NGHIÊN CỨU VAI TRÒ CỦA PHẪU THUẬT NỘI SOI LỒNG NGỰC<br />
TRONG VIỆC LẤY MẪU CHẨN ĐOÁN BẢN CHẤT<br />
CỦA NỐT ĐƠN ĐỘC<br />
Nguyễn Hoài Nam*<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Đặt vấn đề: Phẫu thuật Nội soi Lồng ngực đã và đang chứng minh vai trò của mình trong việc chẩn<br />
đoán các tổn thương của phồi và Lồng ngực. Công trình nghiên cứu nhằm đánh giá khả năng lay mẫu làm<br />
giải phẫu bệnh trong chẩn đoán bản chất của nốt đơn độc phổi.<br />
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu hàng loạt các trường hợp.<br />
Kết quả và bàn luận: Với 25 bệnh nhân nghiên cứu trong 4 năm từ tháng 7 năm 2004 đến tháng 7<br />
năm 2008, có 20 nam và 5 nữ với tuổi trung bình là 59 tuổi cao nhất là 75 tuổi và thấp nhất là 24 tuổi. Kết<br />
quả phẫu thuật nội soi Lồng ngực lấy mẫu đạt kết quả tốt là 18 trường hợp, trung bình 06 trường hợp và<br />
xấu là 1 trường hợp. Nghiên cứu cho thấy việc sử dụng phẫu thuật Nội soi Lồng ngực trong việc lấy mẫu<br />
và kết hợp với sinh thiết tức thì cho kết quả tốt trong chẩn đoán bản chất của nốt đơn độc phổi.<br />
Kết luận: Với những nốt đơn độc phổi nên sử dụng việc lấy mẫu bằng Phẫu thuật Nội soi Lồng ngực<br />
kết hợp với cắt lạnh trong sinh thiết tức thì cho kết quả cao đáng tin cậy.<br />
Từ khóa: Lấy mẫu chẩn đ oán bản chất của nốt đơn độc.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
STUDY THE ROLE OF THORACOSCOPIC SURGERY IN HARVESTING SAMPLES FOR DIAGNOSIS<br />
OF PULMONARY SOLITARY NODULES.<br />
Nguyen Hoai Nam* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 6 - 2009: 145 - 150<br />
Objectives: Thoracoscopic surgery has been proving its leading roles in diagnosis of the pulmonary and<br />
intrathoracic lessions. This work is carried out to evaluate the feasibility of the thoracoscopic surgery in<br />
harvesting samples for diagnosis of pulmonary solitary nodules.<br />
Methods: Retrospective of large serries of cases.<br />
Results and comments: 25 patients in 4 years from july-2004 to july-2008, including 20 males v 5<br />
females. Mean age: 59 ys with the oldest is 75 years old and the youngest is 24 years old. number of good<br />
samples harvested by thoracoscopic surgery is 18, acceptable samples: 06 and bad sample: 01. The study has<br />
shown the good feasibility of thoracoscopic surgery in harvesting samples for instant biopsy of pulmonary<br />
solitary nodules.<br />
Conclusions: For diagnosis of pulmonary solitary nodules, the samples harvesting by thoracoscopic<br />
surgery in combination with cryoablation for instant biopsy shows high credibility.<br />
Key words: Video assisted thoracic surgery.<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Theo ước tính có khoảng 150.000 nốt đơn<br />
độc ở phổi được phát hiện hàng năm tại Hoa Kỳ.<br />
<br />
Khả năng ác tính của nốt này vào khoảng 50%<br />
trường hợp. Việc chẩn đoán bản chất mô học và<br />
điều trị những nốt đơn độc này rất quan trọng,<br />
<br />
