Nghiên cứu lỗi sai của sinh viên Việt Nam khi học tập câu ghép tiếng Hán
lượt xem 6
download
Bài nghiên cứu này sẽ tập trung nghiên cứu về những lỗi sai thường gặp của sinh viên Việt Nam khi học tập câu ghép tiếng Hán, phần được đánh giá là rất phức tạp trong ngữ pháp tiếng Hán. Tác giả sẽ tiến hành khảo sát đối tượng là những sinh viên đang học tiếng Hán trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh (TP HCM), sau đó tiến hành tổng hợp và phân tích để đưa ra cái nhìn toàn cảnh về tình hình học và hiểu câu ghép của sinh viên TP HCM nói riêng và sinh viên Việt Nam nói chung.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Nghiên cứu lỗi sai của sinh viên Việt Nam khi học tập câu ghép tiếng Hán
- Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH NGHIÊN CỨU LỖI SAI CỦA SINH VIÊN VIỆT NAM KHI HỌC TẬP CÂU GHÉP TIẾNG HÁN Huỳnh Bích Ngọc (SV năm 4, Khoa Trung văn) GVDH: TS Phạm Thanh Hằng 1. Mở đầu 1.1. Giới thiệu chung Tiếng Hán là một ngôn ngữ được đông đảo mọi người sử dụng. Việc học tiếng Hán đã và đang trở thành một trào lưu trên thế giới. Ở Việt Nam cũng vậy, số người học tiếng Hán ngày càng nhiều. Do sự giao lưu về văn hóa và ngôn ngữ của hai nước Việt Nam và Trung Quốc có lịch sử trên hai nghìn năm, nên sinh viên Việt Nam khi tiếp xúc với tiếng Hán sẽ có những thuận lợi nhất định. Tuy nhiên khi học tiếng Hán sinh viên Việt Nam cũng gặp phải một số khó khăn: từ ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp đến tu từ. Bài nghiên cứu này sẽ tập trung nghiên cứu về những lỗi sai thường gặp của sinh viên Việt Nam khi học tập câu ghép tiếng Hán, phần được đánh giá là rất phức tạp trong ngữ pháp tiếng Hán. Tác giả sẽ tiến hành khảo sát đối tượng là những sinh viên đang học tiếng Hán trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh (TP HCM), sau đó tiến hành tổng hợp và phân tích để đưa ra cái nhìn toàn cảnh về tình hình học và hiểu câu ghép của sinh viên TP HCM nói riêng và sinh viên Việt Nam nói chung. 1.2. Lí do chọn đề tài Trong suốt quá trình học tập môn Hán ngữ hiện đại, khi học đến phần câu ghép trong tiếng Hán, tôi cũng như các bạn sinh viên khác hầu như đều rất băn khoăn, ai ai cũng ái ngại khi học phần này vì thấy nó khá phức tạp. Có lẽ vì tâm lí đó mà nhiều sinh viên đã không chú tâm khi học phần câu ghép, dù nó là một phần rất quan trọng, quyết định đến khả năng sử dụng tiếng Hán một cách thuần thục trong cả văn nói và văn viết. Để bản thân và những sinh viên khác có một cái nhìn toàn diện về câu ghép trong tiếng Hán, cũng như biết cách khắc phục những lỗi sai thường gặp về điểm ngữ pháp này, tôi đã chọn đề tài “Nghiên cứu lỗi sai của sinh viên Việt Nam khi học tập câu ghép tiếng Hán”. Với nghiên cứu này, tôi hi vọng có thể góp phần nhỏ cho việc hiểu và sử dụng câu ghép tiếng Hán một cách chuẩn xác, và có thể coi đây là một tài liệu hữu ích cho những người quan tâm nghiên cứu vấn đề này. 1.3. Ý nghĩa nghiên cứu 1.3.1. Ý nghĩa lý luận Quá trình