại các thời điểm: cai sữa, (35)/42, 49 và 56 ngày.

2. Sinh trưởng tuyệt đối của lợn con thí nghiệm (g/con/ ngày).

3. Sinh trưởng tương đối của lợn con thí nghiệm (%).

4. Tiêu tốn thức ăn, protein, lysine /1 kg tăng khối lượng lợn con từ cai

sữa- 56 ngày tuổi (kg)

5. Chi phí thức ăn/ 1 kg tăng khối lượng lợn con từ cai sữa - 56 ngày tuổi

(đồng)

6. Hàm lượng nitơ thải ra trong phân, nước tiểu và các chỉ số về môi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

trường của chuồng nuôi (H2S, NH3, SO2 …)

55

2.3.4. Phƣơng pháp theo dõi các chỉ tiêu

* Sinh trưởng tích luỹ:

Cân khối lượng lợn con tại các thời điểm: 28, (35)/42, 49 và 56 ngày tuổi.

Cân vào buổi sáng trước khi cho lợn con ăn. Cân cùng một chiếc cân và một

người cân.

* Sinh trưởng tuyệt đối (g/con/ngày)

Được tính bằng công thức:

A =

W1 - W0 ------- t1 - t0

Trong đó: A là độ sinh trưởng tuyệt đối, tính bằng g/con/ngày

W1 là khối lượng ở thời điểm t1 (g)

W0 là khối lượng lợn thí nghiệm ở thời điểm t0 (g)

t1: là thời gian ở thời điểm kết thúc theo dõi (ngày)

t0: là thời gian lúc bắt đầu theo dõi (ngày)

* Sinh trưởng tương đối R %

Được tính bằng công thức:

W1 - W0 -------

R = (%) W1 + W0

------ 2 x 100

Trong đó: R: sinh trưởng tương đối (%)

W1 là khối lượng lợn thí nghiệm khi kết thúc theo dõi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

Wo là khối lượng lợn thí nghiệm lúc bắt đầu theo dõi

56

* Tiêu tốn thức ăn, protein, lysine / 1 kg tăng khối lượng

Hàng ngày theo dõi chặt chẽ lượng thức ăn dùng cho lợn thí nghiệm,

tổng kết lượng thức ăn tiêu thụ theo từng giai đoạn từ 28 - 42, 43 - 49, 50 - 56

ngày. Tiêu tốn thức ăn / 1 kg tăng khối lượng được tính theo công thức sau:

Tổng thức ăn tiêu thụ (kg)

Tổng KL lợn tăng trong kỳ thí nghiệm (kg)

Tiêu tốn thức ăn/1kg tăng KL(kg) =

Tổng protein tiêu thụ (g)

Tiêu tốn protein/1kg tăng KL(g) =

Tổng KL lợn tăng trong kỳ thí nghiệm (kg)

Tổng lysine tiêu thụ (g)

Tiêu tốn lysine/1kg tăng KL(g) =

Tổng KL lợn tăng trong kỳ thí nghiệm (kg)

* Chi phí thức ăn / 1 kg tăng khối lượng (đồng)

Chi phí thức ăn/1 kg tăng khối lượng trong kỳ thí nghiệm được tính theo

công thức: Tổng chi phí thức ăn (đ)

Chi phí thức ăn/1kg tăng KL(đ) =

Tổng KL lợn tăng trong kỳ thí nghiệm (kg)

Trong đó: Tổng chi phí thức ăn (đ) = Tổng thức ăn tiêu thụ (kg) x Đơn giá 1 kg TA (đ/kg)

* Nồng độ khí NH3 và H2S: được đo trên máy đo khí độc ITX S/n và

TMX 412.

* Lượng nitơ thải ra trong phân và nước tiểu: được xác định theo

phương pháp Kjeldahl trên máy Gerhard.

2.3.5. Phương pháp sử lý số liệu

Số liệu thu được được sử lý theo phương pháp thống kê sinh vật học, trên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

phần mềm Statgraph version 4.0 của Cục thống kê USA và Microsoft Excell.

57

Chƣơng 3

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

3.1. Kết quả thí nghiệm 1

Xác định tỷ lệ lysine/ ME thích hợp trong thức ăn hỗn hợp cho lợn

dòng CA giai đoạn 28 đến 56 ngày tuổi.

3.1.1. Sinh trưởng tích luỹ của lợn thí nghiệm.

Kết quả theo dõi về sinh trưởng tích luỹ của lợn thuộc thí nghiệm 1 được

trình bày tại Bảng 3.1. Đối với đàn lợn bố mẹ CA nuôi tại trại Tân Thái tiến

hành cai sữa lúc 28 ngày tuổi, cho nên số liệu theo dõi bắt đầu từ giai đoạn này.

Bảng 3.1. Sinh trƣởng tích luỹ của lợn con thí nghiệm 1

Khối lƣợng lợn con (kg)

Lô 1a (n=26)

Lô 1b (n=28)

Lô 1c (n=27)

Ngày tuổi

(3,88)

(4,27)

(4,46)

Cv (%)

Cv (%)

Cv (%)

6,32 ± 0,16

12,97

6,31 ± 0,17

14,04

6,37 ± 0,16

12,70

28

9,03 ± 0,32

17,83

9,11 ± 0,30

17,80

9,34 ± 0,29

17,08

42

21,70

20,51

49

11,67± 0,46 16,08a ±0,57

17,78

11,79 ±0,43 16,51a ± 0,56

17,29

12,07 ± 0,44 21,16 17,12a ±0,55 16,57

56

100

102,67

106,47

So sánh

(%)

P ≥ 0,05

a,b,c Trên cùng hàng ngang, các số mang số mũ giống nhau sai khác nhau không có ý nghĩa thông

kê ở mức P>0,05

Số liệu thu được ở Bảng 3.1 cho thấy, sinh trưởng tích luỹ của cả 3 lô ở

thí nghiệm 1 đều tuân theo quy luật sinh trưởng chung của gia súc, tăng dần

theo tuổi. So sánh về kết quả sinh trưởng tích luỹ giữa các lô có tỷ lệ lysine/

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

năng lượng trao đổi khác nhau trong khẩu phần tại thời điểm 56 ngày tuổi,

58

khối lượng trung bình/con của các lô có chiều hướng tăng, ở lô 1a là 16,08

kg; lô 1b là 16,51 kg và lô 1c là 17,12 kg. Như vậy khi lợn con ở giai đoạn 28

- 56 ngày tuổi được bổ sung khẩu phần có tỷ lệ lysine/năng lượng trao đổi

tăng dần từ 3,88 - 4,46 gam/1000 Kcal, thì sinh trưởng tích luỹ có chiều

hướng tăng theo từ 2,67 - 6,47% theo thứ tự từ 1a - 1b và 1c ( tương đương

0,43 kg - 0,71 kg - 1,04 kg). Tuy nhiên sự chênh lệch giữa các lô là là không

đáng kể. Mặc dù sự sai khác này không có ý nghĩa thống kê (P>0,05),

nhưng kết quả thu được cũng cho thấy với tỷ lệ bổ sung các axit amin (mà đại

diện là lysine) tăng dần trong khuôn khổ thí nghiệm đã đáp ứng gần tới nhu

cầu của lợn về các axit amin.

Khi phân tích về mối tương quan giữa tỷ lệ lysine/năng lượng trao đổi

trong thức ăn với sinh trưởng tích luỹ của lợn thí nghiệm chúng ta thấy tại

thời điểm 56 ngày tuổi, mối tương quan này được biểu diễn qua phương trình

bậc 2 sau:

y = 2,4547x2 - 18,904x + 52,471.

Với R = 0,1345.

Ở đây, y là khối lượng lợn lúc 56 ngày tuổi (kg), x là tỷ lệ lysine/năng

lượng trao đổi (g)

Qua phương trình biểu diễn mối tương quan giữa khối lượng lợn lúc 56

ngày tuổi và tỷ lệ lysine/ năng lượng trao đổi, chúng ta thấy tương quan giữa hai

đại lượng đó là tương quan dương, cho nên khi tăng tỷ lệ lysine/năng lượng trao

đổi đã làm tăng khối lượng của lợn. Tuy nhiên, do hệ số tương quan giữa khối

lượng lợn lúc 56 ngày tuổi và tỷ lệ lysine/ năng lượng trao đổi thấp (R = 0,1345),

cho nên khi tăng tỷ lệ lysine/năng lượng trao đổi trong khẩu phần thì sinh trưởng

tĩch luỹ có chiều hướng tăng lên, nhưng múc độ tăng không lớn do thí nghiệm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

mới chỉ cân bằng được 2 axit amin là lysine và methionine.

59

Lê Thanh Hải, Lã Văn Kính, Danny Singh và ctv,1999 [2] đã xác định

nhu cầu năng lượng và axit amin cho lợn con 3 máu ngoại (Y x L x D) sau cai

sữa (28 ngày tuổi). Kết quả thí nghiệm cho thấy, khi mật độ năng lượng tăng

lên từ 14 - 16 MJ DE và mức axit amin trong khẩu phần lợn con cai sữa tăng

lên (từ 0,8 - 1,1 g lysine/ MJ DE) thì khả năng tăng trọng và chuyển hóa thức

ăn của lợn cũng được cải thiện theo. Khẩu phần tốt nhất cho lợn con cai sữa

có mật độ năng lượng từ 15 - 16 MJ DE và 1,0 - 1,1 g lysine/ MJ DE; 0,4 -

0,44 methionine/ MJ DE; 0,57 - 63 g Met + Cys/ MJ DE; 0,63 - 0,7 g

threonine/ MJ DE và 0,18 - 0,2 g tryptophan/ MJ DE. Kết quả nghiên cứu của

các tác giả này mặc dù khác với thí nghiệm của chúng tôi về đối tượng lợn,

đơn vị tính năng lượng nhưng phù hợp với kết quả nghiên cứu của chúng tôi.

3.1.2. Sinh trưởng tuyệt đối và tương đối của lợn thí nghiệm 1

Việc đánh giá sinh trưởng của lợn được thể hiện dưới dạng tăng khối

lượng của cơ thể, được tính dưới dạng sinh trưởng tuyệt đối (gam/con/ngày)

hoặc sinh trưởng tương đối (%). Trong thí nghiệm 1 này số liệu về sinh

trưởng tuyệt đối và tương đối của lợn được chúng tôi trình bày tại Bảng 3.2 và

3.3. Qua số liệu thu được cho chúng ta thấy, sinh trưởng tuyệt đối của cả 3 lô

thí nghiệm đều tuân theo quy luật chung về sinh trưởng của gia súc. Sinh

trưởng tuyệt đối trong giai đoạn từ cai sữa đến 56 ngày tuổi tương đối cao, đạt

từ 348,57 - 383,93 gam/con/ngày. Trung bình toàn kỳ, lô 1c có khả năng sinh

trưởng cao nhất 383,93 gam/con/ngày), tiếp sau là lô 1b (364,24 gam/ con/ngày)

và lô 1a 348,57 gam/con/ngày. Như vậy khi tăng tỷ lệ lysine/1000 kcal năng

lượng trao đổi từ 3,88 - 4,46 g thì sinh trưởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm cũng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

tăng theo từ 4,50 - 10,14 %.