* Phân Môn Phẫu thuật Lồng Ngực- tim mạch. ĐH Y Dược TP.HCM<br />
Địa chỉ liên lạc: PGS Nguyễn Hoài Nam ĐT: 0903.920.815 Email: h-nam@hcm.vnn.vn<br />
<br />
145<br />
<br />
vì nếu những nốt này là ác tính nhưng được<br />
điều trị kịp thời thì tiên lượng sống trên năm<br />
năm là 40% - 60%. Việc phát hiện nốt đơn độc<br />
chủ yếu dựa vào X quang và CT scan ngực,<br />
nhưng chẩn đoán nguyên nhân thì khó khăn,<br />
mà điều trị lại phụ thuộc vào nguyên nhân của<br />
nốt. Mở lồng ngực để cắt một nốt lành tính<br />
nhỏ trong phổi thì thật nặng nề và vô ích cho<br />
người bệnh.<br />
<br />
Định nghĩa<br />
Nốt đơn độc phổi là một thuật ngữ dùng để<br />
chỉ một bóng mờ hình tròn hay hình bầu dục với<br />
đường kính lớn nhất của nó không vượt quá 3<br />
cm, nằm ở trung tâm hoặc ngoại biên phổi.<br />
Xử trí một nốt đơn độc ở phổi phải trải qua<br />
hai bước, một là chẩn đoán nguy cơ ung thư của<br />
nốt, hai là xem xét khả năng điều trị tối ưu nhất<br />
đem lại hiệu quả cao nhất cho người bệnh,<br />
nhưng xu thế phải nhẹ nhàng và can thiệp tối<br />
thiểu nhất.<br />
Phẫu thuật nội soi lồng ngực có hỗ trợ máy<br />
quay hình (VATS) là một lợi thế rất lớn đáp ứng<br />
được cả khả năng chẩn đoán nguyên nhân qua<br />
phẫu thuật sinh thiết và điều trị triệt để bằng cắt<br />
nốt đơn độc qua nội soi.<br />
Chúng tôi tiến hnh công trình nghiên cứu<br />
này nhằm hai mục tiêu:<br />
- Đánh giá khả năng lấy mẫu làm Giải phẫu<br />
bệnh bằng Phẫu thuật Nội soi Lồng ngực trong<br />
chẩn đoán bản chất của nốt đơn độc.<br />
- Đánh giá khả năng chẩn đoán xác định của<br />
sinh thiết tức thì trong chẩn đoán bản chất của<br />
nốt đơn độc.<br />
<br />
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
Phương pháp nghiên cứu<br />
Hồi cứu hàng loạt các trường hợp.<br />
<br />
Địa điểm<br />
Khoa Ngoại Lồng ngực và mạch máu BV<br />
Nhân Dân Gia Định.<br />
<br />
Thời gian nghiên cứu<br />
Từ tháng 7 năm 2004-7 năm 2008.<br />
<br />
Tiêu chuẩn chọn bệnh<br />
Tất cả những bệnh nhân được chẩn đoán là<br />
nốt đơn độc phổi, được phẫu thuật bằng Nội soi<br />
Lồng ngực hoặc kết hợp Phẫu thuật Nội soi<br />
Lồng ngực với mở ngực nhỏ để lấy mẫu làm<br />
sinh thiết tức thì chẩn đoán bản chất của nốt đơn<br />
độc. Những nốt đơn độc này nằm ở ngoại vi.<br />
<br />
Tiêu chuẩn loại trừ<br />
Các nốt đơn độc không được mổ hoặc được<br />
chẩn đoán bản chất bằng các phương pháp khác.<br />
<br />
Phương pháp Phẫu thuật<br />
Cắt toàn bộ nốt đơn độc bằng Bipolar sau<br />
đó khâu cầm máu bằng chỉ Vicryl số 1 hay sử<br />
dụng Stappler cắt phổi hình chêm sử dụng<br />
trong nội soi.<br />
Sau đó bệnh phẩm được mang đi cắt lạnh và<br />
đợi kết quả. Khi kết quả trả lời: Lao hoặc u lành<br />
tính, kết thúc cuộc phẫu thuật. Nếu kết quả trả<br />
lời ung thư, bệnh nhân sẽ được mở ngực và cắt<br />
thuỳ phổi theo phương pháp phẫu thuật ung<br />
thư kinh điển.<br />
Một phần của bệnh phẩm được gửi làm Giải<br />
phẫu bệnh theo kỹ thuật thông thường.<br />
<br />
Kết quả được ghi nhận được đánh giá theo<br />