tìm hiểu và tổng hợp các tư liệu liên quan đến câu ghép tiếng Hán đã giúp tác giả có cái nhìn khái quát về câu ghép tiếng Hán, có sự so sánh giữa câu ghép tiếng Hán và câu ghép tiếng Việt. Việc thực hiện bài nghiên cứu này không chỉ giúp tác giả có cơ hội tập dượt làm nghiên cứu, tiếp cận và trình bày một vấn đề có tính chất hàn lâm, mà còn mở rộng tầm nhìn về lĩnh vực nghiên cứu. Khi nghiên cứu vấn đề này, tác giả có cơ hội để áp dụng các kiến thức đã học một cách hiệu quả, tiếp thu kiến thức 120
- Năm học 2010 – 2011 từ những nguồn khác nhau để đánh giá và hoàn thiện kiến thức của bản thân liên quan đến câu ghép tiếng Hán. 1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn Nghiên cứu này có thể cung cấp cho người học những kiến thức cơ bản về câu ghép trong tiếng Hán. Ngoài ra, nó còn là tài liệu tham khảo hữu ích trong công việc phiên dịch giữa tiếng Hán và tiếng Việt. Thông qua việc tìm hiểu, phân tích một số lỗi sai thường gặp và gợi ý những cách khắc phục, tác giả có thể giúp người học vận dụng câu ghép tiếng Hán trong khẩu ngữ cũng như trong văn viết một cách hiệu quả. 1.4. Phương pháp nghiên cứu - Tổng hợp tư liệu, - Khảo sát thực tế, - Phân tích dữ liệu khảo sát. 2. Mục đích nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của bài nghiên cứu này là tìm ra những lỗi sai mà sinh viên thường mắc phải khi học tập và vận dụng câu ghép trong tiếng Hán. Những lỗi sai này đã trở thành những lỗi sai có hệ thống, sinh viên rất hay phạm phải và thường không nhận ra được. 2.2. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu Tác giả đã khảo sát hơn 300 sinh viên của các trường đại học có chuyên ngành tiếng Hán trên địa bàn TP HCM. Bài khảo sát được thực hiện vào tháng 11 và 12 năm 2010, số bài khảo sát được phát ra cho 4 trường đại học là 350 bài, số bài thực tế thu về là 327, đạt 93%, số bài khảo sát đạt yêu cầu là 300, đạt 92%. Về đối tượng cụ thể, xin quan sát số liệu dưới đây: Đối tượng khảo sát Niên cấp Số lượng Đại học Sư phạm TP HCM 2, 3, 4 114 Đại học Tôn Đức Thắng 3 30 Đại học KHXH&NV TP HCM 3 41 Đại học Mở TP HCM 4, 5 76 3. Sơ lược về câu ghép tiếng Hán 3.1. Khái niệm Câu ghép là câu do hai phân câu trở lên có quan hệ mật thiết về ý nghĩa và có kết cấu không bao hàm lẫn nhau tổ hợp thành gọi là câu ghép (复句由两个或两个以上意义相关,结构上互不包含的分句组成) [7, tr. 217]. Ví dụ: 他既是好同志,又是好朋友。 (Anh ấy vừa là người đồng chí tốt, vừa là người bạn tốt.) 121
- Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 我的决定不是一时的冲动,而是经过仔细的考虑。 (Quyết định của tôi không phải là sự kích động nhất thời, mà là đã thông qua sự suy nghĩ cẩn thận.) 3.2. Phân loại 3.2.1. Câu ghép quan hệ liên hợp (联合关系复句) Câu ghép quan hệ liên hợp là câu ghép mà quan hệ giữa các phân câu trong câu ghép là quan hệ liên hợp, giữa các phân câu không phân biệt chính phụ. Vì giữa các phân câu có nhiều mối quan hệ khác nhau, nên nó có thể chia thành mấy loại cụ thể sau [7, tr. 222]: - Câu ghép song song (并列复句), - Câu ghép liên quán (连贯复句或承接复句), - Câu ghép giải thích (解说复句), - Câu ghép lựa chọn (选择复句), - Câu ghép tăng tiến (递进复句). 