60

B¶ng 3.2. Sinh tr ëng tuyÖt ®èi cña lîn thÝ nghiÖm 1

Sinh trƣởng tuyệt đối (g/con/ngày) STT Ngày tuổi Lô 1a Lô 1b Lô 1c

28 - 42 ngày 193,57 200,00 212,14 1.

42 - 49 ngày 377,14 382,86 390,00 2.

49 - 56 ngày 630,00 674,29 721,43 3.

4. Bình quân cả kỳ 348,57 364,24 383,93

5. So sánh (%) 100 104,50 110,14

Đối với sinh trưởng tương đối của lợn thí nghiệm 1 cũng tuân theo quy

luật chung tức là giảm dần theo sự tăng lên của ngày tuổi phù hợp với quy luật

phát triển của gia súc. Số liệu thu được về sinh trưởng tương đối của các lô cho

thấy có sự khác nhau mặc dù không lớn. Mức độ giảm của sinh trưởng tương

đối có xu hướng chậm dần khi tăng tỷ lệ lysine/1000 kcal năng lượng trao đổi.

Ở giai đoạn từ 28-42 ngày tuổi, sinh trưởng tương đối của lô 1a là 35,31%, lô

1b là 36,32% và lô 1c là 37,81%. Đến giai đoạn 49-56 ngày tuổi, sinh trưởng

tương đối của lợn con cũng tương tự như vậy, của lô 1a là 31,78%; của lô 1b là

33,36% và của lô 1c là 34,60%.

B¶ng 3.3. Sinh tr ëng t ¬ng ®èi cña lîn thÝ nghiÖm 1

Sinh truởng tƣơng đối (%)

STT Ngày tuổi

Lô 1a Lô 1b Lô 1c

1. 28 - 42 ngày 35,31 36,32 37,81

2. 42 - 49 ngày 25,51 25,65 25,50

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

3. 49 - 56 ngày 31,78 33,36 34,60

61

3.1.3. Tiêu tốn thức ăn/ 1 kg tăng khối lượng lợn con từ 28 - 56 ngày tuổi (kg)

Tiêu tốn thức ăn trên một kg tăng khối lượng là một chỉ tiêu kinh tế

quan trọng cùng với chỉ tiêu về sinh trưởng của lợn quyết định sự thành công

hay thất bại của một cơ sở chăn nuôi. Thực tế cho thấy tiêu tốn thức ăn trên

một kg tăng khối lượng càng thấp thì hiệu quả sử dụng thức ăn càng cao. Kết

quả về chỉ tiêu này được trình bày ở Bảng 3.4.

Bảng 3.4. Tiêu tốn thức ăn/ 1 kg tăng khối lƣợng từ 28 - 56 ngày tuổi

thí nghiệm 1

STT

Diễn giải

ĐVT

Lô 1a

Lô 1b

Lô 1c

1.

253,76

285,60

290,25

kg

Tổng khối lượng lợn con tăng trong kỳ thí nghiệm

2.

Tổng khối lượng TA tiêu thụ

362,88

405,55

409,25

kg

3.

Lượng thức ăn tiêu thụ/con

13,96

14,48

15,15

kg

4.

Tiêu tốn TA/ 1 kg tăng KL

1,43

1,42

1,41

kg

5.

So sánh

100

99,30

98,60

%

Kết quả thu được ở Bảng 3.4 cho thấy: Khi tăng tỷ lệ lysine / năng

lượng trao đổi từ 3,88 - 4,46 g/1000 kcal ME thì lượng thức ăn tiêu thụ trong

cả kỳ thí nghiệm tăng dần từ 13,96 kg/con ở lô thí nghiệm 1a lên 14,48

kg/con ở lô 1b và 15,15 kg/con đối với lô thí nghiệm 1c. Lượng thức ăn tiêu

thụ tăng dần theo chiều tăng lên của tỷ lệ lysine/ME cho thấy ảnh hưởng của

lượng axit amin trong thức ăn đến tính ngon miệng, kích thích tính thèm ăn

của lợn làm cho lượng thức ăn tiêu thụ của lợn/ngày tăng lên, đây là tiền đề

kích thích sinh trưởng của lợn. Tuy nhiên do lợn con sinh trưởng nhanh hơn ở

những lô được nuôi bằng thức ăn có tỷ lệ lysine/năng lượng trao đổi cao hơn

cho nên tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng lợn thí nghiệm có xu hướng giảm

dần từ 1,43 kg ở lô thí nghiệm 1a xuống 1,41 kg ở lô thí nghiệm 1c. Nếu lấy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

lô 1a là 100% thì lô 1b giảm hơn lô 1a là 0,7% và lô 1c giảm hơn lô 1a là

62

1,40%. Điều này cho thấy khi lợn con được ăn khẩu phần có tỷ lệ lysine/năng

lượng trao đổi cao hơn, tính thèm ăn của lợn cao hơn, hệ số chuyển hoá thức

ăn tốt hơn cho nên khả năng sinh trưởng nhanh hơn. Các tác giả Vũ Thị Lan

Phương và Đỗ Văn Quang, 2001 [12], khi nghiên cứu xác định tỷ lệ lysine

/năng lượng thích hợp cho lợn sinh trưởng và lợn vỗ béo giống Yorkshire cho

thấy với các mức lysine khác nhau có ảnh hưởng đáng kể đến chỉ tiêu tiêu tốn

thức ăn của lợn trong giai đoạn từ 0 - 8 tuần.

Kết quả nghiên cứu của các tác giả Hoàng Văn Tiến và Nguyễn Đăng

Bật, 1995 [19] về thức ăn để cai sữa sớm cho lợn con giống Đại bạch, Landrace

và con lai F1 (ĐB x L) ở 35 ngày tuổi cho rằng khẩu phần có 3250 kcal ME/

kg; 20,5 % protein thô và 1,4 % lysine làm cho lợn lô thí nghiệm có tốc độ tăng

trọng cao hơn lô đối chứng (có tỷ lệ lysine 0,9% ) là 0,38% kg /con, giảm tiêu

tốn thức ăn cho 1 kg lợn con đến 45 ngày tuổi ngày tuổi là 0,2 kg.

3.1.4. Tiêu tốn protein và lysine/kg tăng khối lượng của lợn

Kết quả tính toán về tiêu tốn protein và lysine/kg tăng khối lượng lợn

thí nghiệm được trình bày tại Bảng 3.5.

Bảng 3.5. Tiêu tốn protein và lysine/ 1 kg tăng khối lƣợng từ 28 - 56 ngày tuổi thí nghiệm 1

STT Diễn giải ĐVT Lô 1a Lô 1b Lô 1c

1. kg 253,76 285,60 290,25 Tổng khối lượng lợn con tăng trong kỳ thí nghiệm

2. gam 68.947,0 77.054,0 77.757,0 Tổng khối lượng protein tiêu thụ

3. gam 271,70 269,79 267,89 Tiêu tốn protein/kg tăng khối lượng

4. So sánh % 100 99,29 98,59

5. gam 4.507,00 5.539,80 5.844,10 Tổng khối lượng lysine tiêu thụ

6. gam 17,76 19,39 20,13 Tiêu tốn lysine/ 1 kg tăng khối lượng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

7. So sánh % 100 109,18 113,34

63

Kết quả Bảng 3.5 cho thấy, mặc dù thức ăn thí nghiệm có tỷ lệ protein

thô giống nhau giữa các lô (190 gam/kg thức ăn), nhưng tổng lượng protein

thô tiêu thụ cho từng lô lại khác nhau và có xu hướng tăng theo việc tăng tỷ lệ

lysine/1000 Kcal ME (Tăng từ 68.947 - 77.054 - 77.757 gam theo thứ tự lô

1a, 1b và 1c). Tuy nhiên cũng như chỉ tiêu về tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối

lượng, tiêu tốn protein/kg tăng khối lượng lại giảm theo chiều ngược lại

(271,70 - 269,79 - 267,89 g theo thứ tự lô 1a, 1b và 1c). Điều này cho thấy,

khi tăng tỷ lệ lysine/1000 Kcal ME, lợn sinh trưởng nhanh hơn nên tiêu tốn

protein/kg tăng khối lượng giảm xuống.

Tuy nhiên, tiêu tốn lysine/kg tăng khối lượng của lợn thí nghiệm lại

không giống như các chỉ tiêu về tiêu tốn thức ăn và protein, theo chiều tăng

lên của tỷ lệ lysine/1000 Kcal ME, tiêu tốn lysine/1kg tăng khối lượng tăng

lên (từ 17,76 - 19.39 - 20,13 g/kg theo thứ tự lô 1a, 1b, 1c). Tỷ lệ tăng tương

đối cao từ 9,18 - 13,34% so với lô 1a. Lý do của việc tăng này là do, lượng

lysine tiêu thụ tăng lên do tỷ lệ lysine trong thức ăn và lượng thức ăn tiêu thụ

tăng lên. Trong khi đối với lượng protein tiêu thụ của các lô có tăng nhưng

không tăng nhiều và chủ yếu do việc tăng của lượng thức ăn ăn vào. Đây là

điều chúng ta cần quan tâm khi quyết định tỷ lệ lysine/1000 Kcal ME thích

hợp đối với lợn ở giai đoạn này.

3.1.5. Chi phí thức ăn/ 1 kg tăng khối lượng lợn con từ 28 - 56 ngày tuổi (đồng)

Cũng giống như chỉ tiêu tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng thì chi phí

thức ăn/kg tăng khối lượng là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp đánh giá khả năng sản

xuất của vật nuôi và hiệu quả kinh tế của khẩu phần thức ăn sử dụng. Để đánh

giá hiệu quả kinh tế của các loại thức ăn có tỷ lệ lysine/năng lượng trao đổi

khác nhau trong chăn nuôi lợn con ở thí nghiệm 1, chúng tôi tiến hành theo

dõi chỉ tiêu về chi phí thức ăn/1kg tăng khối lượng. Kết quả theo dõi được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

trình bày tại Bảng 3.6.

64

Kết quả ở Bảng 3.6 cho chúng ta thấy: Khi tăng tỷ lệ lysine/năng lượng

trao đổi tõ 3,88 - 4,46 g/1000 kcal, do phải sử dụng các loại axit amin tổng

hợp với giá còn tương đối cao nên đơn giá thức ăn của các lô thí nghiệm có

xu hướng tăng theo sự tăng lên của tỷ lệ lysine/1000 Kcal ME (Tăng từ

5.228,37 - 5.360,21 - 5.400,87 đồng/kg). Trong khi đó, mặc dù tiêu tốn thức

ăn/kg tăng khối lượng của các lô giảm xuống theo chiều tăng của tỷ lệ

lysine/1000 Kcal ME, nhưng chi phí thức ăn/kg tăng khối lượng của các lô

vẫn tăng theo (Từ 7.476,63 - 7.611,49 - 7.615,18 đồng theo thứ tự lô 1a, 1b,

1c). Nếu so với lô 1a thì chi phí thức ăn/ 1 kg tăng khối lượng của lô 1b cao

hơn lô 1a là 134,86 đ tương đương 1,80% và lô 1c cao hơn lô 1a là 138,55

đồng tương đương 1,85%.

