Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br />
<br />
NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ KỸ THUẬT MỞ THÔNG ỐNG MẬT CHỦ<br />
BẰNG TÚI MẬT ĐIỀU TRỊ SỎI ĐƯỜNG MẬT TRONG GAN<br />
Võ Văn Hùng, Lê Quang Nghĩa, Nguyễn Cao Cương, Võ Thiện Lai *<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Đặt vấn đề: Sỏi đường mật là bệnh lý phổ biến, tỉ lệ sỏi sót và tái phát cao, điều trị sỏi tái phát còn khó khăn,<br />
phức tạp.<br />
Mục tiêu: Xác định hiệu quả của kỹ thuật tạo ngõ vào đường mật xử lý sỏi đường mật trong gan tồn lưu và<br />
tái phát.<br />
Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu, mô tả. Kỹ thuật: Sử dụng túi mật làm ngõ vào đường mật bằng cách<br />
nối phễu túi mật và ống mật chủ.<br />
Kết quả: Trong thời gian từ 01/2008 đến 06/2011 thực hiện được 37 trường hợp, mổ mở 28 trường hợp,<br />
mổ nội soi 9 trường hợp. Tuổi trung bình 47,7, 25 nữ, 12 nam. Đa số bệnh nhân bị nhiều sỏi trong gan, sỏi tái<br />
phát, có hẹp đường mật trong gan kèm theo. Kỹ thuật mổ dễ thực hiện, 6 trường hợp cắt thùy T gan kèm theo.<br />
Không có biến chứng phẫu thuật nặng. Chúng tôi đã nội soi và lấy sỏi tồn lưu qua đường hầm OMC-túi mật-da<br />
28 trường hợp, tỉ lệ hết sỏi 87,71%, số lần tán sỏi trung bình 2,43 lần (1-6 lần). Chức năng túi mật vẫn được bảo<br />
tồn, khảo sát qua siêu âm kích thước túi mật nhỏ lại sau khi ăn. Có 4 trường hợp tái phát được mở lại ngõ vào<br />
này và nội soi lấy sỏi thành công.<br />
Kết luận: Đây là kỹ thuật an toàn và hiệu quả trong điều trị sỏi trong gan tồn lưu và dự phòng điều trị sỏi<br />
tái phát, có thể thực hiện bằng phẫu thuật mở và nội soi.<br />
Từ khóa: Sỏi trong gan.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
RESULTS OF THE TECHNIQUE OF CHOLEDOCHOSTOMY THROUGH GALLBLADER IN<br />
MANAGEMENT OF HEPATOLITHIASIS<br />
Vo Van Hung, Le Quang Nghia, Nguyen Cao Cuong, Vo Thien Lai<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 32 - 39<br />
Background: Hepatolithiasis is common in East Asia, the management of residual and recurrent stones is<br />
difficult and complex. The various approaches used for the management of intrahepatolithiasis only can remove<br />
stones ( not useful in some recurrent cases).<br />
Aims: The goal of this study is to make a long-term assessment for managing of residual and recurrent<br />
hepatolithiasis.<br />
Methods: Prospective descriptve study. In this technique we perform choledochostomy through gallblader by<br />
anastomosing funnel of gall bladder and common bile duct.<br />
Results: Between January 2008 and June 2011, 37 patients underwent this technique (28 open surgery, 9<br />