3.2.2. Câu ghép quan hệ chính phụ (偏正关系复句) Câu ghép chính phụ là câu ghép mà các phân câu có quan hệ chính và phụ với nhau.Vì giữa các phân câu có nhiều mối quan hệ khác nhau, nên nó có thể chia thành mấy loại cụ thể sau [7, tr. 224]: - Câu ghép chuyển ngoặt (转折复句), - Câu ghép điều kiện (条件复句), - Câu ghép giả thiết (假设复句), - Câu ghép nhân quả (因果复句), - Câu ghép mục đích (目的复句). 4. Những thuận lợi và khó khăn của sinh viên Việt Nam khi học ngữ pháp (câu) tiếng Hán 4.1. Thuận lợi 4.1.1. Về phương thức ngữ pháp Tiếng Việt và tiếng Hán đều là ngôn ngữ phân tích tính, cho nên nếu xét về phương thức ngữ pháp thì cả hai chủ yếu dùng phương thức hư từ và trật tự từ. [2, tr. 71]. Phương thức hư từ Vì tiếng Việt và tiếng Hán đều ít có phụ tố nên phương thức hư từ có vai trò đặc biệt quan trọng. Hai ngôn ngữ này có một hệ thống hư từ phong phú để đảm nhiệm chức năng biểu thị các ý nghĩa ngữ pháp như sở hữu, đối tượng tiếp nhận, điểm đến, điểm xuất phát... Điều này cho thấy khi sinh viên Việt Nam sẽ có nhiều thuận lợi khi tiếp xúc với hư từ tiếng Hán. 122
- Năm học 2010 – 2011 Ví dụ: Tiếng Việt và tiếng Hán có thể biểu đạt quan hệ sở hữu bằng giới từ “của” và trợ từ“的”. Tiếng Hán Tiếng Việt 我的妈妈 mẹ của tôi 他的书 sách của anh ta Phương thức trật tự từ Trong tiếng Việt và tiếng Hán, vị trí của từ trong câu do chức năng ngữ pháp, ý nghĩa ngữ pháp của nó quy định [2, tr. 71]. Ví dụ: Tiếng Hán Tiếng Việt 我打他。 Tôi đánh nó. 他打我。 Nó đánh tôi. Các câu ví dụ trên có ý nghĩa khác nhau do trật tự từ của chúng khác nhau. 4.1.2. Về đặc điểm của từ loại Danh từ Danh từ tiếng Việt và tiếng Hán đều không chia theo số nhiều hay số ít như tiếng Anh, danh từ chỉ được xác định dựa vào khả năng kết hợp với từ chỉ định (này, nọ, ấy, kia) hoặc khả năng kết hợp với từ chỉ lượng (mấy, vài, một, dăm, hai...). Ví dụ: Tiếng Hán Tiếng Việt 那个帽子 cái nón đó 几个人 vài người Động từ Trong các ngôn ngữ biến hình, động từ có khả năng biến đổi hình thái theo ngôi, thì, thái... còn trong tiếng Việt và tiếng Hán thì động từ không có khả năng biến hình. Ví dụ: Tiếng Hán Tiếng Việt 走了 đi rồi 没唱 chưa hát 123
- Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH Tiếng Hán và tiếng Việt đều là ngôn ngữ phân tích tính, thiếu các tiêu chí rõ ràng xác định từ loại và không có sự biến hình của từ. Tiếng Hán và tiếngViệt cũng có những cách phân loại từ gần giống nhau: hư từ, thực từ và các loại từ cụ thể. Vị trí của từ trong câu quyết định chức năng ngữ pháp của nó. Ranh giới giữa các từ loại không rõ ràng nên về từ pháp và cú pháp có nhiều điểm tương đồng. Những điểm tương đồng này tạo nên nhiều thuận lợi cho sinh viên Việt Nam khi học tập ngữ pháp tiếng Hán nói chung và học tập câu ghép nói riêng. 