Điều này cho thấy, khi tăng tỷ lệ lysine/1000 kcal năng lượng trao đổi

trong thức ăn tõ 3,88 - 4,46 g, đã đáp ứng được nhu cầu của lợn về các axit

amin, cho nên khả năng sinh trưởng của lợn con tăng lên, hiệu suất chuyển

hoá thức ăn tốt hơn. Tuy nhiên, do giá của các axit amin tổng hợp còn quá

cao, làm tăng giá thành thức ăn. Cho nên hiệu quả kinh tế của chăn nuôi lợn

giai đoạn này bị ảnh hưởng, vì vậy chúng tôi cho rằng, cần cân nhắc tới đơn

giá của các axit amin tổng hợp để quyết định tỷ lệ lysine/1000 Kcal ME. Mặc

dù vậy, trong tương lai, với việc đổi mới công nghệ sản xuất, đơn giá của các

loại axit amin tổng hợp giảm xuống thì việc áp dụng các công thức có tỷ lệ

lysine/năng lượng trao đổi cao sẽ có lợi hơn cả về cơ sở khoa học và thực tiễn

sản xuất, đặc biệt trong tiết kiệm thức ăn protein do giảm tiêu tốn protein/1 kg

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

tăng khối lượng.

65

Bảng 3.6. Chi phí thức ăn/ 1 kg tăng khối lƣợng lợn thí nghiệm 1

§ơn STT Diễn giải Lô 1a Lô 1b Lô 1c vị tính

Tổng KL lợn con 1. Kg 253,76 285,60 290,25 tăng trong kỳ TN

2. Tổng TA tiêu tốn Kg 362,88 405,55 409,25

đồng 5.228,37 5.360,21 5.400,87 3. §ơn giá 1 kg TA

4. Tổng chi phí TA đồng 1.897.270,9 2.173.843,9 2.210.306,1

Chi phí thức ăn/ 1 5. đồng 7.476,63 7.611,49 7.615,18 kg tăng KL

6. So sánh % 100 101,80 101,85

Nhận xét chung về thí nghiệm 1: Từ kết quả nghiên cứu của thí nghiệm

1, chúng tôi xin sơ bộ kết luận như sau: Khi tăng tỷ lệ lysine /1000 kcal năng

lượng trao đổi từ 3,88 - 4,46 gam, sinh trưởng của lợn có chiều hướng tăng từ

2,67 - 6,47%, tuy nhiên sự sai khác giữa các lô không có ý nghĩa thống kê.

Tiêu tốn thức ăn/1 kg tăng khối lượng có xu hướng giảm dần từ 0,70 - 1,40%,

tiêu tốn protein/1 kg tăng khối lượng giảm từ 0,71 - 1,41%, tiêu tốn lysine/1

kg tăng khối lượng tăng từ 9,18 - 13,34%, chi phí thức ăn /1 kg tăng khối

lượng tăng dần từ 1,80 - 1,85%. Trong giai đoạn hiện nay, do đơn giá của các

loại axit amin còn tương đối cao, nên sử dụng lượng lysine/1000 Kcal ME là

3,88 g là phù hợp với tình hình hiện tại.

T.A. Van Lunen và D.J.A. COLE, 1996 [57] khi nghiên cứu ảnh hưởng của tỷ

lệ lysine/ DE đối với năng suất sinh trưởng và tích lũy protein ở lợn lai cũng kết

luận rằng mức lysine thích hợp nhất là 0,95 -1,0 g/ MJ năng lượng tiêu hoá sẽ có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

mức tích lũy nitơ cao nhất là 28 - 30 g/ ngày (hay 175 -187 g protein/ ngày).

66

3.2. KẾT QUẢ THÍ NGHIỆM 2

Thí nghiệm 2 được tiến hành dựa trên kết quả của thí nghiệm 1 (lấy tỷ

lệ lysine/1000 kcal ME là 3,88 gam). Từ đó xây dựng công thức thức ăn cho

lợn thí nghiệm nhằm xác định mức protein thích hợp có cân đối 2 hoặc 4 axit

amin là lysine, methionine hoặc lysine, methionine, threonine và tryptophan

cho hai loại lợn là lợn dòng bố mẹ và lợn thịt thương phẩm. Kết quả được

trình bày tại mục 3.2.1 và 3.2.2.

3.2.1. Kết quả thí nghiệm 2a

Nghiên cứu giảm protein trên cơ sở cân đối lysine và methionine

trong thức ăn hỗn hợp của lợn con dòng CA giai đoạn 28 đến 56 ngày tuổi.

3.2.1.1. Sinh trưởng tích luỹ của lợn thí nghiệm 2a

Kết quả theo dõi chỉ tiêu sinh trưởng tích luỹ của lợn ở thí nghiệm 2a

được trình bày ở Bảng 3.7.

Bảng 3.7. Sinh trƣởng tích luỹ của lợn thí nghiệm 2a

Khối lƣợng lợn con (kg)

Lô 2a1

Lô 2a2

Lô 2a3

STT Ngày tuổi

 m

 m

 m

Cv (%)

Cv (%)

Cv (%)

Số lợn (con)

36

37

36

1

28

14,49

2

6,83  0,17

6,65  0,14

12,33 6,63  0,14 14,62

42

15,65

3

9,31  0,24

9,02  0,21

14,57 9,18  0,23 15,72

49

4

11,83  0,30 16.96 11,47  0,29 17,00 11,64  0,25 14,50

56

5

15,78a  0,44 16,59 15,39a  0,44 16,96 15,33a  0,42 16,37

100

97,53

97,15

6 So sánh (%)

P  0,05

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

67

Số liệu ở Bảng 3.7 cho thấy: Khối lượng lợn con bắt đầu thí nghiệm

(lúc 28 ngày tuổi) của cả ba lô tương đương nhau, trung bình là 6,83 kg/con ở

lô thí nghiệm 2a1, 6,65 kg/con đối với lô thí nghiệm 2a2 và ở lô 2a3 là 6,63

kg/con. Khi kết thúc thí nghiệm, khối lượng lợn con của lô 2a1 (ăn khẩu phần

ăn có 20% protein) đạt 15,78kg/con, cao hơn các lô 2a2 và 2a3, từ 2,47 - 2,85

% theo thứ tự (tương đương 15,39 kg/con - 15,33 kg/con). Tuy nhiên sự khác

nhau này không có ý nghĩa thống kê (P  0,05).

Kết quả tính toán sự tương quan giữa khối lượng lợn con lúc kết thúc thí

nghiệm và lượng protein trong thức ăn cho thấy:

y = 14,039 * 0,08333X (R = 0,0331)

Trong đó: y là khối lượng cơ thể lợn lúc kết thúc thí nghiệm; X là tỷ lệ

protein trong thức ăn.

Chúng ta thấy, hệ số tương quan R = 0,0331 chứng tỏ rằng sự tương

quan giữa khối lượng cơ thể lúc kết thúc thí nghiệm và lượng protein trong

thức ăn là không cao. Hay nói cách khác, khi giảm lượng protein trong thức

ăn thí nghiệm từ 20% xuống 19% và 18% mà vẫn duy trì được tỷ lệ axit amin

lysine, methionine + cystein trong khẩu phần sẽ không ảnh hưởng lớn đến

sinh trưởng của lợn con.

Như vậy, khi cân đối được tỷ lệ các axit amin thì không cần thiết phải

nâng cao mức protein trong thức ăn. Về vấn đề này, T.A. Van Lunen và D.J.A.

COLE, 1996 [57] khi nghiên cứu ảnh hưởng của tỷ lệ lysine/ DE đối với năng

suất sinh trưởng và tích lũy protein ở lợn lai cũng cho rằng đối với lợn lai 3 máu,

nếu cho ăn protein quá mức không có lợi cho sinh trưởng vì một phần năng

lượng dùng cho quá trình deamin hóa.

3.2.1.2. Sinh trưởng tương đối và sinh trưởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm 2a

Số liệu về sinh trưởng tuyệt đối và tương đối của lợn được trình bày tại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

bảng 3.8 và 3.9.

68

Bảng 3.8. Sinh trƣởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm 2a

Sinh trƣởng tuyệt đối (g/ngày) STT Ngày tuổi

Lô 2a1

Lô 2a2

Lô 2a3

28 - 42 ngày 177,00 169,06 1. 182,37

2. 42 - 49 ngày 360,74 350,23 350,89

3. 49 - 56 ngày 563,83 560,23 527,23

4. Bình quân cả đợt 319,64 312,14 310,71

5. So sánh (%) 100 97,65 97,21

Số liệu thu được bảng3.8 cho thấy, sinh trưởng tuyệt đối của cả 3 lô thí

nghiệm đều tuân theo quy luật chung về sinh trưởng của lợn. Sinh trưởng

tuyệt đối của lợn con bình quân từ cai sữa đến 56 ngày tuổi có xu hướng giảm

dần theo việc giảm tỷ lệ protein trong thức ăn hỗn hợp mặc dù sự khác biệt

không lớn. Ở lô 2a1 bình quân đạt 319,64; lô 2a2 là 312,14 và lô 2a3 đạt

310,71 gam/con/ngày. Như vậy khi giảm lượng protein trong thức ăn lợn con

cai sữa đến 56 ngày tuổi từ 20% xuống 19% và 18%, mà chỉ bổ sung lysine

và triptophan thì sinh trưởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm cũng giảm theo từ

2,35% - 2,79%.

Bảng 3.9. Sinh trƣởng tƣơng đối của lợn thí nghiệm 2a

Sinh trƣởng tƣơng đối (%) STT Ngày tuổi

Lô 2a1

Lô 2a2

Lô 2a3

28 - 42 ngày 1 30,71 30,21 32,29

42 - 49 ngày 2 23,89 23,94 23,54

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

49 - 56 ngày 3 28,59 28,59 27,37

69

Số liệu về sinh trưởng tương đối của lợn thí nghiệm 2a (Bảng 3.9)

cũng phản ánh tương tự diễn biến của sinh trưởng tích luỹ và sinh trưởng

tuyệt đối. Sinh trưởng tương đối lợn con thí nghiệm cũng tuân theo quy luật

chung, khi giảm tỷ lệ protein từ 20% -18% thì sinh trưởng tương đối có

chiều hướng giảm nhưng không đáng kể. Cụ thể, sinh trưởng tương đối của

lợn con giai đoạn bắt đầu thí nghiệm (28 - 42 ngày tuổi) ở lô 2a1 là 30,71%,

lô 2a2 là 30,21% vµ lô 2a3 là 32,29%. Khi kết thúc thí nghiệm (49 -56 ngày

tuổi), sinh trưởng tương đối của lợn thí nghiệm cũng có xu hướng giảm dần

từ 28,59% lô 2a1 (ăn khẩu phần ăn có 20% protein) xuống 28,59% l« 2a2 vµ

l« 2a3 lµ 27,37%.

Điều này một lần nữa khẳng định, khi giảm tỷ lệ protein trong thức ăn,

mà vẫn cân đối đủ lysine và methionine thì sinh trưởng của lợn con giai đoạn

cai sữa đến 56 ngày tuổi có chiều hướng giảm xuống, nhưng không có sự

khác nhau rõ rệt về thống kê giữa các lô.

3.2.1.3. Tiêu tốn thức ăn / 1 kg tăng khối lượng của lợn thí nghiệm 2a.

Kết quả theo dõi chỉ tiêu tiêu tốn thức ăn/1 kg tăng khối lượng của lợn

thí nghiệm 2a được trình bày ở bảng 3.10.

Bảng 3.10. Tiêu tốn thức ăn/ 1 kg tăng khối lƣợng giai đoạn

cai sữa - 56 ngày tuổi thí nghiệm 2a

STT Diễn giải

Lô 2a1

Lô 2a2

Lô 2a3

Đơn vị tính

1. kg 322,20 323,38 313,20

2. kg 474,00 479,00 467,00

3. kg 1,47 1,48 1,49 Tổng khối lượng lợn con tăng trong kỳ TN Tổng khối lượng thức ăn tiêu thụ Tiêu tốn thức ăn/ kg tăng khối lượng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

4. % So sánh 100 100,68 101,36

70

Qua số liệu thu được, chúng ta thấy: Lợn con giai đoạn 28 - 56 ngày

tuổi được cung cấp thức ăn có hàm lượng protein giảm từ 20 - 19 - 18 %

(tương đương với 294,23 - 281,43 - 268,39 gam/kg tăng khối lượng), thì tiêu

tốn thức ăn/ kg tăng khối lượng tăng từ 1,47 - 1,49 kg ( theo thứ tự từ lô 2a1-

2a2 -2a3). Điều này cho thấy, khi giảm lượng protein xuống, mặc dù có bổ

sung thêm lysine và methionine, nhưng ở mức 18% protein đã bắt đầu xuất

hiện việc thiếu hụt các axit amin khác như threonine và tryptophan cho nên

phần nào ảnh hưởng đến sinh trưởng và hiệu quả chuyển đổi thức ăn, vì vậy

tiêu tốn thức ăn/ kg tăng khối lượng có xu hướng cao lên từ 0,68 - 1,36 %.

3.2.1.4.Tiêu tốn protein và lysine/kg tăng khối lượng của lợn

Kết quả tính toán về tiêu tốn protein và lysine/kg tăng khối lượng lợn

thí nghiệm được trình bày tại Bảng 3.11 và 3.12.

Bảng 3.11. Tiêu tốn protein/1 kg tăng khối lƣợng giai đoạn

cai sữa - 56 ngày tuổi thí nghiệm 2a

Diễn giải STT ĐVT Lô 2a1 Lô 2a2 Lô 2a3

Tổng khối lượng lợn con tăng kg 322,20 323,38 313,20 1. trong kỳ TN

2. Tổng khối lượng thức ăn tiêu tốn kg 474,00 479,00 467,00

3. Tổng lượng protein tiêu thụ gam 94.800 91.010 84.0602

4. Tiêu tốn protein/ kg tăng khối lượng gam 294,23 281,43 268,39

5. So sánh % 100 95,65 91,22

Kết quả thu được cho thấy, với tỷ lệ protein thô trong thức ăn giảm dần

từ 20 - 19 - 18 %, thì tổng khối lượng lợn con khi kết thúc thí nghiệm có xu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

hướng giảm xuống (Từ 322,20 - 313,20 kg/đàn theo thú tự lô 2a1 - lô 2a3). Tuy nhiên do tỷ lệ protein trong thức ăn giảm xuống (Từ 20 - 18% theo thứ tự

71

các lô lô 2a1 - lô 2a3), cho nên lượng protein tiêu thụ của cả lô giảm từ 94.800

- 84.060 gam (theo thứ tự từ lô 2a1 - lô 2a3). Vì vậy, tiêu thụ protein/kg tăng

khối lượng giảm dần theo chiều hướng giảm tỷ lệ protein (giảm từ 294,23 -

281,43 - 268,39 gam/kg, theo thứ tự các lô).

Ngược lại với mức tiêu tốn protein, tiêu tốn lysine/kg tăng khối lượng

lại tăng lên từ 18,27 gam ở lô thí nghiệm 2a1 lên 18,39 và 18,52 gam đối với 2

lô thí nghiệm 2a2 và 2a3 (Bảng 3.12). Điều này cho chúng ta thấy, khi tỷ lệ

protein thô trong thức ăn của lợn con giảm từ 20 -19 -18 % nhưng vẫn đảm

bảo tỷ lệ lysine tương đương giữa các lô, thì lượng lysine tiêu tốn/kg tăng

khối lượng sẽ tăng hơn so với mức 20% protein là 0,66 lên 1,37%. Trong khi

lượng lysine tiêu thụ của cả lô trong kỳ thí nghiệm lại ít hơn khi giảm tỷ lệ

protein (5.800,14 gam ở lô 2a3 so với 5.887,08 gam ở lô 2a1). Như vậy, tiêu

tốn lysine/kg tăng khối lượng có xu hướng tăng khi giảm tỷ lệ protein trong thức

ăn chủ yếu là do sinh trưởng của lợn con thấp hơn, một phần là do khi giảm tỷ lệ

protein sẽ kéo theo việc thiếu các axit amin khác mặc dù đã cân đối được lysine

và methionine. Tuy nhiên, như chúng ta thấy mức tăng tiêu tốn lysine/kg tăng

khối lượng không cao lắm, chỉ từ 0,66 - 1,37% so mức protein là 20%.

Bảng 3.12. Tiêu tốn lysine/1 kg tăng khối lƣợng giai đoạn

cai sữa - 56 ngày tuổi thí nghiệm 2a

Diễn giải STT ĐVT Lô 2a1

Lô 2a2

Lô 2a3

Tổng khối lượng lợn con tăng kg 322,20 323,38 313,20 1. trong kỳ TN

2. Tổng khối lượng thức ăn tiêu tốn kg 474,00 479,00 467,00

3. Tổng lượng lyssine tiêu thụ gam 5.887,08 5.949,18 5.800,14

4. Tiêu tốn lysine/ kg tăng khối lượng gam 18,27 18,39 18,52

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

5. So sánh % 100 100,66 101,37

72

3.2.1.5. Chi phí thức ăn/ kg tăng khối lượng giai đoạn lợn con cai sữa đến

56 ngày tuổi

Tương tự như thí nghiệm 1, để đánh giá hiệu quả kinh tế của các thức

ăn có mức protein thô trong giảm dần của thí nghiệm 2a, chúng tôi tiến hành

theo dõi chỉ tiêu về chi phí thức ăn/1kg tăng khối lượng. Kết quả theo dõi

được trình bày tại Bảng 3.13.

Bảng 3.13. Chi phí thức ăn/ kg tăng khối lƣợng giai đoạn

cai sữa đến 56 ngày tuổi thí nghiệm 2a

STT Diễn giải ĐVT

Lô 2a1

Lô 2a2

Lô 2a3

Tổng khối lượng lợn kg 322,20 323,38 313,20 1 con tăng trong kỳ TN

Tổng khối lượng thức kg 474,00 479,00 467,00 2 ăn tiêu tốn

Đơn giá thức ăn đồng 5.074 5.047 5.020 3

Tổng chi phí thức ăn đồng 2.405.076 2.417.513 2.344.340 4

Chi phí thức ăn/kg tăng kg 7.464,54 7.475,76 7.485,12 5 khối lượng

Qua kết quả thu được, chúng ta thấy khi giảm tỷ lệ protein trong thức

6 So sánh % 100 100,15 100,28

ăn từ 20-18% được cân đối lysine và methionine, giá thành thức ăn có xu

hướng giảm dần từ 5.074đ ở lô 2a1, 5.047đ lô 2a2 và 5.020 đ lô 2a3. Mặc dù

vậy nhưng chi phí thức ăn/kg tăng khối lượng lại có xu hướng tăng lên từ

7.464,54 đ lên 7.475,76 đ và 7.485,12 đ (lần lượt từ lô 2a1 - 2a2 - 2a3), nếu

so với lô 2a1 thì chi phí thức ăn/1kg tăng khối lượng lô 2a2 cao hơn 11,22

đồng tương đương 0,15% và lô 2a3 cao hơn lô 2a1 là 20,58 đ tương đương

0,28 %. Đánh giá chung, mức tăng này là không đáng kể, vì vậy hiệu quả kinh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

tế của chăn nuôi lợn giai đoạn này bị ảnh hưởng không lớn, cho thấy khả năng

73

thực tiễn của việc giảm protein trong thức ăn có cân đối lysine và methionine.

3.2.1.6. Lượng nitơ thải ra trong phân, nước tiểu và nồng độ một số khí độc

hại trong chuồng nuôi

Kết quả theo dõi lượng nitơ thải ra trong phân và nước tiểu cũng như

nồng độ một số khí độc hại trong chuồng nuôi của thí nghiệm 2a được trình

bày ở Bảng 3.14.

Bảng 3.14. Lƣợng nitơ thải ra trong phân, nƣớc tiểu và nồng độ một số

khí thải ra trong chuồng nuôi (n=7) thí nghiệm 2a

STT Diễn giải Đơn vị tính

Lô 2a1

Lô 2a2

Lô 2a3

1. Nước tiểu % 1,04 0,60 0,38

2. 5,02 4,45 4,01 Phân

% trongVCK mg/m3 950,25 952,02 945,67 3. NH3

mg/m3 56,03 56,54 55,00 4. H2S

Số liệu ở Bảng 3.14 cho chúng ta thấy, khi giảm lượng protein trong thức

ăn, đã giảm đáng kể lượng nitơ thải ra trong phân và nước tiểu. Đối với hàm

lượng nitơ trong phân giảm từ 5,02% ở lô thí nghiệm 2a1 xuống 4,45 % và

4,01% ở lô thí nghiệm 2a2 và 2a3. Lượng nitơ trong nước tiểu giảm từ 1,04%

ở lô thí nghiệm 2a1 xuống 0,38% đối với lô thí nghiệm 2a3. Điều này cho

thấy, việc giảm lượng protein trong thức ăn từ 20 -19 -18 %, đã góp phần làm

giảm lượng nitơ thải ra khỏi cơ thể, đây chính là nguồn làm tăng lượng nitrate

trong nước thải ra của các trại chăn nuôi lợn.

Đối với hàm lượng các khí độc thải ra trong chuồng nuôi, qua theo dõi

chúng tôi thấy không có sự sai khác giữa các lô thí nghiệm, điều này chưa

chứng minh được sự tương quan giữa lượng protein trong thức ăn và lượng khí

thải ra trong chuồng nuôi. Tuy nhiên lượng khí thải ra đo được cao hơn rất nhiều

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

so với tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5938 - 1995 quy định nồng độ tối đa cho

74

phép một số chất độc hại trong không khí xung quanh (mg/m3) đối với khí NH3

là 0,20; đối với khí H2S là 0,008. Điều này cho thấy sự cần thiết phải áp dụng

các biện pháp để giảm thiểu lượng khí thải như tăng cường sự thông thoáng và

vệ sinh chuồng trại…

Trong chăn nuôi lợn hiện nay, vấn đề đảm bảo môi trường chăn nuôi và

môi trường sống cho con người không bị ô nhiễm đang là vấn đề thời sự. Nếu

chúng ta phát triển chăn nuôi mà không chú ý đến giảm thiểu ô nhiễm môi

trường thì tác hại của nó vô cùng to lớn. Vì vậy nhiều biện pháp giảm thiểu ô

nhiễm môi trường đang được áp dụng, trong đó có những biện pháp đòi hỏi

chi phí tài chính rất cao. Do đó việc giảm tỷ lệ protein trong thức ăn có cân

đối một số axit amin tổng hợp mở ra triển vọng lớn trong giảm thiểu ô nhiễm

môi trường sống vừa tiết kiệm chi phí chăn nuôi .

3.2.2. Kết quả thí nghiệm 2b

Nghiên cứu giảm protein trên cơ sở cân đối lysine, methionine,

threonine và tryptophan trong thức ăn hỗn hợp của lợn con thương phẩm

giai đoạn 28 đến 56 ngày tuổi.

Thí nghiệm tiến hành trên các mức protein từ 200, 190 và 180 gam/kg

thức ăn, trong đó cân đối đủ 4 axit amin là L-lysine, DL- methionine, L-

threonine và L-tryptophan. Kết quả theo dõi của thí nghiệm như sau:

3.2.2.1. Khả năng sinh trưởng tích lũy của lợn thí nghiệm

Kết quả theo dõi về chỉ tiêu sinh trưởng tích luỹ của lợn thí nghiệm 2b được

trình bày ở Bảng 3.15. Số liệu thu được cho thấy, khối lượng lợn con lúc bắt đầu thí

nghiệm tương đương nhau từ 7,47 - 7,51 kg/con (P  0,05). Khi kết thúc thí

nghiệm, khối lượng lợn con là 17,83; 17,77 và 17,70 kg/con tương ứng với lô 2b1,

2b2 và 2b3. So sánh về tỷ lệ % cho thấy, khi giảm tỷ lệ protein trong thức ăn từ 20 -

19 - 18%, sinh trưởng tích lũy của lợn con chênh lệch nhau không đáng kể, từ 0,34 -

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

0,73% (Sự sai khác này không có ý nghĩa thống kê với P  0,05).

75

Điều này cho thấy, mặc dù tỷ lệ protein của thức ăn cho lợn con giảm

tương đối cao (1% cho một lô thí nghiệm), nhưng do đáp ứng được hàm

lượng của 4 axit amin giới hạn đầu tiên là lysine, methionine, threonine và

tryptophan đủ theo nhu cầu, cho nên khả năng sinh trưởng của lợn con vẫn

được đảm bảo.

Bảng 3.15. Sinh trƣởng tích lũy của lợn thí nghiệm 2b

Lô 2b1

Lô 2b2

Lô 2b3

Cv (%)

Cv (%)

Cv (%)

Số lợn (con)

Diễn giải

15

15

15

Khối lượng bắt

đầu thí nghiệm (28

18,44

7,51a0,35 17,97 7,48a0,36

7,47a0,40 20,85

ngày tuổi)

Khối lượng lúc 35

16,7

21,94

9,07a0,51

9,03a0,45 19,49

9,09a0,38

ngày tuổi

Khối lượng lúc 42

11,12a0,50 17,45 11,19a0,63 20,91 11,10a0,54 19,06

ngày tuổi

Khối lượng lúc 49

13,84a0,64 17,85 13,89a0,61 17,63 13,77a0,54 15,9

ngày tuổi

Khối lượng lúc 56

15,3

17,83a0,82 16,09 17,77a0,70

17,70a0,67 14,51

ngày tuổi

100

99,66

99,27

P  0,05

a, b,c Trên hàng ngang, các chữ số có các chữ cái giống nhau thì khác nhau không có ý

nghĩa thống kê (P  0,05)

So sánh (%)

Kết quả tính toán về mối tương quan giữa khối lượng lợn con lúc 56

ngày tuổi và tỷ lệ protein trong thức ăn hỗn hợp cho thấy phương trình hồi

quy như sau:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

y = 18,332 - 0,0333x. Với R2 = 0,01

76

Ở đây y là khối lượng lợn con lúc 56 ngày tuổi và x là tỷ lệ protein

trong thức ăn.

Với R2 = 0,01 cho thấy giữa khối lượng lợn con lúc 56 ngày tuổi và tỷ lệ

protein trong thức ăn thí nghiệm có mối tương quan không cao, hay nói cách khác

nếu giảm tỷ lệ protein trong thức ăn mà vẫn đảm bảo đủ nhu cầu của bốn loại axit

amin giới hạn đầu tiên thì không ảnh hưởng đến sinh trưởng của lợn con.

Kết quả thí nghiệm của B. J. Kerr và cộng sự, 2003 [30] khi nghiên cứu

trên lợn sinh trưởng bằng việc giảm tỷ lệ protein trong thức ăn từ 16% xuống

12% có bổ sung thêm lysine, methionine, threonine và tryptophan cũng cho

thấy không có sự khác nhau rõ rệt về khối lượng lợn khi kết thúc thí nghiệm

(38,90; 36,8 và 34,50 kg/con theo thứ tự các lô tương ứng). Như vậy, cùng

với việc bổ sung 4 axit amin tổng hợp vào khẩu phần ăn, chúng ta có thể giảm

lượng protein trong thức ăn mà không gây ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng của lợn. Các tác giả cũng cho biết ở nhiệt độ môi trường cao hơn (330C), khi giảm

lượng protein và bổ sung thêm axit amin thì lợn có khả năng sinh trưởng

tương đương với lợn được ăn thức ăn có hàm lượng protein cao (36,6 kg so

với 36,5 kg theo thứ tự). Điều này gợi mở khả năng cân đối axit amin trong

thức ăn cho lợn khi nuôi lợn vào mùa hè ở nước ta.

3.2.2.2. Sinh trưởng tuyệt đối và tương đối của lợn thí nghiệm 2b

Tương tự như thí nghiệm 1 và thí nghiệm 2a, chúng tôi tiến hành xác

định sinh trưởng tuyệt đối (gam/con/ngày) và sinh trưởng tương đối (%) của

lợn thí nghiệm. Kết quả thu được trình bày tại Bảng 3.16 và 3.17.

Số liệu về sinh trưởng tuyệt đối ở Bảng 3.16 cho thấy, sinh trưởng tuyệt

đối của cả 3 lô thí nghiệm đều tuân theo quy luật chung về sinh trưởng của gia

súc. Sinh trưởng tuyệt đối trong giai đoạn từ cai sữa đến 56 ngày tuổi tương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

đối cao. Ở giai đoạn đầu thí nghiệm, sinh trưởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm

77

tương đương nhau, từ 225,71 - 227,14 - 222,86 g/con/ngày tương ứng theo

thứ tự các lô (2b1; 2b2 và 2b3). Ở các giai đoạn tiếp theo, sinh trưởng tuyệt đối

tăng dần, đạt cao nhất khi kết thúc thí nghiệm (giai đoạn 49-56 ngày tuổi).

Bình quân sinh trưởng tuyệt đối của các lô trong cả kỳ thí nghiệm tương

đương nhau, đạt 368,57; 367,5 và 365,36 g/con/ngày tương ứng theo thứ tự

các lô. Nếu lấy lô 2b1 là 100% thì lô 2b2 giảm 0,29% và lô 2b3 giảm 0,87% so

với lô 2b1. Như vậy khi giảm lượng protein trong thức ăn cho lợn con cai sữa

đến 56 ngày tuổi từ 20% xuống 19% và 18%, có cân đối 4 axit amin giới hạn

đầu tiên là lysine, methionine, threonine và tryptophan theo nhu cầu thì khả

năng sinh trưởng của lợn con vẫn được đảm bảo vµ sự sai khác giữa các lô là

không đáng kể.

Bảng 3.16. Sinh trƣởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm 2b

Sinh trƣởng tuyệt đối (g/ngày) STT Ngày tuổi

Lô 2b1

Lô 2b2

Lô 2b3

1. 28 - 35 ngày 225,71 227,14 222,86

2. 35 - 42 ngày 290,00 302,86 295,71

3. 42 - 49 ngày 388,57 385,71 381,42

4. 49 - 56 ngày 570,57 554,29 561,43

5. Bình quân cả đợt 368,57 367,50 365,36

6. So sánh (%) 100 99,71 99,13

Kết quả sinh trưởng tương đối thể hiện ở Bảng 6.17 cho thấy, khi giảm

tỷ lệ protein từ 20% -18% thì sinh trưởng tương đối của lợn thí nghiệm

không có sự sai khác lớn giữa các lô. Cụ thể, ở giai đoạn bắt đầu thí nghiệm

(28 - 35 ngày tuổi) sinh trưởng tương đối của lô 2b1 là 19,04% , lô 2b2 là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

19,21% vµ lô 2b3 là 18,91%. Khi kết thúc thí nghiệm (49 -56 ngày tuổi), sinh

78

trưởng tương đối của lợn thí nghiệm giảm xuống 25,20% (lô 2b1); 24,51%

(l« 2b2) vµ 24,98% (l« 2b3).

Bảng 3.17. Sinh trƣởng tƣơng đối của lợn thí nghiệm 2b

Sinh trƣởng tƣơng đối (%) STT Ngày tuổi

Lô 2b1

Lô 2b2

Lô 2b3

19,04 19,21 18,91 1 28 - 35 ngày

20,09 20,93 20,57 2 35 - 42 ngày

21,79 21,53 21,47 3 42 - 49 ngày

25,20 24,51 24,98 4 49 - 56 ngày

3.2.2.3. Tiêu tốn thức ăn, protein và lysine /1kg tăng khối lượng lợn con thí

nghiệm 2b

Kết quả theo dõi chỉ tiêu tiêu tốn thức ăn, protein và lysine/kg tăng khối

lượng lợn con giai đoạn cai sữa đến 56 ngày tuổi của thí nghiệm 2b được trình

bày ở Bảng 3.18 và 3.19 và 3.20.

Qua kết quả thu được ở Bảng 3.18 cho thấy, khi giảm tỷ lệ protein

trong thức ăn từ 20 -19 -18%, tiêu tốn thức ăn trên 1 kg tăng khối lượng của

các lô có xu hướng tăng từ 1,130 - 1,134 - 1,140 kg theo thứ tự tương ứng của

các lô (2b1- 2b2 - 2b3). Tuy nhiên, mức tiêu tốn thức ăn tăng không cao chỉ từ

0,35 - 0,88%.

Thí nghiệm của Kerr và cộng sự, 2003 [30] cũng cho kết quả tương tự,

trên lợn sinh trưởng khi giảm tỷ lệ protein từ 16% xuống 12% có bổ sung

thêm các axit amin, tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng cũng có xu hướng cao

hơn chút ít từ 2,38 - 2,54 kg. Tuy nhiên, nếu giảm tỷ lệ protein xuống 12% mà

không bổ sung thêm axit amin thì tiêu tốn thức ăn cao hơn rất nhiều (3,13kg).

Điều này cho thấy, khi giảm lượng protein trong thức ăn xuống, nhưng

có cân đối đủ lysine, methionine, threonine và tryptophan theo nhu cầu của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

lợn không ảnh hưởng đến sinh trưởng cũng như khả năng chuyển hoá thức ăn

79

của lợn. Đây chính là một điểm quan trọng trong nghiên cứu về dinh dưỡng

protein và axit amin cho lợn, góp phần giải quyết khó khăn về khả năng cung

cấp thức ăn protein trong giai đoạn hiện nay. Để góp phần khẳng định thêm

cho nhận định này, chúng tôi tiến hành xác định tiêu tốn protein/kg tăng khối

lượng. Kết quả thu được trình bày trên bảng 3.19.

Bảng 3.18. Tiêu tốn thức ăn/ 1 kg tăng khối lƣợng lợn thí nghiệm 2b

STT

Diễn giải

ĐVT Lô 2b1 Lô 2b2 Lô 2b3

Tổng khối lượng lợn con tăng trong

kg

154,80 154,35 153,45

1

cả kỳ thí nghiệm

Tổng khối lượng thức ăn tiêu thụ

175

175

175

kg

2

Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng

1,130

1,134

1,140

kg

3

4

So sánh

100

100,35 100,88

%

Bảng 3.19. Tiêu tốn protein/ 1 kg tăng khối lƣợng lợn thí nghiệm 2b

STT

Diễn giải

ĐVT Lô 2b1 Lô 2b2 Lô 2b3

Tổng khối lượng lợn con tăng trong

kg

154,80

154,35

153,45

1

cả kỳ thí nghiệm

2 Tổng khối lượng thức ăn tiêu thụ

175

175

175

kg

3 Tổng lượng protein tiêu thụ

35.000

33.250

31.500

gam

4 Tiêu tốn protein/kg tăng khối lượng

226,10

215,42

205,28

gam

5

So sánh

100

95,28

90,79

%

Khi giảm tỷ lệ protein thô trong thức ăn từ 20 - 19 - 18 % mà vẫn cân

đối đủ lysine, methionine, threonine và tryptophan theo nhu cầu của lợn, mặc

dù tổng thức ăn tiêu thụ ở cả 3 lô là tương đương nhau (175 kg/lô), nhưng

tổng lượng protein tiêu thụ thì có xu hướng giảm dần từ 35.000g - 33.250 -

31.500 g (tương ứng theo thứ tự các lô 2b1, 2b2 và 2b3). Từ đó, tiêu thụ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

protein/kg tăng khối lượng giảm dần theo chiều giảm tỷ lệ protein trong thức

80

ăn (từ 226,10 - 215,42 - 205,28 g/kg tăng khối lượng tương ứng theo thứ tự

các lô 2b1, 2b2 và 2b3). Nếu so với lô 2b1, tiêu tốn protein/kg tăng khối lượng

của lô 2b2 giảm 4,72%, của lô 2b3 giảm 9,21%. Sự khác biệt này là tương đối

lớn, cho thấy triển vọng của việc giảm tỷ lệ protein thô trong thức ăn từ 20 -

18 % có bổ sung lysine, methionine, threonine và tryptophan.

Ngược lại với mức tiêu tốn protein, tiêu tốn lysine/kg tăng khối lượng

lại tăng lên từ 14,04 gam (lô thí nghiệm 2b1) lên 14,08 và 14,16 gam đối với

các lô thí nghiệm 2b2 và 2b3 (Bảng 3.20). Tuy nhiên, sự khác biệt không cao

chỉ từ 0,29 lên 0,88%. Điều này cho chúng ta thấy khi tỷ lệ protein thô trong

thức ăn cho lợn con giảm từ 20 -19 -18 % mà có cân đối đủ lysine và

methionine, threonine và tryptophan thì lượng lysine tiêu tốn/kg tăng khối

lượng sẽ không có sự khác biệt đáng kể.

Bảng 3.20. Tiêu tốn lysine/ 1 kg tăng khối lƣợng lợn thí nghiệm 2b

STT

Diễn giải

ĐVT Lô 2b1 Lô 2b2 Lô 2b3

Tổng khối lượng lợn con tăng

kg

154,80

154,35

153,45

1

trong cả kỳ thí nghiệm

2

Tổng khối lượng thức ăn tiêu thụ

kg

175

175

175

3

Tổng lượng lyssine tiêu thụ

gam 2.173,5

2.173,5

2.173,5

4

Tiêu tốn lysine/kg tăng khối lượng gam

14,04

14,08

14,16

5

%

100

100,29

100,88

So sánh

3.2.2.4. Chi phí thức ăn/1kg tăng khối lượng lợn con thí nghiệm 2b

Kết quả về chi phí thức ăn/ 1kg tăng khối lượng lợn con cai sữa đến 56

ngày tuổi của thí nghiệm 2b được chúng tôi trình bày ở bảng 3.21

Số liệu thu được ở bảng 3.21 cho thấy do giảm tỷ lệ protein của thức ăn

5.887 đồng/kg (tương ứng theo thứ tự các lô từ 2b1 - 2b2 - 2b3). Vì vậy chi phí

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

nên đơn giá thức ăn có xu hướng thấp dần theo tỷ lệ giảm từ 6.070 - 6000 -

81

khối lượng lợn. Nếu so sánh với lô 2b1 thì chi phí thức ăn/kg tăng khối lượng giảm hơn 0,87 - 2,16% khi giảm tỷ lệ protein xuống 19 và 18%. Điều này cho thấy việc

thức ăn / kg tăng khối lượng giảm dần từ 6.862,08 - 6.80272 - 6.713,75 đ/kg tăng

sử dụng các axit amin tổng hợp đã đáp ứng sự thiếu hụt các axit amin này khi

giảm lượng protein trong thức ăn góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế của

chăn nuôi lợn, nhất là khi giá các loại thức ăn cung cấp protein tăng cao.

So với kết quả nghiên cứu của thí nghiệm 2a, chúng ta thấy khi giảm tỷ

lệ protein trong thức ăn có cân đối được nhu cầu của 4 axit amin là lysine,

methionine, threonine và tryptophan đã đáp ứng được nhu cầu của threonine

và tryptophan nên sinh trưởng của lợn vẫn đảm bảo, vì thế chi phí thức ăn có

chiều hướng giảm hơn so với khi chỉ cân đối được nhu cầu của 2 axit amin là

lysine và methionine.

Bảng 3.21. Chi phí thức ăn/1kg tăng khối lƣợng lợn thí nghiệm 2b

ĐVT

Lô 2b1

Lô 2b2

Lô 2b3

STT

Diễn giải

154,80

154,35

153,45

kg

1

Tổng khối lượng lợn con tăng trong cả kỳ thí nghiệm

175

175

175

kg

2

Tổng khối lượng thức ăn tiêu thụ

3 Đơn giá 1 kg thức ăn

đồng

6.070

6.000

5.887

Tổng chi phí thức ăn

đồng 1.062.250 1.050.000 1.030.225

4

đồng

6.862,08

6.802,72

6.713,75

6

Chi phí thức ăn/ kg tăng khối lượng lợn

7

So sánh

%

100

99,13

97,84

3.2.2.5. Kết quả xác định hàm lượng nitơ thải ra trong phân và nước tiểu

Kết quả theo dõi lượng nitơ thải ra trong phân và nước tiểu cũng như

nồng độ một số khí độc hại trong chuồng nuôi của thí nghiệm 2b được trình

bày ở Bảng 3.22.

Kết quả của Bảng 3.22 cho thấy, khi giảm lượng protein trong thức ăn từ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

20 - 19 - 18%, tỷ lệ nitơ trong phân của lợn con cũng giảm dần từ 5,27 - 5,11 -

82

4,76 % theo thứ tự. Mức độ giảm tương đối cao từ 3,04 - 9,68%. Mức độ giảm

của lượng nitơ trong nước tiểu cũng diễn ra tương tự từ 1,89 đến 3,77%.

Bảng 3.22. Kết quả phân tích hàm lƣợng nitơ trong phân và nƣớc tiểu

của lợn thí nghiệm 2b

ĐVT Diễn giải

Lô 2b1

Lô 2b2

Lô 2b3

Hàm lượng nitơ trong 100 gam 1,78 1,52 1,49 gam phân tươi

Hàm lượng nitơ trong 100 gam 5,27 5,11 4,76 gam phân khô tuyệt đối

So sánh với lô 1 % 100 96,96 90,32

Hàm lượng nitơ trong % 1,59 1,56 1,53 nước tiểu

Xác định mức độ tương quan giữa tỷ lệ protein trong thức ăn và lượng

So sánh với lô 1 % 100 98,11 96,23

nitơ thải ra trong phân chúng ta thấy phương trình hồi quy của hai đại lượng này

như sau:

y = 0,3667 + 0,246x (R2 = 0,3847)

Ở đây y là lượng nitơ thải ra trong phân (gam trong 100 gam phân khô)

và x là tỷ lệ protein trong thức ăn (%).

Điều này cho chúng ta thấy việc giảm mức protein trong thức ăn đã góp

phần giảm đáng kể lượng nitơ thừa không sử dụng hết đối với lợn con. Kết

quả của B.J. Kerr và cộng sự, 2003 [30] cũng cho thấy khi giảm lượng protein

từ 16% xuống 12% có bổ sung thêm các axit amin thì lượng nitơ của nước

tiểu cũng giảm đáng kể. Họ còn chứng minh được khi giảm tỷ lệ protein trong

thức ăn, khối lượng thận của lợn giảm đáng kể so với lợn ăn thức ăn có hàm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

lượng protein cao. Điều này có thể gián tiếp giải thích rằng khi giảm lượng

83

protein trong thức ăn, đã giảm việc trao đổi và giải trừ lượng axit amin thừa

trong cơ thể lợn. Đây là ưu điểm nổi bật của việc sử dụng khẩu phần có mức

protein thấp nhưng được bổ sung thêm axit amin tổng hợp cho lợn trong việc

bảo vệ môi trường. Việc đào thải nitơ từ các trang trại chăn nuôi đã và đang là

mối đe dọa nghiêm trọng đối với sức khỏe con người bởi ô nhiễm amoniac, ô

nhiễm nitrate/nitrite trong đất và nước. Người chăn nuôi hiện nay ngày càng

phải đối mặt với các nguyên tắc bảo vệ môi trường nghiêm ngặt. Việc giảm

mức protein trong thức ăn kết hợp bổ sung thêm các axit amin tổng hợp đang

là cách tốt nhất để giải quyết vấn đề ô nhiễm nitơ với chăn nuôi lợn. Các

nghiên cứu mới đây của trường Đại học Kentucky đã chứng minh được rằng,

việc đào thải nitơ đã giảm từ 15-20% khi giảm đi 2% protein tổng số của khẩu

phần có bổ sung thêm lysine, và lượng nitơ giảm đi 30-35% khi giảm 4%

protein tổng số và bổ sung thêm 4 axit amin. Hàm lượng amoniac và các khí

thải khác từ phân cũng giảm đáng kể khi sử dụng khẩu phần có mức protein

thấp được bổ sung thêm các axit amin tổng hợp (Trích từ Otto và cộng sự ;

2003 [51] ).

Nhận xét chung về kết quả thí nghiệm 2:

Khi bổ sung cho lợn con giai đoạn 28 - 56 ngày tuổi thức ăn có hàm

lượng protein giảm từ 20 - 18 %, có bổ sung thêm lysine và methionine thì

tiêu tốn thức ăn/ kg tăng khối lượng tăng từ 1,47 - 1,49 kg. Điều này cho thấy,

khi giảm lượng protein xuống, mặc dù có bổ sung thêm lysine và methionine,

nhưng ở mức 18% protein đã bắt đầu xuất hiện việc thiếu hụt các axit amin

khác như threonine và tryptophan cho nên phần nào ảnh hưởng đến sinh

trưởng và hiệu quả chuyển đổi thức ăn, vì vậy tiêu tốn thức ăn/ kg tăng khối

lượng có xu hướng cao lên. Mặc dù vậy chi phí thức ăn/ 1 kg tăng khối lượng

đạt thấp nhất ở thức ăn có 19% protein thô. Như vậy ở mức protein này hiệu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

quả kinh tế của chăn nuôi lợn con cao nhất, nếu chỉ bổ sung lysine và

84

triptophan. Song lượng khí thải ra đo được cao hơn rất nhiều so với tiêu chuẩn

Việt Nam TCVN 5938 - 1995 quy định nồng độ tối đa cho phép một số chất độc hại trong không khí xung quanh (mg/m3) đối với khí NH3 là 0,20; đối với

khí H2S là 0,008.

Nhưng khi chúng ta giảm tỷ lệ protein trong thức ăn từ 20 -19 - 18%

cho lợn con giai đoạn 28 - 56 ngày tuổi mà có bổ sung đủ lysine,

methionine, threonine và tryptophan thì tiêu tốn thức ăn/ 1kg tăng khối

lượng có chiều hướng tăng nhưng không đáng kể từ 1,13 -1,14 kg và không

gây ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng của lợn con, sự sai khác giữa các lô là

không có ý nghĩa thống kê (P 0,05).

Hiệu quả kinh tế của chăn nuôi lợn con giai đoạn này tăng từ 0,81 -

2,16% do tiết kiệm được thức ăn cung cấp đạm có đơn giá cao như bột cá, bột

sữa và khô đậu tương.

Việc giảm tỷ lệ protein trong khẩu phần mà vẫn đáp ứng nhu cầu của

4 axit amin giới hạn đầu tiên đã góp phần giảm đào thải nitơ trong phân và

nước tiểu. Đây là giải pháp góp phần làm giảm ô nhiễm môi trường chăn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

nuôi hiện nay.

85

KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ ĐỀ NGHỊ

KẾT LUẬN

Từ kết quả nghiên cứu trên, chúng tôi sơ bộ rút ra các kết luận sau:

1. Khi tăng tỷ lệ lysine /1000 Kcal năng lượng trao đổi từ 3,88 - 4,46 gam,

sinh trưởng của lợn có chiều hướng tăng từ 2,67 - 6,47%, tuy nhiên sự sai

khác giữa các lô không có ý nghĩa thống kê. Tiêu tốn thức ăn/1 kg tăng

khối lượng có xu hướng giảm dần từ 0,70 - 1,40%, chi phí thức ăn /1 kg

tăng khối lượng tăng dần từ 1,80 - 1,85%.

2. Xuất phát từ tình hình sản xuất các axit amin tổng hợp hiện nay, lượng

lysine/ 1000 Kcal ME thích hợp nhất là 3,88 gam.

3. Giảm lượng protein trong thức ăn thí nghiệm từ 20% xuống 18% mà vẫn

duy trì được tỷ lệ lysine, methionine + cystin trong khẩu phần sẽ không ảnh

hưởng lớn đến sinh trưởng của lợn con (P  0,05). Tiêu tốn thức ăn/1 kg

tăng khối lượng của lợn con có xu hướng tăng lên khi giảm lượng protein

trong khẩu phần tuy nhiên chi phí thức ăn có diễn biến ngược lại.

4. Đối với lợn con thương phẩm 5 máu ngoại, khi giảm lượng protein trong

thức ăn từ 20 -18% mà vẫn đáp ứng đủ 4 axit amin thiết yếu (lysine,

methionine, tryptophan, threonine) không làm ảnh hưởng đến sinh trưởng

và tiêu tốn thức ăn/ 1kg tăng khối lượng.

5. Giảm lượng protein trong khẩu phần, đã giảm rõ rệt lượng khí độc thải ra

trong chuồng nuôi, do đó góp phần cải thiện chất lượng môi trường.

6. Sử dụng axit amin tổng hợp góp phần bổ sung lượng axit amin thiếu hụt

trong nguyên liệu thức ăn, góp phần làm giảm tỷ lệ protein thô trong thức

ăn hỗn hợp vừa tiết kiệm thức ăn đạm vừa giảm ô nhiễm môi trường mà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

vẫn đảm bảo sinh trưởng của lợn con giai đoạn sau cai sữa.

86

7. Nếu cân đối được 4 axit amin thiết yếu đủ cho nhu cầu của lợn con sau cai

sữa, mức protein thô thích hợp trong thức ăn cho lợn con có thể là 18%

(giảm 2% so với mức protein khuyến cáo hiện nay)

TỒN TẠI

Do điều kiện thí nghiệm còn hạn chế chưa nghiên cứu về cân bằng nitơ

để có thể xác định chính xác về trao đổi nitơ đối với lợn con giai đoạn cai sữa

đến 56 ngày tuổi.

ĐỀ NGHỊ

- Nên khuyến cáo về việc sử dụng các axit amin tổng hợp trong việc

cân đối axit amin để từng bước giảm lượng protein trong khẩu phần, nhằm

nâng cao hiệu quả chăn nuôi lợn con giai đoạn sau cai sữa và bảo vệ môi

trường sống cho người và vật nuôi.

- Tiếp tục tiến hành nghiên cứu về cân bằng nitơ để xác định chính xác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

trao đổi nitơ đối với lợn con giai đoạn sau cai sữa.

87

CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN

KẾT QUẢ LUẬN VĂN

Trần Văn Phùng, Lê Thị Hà, Trần Huê Viên, "Nghiên cứu khả năng

giảm mức protein trong thức ăn hỗn hợp trên cơ sở cân đối lysine,

methionine, tryptophan và threonine cho lợn con giai đoạn 28 -56 ngày tuổi".

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

Tạp chí Nông nghiệp và PTNT, số 5/2007.

88

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu trong nƣớc:

1. Vũ Duy Giảng, Nguyễn Thị Lương Hồng, Tôn Thất Sơn (1997). Dinh

dưỡng và thức ăn gia súc. Nhà xuất bản Nông nghiệp Hà Nội.

2. Lê Thanh Hải, Lã Văn Kính, Danny Singh, Vương Trung Nam, Đoàn

Vĩnh (1999). Xác định nhu cầu năng lượng và amino acid cho lợn con

sau cai sữa. Tạp chí Nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm số 7/1999.

Trang 323-324.

3. Nguyễn Ngọc Hùng, Lê Thanh Hải, Nguyễn Nghi, Đỗ Văn Quang,

Nguyễn Văn Hùng, Trần Vân Khánh, Lê Phạm Đại và Kiều Minh Lực.

Ảnh hưởng của tỷ lệ Lysine /năng lượng trong khẩu phần đến các chỉ

tiêu sản xuất của heo thịt giống Yorkshire và con lai Yorkshire x Thuộc

Nhiêu. Báo cáo khoa học CNTY 1999 - 2000. Phần thức ăn và dinh

dưỡng vật nuôi. Thành phố Hồ Chí Minh

4. Nguyễn Ngọc Hùng(2000). Tỷ lệ Lysine: Năng lượng thích hợp cho khả

năng sinh trưởng ở lợn Yorkshire x Thuộc Nhiêu. Tạp chí Nông nghiệp

và công nghiệp thực phẩm số 11/2000. Trang 485 -486.

5. Từ Quang Hiển, Phan Đình Thắm, Ngôn Thị Hoán (2003). Giáo trình thức

ăn và dinh dưỡng gia súc. Nhà xuất bản Nông nghiệp. Trang 9-17; 111 -123.

6. Lã Văn Kính, Phạm Tất Thắng, Nguyễn Văn Phú, Vương Nam Trung và

Đoàn Vĩnh (2001). Nghiên cứu sử dụng nguyên liệu chế biến và một số

loại thức ăn bổ sung trong khẩu phần heo con sau cai sữa. Báo cáo khoa

học CNTY 1999 - 2000 Phần thức ăn và dinh dưỡng vật nuôi. Thành phố

Hồ Chí Minh.

7. Lã Văn Kính (2002). Xác định mức protein và axit amin tối ưu cho các

giai đoạn tuổi của lợn con sau cai sữa. Tạp chí Nông nghiệp và phát

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

triển nông thôn số 10/2002. Trang 901 -902.

89

8. Lã Văn Kính, Vương Trung Nam (2003). Xác định khẩu phần thức ăn

cho heo con giai đoạn theo mẹ. Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông

thôn số 8/2003. Trang 986 -987.

9. Phạm Thị Hiền Lương (2005). Xác định thành phần dinh dưỡng của một

số loại thức ăn chính cho vật nuôi ở tỉnh Thái nguyên và tỷ lệ Lysine/ ME

phù hợp cho lợn lai F1 (MC x YR) giai đoạn sinh trưởng. Luận án tiến sỹ

nông nghiệp.

10. Lê Hồng Mận, Bùi Đức Lũng (2003).Thức ăn và nuôi dưỡng lợn. Nhà

xuất bản Nông nghiệp. Trang 19- 54, 97 -125

11. Lương Đức Phẩm (1982). Axit amin và Enzim trong chăn nuôi. Nhà xuất

bản Khoa học kỹ thuật.

12. Vũ Thị Lan Phương và Đỗ Văn Quang (2001). Xác định tỷ lệ

Lysine/năng lượng thích hợp cho heo sinh trưởng và heo vỗ béo giống

Yorkshire. Báo cáo khoa học CNTY 1999 - 2000 Phần thức ăn và dinh

dưỡng vật nuôi. Thành phố Hồ Chí Minh.

13. Trần Văn Phùng, Từ Quang Hiển, Trần Thanh Vân, Hà Thị Hảo (2004).

Giáo trình chăn nuôi lợn. Nhà xuất bản Nông nghiệp Hà Nội.

14. Tiêu chuẩn Việt Nam (1986). Thức ăn chăn nuôi. Phương pháp xác định

độ ẩm, TCVN 4326 -86. Trang 23 -26.

15. Tiêu chuẩn Việt Nam (1986). Thức ăn chăn nuôi. Phương pháp xác định

độ ẩm, TCVN 4327. Trang 27 -31

16. Tiêu chuẩn Việt Nam (1986). Thức ăn chăn nuôi. Phương pháp xác định

độ ẩm, TCVN 4328. Trang 32 -35

17. Tiêu chuẩn Việt Nam (1986). Thức ăn chăn nuôi. Phương pháp xác định

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

hàm lượng xơ thô, TCVN 43291 - 86

90

18. Tiêu chuẩn Việt Nam (1986). Thức ăn chăn nuôi. Phương pháp xác định

hàm lượng chất béo (lipit) thô, TCVN 4331 - 86

19. Tiêu chuẩn Việt Nam (1986). Phương pháp xác định sinh trưởng tương

đối, TCVN 2-40-77

20. Tiêu chuẩn Việt Nam (1986). Phương pháp xác định sinh trưởng tuyệt

đối, TCVN 2 -39 -77.

21. Hoàng Văn Tiến, Nguyễn Đăng Bật (1995). Nghiên cứu thức ăn cai sữa

sớm lợn con. Kết quả nghiên cứu Khoa học Nông nghiệp 1995 -1996.

Viện khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Việt nam. Trang 259 -264.

22. Hồ Trung Thông (2002). Ảnh hưởng của lượng protein ăn vào đến tỷ lệ

tiêu hóa protein và các con đường đào thải nitơ của lợn sinh trưởng. Tạp

chí chăn nuôi - Hội chăn nuôi Việt nam.

23. Trần Quốc Việt, Vũ Duy Giảng, Ninh Thị Len (1999). " Mức năng lượng

và tỷ lệ Lysine/ NL thích hợp trong thức ăn hồn hợp cho lợn con giống

ngoại giai đoạn theo mẹ và sau cai sữa trong điều kiện Miền Bắc Việt

nam". Kết quả nghiên cứu KHKT Chăn nuôi 1998 -1999 Nhà xuất bản

Nông nghiệp. Trang 75 - 82.

24. Phùng Thị Vân, Phạm Sỹ Tiệp, Nguyễn Văn Lục, Nguyễn Giang Phúc,

Trịnh Quang Tuyên (2004). Xây dựng mô hình chăn nuôi lợn trong nông

hộ nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường và nâng cao năng suất chăn

nuôi. Tạp chí Khoa học công nghệ Nông nghiệp và PTNT - 20 năm đổi

mới -Tập 2. Phần chăn nuôi -thú y. Trang 88 -101.

II. Tài liệu nƣớc ngoài:

25. ARC, 1981. The nutrient Requirement of Pigs. Slough: Commonwealth

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

agricultural Bureaux, 307 p.

91

26. Black J.L 1974. Manipulation of body compositon through nutrition.

27. Baterham, E.S 1994. Heal digestibities of amino acid in feedstys for pigs.

Proceeding of the Australia. Society of Animal Production 10, p211-218.

Pp.113 -131 in Amino acids in Farm Animal Nutrition. Walling ford,

UK: CAB Internationnal.

28. Block, R.J. and Bolling, D. (1944). Nutrition opportunities with amino

acids. Journal of American Diestic Association 20, 69-76.

29. Bikker,P., M. W.A. Verstegen, and M.W. Bosch (1994). Amino acid

composition of growing pigs was aff by protein and enery intake. J. Nutr.

124, p1961 - 1969.

30. B. J. Kerr, J. T. Yen, J. A. Nienaber, and R. A. Easter. 2003. Influences

of dietary protein level, amino acid supplementation and environmental

temperature on performance, body composition, organ weights and total

heat production of growing pigs. J. Anim. Sci. 81:1998-2007.

31. Cole, D.J.A (1979). Amino acid nutrition of pig. In recent Advances in

Animal Nutrition - 1979, p.59 -72 (W. Haresign and D. Lewis, editors).

London: Butterworths.

32. Cole, D.J.A., Yen, H.T. & Lewis, p. (1980). The lysine requirements of

growing and finishing pigs - the concept of an ideal protein. In protein

Metabolism and Nutition,pp.658 - 668 (H.J. Oslage and K. Rohr -

editiors). EEAP Publication no.27.

33. Campbell, R.G, Taverner, M.R. and D.M Curic 1985. The infuence

offeeding level on the protein requirement of pigs between 20 to 45kg

leve wieght. J.Anim. Prod.40, p489.

34. Campbell, RG; M.R. Taverner and D.M Curic 1988 a. The effects of sex

nad live weinght on the growing pigs neponse to dietary protein. Anim.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

Prod. 46: 123 -130.

92

35. Campbell and Taverner, 1988 b. The tissue and dietary protein and

amino acid requirements of pigs from 8.0 - 20.0 kg live body weight.

Anim. Prod. 46: 283 - 290.

36. Chiba L. I.; Lewis A. J. and Peo E. R., 1991. Amino acid and energy

interrelationships in pigs weighing 20 - 50 kg: Rate and efficiency of

weight gain. J. Anim. Sci. 69: 694 - 707.

37. Cole, D.J.A., 1992. Interaction between energy and amino acid balance.

2nd International Feed Production Conference 25 - 26. Piacenza, Italy

38. Chung, T. K., and D.H. Baker (1992). Maximal portion of the young pig

s sulfur amino acid requirement that can be furnished by cystine. Journal

of Animal Science 70, p1182 -1187.

39. Duffy and P. Brooks, 1998. Using Yucca Schidiigera in pig diets; Effects on

Nitrogen metabolism. Inbiotechnolory in the feed industry, proceedings of Alltech 14th annual symposium. Nottingham University press, Nottingham,

United Kingdom.

40. Hoffmann, L.; Schiemann, R.(1980) Von der kalorie zumjoule: Neue

grossbeziehungen bei messungen des Energie umsatzes und bei berechnung

von kennzahlen der energetischen futtewertung. Arch. Tierenahrung, 30, p.

733 - 742.

41. Fuller, M. F.; William, R.; Wang, T.C. and Giles. L. R, 1989. The

optimal dietary amino acid pattern for growing pigs. 2. Requirement for

maintenance and for tisue protein accretion. British journal of nutrition

62, 255 - 267.

42. Fuller M.F. (1978). Amino acid nutrition of the pigs. Rowett Research

Annual Report 34, 116-128.

43. Goodband, R.D; Hines, R. H., Nelssen, J. L. and Thale, R. C. 1988. The

effect of dietary lysine level on performance of pigs weaned at two weeks

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

of age. J. Anim. Sci. 66 (Sup. 1): 315 (Abstr.)

93

44. Gatel. F.; Buron G. and Feakeate, J. 1992. Total amino axit requirements

of weaning pigs 8 - 25 kg live-weight given diets based on wheat and

soya - bean meal fortified with free amino acids. Anim. Pro. 54: 281-287

45. Heger. J, T. Van Phung, L. Krizova, M. Sustala and K. Simecek, 2003.

Efficiency of amino acid utilization in the growing pig at sub-optimal

levels of intake: branched-chain amino axits, histidine and phenylalanine

+ tyrosine. J. Anim. Physiol. a. Anim. Nutri. 87 (2003), 52- 65.

Blackwell Verlag, Berlin. ISSN 0931 - 2439.

46. Leibholz, J. 1988. Threonin supplementation of diets for pig between 7

and 56 days of ages. Animal Production 47: 475 - 480

47. Leibholz, J. and Parks, J. R. 1987. Lysine supplementation of diets for

pigs between 7 and 56 days of age. Anim. Pro. 44: 421 - 426.

48. National Research Council, 1998. Nutrient Requirements of Swine Tenth

Revised Edition Wasington, D.C.: National Acedemy Press. 239pp.

49. Martinez, G.M. and Knabe D.A. 1990. Digestible lysine requirement of

starter and grower pigs. J. Ani. Sci. 68: 2748 - 2755.

50. Mahan. D.C and R.G Shields, Jr 1998. Eessential and Nonessential

Amino acid Composition of Pigs from Birth to 145 kg of Body weight,

51. Otto. E.R.; Yokoyama M.; Ku P.K; Ames N.K.; and Trottier N.L. 2003.

and Comprison to Other studies.

Nitrogen balance and ileal amino acid digestibility in growing pigs fed

diets reduced in protein concentration. J.Anim. Sci. 81:1743 - 1753.

52. Paul Bikker, Martin W.A. Verstegen and Marlou W. Bosch, 1994. Amino

axit composition of growing pigs is affected by protein and energy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

intake. J. Nutr. 124: 1961 - 1969.

94

53. Thaler, R.C.; Libal, G. W. and Wahlstrom, R.C. 1986. Effect of lysine

levels in pig starter diets on performance to 20 kg and on subsequent

performance and carcass characteristics. J. Ani. Sci. 63: 139 - 144.

54. Standing Committee on Agriculture (1987). Feeding standards for

Australian livestock: Pigs. East Melbourne: CSIRO.

55. Schenenck, B.C.; Stahly T. S. and Cromwell, G.l. 1992 a. Interactive

effects of thermal environment and dietary lysine and fat levels on rate,

efficiency and composition of growth of weaning pigs. J. Ani. Sci. 70:

3791 - 3802.

56. Saldana. C.I., Knabe, D. A.; Owen K. Q.; Burgoon, K. G.; Gregg, E. J.,

1993. Digestible threonine requirements of starter and finisher pigs. J.

Anim. Sci. 1994, 72: 144 - 150.

57. Van Luen T. A. and Cole D. J. A., 1996. The effect of lysine/digestible

energy ratio on growth performance and nitrogen deposition of hybrid

boars, gilts and castrated male pigs. Animal Science, 63: 465 - 475.

58. Wang, T.L. and Fuller, M.F, 1989: The optimum dietary amino acid

patern for growing pigs. 1. Experiments by amino acid deletion. Br. J.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nutr., 61, 77 - 89.