laparoscopic surgery). The mean age was 47.7; 25 females, 12 males. Patients had a lot of hepatic stones, recurrent<br />
stones, bile duct strictures. This technique is feasible. There are 6 cases with hepatectomy simultaneously, no<br />
<br />
<br />
Khoa Ngoại tổng quát Bệnh viện Bình Dân<br />
Tác giả liên lạc: BS. Võ Văn Hùng<br />
ĐT: 0903851378<br />
vovanhungbvbd@yahoo.com.vn.<br />
<br />
32<br />
<br />
E-mail:<br />
<br />
Chuyên Đề Ngoại Khoa<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
severe complication. Following operations, stones removal and stricture dilatation were performed on 28 patients;<br />
complete stone clearance: 87.71%; median occasions 2.43 times (1-6). The function of gallblader was preserved.<br />
There were 4 cases with recurrent hepatolithiasis after 6-36 months, and we reopened this access to successfully<br />
remove stones.<br />
Conclusion: The technique of choledochostomy through gallblader is safe, effective in treatment of<br />
hepatolithiasis.<br />
Keywords: Hepatolithiasis, cholecystocholedochostomy, cholangioscopic.<br />
Từ năm 1994 đến nay, tại Trung Quốc có<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
trên 20 bệnh viện đã thực hiện kỹ thuật mới nối<br />
Sỏi trong gan gặp nhiều tại vùng Đông Nam<br />
túi mật-ống mật chủ tạo đường hầm OMC-túi<br />
Á và được xem là một bệnh khó điều trị khỏi.<br />
mật-da để điều trị sỏi đường mật sót và tái phát<br />
Tần xuất bệnh còn cao ở Trung Quốc và Đài<br />
rất an toàn và hiệu quả. Tang L.J. thực hiện 21<br />
Loan khoảng 20%-50%(3,20,28), tại Hàn Quốc là<br />
trường hợp từ 1996-2001, Li X. thực hiện 46<br />
15%(15). Tuy nhiên, tần xuất sỏi gan tại Nhật Bản<br />
trường hợp từ 1994-2003, Tian F.Z. thực hiện 190<br />
đã giảm so với các thống kê trước đó chỉ còn<br />
trường hợp với kết quả rất tốt(22,19,26,27). Qua<br />
2,2%(28).Tại Đài Loan, sỏi trong gan được gọi là<br />
đường hầm này, có thể xử lý được sỏi sót, sỏi tái<br />
bệnh “viêm gan đường mật phương Đông” hay<br />
phát và chụp hình đường mật. Chúng tôi ứng<br />
“viêm đường mật sinh mủ”(10). Hẹp đường mật<br />
dụng kỹ thuật trên với hy vọng góp thêm một<br />
trong gan thường kết hợp với sỏi trong gan, tỉ lệ<br />
giải pháp điều trị sỏi đường mật ở nước ta.<br />
hẹp đường mật trong gan trên bệnh nhân sỏi<br />
Mục tiêu: xác định hiệu quả của kỹ thuật mở<br />
đường mật trong gan còn khá cao tại các nước<br />
thông<br />
ống mật chủ bằng túi mật trong điều trị<br />
vùng Đông Á đăc biệt là tại Đài Loan, tỉ lệ này<br />
sỏi trong gan tồn lưu và tái phát.<br />
trong nhiều báo cáo tại châu Á thay đổi từ 46,7%<br />
đến 85%(7,24,4,5,13,14,12,16,18). Đây là một trong những<br />
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
nguyên nhân chính làm tăng tỉ lệ sỏi tồn lưu và<br />
Tiêu chuẩn chọn bệnh<br />
tái phát, làm cho bệnh sỏi trong gan khó điều trị<br />
Bệnh nhân nhập viện vì bệnh sỏi đường mật<br />
và cần phải can thiệp nhiều lần. Tỉ lệ điều trị<br />
được điều trị bằng phẫu thuật có các tiêu chuẩn<br />
thất bại có thể cao đến 77%(25). Tỉ lệ tái phát của<br />
sau:<br />
sỏi đường mật rất cao sau nhiều năm, đặc biệt là<br />
Được chẩn đoán có sỏi trong gan qua siêu<br />
sỏi trong gan, từ 40,0-63,3%(10,11). Chính vì vậy,<br />
âm,<br />
nội soi, X quang.<br />
nhiều công trình nghiên cứu áp dụng những kỹ<br />
thuật nhằm tạo một ngõ vào đường mật để xử lý<br />
Sỏi trong gan tái phát.<br />
sỏi mật tái phát mà không cần phải mở bụng lại.<br />
Sỏi trong gan mổ lần đầu nhưng có nhiều<br />
Tại Việt Nam, một số bệnh viện đã áp dụng<br />
các kỹ thuật tạo đường hầm mật-ruột-da để xử<br />
lý sỏi tái phát như: nối ống gan-hỗng tràng với<br />
đầu quai hỗng tràng Roux-en-Y đặt dưới da, mở<br />
thông ống mật chủ ra da bằng một đoạn hỗng<br />
tràng biệt lập… Các phương pháp khâu nối ruột<br />
đều có một số biến chứng như: xì dò miệng nối,<br />
thoát vị nội, hẹp miệng nối… Một số phương<br />
pháp buộc phải cắt bỏ túi mật hoàn toàn bình<br />
thường và làm mất chức năng tự nhiên của cơ<br />
vòng Oddi. Lãi sẽ dễ dàng lên đường mật gây ứ<br />
đọng và nhiễm khuẩn, góp phần tạo sỏi tái phát.<br />
<br />
Ngoại Tổng Quát<br />
<br />
nguy cơ sỏi sót và tái phát: sỏi quá nhiều đầy<br />
nghẹt trong các ống mật, nhiều sỏi vụn bùn mật<br />
không lấy hết được, có hẹp đường mật.<br />
Túi mật, cơ vòng Oddi bình thường, OMC<br />
giãn > 12 mm.<br />
<br />
Phương pháp nghiên cứu<br />
Tiền cứu mô tả, ứng dụng một phương pháp<br />
phẫu thuật mới.<br />
<br />
Kỹ thuật tạo đường hầm OMC-túi mật-da<br />
<br />
33<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br />
<br />
Ống mật chủ được mở dọc khoảng 2 cm,<br />
gần với phễu túi mật nhất. Phễu túi mật được<br />
mở dọc hoặc mở ngang khoảng 2 cm, chọn vị trí<br />
gần ống mật chủ, chú ý bảo tồn động mạch túi<br />
mật và không căng sau khi nối.Ống dẫn lưu<br />
Kehr đặt từ ống mật chủ qua miệng nối xuyên<br />
qua đáy túi mật ra da. Đáy túi mật được cố định<br />
vào cơ thành bụng nằm ngay dưới da, di động<br />
tốt để dễ dàng cố định túi mật.<br />
Trong trường hợp phẫu thuật nội soi, chúng<br />
tôi sử dụng 4 trocar, sau khi gỡ dính, nội soi<br />
đường mật và lấy sỏi, kỹ thuật nối túi mật và<br />
ống mật chủ tương tự phẫu thuật mở.<br />
<br />
KẾT QUẢ<br />
Đặc điểm lâm sàng<br />
Trong thời gian từ tháng 01/2008 đến tháng<br />
06/2011 chúng tôi thực hiện 37 TH mở thông<br />
OMC bằng túi mật tạo đường hầm ống mật chủ<br />
- túi mật – da điều trị sỏi đường mật trong gan,<br />
tuổi trung bình 47,7 (25-82), nam 12 TH,<br />
nữ 25 TH.<br />
Đa số bệnh nhân sống tại nông thôn 28 TH<br />
(78,4%).<br />
Bảng 1. Nghề nghiệp.<br />
Nghề<br />
nghiệp<br />
Số TH<br />
Tỉ lệ<br />
<br />
Trí óc<br />
<br />
Nội trợ<br />
<br />
1<br />
2,7<br />
<br />
7<br />
18,9<br />
<br />
Lao động<br />
Nông dân<br />
chân tay<br />
17<br />
12<br />
45,9<br />
32,4<br />
<br />
Bệnh nhân thường vào viện cấp cứu, bệnh<br />
cảnh nhiễm khuẩn đường mật có 22 bệnh nhân<br />
chiếm tỉ lệ 59,5%, có 3 trường hợp viêm tụy cấp<br />
kèm theo.<br />
Bảng 2. Số lần đã phẫu thuật đường mật.<br />
Số TH<br />
<br />
Lần 1<br />
7<br />
<br />
Lần 2<br />
16<br />
<br />
Lần 3<br />
8<br />
<br />
Lần 4<br />
3<br />
<br />
Lần 5<br />
3<br />
<br />
Bảng 3. Vị trí sỏi.<br />
Hình 1. (nguồn Tang L.J.(26)).<br />
<br />
Kỹ thuật nội soi<br />
Sử dụng ống nội soi mềm có đường kính<br />
4,9mm, có kênh dụng cụ 2 mm, đầu ống soi di<br />
chuyển 2 chiều lên xuống. Máy tán sỏi điện<br />
thủy lực và các rọ lấy sỏi, ống cao su nong<br />
đường mật.<br />
Nội soi đường mật lấy sỏi tồn lưu thường<br />
được thực hiện sau khi mổ 3-4 tuần. Sau khi rút<br />
ống dẫn lưu Kehr, ống soi được đưa qua chỗ<br />
dẫn lưu vào túi mật, qua miệng nối OMC-túi<br />
mật, ống soi sẽ vào được đường mật trong và<br />
ngoài gan để chẩn đoán và điều trị sỏi và hẹp<br />
đường mật. Đa số trường hợp đều có kết hợp sử<br />
dụng rọ lấy sỏi và tán sỏi điện thủy lực.<br />
Trong trường hợp sỏi tái phát sau nhiều<br />
tháng, bệnh nhân được gây tê tại chỗ vào lại chỗ<br />
đáy túi mật đính dưới da. Các kỹ thuật nội soi<br />
và lấy sỏi tương tự như điều trị sỏi tồn lưu.<br />
<br />
34<br />
<br />
Vị trí<br />
Số TH<br />
Tỉ lệ<br />
<br />
2 bên<br />
21<br />
56,8<br />
<br />
Gan T<br />
8<br />
21,6<br />
<br />
Gan P<br />
8<br />
21,6<br />
<br />
Phẫu thuật mở thông OMC bằng túi mật<br />
Phẫu thuật nội soi: 9 TH, có 4 TH tái phát<br />
trong đó có 1 trường hợp đã mổ đường mật 2<br />
lần, 4 TH có hẹp đường mật gan trái.<br />
Cắt gan thùy T kết hợp: 6TH (16,2%).<br />
Thời gian phẫu thuật.<br />
Phẫu thuật mở 106,61 ±28,42 phút (60-150).<br />
Phẫu thuật nội soi 172,78±38,09 phút<br />
(125-240).<br />
Thời gian nằm viện hậu phẫu trung bình<br />
8,53±1,76 ngày (6-13). Tỉ lệ biến chứng của phẫu<br />
thuật: 10,8%(4 TH/37 TH). Biến chứng nhỏ như<br />
dò dịch chỗ mở đáy túi mật dưới da, tự lành<br />
trong vòng 14 ngày. Sau phẫu thuật tất cả bệnh<br />
nhân được chụp XQ đường mật, siêu âm kiểm<br />
tra sỏi tồn lưu. Kết quả chỉ có 5 TH hết sỏi, 32TH<br />
còn sỏi tồn lưu trong gan, tỉ lệ sỏi tồn lưu<br />
<br />
Chuyên Đề Ngoại Khoa<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br />
86,49%. Bệnh nhân được cho xuất viện và tái<br />
khám sau phẫu thuật khoảng 1 tháng.<br />
<br />
Nội soi đường mật lấy sỏi tồn lưu<br />
Đã có 28 TH nhập viện lại nội soi kiểm tra và<br />
lấy sỏi nếu còn sỏi tồn lưu.Trong khi nội soi qua<br />
đường túi mật chúng tôi nhận thấy:<br />
Niêm mạc túi mật bình thường, không có<br />
hiện tượng viêm hay phù nề.<br />
Miệng nối giữa túi mật và OMC rộng, 24 TH<br />
ống nội soi qua dễ dàng. Có 4TH ống soi vào<br />
đường mật tương đối khó khăn do miệng nối bị<br />
che phía sau ngách phễu túi mật, nhưng vẫn lấy<br />
được hết sỏi tồn lưu 3TH, còn 1 trường hợp còn<br />
sỏi sau 4 lần nội soi do sỏi trong gan 2 bên số<br />
lượng sỏi nhiều và có hẹp đường mật trong gan<br />
trái kèm theo. Ống soi xuống và qua được cơ<br />
vòng Oddi trong đa số trường hợp 24/28TH,<br />
4TH còn lại nhìn thấy cơ vòng Oddi bình<br />
thường nhưng không đưa ống soi xuống tá<br />
tràng được do quá gập góc.<br />
Trong 28 trường hợp đã nội soi đường mật<br />
lấy sỏi tồn lưu có 12 trường hợp có hẹp đường<br />
mật trong gan chiếm tỉ lệ 42,9%, bên trái 10TH<br />
(83,3%), bên phải 2TH (16,7%). 28 bệnh nhân<br />
được nội soi và lấy sỏi qua đường hầm OMC-túi<br />
mật-da tổng cộng 68 lần.<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
trước và sau khi ăn, chúng tôi nhận thấy kích<br />
thước túi mật có co nhỏ sau khi ăn trung bình<br />
7,64 cm2. Tất cả bệnh nhân đều ăn uống bình<br />
thường, không có biểu hiện khó tiêu hay rối<br />
loạn tiêu hóa.<br />
Biến chứng của nội soi đường mật lấy sỏi<br />
qua đường hầm OMC-túi mật-da hầu như<br />
không có, các biến chứng nhẹ như sốt lạnh run,<br />
tiêu chảy vài ngày, chảy máu đường mật nhẹ tự<br />
cầm do tán sỏi điện thủy lực.<br />
<br />
Nội soi đường mật lấy sỏi tái phát<br />
Đã có 4 TH có sỏi trong gan tái phát sau 6,<br />
15, 24, và 36 tháng, bệnh nhân được mở lại<br />
đường hầm OMC-túi mật-da để lấy sỏi. Thủ<br />
thuật lấy sỏi được thực hiện đơn giản với vô<br />
cảm là tê tại chỗ và lấy hết sỏi thành công cả 4<br />
TH. Trong khi nội soi lấy sỏi chúng tôi nhận<br />
thấy miệng nối rất rộng như lần nội soi lấy sỏi<br />
tồn lưu, không có bất kỳ dấu hiệu viêm nhiễm<br />
xơ hẹp miệng nối. Thao tác lấy sỏi tái phát qua<br />
đường hầm OMC-túi mật-da dễ dàng, không có<br />
biến chứng.<br />
<br />
Bảng 4. Số lần lấy sỏi.<br />
Số lần lấy<br />
1 lần<br />
sỏi<br />
Số TH<br />
10<br />
<br />
2 lần<br />
<br />
3 lần<br />
<br />
4 lần<br />
<br />
5 lần<br />
<br />
6 lần<br />
<br />
5<br />
<br />
7<br />
<br />
4<br />
<br />
1<br />
<br />
1<br />
<br />
Số lần nội soi trung bình 2,43±1,40 lần.<br />
Thời gian nội soi trung bình 65,85±18,86<br />
phút (20-180 phút).<br />
Để kết luận hết sỏi chúng tôi kết hợp 3 kỹ<br />
thuật: nội soi đường mật, chụp XQ đường mật<br />
trong khi lấy sỏi hoặc sau khi lấy sỏi, siêu âm<br />
sau mổ. Tỉ lệ sạch sỏi: 87,71%, 4 TH không hết<br />
sỏi đều là các trường hợp sỏi trong gan 2 bên<br />
với số lượng nhiều, trong đó có 2 TH có hẹp<br />
đường mật kèm theo. Sau khi kết luận hết sỏi<br />
ống dẫn lưu được rút, chỗ mở dẫn lưu có thể dò<br />
dịch mật vài ngày sau đó tự lành. Chúng tôi đã<br />
siêu âm kiểm tra chức năng túi mật sau vài<br />
tháng, bệnh nhân được đo kích thước túi mật<br />
<br />
Ngoại Tổng Quát<br />
<br />
Hình 2. Miệng nối túi mật ống mật chủ.<br />
<br />
BÀN LUẬN<br />
Đặc điểm lâm sàng<br />
Sỏi đường mật nguyên phát là một bệnh phổ<br />
biến ở phương Đông. Ở Việt Nam, bệnh sỏi<br />
<br />
35<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br />
<br />
đường mật rất thường gặp tại tất cả các bệnh<br />
viện đa khoa và ngoại khoa. Tại bệnh viện ViệtĐức trong 4 năm (1990-1994) có 2090 sỏi đường<br />
mật, trong đó sỏi gan đơn thuần và phối hợp<br />
75%(8). Tại bệnh viện Bình Dân trong 5 năm<br />
(1995-1999) có 2674 trường hợp sỏi đường mật.<br />
Bệnh nhân bị sỏi đường mật thường vào<br />
viện vì bệnh cảnh nhiễm khuẩn đường mật với<br />
tam chứng Charcot: đau hạ sườn phải, sốt và<br />
vàng da. Đây là một loại bệnh tái diễn, bệnh<br />
nhân có thể bị mổ nhiều lần. Số bệnh nhân có<br />
tiền căn phẫu thuật sỏi đường mật chiếm 78,6%,<br />
trong đó 38,7% đã mổ trên 2 lần. Hẹp đường<br />
mật thường xuất hiện kèm theo bệnh lý sỏi<br />
trong gan, là một trong những nguyên nhân gây<br />
sỏi tái phát, tỉ lệ 75-91%. Trong 28 TH đã nội soi<br />
đường mật lấy sỏi sót có 12 TH có hẹp đường<br />
mật trong gan chiếm tỉ lệ 42,9%, bên gan T 10TH<br />
(83,3%), bên gan P 2TH (16,7%).<br />
<br />
Chỉ định<br />
Có nhiều phương pháp điều trị sỏi đường<br />
mật được áp dụng tại Việt Nam như: Nội soi<br />
mật tụy ngược dòng cắt cơ vòng lấy sỏi, cắt<br />
thùy gan, mở chủ mô lấy sỏi, lấy sỏi qua da, qua<br />
đường hầm Kehr, nối mật-ruột kết hợp với các<br />
phương tiện nội soi, X quang trong khi mổ và<br />
tán sỏi thủy điện lực… Nhờ sự phát triển không<br />
ngừng của khoa học kỹ thuật ứng dụng trong Y<br />
khoa, nhiều phương tiện, thiết bị được áp dụng<br />
trong chẩn đoán trên và điều trị sỏi đường mật<br />
giúp hạ thấp được tỉ lệ sỏi sót. Nhưng sỏi<br />
đường mật thường tái phát sau nhiều năm, để<br />
ngừa sỏi trong gan tái phát, nhiều phương pháp<br />
nối mật-ruột với hy vọng nếu có sỏi trong gan<br />
tái phát, sỏi sẽ qua miệng nối xuống ruột. Tuy<br />
nhiên, sỏi đường mật tái phát đặc biệt là sỏi<br />
trong gan thường kèm theo hẹp đường mật, vì<br />
vậy sỏi không dễ dàng rơi xuống ruột qua<br />
miệng nối. Sỏi tại phân thùy phải sau, phân<br />
thùy bên trái và đặc biệt là trong các trường hợp<br />
sỏi đóng khuôn ở ống mật dính chặt vào thành<br />
ống mật bị viêm rất khó xuống(22).<br />
Các phương pháp tạo ngõ vào lấy sỏi tồn<br />
lưu và tái phát, thường áp dụng cho bệnh đã mổ<br />
<br />
36<br />
<br />
đường mật nhiều lần, hoặc mổ lần đầu nhưng<br />
có nhiều sỏi trong gan, có hẹp đường mật.<br />
Chúng tôi chọn những bệnh nhân sỏi đường<br />
mật trong gan theo các chỉ định trên, một số<br />
trường hợp phẫu thuật nội soi có tái phát hoặc<br />
mổ lần đầu nhưng có nhiều sỏi trong gan hoặc<br />
hẹp đường mật trong gan, chúng tôi cũng áp<br />
dụng kỹ thuật này. Có nhiều tác giả áp dụng<br />
ngay kỹ thuật dự phòng sỏi đường mật tái phát<br />
ngay trong lần mổ đầu tiên, Al-Sukhni phẫu<br />
thuật 27 TH sỏi trong gan, 21 TH thực hiện kỹ<br />
thuật nối mật-ruột-da, 10/17 TH cắt gan T có kết<br />
hợp kỹ thuật nối mật-ruột-da, tỉ lệ đã mổ nối<br />
mật ruột là 15% và cắt túi mật là 48%.<br />
Beckingham phẫu thuật 21 bệnh nhân nối mậtruột-da,có 12 TH mổ lần đầu, 9 TH đã mổ 1-3<br />
lần như cắt túi mật hở, cắt túi mật nội soi, sỏi<br />
OMC,nối mật-ruột, nội soi ổ bụng<br />
chẩn đoán(1).<br />
Hẹp đường mật trong gan là 1 trong những<br />
nguyên nhân chính gây sỏi tồn lưu và tái phát.<br />
Chen CH điều trị sỏi đường mật trong gan bằng<br />
kỹ thuật lấy sỏi xuyên gan qua da có tỉ lệ hết sỏi<br />
là 82%, tác giả nhận thấy nếu không có hẹp<br />
đường mật tỉ lệ còn sỏi chỉ 5%, nhưng nếu có<br />
hẹp đường mật tỉ lệ còn sỏi là 30%(2). Cheung<br />
MT. nghiên cứu 174 trường hợp sỏi trong gan, tỉ<br />
lệ nhiễm khuẩn đường mật tái phát sau 5 năm<br />
trên bệnh nhân có hẹp đường mật là 43,2%,<br />
không có hẹp đường mật là 26,4%(4). Vì vậy<br />
trong những trường hợp sỏi trong gan có kết<br />
hợp hẹp đường mật trong gan chúng tôi đã thực<br />
hiện tạo ngõ vào đường mật bằng túi mật ngay<br />
khi bệnh nhân chưa có tiền căn phẫu thuật<br />
đường mật.<br />
<br />
Kỹ thuật mổ<br />
Về kỹ thuật mổ, khi áp dụng, chúng tôi nhận<br />
thấy đây là một kỹ thuật dễ thực hiện, thời gian<br />
mổ không kéo dài hơn nhiều so với các trường<br />
hợp mổ sỏi đường mật tái phát khác. Diễn tiến<br />
hậu phẫu không có biến chứng lớn, 4 TH có biến<br />
chứng của chúng tôi là dò mật chỗ dẫn lưu Kehr<br />
tự lành sau khi rút dẫn lưu. Phương pháp mổ<br />
này tránh được các biến chứng của khâu nối<br />
<br />
Chuyên Đề Ngoại Khoa<br />
<br />