4.2. Khó khăn 4.2.1. Chữ viết và từ vựng Về mặt chữ viết Chữ viết của tiếng Hán và chữ viết của tiếng Việt hiện đại được cấu tạo theo hai nguyên tắc cơ bản khác nhau. Chữ viết Trung Quốc là một thứ chữ viết “đồ hoạ”, tượng hình biểu ý, chữ viết Việt Nam là chữ viết theo lối phiên âm latinh. Ở phương diện này mối quan hệ tương đồng gần như không có. Người Việt Nam vốn chỉ quen với hệ thống chữ latinh nên việc làm quen với chữ Hán là một việc hết sức khó khăn. Hơn nữa chữ Hán có kết cấu phức tạp, nhiều nét, dễ gây nhầm lẫn, các chữ chỉ cần nhiều hay ít hơn một nét, các nét chỉ cần không chuẩn xác là có thể trở thành chữ khác. Ví dụ: “未——末”(未wèi – vị: chưa), (末 mò - mạt: cuối) “酒——洒”(酒jiǔ – tửu: rượu), (洒 sǎ – sái: vẩy, rắc) Về mặt từ vựng Từ vựng tiếng Hán phong phú. Giới hạn từ loại không xác định, hiện tượng chuyển hoá từ loại tương đối phổ biến. Mỗi loại có quá nhiều nghĩa, có khi còn có nhiều cách đọc, ngược lại một “con chữ” tiếng Việt chỉ có một âm đọc duy nhất. Do vậy, trong quá trình học tập tiếng Hán, sinh viên Việt Nam khó quen với sự đa nghĩa và đa từ loại của từ, và cũng sẽ gặp khó khăn khi thực hiện các thao tác chuyển dịch từ tiếng Hán sang tiếng Việt và ngược lại. Ví dụ: Từ更có 2 âm đọc là “gēng” và “gèng”, 2 âm này cùng có âm Hán Việt là “canh”. Với mỗi cách đọc thì từ 更lại có nhiều nghĩa khác nhau như sau: 124
- Năm học 2010 – 2011 Những khó khăn về mặt chữ viết và từ vựng này cũng ảnh hưởng nhiều đến khả năng nắm vững ngữ pháp của sinh viên Việt Nam. 4.2.2. Đoản ngữ và câu Đoản ngữ Trong ngữ chính phụ của tiếng Hán, thành phần phụ luôn đứng trước thành phần chính, còn ngữ chính phụ của tiếng Việt thì thành phần phụ có thể đứng trước hoặc đứng sau thành phần chính. Điều này gây ra nhiều lỗi sai của sinh viên khi dùng cấu trúc trong tiếng Việt áp dụng cho cấu trúc tiếng Hán. Xin tham khảo bảng sau đây về sự khác biệt trong vị trí của trạng ngữ và định ngữ của tiếng Việt và tiếng Hán. Nội dung Tiếng Hán Tiếng Việt Vị trí định Luôn đứng trước trung tâm Luôn đứng sau trung tâm ngữ. ngữ ngữ. Ví dụ:con mèo đen Ví dụ: 黑猫 Vị trí trạng Luôn đứng trước trung tâm Có thể đứng tự do ở nhiều vị ngữ ngữ. trí khác nhau. Ví dụ: 在家吃饭 Ví dụ: ăn cơm ở nhà, ở nhà ăn cơm Câu Một trong những điểm khác biệt dễ thấy của câu trong tiếng Việt và tiếng Hán là về vị trí của từ ngữ nối trong câu ghép. Bởi vì trong tiếng Việt trong cấu tạo các loại câu ghép thì các cặp từ nối bao giờ cũng xuất hiện ở trước chủ ngữ mỗi vế. Trong tiếng Hán thì khác hẳn, các cặp từ nối có thể xuất hiện trước hoặc sau chủ ngữ mỗi vế tùy vào từng trường hợp. Để hình dung sự khác nhau này, ta có thể phân tích như sau: Trường hợp Tiếng Hán Tiếng Việt Nếu hai vế Vị trí từ ngữ nối linh hoạt. Từ ngữ nối đứng trước chủ ngữ. cùng chủ ngữ Ví dụ: Ví dụ: Nếu anh không muốn đi 1 你如果不想去,你就不要去。 thì anh không cần phải đi. ○ 2 如果你不想去,你就不要去。 ○ Nếu hai vế Từ ngữ nối đứng trước chủ ngữ. Từ ngữ nối đứng trước chủ ngữ. khác chủ ngữ Ví dụ:如果你不去,我就不去。 Ví dụ:Nếu anh không đi thì tôi cũng không đi Những khó khăn này đều ảnh hưởng đến khả năng nắm vững ngữ pháp cũng như câu ghép tiếng Hán của sinh viên Việt Nam. 5. Kết quả khảo sát 5.1. Kết quả chung Điểm cao nhất của mỗi bài khảo sát là 40, và kết quả khảo sát thu được như sau: 125
- Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH Điểm số
- Năm học 2010 – 2011 39% điền đúng từ ngữ nối ở năm câu ghép, và 65% dịch đúng 5 câu ghép tiếng Việt thành tiếng Hán. 5.2.1. Không phân biệt được câu đơn và câu ghép Từ kết quả nghiên cứu ta có thể thấy 2 điểm: Thứ nhất: Khả năng phân biệt câu đơn và câu ghép của những sinh viên được khảo sát không cao, với tỷ lệ sai 40%. Đây cũng là tình hình chung của người học tiếng Hán khi ít chú trọng đến việc nắm vững sự khác nhau giữa câu đơn và câu ghép. Thứ hai: Đối với những câu tương đối dài, sinh viên thường nhận định đó là câu ghép, bởi vì sinh viên thường có một lối tư duy đó là: câu ghép là câu dài và phức tạp, câu đơn là câu ngắn gọn và đơn giản. Điều này cũng là nguyên nhân dẫn đến lỗi sai này. 5.2.2. Hiểu sai định nghĩa câu ghép Bài khảo sát cho phép người được khảo sát trả lời câu hỏi này bằng cả tiếng Việt và tiếng Hán. Một điểm chung nhất trong 180 bài khảo sát trả lời bằng tiếng Việt là có 164 bài (chiếm 91%) dịch “复句” là “câu phức”, chỉ có 16 bài (chiếm 9%) dịch là “câu ghép”. Việc dịch “复句” thành “câu phức” rất dễ gây nhầm lẫn, bởi vì trong tiếng Việt và tiếng Hán đều có câu ghép và câu phức, và “复句” của tiếng Hán tương đương với “câu ghép” của tiếng Việt. Một khi người học không nắm vững sự khác nhau giữa câu ghép và câu phức thì việc vận dụng sai là điều tất yếu. 5.2.3. Phân loại sai câu ghép Những câu ghép bị nhầm lẫn với nhau với tỷ lệ trên 20% bao gồm: - Câu ghép giả thuyết(假设复句) - câu ghép song song (假设复句), - Câu ghép song song (并列复句) - câu ghép tăng tiến (递进复句), - Câu ghép giải thích (解说复句) - câu ghép chuyển ngoặt (转折复句), - Câu ghép giải thích (解说复句) - câu ghép nhân quả (因果复句), - Câu ghép nhân quả (因果复句) - câu ghép điều kiện (条件复句). 5.2.4. Dùng từ ngữ nối không chính xác Những lỗi liên quan đến từ ngữ nối bao gồm: Số lượt Lỗi sai Lượt sai Tỷ lệ(%) khảo sát Từ ngữ nối phối hợp không thích đáng 210 98 47 Không hợp logic 210 28 13 Vị trí từ ngữ nối không thích đáng 210 54 26 Lỗi chính tả từ ngữ nối 210 30 14 127
- Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 5.2.5. Dịch sai câu ghép tiếng Việt và tiếng Hán Việc dịch từ câu ghép tiếng Hán thành câu ghép tiếng Việt hầu như không gây nhiều khó khăn đối với sinh viên Việt Nam, bởi vì người học đã quen với cấu trúc của câu ghép tiếng Việt và sử dụng hàng ngày, nên lỗi sai ở đây chủ yếu tập trung ở việc dịch từ tiếng Việt thành tiếng Hán. 6. Đề xuất, kết luận Việc học tập ngữ pháp của một ngôn ngữ luôn nhận được những ý kiến khác nhau từ người học. Một số người học hứng thú với việc tìm ra những qui luật ngữ pháp và làm nhiều bài tập ngữ pháp, bởi vì họ cho rằng ngữ pháp rất quan trọng, nó giúp cho việc diễn đạt trở nên chính xác và hoàn thiện hơn. Song song đó cũng có người không thích học ngữ pháp vì cho rằng nó