3 mức độ<br />
Kết quả tốt<br />
Cuộc mổ tiến hành tốt, mẫu bệnh phẩm lấy<br />
được, có kết quả sinh thiết tức thì và không có tai<br />
biến trong cuộc mổ.<br />
Kết quả trung bình<br />
Lấy được bệnh phẩm, kết quả sinh thiết tức<br />
thì trả lời không rõ ràng hoặc có tai biến nhỏ như<br />
chảy máu, xử trí được qua Nội soi Lồng ngực<br />
hoặc mở ngực nhỏ.<br />
Kết quả xấu<br />
Không lay được mẫu bệnh phẩm, phải mở<br />
ngực lớn để xử trí tổn thương hoặc xử lý tai biến<br />
phẫu thuật.<br />
<br />
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br />
Qua hồi cứu trong thời gian từ tháng 7 năm<br />
2004 đến tháng 7 năm 2008, chúng tôi có tất cả 25<br />
<br />
146<br />
<br />
trường hợp nốt đơn độc phổi được phẫu thuật<br />
Nội soi lấy mẫu làm Giải phẫu bệnh đủ tiêu<br />
chuẩn để nghiên cứu.<br />
<br />
Như vậy theo phân loại của chúng tôi, kết<br />
quả lấy mẫu bệnh phẩm bằng Phẫu thuật Nội<br />
soi Lồng ngực cho kết quả như sau:<br />
<br />
Trong đó có 20 bệnh nhân nam, 5 bệnh<br />
nhân nữ.<br />
<br />
Kết quả tốt: 18 trường hợp.<br />
<br />
Tuổi trung bình 59, cao nhất là 75 tuổi và<br />
thấp nhất là 24 tuổi.<br />
<br />
Kết quả xấu: 1 trường hợp.<br />
<br />
Hoàn cảnh phát hiện: Có 15 trường hợp phát<br />
hiện tình cờ khi đi chụp X quang phổi do một<br />
bệnh khác hay kiểm tra sức khoẻ.<br />
Có 18 trường hợp nốt đơn độc ở bên phải và<br />
7 trường hợp ở bên trái.<br />
Tất cả bệnh nhân đều được chụp X quang<br />
phổi và chụp CT Scan sau đó.<br />
Kích thước nốt đơn độc đo được trên phim<br />
chụp điện toán cắt lớp: 2,5 ± 0,3 cm.<br />
<br />
Hình ảnh Cụp điện toán cắt lớp của nốt<br />
đơn độc<br />
Bờ tròn đều, giới hạn tương đối rõ: 14 trường<br />
hợp.<br />
<br />
Kết quả trung bình: 6 trường hợp.<br />
<br />
BÀN LUẬN<br />
Với 25 bệnh nhân được hồi cứu, chúng tôi có<br />
một số bàn luận sau đây<br />
<br />
Đặc điểm lâm sàng của một nốt mờ đơn<br />
độc phổi<br />
Một nốt mờ đơn độc phổi thường phát hiện<br />
tình cờ qua chụp X quang phổi, hiếm khi có triệu<br />
chứng do chính khối u nhỏ này gây ra.<br />
Người ta thường dựa vào một số yếu tố lâm<br />
sàng để hướng đến khả năng ác tính hay lành<br />
tính của nốt. Tuy nhiên, những yếu tố này có<br />
tính chất rất tương đối, như là những tiêu chuẩn<br />
cổ điển chỉ có giá trị định hướng:<br />
- Tuổi: dưới 35 tuổi nốt mờ thường lành tính.<br />
<br />
Bờ không đều, giới hạn không rõ: 11 trường<br />
hợp.<br />
<br />
- Hút thuốc lá: Không hút thuốc thường<br />
hướng về lành tính.<br />
<br />
Phẫu thuật cắt nốt đơn độc bằng dụng cụ nội<br />
soi và khâu với chỉ Vicryl số 1: 20 trường hợp,<br />
trong đó có 7 trường hợp phải kết hợp với mở<br />
ngực nhỏ. Có 5 trường hợp sử dụng Stappler nội<br />
soi.<br />
<br />
- Thới gian bướu lớn gấp đôi trên 500 ngày<br />
thì có thể yên tâm.<br />
<br />
Thời gian phẫu thuật: trung bình 75 ± 15<br />
phút. Ngắn nhất là 55 phút trong 5 trường hợp<br />
sử dụng Stappler nội soi, dài nhất là một trường<br />
hợp 120 phút phải mở ngực nhỏ để xử lý tai biến<br />
chảy máu trong phẫu thuật.<br />
<br />
Kết quả sinh thiết tức thì<br />
Có 20 trường hợp chẩn đoán là U lao.<br />
Có<br />
3<br />
trường<br />
hợp<br />
chẩn<br />
đoán<br />
Adenocarcinoma, phải mở ngực cắt thuỳ phổi.<br />
Và 2 trường hợp chẩn đoán klhông xác định,<br />
kiểm tra lại bằng phương pháp sinh thiết thông<br />
thường, kết quả Giải phẫu bệnh trả lời sau 7<br />
ngày là: Một trường hợp tăng sản lành tính, một<br />
trường hợp ung thư phổi loại tế bào nhỏ.<br />
<br />
Chẩn đoán ban đầu của nốt đơn độc phổi<br />
bao giờ cũng là X quang phổi, sau đó CT<br />
scan ngực.<br />
<br />
X quang phổi cho phép xác định<br />
- Bóng mờ có bờ tương đối tròn, trong phổi.<br />
- Đường kính không quá 3 cm.<br />
- Vị trí của u cần chú ý nằm sau tim và gan<br />
(chụp phim nghiêng).<br />
- So sánh các phim trước để đánh giá sự tiến<br />
triển của nốt mờ.<br />
<br />
Chụp cắt lớp điện toán<br />
Chụp cắt lớp rất có giá trị để định vị trí chính<br />
xác của nốt mờ theo chiều sâu và theo mối liên<br />
quan với các rãnh phân thùy phổi và để nhận<br />
biết có sự ứ khí trong phổi, từ đó có thể phân<br />
biệt là nốt lành tính hay ác tính:<br />
<br />
147<br />
<br />
- Một nốt mờ có thể là dạng lành tính: Bờ<br />
tương đối tròn, vôi hóa, giới hạn rõ.<br />
- Một nốt đơn độc có thể là dạng ác tính: Bờ<br />
không đều, hình đa cung, lồi lõm, hay tia mặt<br />
trời, không có hiện tượng vôi hóa.<br />
- Xem xét kỹ vùng trung thất để tìm những<br />
hạch phì đại kèm theo (vì một nốt mờ đơn độc<br />
có thể đi kèm một tổn thương ở trung thất)<br />
- Bằng chứng chủ yếu xác định nguy cơ ác<br />
tính của nốt là sự tiến triển của nốt qua kích<br />
thước…thời gian nhân đôi của một nốt lành tính<br />
phải trên 500 ngày, cũng cần hiểu rằng khi thể<br />
tích tăng gấp đôi thì đường kính chỉ cần tăng<br />
thêm 1,26 lần.<br />
Trong những tình huống có thể chứng minh<br />
được là lành tính (dò động tĩnh mạch) hay có đủ<br />
cơ sở để chọn lựa giải pháp chờ đợi (nốt mờ đơn<br />
độc cũ, không tiến triển, vôi hóa, gợi ý một<br />
hamartochondrome), cần phải đặt nốt vào tình<br />
huống ác tính cho đến khi chứng minh được<br />
rằng nốt lành tính.<br />
Người ta nhận thấy rằng, với CT scan thì<br />
khối u di căn hạch trung thất được tìm thấy<br />
khoảng 8% cho những hạch < 10mm, khoảng<br />
30% cho những hạch từ 10 – 20 mm, và 60% cho<br />
những hạch > 20 mm. Những hạch trung thất<br />
lành tính lớn thường gặp trong các tình trạng<br />
nhiễm trùng sau tắc nghẽn. Xét nghiệm mô học<br />
với sự hiện diện hay không hiện diện của u<br />
trong hạch trung thất cần phải cẩn thận, vì<br />
những thông tin này làm thay đổi những chỉ<br />
định chọn lựa phương pháp điều trị.<br />
Tuy nhiên, vấn đề chủ yếu cần xác định là<br />
chẩn đoán nguyên nhân để có hướng xử trí kịp<br />
thời và tốt nhất. Và trong khi thực hành thì mỗi<br />
tiêu chuẩn chỉ có giá trị rất tương đối. Cần có<br />
phải có giải pháp chẩn đoán nguyên nhân khác<br />
có giá trị hơn.<br />
<br />
Nội soi trung thất<br />
Thường được chọn lựa để xác định nguyên<br />
nhân khi trên CT scan ngực thấy nốt nằm ở<br />
trung tâm kết hợp hạch trung thất.<br />
<br />
Chỉ định:<br />
- Những hạch T1N1 hoặc T1N2 thấy được trên<br />
CT scan ngực.<br />
- Khối u khú trú ở trung tâm.<br />
- Khối u khó phân biệt.<br />
- Và ngay cả các trường hợp N3 có hạch đối bên.<br />
- Khối u T3.<br />
- Bệnh nhân nằm ranh giới giữa mổ hoặc<br />
không.<br />
Người ta nhận thấy rằng 20% trường hợp ác<br />
tính đã có T1 thì đã có N2. Trong 50% trường hợp<br />
N0 trước mổ, sau mổ có 20% là N1, 30% là N2.<br />
Những trường hợp có hạch trung thất đối<br />
bên N3 (giai đoạn IIIB) nhìn chung chống chỉ<br />
định phẫu thuật, vì vậy Nội soi trung thất quan<br />
trọng để xác định thật sự là hạch đối bên đã bị<br />
di căn hay chưa để xác định giai đoạn dược<br />
chính xác.<br />
Nội soi trung thất không chỉ là để chẩn đoán<br />
mô học mà còn để hiệu quả trong những thông<br />
tin giai đoạn. Nếu nhiều nốt hạch ngang mức<br />
khối u, hầu hết các phẫu thuật viên đề không<br />
muốn tiến hành phẫu thuật mở ngực, vì nghĩ<br />
rằng kết quả điều trị không cao, nhiều khi còn<br />
gây ra nguy hiểm cho bệnh nhân.<br />
<br />
Chụp cắt lớp tán xạ positron (PET: Positron<br />
Emission Tomography)<br />
Những dữ liệu đem lại của PET giúp ích rất<br />
lớn cho những mass ở phổi, ở hạch và những di<br />
căn xa. Khi một mass ở phổi sáng trên một PET<br />
scan thì 90 – 95% cơ hội là một ung thư. Giá trị<br />
tiên đoán dương tính của PET thì thấp hơn trong<br />
những vùng với một nguy cơ cao của bệnh u<br />
hạt. Nếu mass dưới 10mm và không thấy trên<br />
PET scan, thì chỉ khoảng 5% cơ hội là ác tính. Cả<br />
độ nhạy và độ chuyên của PET cho những nốt di<br />
căn xấp xỉ đều khoảng 90%.<br />
Bước tiếp theo là cố gắng để đạt được chẩn<br />
đoán mô học và tế bào học của những tổn thương<br />
trên X quang, CT scan, PET… Chẩn đoán mô học<br />
này rất cần thiết, là thông tin quan trọng để xác<br />
định giai đoạn của bệnh ung thư phổi.<br />
<br />
148<br />
<br />
Chọc sinh thiết xuyên thành<br />
<br />
Phẫu thuật Nội soi Lồng ngực<br />
<br />
Chọc sinh thiết qua da có tỷ lệ thành công<br />
trên 90% với điều kiện người thực hiện phải<br />
giỏi và có kinh nghiệm. Thủ thuật này tương<br />
đối an toàn vì tràn khí màng phổi ít khi xảy ra<br />
và dễ xử trí.<br />
<br />
Kỹ thuật nội soi với sự trợ giúp của camera,<br />
video cho phép quan sát tốt toàn bộ màng phổi<br />
thành và bề mặt của phổi hơn là quan sát qua<br />
một đường mở ngực nhỏ ở thành ngực như<br />
trong sinh thiết phổi hở.<br />
<br />
Kỹ thuật có những giới hạn, chủ yếu liên<br />
quan đến việc đọc giải phẫu bệnh. Thật vậy,<br />
kinh nghiệm của bác sĩ Gỉai Phẫu Bệnh quyết<br />
định: đủ số lượng để xem xét và hai mức độ kết<br />
quả: sự ác tính và loại tế bào.<br />
<br />
Trong công trình nghiên cứu, khả năng Phẫu<br />
thuật thành công cao. Nhất là khi sử dụng<br />
Stappler phẫu thuật, mặc dù giá thành của phẫu<br />
thuật còn cao do giá thành Stappler cao. Tuy<br />
nhiên bù lại, thời gian phẫu thuật giảm đi rất<br />
nhiều, những trường hợp cắt nốt đơn độc bằng<br />
Stappler nội soi hầu như không có tai biến và<br />
không cần phải kết hợp với mở ngực nhỏ.<br />
<br />
Chỉ định chọc sinh thiết qua da phải được cân<br />
nhắc tùy theo các biến chứng trong điều trị và sự<br />
khả thi:<br />
- Trường hợp nghi ngờ u lao, bệnh phổi mạn<br />
tính, hamartome, chỉ khi có kết quả chuyên biệt<br />
mới tránh được các khảo sát thêm.<br />
- Trường hợp nghi ác tính, nhưng phẫu thuật<br />
không phải là cách điều trị của bệnh này:<br />
lymphome hay CPC. Nhưng nếu không chọc<br />
sinh thiết thì không có cơ sở để chẩn đoán được<br />
nguyên nhân.<br />
- Các giới hạn thường do kích thước của nốt<br />
hơn là do vị trí.<br />
Ngoài ra, sinh thiết bằng kim dưới sự hướng<br />
dẫn của CT scan có thể giúp chẩn đoán 90%<br />
trường hợp u phổi ngoại biên, mặc dù vậy, sinh<br />
thiết bằng kim thường hạn chế làm trên những<br />
bệnh nhân không được phẫu thuật do bệnh di<br />
căn…. Nếu bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật,<br />
chỉ định mổ vẫn tốt hơn là làm sinh thiết bằng<br />
kim. Vì vậy, những bệnh nhân có tổn thương<br />
ngoại biên nghi ngờ không xâm lấn thành ngực,<br />
và không kết hợp bệnh lý trung thất, thì phẫu<br />
thuật là tốt nhất.<br />
Nội soi lồng ngực có hỗ trợ quay hình là<br />
phương pháp xâm nhập tối thiểu, làm giảm<br />
đáng kể sự khó chịu và tai biến xẹp phổi hậu<br />
phẫu, biến chứng hô hấp sau mổ, làm giảm<br />
tình trạng nhiễm trùng phổi, rút ngắn thời<br />
gian nằm viện.<br />
<br />
Muốn thực hiện thành công việc sử dụng<br />
Phẫu thuật Nội soi Lồng ngực để lấy mẫu chẩn<br />
đoán bản chất của nốt đơn độc phải kết hợp chặt<br />
chẽ với kỹ thuật cắt lạnh trong sinh thiết tức thì.<br />
Mẫu bệnh phẩm bao giờ cũng phải chia làm hai<br />
phần, một phần gửi sinh thiết tức thì để có<br />
hướng xử trí ngay, một phần gửi làm Giải phẫu<br />
bệnh theo phương pháp thông thường để có kết<br />
quả chắc chắn.<br />
Mặc dù kết quả sinh thiết tức thì còn một<br />
số trường hợp kết quả âm tính giả, nhưng<br />
không vì thế mà không phát triển kỹ thuật này<br />
đồng hành với sự phát triển của Phẫu thuật<br />
Nội soi Lồng ngực.<br />
<br />
KẾT LUẬN<br />
Từ công trình nghiên cứu trên chúng tôi có<br />
một số kết luận sau:<br />
- Khả năng thành công trong việc sử dụng<br />
Phẫu thuật Nội soi Lồng ngực trong việc lấy<br />
mẫu chẩn đoán bản chất của nốt đơn độc phổi là<br />
cao, nhất là khi sử dụng Stappler nội soi trong<br />
cắt nốt đơn độc.<br />
- Kết quả của sinh thiết tức thì trong chẩn<br />
đoán bản chất nốt đơn độc lay mẫu từ Phẫu<br />
thuật Nội soi Lồng ngực là tin tưởing được và<br />
sinh thiết lạnh là người bạn đồng hành trong sự<br />
phát triển của Phẫu thuật Nội soi Lồng ngực.<br />
<br />
149<br />
<br />