tẻ nhạt và không cần thiết, chỉ cần có thể ghép các từ thành câu là được. Dù là thích hay không thích thì ngữ pháp vẫn là một phần không thể thiếu trong ngôn ngữ. Trong bài khảo sát có một câu hỏi là: “Theo bạn làm thế nào có thể học tốt câu ghép tiếng Hán?”, trong 300 bài khảo sát thì có đến 182 ý kiến (chiếm 61%) cho rằng cần phải luyện tập nhiều, nhưng việc luyện tập này phải có phương pháp thì mới có hiệu quả được. 6.1. Đề xuất Xuất phát từ vấn đề làm thế nào để học tốt ngữ pháp cũng như câu ghép tiếng Hán, tác giả có những đề xuất cho vấn đề này như sau: 6.1.1. Về việc học ngữ pháp - Bước một: Lên kế hoạch. Có cái nhìn tổng quát về từng điểm ngữ pháp, chú ý đến ngữ pháp ngay từ khi bắt đầu tiếp xúc với tiếng Hán, ghi chú những đặc điểm ngữ pháp quan trong và lên kế hoạch học từng phần trong vài ngày. - Bước hai: Nhận dạng những lỗi thường gặp của từng điểm ngữ pháp. Những người nói cùng một ngôn ngữ thường mắc những lỗi giống nhau. Tìm ra những lỗi ngữ pháp mà mọi người thường mắc phải để chú ý hơn tới những lỗi ngữ pháp này, tiến tới việc sử dụng một cách chính xác ngữ pháp. - Bước ba: Tìm bài tập ngữ pháp. Để học tốt ngữ pháp, cần luyện tập cho tới khi có thể sử dụng dễ dàng. Tìm kiếm một cuốn sách bài tập ngữ pháp có cả phần đáp án. Các hoạt động trực tuyến và đố vui cũng có thể trợ giúp được. Mỗi lần chỉ tập trung vào 1 phần ngữ pháp nhất định - Bước bốn: Chú ý tới ngữ pháp khi đọc tiếng Hán. Khi học ngữ pháp, sẽ là chưa đủ nếu chỉ hiểu được ý chính về những gì đọc được. Cần phải hiểu chính xác tại sao câu lại được viết như vậy. Khi đọc một câu văn, hãy tự hỏi liệu bạn có thể viết câu tương tự như vậy không. Nếu không thể hoặc không chắc chắn, hãy tìm những cuốn sách về những phần ngữ pháp và luyện tập. - Bước năm: Dịch từ ngôn ngữ của tiếng Việt sang tiếng Hán. Như vậy, sẽ tránh những phần ngữ pháp phức tạp khi viết hoặc nói lên suy nghĩ của mình. Khi dịch thì sẽ 128
- Năm học 2010 – 2011 phải làm việc với tất cả những gì xuất hiện trên trang giấy, kể cả những phần ngữ pháp khó. Bắt đầu dịch những thứ đơn giản như các câu đơn giản thường gặp hàng ngày,sau đó chuyển sang dịch những câu phức tạp hơn trong văn viết. - Bước sáu: Tìm sự giúp đỡ của người bản ngữ. Nếu quen biết người bản ngữ nào, hãy nhờ họ kiểm tra bài viết của mình. Nếu không, cũng có thể tìm kiếm các diễn đàn học tiếng Hán trên mạng hoặc những trang web trao đổi ngôn ngữ. 6.1.2. Về việc rèn luyện câu ghép tiếng Hán Cách rèn luyện câu ghép cũng giống như cách rèn luyện ngữ pháp, nhưng sẽ có một số phần cần chú ý riêng cho phần này, đó là: Phân biệt rõ câu đơn, câu phức và câu ghép Loại Câu đơn Câu phức Câu ghép câu Định Câu đơn là câu chỉ Dạng câu là một bộ phận Mỗi dạng câu có tính độc lập nghĩa có một cụm chủ vị nằm bên trong một câu, tương đối, và chúng ghép lại nòng cốt [1, tr. hay bị bao bên trong một với nhau, không câu nào bao 289]. câu [1, tr. 289]. câu nào [1, tr. 289]. Ví dụ 我们很开心。 他是教我的老师。 他是老师,我是学生。 (Chúng tôi rất vui.) (Ông ấy là giáo viên dạy (Ông ấy là giáo viên, tôi là chúng tôi.) học sinh.) Sử dụng từ ngữ nối chính xác Người học nên tìm hiểu những từ ngữ nối hay dùng, xem chúng thuộc loại câu ghép nào, khi sử dụng phải đặt ở vị trí nào. Chú ý những từ ngữ nối có cách đọc hoặc cách viết gần giống nhau để không bị nhầm lẫn khi sử dụng. Phân biệt rõ từng loại câu ghép Mỗi loại câu ghép có những mối quan hệ khác nhau và việc phân chia các loại câu ghép cũng không thống nhất, cho nên người học phải chú ý đến điểm này. Chú ý đến quan hệ logic giữa các phân câu Cần phải chú ý đến quan hệ logic giữa các phân câu để sắp xếp hợp lí các phân câu và cũng là để dùng từ ngữ nối một cách phù hợp. Chú ý sự khác nhau giữa khẩu ngữ và văn viết Văn nói là lời ăn tiếng nói hàng ngày, là khẩu ngữ. Người ta nghĩ sao, nói vậy, tuỳ văn cảnh, tuỳ đối tượng và tuỳ theo trạng thái tâm lý, cảm xúc của họ. Văn nói dễ hiểu, gần gũi với đời thường, phù hợp với tính cách người nói và trình độ người nghe. Khác với văn nói, văn viết mang tinh chất hành chính hoặc báo chí nên cách viết phải bảo đảm tính khúc chiết, trong sáng, mạch lạc, tiết kiệm ngôn từ mà giàu lượng thông tin. 129
- Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH Vậy nên, không thể lẫn lộn giữa văn viết và văn nói. Có khi nếu là viết thì một đoạn văn, câu văn nào đó được coi là hay, nhưng nếu là nói, thì lại dở, trở nên không hợp. Mà việc biểu đạt của câu ghép ở văn nói và văn viết cũng có những điểm khác nhau, vì vậy cần phải chú ý đến sự thay đổi ở từng ngữ cảnh khác nhau. Ví dụ: Loại Tiếng Hán Tiếng Việt Khẩu ngữ 你去,我想去。 Anh đi, tôi muốn đi. Văn viết 因为你去,所以我也想去。 Bởi vì anh đi, cho nên tôi cũng muốn đi. 6.2. Kết luận “Câu là đơn vị lời nói nhỏ nhất được dùng để giao tiếp. Con người giao tiếp với nhau bằng câu. Câu là đối tượng nghiên cứu cơ bản của ngữ pháp học và là khái niệm trung tâm của mọi lí thuyết ngữ pháp” [2, tr. 104]. Căn cứ vào cấu trúc ngữ pháp của câu có thể chia thành câu đơn và câu ghép. Câu ghép tiếng Việt tương đương với “复句” trong tiếng Hán. Những khái niệm câu đơn, câu ghép, câu phức rất dễ nhầm lẫn với nhau. Câu ghép trong tiếng Hán là một điểm ngữ pháp khá phức tạp, để có thể nắm vững được nó thì phải chú tâm học hỏi, hơn nữa cũng phải nắm vững ngữ pháp tiếng Việt, biết được những sự khác biệt tồn tại trong câu ghép của hai loại ngôn ngữ này. Sinh viên Việt Nam khi học tập câu ghép tiếng Hán thường mắc những lỗi như: lỗi hiểu sai về định nghĩa câu ghép, không phân biệt được câu ghép và câu phức, từ ngữ nối sử dụng không chính xác... Những lỗi này nếu chú tâm thì đều có thể khắc phục được. Ngoài ra, thông qua những kiến thức tích lũy được về câu ghép tiếng Hán và qua quá trình nghiên cứu lỗi sai của sinh viên Việt Nam khi học câu ghép tiếng Hán, tác giả cũng có một số kiến nghị về việc học ngữ pháp nói chung và câu ghép nói riêng để người học có thể tham khảo, góp phần hoàn thiện kĩ năng ngữ pháp của bản thân. Do thời gian và năng lực có hạn nên bài nghiên cứu này còn nhiều điểm chưa được đào sâu nghiên cứu và không tránh khỏi những sai sót. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô và các bạn học để bài nghiên cứu này hoàn thiện hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt 1. Diệp Quang Ban (2000), Ngữ pháp Tiếng Việt, Nxb Giáo dục. 2. Hoàng Dũng, Bùi Mạnh Hùng (2007), Giáo trình dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Đại học Sư phạm TP HCM. 3. Nguyễn Thị Yến Phượng (1996), Cấu trúc câu ghép trong ngữ pháp Tiếng Việt, Luận văn tốt nghiệp. Tài liệu tiếng Hán 4. Kì Hộ Dương (2007), Hán ngữ hiện đại, Nxb Thương Vụ (Trung Quốc). 5. Huỳnh Dĩnh Hiền (2000), Đối chiếu câu ghép Việt – Hán, Luận văn tốt nghiệp. 130
- Năm học 2010 – 2011 6. Mã Tố Hương (2003), Bốn lỗi sai điển hình của người Việt Nam khi học ngữ pháp tiếng Hán và cách khắc phục, Luận văn tốt nghiệp. 7. Tôn Đức Kim (2003), Giáo trình Hán ngữ Hiện đại, Nxb Đại học Ngôn ngữ Bắc Kinh (Trung Quốc). 8. Hình Phúc Nghĩa (2000), Nghiên cứu câu ghép tiếng Hán, Nxb Thương Vụ (Trung Quốc). 9. Khương Địa Ngô (1997), Giáo trình Hán ngữ cao cấp, Nxb Đại học Ngôn ngữ Bắc Kinh (Trung Quốc). 10. Lý Đức Tân, Trình Mỹ Trân (2007), Ngữ pháp tiếng Hán thực dụng dành cho người nước ngoài, Nxb Giáo dục Hoa ngữ (Trung Quốc). Trang web 11. Http://wenku.baidu.com/view/11a353c689eb172ded63b78e.html. 12. Http://tieba.baidu.com/f?kz=767178065. 131
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Các lỗi thường gặp trong bài dịch của sinh viên: Nghiên cứu trường hợp tại khoa Sư phạm Tiếng Anh, Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội
7 p | 549 | 33
-
Ảnh hưởng của từ Hán Việt trong việc học tiếng trung của sinh viên khoa tiếng Trung trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh
9 p | 415 | 32
-
Lỗi về ngữ âm của người Việt và cách khắc phục khi học tiếng Trung Quốc
7 p | 53 | 9
-
Những thuận lợi và khó khăn của sinh viên Việt Nam khi học tiếng Hán
6 p | 101 | 5
-
Một số biện pháp khắc phục lỗi sai trong kỹ năng bắn súng tiểu liên AK của sinh viên trường Đại học Nha Trang
8 p | 14 | 4
-
Việc lạm dụng âm Hán Việt trong dịch thuật từ tiếng Trung sang tiếng Việt ngành Ngôn ngữ Trung Quốc trường Đại học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh
7 p | 11 | 4
-
Khảo sát tình hình sử dụng bổ ngữ chỉ hoàn thành kết thúc tiếng Hán của học sinh Việt Nam
8 p | 53 | 4
-
Lỗi phát âm phụ âm đầu của trẻ mẫu giáo (từ 4 đến 6 tuổi)
9 p | 152 | 3
-
Nghĩa của từ “aller” trong tiếng Pháp và từ “đi” trong tiếng Việt - Lỗi sai hay mắc phải của sinh viên không chuyên khi sử dụng từ “aller”
8 p | 39 | 3
-
Phân tích lỗi sai về tổ hợp "V+NP" trong tiếng Việt của sinh viên Trung Quốc từ góc độ đối chiếu
7 p | 69 | 3
-
Chính tả tiếng Hàn Quốc
17 p | 53 | 3
-
Những lỗi sai cơ bản về cách sử dụng quán từ trong văn bản học thuật Tiếng Anh của người Việt
8 p | 69 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn